ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI

Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn.
Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghĩa Sớ.

 

Phẩm 24: BỒ-TÁT CA-DIẾP

Phần 1

  • Giải thích rộng nghĩa Tỳ-kheo Thiện Tinh cắt đứt gốc lành.
  • Nêu việc Thiện Tinh phá hoại kiết cõi Dục, được Bốn thiền khi chưa cắt đứt gốc lành.
  • Nêu ra việc Thiện Tinh nói về Duyên khởi của Ni-càn Khổ Đức.
  • Giải thích về nghĩa dứt mất gốc lành.
  • Giải thích ý nghĩa dứt mất gốc lành mà Phật tánh không dứt.
  • Giải thích Phật tánh như hư không, chẳng thuộc ba đời.
  • Giải thích nghĩa nghiệp thân, miệng của Xiển-đề đều không phải là thiện.
  • Giải thích ý nghĩa vì sao cho Thiện Tinh xuất gia.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về hạnh đồng có trái, không trái, phẩm Sư Tử Hống ở trước đã nói về không sai trái, phẩm này sẽ nói về trái. Vì sao? Vì phẩm trước đã nói: “Dù có Phật tánh, nhưng phải tu điều lành để được thành Phật”. Phẩm này nói: “Dù có Phật tánh, nhưng dứt mất việc lành là lấp bít Phật tánh. Do đó nên biết cả hai phẩm đều nói về tánh, mà khác nhau ở chỗ có trái và không sai trái.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Phẩm trước đã nói rộng về Phật tánh chẳng phải một: hoặc nhân hoặc quả, chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Hoặc là nhân, hoặc là duyên, hoặc thiện, không phải thiện. Hoặc nói tâm là đúng, hoặc nói tâm là sai, hoặc nói lìa ấm, hoặc không như vậy. Các thuyết dù chẳng phải một đường, nhưng Phật tánh là “Một”, tức là không thể chấp nghiêng lệch một pháp nào là đúng, còn các pháp khác là sai.

Nay, Bồ-tát Ca-diếp dẫn thuyết không nhất định của Bốn mươi chín năm, để chứng minh rằng, chấp nghiêng lệch đều trái với ý Phật, nghĩa là chấp dĩ vãng đã sai lầm, thì chấp nay há là đúng ư? Nếu người nào chấp nghiêng lệch thuyết đã nói trên, đều không đúng ý Phật. Văn kinh có nói: “Dưới đến phiền não, các kiết, chúng sinh, năm ấm, pháp lành, đều là Phật tánh. Lại nói tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, vừa trong, vừa ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, vừa có, vừa không. Lại, y theo xiển-đề, hoặc người có gốc lành, bốn trường hợp lẫn nhau đều nói về Phật tánh. Lại, dẫn bảy người ở sông Hằng không lìa nước Phật tánh. Lại nói: “Bảy người như vậy, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc nhân, hoặc quả đều là Phật tánh”. Văn kinh như thế đâu thể dùng một pháp để chấp nghiêng lệch ư? Nếu không xét kiết từ đầu đến cuối mà nói về Phật tánh thì đều nêu một bên cho là quyết định, chỉ lấy quả làm Phật tánh, thì e rằng sẽ mất đi sự nhận biết về ý chỉ của Phật tánh kia!

Phẩm trước đã nói trong sông sinh tử có bảy người, nói rằng chẳng những nhờ năng lực của Phật tánh, nên tự được Bồ-đề, không tu đạo ư? Nay, nói trong sông Niết-bàn có bảy hạng người, người xiển-đề nghe kinh Niết-bàn, sau đó, lại chê bai, không tin mà dứt mất gốc lành. Nhưng ánh sáng của âm thanh Niết-bàn âm thầm đem lại lợi ích xa, cho là xuống sông Niết-bàn, huống chi sáu người còn lại ư? Nay, nói bảy người dù khác nhau, nhưng đều không lìa nước Phật tánh. Dù rằng cả hai phẩm đồng nói về Phật tánh, nhưng về trường hợp biện luận thì khác nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi thứ ba mươi bốn ở trên nói về tánh yên vui, mà phẩm Sư Tử Hống ở trước đã phát ra luận này, lại nêu rõ ý chỉ, cũng có người chưa hiểu rõ. Nay, trở thành câu hỏi gốc, ở trước nói về xiển-đề, dù dứt mất gốc lành, nhưng vẫn còn có Phật tánh. Nay, nhân việc Tỳ-kheo Thiện Tinh, mà giải thích rộng về việc dứt mất gốc lành của xiển-đề. Và lý do của việc sinh trở lại, để nói về chỗ dứt là khởi làm điều lành, tức là nghĩa chánh nhân tồn tại.

Giải thích lý do sinh trở lại, là do lý “duyên” nhân đầy đủ. Cũng vì nhân quả đối nhau thì Trung đạo rõ ràng. Hai vị Thánh thành tựu lẫn nhau, cùng làm sáng tỏ tông chỉ mầu nhiệm, chỉ nói về lý cùng khắp, không cần văn rộng.

Đại khái chia ra sáu phẩm:

  1. Nói về dứt mất gốc lành.
  2. Nói sinh trở lại.
  3. Nói về Trung đạo.
  4. Giải rõ tu đạo.
  5. Khuyên.
  6. Khen Phật.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Sư Tử Hống và Ca-diếp chỉ nói về Phật tánh, ý chỉ lớn là khác nhau: Sư Tử Hống thì y theo thứ lớp, nói theo lý. Bồ-tát Ca-diếp lại nói theo điên đảo. Thuyết mà Bồ-tát Sư Tử Hống đã nói, là nói trực tiếp từ nhân đến quả. Dựa vào lý tín tâm, không nói trước dứt mất gốc lành, sau là nghĩa sinh lại. Thuyết mà Bồ-tát Cadiếp nói, cũng nói là tu theo thứ lớp nhân. Nhưng vì công hạnh đó chưa lập, lại dứt lòng tin, thành Nhất-xiển-đề. Về sau với ý nhàm chán sinh lại, có thể sinh ra việc lành, lại tiến đến thành Phật, chính vì khác nhau ở điểm này, tức là Bồ-tát Sư Tử Hống dù nói dứt mất điều lành, nhưng vẫn chưa nói về sinh lại. Nay điều mà Bồ-tát Ca-diếp sắp nói, là nói sau khi dứt điều lành, là nghĩa sinh lại. Đại khái chia thành chín môn:

  1. Nói về sự dứt mất gốc lành.
  2. Giải thích lý do dứt điều lành, vì căn tánh chúng sinh không nhất định.
  3. Nói về tranh luận, do căn tánh khác nhau, nên chiêu cảm giáo điều khác nhau, gây nên chấp lẫn nhau, trái với Trung đạo.
  4. Nói rộng về chấp đắm, khởi tà kiến, vì căn tánh không nhất định, không thể nhập lời Phật dạy, mỗi chúng sinh đều theo đối tượng mình chấp, rồi chê bai, làm mất ý chỉ.
  5. Sau khi nói, đều từ tự cứu vớt, được sinh lại gốc lành.
  6. Nói đều được quả thường.
  7. Giải thích về cái chết của chúng sanh, vì lấy ba lậu làm nhân, nên chiêu cảm quả báo vô thường. Quả Phật do dùng chân giải làm tư chất, dứt bỏ hết lậu mà thể thường.
  8. Khen kinh.
  9. Khen Phật.

Đạo Tuệ Tư ký chép: “Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi Phật về việc ở Song thọ. Bồ-tát Ca-diếp thì hỏi Phật từ khi Phật đắc đạo đến nay, phân biệt thời gian bắt đầu và sau cùng, đó là khác nhau. Lại, phẩm này y theo con người để nói về tánh. Phẩm trước y cứ vào pháp để nói về tánh.” Pháp sư Trí Tú nói: “Đại khái chia phẩm này thành sáu đoạn:

  1. Nói về dứt gốc lành mà Phật tánh không dứt.
  2. Nói sinh lại gốc lành.
  3. Nói Trung đạo chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không.
  4. Nói về không tranh luận.
  5. Nói về phạm hạnh.
  6. Khen Phật.

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “là bậc Đại y sư, làm Đại Dược Vương.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây, thứ nhất là nói về người dứt mất gốc lành, tướng trạng dứt mất gốc lành.

Muốn đặt ra câu hỏi, trước nêu lên giải thích của Bồ-tát Sư Tử Hống: “Tỳ-kheo Thiện Tinh là người không thể sửa trị.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo phần nói về dứt mất gốc lành, tự có sáu lượt:

  1. Nói về lòng từ của Như Lai chẳng phải không bình đẳng. Chỉ vì Thiện Tinh không thọ chứ chẳng phải lỗi của Như Lai.
  2. Nêu rộng việc lỗi lầm.
  3. Nói về dứt mất gốc lành của ba đời.
  4. Nói Như Lai biết đủ căn lực, biết chuyển bậc hạ thành bậc trung….
  5. Nói rộng về tranh luận. Giải thích do chúng sinh không đạt được ý chỉ của giáo, gây ra tội sâu nặng.
  6. Nói sở dĩ dứt gốc lành, vì khởi rộng tà kiến.”Pháp sư Trí Tú nói: “Trong đoạn thứ nhất có sáu phần:
  7. Nói về dứt mất gốc lành.
  8. Nói căn không nhất định.
  9. Nói về tranh luận.
  10. Nói về chấp đắm.
  11. Nói về tà kiến.

“Tỳ-kheo Thiện Tinh là con trai của Phật khi còn là Bồ-tát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây, sẽ nêu ba việc để chứng minh rằng, Tỳ-kheo Thiện Tinh chẳng phải là người không thể sửa trị được, làm cho trước nói có kiết sâu nặng, nên nói rằng “Sao Đức Phật không cứu?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là câu hỏi thứ nhất, sao Đức Phật không nói pháp cho Thiện Tinh trước?”

“Sau khi xuất gia, thọ trì, đọc tụng, phân biệt giải thích mười hai bộ kinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Kế là nói về Thiện Tinh có lòng tin, chẳng phải không có.

Dứt kiết cõi Dục, được bốn thiền.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là nói chẳng phải Thiện Tinh không có các gốc lành như niệm… .”

“Sao Như Lai nói Thiện Tinh” cho đến “Người không thể sửa trị phải ở kiếp trụ của địa ngục.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi về lược kiết”

“Vì sao Như Lai không giảng nói chánh pháp cho Thiện Tinh, rồi sau nói cho Bồ-tát?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chữa bệnh ngay lúc chứng bệnh mới bắt đầu nhuốm thì trị được, không trị trước thì phải vào lúc hữu lậu, chẳng phải là lòng Từ bình đẳng”

“Nếu Như Lai Thế tôn không thể cứu” cho đến “Có lòng Từ thương xót lớn, có phương tiện lớn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu đáng chữa trị mà không chữa trị, là không có lòng từ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai là trách cứ không có từ bi. Thứ ba là dụ cho không có phương tiện.”

Phật bảo “Này người thiện nam! Ví như cha mẹ” cho đến “Phải dạy bảo trước cho đứa con nào biết về sự nghiệp thế gian?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước là đáp lại sự yêu thương bình đẳng của người cha. Dù rằng người cha dạy bảo, có đứa trước đứa sau, nhưng vẫn không trái với nghĩa yêu thương bình đẳng, để dụ cho lòng từ bi bình đẳng của Đức Phật không có thiên vị riêng tư.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, trước là đáp câu hỏi thứ hai: “Từ lâu ta đã biết Thiện Tịnh kia sẽ dứt mất gốc lành, nên trong ngần ấy năm tháng, ta đã bao phen dìu dắt, nói pháp cho họ để làm việc lợi ích cho đời sau.”

“Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nhưng vì xót thương nên cũng thứ lớp dạy bảo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Con người dùng sự biết thấy làm vui, lòng yêu thương của người cha dù bình đẳng, nhưng đối với đứa con nào có khả năng thành đạt nhanh chóng ở đời, thì nên dạy dỗ cho đứa đó trước.”

“Này người thiện nam! Như Lai cũng giống như vậy” cho đến “Nhưng cũng được sinh ra các hạt giống lành cho đời sau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý hợp thí dụ, ý ở chỗ không nghiêng lệch, thì sẽ có nhiều lợi ích. Đối với người hóa độ rộng lớn bằng một ngọn đèn, thì phải được giáo hóa trước.”

“Này người thiện nam! Như ba thứ ruộng” cho đến “Hạng thứ ba, dụ cho Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa như giải thích ở trên.”

“Này người thiện nam! Như Đại Sư tử lúc giết voi lớn” cho đến “Khi giảng nói pháp cho các Bồ-tát nghe, cũng dụng công như lúc nói pháp cho Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau cùng dùng một năng lực phương tiện như trên nói: “Dù rằng cha mẹ dạy dỗ các con có đứa trước đứa sau, nhưng cách vận dụng lòng yêu thương thật sự bình đẳng. Nay, sẽ nói về phương tiện ba thời gian, thường dùng hết sức mình.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ ba, nói Đức Phật chẳng phải không có Đại phương tiện, chỉ vì đối với Thiện Tinh, phương tiện mà không hiện rõ mà thôi! Như Sư tử kia, trong hai lần đi săn, dù sức lực ngang nhau, nhưng thỏ thì không sánh bằng sư tử.”

“Này người thiện nam! Một thuở nọ, Ta ngự trong thành Vương Xá” cho đến “Nhưng Thiện Tinh không hề có tâm tin nhận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gồm nêu ba việc, đây là duyên khởi thứ nhất. Bạc-câu-la là tên một ác quỷ. Nói về giáo hóa rộng khắp, lấy đức tin làm gốc, mà xiển-đề thì cắt đứt niềm tin, là giải thích lý do không nhận lãnh giáo hóa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là đoạn hai, nói rộng về lỗi dứt điều lành.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây chính là nói về trạng thái cắt đứt gốc lành của Thiện Tinh, gồm chứng minh về lời đáp câu hỏi thứ hai, thứ ba ở trước. Đức Phật dù có phương tiện đại Từ, nhưng vì Thiện Tinh có ý hỏi ra về tịnh tín, nên không có lợi ích.”

“Này người thiện nam! Một dạo nọ, Ta ở nước Ca-thi-la” cho đến

“Nhưng Thiện Tinh không hề có tâm tin nhận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là duyên khởi thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã dùng “Bất tín” làm tâm, đồng thời cũng ngăn cản người khác vì niềm tin, nên đã đem vi trùng chết của tâm đặt để trên dấu vết của Phật, làm cho tai, mắt luống sinh ý tưởng khác lạ.”

“Này người thiện nam! Một thuở nọ, Ta và Thiện Tinh” cho đến “Nhưng Thiện Tinh không hề có lòng tín nhận.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Duyên khởi thứ ba, dù rằng đều nêu không tin, nhưng đối với việc này, biện luận nghiêng lệch, lời nói trái ngược, mất hẳn tôn thánh, càng thấy tâm ấy! Cho nên có hai câu hỏi về “Khổ Đắc”, là muốn biết chính việc đó có thích hợp với lời Phật dạy về khổ đắc hay không, đã xét nghiệm bản thân mình trái với với lời nói, do Thiện Tinh mà khuyên răn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sự giáo hóa của bậc Thánh không có phương hướng nhất định, cho nên ứng với chúng sinh chẳng phải một. Khổ đắc kia đã có tâm ganh ghét với A-la-hán, thì làm sao cứu được?”

“Này người thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh dù rằng đọc tụng” cho đến “Nhưng ta thật sự cho rằng không có nhân quả.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nói không có tuệ, nếu điều lành do kiến giải sinh thì không thể dứt, nếu không từ hiểu biết sinh thì hễ gặp phải tà liền dứt. Trước kia dù đã đọc tụng, nhưng nếu không do hiểu biết sinh, thì cũng không thể cứu chữa”, là đáp câu hỏi thứ hai. Khéo biết về pháp tướng, “Biết” có hai thứ: Hiện biết và biết nhau, nói Phật chẳng hiện, chẳng phải biết tất cả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dù thọ trì mười hai bộ kinh, nhưng không hiểu rõ ý chỉ kinh, cho nên lui sụt, chê bai, thậm chí dứt mất gốc lành, huống chi không thọ trì, thì làm sao cứu chữa được?”

“Này người thiện nam! Nếu ông không tin” cho đến “Hiện thân sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lời nói luống dối không có công hiệu, không bằng thật nghiệm. Đọa vào địa ngục: Điều lành không chứa nhóm, sẽ không lấy gì để diệt thân. Tội đã chín muồi, quả báo đến, cho nên đọa.”

“Này người thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh dù đã vào Phật pháp” cho đến “Nhưng bị bạn ác, La-sát, Đại quỷ giết hại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật nói nhân quả ba thừa, mà Thiện Tinh không hề được một điều gì, vì không có lòng tin, nên không được gì cả. Vì buông lung, vì ác tri thức. Buông lung là tai hại bên trong, bạn ác là duyên bên ngoài. Đủ hai việc ác này, cuối cùng dứt mất gốc lành, dù có vào biển cả, cũng không đạt được gì, người không tin trí tuệ tuy vào biển pháp cũng không được gì. Tự giết mình chết, dụ cho buông lung. Ác quỷ giết hại, dụ cho bạn ác.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thọ ký Thiện Tinh kia chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục. Một phen dường như bất từ mà là đại từ. Vì sao? Vì nếu không thọ ký thì sẽ “Làm cho lòng tin tà của con người lớn thêm.”

“Này người thiện nam! Cho nên Như Lai thương xót” cho đến “Vì tà ác, nên không bỏ ác kiến.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ ba. Dù thương xót, Đức Phật nói pháp cho Thiện Tinh nghe, nhưng vì ông buông lung quá đỗi, nên không thể thay đổi được gì.”

“Này người thiện nam! Trước nay, ta thấy Thiện Tinh này” cho

đến “Thiện Tinh là hạng Nhất-xiển-đề thấp hèn, dứt hẳn gốc lành sẽ đọa vào địa ngục một kiếp trụ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ tư. Nếu nội tâm có chút điều lành, có thể dùng phương tiện truyền trao bên ngoài, thì người này có thể cứu độ. Ngược lại, nếu nội tâm không có chút việc lành nào, thì dù có dùng phương tiện bên ngoài đi nữa, cũng không biết làm sao!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ nhất. Nếu Thiện Tinh có mảy may việc lành, thì Đức Phật đâu có huyền ký sẽ phải đoạ một kiếp trụ trong địa ngục, là người không thể cứu chữa ư? Bởi Thiện Tinh là Nhất-xiển-đề!”

“Này người thiện nam! Vì như người té xuống hầm phân” cho đến “Do đó nên không tránh được tội đọa địa ngục.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đưa tay mò dụ cho Đại phương tiện. Đầu tóc, dụ cho chút việc lành nhỏ nhoi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù có điều lành ở vị lai, nhưng việc xấu ác ở hiện tại quá nặng, vì không có gì để giúp phát triển, nên cả hai đời đều phục, đoạn.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Như Lai huyền ký Thiện Tinh kia sẽ phải đọa địa ngục A-tỳ?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thiện Tinh thấy Phật, nổi tâm tức giận, liền đọa vào địa ngục. Phật đứng lại dường như bất từ. Vì muốn xin Phật giải thích, nên mới nêu lên câu hỏi này.”

“Này người thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh có nhiều quyến thuộc” cho đến “Thậm chí không có mảy may gốc lành”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý đáp: “Nếu không đi qua, thì không ghi chép, nghĩa là bên ngoài thì làm cho người tăng thêm nhiều điều ác, bên trong thì từ lâu đã cam chịu tội nặng, do đó trước kia đã thọ ký chắc chắn đọa vào địa ngục. Và hiện nay, với dĩ vãng kia, kiết quả là đọa vào ngục Vô gián, chẳng lẽ không có lòng từ hay sao? Chính là lý do hủy diệt nhân ác kia, chân thật không hai, nghĩa là vì con người nghe lời Phật nói, không tin lời của Thiện Tinh, tức là không làm thêm nhiều điều ác bên ngoài, làm cho Thiện Tinh chịu tội ít.”

“Này người thiện nam! Từ lâu ta đã biết Tỳ-kheo Thiện Tinh này” cho đến “Đó gọi là giải Lực thứ năm của Như Lai”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì không ngoài, nên không sinh ra người tội. Lực giải thứ năm là lực tánh trong mười lực”.

“Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Nhất-xiển-đề không có pháp lành?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói hiện tại không có tánh tuệ, gọi là dứt gốc lành, chưa nói về năm căn và điều lành ở vị lai, nên mới hỏi”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là đoạn thứ ba, nói về dứt điều lành của hai đời”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Sau đây là đoạn hai, nói về nghĩa dứt gốc lành. Có sáu lượt nói về nghĩa gốc lành. Đây là lượt thứ nhất, tìm tướng trạng dứt gốc lành”.

“Này người thiện nam! Hạng Nhất-xiển-đề vì dứt mất gốc lành cho đến” giết Nhất-xiển-đề không phạm tội sát”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sát sinh là giết hại cho nên tội. Xiển-đề không có điều lành, chỉ có tội ác tâm, không phạm tội sát”.

“Bạch Đức Thế tôn! Vì Nhất-xiển-đề không hề có pháp lành, nên gọi là Nhất-xiển-đề phải chăng?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn thưa hỏi về điều lành vị lai, nên trước nói về quyết định này, rằng gốc lành của xiển-đề, không bao giờ khởi?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai nêu sau cuối để khẳng định Phật”.

“Phật nói: Đúng vậy!” Đúng vậy.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa sau rốt, là có gần xa. Một đời, cho đến một kiếp, vì muốn mở ra đầu mối của luận kia, nên mới đáp “Như vậy”.

“Bạch Đức Thế tôn! Tất cả chúng sinh có ba thứ pháp lành” cho đến “Dứt các pháp lành, gọi là Nhất-xiển-đề ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu ba đời là nghĩa, lấy ứng sinh ở vị lai, tức nay chưa sinh, cho nên không thể dứt, là ý chỉ sau cùng, chưa thể nào thấy được”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ ba, trách cứ pháp vị lai chưa khởi, chưa khởi, tức là không thể dứt. Không nên dứt điều lành, nên thành xiển-đề”.

“Này người thiện nam! Dứt có hai thứ” cho đến “Nên ta nói rằng, Nhất-xiển-đề dứt hết gốc lành”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Diệt mà không nối tiếp, gọi là dứt, tánh dứt, chướng dứt, nghĩa là tâm có ba thứ: Là Thiện, bất thiện, vô ký. Nếu người thường, thì lúc khởi tâm bất thiện, vô ký, dù không có tâm lành, nhưng vì trực tiếp tâm này không duyên đều, nên tâm lành không nối nhau, đó nói là tánh dứt. Vì hiện tại không có tà kiến, nên không gọi là chướng dứt. Xiển-đề hiện đang có chướng tà kiến nặng làm cho vị lai không sinh vào hiện tại, đó gọi là có đủ hai dứt”.

Pháp sư Pháp Dao nói: “Thêm câu hỏi hữu, vô ở trước, vì hiện tại không có, nên được nói là dứt mất gốc lành, vì vị lai có, nên được nói là: “Đều có Phật tánh”

“Này người thiện nam! Ví như người bị té trong hầm phẩn” cho đến “Cho nên gọi là không thể cứu giúp”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý ví dụ là vì chỉ rõ là “Chướng dứt”. Việc lành ở vị lai dù có sức khởi, nhưng vì giao tiếp bị tà kiến trong hiện tại làm che lấp, nên không thể khởi được, thành ra không thể cứu khổ.

“Do nhân duyên Phật tánh nên có thể cứu vớt” cho đến “Hạng

Nhất-xiển-đề cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là tánh của chánh nhân. Dứt gốc lành của duyên nhân, chẳng phải dứt chánh nhân. Do năng lực chánh nhân, nên việc lành từ lâu sinh trở lại, chẳng phải ba đời, nghĩa là giải thích nghĩa không dứt. Chánh nhân là nối nhau thường, vì thường nên không có đến, đi. Như hột giống bị hư, nghĩa là dùng bất thiện, vô ký làm chánh nhân. Năng lực của hai pháp yếu kém, trong đời hiện tại, sẽ không sinh điều lành, lấy hạt giống hư làm thí dụ.”

“Bạch Đức Thế tôn! Hạng Nhất-xiển-đề không dứt Phật tánh” cho đến “Sao lại nói rằng dứt tất cả pháp lành?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân lời nói không dứt ở chánh nhân trên để đặt câu hỏi. Do năng lực của chánh nhân chắc chắn cảm đến quả Phật. Quả thiện, nhân thiện, cả hai đều không dứt, nên biết chẳng phải xiển-đề.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ tư, là tiếp theo ý chỉ của tánh không dứt ở trên, vẫn dùng làm câu hỏi: Phật tánh là thiện Xiển-đề không thể dứt, làm sao thành xiển-đề.

Này người thiện nam! Nếu trong các chúng sanh hiện ở đời cho đến thì không được gọi là Nhất-xiển-đề.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Phật tánh là thiện. Nếu người nào hiện có Phật tánh thì chẳng phải xiển-đề. Nói về chánh nhân là nghĩa tánh của hạt giống, không dùng làm tánh của “Nhân duyên”.”

“Như tánh “ngã” của chúng sinh ở thế gian” cho đến “Vì sẽ thấy, nên nói chúng sinh đều có Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lấy ngã thế gian làm ví dụ để chứng minh nghĩa hiện tại “không có”. Vì sẽ thấy, là ở trên nói “Chúng sinh hiện tại không có tên là thường, vì đều có khổ. Vì “Sẽ thấy” là có, chứ chẳng phải hiện có.”

“Do nghĩa này nên Bồ-tát Thập trụ trang nghiêm đầy đủ mới được thấy đôi chút.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói rằng sẽ thấy là có, ở đây nói là lúc đang thấy. Vì thấy đôi chút gọi là nhân. Thấy hoàn toàn gọi là quả. Nhân gọi là được, quả là bị được. Nay lấy được làm Phật tánh, là nói quả trong nhân.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Phật tánh là thường” cho đến “Thì lòng thương này há không phải là điều lành ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói Phật tánh là thường, không có ba đời. Lại nói: “Phật tánh sẽ thấy ở vị lai. Thời gian trước, sau này xâm lấn nhau, tức là nghĩa thường, vì chưa được rõ ràng, nên dùng hư không để gạn lọc.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ năm có hai câu hỏi: Câu hỏi thứ nhất “trách cứ tánh chẳng phải ba đời, chẳng lẽ lại nói rằng vị lai”? Câu hỏi thứ hai: “Trách cứ rằng, đã có lòng từ yêu thương, đâu cho rằng chẳng phải điều lành ư?

“Phật nói: “Lành thay! Lành thay, này người Thiện nam!” cho đến “Chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuật thành nghĩa trên không có ba đời.”

“Tất cả chúng sinh có ba thứ thân” cho đến “Vì thân đời vi lai thanh tịnh, nên gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật tánh đã nói, là nói quả trong nhân, chẳng phải lỗi ăn nhập nhau của hai lời nói trước, sau.”

“Bạch Đức Thế tôn! Như nghĩa mà Phật đã nói như vậy” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi rằng: “Nếu Phật tánh là thường, mà đã là thường thì vô sinh, vô diệt, chẳng phải tướng hữu vi, vì sao nói chúng sinh đều có Phật tánh?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ sáu có hai câu hỏi liên quan:

  1. Nếu chẳng phải ba đời, thì chúng sinh hiện tại không nên “Có” Phật tánh?
  2. Nếu chúng sinh “Có” Phật tánh, thì lẽ ra Phật tánh đồng thể với chúng sinh?”

“Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh dù ở hiện tại không có, nhưng chẳng thể nói là “Không”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù không có tướng hiện tại, mà cuối cùng sẽ được công dụng. Vì sau cùng sẽ được công dụng, nên đối với chúng sinh là “Có”.”

“Như tánh hư không dù không có ở hiện tại, nhưng chẳng được nói là vô.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hư không chẳng có hiện tướng, nhưng được nói chúng sinh có dụng hiện tại. Phật tánh cũng như vậy, dù chẳng phải hiện có, nhưng chúng sinh ở hiện tại cũng được có công dụng.”

“Tất cả chúng sinh dù đều là vô thường, nhưng Phật tánh này là thường trụ không thay đổi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn giải thích rộng, vì để khẳng định tánh của dụ nên nêu lại hai môn.”

“Cho nên trong kinh này ta nói” cho đến “Giống như hư không, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nói không có trong, không có ngoài nên nói là thường.”

“Như hư không kia có trong, có ngoài” cho đến “Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu có trong, ngoài thì chẳng phải duy nhất. Nếu có số phần thì chẳng phải thường. Trong thì không có ngoài, ngoài thì không có chính giữa. Chính giữa thì không có trong, đâu nói là khắp ư?”

“Như ông nói rằng, hạng Nhất-xiển-đề” cho đến “Nghiệp của Nhất-xiển-đề cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm đứng đầu thiện, ác mà bị tà kiến làm hư hoại, nên dù có ý niệm thương xót, cũng không bao giờ thành thiện. Nghĩa trong ví dụ hiện tại.”

“Này người thiện nam! Như Lai biết đầy đủ các căn, lực” cho đến “Nói rằng tất cả pháp đều không có tướng nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sau đây, là phần hai, nói căn tánh không thể nhất định có thể tiến, có thể lùi. Nói lùi là để răn họ, nói tiến là nhằm khuyến khích họ, nói là phần khuyên răn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là phần thứ tư, nói Như Lai vì biết căn, lực, nên chuyển bậc hạ thành bậc trung. Do căn không nhất định, nên có thể tiến, có thể lùi, Như Lai không bao giờ buông bỏ.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Vì sao lại cho Thiện Tinh xuất gia?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói biết căn, chưa nói biết lợi ích của căn, mà cho Thiện Tinh xuất gia, không được lợi ích Phật pháp. Dùng dấu vết để quán sát, vì giống như không biết lợi ích của người, nên nêu lên các câu hỏi.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Thuở ta mới xuất gia” cho đến

“Ta là Như Lai có đủ mười Lực.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là biết lợi ích của căn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật biết Thiện Tinh sẽ dứt gốc lành, nên mới cho xuất gia, để sinh ra chút pháp lành, mở mang tư chất cho đời sau. Vả lại, nếu không xuất gia, thì Thiện Tinh sẽ gây ra thêm nhiều điều ngang ngược độc ác khác nữa. Vì lý do đó, nên Đức Phật mới dẫn dắt ông vào đạo. Như kinh gia đã nêu rõ dấu vết của Điều-đạt, cuối cùng vẫn chưa phát được quyền của Thiện Tinh. Do đây mà nói rằng, văn kinh không nên ngăn dứt việc này. Suy lý tìm nghĩa, lẽ ra chẳng phải sự thật, bởi chưa cùng tận.”

“Này người thiện nam! Phật quán sát chúng sinh có đầy đủ pháp lành” cho đến “Có thể dứt gốc lành, đầy đủ căn bất thiện.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là nhân lui sụt. Nhân lui sụt có bốn:

  1. Không quán sát bạn lành.
  2. Dù gần, nhưng không nghe chánh pháp.
  3. Dù nghe pháp, nhưng không suy nghĩ ý nghĩa.
  4. Dù suy nghĩ ý nghĩa, nhưng không tu hành đúng như lời Phật dạy nói.”

“Này người thiện nam! Như Lai còn biết người này, trong hiện đời” cho đến “Bấy giờ, có thể sẽ sinh gốc lành trở lại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là nhân tiến. Nhân tiến cũng có bốn: Lược nêu hai nhân: Gần bạn lành và nghe chánh pháp.”

“Này người thiện nam! Ví như có con suối cách xóm làng không xa” cho đến “gọi là đầy đủ năng lực biết các căn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói lùi là tạm như vậy, mà sinh ra điều lành, là nhất định. Suối, dụ cho quả Phật. Xóm làng dụ cho ba cõi. Nước, dụ cho thường, lạc. Khát, dụ cho tám khổ. Người trí, dụ cho Đức Phật. Không có con đường nào khác, dụ cho tám khổ đáng nhàm chán. Thường, lạc thật đáng ưa thích, tám con đường nhất định.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn nhặt một chút đất” cho đến “Không so sánh với đất ở mười phương.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về người lui sụt, dù rằng không lâu mà người lui sụt thì rất nhiều. Tiến bộ dù chắc chắn, nhưng người tiến lại ít!”

“Này người thiện nam! Có người bỏ thân, lại được thân người” cho đến “Có thể nhập Niết-bàn, như đất trong móng tay.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiến, nghĩa là từ sáng đi vào sáng.”

“Bỏ thân người rồi, được thân ba đường” cho đến “Như số đất ở các thế giới trong mười phương.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên là nói chung tất cả chúng sinh. Đây là nêu riêng người xuất gia và người kính tin kinh Niết-bàn, là khác nhau.”

“Này người thiện nam! Như Lai đã biết tường tận căn tánh của chúng sinh như vậy” cho đến “Cho nên gọi là Phật có năng lực tri căn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết thúc ý chỉ trên.”

 

 Phần 2

  • Nói rộng về tranh luận, gồm hai mươi phần.
  • Thứ nhất, giải thích về một Danh, Pháp, nói Vô lượng Danh. Một nghĩa nói Vô lượng Danh. Vô lượng nghĩa nói Vô lượng danh, cho đến nói Thế đế v.v… trong Bậc nhất nghĩa.
  • Không vì năm hạng người nói năm thứ pháp, nghĩa là không vì người bỏn sẻn mà khen ngợi bố thí v.v… .
  • Giải thích rộng duyên khởi nói với ma vương rằng ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn.
  • Thứ hai là giải thích tranh luận ngã, vô ngã.
  • Thứ ba là giải thích có trung ấm, không có trung ấm.
  • Thứ tư là giải thích tranh luận về có lui sụt, không lui sụt.
  • Thứ năm là giải thích Như Lai là hữu vi hoặc vô vi.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cũng biết các căn tánh chúng sinh ở vị lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba là phần tranh luận phẩm trên nói, đủ bốn đức thì tiến, không đủ là lùi, mà bạn lành chỉ là Phật. Chánh pháp chỉ do Phật nói. Nếu người đời sau đối với lời Phật nói, xảy ra tranh luận, tức là vì không khéo suy nghĩ, nên không đúng như pháp tu hành. Bốn đức sở dĩ không đủ là đều do Đức Phật nói không nhất định. Giống như Như Lai nói không thích hợp với căn cơ chúng sinh, nên nêu câu hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm, là nói rộng về tranh luận. Có ba lượt:

  1. Phát ra cuộc tranh luận để đổ lỗi cho Phật.
  2. Như Lai giải thích rộng, để khiển trách chấp đắm.
  3. Giải thích tranh luận. Sau đây, thứ nhất là nêu hai mươi mốt cuộc tranh luận. Nhằm đổ lỗi cho Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì muốn giải thích về cuộc tranh luận, nên lại nêu lên câu hỏi: “Đức Phật đã biết rõ căn tánh lợi độn khác nhau của chúng sinh trong ba đời, sao lại nói là không nhất định để cho chúng sinh phải tranh cãi ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Trong phần nói về tranh luận, chỉ có hai lượt hỏi đáp: Trước, Bồ-tát Ca-diếp dùng tranh luận để đặt ra câu hỏi, sau là Phật giải thích.”

“Chúng sinh như vậy, sau khi Phật nhập diệt” cho đến “Vì sao ngày nay không nói quyết định?”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gồm nêu hai mươi cặp. Bốn mươi nhà tranh luận, xin Phật giải thích.”

Đạo Tuệ ghi: Ca-diếp nêu câu hỏi. Gồm có bốn mươi tranh luận, từng cặp đối nhau, hợp thành hai mươi. Y cứ vào môn chương mới có bốn mươi hai. Hợp với hai câu thứ mười chín trong môn chương nói rằng: “Có người nói Phật tánh, “Tức” chúng sinh “Có”, “Lìa” chúng sinh có. Có chỗ nói xiển-đề phạm bốn tội trọng, năm tội nghịch, đều có Phật tánh, hoặc nói không có. Hợp với hai câu này, cho nên thành bốn mươi.”

“Phật bảo Ca-diếp: Này người thiện nam! Nghĩa như vậy” cho đến “Chính là đối tượng mà trí tuệ biết được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa mà Đức Phật nói, có “Quyền” có “Thật”. Thức tánh là chấp đắm, không thấu rõ hai nghĩa này, nên mới chấp nghiêng lệch, rồi xảy ra tranh luận. Trí có công năng liễu đạt, không chấp, không tranh cãi.”

“Nếu là người có trí, đối với người này” cho đến “Cũng lại cho rằng, Ta đặt ra thuyết không nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người trí thấy pháp, pháp và lý không hai, nghĩa là Đức Phật nói “Thật”, không nói “Quyền”. Với kẻ không có trí, vì không thấy pháp, nên Phật nói đạo Quyền, nghĩa là đạo có nói “Quyền”, nói “Thật”, không nhất định, nghĩa là ta đặt ra thuyết không Nhất định, tự không thấy pháp: nghĩa là Phật nói có hai, cho nên khởi tranh luận.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai, giải thích chấp đắm lời nói mê “Hoặc”. Tùy phương, giải thích giáo hóa, đâu phải đối tượng sáu thức của phàm phu biết được, vì không hiểu được ý này nên sinh ra sự tranh luận này. Đối với người trí thì lý quy về một đầu mối và phương tiện giáo hóa chúng sinh của người trí kia. Nói vì dấu vết xưa không mâu trái nhau, nên nói là không hai. Đối với người ngu không hiểu biết mới chấp nghiêng lệch, cho là hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Muốn giải thích câu hỏi, lại một phen giải thích chung: “Với nghĩa như vậy, chẳng phải điều mà sáu thức biết, người trí đã thấu suốt. Căn tánh chúng sinh không bình đẳng, phải có thuốc pháp khác nhau, đâu được nói nhất định, cho nên Nhất gia thường khuyên người tu hành nếu hiểu được các cuộc tranh luận này thì gọi là thông đạt Phật pháp.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói việc không nhất định, chứng tỏ chúng sinh khác nhau. Như làm vật dụng bằng da, ở xứ lạnh thì mở rộng, còn ở các nước ôn đới thì phải hạn chế. Thời gian: Như ban đầu nói không có ngã, về sau nói “Ngã”. Lời nói khác: Đức Phật nói ít thấy Phật tánh là vì Bồ-tát của thân sau, chứ chẳng phải vì mình, vì người, nghĩa là nói quán bất tịnh là đạo, vì người nặng về ái mà nói, chứ không vì người nặng về giận, vì người căn cơ nhạy bén mà nói lược pháp yếu, vì người căn cơ chậm lụt mà nói rộng pháp yếu”. “Đối với” một danh, một pháp nói vô lượng danh” cho đến “Đối với vô lượng nghĩa, nói vô lượng danh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp là thể của sự, danh là nhân của nghĩa, nghĩa là thật của danh, tên nói rằng trong, ngoài đều có chung riêng”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Như Lai nói pháp không nhất định, đâu thể nối kế là đây mà sinh ra chấp đắm ư? Y cứ vào một danh, một nghĩa, thêu dệt lẫn nhau thành lời nói. Tìm kiếm giải thích dưới đây, đều có ý chỉ”.

“Thế nào là một danh nói vô lượng danh?” cho đến “Đó gọi là một danh tạo thành vô lượng danh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bát-niết, Hán dịch là Vô, cũng dịch là bất. Bàn: Hán dịch là Sinh, cũng dịch là Xuất. Âm nhà Hồ chứa đụng nhiều ý nghĩa, đều là nêu ra danh từ sinh tử, cũng là nghĩa (ra khỏi) sinh tử, là một danh, một nghĩa”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Một danh, nghĩa là lấy danh không có quả kia, mà các thứ đều khác nhau”.

Đạo Tuệ ghi rằng: Niết-bàn là một danh, thể Niết-bàn là pháp của danh. Lại, y theo thể của Niết-bàn, tạo ra các tên gọi, các pháp, nói vô lượng danh”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Nắm một danh để được pháp. Tùy ở danh, pháp này có vô lượng tướng nghĩa, nói vô lượng danh, chứ chẳng nói là một danh tạo ra vô lượng danh”.

“Thế nào là một nghĩa nói vô lượng danh?” cho đến “Đó gọi là một nghĩa nói vô lượng danh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có sinh, xuất, dù xuất sinh không có, nhưng danh nghĩa đều khác nhau, tức vô lương có vô lượng danh. Giống như Đế thích, là người đứng đầu tầng trời thứ hai, nói là một nghĩa, đồng với nghĩa Niết-bàn, lấy việc khác làm chứng”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Một nghĩa nói vô lượng danh: Đây là danh của nghĩa, vì còn danh của nghĩa kia.”

Đạo Tuệ ghi: “Một nghĩa của Đế Thích. Đối với một nghĩa lại đặt ra các tên gọi, nên nói “Đối với một nghĩa nói vô lượng danh”. Vì sao đối với vô lượng nghĩa nói vô lượng danh cho đến trong vô lượng nghĩa nói vô lượng danh.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Còn nghĩa khác kia”.

“Lại có một nghĩa mà nói vô lượng danh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ấm lấy chứa nhóm làm nghĩa, dù có nhiều tên gọi nhưng về nghĩa chứa nhóm là một”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng gọi là đạo: Đây là nói theo “Duyên”, vì ấm kia có công năng sinh ra đạo”.

“Này người thiện nam! Thế tôn vì chúng sinh” cho đến “Nên gọi là Như Lai biết các căn lực”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bậc nhất nghĩa: Hàng Tiểu thừa lấy khổ, tập làm bậc nhất, chẳng phải “Không” có bậc nhất, nghĩa là thân giải thoát. Cái gọi là nhân quả, chia ba đời thành mười hai, nói nhân quả này là lược. Nghĩa khổ phẩm hạ là tướng chung, tướng riêng là rộng, đều ứng với việc căn cơ không nhất định”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bậc nhất nghĩa nói là thế đế: Thật ra Pháp thân này mà nói là thân trượng sáu, nghĩa là có sinh, già, bệnh, chết. Thế đế mà nói là Bậc nhất nghĩa, nghĩa là Kiều-trần-như, thật sự là Thế đế. Vì giải “Không”, nên từ “Giải” được gọi là A-nhã Kiều-trầnnhư”.

Pháp sư Đạo Tuệ nói: “Trên đây đã nói: Một danh, mà nói vô lượng danh, cho đến Thế đế mà nói là Bậc nhất nghĩa, đều nói không thể chấp nhất định”.

“Này người thiện nam! Đối với các nghĩa như vậy, nếu ta nói” cho đến “Thành tựu đầy đủ, biết các căn lực”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đối với một danh nói vô lượng danh, nghĩa rộng lược bình đẳng, ứng cơ mà nói pháp. Về lĩnh vực phước mà còn chưa hiểu rõ, huống chi là người khác ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì Như Lai tùy người, tùy thời gian, căn cơ khác nhau, nên nói pháp cũng khác, nghĩa là biết rõ năng lực của căn cơ”.

“Cho nên, trong các kinh khác, ta đã nói” cho đến “Chẳng phải cảnh giới mà các Thanh văn, Duyên giác biết được”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh tâm không tin, nghĩa là dùng cách khen, tin chính là đối trị, phải trị ngược lại mới được nói”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tự có người lẽ ra còn đối trị trái lại làm thuốc, nghĩa là chính mình không khéo biết căn lực, thì đâu thể được như vậy?”

“Này người thiện nam! Như ông nói: “Sau khi Phật nhập Niếtbàn” cho đến “Như Lai được gọi là Vô Thượng Lực Sĩ”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi trước chung, sau riêng. Trong chung có hai lượt: Trước rộng sau lược, đây là phần lược: Ở trên nói: “Chúng sinh có ngu, trí. Căn cơ con người không phải một, danh, nghĩa của pháp không nhất định, nói là không được nhất định. Ở đây nói rằng: “Thế tục điên đảo, không hiểu được ý chỉ của thuyết, tự sinh ra tranh luận, chẳng phải lỗi của Phật, chẳng phải chỉ một tánh mà nói mười hai bộ kinh, vì tánh hạnh của chúng sinh chẳng phải một. Kinh có mười hai, dẫn Chư Phật để chứng minh”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là đoạn ba, giải thích rộng về tranh luận. Đoạn thứ năm giải thích về lực, là lực tánh trong mười Lực”.

“Này người thiện nam! Nếu nói Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn” cho đến “Vì không hiểu ý của Như Lai, nên mới nói như vậy”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Dưới đây là đáp riêng. “Pháp thân có chân, có ứng. Chân thân là thường, ứng thân là vô thường. Hoặc thấy ứng thân diệt, rồi cho rằng chân thân cũng diệt, nghe nói chân thân là thường, rồi nói là ứng thân cũng thường. Đó là lý do xảy ra tranh luận. Pháp sư Bảo Lượng nói: Hai thuyết này của Phật đều có hữu vi, nhưng người chấp trái với trung, cho nên thành tranh luận. Ở đây giải thích về cuộc tranh luận thứ nhất”.

“Này người thiện nam! Trong dãy Hương Sơn này có các vị Tiên” cho đến “Liền được chứng quả A-la-hán”.

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Sau đây sẽ nêu năm việc, đây là việc thứ hai, duyên khởi ngộ đạo.”

“Này người thiện nam! Trong thành Câu-thi-na có các lực sĩ” cho

đến “Tất cả đều phát tâm Bồ-đề”.

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Đây là việc thứ hai, duyên khởi phát tâm Bồ-đề”

“Này người thiện nam! Ở thành Câu-thi-na có một người thợ khéo” cho đến “Ông nên đến cho Thuần-đà hay”.

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Việc thứ ba, duyên khởi thành tựu Đàn Ba-la-mật”.

“Này người thiện nam! Trong thành Vương xá có vị tiên có năm thần thông” cho đến “Ông ấy nghe xong sẽ được lậu tận”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Việc thứ tư, duyên khởi của nhổ rể tà kiến”.

“Này người thiện nam! Ở thành La-duyệt-kỳ, thái tử Thiện Kiến, muốn hại vua cha là Tần-bà-ta-la” cho đến “Như Lai nhất định nói Niết-bàn rốt ráo”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Việc thứ năm, nói về duyên khởi diệt tội”.

“Này người thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Một là Thật nghĩa” cho đến “Không bao giờ rốt ráo nhập Niết-bàn”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người mới học, chưa có tri kiến, là Bồ-tát giả danh, không thấu suốt đạo quyền, cho rằng thân trượng sáu là chân. Nếu nghe nói vô thường, thì sanh tâm lui sụt, vì cho là thân trượng sáu không thay đổi”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát giả danh, nghĩa là hàng phàm phu giả được tên gọi này, nên sinh ra chấp đắm, chứ chẳng phải bậc Thánh, vì là Bồ-tát giả danh, nên nói rằng Như Lai thường trụ không thay đổi. Có các phàm phu không hiểu cho rằng không bao giờ thay đổi, nhập Niết-bàn, làm tổn thương cho ứng thân diệt, cho nên trở thành vấn đề tranh luận”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cho nên Phật tuyên bố nhập Niết-bàn là vì muốn cho người nêu nghe pháp sâu xa được đến, nên có thuyết này. Không rốt ráo, là vì khuyên tấn người học, nhập vào năm căn mà tín đứng đầu, cho nên tuyên bố là thường.

Nếu muốn kiết lỗi lầm của hai nhà thì đối với người nghe nói nhập Niết-bàn, sự đồng với “Nguội thân”. Đối với người nghe không rốt ráo, cho rằng Đức Phật thường như thờ tượng. Tuy nhiên, với nghĩa Trung đạo, tìm cầu, tuyên bố rằng nhập, là “Quyền” chứ không “Thật”. Nói nhập nghĩa là vắng lặng vô tướng.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Nói người nghe đạo “Quyền” sẽ được lợi ích”.

“Này người thiện nam! Có các chúng sinh sinh ra chấp đoạn” cho đến “Quả báo thiện, ác, thật có người thọ lãnh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: ““Ngã” có chân, có tục. Vì tục nên nói “Có”, vì “Chân” nên nói không. Nói tục là “Đoạn”, nói chân là “thường”, mà hoặc có người, vì nghe nói tục “Có”, nên cho rằng, chân cũng có. Vì nghe nói chân không có, nên cho rằng tục cũng không có, vì thế xảy ra tranh luận”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tranh luận thứ hai: “Như Lai vì dứt trừ chấp đoạn, nên nói nghiệp thiện, ác thật có người thọ báo. Vì trải qua quả của sinh thọ, ý nối nhau. Một là người tu hành, hai là thần minh, nối nhau, nói về dụng, giả gọi là ngã, không đạt được ý chỉ này, chấp lầm rằng có thần ngã thật không diệt, thọ sinh khắp nơi.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì phá chấp đoạn của ngoại đạo kia, nên nói có nối nhau. Giả gọi là tác dụng của ngã, mà chấp lầm ngã là luống dối, tức là nói có thần. Nếu nghe giáo pháp đả phá không có thần ngã, bèn cho rằng tám tự tại cũng không có. Do hai chấp đều khác, cho nên thành tranh luận. Nếu nói theo Trung đạo, thì vua Thiện Kiến chính là thân ta, vì người chấp đoạn cho nên nói.

Nói vô ngã, vì chấp thần ngã cho nên nói. Chứ chẳng phải không có ngã của tám tự tại. Cho nên được nói có và không .

“Làm sao biết là có? Này người thiện nam! Đời quá khứ” cho đến “Nhất định nói có ngã và ngã sở.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngã là hiệu chung của hữu tình; chúng sinh, thọ giả là tên khác của dụng thường, tên gọi có mười sáu, mà nghĩa nói là ba đời, gọi chung là quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì giả gọi là một, nên chính là thân ta, có người cho rằng, Phật nói một ngã riêng. Từ xưa đến nay, vì đầu cuối không thay đổi, nên xảy ra tranh luận”.

“Lại, một thuở nọ, ta đã nói với chúng sinh rằng ngã chính là tánh”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì chứa nhóm tu tập mà thành, nên gọi là tánh”.

“Nghĩa là nhân duyên trong ngoài, mười hai nhân duyên” cho đến “Nói rằng: Như Lai nhất định nói có ngã”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu tập thành sự”.

“Này người thiện nam! Lại vào một dịp khác, có một Tỳ-kheo” cho đến “Nói rằng: “Này Tỳ-kheo! Năm ấm không có ngã, ngã sở”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chính vì Tỳ-kheo chấp ngã nhất định để đặt câu hỏi, nên Đức Phật đáp: “Ngã không có nhất định. Ba câu hỏi của Tỳ-kheo đều là chấp đắm:

  1. Hỏi về tên gọi.
  2. Hỏi về sự thật.
  3. Hỏi về duyên.

Đây là do Như Lai ngăn dứt Tỳ-kheo chấp thật, nên nói rằng, không có ngã, ngã sở.

“Mắt, tức là trước kia không mà nay có” cho đến “Không có xả ấm và người thọ ấm”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chấp ngã, nghĩa là nói hữu tình là ngã. Nay ngay nơi hữu tình để nói về ngã.”

“Như ông đã hỏi: “Thế nào là ngã, ngã tức kỳ hạn”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân và quả nhóm họp. Gọi là kỳ hạn. Vì sao? Vì làm điều lành thì phước ứng, hành động xấu ác, thì tai họa ứng, khẳng định không có sai chạy. Đây là nói về quả nghiệp không dứt, là đáp câu hỏi về tên gọi”.

“Ai là ngã, tức là nghiệp”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chiêu cảm quả không khác nhau, là sức nghiệp, là đáp câu hỏi về thật”.

“Vì sao có ngã? Tức là ái.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Do nghiệp lực mà thọ quả báo. Vì “Duyên” thọ nên thọ, là đáp câu hỏi về duyên”

“Này Tỳ-kheo, như hai bàn tay vỗ vào nhau” cho đến “Vì ba nhân duyên, nên gọi là ngã”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỗ nào cũng thọ sinh, gọi là chúng sinh. “Duyên” do ái, nghiệp, ba việc không dứt, gọi là “Ngã”. Đó là chúng chấp đoạn, nói là nghĩa lý do của “Ngã”.

“Này Tỳ-kheo! Đối với tất cả chúng sinh, sắc không phải ngã” cho đến “Nói rằng: “Như Lai nhất định nói vô ngã”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói nghĩa của ngã, là do nhân duyên mà thành, chính là đả phá ngã nhất định, không lìa một quả. Câu trên là phá một, câu dưới là phá khác. Nêu điều mà ngoại đạo thấy, nhằm đả phá chấp một, khác. Trước giải thích không phải khác, sau giải thích không phải một.”

“Này người thiện nam! Trong kinh ta lại nói rằng” cho đến “Tuyên bố rằng: “Đức Phật nói nhất định không có trung, ấm”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật nói nghiệp yếu kém, thì quả báo sẽ ứng chậm, nghĩa là có trung ấm, nghiệp nhân mạnh, thì quả báo sẽ ứng nhanh nghĩa là không có trung ấm, mà người mê hoặc nghe nói “Có”, bèn cho rằng tất cả đều có, nghe nói không, rồi cho rằng, tất cả đều không, nên xảy ra tranh luận.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tranh luận thứ ba: “Đức Phật nói: “Trung ấm là Sinh ấm, là ở phương tiện. Nếu nói dưới đến A-tỳ, trên cùng cực Tứ không, đây là hoàn toàn không có Trung ấm. Khoảng giữa hoặc có, hoặc không, đây là nghĩa đúng”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói hữu, nói vô chưa hẳn là khu vực, chỉ vì nghiệp có nhất định, không nhất định. Nhất định thì có, chẳng nhất định thì không. Nếu nói theo Trung đạo thì vừa có vừa không”.

“Này người thiện nam! Trong kinh, ta lại nói có lui sụt” cho đến “Vì sinh phiền não nên lui sụt”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phiền não có hai thứ: Một là thọ sinh, hai là che lấp thiền định. Vì thọ sinh nặng, nên tu vô lậu để dứt phiền não. Dứt thì không khởi, vì che lấp định nhẹ, nên không tu vô lậu, hễ gặp duyên là khởi lại, đây là do lui sụt định, khởi chướng, nhất định là phiền não. Không lui sụt vô lậu, không khởi phiền não thọ sinh. Dù không khởi phiền não, nhưng vì lui sụt thiền định, nên vô lậu không hiện ở trước. Ví như trong nhà có con rắn độc, nhờ có đèn soi sáng mới thấy được rắn. Dù cho đèn tắt, không nhìn thấy, nhưng không bao giờ vào nhà được. Các pháp tánh “Không”, nhờ định mà được thấy. Dù lui sụt định không thấy, nhưng không khởi phiền não. Hoặc nghe nói lui sụt định, bèn cho rằng vô lậu cũng lui sụt. Nghe nói vô lậu không lui sụt, rồi nói là định cũng không lui sụt”.

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ tư: “Nếu bốn ý chỉ trở xuống chưa được chánh tín, đôi khi còn có lui sụt. Vào Pháp Noãn rồi, hoàn toàn không lui sụt, cho đến La-hán. Nếu là vô lậu, thì không lui sụt. Nếu là hữu lậu, thì có khi có lui sụt: căn cơ chậm lụt thì lui sụt, căn cơ nhạy bén thì không. Tánh vô lậu, chiếu lý mà sinh, một khi đã chứng đắc thì không mất, chỉ lui sụt định hữu lậu, nên vô lậu sẽ không hiện ở trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Căn cơ A-la-hán có lợi, có độn (nhạy bén, chậm lụt). Lục Trụ trở lên, đều chế phục, dứt phiền não che lấp định. Phiền não thọ sinh không còn khởi lại, cũng như đốt cháy củi thành tro, không thành gỗ trở lại, nhưng chướng định, không hiểu biết. Đã chế phục, dứt trừ nếu là người căn cơ nhạy bén, thì phát ra quán vô lậu. Nếu muốn nhập trở lại, thì sẽ được nhập. Đối với người căn tánh chậm lụt, sau khi xuất quán, muốn nhập trở lại thì rất khó, lại cần phải tác ý, mới được nhập, nên gọi là thối. Hoặc giả La-hán lui sụt, khởi tư duy cõi Dục, thành Tu-đà-hoàn”.

“Nói không lui sụt, nghĩa là thiền định cũng không lui sụt, cho nên xảy ra tranh luận.”

“Lại có Tỳ-kheo tên là Cù-đàm” cho đến “Tuyên bố rằng Như Lai nhất định nói không lui sụt”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cù-đề là người Na-hàm; sáu lần lui sụt định, không được hết lậu. Tranh luận thứ bảy, vì sợ sở tu sẽ mất đi nên tự sát trong khi chưa chết, các lậu đã được dứt hết. Ma vương cho rằng, người này đã chết, bèn vây quanh thi thể người ấy, để tìm kiếm thần thức của ông , tìm không được bèn bạch Phật rằng: “Đệ tử của ông chưa hết lậu mà đã chết?” Phật đáp: “Người này đã nhổ hẳn gốc rể của thọ rồi, nhập Niết-bàn. Sáu loại La-hán, dẫn phần lui sụt để chứng minh”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lập ra nghĩa lui sụt vô lậu: Dẫn nghĩa này làm y cứ, nói là tất cả hữu lậu, vô lậu của quả La-hán đều lui sụt”.

“Này người thiện nam! Trong kinh ta đã nói: “Thân Như Lai” cho đến “Nhất định nói thân Phật là pháp vô vi”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích đồng là Niết-bàn, vì niệm niệm sinh diệt bất sanh bất diệt là khác. Phi học: Vì Kim cương gọi là học. Chủng trí mới khởi, gọi là Vô học. Pháp thân bất sinh, bất diệt, không có hai tướng”. Đức Phật ra đời hay không ra đời, cũng thường trụ không lay động, nghĩa là vì ứng là xuất, không ứng thì không xuất, nhưng ứng với thường không sinh diệt. Không hiểu ý của ta cho rằng, nhất định là hữu vi, nhất định là vô vi. Vô vi thì thường, hữu vi thì vô thường”.

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận lần thứ năm: “Nghe nói diệt, cho rằng không có pháp thân. Nghe nói pháp thân bất diệt, cho rằng ứng tích cũng là thường, nhằm vào ngã, vô ngã, nói theo cách thân thì ở đây y cứ ở hiện tại làm nghĩa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nghe nói ứng thân vô thường, cho là không có Pháp thân. Nếu nghe nói thường trụ, lại đồng với chấp của ngoại đạo. Vì cả hai thuyết đều trái với tự nhiên, nên xảy ra tranh luận”.

 

Phần 3

  • Thứ sáu là giải thích mười hai nhân duyên, hoặc Hữu vi, hoặc Vô vi.
  • Thứ bảy là giải thích: hoặc nói là tâm thường, hoặc nói là vô thường.
  • Thứ tám là giải thích năm dục lạc, hoặc chướng ngại đạo, hoặc không chướng ngại đạo.
  • Thứ chín là giải thích Noãn, Đảnh, Nhẫn, Pháp Thế bậc nhất, hoặc ở cõi Dục, hoặc ở ba cõi.
  • Thứ mười là giải thích hoặc cho là bố thí, chỉ thuộc về ý nghiệp, hoặc là năm ấm.
  • Thứ mười một là giải thích hoặc có ba vô vi hoặc không có ba vô vi.
  • Thứ mười hai là giải thích hoặc có tạo sắc, hoặc không có tạo sắc.
  • Thứ mười ba là giải thích: Có sắc vô tác, không có sắc vô tác.
  • Thứ mười bốn là giải thích hoặc có tâm sở, hoặc không có tâm sở.
  • Thứ mười lăm là giải thích hai mươi lăm Hữu, hoặc năm, sáu, bảy, tám Hữu.
  • Thứ mười sáu là giải thích nghĩa “Nhất phần Ưu-bà-tắc”.
  • Thứ mười bảy là giải thích nghĩa phạm trọng mất giới, hoặc không mất.
  • Thứ mười tám là giải thích hoặc nói là người của bốn quả thành Phật, hoặc nói không thành.
  • Thứ mười chín là giải thích: Phật tánh ngay nơi chúng sinh mà có, hay lìa chúng sinh mà có.
  • Thứ hai mươi là giải thích: Có Phật mười phương, hay không có Phật mười phương.

“Này người thiện nam! Trong kinh ta có nói: “Thế nào gọi là” cho đến “Mười hai nhân duyên chắc chắn là hữu vi”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hữu vi là vô thường, vô vi là thường. Hai thứ: Một là đoạn diệt vô thường, chẳng phải số chúng sinh; hai là không đoạn diệt vô thường, là mười hai nhân duyên. Thường cũng có hai: Sinh diệt thường là mười hai duyên; bất sinh diệt thường, là Niết-bàn. Đó là mười hai nhân duyên cũng là thường, vô thường, mà người nghe nhân duyên sinh, diệt, bèn cho là đồng với cỏ cây. Nghe nói không sinh diệt bèn cho rằng một tướng với Niết-bàn, nên xảy ra tranh luận”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tranh luận thứ sáu: “Nếu nói về nghĩa đúng thì mười hai nhân quả sinh nhau, đến khi thành Phật mới dứt hết. Nay chấp hữu vi, cho nên thành sai lầm, nghĩa là từ sinh đến già, chết dứt hẳn không còn nối tiếp. Nói vô vi, là đều không có dứt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Mười hai nhân duyên thật là hữu vi. Nói hữu vi, sở dĩ thành tranh luận, là vì mười nhân duyên kia không tạo ra nhân quả, hữu vi nối tiếp nhau, nghĩa là các pháp hữu vi đương thể đều đoạn diệt, vì không còn tướng nhân quả nữa”.

“Lại một thuở nọ, ta bảo các Tỳ-kheo đến “Có Phật không có Phật, tánh tướng thường trụ”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nối nhau không khác, nên gọi là thường.”

“Này người thiện nam! Có mười hai duyên không từ duyên sinh” cho đến “Nói mười hai duyên nhất định là vô vi”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù dẫn bốn câu, chỉ lấy câu đầu, giải thích về lý do “Hoặc” sinh, không từ duyên sinh, là chưa hợp với duyên. Từ duyên sinh chẳng phải là không hợp với duyên. Từ duyên sinh chẳng phải là mười hai duyên, nghĩa vì không đủ mười hai, nên nói không phải”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu thứ hai nói rằng, có mười hai duyên, không từ “Duyên” sinh, mười hai chi ở đời vị lai, là vì vị lai chưa khởi, nên nói rằng không từ duyên sinh, có người nói là “Thường”, nên không từ duyên sinh. Thuyết này vốn nói theo giáo xưa, nhưng người chấp đều chỉ nói nghiêng về hữu vi, không có hai nhà nối nhau nữa, vì đều sai trái nên xảy ra tranh luận”.

“Này người thiện nam! Trong kinh ta có nói: “Tất cả chúng sinh” cho đến “cho rằng Như Lai nói tâm nhất định là thường”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắc có tướng khác, nên nói là hư hoại, mà vì tâm không có tướng “Khác”, nên nói là thường. Có người nghe nói sắc hư hoại, mà tâm là thường, bèn cho rằng tâm không sinh diệt, từ dưới lên trên.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ bảy: “Nếu nói theo nghĩa đúng, thì pháp thật là trước diệt mà sau sinh. Giả gọi thì đầu cuối là một. Có người nghe nói tâm, thì hạnh trên không “Giải” nối nhau, nói có tâm này, thường mà bất diệt, hướng lên mà thọ sinh.”

“Này người thiện nam! Một thuở nọ, ta có nói với vua Tần-bà-tala rằng” cho đến “Nói rằng: Đức Như Lai nói tâm chắc chắn là đoạn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghe nói năm ấm đều hư hoại, bèn cho rằng, tâm cũng như sắc có lớn nhỏ, dài ngắn v.v… khác nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghe nói vô thường cho rằng, bỏ thân năm ấm này, tâm cũng đoạn diệt, không còn nối tiếp nữa”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói thường, thì hoàn toàn không diệt. Nói đoạn thì không có nối nhau, cho nên xảy ra tranh luận”.

“Này người thiện nam! Trong kinh ta có nói: “Các đệ tử ta” cho đến “Nói: thọ hưởng năm dục, chắc chắn chướng ngăn chánh đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngoại đạo vì lấy việc đoạn làm đạo, nên đã nằm trên than lửa, ăn hèm v.v… Pháp Phật thì không như thế, mà có người nghe nói không chướng ngại năm dục cho rằng tâm dục hiện tiền, cũng không chướng ngại đạo. Nghe nói tâm dục là chướng ngại, bèn cho rằng. Các thứ hương, hoa… cũng có thể chướng đạo, cho nên xảy ra tranh luận”.

“Này người thiện nam! Trong kinh ta đã nói xa lìa phiền não” cho đến “Nói pháp Thế bậc nhất thuộc cõi Vô sắc”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là quả La-hán. Cõi Dục không có ở La-hán. Ba cõi chắc chắn đều có thể tu pháp Thế bậc nhất, nhập đạo kiến đế, chỉ trừ một địa Phi tưởng. Ba địa dưới đều muốn được Phật tùy sự nói khác, mà có nhiều người đều sẽ được nghe, vì chấp nghiêng lệch, nên sinh ra tranh luận. Lúc tu pháp Thế bậc nhất, có thể chế phục kiết kiến, gọi là xa lìa, chưa thấy bốn đế, vì chưa rốt ráo dứt, nên chưa được giải thoát. Ở Sơ thiền, cho đến đệ Bốn thiền, nghĩa là cõi Dục, định ít, tuệ nhiều. Cõi Vô sắc, định nhiều, tuệ ít. Cõi Sắc định tuệ bằng nhau, vì dể dùng, nên nói chỗ dễ kia. Có người bèn cho rằng trên, dưới đều không thể. Được quả A-na-hàm: Kinh này không có thuyết siêu việt. Được quả thứ ba, là ba “Không” kiết phẩm hạ đã được chế phục, dứt trừ. Lúc thấy chân đế, quán vô lậu nhạy bén, nên dù trải qua Sơ quả, nhưng không bao giờ trụ, nay nói trụ xứ đó”.

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ chín. Nếu nói về nghĩa đúng, thì tâm cõi Dục và tâm bốn thiền, đều có công năng tạo ra pháp Thế bậc nhất để quán. Ba “Không” cũng có thể được hữu, nhưng tâm của địa này khó vận dụng, là vì con người không theo cái khó, phần nhiều thích cái dễ. Mỗi địa đều là hàng phục kiết sử. Lúc bấy giờ, chưa được vô lậu chân. Nếu là người căn cơ nhạy bén thì thân ở cõi Dục, đều có thể thỏa mãn tâm của địa trên, có thể hàng phục kiết sử của địa trên. Người căn cơ chậm lụt, chưa hẳn được như vậy, phải theo thứ lớp sinh. Vì người căn cơ nhạy bén, nên nói pháp Thế bậc nhất. Ở cõi Dục không hiểu được ý Phật, bèn cho rằng hoàn toàn là cõi Dục, không được dùng tâm của thiền địa. Nếu nghe nói Bốn thiền tạo ra bốn pháp quán là từ tâm của địa căn bản, thì cho là hoàn toàn không dùng cõi Dục. Vì trái với Trung đạo, cho nên tranh luận”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói theo lý thì tâm ba cõi đã dứt hết, tạo nên pháp Thế bậc nhất. Tự có người chưa được tám thiền, chỉ được định Điện quang của cõi Dục, vẫn sử dụng định này, giả gọi là pháp không quán, nên Đức Phật nói người này dùng tâm cõi Dục tạo nên. Tự có người được tám Thiền định, giả gọi là pháp không quán. Lại tự có người trước hàng phục kiết sử cho đến “Ba không”, đối với địa kia gặp Thánh, dùng định “Ba không” tạo ra pháp đệ nhất, có người không hiểu, cũng nghe nói tâm cõi Dục tạo ra, bèn nói rằng, hai cõi trên không được. Nghe nói hai cõi trên được tạo ra, lại nói rằng, cõi Dục không được, do đó mà xảy ra tranh luận”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Hai cõi đều được tạo nên pháp Thế bậc nhất”.

Minh Tuấn nói: Các cách giải thích Trên đây, đều dựa vào nghĩa của luận Thành Thật. Nếu theo nghĩa số thì chỉ hai cõi được tạo ra pháp Thế bậc nhất thôi, còn trí không định kia hoàn toàn không được. Vì sao? Vì từ nhẫn Phẩm Thượng trở lên còn không được duyên, huống chi là pháp đệ nhất giống với vô lậu mà được tạo ra ư? Về nghĩa ăn lẫn nhau, rõ ràng là triết lý sáng suốt!”

“Này người thiện nam! Trong kinh, ta có nói trong bốn thứ thí” cho đến “nói rằng: “Như Lai nói thí cho chỉ có ý.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghiệp thân, miệng, ý đều là thể của thí. Có tịnh, bất tịnh. Tịnh thì phước dày, bất tịnh thì phước mỏng. Tịnh là do có tâm tịnh. Đầu tiên có ba: Một là đủ hai tịnh, hai nghiệp còn lại đều có lòng tin lẫn nhau. Dù có hơn kém, nhưng đều được gọi là tịnh, mà đôi khi có người nghe nói bố thí tịnh là do đức tin, đức tin là ý nghiệp, bèn cho rằng, bố thí đầy đủ ở ý, nên mới xảy ra tranh luận.

“Này người thiện nam! Một hôm, ta lại nói thế này” cho đến “Nói rằng: Phật dạy thí cho tức năm ấm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật nói quả trong nhân, nghĩa là năm sự thí. Có người nghe nói cái ăn này tức là nghiệp thí, vật dụng bên ngoài có thể thí cho, đều là bố thí vì Pháp thuộc về năm ấm đã dứt hết rồi, cho nên nói thì tức năm ấm”.

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ mười, y theo nghĩa đúng, thì tâm đứng đầu bố thí… . Sắc để giúp cho tâm được hoàn thành hạnh thí. Thân, miệng giúp cho ý, chỉ vì thân, miệng không phải là pháp của tình cảm linh thiêng, nên nghe nói hai thứ thân, miệng là tịnh, bèn cho rằng, chỉ một ý, nghiệp, không liên quan đến thân, miệng. Nghe nói thí cho là năm việc, bèn cho rằng chỉ có “Sắc” chứ chẳng phải “Tâm”, nên lại xảy ra tranh luận”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu có người hành đạo đã lâu, tâm xả đã thành tựu bất cứ lúc nào, vì thường thực hành, nên Phật đã vì người này giảng nói về hạnh bố thí, tức là ý, không đợi thân, miệng mới thành. Tự lại có người vì gốc lành yếu kém, nên cần thân, miệng giúp đỡ hoàn thành, mới có thể tuệ thí. Nếu không tác động đến thân, miệng, thì trực tiếp khởi tâm niệm không thành nghiệp thí. Đức Phật đã vì hạng người này nói bố thí cụ thể là năm ấm. Có người nhận lầm ý Phật, nếu nghe thí cho chỉ có ý, thì hoàn toàn không liên quan đến thân, miệng. Vì cả hai chấp đều nghiêng lệch, nên trở thành tranh luận”.

“Này người thiện nam! Một thuở nọ, ta nói: “Niết-bàn” cho đến nói rằng: “Phật nói không có ba pháp vô vi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật nói hai đế: Thế đế có nhân, nhân có hai thứ: Một là có dụng của pháp; hai là không có dụng của pháp. Ba pháp vô vi có dụng của pháp nghĩa là năm ấm. Có người nghe nói Niết-bàn dứt được sinh tử, bèn nói là có pháp vô vi, thuộc về pháp nhập. Nghe nói không có pháp kia rồi cho rằng không có Niết-bàn để cắt đứt sinh tử, mà xảy ra tranh luận. Đèn tắt thì ánh sáng mất ngay, không có pháp diệt sinh ra. Niết-bàn cũng như vậy. Trực tiếp phiền não diệt mất, không còn có pháp nào sinh ra, vì phiền não đã diệt, thì sinh tử không nối tiếp, là tác dụng của pháp vô, gọi là hư không, vì tướng chung này là “Không”, nên gọi là thường, thế gian nói không có ngựa,… là tướng khác của không, là “Không” của tướng riêng, cũng dùng pháp vô làm không, mượn làm thí dụ. Vì tướng khác nhau, nên chẳng phải thường, chẳng phải khắp.

Chẳng phải trí “Duyên” diệt: Trí duyên diệt vô lậu xuất thế gian, chẳng phải là trí “Duyên” diệt, vô lậu thế. Dù vậy, thế và xuất thế khác nhau, nhưng về nghĩa diệt là “Thường”, đồng với hư không, gọi là ba vô vi. Ngoại đạo không được vô lậu dứt kiết. Vì kiết diệt rồi sinh lại, nên không được gọi là “Thường”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tranh luận thứ mười một. Nói theo nghĩa đúng, thì chẳng phải không có ba vô vi, ba pháp riêng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có người cho rằng, chẳng có vật thể trong hư không, chẳng thể phân biệt, chỉ là một “Không”, chẳng có ba vô vi. Ý Phật trong đây cũng được nói là “Có”, cũng được nói là vô. Vì “Vô” chẳng có pháp riêng, nên nói là vô. Vì theo đuổi nghĩa để tìm kiếm dĩ vãng, nên nói là hữu.

“Này người thiện nam! Một hôm, ta vì Mục-kiền-liên” cho đến nói rằng: “Như Lai nói có Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gọi là Niết-bàn, nghĩa là chương, cú. Nơi bậc Thánh đã đặt chân đến, nói là dấu vết. Không bao giờ lui sụt, nghĩa là rốt ráo. Không có tám khổ: Nghĩa là không sợ hãi. Người chữa bệnh sinh tử, là Đấng Đại Sư. Quả Nhẫn trí không gây trở ngại Tam-muội, đều tùy nghĩa khác để gọi. Tướng đồng với pháp, gọi là đại pháp giới. Dứt bặt già, bệnh, chết, gọi là vị Cam lộ. Không thể lấy được, gọi là khó thấy.”

“Lại, một thuở nọ, ta bảo Mục-kiền-liên” cho đến “Như Lai quyết định nói có hư không vô vi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu có tánh thì tánh không thể hư hoại. Vì hư không kia vô tánh, gọi là không bền chắc, gọi là hư không, nghĩa là vô tánh, vô pháp. Không có pháp, có công dụng, tánh đồng với hư không, tức lấy đó làm tên. Thức ăn lọt xuống rồi trở về, là nói thức ăn với tất cả âm thanh, cả hai đều liên quan nhau: Nếu thức ăn không được lọt xuống, thì âm thanh sẽ không phát, vì không có “Một”. Thức ăn có lọt xuống thì âm thanh mới phát, là tác dụng của hư không. Có người nghe nói hư không có tác dụng, rồi cho rằng có pháp hư không, pháp nhập thuộc về sắc nhập”.

“Lại một hôm, ta vì Mục-kiền-liên nói” cho đến “Quyết định nói có chẳng phải là trí “Duyên” diệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ trí “Duyên” mà “Diệt”, nghĩa là không từ trí vô lậu xuất thế. Từ Noãn, Đảnh trở lên, cho đến Pháp Thế bậc nhất, là vô lậu thế gian, dứt hẳn quả báo ba đường ác”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu vì trí “Duyên” đối tượng diệt, cũng gọi là trí “Duyên” vô vi, “Không” đã chẳng có vật nào dung chứa, lại khác với hư không, cũng gọi là hư không vô vi. Trong “Không” chẳng có cái gì để đếm nữa, tức gọi là phi số “Duyên” vô vi. Người không hiểu ý Phật, nghe nói “Vô” thì không được tùy nghĩa có ba. Nghe nói hữu, bèn nói có ba nghĩa, mỗi nghĩa đều có tự thể riêng. Vì chấp lấy hình tượng của việc, nên thành tranh luận.”

“Này người thiện nam! Lại một thuở nọ, ta nói với Tỳ-kheo Bạtba” cho đến “Quyết định nói rằng sắc là bốn đại”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn đại gọi là sắc, là sắc, pháp có năm, bốn đại là giả nói bốn, tức nói kiến chấp đều hết. Âm thanh do bốn đại phát ra, nêu gốc là gồm cả ngọn. Quyết định nói rằng sắc là bốn đại, là sắc xứ, bốn đại thường chung, trong nước có lửa, trong nóng có lạnh. Âm thanh trong hư không cũng có bốn đại, mất đi ý chỉ”.

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ mười hai: Nếu nói về nghĩa đúng, thì dùng sắc, hương, vị hình thành bốn Đại. Bốn đại lại hình thành năm căn như nhãn căn v.v…. Dù nói mười bốn thứ sắc, nhưng nếu thuộc về tánh thì không ngoài bốn đại. Nếu bốn đại làm nhân, năm căn làm quả, không lìa quả có nhân thì được nói là do nhân mà thành. Nghe nói bốn đại gọi là sắc, vì không hiểu sắc thuộc về tánh, rồi cho rằng, chỉ có bồn đại, không có sắc khác. Nghe nói nhân Bốn Đại tạo ra, có thể nói là tạo ra căn do đại mà hình thành, lìa nhân không có quả, cho đến bỗng nhiên sạch hết. Nếu nói theo phẩm bốn đại thì đều không chia ra bốn đại, không nói lời này. Nghĩa bốn đại quá khứ tạo ra sắc ba đời, nói là nghiệp thân miệng trong hiện tại, do sắc mà có. Do mười bốn năng lực lớn, mạnh trong quá khứ, nên là năng tạo. Hiện tại tạo ra hai đời. Vị lai chỉ tạo ra một đời. Vì không hiểu được ý Phật nói, lại sinh ra tranh luận”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có người cho rằng: Năng lực của bốn đại mạnh, có thể tạo ra sắc v.v…, mà năng lực của sắc v.v… yếu kém, nên không thể tạo ra bốn đại, rồi thường tạo ra chấp này. Lại một thuở nọ, Phật vì các Tỳ-kheo nói năm ấm đều không. Vì sao? Vì là sắc, sắc tức bốn đại, các Tỳ-kheo bèn nói rằng bốn đại không thể tạo ra sắc. Lại, một hôm Phật nói bốn đại tạo sắc, cái gọi là vuông, tròn…. Đây là nhân của tướng, nhân của đối đãi. Có người nghe thuyết này, bèn nói là bốn đại chắc chắn có thể tạo ra sắc. Nếu nói về Trung đạo hoặc nói theo nghĩa đúng thì lẽ ra cũng là tạo, không tạo. Vì sao? Vì do bốn đại mà có hình dáng vuông, tròn…. Vì các sắc giả khởi, nên cũng nói là tạo.

Trước cũng bốn đại, sau cũng bốn đại, tức là không có tạo. Năm trần cũng vậy. Do tế thành thô, nên cũng được nói là sắc của sắc tạo. Vì trước đã là sắc, sau cũng là sắc, nên nói là bất tạo. Mọi người không hiểu ý Phật, nghe nói tạo, bèn làm cho tất cả đều tạo. Nghe nói không tạo, bèn cho là tất cả không tạo, cả hai tạo thì mất Trung đạo, nên thành ra tranh luận”.

“Này người thiện nam! Ta lại nói: “Ví như do gương soi” cho đến “Đó gọi là tạo sắc, cũng giống như tiếng vang, ảnh tượng”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn đại giả danh mà có công dụng, gió lay động, nước thấm ướt, lửa cháy nóng. Sắc được sinh trưởng, như nhờ gương soi, mà hình ảnh hiện ra”.

“Các đệ tử ta nghe lời này rồi” cho đến “Nói có bốn đại là hữu tạo sắc”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói bốn đại năng tạo, chẳng phải sở tạo. Sắc là sở tạo, chẳng phải năng tạo. “Hoặc có bốn đại không có tạo sắc”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói bốn đại là giả, được pháp thật tạo ra các pháp thật như sắc… chẳng phải tạo. Phật nói sắc tạo, tạo ra bốn đại, cũng tạo ra sắc. Ví như bó trúc, chúng nương vào nhau mới đứng vững được. Hai nhà chấp nghiêng lệch nói trên đều hiểu được ý Phật.”

“Này người thiện nam! Một thuở nọ Vương Tử Bồ-đề” cho đến “Không gọi mất giới, vẫn gọi là giữ giới”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vô tác là giới thể. Đây là nói mười giới thiện, bảy chi của thân, miệng. Từ sắc tác sinh ra sắc vô tác. Vô tác là sắc, ba sắc khác không từ tác sinh, không gọi là sắc”.

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ mười ba. Nếu nói về nghĩa đúng thì “Vô tác” chẳng phải tâm. Dù chẳng phải sắc tâm, nhưng chẳng được không có. Đây là tánh của pháp thiện trái với ác, vì nói nhân trong quả, nên nói “Vô tác” là sắc. Từ sắc phát ra được, là lấy nhân làm tên. Có người nghe lời này của Phật, vì không hiểu nên cho rằng “Vô tác” là sắc”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì Vương tử Bồ-đề nói “Vô tác” là sắc: Nếu nói thẳng tâm là giới thì vương tử bèn cho rằng, khi khởi tâm ác, thì giới đã thọ đều mất, sẽ không có giới để giữ. Cho nên đối với bốn chi thân, miệng, nói là được giới vô tác. Hiểu lầm ý Phật: bèn nói trực tiếp lấy “Vô tác” cho là giới, không còn liên quan với tâm nữa! Lại, nói “Giới tức là ngăn dứt pháp ác. Nếu tâm không gây ra điều ác, tức là giới”. Nghe lời nói này, bèn cho rằng, không có giới vô tác, cho nên thành ra tranh luận”.

“Vì sao gọi là sắc “Vô tác” chẳng phải là nhân của sắc khác, không tạo ra nhân quả của sắc khác?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chẳng phải là nhân của sắc khác: Pháp tác của thân, miệng là tánh sắc, gồm có ba thứ: Thiện, ác, vô ký. Giới dùng pháp lành để tạo thành nhân, tạo ra pháp thiện khác với bất thiện, vô ký, gọi là nhân của sắc khác. Không tạo ra nhân quả của sắc khác: “Vô tác” là quả của nhân sắc khác. Nói không sắc khác làm nhân tố, chẳng có quả nào đồng với quả này, nghĩa là “Vô tác” là quả của nhân sắc khác”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng phải nhân của sắc khác”, nghĩa là sắc khác tức là thể của vô tác. Nếu sắc khác không phát ra vô tác, thì chẳng phải là nhân của vô tác, như thân, miệng vô ký và sắc của núi, sông, cũng vậy. Đã nói chẳng phải nhân của sắc khác, thì sắc khác cũng chẳng phải quả của sắc khác. Nếu sắc thiện của thân, miệng có thể phát ra vô tác, là nhân của sắc khác này, sắc khác cũng là quả của nhân sắc khác kia. Vì từ sắc thiện phát ra mà được, nên nói là “Vô tác”.

Vì không hiểu, nên nói ngay nơi “Vô tác” là sắc”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chẳng phải nhân của sắc khác, là sắc khác nói là tâm. Nói không phải trực tiếp dùng tâm làm ra nhân, chẳng phải khác là quả của nhân, chẳng phải khác là quả của nhân, nghĩa là giới này cũng không phải là quả của tâm riêng, mà chủ yếu là dùng sắc, tâm hợp dụng mới được gọi là giới thiện.”

Đạo Tuệ ghi: “Đây là nói muốn phát ra “Vô tác”, thì trước, thân phải ngồi thẳng, chắp tay, tạo nên sắc khác, thường, thì mới phát ra được quả của “Vô tác” này.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Tâm chẳng phải thân, miệng, nghĩa là sắc khác. Thân, miệng “Vô tác”, vì không từ “Vô tác” mà sinh, nên nói rằng, “Chẳng phải sắc khác làm nhân”. Không tạo ra nhân quả của sắc khác, nghĩa là không vì tâm tạo ra quả, nên nói “Chẳng mà làm quả của nhân sắc khác.”

Pháp sư Tuệ Lãng có cách giải thích riêng: “Vô tác” là sắc khác, nghĩa là nếu chẳng phải nhân của sắc khác, thì sẽ không tạo ra quả của sắc khác.”

“Này người thiện nam! Các đệ tử ta khi nghe thuyết này không hiểu ý ta, bèn cho rằng, “Phật nói có sắc vô tác”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý Phật dạy: “Vô tác” chẳng phải

sắc, vì do sắc sinh ra, từ nhân gọi là sắc. Vì không hiểu ý Phật, nên cho rằng “Vô tác” là tánh của sắc.”

“Này người thiện nam! Trong các kinh khác, ta có nói rằng” cho đến “Quyết định nói không có “Sắc Vô tác”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thề không làm điều ác, sinh ra giới “Vô tác”, có công năng ngăn dứtpháp ác. Không gây ra điều ác, gọi là giữ giới, nghĩa là lúc không gây ra việc ác, “Vô tác” sinh một mình. Tánh giới sáng sạch gọi là giữ giới, nếu khởi tâm làm ác thì giới và ác đi chung, giới không sáng sạch, vì trái với lời thề xưa, nên không gọi giữ giới. Vì không hiểu ý Phật, nên khi nghe nói không tạo tác, liền cho rằng, không còn có pháp tác sinh, không có vô tác.

“Này người thiện nam! Trong kinh ta đã nói thế này” cho đến “Tất cả phàm phu cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh nói: “Khổ, vui lấy tâm làm chính. Tâm có “Giải” “Hoặc”, hoặc gọi là vô minh, “Giải” gọi là chánh kiến. Chánh kiến là nhân vui. Vô minh là gốc khổ. Hai thứ khổ vui này là công năng khác của tâm, được lập thành số pháp. Năm ấm là khổ, từ vô minh sinh, gọi là tai hại lỗi lầm của si.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ mười bốn. Hoặc nói là có tâm sở, hoặc nói không có tâm sở. Nếu nói về nghĩa đúng thì tâm và tâm sở vừa có, vừa không. Nói có tâm sở, là theo thứ lớp trước sau mà sinh. Nói không có tâm sở, là không phải có cùng lúc đều có”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lúc Phật nói, bất luận là phàm, Thánh, vì năm ấm đều do vô minh, mà có cho đến mười hai chi cũng vậy. Có người không hiểu, bèn nói chỉ là một vô minh, trung gian không có nhân quả sinh nhau nữa, chỉ là một vật thể thường như vậy, chỉ tạo ra danh khác, thuyết khác, là có mười hai chi, bèn nói rằng: “Không có tâm sở”.

Pháp sư Trí Tú nói: “Nhân Đức Phật nói mười hai duyên, hai đoạn nhân quả, hai nhà sinh ra chấp. Đầu tiên nói về nhân quả quá khứ, vì có ba việc nên thường”.

  1. Từ chi vô minh, phát ra chi ái thủ.
  2. Chuyển chi hành, tạo ra hữu danh để nói.
  3. Nói theo quả tức là nhân danh.

Kế là nói về năm quả, có năm phần khác nhau:

  1. Đổi thức thành thọ.
  2. Tức trên quả, nói nhân danh.
  3. Sau danh sắc, nêu rộng các chi.
  4. Nói lược hai chi “Xúc”, “Thọ”.
  5. Nói theo chi “Thọ”, tức là tên quả.

Có người chấp nhân không có tâm sở. Kế là nói ba nhân, hai quả.

Nói ba nhân, hai việc làm thay đổi thường:

  1. Trước chi “Thọ”, phát ra nhãn thức v.v….
  2. Chuyển danh từ tác nghiệp, nói là đối với hai quả, hai việc làm thay đổi thường.
  3. Thay đổi chi sinh thành thức.
  4. Chia rộng già, chết thành nhiều danh từ các chi, do nói tưởng v.v… chẳng phải tức là xúc. Có người do chấp này mà có tâm sở đều sinh ở hàng đầu.”

Đạo Tuệ ghi: “Nói về sự khác nhau trước sau của tâm, gọi là số, nếu chấp trước sau thì vẫn là nhất tâm, đều không có tâm sở, tâm này cũng mất. Nếu nói trong một thời gian có riêng tâm sở đều sinh, thì tâm sở này cũng bị mất.”

“Từ vô minh sinh ra ái, nên biết rằng ái này” cho đến Là hữu tức là vô minh, ái, thủ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở đây nói là phiền não hiện sinh, nói số không có pháp riêng, sinh khởi từ trong duyên, hoặc khinh trọng thành bốn. Vì sao? Vì tâm không hiểu rõ duyên, chứ chẳng phải tốt đẹp chấp tốt đẹp, gọi là vô minh, nghĩa là chấp tốt đẹp sinh ra nhiễm, gọi là ái. Tánh ái là tham cầu, đó gọi là thủ. Khởi nghiệp thân, miệng, gọi là hữu. Cho nên nói tức là, vì vốn gọi không thiếu, chỉ từ sửa đổi lại gọi là thể, lại gồm lập thành số riêng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nói về nhân quả theo thứ lớp sinh nhau: Nhân trước, quả sau, thì sẽ không nhất thời. Vì là tự có, chưa hẳn là thứ lớp. Như vô minh làm nhân cho hành, có từ phiền não thô, lại khởi ở tế, cho đến ái, thọ đều được. “Hữu” lại tạo ra nghĩa “Khởi”. Đây là “Duyên” thứ lớp sinh nhau. Vô minh tức ái, ái tức, nghĩa là đầu cuối là một thần minh. Dù rằng nhân quả khác nhau, nhưng không được lìa, nên nói là “Tức”.”

“Từ hữu sinh ra thọ, nên biết rằng, thọ này” cho đến “Cho nên thọ tức mười hai chi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thọ là chi “Thức” ban đầu. Thức có công năng thọ sinh, nên gọi là “Thọ”.”

Đạo Tuệ ghi: Nên biết rằng “Thọ này tức là “Hành”, “Hữu”. Đây là chi thức ở vị lai, từ chi thức của nghiệp đời nay, vì từ nghiệp đời nay mà được, nên tức là “Hành”, “Hữu”. Nghiệp này vừa gọi là “Hành”, vừa gọi là “Hữu”. Từ nhân duyên của thọ mà sinh ra “Danh sắc”, vô minh, ái, thủ, hữu, hành. Các chi này đều là việc trong một đời ở vị lai. Việc này là danh sắc trở xuống, lẽ ra có sáu nhập, xúc, thọ v.v… . Nói lược thì không có ba chi này: Thọ, Xúc, Thức, sáu Nhập… Cho nên “Thọ”, tức mười hai chi: đây lại là việc của thân sau. Vì vô minh, ái, thủ, hữu, hành trong đời sống ở vị lai, nên lại sinh ra ra sáu nhập như v.v… thọ, xúc, thức, của thân sau. Sáu nhập…. Ở đây lược không nêu tên các chi ở dưới, nên nói là Đẳng. Thọ: Nên là chi thức của sơ sinh. Xúc, thức: Là tức chi danh, sắc. Bốn ấm, gọi là danh. Thể của bốn ấm chính là tâm và tâm sở. Nên nay nói xúc thức: Đây là nêu tâm và số, đó là bốn ấm.”

Đạo Tuệ thuật lại lời của Pháp sư Đàm Tiên rằng: “Danh từ các chi trong đây thường ẩn giấu mà không nêu ra. Nay, thì nêu đủ.”

Bàn riêng: “Nói về danh số pháp tâm, tâm sở rất nhiều. Nếu lập thành mười hai nhân duyên, là lập chung cho cả ba đời: Phân tích về tâm sở của ba đời, thì từ vô minh sinh ra ái” cho đến “Tức là vô minh, ái, thủ”, đây là nói về tâm sở quá khứ, gồm có bốn pháp. Nếu y cứ mười hai nhân duyên làm nghĩa, thì ba nghĩa trước đều là chi vô minh, ái thủ là phần vô minh, được xếp chung vào một chi. Nên biết “Tức là” là nói về quả không lìa nhân mà có, nên “Tức” nhân. Phàm phu không hiểu cho rằng, “Tức” một thể, không có tâm sở thứ lớp sinh nhau, đây là lỗi lầm.

Từ “Hữu” sinh ra “Thọ” cho đến “Lại thủ, hữu, hành”, đây là nói về tâm sở hiện tại. Thọ: Là thức thọ sinh ban đầu, nên lấy thọ đặt tên. Hành, hữu: Tùy nghĩa, còn được gọi tên khác.

Y theo mười hai nhân duyên làm nghĩa, lược, không có ba chi: Sáu nhập, xúc, thọ, vô minh và ái, hai thứ này đều là chi. Thủ, tức chi thủ. Hữu, hành tưc chi Hữu Thọ, Xúc, Thức, Sáu Nhập v.v.. lược qua, không nêu xúc thọ.

Nếu y theo mười hai nhân duyên làm nghĩa thì “Thọ” tức là chi “Sinh”, mười một chi còn lại, đều là chi. Cho nên “Thọ” là pháp giúp sức mười hai chi. “Thọ” là thức thọ sinh trong hiện tại. “Thức” đứng đầu trong sự thọ sinh. Y theo chủ đó, thì ba đời có mười hai.”

“Này người thiện nam! Các đệ tử ta nghe nói như thế xong” cho đến Như lai “Nói, không có tâm sở.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nghe nói như thế rồi liền cho rằng không có tâm sở, chỉ là một tâm, sử dụng trước sau, không thừa nhận có các tâm sở tưởng, thọ.

Này người thiện nam! Trong kinh ta nói như vậy cho đến tuyên bố Như lai nói có tâm sở.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dục vọng xấu ác là “Duyên” thứ nhất của thức. Sở dĩ nói là “Duyên”, nghĩa là vì nói thức trong “Duyên” rất mê muội, sẽ sinh ra ái, thủ. Do “Xúc” mà sinh: “Thức” ở trong “Duyên”, đó gọi là “Xúc”. Về sau, chỉ gọi là thức, thể một mà nghĩa khác. Nhưng chẳng phải xúc: Đầu tiên, “Xúc” lấy “Duyên” thì mê muội, các tâm sở nối nhau sinh thì sáng suốt. Tánh chất sáng tối khác nhau, nói là không phải. Nói có tâm sở, nghĩa là nghe nói chẳng phải xúc, cho rằng tánh của tâm sở là “Khác”, đều khởi chung với “Xúc”. Vì “Duyên” không đồng, khác với thể của tâm, nên đánh mất ý chỉ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghe nói bốn pháp sinh ra nhãn thức, cho đến thọ, thủ sinh nhau không hiểu trước sau, cho rằng cùng lúc đều có, cho đến hai mươi mốt tâm bất thiện đều không hề tranh luận.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đầu tiên tạo ra duyên thức, do nhãn thức, mà về sau khởi tưởng, thọ, ái, thủ, hữu…. Nhưng chẳng phải thức ban đầu. Nhiều người cho rằng, có riêng một tâm lại ưa “Xúc”, có thể hòa hợp sinh ra các tâm sở. Lại “Chẳng phải tâm”, nên nói có tâm sở. Ý Phật: vừa được nói “Có” vừa được nói “Không”. Vì trước cũng là tâm, nên không có tâm sở riêng. Vì nhân “Cảnh” lấy “Duyên”, thành ra các tâm có chung một cảnh“Duyên”. Số của nhà tâm cũng được có tâm sở, có người không hiểu, nghe nói “Có”, làm cho tâm phân biệt tự có tâm sở riêng. Nghe nói “Không có”, bèn cho rằng “Tức là” một tâm, trung gian không có sinh diệt. Cho nên trở thành tranh luận.

Đạo Tuệ ghi: ““Thủ” gọi là nghiệp: Nặng, gọi là nghiệp, “Xúc” duyên tưởng, thọ là sinh ra “Lạc thọ”. Từ sau “Lạc thọ”, sinh ra ái, sau ái, sinh ra nhiều tâm sở thiện. Do xúc mà sinh, nghĩa là nhân sau sáu thức sinh, nhưng chẳng phải xúc: Từ sau thức, theo thứ lớp, sinh ra “Tưởng” “Thọ”…, gọi là tâm sở. Phàm phu không hiểu, cho rằng có pháp tâm sở riêng, đó là lỗi!”

“Này người thiện nam! Đôi khi ta nói chỉ có một “Hữu” cho đến “Nói có năm hữu, hoặc nói có sáu hữu”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có chúng sinh có năm ấm, gọi là chúng sinh ấm, là hữu vi. Hai là nhân quả. Ba là ba cõi. Bốn là bốn sinh. Năm là năm đường. Sáu hữu là sáu nẻo. Bảy hữu là bảy thức xứ. Tám là tám thần sinh. Có chỗ nói là tám thiền. Tám thiền này không gồm nhiếp “Hữu”, đều dường như không phải. Chín: Nơi cư trú của chín loài chúng sinh.

Không hiểu được ý Phật, không giải thích theo rộng lược, mà chỉ trực tiếp dùng năm, sáu để định”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tranh luận thứ mười lăm. Phật nói từ một hữu đến hai mươi lăm hữu đều tùy theo địa phương mà giải thích, hóa độ.”

“Này người thiện nam! Một thuở nọ” ta trụ ở cho đến “Nói rằng “Như Lai nói phải thọ đủ pháp Bát quan trai mới được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không thọ đủ mà được là không thọ năm giới trong lúc, bởi tâm của người thọ yếu kém, vì không thể thệ nguyện dứt năm điều ác, nên không thể sinh ra giới. Trong trường hợp cùng lúc thọ năm, là tâm mạnh mẽ có năng lực sinh ra, nhưng lại không có khả năng giữ đủ, bèn phải bỏ hết bốn, giữ lại một, đó gọi là một phần.

Không trái với ý Phật, nghĩa là thọ riêng một giới thì không đắc giới, phải thọ đủ mới được, vì một ngày, một đêm là đủ . Vì sao? Vì giới tại gia có hai thứ: Một là suốt đời; hai là không suốt đời. Không suốt đời, là lấy tâm làm kỳ hạn, hoặc một ngày, hoặc mười lăm ngày. Hoặc một ngày, một đêm. Hoặc chỉ một tháng, hoặc chỉ một đêm đều được thành trai. Kinh có chứng minh: Ca-chiên-diên cho đến một thời niệm, vì một thời niệm qua nhanh, nên tâm yếu không thể phát giới, đáp rằng “Không thành”. Có người nghe giới xong, lấy thời gian một ngày, một đêm làm kỳ hạn nhất định, nhiều ít đều không thành trai, vì mất đi ý chỉ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ mười sáu: “Nếu nói về nghĩa đúng thì tùy theo thọ trì năm giới nhiều hay ít, tùy được phước ấy. Nếu thọ tám giới, thì hoặc một ngày cho đến một giờ, phải tu đủ mới được. Tám giới này khác năm giới. Có người nghe nói năm giới được thọ từng phần, rồi cho rằng, tám giới cũng được thọ từng phần. Nghe nói tám giới phải thọ đủ mới được, bèn cho rằng, năm giới cũng phải thọ đủ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Ưu-bà-tắc Nhất phần: Một thuở nọ, Đức Phật nói: “Thọ ba quy y rồi, thọ một trong năm giới, gọi là một phần. Chúng sinh không hiểu ý Phật, bèn cho là Phật nói “Chỉ thọ một giới trong năm giới, thì có đủ năm, lại trở thành tranh luận. Lại vì một người nói giới, hoặc trong một ngày, một đêm là thiện, không gọi là được trai. Theo lời dạy xưa, thì một ngày, một đêm, chỉ một giờ, một niệm, không gọi là trai. Người này thiện tức là đắc giới. Có người không hiểu, cho rằng không được trai, cũng không được giới. Vì thế, nên có tranh luận.”

Đạo Tuệ ghi: Ưu-bà- Nhất phần tắc: Trước, thọ năm giới rồi. Sau bỏ bốn, giữ một, là một phần. Nếu bảo phát một giới, thì người này không thể phát được “Vô tác”. Nếu nói Ưu-bà-tắc phát gia, không thọ đủ mà vẫn được, thì điều nấy sẽ mất đi ý chỉ. Nói về tám giới trai, thọ vào ban đêm ngày hôm qua, cho đến thọ hai ngày, một ngày đều được. Nếu riêng một ngày, một đêm, một niệm, một giờ thì thọ giới này đều gọi là được thiện, chứ chẳng phải được trai giới của tám trai.”

Lời ký: “Nói về trai, nghĩa là quá giữa ngày không ăn. Một ngày, một đêm thanh trai, nói là trai. Tám giới: Vì trang nghiêm trai này, cho tám giới là trai. Chỉ một niệm, một giờ thọ tám giới chẳng phải không được. Chỉ vì trai không thành tựu, nên nói là được thiện, không gọi là được trai, phàm phu không hiểu, bèn cho rằng, phải thọ đủ trong một ngày, một đêm, mới được tám pháp giới trai, đó là lầm.”

“Này người thiện nam! Trong Khế kinh ta có nói thế này” cho đến “Phạm trọng cấm, đã mất giới Tỳ-kheo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gọi là giết giặc, là giết giặc phiền não. Do giới tịnh, sinh ra tuệ tịnh, gọi là giới mà bậc Thánh đã thọ. Phạm trọng giới rồi là phá Thánh giới, không được gọi Tỳ-kheo. Mất Tỳ-kheo: Nghe nói mất giới mà bậc Thánh đã thọ, bèn cho rằng, tất cả đều mất, đó là mất ý chỉ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ mười bảy: Nếu nói về nghĩa đúng, nghĩa là phạm bốn giới trọng là giới phá không sinh, giới không phá đều còn.”

Pháp sư Đạo Tuệ nói: “Tùy theo sai lầm đã phạm.”

Pháp sư Bảo Lượng ghi rằng: “Không thể sinh ra vô lậu, chứ chẳng phải vì đều mất giới, vẫn có phá giới, mà nói là phạm trọng đều mất, chẳng phải giới Tỳ-kheo, là mất ý chỉ.”

“Này người thiện nam! Trong kinh, ta đã vì Thuần-đà mà nói” cho đến “Phạm bốn giới trọng rồi, không mất giới cấm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thọ đạo, là tám Thánh đạo. Ba pháp này đều là tịnh giới. Được đủ vô lậu, gọi là “Đến”. Vô lậu thế gian, gọi là “Thọ”, chưa đến gọi là thị hiện, tức là nhiễm ô đạo, thanh tịnh, có thể đến Niết-bàn, gọi là Đạo. Ô là bất tịnh, chẳng phải đạo. Không mất giới cấm là tịnh giới thường còn. Sinh chung với nghiệp ác, gọi là ô, như viên ngọc bị ném xuống bùn, gọi là ô ngọc, mất đi ý chỉ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghe nói bất sinh, bèn cho rằng tất cả đều mất, nghe nói nhiễm ô đạo, liền nói, phạm trọng, không mất giới cấm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nay, nói rằng ô đạo, là do phạm giới, hạnh ô nhiễm, không được đạo Thánh, là hạng không thấu suốt. Cũng nghe nói mất, chỉ nói là phạm hay không phạm đều mất. Nếu nghe nói ô, thì bất luận là phạm hay không phạm, đều ô, không mất, vì cho nên thành ra tranh luận.”

Rốt ráo đến đạo, là giới vô lậu. Thị đạo: Giới trong năm căn của đạo tín; thọ đạo là giới của ngoại đạo phàm phu.”

Đạo Tuệ ghi: Nghĩa đúng: là Người phạm trọng cấm, chỉ có ô giới, tịnh giới thì mất. Có người cho rằng, vì tịnh giới mất, nên ô giới cũng mất, nói là không mất ô giới, nghĩa là nói tịnh giới cũng không mất, đều mất đi ý chỉ.

Đạo rốt ráo, nghĩa là được quả La-hán trong một thân. Thị đạo là Tu-đà-hoàn hướng. Thọ đạo là Sơ quả cho đến quả thứ ba. Ô đạo là người phá giới. Lại nói: “La-hán, đạo cuối cùng. Thị đạo là ba quả, cũng gọi là hạnh vô tướng. Thọ đạo: Từ khi chứng quả về sau”. Lại nói: Năm điều thiện đến nay và ngoại đạo phàm phu giữ giới.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đến đạo nghĩa là người được vô lậu chân thật. Thị đạo: Là người tín căn đã lập, Thọ đạo: Mới có khả năng thừa thọ, tín căn chưa lập ba hạng người này đều lấy giới thiện làm thể. Ô đạo: Là Phạm trọng cấm, vì tội đã trái phạm làm nhiễm ô tịnh giới khác.”

“Này người thiện nam! Trong khế kinh ta bảo các Tỳ-kheo” cho đến “A-la-hán không được Phật đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiến đến địa vị Phật không còn con đường nào khác, gọi là “Một”, đều được Phật đạo, là vì đủ tám muôn hạnh có thể đến địa vị Phật, nên gọi là đạo. Nghe nói nhất thừa có một duyên, rồi cho rằng, Thanh văn đã đủ, tức là mất đi ý chỉ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ mười tám: “Nghe nói nhất thừa một đạo, rồi cho rằng chỉ có một đạo thì làm hại phương tiện. Nghe nói Tu-đà-hoàn phân dòng cho đến La-hán, rồi nói chỉ một bề không bao giờ thành Phật, đều mất ý Phật, trở thành tranh luận.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Các người xướng rằng: “Bốn quả đều được Phật đạo. Về lý thật ra “Được” thành Phật, cho nên nói tranh luận là vì nghe người kia nói được, cho là liền được, không nói vị lai. Nói “Không được”, bèn cho rằng đầu cuối đoạn diệt, một bề không được, do đó trở thành tranh luận”.

“Này người thiện nam! Trong kinh Niết-bàn này, ta nói: Phật tánh” cho đến “Phật tánh của chúng sinh, lìa chúng sinh mà có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật tánh của Địa thứ chín có nhân, có quả. Nhân “Tức” chúng sinh chứ chẳng phải “Lìa”, quả chẳng phải chúng sinh, vì thuộc về nhân, nên cũng không nói lìa, mà hoặc vì chúng sinh vô thường, bèn nói lìa chúng sinh , đây là mất ý chỉ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tranh luận thứ mười chín. Nếu nói về nghĩa đúng thì Phật tánh đối với Trung đạo mà nói nhân khác với quả, không được nói “Tức”. Không lìa nhân mà được quả, không được nói “Khác”. Nghe nói đồng với hư không, bèn cho rằng hoàn toàn lìa chúng sinh mà có riêng tánh này, đều không liên quan nhau. Nghe nói kho báu, bèn nói là đã có ở trong nhân, đều không hợp lý, trở thành tranh luận.”

“Này người thiện nam! Ta lại nói rằng: “Phật tánh của chúng sinh” cho đến “Phật tánh của chúng sinh lìa chúng sinh mà có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chánh nhân và quả, hai tánh là thường. Đức Phật lấy hư không làm dụ. Về nghĩa lìa và không lìa, nghĩa đồng với giải thích trên,”

“Này người thiện nam! Ta lại nói Phật tánh của chúng sinh” cho đến “Phật tánh của chúng sinh lìa chúng sinh mà có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như người mù nói về con voi, người mù nói về sữa…. Tổng kiết các việc trên, nói không thấy, nghĩa là nói không được thật, cho nên tranh luận.”

“Này người thiện nam! Trong kinh chỗ nào cũng nói” cho đến “Trong các kinh Đại thừa, nói có Phật mười phương”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu có hai Phật và chúng sinh, thì sẽ không sinh ý tưởng khó gặp, mà có người nghe thuyết này bèn, nói là các cõi ở mười phương đều không có, cho nên khởi tranh luận.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Tranh luận thứ hai mươi. Nếu nói về nghĩa đúng, y cứ vào ứng dụng thì một hóa thân trong đây chỉ có một vị Phật. Người không hiểu ý này, nói là không có các Đức Phật khác trong mười phương. Nghe nói có Phật mười phương, bèn cho là còn có Phật mười phương, không có pháp thân riêng, tức làm tổn thương bản tích. Hai luận tranh cãi nhau, đều mất lý.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chúng sinh nghe có Phật mười phương bèn nghĩ rằng: “Nếu người “Thiện nam nghe Pháp Phật nhớ nghĩ, thì tôi sẽ hướng vào đó học Phật. Vì muốn nắm lấy tâm, vật, nên nói rằng không có hai vị Phật trong một thế giới. Nếu nghe nói có Phật, bèn nói là Phật và Phật không liên quan nhau. Nếu nghe nói “Không có” Phật, thì cho rằng, chỉ có một vị, cho nên tranh luận.”

“Này người thiện nam! Tranh luận như vậy, là cảnh giới của Phật, các Thanh văn, Duyên giác không thể biết được.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chúng sinh có ba chúng. Căn cơ người Nhị thừa ở chánh định. Đối với việc tranh luận, dù không tự thấy, nhưng có thể từ đây, sinh tin, dứt nghi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đã nêu tranh luận xong rồi. Nay kiết lại. Nói lý như thế, không thể với nhận thức cạn cợt mà biết được. Phật là đấng Trí nhất thiết, tùy theo từng căn cơ mà thực hành giáo hóa, đều nhằm đem lại lợi ích cho chúng sinh, chỉ có người trí mới biết.”

“Nếu người nào đối với việc này sinh tâm nghi” cho đến “Sinh tâm quyết định, thì gọi là chấp đắm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năm căn như tín căn v.v… có thể dứt phiền não. Chúng sinh có hai hạng: Nặng về ái, nặng về kiến, mà người nặng về ái, thì sinh nghi ngờ đối với hai thuyết. Nếu theo bạn lành, thì sẽ hãy sinh niềm tin để dứt nghi ngờ.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Không thể buông bỏ, đó gọi là chấp đắm.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nặng về kiến thì chấp, chấp thì đắm.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là phần thứ tư trong đoạn lớn, nói vì chấp đắm, nên khởi tà kiến, là tướng trạng dứt gốc lành. Phàm phu chấp luống dối đều là vô minh, vì không hợp lý, nên sáu mươi hai kiến, được gọi chung là nghi. Nhưng khi tà chánh thì tự có tâm quyết định hay không quyết định. Nhưng nói theo chánh lý, thì việc này đều do tâm không hiểu rõ, nên qua văn cú sau đây, Phật sẽ giải thích rộng về nguyên nhân sinh ra lỗi của xiển-đề, vì si mê, tìm tòi không có nhân quả, sẽ thấy dễ dàng.”

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Sự chấp đắm như vậy” cho đến “Không thể xé rách các lưới nghi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lòng tin của người chấp không từ “giải” sinh, dù tin, tức không tin. Vì sao? Vì tâm vô ngã, sẽ không tin ngã của Thế đế, nên tin tức là không tin, nghĩa là chẳng phải thiện. Không thể xé rách các lưới nghi, nghĩa là vì tín tịnh dứt nghi, mà niềm tin lại không từ lý, nên không thành đức tin thanh tịnh, thì không thể dứt nghi ngờ.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Người như vậy” cho đến “Người này cũng nên gọi là đắm, là nghi.”

“Này người thiện nam! Hai thuyết này được gọi là quyết định, không được gọi là nghi” cho đến “Vì sao người này lại sinh tâm nghi?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghi sinh ra từ hai pháp: Thấy nghe, hiểu biết. Nay, vì thấy giống với nghe, nghi, do Phật nói có hai thuyết, còn Tu-đà-hoàn thì nói không có hai thuyết.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói” cho đến “Vì cho nên ta nói rằng, vì họ không hiểu rõ việc, nên mới nghi ngờ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích rộng duyên nghi, đều do trước trải qua thấy nghe, sau mới nghi ngờ.”

 

Phần 4

  • Giải thích rộng việc Nhất-xiển-đề chấp không có nhân quả.
  • Nói về nghĩa Xiển-đề sinh gốc lành.
  • Nói về nghĩa Xiển-đề dứt gốc lành ba đời.
  • Nói về nghĩa người dứt gốc lành có Phật tánh.
  • Giải thích rộng về năm thứ, sáu thứ, bảy thứ nghĩa Phật tánh của Cửu trụ, Bát trụ v.v… .
  • Nói rộng về cách giải thích Phật tánh khác nhau, đều mất Trung đạo.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người Thiện nam dứt mất gốc lành”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn thưa hỏi về người dứt điều lành, trước hỏi nghi ngờ: Chấp đắm là gì?

Bồ tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Hạng người nào dứt mất gốc lành? Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Hỏi hai căn tánh lợi độn vì sao dứt mất gốc lành.

“Thiện nam! Nếu có người thông minh trí tuệ, căn tánh nhạy bén thì sẽ khéo phân biệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Lượt thứ sáu, nói rộng về khởi tà kiến, nên dứt gốc lành.”

“Xa lìa bạn lành, không nghe chánh pháp, không khéo tư duy, không trụ đúng pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dứt điều lành và Chánh định, đều do căn cơ nhạy bén. Vì sao? Vì nếu gần gũi bạn lành bên ngoài thì chánh, nếu xa lìa bạn lành bên ngoài thì đoạn. Đây là nói mở đầu của dứt điều lành. Thứ tư là nói về phần tà kiến.”

Đạo Tuệ ghi: Tà kiến phá rằng: “Không bố thí có sáu việc.”

“Người thông minh này lại nghĩ rằng không có cha, không có mẹ”

cho đến “Phải biết rằng, người này sẽ dứt gốc lành.”

Xét: Đạo Tuệ ghi: “Không có cha, mẹ có sáu việc.”

“Lại nghĩ rằng, tất cả thế gian” cho đến vì thề nêu biết không có quả thiện ác.

Xét: Pháp sư Đạo tuệ ghi rằng: cho là không thiện ác có ba việc. Lại nghĩ rằng tất cả thế gian cho đến. “Khi thực hành quán này, sẽ dứt gốc lành.”

Xét: Đạo Tuệ ghi: “Nêu sáu việc, phá Thánh đạo, Niết-bàn, không có bậc Thánh.”

“Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh nào chấp sâu không nhân, không quả như vậy” cho đến “Và ba đường ác, người nào phá tăng cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết thúc về người dứt gốc lành, phải là trí nhạy bén, không hiểu được đúng. Từ si khởi kiến, suy tìm, chấp sai lầm.”

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Lúc nào sẽ sinh gốc lành trở lại?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh phần thiện thứ năm, từ bít lấp, mong được đi suốt qua, người chấp nghiêng lệch, không thể phân biệt có thể dứt gốc lành, người không chấp thì sẽ thứ lớp lại sinh gốc lành. Sau đây, nói Phật tánh không nhất định. Về sự, phải phân biệt, tức là nghĩa sinh ra gốc lành.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ hai trong đoạn lớn, nói về sinh gốc lành trở lại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Phần thứ năm trong đoạn lớn, nói về sinh gốc lành trở lại. Dù rằng chúng sinh dứt gốc lành, nhưng vẫn được phát tâm chán khổ trong khi đang chịu khổ, nên sinh gốc lành trở lại, nối nhau không dứt cho đến khi thành Phật. Nhưng y theo đoạn văn này, lời văn rất rộng lớn bao la, lược chia thành năm phần:

  1. Trước, nói về lại sinh gốc lành, quyết định tánh nhân quả.
  2. Nói về hạnh Trung đạo.
  3. Dẫn ba lời của Phật, làm cho vật thể hư hoại, nói lời Phật rộng lớn, không thể chấp nhất định.
  4. Nói Phật tánh là có hay không.
  5. Nói về được, mất để kết thúc ở trên.

“Phật nói: “Này người thiện nam! Người này có hai thời gian sinh gốc lành trở lại, là khi mới vào địa ngục và lúc ra khỏi địa ngục.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc mới chịu khổ, thì tâm cảm thấy ăn năn, tức là khéo sinh gốc lành trở lại. Nếu chịu khổ éo ngặt tột độ, tâm bấn loạn mê muội, không biết hối hận, đến khi được ra khỏi địa ngục, mới biết ăn năn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đó là hạng người căn cơ nhạy bén.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nếu là hạng người căn cơ nhạy bén, như năm trăm Bà-la-môn…, thì vừa vào địa ngục là sinh ra gốc lành ngay, vì những người này thông minh, cũng vì từ trước đến nay chưa trải qua khổ cùng cực. Nay, quả báo đọa địa ngục, biết ngay là khổ sâu nặng, liền sẽ suy nghĩ, tìm kiếm, tỏ ngộ những gì mình đã làm đều phi lý, liền sửa đổi tâm. Nếu căn tánh nhỏ mọn, lại không như lúc đến, khi ra khỏi địa ngục quả báo thừa đời sau, mới có thể sửa đổi, trong đó có hằng muôn nẻo đường không thể nhất định được.”

Đạo Tuệ ghi: Mới vào địa ngục chịu khổ mới như vậy, thần minh chưa tối tăm, vẫn còn nhận thức đúng. Về sau, khi ra khỏi địa ngục, các khổ phải chịu được giảm nhẹ, người ấy sẽ lần lượt sinh tâm, đó là lý do có hai thời gian sẽ được sinh gốc lành trở lại.”

“Này người thiện nam! Gốc lành có ba thứ” cho đến “Vì dứt gốc lành ba đời, nên gọi là đoạn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì quá khứ đã diệt vô, nên không thể dứt. Vì vị lai chưa đến, nên không cần nói. Cắt đứt nhân hai đời, gọi là đoạn, nghĩa là vì một ý nghĩ thiện ở hiện tại làm nhân có thể sinh ra pháp lành đời sau. Hiện nay vì tà kiến đã che lấp tâm lành này, làm cho không sinh được, nên gọi là cắt đứt nhân ba đời.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói dứt pháp lành ba đời, cho nên không gọi là dứt quả quá khứ, nghĩa là nếu nhân quá khứ cảm quả, đã nhất định thì quả báo sẽ sinh ở đời sau. Quả báo này sẽ phải chịu ở mai sau, nên không dứt, là nhân của quả báo này, nhân cũng là nhất định, cũng không thể dứt. Trong đoạn văn vì lược, nên chỉ nói không dứt quả. Nhân quá khứ cảm quả hiện tại, đương lai, thể của nhân đã diệt, làm sao dứt được ư? Dứt nhân ba đời gọi là dứt gốc lành, nghĩa là nếu ở hiện tại có gốc lành, tức là pháp lành hiện tại. Pháp lành này lẽ ra ở quá khứ, tức gốc lành quá khứ. Việc lành trong hiện tại sẽ nối tiếp đến đương lai, tức gọi gốc lành của vị lai. Nay, vì thân này đã thành Nhất-xiển-đề. Vì nghiệp ác đã biểu hiện ở trước, nên gốc lành hiện tại đáng lẽ sinh mà không được sinh, tức cắt đứt gốc lành hiện tại. Nếu gốc lành này sinh, thì chấm dứt quá khứ, vì không sinh, nên chẳng có cái gì để dứt, tức là dứt gốc lành ở quá khứ. Gốc lành này là chủng loại đương lai, lẽ ra sẽ nối tiếp mà không được nối tiếp, tức là sẽ cắt đứt gốc lành ở vị lai.

Nói theo nghĩa thì đoạn văn này là lược. Vì sao? Vì nhân lành hiện tại có công năng cảm quả vị lai. Nay dứt nhân lành hiện tại không khởi, tức là dứt nhân. Đã nói rằng dứt nhân, thì quả sẽ không từ đâu sinh, há không phải là đoạn quả ư? Cũng nên nói rằng, dứt quả vì giản lược, nên chỉ nêu nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về sinh gốc lành là lý, đều thuộc về ba đời. Nếu quá khứ đã có sinh pháp lành, thì về mặt lý, không thể dứt, chỉ y cứ vào hiện tại, vì ngăn dứt vị lai, nên nói là dứt hai đời. Trong đây nói rằng, dứt nhân ba đời, nghĩa là nếu việc lành khởi ra trong hiện tại, thì việc lành này sẽ dứt ở quá khứ, vì là nhân của quá khứ. Việc lành hiện tại phát ra, bởi năng lực tác dụng của việc lành đã khởi, giúp đỡ lẫn tiếp nhau. Việc lành vị lai sinh khởi, cũng do hiện tại làm nhân. Vì nhân nên làm cho chủng loại nối nhau. Nay, nhân hiện tại đã dứt, tức là nhân lành trong ba đời không khởi, cho nên nói là dứt nhân ba đời.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Phật tánh này có ở vị lai hay ở khắp ba đời?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gồm có bốn câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất: “Có pháp không thích ứng ba đời. Nay nhất định thuộc về đời nào?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Gồm có hai câu hỏi: Câu hỏi đầu là “Phật tánh có thuộc về ba đời hay không?” câu hỏi kế là “Xiển-đề ở hiện tại có Phật tánh hay không?” nếu có thì không nên nói dứt gốc lành. Nếu không thì chẳng nên nói là đều có”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Gồm có ba câu hỏi”.

1. Nêu tánh quả để hỏi. Hỏi về người dứt gốc lành có Phật tánh: Phật tánh này ở quá khứ hay ở vị lai? Ở hiện tại, hay ở khắp cả ba đời? Nếu Phật tánh ở khắp ba đời thì làm sao nói là thường?”.

2. Câu hỏi thứ hai: Nếu người dứt gốc lành có Phật tánh là thiện, thì đâu được nói là dứt? Nếu không có Phật tánh, thì làm sao Phật nói là dứt ư?”

3. Ngăn ngừa ý Phật: “Nếu cho rằng vừa có vừa dứt, thì lại càng không được nói Phật tánh là thường?”

Đạo Tuệ ghi: Câu hỏi có ba lớp: Hai lớp như trên, lớp thứ ba nói rằng: “Nếu chẳng phải hoàn toàn có, hoàn toàn không, thì lẽ ra nửa có nửa không, nên nói rằng “Vừa có vừa dứt”?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Vì muốn nêu lên câu hỏi, nên trước, Bồ-tát Ca-diếp quyết định về Phật tánh ở trong ba đời hay ở đời nào? Sau đây sẽ chia thành ba lượt để hỏi:”

“Nếu Phật tánh ở quá khứ thì vì sao gọi là thường” cho đến “Ba thật, bốn thiện, năm tịnh, sáu trông thấy?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai, xưa không mà nay có, là hiện tại. Đã có, lại không, là quá khứ. Sắp có, chưa khởi, gọi là vị lai. Pháp ở ba đời là vô thường. Phật nói tánh là thường. Kế là dùng nghĩa thường để quyết định, chắc chắn sẽ được, là chứng tỏ vị lai. Chắc chắn có thể trông thấy là chứng tỏ hiện tại. Phật tánh có sáu: Dẫn thuyết của Phật nói: Một là chứng minh tánh thường; hai là chứng minh có thể thấy.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ nhất y cứ vào ba đời, để làm câu hỏi nhất định. Ban đầu là thường, chẳng thuộc về ba đời. Sau, y cứ vào hai đời để trách cứ rằng, khiến thuộc về đời, không thể là thường.”

“Nếu là người dứt gốc lành, mà có Phật tánh” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ hai là nêu Phật tánh, một câu thiện này là câu hỏi liên quan cả hai: Nếu Xiển-đề có tánh thì không nên nói là dứt điều lành. Nếu việc lành đã dứt, thì tánh lẽ ra không có.”

“Nếu nói Phật tánh vừa có vừa dứt thì sao Đức Như Lai lại nói là thường?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ tư. Ý của bốn câu hỏi đều trách Đức Phật nói không nhất định Pháp sư Trí Tú nói: Thứ ba là dẫn thường giáo mà Phật nói là câu hỏi ngăn dứt. Nếu Phật tánh là thường thì đó là pháp nhất định, nếu không nhất định, thì không được nói là thường.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Như Lai, Thế tôn” cho đến “Ba là đáp câu hỏi, bốn là trí đáp (đáp bằng cách gác qua không trả lời)”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Là “Ý Phật, tranh cãi, là do chấp nghiêng lệch nên mất Trung đạo. Pháp hiện nay về lý thì khác nhau, nên đáp có bốn cách không thể hoàn toàn có thuyết nhất định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nay trước là dẫn bốn cách đáp với mục đích là đáp theo thứ lớp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chưa chính đáp câu hỏi. Vả lại, nêu Đức Phật có bốn thứ ngữ pháp. Sau đây sẽ giải thích theo thứ lớp, dùng lối đáp theo thứ lớp.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Bốn cách đáp câu hỏi, riêng là pháp môn của một khoa. Nay dùng phân biệt đáp và trí đáp. Vì để giải thích câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, cho nên trước nêu chung bốn chương môn. Dưới đây là giải thích riêng.”

Này người thiện nam! Thế nào là đáp nhất định?” cho đến “Có trụ như pháp, đó gọi là đáp nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì về lý không hai, nên không cần phân biệt, nói là đáp nhất định.”

“Thế nào là phân biệt đáp? Như ta đã nói” cho đến “Gọi là đạo

Đế, đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuyết có hai thứ: Pháp thuyết và nghĩa thuyết. Pháp thuyết là chung mà lược, nghĩa thuyết là riêng mà rộng, nên gọi là phân biệt đáp.”

“Thế nào là đáp theo câu hỏi? Như ta đã nói” cho đến “Vì tham, sân, si mà nói tất cả đốt cháy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có nghĩa tự phân biệt, không cần hỏi đáp, nghĩa là tự có pháp chung, nghĩa riêng, phải hỏi rồi đáp sau: Nêu ý chỉ thành thật của Như Lai, để giải thích.”

“Này người thiện nam! Như Lai có mười Lực, bốn Vô sở úy” cho đến “sáu là thấy phần ít, đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước đáp câu hỏi thứ hai: “Phật tánh có thường, vô thường, về sự thì phải phân biệt, không thể dùng chấp thường để hỏi”. Bảy việc, là đủ tám tự tại, bốn lạc, bốn tịnh. Vô lậu thấy pháp tánh, đều gọi là chân thật, pháp môn Vô học đều được thấy ít.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Muốn nêu lên câu hỏi thứ hai của Bồ-tát Ca-diếp, nên trước Phật nêu các tính chất của quả địa và pháp Bồ-tát của thân sau, phát ra phân biệt đáp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Mười Lực… cho đến bảy việc của Phật tánh, đều là Phật tánh chất của quả địa. Phật tánh của Bồ-tát thuộc thân sau có sáu. Trong Phật tánh của Thập trụ, phần nhiều nói về tánh “duyên” nhân:

  1. Thường: Vì Thập địa thấy phần ít chân ngã là thường, nên nói cũng thường. Kiến giải vô lậu hễ đã được thì không mất, cũng nói là thường.
  2. Tịnh: Dứt bỏ sự nhơ bẩn của phiền não.
  3. Chân: không lẫn lộn luống dối.
  4. Thật: Thể dụng chẳng luống dối.
  5. Thiện: Tâm thanh tịnh thuần túy.
  6. Thấy phần ít: Tánh quả rõ ràng như thế.”

Đạo Tuệ ghi: Đáp câu hỏi đầu: “Nói Phật tánh này chẳng ở ba đời,

mà là thường. Các pháp khác thì thuộc ba đời.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đáp câu hỏi đầu: “Nói về Phật tánh dù danh nghĩa là một, nhưng ở quả chứng đắc là bảy, ở nhân là sáu, tức là không nhất định, đâu thể vì nghe nói dứt nhân ba đời, bèn chấp Phật tánh thuộc về ba đời, rồi cho là Vô thường, nêu lên câu hỏi nhất định?”

“Như trước đây ông hỏi: “Người dứt mất gốc lành” cho đến “Được gọi là có, đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xứng với câu hỏi thứ ba của Bồtát Ca-diếp, Đức Phật đáp hai câu hỏi về hữu, vô.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nay, nói người dứt gốc lành đều có các Tam-muội như trên và tánh Bồ-tát. Ý đáp: Ông hỏi: “Nếu có, thì không gọi là dứt gốc lành”. Ta nói: “Sẽ có gốc lành”, đâu được nói rằng, tất cả đều có Phật tánh?” ta nói “Vô”, là ở hiện tại, không thể được, vị lai sẽ có, đâu được dứt gốc lành? Hai chướng này ở vị lai, vì hiện tại có phiền não chướng, vị lai sẽ không mau được thành Phật, nên nói là “Vô”, chứ chẳng phải “Vô” mãi mãi, gọi là phân biệt đáp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại đáp câu hỏi thứ hai rằng: “Người dứt gốc lành cũng có Phật tánh của bảy thứ quả đầu, cũng có tánh của sáu thứ nhân duyên của thập trụ, là hai thứ Phật tánh. Vì che lấp vị lai, nên gọi là vô. Vì nhất định sẽ được, nên nói là có, chỉ vì hiện tại đang bị hoặc ngăn che, nên hai thứ Phật tánh không hiển hiện. Chữ “Bèn” là “Vô”, đâu được nói rằng, người dứt gốc lành không có Phật tánh ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Nói về hai thứ Phật tánh: Vì ở hiện tại không có, nên so sánh không ở đoạn. Vì đoạn riêng pháp lành khác, nên nghĩa Xiển-đề được thành. Vì sẽ “Có”, nên nói “đều có”.

“Phật tánh của Như Lai chẳng ở quá khứ, chẳng ở hiện tại” cho đến “Vì chưa thấy đủ, nên gọi là vị lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Gồm đáp câu hỏi đầu. Hỏi rằng: “Tánh có ba đời. Nay nói chẳng phải ba đời, không thể nói là có, tức thuộc về ba đời. Vì thấy được phần ít, nên gọi là hiện tại. Vì thấy phần ít nên gọi thân sau. Quá khứ chỉ có hai đời. Vì chưa thấy đủ nên gọi là vị lai, nghĩa là chưa thấy đủ, tức thấy phần ít. Thân Hữu học gọi là có quá khứ, vị lai, chứ chẳng phải Vô học.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Đáp câu hỏi trước là quá khứ, hay vị lai, hay hiện tại, hay khắp ba đời? Phải lần lượt đáp. Quả Phật chẳng phải ở ba đời, mà là “Duyên” tánh ba đời. “Duyên” thể của nhân vừa là nhân, vừa là quả, nên nói là Phật tánh. Vì nhân là ba đời, nên quả cũng là ba đời. Phật tánh của chánh quả chẳng phải ba đời, nên nói quả chẳng phải ba đời. Bồ-tát thân sau, nhân “Duyên” quán trí, tức là hạt giống Phật. Một niệm ban đầu này là hiện tại, chưa đầy đủ là vị lai, quá khứ không có. Trí quán của Thập trụ do nhân mà sinh. Vì Phật tánh của quán trí, nên cũng được gọi là Phật tánh. Phật tánh này vừa là pháp có nhân, vừa là pháp có quả, đều là ba đời. Vì chưa có Phật tánh của chánh quả, nên không được nói rằng, chẳng phải ba đời.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi đầu, hỏi rằng: “Nếu ba đời, thì tức là vô thường?” Nay đáp: “Tánh có nhân quả. Nếu tánh là quả thường, thì chẳng phải ba đời. Nếu là tánh nhân như Bồ-tát thân sau. Vì thấy ở phần ít, nên cũng được nói là hiện tại. Vì chưa hoàn toàn sáng rõ, nên cũng được nói là vị lai. Nói là nhân hiện tại, vị lai kia, nên nói là “Như vậy”. Thật ra chẳng phải ba đời, nếu khi đắc quả thì sẽ không được như vậy. Chính vì lúc ở nhân, chắc chắn sẽ thấy, nên về nghĩa, nói là sẽ thấy Phật tánh kia. Vì hiện tại thấy phần ít, tức là về nghĩa, nói là thấy, tức chẳng phải ba đời, đâu phải vô thường. Và đến năm thứ, nói về Xiển-đề, vì sẽ phải có, nên cũng được nói có. Mở đầu là phân biệt đáp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ nhất, nói Phật tánh chẳng phải ở trong ba đời, lại không thuộc về ba đời. Phật tánh của thân sau ở ba đời: Đây là nói về “Duyên” tánh nhân, vì hiện tại thấy phần ít, nên được gọi là hiện tại. Vị lai mới được đầy đủ, cũng gọi là vị lai.”

Đạo Tuệ ghi: Đây là giải thích câu hỏi thứ nhất, gồm giải thích câu hỏi thứ hai. Lại nói: “Đây chính là đáp câu hỏi thứ nhất”. Lại nói: “Đây là kiết hợp giải thích hai câu hỏi.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Vì sau đây, lẽ ra là đáp câu hỏi thứ hai, gồm giải thích về chỗ ở của tánh nhất định ban đầu, thuộc về ba đời: Tánh nhất định ban đầu kia ở nhân, không thuộc ở quả.”

“Đức Như Lai khi chưa chứng được Vô thượng Bồ-đề” cho đến “Quả cũng như vậy, đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Từ Học đến Vô học, nối nhau có hai thuyết, quả của Phật tánh cũng như vậy, nghĩa cũng thuộc ba đời.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu khi chưa được đạo quả Vô thượng, nếu là Phật tánh duyên nhân, thì đều thuộc về ba đời. “Quả”thì không phải như vậy, là tánh của quả Phật. Có ba đời là Thập trụ trở xuống, tánh “Duyên” nhân có khi chẳng phải Phật tánh của quả Phật, nhân Phật tánh của Bồ-tát thân sau cũng thuộc về ba đời. “Quả” cũng như vậy”: đây là tánh duyên nhân quả Thập trụ trở xuống, ý niệm trước là nhân, ý niệm sau là quả, cũng thuộc ba đời”.

“Phật tánh của Bồ-tát Cửu trụ có sáu thứ” cho đến “Quả cũng như vậy. Đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đã dứt kiết tập, hoặc thô đã diệt, nói thường không đồng thên sau là thường.

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đã hoàn toàn ở trong quán, không còn xuất nhập, nên gọi là thường. Bồ tát “Bát trụ trở xuống đến Lục trụ, cho đến vì chưa dứt tập khí kiến chấp, nên nói là vô thường. Vì không có phiền não của ba cõi, nên nói là Thiện.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cửu trụ, Thập trụ đều được gọi là thường. Nhưng Bát trụ trở xuống vì không được gọi là Thường, nên biết được sơ tâm của Bát địa lẽ ra cũng có quán xuất nhập. Trung nhẫn trở lên tuy không có, nhưng không được gọi là thường.”

“Phật tánh của Bồ-tát Ngũ trụ trở xuống đến Sơ Trụ, có năm việc” cho đến “Bốn là có thể thấy; năm là thiện bất thiện.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thiện, Bất Thiện: So với phiền não của ba cõi nên nói là bất thiện.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thiện là “Duyên” nhân, bất thiện là nhân của cảnh giới. Bậc Lục trụ dù có “Hoặc” sâu kín của cõi Vô sắc, là tác dụng của khổ nhẹ, nhưng vì rất ép ngặt tâm, nên không gọi là cảnh giới.”

“Này người thiện nam! Năm thứ Phật tánh này” cho đến “Nên được nói là có, đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên tương xứng với câu hỏi thứ ba, đáp cả câu hỏi thứ nhất, phân biệt rộng đã xong. Nay kiết lại câu hỏi thứ ba:

Bảy thứ, sáu thứ là “Duyên” nhân, xiển-đề hiện tại không có Phật tánh. Năm việc có bất thiện, dù là phiền não, nhưng chẳng dứt phiền não thiện, nên đối với xiển-đề cũng có Phật tánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đây đã nói về Phật tánh, người dứt gốc lành, vì có Phật tánh, nên nói là “Có”.”

“Hoặc có thuyết nói: Người dứt gốc lành chắc chắn có Phật tánh, chắc chắn không có Phật tánh, ở đây gọi là trí đáp (đáp bằng cách gác qua một bên).”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ tư, nói “Có” là “Có” ở vị lai, “Không có” là “Không có” ở hiện tại. Đáp thì dùng quyết định mà Phật tánh thì không nhất định. Nếu tạo ra thuyết nhất định mà người nghi không quyết định, thì không nên trí đáp. Nếu là thuyết không nhất định, mà nghi về quyết định, thì không cần đáp lại.

Đó gọi là trí đáp.”

Pháp sư Pháp Dao nói: Đây là “Đáp câu hỏi: “Vừa có, vừa dứt?” ở trước vì dứt gốc lành, thành ra không được nói nhất định “Có”. Có thể nói vừa có, vừa không , đây là nói về muôn điều lành là tánh “duyên” nhân.

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ ba. Ý đáp rằng: “Không thể nhất định nói có, không thể nhất định nói dứt. Nếu nói nhất định “Có”, nhất định “Không ”, thì đó gọi là trí đáp.”

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Con nghe nói rằng, không đáp” cho đến “Vì sao nguyên nhân đáp mà gọi là Trí đáp?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Như kinh khác chép: Không đáp gọi là trí đáp nên mới nêu câu hỏi.”

Này người thiện nam! Ta cũng không nói “Gác qua không đáp”, mới nói là trí đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói ít. Đáng lẽ nên nói rằng: Chẳng những nói gác qua không đáp, mới gọi là trí đáp, về nghĩa của lời đáp này sẽ được giải thích ở dưới.

Nầy người thiện nam! Đáp một cách yên lặng như vậy còn có hai cách” cho đến “Do nghĩa này nên được gọi là trí đáp.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:

  1. Không đáp, gọi “Trí”.
  2. Đáp mà gác lại, không đáp mà gác lại, nghĩa là đình chỉ các câu hỏi vô nghĩa. Đáp mà gác lại.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tự có không đáp cũng gọi là trí đáp, tự có đáp mà quở trách cho dừng, không giải thích cho họ rõ, cũng gọi trí đáp. Nay Phật dùng cách giải thích sau, nên nói rằng ngăn dứt, chớ chấp đắm.”

Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: “Ta cũng không nói gác qua mà không đáp; không đáp mới gọi là trí đáp”. Lại nói: “Cũng không nói không đáp là trí đáp. Lại nói cũng không nói gác qua mà không đáp, đó là gác qua là đáp: Một là vì ngăn dứt nên ngăn dứt chấp của ngoại đạo kia; hai là đừng chấp đắm, không cho ngoại đạo kia nhất định chấp đắm. Hai cách đáp gác lại đều có chung hai nghĩa này. Lại nói: “Ngăn dứt: Là nói trí đáp; đừng chấp đắm: Là im lặng trí đáp.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên chưa nói về thể của nhân, nay lại hỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại hỏi phát ra tướng, của thể, giúp cho người hiểu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở trên, đã giải thích quả Phật chẳng phải ba đời, nghĩa ấy mới rõ ràng, chỉ vì danh từ lẫn lộn với sinh tử, nên Bồ-tát Ca-diếp mới nêu lên câu hỏi, để làm sáng tỏ ý chỉ này.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Ở trên dù đã nói về tánh, từ nghĩa gồm thâu nhưng không gồm thâu nhân quả ba đời, nhưng không ngoài thể của ba đời. Nay, nêu câu hỏi để làm rõ.”

Phật nói: “Này người thiện nam! Năm ấm có hai thứ” cho đến “Cũng không phải quá khứ, hiện tại, vị lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:“Khắp” này là ở trong nhân, bắt đầu là nhân, Kim cương là quả, vẫn là hữu vi, không khỏi ba đời. Nói “Cũng chẳng phải”, nghĩa là quả Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quả và nhân đều thuộc ba đời. Năm ấm của ý nghĩ trước là nhân, năm ấm của ý nghĩ sau là quả, nên nhân, quả đều có ba đời chẳng phải ba đời, nghĩa là chỉ có tánh của quả Phật là riêng thoát.”

Pháp sư Trí Tú nói: Đây “Chính là đáp câu hỏi nếu là địa vị biến dịch, thì kèm theo ứng thân, nên đủ năm.”

“Này người thiện nam! Tất cả các kiết sử phiền não vô minh” cho đến “Phật tánh của Như Lai giống như đề hồ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh của chánh nhân. Ở trên đã nói Phật tánh của Phật và Thập địa khác nhau, chưa nói về Phật tánh của phàm phu. Nay từ phàm phu đến địa vị Phật, lại dùng thuyết ví dụ để giải thích về tính chất tinh tế, thô cạn của Phật tánh kia. Được năm ấm thiện là hữu lậu thiện của tánh duyên nhân. Tu-đà-hoàn trở lên, là nói về vô lậu có tinh tế, thô cạn, là từ chánh nhân sinh ra.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở đây nói về tánh của chánh nhân. Nói thần minh này có công năng sinh ra năm ấm thiện, cho đến Bồ-đề, vì chúng sinh như huyết tạp nhạp, vì có phiền não ở thể. Như chúng sinh đều do tinh huyết mà thành. Nói dù có Phật tánh, nhưng phải thực hành muôn điều lành, mới được thành Phật. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm đồng dứt tư duy cõi Dục chưa hết, vì có một ít pháp lành, Phật tánh như sữa. Na-hàm dứt hết “Hoặc” cõi Dục, ví như lạc. La-hán dứt hết “Hoặc” ba cõi, ví như bơ sống, Duyên giác đến Bồ-tát Thập địa dứt hết “Hoặc” ngoài ba cõi, như bơ chín, Phật như đề hồ.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phân biệt hai câu hỏi đã xong. Lại gồm thâu tất cả muôn pháp, tử vô minh…, chẳng có pháp nào không phải Phật tánh, hoặc chánh nhân, hoặc duyên nhân của cảnh giới, đều tùy nghĩa đã nhận lấy. Vì đều có công năng giúp cho quả, cho nên là Phật tánh.

Nói chung đã xong, vì muốn cho ý chỉ của Phật tánh không bỏ sót nên vẫn nói bao gồm cả phàm phu, giúp cho mọi việc đều được tường tận. Vì lẽ đó, nên nói về Phật tánh của chúng sinh, như sữa pha lẫn với máu, nghĩa thiện, ác chưa phân, nên nói lẫn lộn. Cho đến các cấp Phật tánh của chúng sinh đều khác nhau, như văn đã nói.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Ở trên chỉ nói về Bồ-tát, không nói phàm phu và các Tiểu thánh, lại tuy nói về Phật tánh có thể được, vì y theo trong nhân, mọi người nói là khác nhau, nhưng chưa giải thích lý do, nên trong đây đều giải thích rõ ràng, nói các pháp trong nhân đều có nghĩa để được, đây là điểm khác nhau.”

“Này người thiện nam! Phiền não hiện tại” cho đến “Người dứt gốc lành có Phật tánh hay không?”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người dứt gốc lành có Phật tánh hay không?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rộng về trí đáp ở trên. Vị lai chưa khởi, Xiển-đề không nên nói là có Phật tánh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Câu hỏi vẫn chấp hữu vi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về nghĩa, ý chỉ sinh trở lại của kiết cõi Dục, chướng thô, nên Bồ-tát Ca-diếp lại nêu lên câu hỏi này.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Bồ-tát Ca-diếp vì cũng chưa thông suốt, cho nên có câu hỏi.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Như các chúng sinh” cho đến “Nhờ nhân duyên năng lực Phật tánh, nên gốc lành sẽ được sinh trở lại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phàm “Có”, nghĩa là có ba đời. Chúng sinh là giả gọi của sự nối nhau, gom ba đời thành một “Hữu”, đều thuộc ba đời. Không bao giờ sinh ra quả, nghĩa là nói chưa đến nỗi vô dụng. Có ba công dụng khác nhau, hiện đang có thì năng đoạn chưa có sẽ sinh, nên nói “Nhất định là không ”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Có nghiệp quá khứ, đã có quả ở hiện tại. Nghiệp vị lai vì chưa khởi, nên không thể có quả. Phật tánh mới chẳng ở ba đời, mà vì hiện đang có phiền não nên nghiệp lành sẽ không có. Vì không thấy Phật tánh, nên về nghĩa nói là dứt. Do nhân duyên Phật tánh ở vị lai, nên được sinh gốc lành trở lại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nay Phật lại dùng ví dụ để nói, như chúng sinh vì có nghiệp quá khứ, nên vời lấy quả hiện tại. Dù có vị lai, nhưng vì nghiệp chưa có, nên không thể sinh quả. Dù quả chưa sinh nhưng vì nhân duyên phiền não hiện tại, nên sẽ dứt gốc lành. Do năng lực nhân duyên của nghiệp lành ở vị lai, nên sẽ sinh trở lại.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đức Phật y cứ vào nghiệp để nói về nghĩa: Hễ có nghiệp thì được quả, có chúng sinh thì sẽ được quả vị Phật, nên nói có Phật tánh”.

Bồ tát ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Vị lai làm sao có thể sinh gốc lành?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói chưa sinh thì sẽ không có quả. Nay hỏi về nghĩa “Sinh” đó.”

Đạo Tuệ ghi: “Ý hỏi: “Vì vị lai không có pháp lành, thì làm sao sinh ra pháp lành?”

“Này người thiện nam! Giống như ngọn đèn và mặt trời” cho đến “Cũng giống như vậy, đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp khởi gọi sinh. Tánh mặt trời là sáng. Dù rằng chưa mọc nhưng bản chất nó không tối tăm, gọi là xua tan bóng tối. Tánh thiện, ác, tự trái nhau. Hễ thiện sinh thì ác diệt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người này nhờ pháp lành ở quá khứ làm nhân, Thiện tri thức ở hiện tại làm duyên có công năng dứt ác sinh thiện.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Mặt trời dù chưa xuất hiện, nhưng tánh có công năng xua tan bóng tối. Phật tánh ở vị lai, có công năng sinh ra gốc lành. Người kia như ví dụ này, là ví dụ phần ít, là tin tức tốt, hãy nên nhận lấy.”

Bồ tát ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Phật tánh của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rộng về phân biệt để giải đáp ở trên, do chấp nghiêng lệch sinh ra tranh luận. Cuối cùng dứt gốc lành, phân biệt Trung đạo, bỏ chấp nghiêng lệch. Ở đây, đều đáp lại nghĩa của thuyết không nhất định.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Sắc ấm là ngoài, bốn ấm là trong, tánh của “Duyên” nhân. Phật tánh chánh nhân chẳng phải sắc, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Từ trước đến nay, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, là nghĩa Trung đạo. Cho nên nêu câu hỏi này.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần ba của đoạn lớn. Nếu nói được ý chỉ, thì không cần nói lại, cũng như vì người chưa hiểu, nên phải như vậy. Y theo “Sinh lại” của lời giải thích trên, để nói Phật tánh thuộc về ba đời, thành Phật ở tương lai, vì phải tu điều lành, mới được thành Phật. Từ quán Trung đạo dưới đây, là vì kế là nói về Trung đạo này, gồm có bảy đoạn:

  1. Hợp dụng nói Trung đạo.
  2. Chẳng phải có, chẳng phải không, để giải thích thành trong, ngoài, để nói về Trung đạo.
  3. Mượn sữa, lạc để quở trách chấp, để nói về Trung đạo.
  4. Nói Như Lai có tùy tự ý ngữ, nói đối tượng hiểu biết của Như Lai, khác với phàm phu, chính là dùng bất thiện, để giải thích nhân quả của các pháp, tùy chúng sinh mà nói, đâu nên theo lời nói mà sinh chấp đắm ư?
  5. Nói mượn bảy thứ ngữ để quở trách chấp đắm: Có nhân ngữ, quả ngữ. Tự nói có quả trong nhân, tự nói có nhân trong quả, sao lại sinh chấp các ngữ này?
  6. Trở lại nhân quả nhất định, nói lúc có quả không có nhân, khi có nhân thì đâu thể đã có quả?
  7. Mượn bảy hạng người làm ví dụ để giải thích, sao lại cho rằng, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, nghĩa là hỏi câu đáp trước của Phật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là đoạn lớn thứ hai, nói về quả Phật của Trung đạo. Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Phẩm Sư tử Hống ở trên đã nói quả chẳng phải “Đã” “Có” trong chánh nhân, cũng chẳng phải “Duyên” “Đã có” trong nhân. Nhưng vì không lìa năm ấm mà có, nên nói chẳng phải trong, chẳng phải ngoài”. Nay, trong đây nói tất cả pháp thiện, ác đều là Phật tánh. Vì e rằng, tâm người mê hoặc, nên Bồ-tát Ca-diếp nhận lầm, tức nắm lấy ngữ trên để hỏi: “Nếu tất cả pháp đều là Phật tánh, thì ở đây chẳng có một pháp nào không phải, vì sao ở trên lại nói “Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Ở trên đã nói “Tánh dương lai là cái “Có” của chúng sinh”. Lại nói: “Tức là năm ấm, e rằng tâm chúng sinh chấp nghiêng lệch, sử dụng trái lý”. Đây là đoạn lớn thứ ba, vì dứt trừ chấp mê hoặc, nên nói về Trung đạo, để làm sáng tỏ tánh của quả đương lai, chẳng phải có, không, lìa trong ngoài. Có ba phần:

  1. Từ đây đến cuối ba thứ, chính là làm sáng tỏ tánh Trung đạo: Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, lìa hữu, vô.
  2. Ở cuối ví dụ sông Hằng, sau cùng “Tùy ý ngữ”. Nêu như ý ngữ để được tùy duyên, nói thành nhiều thứ, huống chi nói Phật tánh mà không thể chấp nhất định ư?
  3. Phân biệt sự khác nhau giữa hư không và Phật tánh.

“Phật nói: Này người thiện nam! Vì sao” cho đến “Phật tánh của chúng sinh là trung đạo ư”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Rằng, trước đây ông đã hiểu, hiểu rồi thì không nên hỏi nữa, mà nay lại hỏi, tức là mất đi kiến giải!”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chỉ ra phẩm Sư tử Hống ở trước đã xong, nói rộng về Trung đạo, nay không nên hỏi lại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý Phật trong đây rằng: “Lời ta nói, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, là tánh của quả chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, đó là Trung đạo, sao tự nhiên ông quên mất ý đó mà nêu câu hỏi này?”

Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Đàm Ái rằng: “Ở trên Phật đã nói năm ấm bất thiện, năm ấm thiện đều là Phật tánh, nên Bồ-tát Ca-diếp lại hỏi: “Nếu cho năm ấm là Phật tánh, thì sao Phật lại nói chẳng phải trong, chẳng phải ngoài ư?

“Vì muốn giải thích rộng hai thứ Trung đạo trong ngoài, hữu, vô.”

Đạo Tuệ ghi: Bậc Thánh nói lý Trung đạo không nhất định. Đã không thể chấp cố định, sao chúng sinh lại tạo nên chấp nhất định ư? Vì muốn chúng sinh sớm từ bỏ mọi chấp đắm, hầu được hội nhập Trung đạo, nên mới nêu lên câu hỏi này!”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thật ra con không quên” cho đến “Vì không thể hiểu được, nên mới nêu câu hỏi này”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp tiếp nối ý chỉ của Phật, vẫn quét sạch dấu vết”.

“Này người thiện nam! Chúng sinh không hiểu, tức là Trung đạo. Đôi khi có người hiểu, đôi khi có người không hiểu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói tất cả pháp đều là Trung đạo, không nên chấp nghiêng lệch.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chúng sinh không hiểu, tức là Trung đạo. Nghĩa là không hiểu tức mê lầm (hoặc). Lúc mê lầm thì không hiểu biết, đây là “Chẳng phải trong”. Khi hiểu hết rồi thì không còn mê lầm, đây là “Chẳng phải ngoài”, nên nói tức là Trung đạo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Cho rằng chúng sinh không hiểu, vì không có tự tánh, kế là ở dưới đây nói: “Đôi khi hiểu, đôi khi không hiểu. Hiểu và không hiểu cả hai đều từ duyên. Chúng sinh cũng từ duyên, tướng và vô tánh đều là Trung đạo, chỉ giúp sao cho không chấp, dễ hiểu, không hiểu kia đều là không thật. Nếu không như vậy, thì tức là chấp nghiêng lệch.”

Đạo Tuệ ghi: chúa văn Trung đạo thành tám đoạn:

  1. Nói trong, ngoài Trung đạo.
  2. Nói về “Có”.
  3. Bỏ chấp.
  4. Chỉ rõ ba thứ ngữ, cũng là bỏ chấp.
  5. Nói về bảy thứ ngữ.
  6. Phân biệt nhân quả nhất định.
  7. Dùng bảy hạng người để ví dụ chung về nhân quả.
  8. Nghiêng về quả làm ví dụ.

Đoạn thứ nhất này nói về trong, ngoài, trung đạo.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Bồ-tát Ca-diếp đã bày tỏ ý chấp của chúng sinh, ý vì chúng sinh, dưới đây, Đức Phật sẽ chỉ bày rộng, rõ ràng về Trung đạo.”

“Này người thiện nam! Ta vì chúng sinh mà mở bày hiểu biết, nên nói rằng: Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hai thứ dưới đây nói về Trung đạo. Sau đây là thứ nhất, trước nói Trung đạo chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, để phá chấp của người. Sau là thứ hai, mượn sáu thứ nhân duyên: Hư không, sừng thỏ…, nói về Trung đạo: “Chẳng phải hữu, chẳng phải vô”.

“Vì sao phàm phu chúng sinh, hoặc nói Phật tánh” cho đến “Lìa ấm mà có Phật tánh, giống như hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu lên chấp khác, sơ lược có hai thứ:

  1. Quả trong đồ đựng: Dù đồ đựng không có quả, mà tánh ở trong ấm, lìa ấm thì vô.
  2. Như hư không: Phật tánh là thường, năm ấm vô thường, như tánh hư không chẳng thuộc về năm ấm.”

“Cho nên Như Lai nói nghĩa Trung đạo” cho đến “Nên gọi là Trung đạo, đây là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thường là tánh của quả, vô thường là tánh của nhân, cả hai đều là tánh không nghiêng lệch, gọi là Trung.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Điều mà phàm phu chấp, về lý thì không đúng với lý Phật tánh, lý chẳng phải trong ngoài. Trước nêu sáu nhập, để làm rõ nghĩa. Nếu chỉ nói trong, cả hai đều không thích hợp thì nay, nói rằng Phật tánh phải trong, ngoài hợp dùng, tức có chánh nhân, tức có nhân cảnh giới, không lìa nhân này mà thành, nên y cứ vào công đức hợp dụng để làm Trung đạo.”

Y cứ vào phần nói về hợp dụng có năm lượt, đây là lượt thứ nhất.

“Lại nữa, này người thiện nam! Thế nào gọi là chẳng phải trong, chẳng phải ngoài” cho đến “Đó gọi là phân biệt đáp.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ hai, y cứ vào duyên, nhân để nói về hợp dụng.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Có người nói rằng Phật tánh” cho đến “Cũng gọi trong, ngoài, đó gọi là Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ ba y cứ chân ứng trong quả, để nói về hợp dụng.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Hoặc có thuyết nói” cho đến “Vừa trong, vừa ngoài, đó gọi là Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ tư, y cứ vào văn tuệ, tư tuệ để nói về hợp dụng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Lại có thuyết nói” cho đến “Vừa trong, vừa ngoài, đó gọi là Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lượt thứ năm, lược nêu hạnh để nói về hợp dụng, với đại ý vì chỉ rõ nhân quả chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Chi lưu có năm lượt này, để nói về hợp dụng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Hoặc có thuyết nói” cho đến “Vừa trong, vừa ngoài, đó gọi là Trung đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Ngọc báu vì thường hiện là trong, kho vàng vì không hiện là ngoài.”

“Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh chẳng phải có, chẳng phải vô” cho đến “Phật tánh chúng sinh chẳng phải có, chẳng phải vô.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Về Trung đạo hữu, vô nối nhau. Hư không đối với người chẳng thể thấy có thường, chẳng thể thấy nhất định có. Phật tánh cũng chẳng thể thấy có, chẳng phải thường, chẳng thể thấy không nhất định có. Hữu chẳng đồng với không, là hữu Trung đạo. Sừng thỏ đối với người là vô, nhất định vô. Phật tánh đối với người là vô nhất định vô, là vô Trung đạo.”

Chẳng phải hữu, chẳng phải vô, là chẳng phải cái “Có” của hư không, chẳng phải vô của sừng thỏ. Cũng có là sẽ có, cũng vô là hiện vô.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần hai, dùng chẳng phải có, chẳng phải không để giải thích trong, ngoài ý nói sở dĩ như thế là vì chẳng phải có nên chẳng phải trong. Chính vì chẳng phải vô, nên chẳng phải ngoài. Phật tánh dù có, nhưng chẳng phải như hư không, là nói vì thể của hư không là vô, nên thấy ở người có dụng. Phật tánh dù thấy vô mà sẽ phải có, chẳng đồng với không, vì vô nên khác với sừng thỏ: Nói sừng thỏ là mãi mãi không có. Tánh này chẳng phải mãi mãi không có, cho nên không đồng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ngoại đạo chấp hư không là pháp có tánh nhất định. Nhưng Phật tánh dù có, mà là cái có của “Sẽ có”, khác với “Cái có” mà ngoại đạo chấp. Lại, khác với cái “Không” của sừng thỏ. Sừng thỏ tất nhiên không sinh, Phật tánh có khả năng sinh, đâu được đồng với cái mãi mãi “Không có” này.”

Đạo Tuệ ghi: Nói về hư không ở hiện tại dù có, nhưng hư không chẳng bao giờ thể nhìn thấy, mà “Cái có” của Phật tánh có thể dùng mắt tâm, để nhìn thấy rõ ràng. Trong tức là “Có”, ngoài tức là vô, vì chẳng trong, nên chẳng phải có, vì chẳng phải ngoài, nên chẳng phải không, cho nên là Trung đạo hữu, vô.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lượt thứ hai, mượn sáu nhân duyên để giải thích Trung đạo chẳng phải có, chẳng phải không. Đây là nhân duyên thứ nhất.”

“Này người thiện nam! Nếu có người hỏi: “Trong hạt giống này” cho đến “Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng ví dụ để chỉ bày ý chỉ của Phật tánh. Thời gian có khác nhưng thể của Phật tánh vẫn là một. Hoa quả là phần của cây mà cây là phần của hữu”. Về phần của cây thì khác nhau về thời gian, còn phần của có thì thể là một. Thể một thì “Có”, thời gian khác nhau thì “Không”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói về các pháp chẳng phải trước “Có”, “Không”, huống chi Phật tánh chánh nhân chẳng phải “Có”, “Không”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ngoại đạo chấp rằng: “Năng lực bốn đại bên ngoài mạnh, có thể nuôi lớn bốn đại bên trong, mà năng lực bốn đại bên trong yếu, không thể nuôi lớn bốn đại bên ngoài. Nay Phật nói “Không” như vậy là “Không” năng lực bốn đại bên ngoài, có thể chỉ nuôi lớn bốn đại bên trong. Vì sao? Vì như hột lúa là bên trong, đất, nước… là bên ngoài. Nếu nói vì sức mạnh có thể nuôi lớn, thì vì sao nước, đất và hạt lúa không đều mọc ngay mà phải đợi thời gian sau mới mọc? Thật ra không phải như vậy, phải biết rằng, trước có hột lúa làm chánh nhân, sau có nước, đất… làm “Duyên nhân”, nên theo thứ lớp được sinh, đâu tiếp nhận trực tiếp năng lực bốn đại bên ngoài, có thể nuôi lớn cho bốn đại bên trong được ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: Đây là “Nhân duyên thứ hai, nhờ giải thích hạt giống để nói về lý. Vì sao? Vì lấy ý trái nghịch ở dưới để chế phục câu hỏi, nói dù là quả, nhưng không “Tức” hột mà có quả, tất nhiên quan hệ với hột. Dù thời gian trước, sau mà đầu cuối được thành, không khác với một giả, nên được nói là hột có từ quả.”

“Nếu nói rằng trong chúng sinh có Phật tánh” cho đến “Chắc chắn đáp rằng: “Vừa sinh, vừa bất sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã giải thích Trung đạo xong, nay nêu Phật tánh để nói trái với Trung đạo: Có tịnh, bất tịnh, nghĩa là giải thích Học và Vô học nối nhau là một. Bất tịnh gọi là Học, gọi là chúng sinh. Tịnh gọi là Vô học, gọi là Phật, đâu chấp nhận trong học, có Vô học riêng ư? Nên nhất định nói rằng, vừa sinh, vừa không sinh, ý chỉ của Trung đạo đã rõ ràng, kiết khuyên làm cho chúng sinh biết được yếu chỉ của lời đáp nhất định.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lại giải thích một câu hỏi. “Duyên” nghe thuyết trên đã nói và chế phục câu hỏi, bèn sinh chấp rằng: “Có riêng pháp quả đã ở trong nhân. Nay, nói chúng sinh tức là, không khác với giả để nói chúng sinh sẽ được thành Phật, nên nói “Tức là”, dùng nghĩa mà suy ra, không được có pháp quả riêng đã ở trong nhân.”

 

Phần 5

  • Nói rộng về nhân quả của Trung đạo sinh nhau, nêu sữa lạc làm ví dụ.
  • Nói rộng về bảy thứ ngữ: Nhân ngữ, quả ngữ v.v… .
  • Nêu ví dụ bảy loại chúng sinh ở sông Hằng.
  • Giải thích về thường xuyên mai một bậc nhất, cái gọi là Nhấtxiển-đề.
  • Giải thích thứ hai, xuất hiện rồi biến mất, nói là lòng Tín không đầy đủ v.v….
  • Giải thích thứ ba, xuất định rồi thì trụ, nghĩa là nghe pháp suy nghĩ, như pháp mà trụ….
  • Giải thích thứ tư, xuất định để quán khắp bốn phương. Giải thích rộng mười sáu hạnh của Noãn, Đảnh, Nhẫn.
  • Giải thích phiền não mà Tu-đà-hoàn đã dứt, giống như bốn mươi dặm đường sông, số nước còn tồn tại như một giọt trên đầu sợi lông, cho đến ví dụ vật ngậm, giữ chặt v.v… .
  • Giải thích thứ năm, quán khắp công hạnh mình, tức Tư-đà-hàm.

“Bạch Đức Thế tôn! Như người đời nói: “Trong sữa có lạc”, nghĩa này thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu riêng chấp nghiêng lệch, là năm dục mà người đời nói, che lấp lỗi lầm của họ.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Sau đây là nhân duyên thứ ba, nêu thuyết mà người đời nói: “Trong nhân có quả, nên có công năng sinh ra quả”. Thưa hỏi Phật để xin Phật giải thích.”

Đạo Tuệ ghi: Như trong phẩm Sư tử Hống ở trước cũng nêu lên câu hỏi “Đã có” ở trước. Trong phẩm này dẫn ra vì muốn Phật nói rộng về lý “Chẳng phải có”, “Chẳng phải không”.

“Này người thiện nam! Có thuyết nói: “Trong sữa có lạc” cho đến “Nếu nói trong sữa không có lạc, thì đó là luống dối.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có lỗi chấp sớm”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba, mượn ví dụ để quở trách chấp: “Nếu nói “Đã có” tức là chấp đắm, tức là thường kiến. Nếu nói: “Không có”, thì lại là nói dối.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Phật dùng hai lần “Lại nữa” để lý giải về câu nói này. Một lần “lại nữa” đầu, trước phá luống dối, một lần “Lại nữa”sau lập ra câu hỏi, chất vấn ngược lại: “Nếu sữa, lạc là một, thì sao chất lạc không có ra trước.”

“Lìa hai việc này, lẽ ra nhất định nói” cho đến “Sữa sinh ra bệnh lạnh, lạc sinh ra bệnh nóng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lúc nhân thì không có quả, nên nói cũng không có. Vì chắc chắn sẽ sinh ra quả, nên nói “Cũng có”. Vị sắc khác, nghĩa là sữa trắng mà ngọt, lạc vàng mà chua.”

“Này người thiện nam! Nếu nói trong sữa có tánh lạc” cho đến “Trước không có nay có là pháp vô thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhà chấp thường, nói trong nhân có quả, lỗi ấy khác nhau: Một là cho rằng trong sữa có lạc, vì nhỏ nhiệm nên không thể thấy. Như trong chậu đựng có quả mà quả khác với chậu đựng; hai là cho rằng sữa tức là lạc, lạc tức là sữa, chỉ gọi tùy thời gian đổi thay, vì thể thường duy nhất, nên nói: Về danh từ có trước sau, thật ra không có khác nhau.”

Đạo Tuệ ghi: Nếu cả năm vị có cùng lúc thì cái gì tạo ra thứ lớp? Sữa có trước, kế là lạc, cho đến đề hồ ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Chưa thấy nghe có lạc ở trước sữa, thì phải là đồng thời, nghĩa là sữa có vì sao không ở sau, lạc không ở trước? Nên biết khi có sữa, thì không có lạc.”

“Này người thiện nam! Hoặc có thuyết nói sữa có tánh lạc” cho đến “Vì tâm không bằng nhau, nên gọi là luống dối.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nước sinh từ nước, nghĩa là nếu ông vì thấy từ sữa sinh ra lạc, không từ nước sinh, chứng tỏ sữa có tánh lạc”, đây chẳng phải bằng chứng. Vì sao? Vì sữa là nhân gần, lạc là nhân xa, không thấy gần, không thấy xa, thật ra cả hai đều là nhân, mà nói một có, một không, thì tâm này không bình đẳng.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là nhân duyên thứ tư, lấy ý chấp của người khác kia. Người kia nói: “Sở dĩ biết sữa đã có tánh lạc, là vì có khả năng sinh ra lạc, như nước vì không có lạc, nên không sinh ra lạc được.”

Trong đây có bốn lần “Lại nữa” để phá:

  1. Trách làm cho trong cỏ cũng có sữa, nêu lên câu hỏi tất nhiên không bình đẳng.
  2. Trách làm cho trong lạc có lỗi sinh ra sữa.
  3. Dẫn kinh làm chứng.
  4. Nêu bốn nhân hòa hợp, nên sinh nhãn thức, chính là nói nhân có lý sinh ra quả, đây là câu hỏi thứ nhất.”

“Này người thiện nam! Nếu nói trong sữa chắc chắn có lạc” cho đến “Chẳng có tánh lạc, chẳng phải không có tánh lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu hai tính chất sữa, lạc là một, thì lẽ ra nên làm nhân quả lẫn nhau?” Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là đồng thời trách. Nếu khiến cho trong nhân có quả: Là trong quả lẽ ra cũng có nhân.

Pháp sư Trí Tú nói: Đây là “Câu hỏi thứ hai, đã nói một lúc có thì đồng có.”

“Này người thiện nam! Cho nên Như Lai ở trong kinh này” cho đến “Lẽ ra nói là Phật tánh của chúng sinh cũng không.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ ba là dẫn kinh làm chứng, để làm sáng tỏ Trung đạo.”

“Này người thiện nam! Do bốn việc hòa hợp sinh ra nhãn thức” cho đến “Tánh lạc trong sữa cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba trong bốn việc hòa hợp này là sắc tánh duy thức, còn một việc chẳng phải là tánh chất sắc. Đã khác với tánh chất nhân quả, nên lấy đây để chứng minh là không có.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại nêu ví dụ để hiển bày nói trong nhân “Không có”. Như bốn việc hòa hợp, nên sinh thức. Y cứ vào ánh sáng của hư không để tìm thức, làm sao được ư?”

Pháp sư Trí Tú nói: “Thứ tư, chính là nói nhân có lý sinh ra quả.”

Hoặc có thuyết nói: “Nước không có tánh lạc” cho đến “Từ bốn việc này sẽ sinh ra nhĩ thức.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân có xa gần, gần gọi là chánh nhân, xa gọi là duyên nhân. Duyên nhân thì đồng, chánh nhân thì khác, nên nói nhân khác quả khác.”

Pháp sư Trí Tú nói: Đây là “Nhân duyên thứ năm. Nêu trong pháp nhân khác không có quả, để chứng minh trong sữa có tánh lạc. Dùng ba lần “Lại nữa” để phá. Đầu tiên nêu nhân khác, quả khác, để nói do chánh nhân, nên lạc từ sữa mà có, không từ nước sinh. Lại nêu sinh thức và cách lấy bơ, để hình thành lạc từ sữa mà có, không thể dựa vào nước.

Thứ hai, dẫn kinh làm chứng. Thứ ba, là nêu tánh của lạc là chua, chỉ rõ trong nhân vốn không có tánh của quả lạc.”

“Này người thiện nam! Lìa phương tiện trong sữa được lạc” cho đến “Lẽ ra cũng lìa phương tiện như vậy mà được.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lìa, nghĩa là nhiều phương tiện. Như nhỏ một giọt nước cất vừa tìm được trong cây vào sữa, liền trở thành lạc, mà bơ sống cũng giống như vậy. Phải cần có năm duyên, nên biết rằng, pháp sinh khác nhau. Lẽ ra cũng lìa phương tiện, nghĩa là lẽ ra cũng lìa nhiều phương tiện.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Vẫn là một việc trong lần “Lại nữa” thứ nhất, giúp cho thành câu hỏi.”

“Này người thiện nam! Vì cho nên ta nói trong kinh này” cho đến “Nên pháp có, nhân diệt nên pháp không.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Lại nữa lần thứ hai, dẫn kinh làm chứng.”

“Này người thiện nam! Như tánh muối là mặn, làm cho vật chẳng phải mặn” cho đến “Do các duyên khác mà thành mặn.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Lại “Chứng minh là không có tánh.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lại nữa” lần thứ ba, trực tiếp nói lên không có quả trong nhân.”

“Nếu nói, tất cả vật không mặn” cho đến “Vật không mặn cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì ý sinh bên ngoài, đáp câu hỏi ở trên, nghĩa là vật không mặn, dù rằng vì tánh chất mặn quá ít, nên không biết. Tìm chất mặn bên ngoài để phát ra.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đều có tánh chất mặn của muối. Nếu nói rằng vật không mặn, vì có tánh mặn, nên phải làm cho chất mặn được phát ra. Nay thấy vật không mặn để vào vật thể mặn, vị nó đúng ra là được, mà trong muối cũng có quá ít tánh chất không mặn? Nếu vậy, mặn và không mặn đều có hai tánh. Vì sao lúc không hợp, không thể dùng riêng? Nên biết rằng các pháp không có quả trước.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Nhân duyên thứ sáu, dùng ba lần “Lại nữa” để phá:

  1. Quở trách đều có hai tánh.
  2. Do cố chấp của ngoại đạo rằng, trong nhân chẳng phải không có thể của quả, nhưng phải nhờ bốn đại bên ngoài mới được lớn lên, nên vẫn hỏi vặn lại để quở trách. Nếu “Có” trước thì không nên theo thứ lớp.
  3. Lại, nêu quả Thi-lợi-sa, để chứng minh rằng, trong nhân trước không có quả, đây là thứ nhất.

“Nếu nói rằng năng lực của bốn đại chủng bên ngoài thêm lớn” cho đến “Bốn đại cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu năm vị theo thứ lớp đã có, thì không nên giả nói tất cả pháp đều nhờ bên ngoài.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lại nữa” lần thứ hai, quở trách trái lại, không nên theo thứ lớp.”

Nếu nói từ bốn đại bên ngoài làm bốn đại bên trong thêm lớn” cho đến “Không do bốn đại bên ngoài mà được thêm lớn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Năng lực của bốn đại đồng đều, tự chúng đã có năng lực lớn lên. Trong không làm cho bên ngoài lớn lên, ngoài không làm cho bên trong lớn lên.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đều là nghĩa ấy, nếu nói pháp ngoài có trong thì nay không thấy bên trong làm cho bên ngoài thêm lớn.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Lại nữa” lần thứ ba, Lại nêu quả Thi-lợi-sa để chứng minh ý chỉ trong nhân trước đó không có quả.”

“Này người thiện nam! Như mười hai bộ kinh mà ta đã nói” cho đến “Các kinh như vậy, đều gọi là tùy tự ý nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp tướng mà kinh giáo nói vốn tuyên dương ý Phật, ở trên đã dùng để nói về pháp không nhất định, ở đây nói ý Phật không nhất định.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đoạn thứ tư, nói Như Lai khéo biết pháp tướng, có thể tùy tự ý ngữ của mình, như vì cõi Dục, nói cha mẹ sinh ra thân, không nói là do vô minh, đâu thể tiếp nối lời nói này của Phật mà chấp đắm?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn thứ ba là quở trách chấp đắm, nói về lời Phật rộng khắp, không nên chấp nghiêng lệch, khuyên người học chớ ôm ấp cái không thật.”

Nói tùy tự ý ngữ, Phật, là người biết pháp, thích hợp với pháp tướng mà nói.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Dưới đây là đoạn hai, lại mượn một như ý ngữ tùy duyên, được vì nhiều thứ mà nói, huống chi làm sáng tỏ Trung đạo Phật tánh, đâu thể chấp nghiêng lệch được ư? Có bốn lượt:

  1. Chính là mượn lời nói không nhất định để nói về tánh không nhất định.
  2. Nói về Phật tánh, cũng được tạo ra hữu, vô.
  3. Nêu sông Hằng làm thí dụ.
  4. Phân biệt được, mất.

Đạo Tuệ ghi: Trên đã nói Trung đạo trong, ngoài, lý Trung đạo hữu, vô không thể chấp nhất định đã xong, nay lại nói về thuyết Phật nói không nhất định, hoặc theo ý mình, hoặc theo ý người, làm sao chấp nhất định được ư?”

“Thế nào gọi là tùy ý người mà nói” cho đến “Lành thay! Trưởng giả! Đây gọi là tùy ý người mà nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ý Phật không ác, gọi là tùy ý người khác.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đối với thế gian mà nói, Đức Phật cũng tùy từng thuyết mà đặt tên, gọi là “Tùy tự tha”.

“Nếu chẳng phải lý này, mà nói cho người, thì đó gọi là “Tùy tha”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nên giải thích về căn cơ của người chẳng phải thuyết rốt ráo, gọi là tùy lời nói của người.”

“Thế nào gọi là tùy mình, người mà nói?” cho đến “Nói không có việc đó. Đó gọi là tùy tự tha mà nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tùy thuyết mà người trí ba đời nói không trái nhau.”

“Này người thiện nam! Như ta đã nói Bồ-tát Thập Trụ” cho đến “Đó gọi là tùy ý mình, người mà nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân gần thì dễ thấy, còn nhân xa thì khó biết, vì tự thấy, không thấy chúng sinh, nên gọi là ít thấy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thập địa đối với Phật, không gọi là thấy. Vì tùy ý, nên nói là ít thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong phẩm Sư tử Hống đã có hai, ba chỗ giải thích, so sánh nghĩa này.”

“Này người thiện nam! Đôi khi Như Lai vì một pháp” cho đến “Nhưng vẫn không lìa ấm, giới, nhập.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một pháp thì một nhân, vô lượng pháp có vô lượng nhân. Nói là được căn bản của pháp đó, tức là một gồm thâu vô lượng. Do Thiện tri thức là nói về lòng tin là đã gồm thâu hết. Bồ-đề có hai nhân: Một là nghe người nói pháp, tức là Thiện tri thức; hai là nội tự tư duy, tức lấy lòng tin làm gốc. Không lìa ấm, giới, nhập. Nghĩa là ba pháp này gồm thâu hết các pháp ở đây.”

“Này người thiện nam! Như Lai nói pháp vì chúng sinh” cho đến

“Đó gọi là Như ý ngữ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Như ý ngữ, là khổ không như ý, vui như ý. Chúng sinh chán khổ, muốn cầu như ý. Đức Phật ứng theo căn cơ nói là bảy, mục đích làm sao cho các chúng sinh đều được an vui. Bảy thứ ngữ đều như ý, mà ngữ thứ bảy được tên riêng của mình. Nếu thích ứng với căn cơ nói bảy thì thuyết không được nhất định. Không nên nói là ngữ, nghĩa là pháp không có lý này, không nên nói mà nói, chỉ vì muốn cho chúng sinh bỏ việc ác, làm điều lành.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn năm, là quở trách chấp đắm. Nghĩa là có lúc nói quả trong nhân, đôi khi lại nói nhân trong quả, đâu thể theo lời nói này mà sinh chấp ư?”

“Nhân quả ngữ, nghĩa là từ nghiệp quá khứ sinh, cũng có khả năng tạo ra quả vị lai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong văn, tự giải thích, đều là lời khuyên răn người học.”

“Này người thiện nam! Như Lai lại có tùy tự ý ngữ” cho đến “Mười hai nhân duyên, đó gọi là không”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại nói rộng về sự khác nhau của nghĩa hữu, vô của Trung đạo do tự ý phân biệt ở trên. Vì sao? Vì ở trên nói “Có” là “Sẽ có”, “Không có” là hiện “Không có”. Nay nói “Có”, “Không” đều là hiện tại, nên phải phân biệt lại.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn sáu, nhân quả nhất định, nói về nghĩa “Không” và “Có” của Phật tánh: “Có” là pháp “Diệu hữu” của mười Lực, bốn Vô sở úy, là tính của quả quả. Đã được quả thì không có các nghiệp bất thiện, vô ký v.v…. ở quá khứ. Phải biết rằng, khi có quả thì không có nhân, lúc có nhân, há có quả ư? Đây là nói nhân quả nhất định, không được lẫn lộn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Đoạn thứ tư, nói về nghĩa “Có” “Không” của Phật tánh. Gồm có ba lượt:

  1. Y cứ vào hai môn để nói về “Có”, “Không”.
  2. Y cứ vào bốn môn, để nói về “Có”, “Không”.3. Y cứ vào bảy môn, để nói về “Có”, “Không”.

“Này người thiện nam! Như “Có” “Hay không có” thiện, bất thiện cho đến “Huống chi Bậc nhất nghĩa đến xuất thế!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rộng về nghĩa “Có”. “Không” nói trên, cho rằng thiện là “Có”, bất thiện là “Không”, chẳng phải nhân duyên là “Có”, nhân duyên là “Không”, cho đến thuyết Nhất-xiển-đề cũng giống như vậy, mỗi việc đều trái với ở trên, là giải thích nghĩa tự ý ngữ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trước là nêu môn chương, muốn so sánh với lời của câu dưới, đâu chỉ nhân quả không xen lẫn, mà còn y cứ vào pháp thiện, bất thiện trong nhân, cũng không được lẫn lộn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trên đây, thứ nhất, y cứ vào hai môn để nói về “Có”, “không”. Nói về thời gian quả, có các Tam-muội mười lực v.v… vì thời chỉ có thiện, bất thiện, vô ký, v.v… không có mười lực, v.v…

“Này người thiện nam! Hoặc Nhất-xiển-đề có Phật tánh” cho đến “Sao chúng sinh lại nhận hiểu có một bề?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xiển-đề “Có”, người tốt lành thì không, nghĩa là tà kiến dứt pháp lành là nhân , là che lấp thì xiển-đề “Có”, còn người có gốc lành thì “Không có”. Xiển-đề “Không có”, mà người gốc lành thì “Có”, nghĩa là pháp lành duyên theo năng lực của nhân, có công năng dứt trừ chướng, thì người gốc lành thì “Có”, xiển-đề thì “Không”. Vô ký thì chẳng phải chướng, chẳng phải trừ. Cho nên cả hai người đều có. Về tánh của quả Vô học thì hai người đều “Không”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Xiển-đề có, nghĩa là lại, nói về Phật tánh, không được có ý lẫn lộn. Xiển-đề dứt hết tất cả việc lành, chỉ có đại ác. Bởi khi xiển-đề có hành động gian ác kia không có điều lành thì lúc ở nhân đâu được quả đã có ư? Điều ác này chính là thần minh khác hẳn với cây đất, sẽ có nghĩa thành Phật, cũng được gọi là tánh của chánh nhân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, y cứ vào bốn môn để nói về “Có”, “Không”. Mười điều ác là Phật tánh của cảnh giới Xiển-đề. Thời gian sau, người xiển-đề này sẽ nhàm chán việc ác mà khởi điều lành của duyên sinh. Vì nói quả trong nhân, nên nói rằng xiển-đề “Có” Phật tánh. Người thiện “Có”, nghĩa là “duyên” tánh của nhân. Cả hai người đều có Phật tánh, nghĩa là tánh của cá nhân. Hai người đều không là tánh của quả.”

“Này người thiện nam! Như trong sông Hằng” cho đến “Dưới nước trên đất liền đều đi, tức là linh quy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sông, dụ cho kinh Niết-bàn. Bảy hạng chúng sinh, nghĩa là kinh nói bảy thứ Phật tánh, với nghĩa “Có” và “Không” khác nhau:

1. Một là Hiện “Có”, sáu là hiện “Không”.

2. Ba đời “Có”: Một là hiện tại mà sáu là quá khứ. Vị lai cũng gọi là Trung đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là “Đoạn bảy, nói về nhân quả không lẫn lộn. Trong sông có bảy hạng chúng sinh, trong kinh Niết-bàn có bảy hạng phàm, Thánh. Sở dĩ biết được không lẫn lộn là vì nói rằng, cho đến linh quy mới được gọi là đã đến bờ bên kia. Như vậy, sáu hạng trước cũng còn ở trong sông, ở sông thì không gọi đã đến bờ bên kia, trong nhân há có quả ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Lượt thứ ba, là y cứ vào bảy người để nói “có”, “không”, thường hay chìm mất, gọi là xiển-đề. Tạm nổi rồi lại chìm, nghĩa là phàm phu còn ràng buộc, tạm thời sinh ra đời thiện, lại trở vào sinh tử. Ra khỏi rồi dừng lại, nghĩa là lập năm căn như tín căn v.v…. Quán khắp bốn phương, nói là quả Tu-đà-hoàn. Quán hạnh của mình, nghĩa là Tư-đà-hàm. Đi rồi lại đứng, nghĩa là Na-hàm. Dưới nước, trên đất liền đều đi, nghĩa là chứng đắc La-hán.

Trở lên cho đến Đại Niết-bàn, đều là người thứ bảy.

“Này người thiện nam! Trong sông Đại Niết-bàn mầu nhiệm như vậy” cho đến “là sách của ngoại đạo, chẳng phải kinh Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phát ra tà niệm, tà ngữ ở trước, tội chê bai Niết-bàn càng nặng dần, là nhân dứt bỏ pháp lành.

“Bấy giờ, người này xa lìa bạn lành” cho đến “nên gọi là thường chìm lặn, như cá lớn dưới sông Hằng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rộng, nhằm chỉ rõ lỗi của người chê bai pháp.”

“Này người thiện nam! Dù ta nói Nhất-xiển-đề… ” cho đến “Tu các việc lành như bố thí, giữ giới, đó gọi là thường chìm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói ba đạo, ở đây nói năm đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chưa bước lên pháp Noãn trở xuống, đều có nghĩa lui sụt, là người thứ hai.”

“Như Thiện Tinh đã tu được bốn thiền, lại khởi bất thiện, đọa vào ba đường ác.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì nghe kinh sinh niềm tin, nên gọi là xuất, mà vì năm việc không đầy đủ, nên ở trong đó khởi lên ba độc, lại rơi vào số của hai người, nếu tự biết năm việc không đủ, thì phải nhờ bạn lành, tu hành tinh tấn, tín căn được lập, thuộc về trụ vị thứ ba.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Năm đức không trọn vẹn, cuối cùng dứt Phật tánh.”

“Này người thiện nam! Có bốn việc lành mà gặt phải quả ác” cho đến “Như hai người nói trên, cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thí, giới là pháp ra khỏi sinh tử, gọi là xuất. Kinh dụ cho cơm. Vì: Hữu” nên chìm trong biển sinh tử gọi là “Một”. Kinh dụ cho chất độc, là cơm lẫn lộn chất độc. Lại, sinh niềm tin là nổi lên. Cuối cùng dứt gốc lành là chìm xuống. Cho nên về sau, nêu ra Thiện Tinh người thứ hai. Người thứ nhất phiền não sâu dày, sẽ rơi vào khổ nguy kịch, nên nói thân nặng, chỗ sâu! Người thứ hai dù rằng đã khởi sự chê bai mà ở tương lai, thì dùng pháp lành để tự giúp, nên nói là thân nặng, chỗ cạn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, theo thứ lớp giải thích về năm việc trên mà ý không đầy đủ.”

“Này người thiện nam! Hoặc lại có người ưa đắm ba cõi” cho đến

“Cho nên gọi là niềm tin không đầy đủ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai thứ Niết-bàn:

  1. Năm phần pháp thân, vì ra khỏi sinh tử, nên gọi là Niết-bàn.
  2. Nghĩa là kiết hết, vô vi. Vì Xiển-đề không có, nên nói rằng không phải tất cả đều có. Không tin có được nhân đạo, nghĩa là Thánh tư nhiên chẳng phải bất học, chẳng có nhân quả, là không có quả lành.”

“Người này thành tựu đức tin không đầy đủ” cho đến “Cho nên gọi là giới không đầy đủ.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Giới từ Giới, nghĩa là đạo cộng giới. Không có vô tác, nghĩa là giới vô lậu, dứt tạo tác, gọi là vô tác.”

“Người này không có hai việc tín, giới” cho đến “Cho nên gọi là nghe không đầy đủ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân nêu việc học rộng, nói rõ các nghĩa khác.”

“Người này không có ba việc như vậy” cho đến “Cho nên gọi là bố thí không đầy đủ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thí cho của cải, sự việc nông cạn, vẫn chẳng thể làm được, huống chi là bố thí pháp ư?”

“Người này không có bốn việc như trên” cho đến “Cho nên gọi là trí không đầy đủ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Niết-bàn là hiệu chung của “Có”, “Không”, Như Lai là thân trí có danh. Giải thoát là diệt kiết chẳng có hữu “Chẳng có một”.”

“Người này không có năm việc như vậy” cho đến “Vì thấy ánh sáng nên nổi lên, vì thân nặng nên chìm xuống.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thêm lớn việc lành là người thứ ba, thêm lớn điều ác là người thứ hai. Tự cho là vượt hơn trong những người cùng thực hành, đồng với điều mình đã thấy, là vượt vượt hơn trong loài người.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích năm việc đã xong. Trước đã nói lỗi của người thứ hai. Sau trình bày tính chất tốt của người thứ ba. Một là thêm lớn pháp lành, nghĩa là giải thích người thứ ba. Một là thêm lớn pháp ác, là giải thích người thứ hai. Người thứ hai vì không thể gần gũi bạn lành, nên lại làm ác vào sinh tử, thành tạm nổi lên rồi chìm trở lại. Nếu người này tự biết thấy sâu sắc thực hành không đầy đủ, thì cầu tinh tấn để trở thành người trụ thứ ba.”

“Người thứ hai, tự biết thấy sâu sắc” cho đến “Không bao giờ còn chìm nữa, đó gọi là trụ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đó là người thứ ba.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cầu mong được gần gũi bạn lành, được làm pháp Noãn, thành người thứ ba, không bao giờ còn lui sụt.”

“Trong Phật pháp của ta, ai là người nổi lên rồi không còn chìm trở lại nữa?” cho đến “Những người như thế cũng giống như vậy?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tôn giả Xá-lợi-phất… đều chứng được địa vị pháp Noãn, chính là nhóm định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Xá-lợi-phất đã từng trải qua người thứ ba đến, từ gốc mà được tên, để chứng minh nghĩa không lui sụt.”

“Cho nên, trong kinh ta có nói kệ rằng” cho đến “Chứng được giải thoát, trụ yên ổn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dẫn kệ để khuyên răn, khen ngợi những người có khả năng trụ.”

“Này người thiện nam! Biết không đầy đủ gồm có năm việc” cho đến “Quán như vậy rồi, thứ lớp sẽ được pháp Noãn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ lớp chứng được pháp Noãn, nghĩa là dứt ngoại đạo, phàm phu, nhập nhóm chánh định, ở lại địa vị Sơ trụ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tham dục, thường quán bất tịnh: Là nói về quán hạnh của người thứ ba, tiến dần vào pháp Noãn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại nêu năm pháp, lại có chỗ thực hành, đó là người thứ hai. Nếu gặp bạn tốt, tùy bệnh cho thuốc thì sẽ thành người thứ ba. Nếu không như vậy, thì sẽ lại thành người thứ hai. Người có nhạy bén, chậm lụt. Người căn cơ nhạy bén, quán “Không” giả danh, thì vẫn chấp pháp không, chủ yếu là thấu suốt lý hai chái nhà xong, vừa mới xuất quán, kế là pháp Noãn, kiết thành người trụ.

Người căn cơ chậm lụt, không thể được như người căn cơ nhạy bén này. “Không” giả danh tức là xuất (nổi lên), tín, căn cũng lập, thành người trụ thứ ba. Cho nên kiết luận có hai thời gian chẳng phải là pháp Noãn, chỉ trở thành người trụ, mà là gốc lành ban đầu đã không thành, pháp Noãn là đầu tiên của “Pháp không”. Bắt đầu của gốc lành thứ hai, là vì cách lửa vô lậu không còn xa, nên so sánh với Noãn.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Theo thứ lớp lại quán mười hai nhân duyên, nghĩa là bốn Đế vào đạo Tiểu thừa, chính là phân dòng của ba thừa nhập tướng trung đạo này. Lại, quán mười hai nhân duyên, nghĩa là riêng một phương này tùy duyên vào đạo.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nói rằng, pháp Noãn nhân bạn lành mà sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về pháp Noãn chỉ có tuệ, chẳng có năm ấm, vì sắc quyết định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Ca-diếp đâu chịu không hiểu danh từ Noãn, vì đồng với vật.”

Phật nói: “Này người thiện nam! Như pháp Noãn mà ông hỏi” cho đến “Tất cả chúng sinh đều có pháp Noãn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp Noãn như thế, tất cả đều có. Nay, nói Noãn không phải như vậy.”

“Này người thiện nam! Pháp Noãn như vậy là pháp Noãn của cõi Sắc” cho đến “Tất cả chúng sinh không hẳn đều có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Noãn chung cho cả ba cõi, có bảy mươi ba người, chỉ nói cõi Sắc, cho rằng chẳng phải tất cả đều có. Sáu hạnh, là vô thường, khổ, nhân, tập, sinh và duyên.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Không nói cõi Dục hoàn toàn không được quán Noãn, chỉ vì ít nên nói là không, nhằm ngăn dứt tất cả câu hỏi về có, nên mới có lời đáp này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phải chứng đắc định của địa trên, chẳng phải cõi Dục không thể, riêng cõi Sắc có khả năng. Sau đây, tự nêu ra bảy mươi ba người chung cho ba cõi, đều có khả năng tạo nên quán Noãn.

Lại, một giải thích khác: “Vì quả lệ thuộc đương lai, vì cõi Dục trực tiếp tu, gồm nhiếp thân, miệng được quả vui sướng cõi trời, cõi người, gọi là báo thân hành. Tâm cõi Sắc vắng lặng, không rong ruổi lông bông theo duyên bên ngoài, gọi là báo của tâm hành, nên biết là pháp của quả trên. Nói cõi Dục có định: Là phương tiện của thiền định căn bản, chỉ dìu dắt người có căn cơ nhạy bén, tức khả năng sử dụng định này để gồm thâu vào vô lậu. Cõi Sắc dù có thiền định có khả năng tạo ra pháp Noãn, nhưng phải là đệ tử nội đạo chứ chẳng phải ngoại đạo. Nếu đủ mười sáu hạnh, thì mới thành tựu pháp Noãn. Ngoại đạo chỉ có thể tạo ra hai trong mười sáu hạnh và bốn môn đầu thuộc khổ phẩm hạ, thì làm sao thành quán pháp Noãn?”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Tự tánh là Noãn, chứ chẳng phải pháp nào khác, nên gọi là Noãn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tánh tuệ tự hiểu rõ, chứ chẳng phải hiểu rõ người khác.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại tạo ra hai câu hỏi để khẳng định giai vị của Noãn kia:

  1. “Vì sao được gọi là Noãn?”
  2. “Vì tự tánh là Noãn hay Noãn khác?”

Nay, Phật chỉ đáp câu hỏi sau, nhằm nói tự tánh là Noãn.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Trước đây, Như Lai đã nói” cho đến “Vì thực hành mười sáu hạnh, tức là trí.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhân đối với lòng tin, tin là nhân của Noãn, nói không có nhân, không có quả. Tức là trí tuệ: Đả phá ngã kiến, tất nhiên do trí tuệ, chứ chẳng phải do mười sáu hạnh như tín… Pháp không ngoài hữu vi, vô vi. Hữu vi có bốn hạnh, vô vi có bốn hạnh. “Có”, “Không”, phải có nhân. Nhân nhóm họp ở đạo hữu vi hữu lậu và hữu vi vô lậu. Hai pháp này mỗi pháp đều có bốn hạnh, thành mười sáu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp nêu Mã Sư Mãn Túc không có lòng tin. Phải biết rằng, đức tin là pháp Noãn. Phật nói chính là nhân của Noãn, chẳng phải chính là Noãn.”

“Này người thiện nam! Như lời ông hỏi: Vì sao” cho đến “Khói, chính là kiết sử tu đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tướng lửa của tám đạo, nghĩa là vô lậu, có công năng đốt cháy phiền não, gọi là lửa. Vì pháp Noãn làm nhân, nên gọi là tướng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật đáp câu hỏi thứ hai, nói về tướng của tám Chánh đạo, nên gọi là Noãn. Như cọ lửa trước có hơi ấm.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Sao làm tướng của đạo vô lậu được?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quả báo được năm ấm cõi Sắc, nghĩa là trên nói pháp cõi Sắc, tức nói về quả báo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Pháp Noãn đã là hữu vi, hữu lậu, do có

khả năng tạo ra nhân, quả báo được cõi Sắc, sao làm tướng của đạo vô lậu được?”

“Phật nói: Này người Thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy!” cho đến “Mà có thể làm tướng cho chánh đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì nhàm chán nên quán hạnh, nghĩa là chính vì hai công dụng này trong nhất tâm, nên biết được nghĩa lành giúp phát ra, vì dùng tướng nên chiêu cảm thọ sinh, cho đến một mảy may pháp lành đều không chiêu cảm sinh tử.”

“Có bảy mươi ba hạng người được pháp Noãn” cho đến “Tạo ra năm tội nghịch, phạm bốn tội trọng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói pháp Noãn, ở đây nói người thực hành. Nếu chưa dẹp được phiền não cõi Dục, mà phiền não của ba cõi còn, thì gọi là phàm phu còn trói buộc. Nói là một hạng người, nếu dứt một phẩm phiền não, thì gọi là không đủ. Đến Cửu phẩm là chín, chung với trói buộc đủ của cõi Dục trước là mười. Ở trên, trừ bảy địa của bi, mỗi địa đều có chín vị, không còn dứt gốc lành nữa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại ý cho rằng: “Bảy mươi ba người này đều thực hành quán Noãn. Cõi Dục có mười Sơ thiền, đến Bất dụng xứ, gồm có bảy địa, bảy lần chín là sáu mươi ba, chungcõi Dục mười, thành bảy mươi ba. Chính phẩm kiết của cõi Dục. Nếu là phàm phu còn bị trói buộc, thì chẳng phải không hàng phục thô, chẳng phải hàng phục theo thứ lớp của vài kinh gia, trước phải được tâm Sơ thiền mới hàng phục được kiết cõi Dục, phải được tâm của địa trên, khuất phục kiết địa dưới. Theo ngài Luận chủ thì không được như vậy. Như làm cho người của pháp Noãn được tâm Sơ thiền, hàng phục kiết cõi Dục. Nếu là người căn cơ nhạy bén thì không cần phải là tâm của địa trên, chính là dùng tâm của địa mình. Tự từ bốn ý, chỉ nhập dần pháp Noãn, nhập kiến Đế, thành quả Thánh. Nếu người căn cơ chậm lụt thì phải tu định vượt hơn của địa trên để giúp sức, mới chế phục được kiết của địa dưới.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật mới ra đời, trước phải độ tất cả ngoại đạo. Nhưng phương pháp hàng phục kiết, mà ngoại đạo đã áp dụng, cũng không biết được sự khác nhau của tư duy kiến đế, chỉ biết nhàm chán địa dưới, mong được địa trên, tạo ra phương pháp hàng phục của chín phẩm. Vì sao? Vì gốc kiết của kiến đế, là dùng ngã kiến và đoạn thường làm gốc. Ngoại đạo không hàng phục được kiết này, nhưng so với tư duy thì đồng, sao lại không hàng phục? Vì chỉ tự hàng phục kiết của kiến Đế không thành tựu, nên nay Đức Phật chỉ y cứ hàng phục chín phẩm tư duy hoặc của ba cõi, tạo nên bảy mươi ba vị không y cứ ở kiến Đế. Nhưng bắt đầu hàng phục lấy định, về sự mới chuẩn y nhau, sau khi thành tựu phải quán Noãn, đều là do dụng của trí tuệ. Mười vị cõi Dục, đã từng hàng phục tư duy, hoặc vì chín phẩm tạo nên chín vị. Một người đầu tiên kia đều chưa trải qua hàng phục kiết. Vì sao? Vì người này trước đây dù không khởi tâm hàng phục “Hoặc”, cũng gặp được Hiền, Thánh, tức là từ giáo hạnh, thực hành, tạo ra quán khổ, vô thường, được giả gọi là “Pháp không”, trở thành quán pháp Noãn. Cho nên vì một người là nếu người đó đã từng tác động tâm, dùng chín phẩm hàng phục “Hoặc”, thì về sau nhập đạo, không khác phương pháp của một vị đầu tiên. Như vậy từ cuối quả cõi Dục cho đến một địa của Vô sở hữu xứ có chín, y cứ cõi Dục, người chưa từng hàng phục kiết là một, đây là bảy địa có chín, tức bảy lần chín là sáu mươi ba. Y cứ mười người cõi Dục, hợp thành bảy mươi ba người. Vì sao cõi Dục có vị mà cõi trên chỉ có chín. Nhưng sinh về cõi trên chẳng có việc không hàng phục “Hoặc” của địa dưới mà được sinh lên cõi trên. Người sinh lên cõi trên đã không có, như người cõi Dục chẳng hề hàng phục “Hoặc”, nên chỉ có chín vị.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Không đối với người hàng phục Tưởng phi phi tưởng, dựa vào kinh Tiểu thừa để nói phàm phu kính ngưỡng không có chỗ nương, vì không thể hàng phục phiền não.” “Những người này gồm có hai hạng:

1. Gặp bạn lành” cho đến “Gặp gặp bạn lành thì quán khắp bốn phương.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích công năng của pháp Noãn, tạm nổi lên rồi chìm lại, nghĩa là nếu gặp phải bạn xấu thì trụ vào phàm phu nội. Chìm ở trời, người, không mau chóng thành tựu quả vị.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hiểu từ phần này, lấy người thứ tư, người thứ ba, tất nhiên không lui sụt mà nói là hai hạng người, đó là nói chưa được Noãn. Lúc ở bốn niệm xứ, gặp bạn lành thì tiến tu nhập đạo. Nếu gặp phải bạn xấu ác thì Noãn còn không được, huống chi là quả Thánh?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Không khác với giải thích trước, hễ gặp được bạn lành thì thành người trụ, còn gặp bạn xấu ác, thì chìm trở lại.”

“Quán khắp bốn phương, chính là Pháp đảnh” cho đến “Bốn phương chính là bốn Đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người thứ tư thì từ đảnh trở lên, trụ hạnh nhanh chậm, không bị bạn ác ràng buộc. Từ bốn Niệm xứ đến pháp Thế bậc nhất có năm phẩm gốc lành: Hạ, Trung, Thượng; thượng trung, thượng thượng. Bốn niệm là hạ, pháp Noãn là Trung. Pháp đảnh là thượng. Pháp Nhẫn là thượng trung, pháp Thế đệ nhất là thượng thượng. Niệm các pháp trước kia không nhất định, không xếp vào năm phẩm, ở trên hai phẩm gọi là đảnh. Bốn phương dụ cho bốn Đế. Quán hạnh càng xa, nói là khắp, giải thích về nghĩa đảnh. Tánh là năm ấm: Đủ các nghiệp của thân, kiến… gọi là phàm phu. Nặng thì gọi ngoài, nhẹ gọi là trong. Pháp Noãn là bắt đầu dứt nặng. Vì tâm tuệ yếu kém nên chưa có khả năng làm cho các tâm sở của thân, miệng đều trái với ác nặng. Tâm đảnh đã mạnh, làm cho các nghiệp của thân, miệng không khởi lên điều ác nặng nề. Vì nghiệp lành của thân, miệng đều là pháp đảnh, nên nói tánh là năm ấm. Cũng “Duyên” bốn Đế, nghĩa là nói trí tuệ là hành chủ, hành hành. Kế là chứng đắc Pháp nhẫn: Thấy lại kế là lập nhẫn. Trí, tâm chưa cùng khắp, gọi là nhẫn. Kế là được pháp Thế bậc nhất: Kinh nói có phàm phu trong, ngoài. Nếu chưa dứt trong thì gọi là thế. Dứt hết trong, ngoài gọi là Đệ nhất. Năm vị này được Vô lậu thế gian, vừa Thánh vừa Phàm.

Khổ Pháp Nhẫn: Vô lậu xuất thế, dứt phàm phu nội, chỉ nói là trí nhẫn, vì thấy diệt là đạo kiến đế, không thấy diệt thì sẽ không thấy khổ…

Nói sắc v.v… là có tánh. Có tánh thì thường, thường tức là lạc, lạc tức là không khổ. Thấy sắc vô tánh, vì nhân duyên giả hợp, khởi chỉ có khổ khởi, diệt chỉ có khổ diệt, bắt đầu thấy khổ nhẫn. Thấy khổ vô sinh, đó là thấy khổ. Đầu tiên gọi là khổ nhẫn, nói thấy diệt kia chỉ nói tên là khổ. Pháp còn lại dễ hiểu.

Nói về dứt kiết có ba cách:

  1. Từ lý, không từ nhàm chán.
  2. Từ nhàm chán, không từ lý, gọi là ngoại đạo.
  3. Từ nhàm chán, từ lý, gọi là Thanh văn.

Bồ-tát từ lý, gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Thanh văn nhàm chán chung đối với khổ mà thành tên, giải thích về sự khác nhau của đạo Đại thừa, Tiểu thừa. Tánh nhẫn là tuệ, duyên “Không” là tuệ, duyên “Hữu” là tưởng. Duyên một Đế cuối cùng, thấy dứt phiền não, một Đế nói là diệt. Thấy dứt, nghĩa là bốn Đế đã dứt, một trí dứt bốn, nên nói “Cho đến”. Như kinh Thắng Man chép: “Dùng một trí dứt bốn Trụ phiền não, cũng được công đức của bốn đoạn trí”. Lại nói: “Không có trí thượng thượng của thế gian, vì bốn trí cho đến dần trí thượng thượng, vô lậu xuất thế.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Người của pháp Đảnh dù “Duyên” với bốn Đế, nhưng tâm tu tập “Không” ít, ý thấy “Hữu” thì nhiều. Ấm là nói có, cũng gọi là chứa nhóm. Nói về quán tâm này vì còn hữu tình nhiều. Nên nói là tánh.

Cho đến Pháp nhẫn vượt hơn Tiểu, cũng tánh là năm Ấm.

Pháp thế Bậc nhất gọi là tánh. Năm căn này: Được lý chuyển biến sâu, dời đổi ấm, tạo ra tên căn. Nói là pháp đệ nhất, tâm có khả năng vì vô lậu tạo ra căn, khổ nhẫn “Duyên” theo một Đế. Nếu nói về pháp Noãn ở trước, thì pháp đệ nhất lúc bấy giờ có thể tập “Duyên” theo một Đế. Đã có tâm thì nhiều, không có tâm thì ít, chìm mất không có tên. Từ đảnh trở lên, thấy dứt phiền não, đến quả Tu-đà-hoàn là người thứ tư.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chính vì người trụ thứ ba này gặp bạn lành, được lập năm căn tín đứng đầu, giúp cho hiểu biết này thêm lớn, nhập đạo kiến Đế, dứt hết “Hoặc” của tướng biểu thị, thành bậc Tu-đàhoàn. “Duyên” theo một Đế, nghĩa là được bốn Đế bình đẳng, chánh quán hiện ở trước, không còn khác với bốn, chỉ có “không tuệ” theo nhau. Nếu khi ở năm phương tiện mà vẫn còn có tưởng, thọ… khác nhau, thì sẽ “Duyên” với sự khác nhau của bốn Đế. Nay sơ tâm của khổ nhẫn, vì hội nhập vô tướng, nên được duyên với danh từ diệt Đế”.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Hai là chẳng phải nhân thấy là nhân, ba là lưới nghi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một Đế: dứt kiết cùng lúc với kiến Đế, có thể làm chứng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Muốn nghe hội nhập hai kinh, trong đây có bốn câu hỏi. Sau đây sẽ đáp theo thứ lớp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ nhất này, xin hội nhập giáo.”

“Bạch Đức Thế tôn! Vì sao gọi Tu-đà-hoàn là người quán khắp bốn phương?” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là câu hỏi thứ hai, hỏi vì sao gọi là quán khắp bốn phương?

“Lại, vì sao gọi là Tu-đà-hoàn?”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba nói về ý nghĩa vì sao gọi là Tu-đà-hoàn.”

“Lại, vì sao gọi là Tu-đà-hoàn? Vì sao dùng cá thác dụ cho bậc

Tu-đà-hoàn?”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ tư: Vì sao dụ cho cá?”

“Phật dạy: Này người thiện nam! Người Tu-đà-hoàn” cho đến

“Cho nên Như Lai phương tiện nói ba.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thường sinh khởi là thân kiến, nghi. Khó nhận thức là khó có thể dứt. Nhân phiền não là thân kiến. Đối trị kẻ thù là giới, định, tuệ. Phương tiện nói có ba: Giải thích lý do chỉ nói nặng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thân kiến là gốc các “Hoặc”, che lấp phẩm tuệ. Giới thủ trái với chánh đạo, che lấp phẩm giới. Nghi thì che khắp, gặp việc không thành. Ba thứ này sở dĩ nặng là vì phân biệt thì thành vô lượng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Do ba thứ nặng, nghĩa là vì dứt trừ, nên nước của bốn mươi dặm cũng tự khô cạn!”

“Như điều mà ông hỏi, vì sao” cho đến “Phá tan kẻ thù lớn, đó là bốn thứ điên đảo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đáp câu hỏi thứ hai. Nội ngoại: Kiết ái là nội, sân, mạn là ngoại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người Tu-đà-hoàn quán sát bốn Đế, được bốn thứ công đức: Hai thứ y cứ vào sở chứng đắc, hai thứ y cứ vào chỗ dứt trừ.”

“Như điều ông hỏi: Vì sao” cho đến “Vì ngược dòng, nên gọi là Tu-đà-hoàn.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chẳng phải đối xứng với danh, chỉ giảng dạy, giải thích trong nghĩa, nghĩa là dứt hết kiết của một nhà kiến đế, vì không còn ở trong dòng sinh tử nữa, nên được tên gọi hiệu này.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu theo nghĩa này” cho đến “Không được gọi là Tu-đà-hoàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu theo nghĩa này, thì Tư-đàhàm trở lên, đều là ngược dòng, tên gọi lẽ ra không khác?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ba quả đều có hai nghĩa nói trên, vì sao vẫn là Sơ quả?”

“Này người thiện nam! Từ bậc Tu-đà-hoàn” cho đến “Quả Tu-đàhoàn cho đến quả A-la-hán.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước, dứt được gọi là cựu, sau, lại dứt nữa gọi là khách. Người này cũng gọi là người Tu-đà-hoàn, là người của quả thứ hai. Sơ quả không có hai tên. Giải thoát, là thân giải thoát.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phàm phu gọi là cựu, Tu-đà-hoàn được gọi là khách”, lại nói: “Làm khách trong Thánh, cựu Tu-đà-hoàn gọi là Cựu, ba quả gọi là khách, nên do ở trước mà được gọi là Tu-đà-hoàn.

Dòng có hai thứ: Niết-bàn hàng phục kiết, đạo dứt hẳn. Cũng gọi là Bồtát: Trước kia, sở dĩ Phật gọi Tu-đà-hoàn là vì trên đồng với dưới. Nay, vì dưới đồng với trên. Một là căn cơ nhạy bén, hai là căn cơ chậm lụt, giải nghĩa rõ ràng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tất cả chúng sinh với tên gọi có mới, cũ, chỉ vì người chưa được bậc Thánh, lúc có phàm phu, gọi là chứng đắc. Về sau, lại đặt ra tên khác chữ mới, xoay vần lẫn nhau cho đến thành Phật.”

“Này người thiện nam! Như điều ông nói: “Vì sao?” cho đến “Cho nên giữ vững, tâm mình không động.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dùng cá thác để thí dụ, gồm bốn việc trở xuống, từ chỗ hợp thí dụ cho sơ quả có bốn đức.” Pháp Sư Bảo Lượng nói” cá Thác có bốn việc.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” Cho đến “Vì sao không gọi là Tu-đà-hoàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói rằng trước đã được. Nay, hỏi: “Vì là trước kia đã được đạo, hay là trước đã được quả để quyết định.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi có hai quan hệ:

  1. Hỏi về khổ nhẫn.
  2. Hỏi về người siêu việt.”

“Này người thiện nam! Vì Sơ quả nên gọi là Tu-đà-hoàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quyết định nói là Sơ, nghĩa là ở quả, không ở đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Một lời đáp, tức là cả hai câu hỏi đều bít lấp. Vì sao? Vì khổ nhẫn ở trước đã được mà chẳng phải quả, cho nên nói là hướng siêu việt quả Na-hàm, mà không phải sơ, cho nên không gọi là Tu-đà-hoàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp câu hỏi ở trước.”

“Như lời ông hỏi: “Người ngoại đạo” cho đến “Đầy đủ tám trí và mười sáu hạnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Na-hàm chẳng phải mới được. Bấy giờ, tám trí đủ mười sáu hạnh: Nói về siêu việt, là đầu tiên có được.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu dựa vào một số kinh, thì Tu-đàhoàn chứng sáu trí là quả, chưa được cùng tận Vô sinh, chưa được tâm thiền căn bản, không được tha tâm trí…, chẳng phải là tâm chứng quả, tức là không có tám trí, cũng nói là phần ít cùng tận vô sinh.

Ở đây có cách giải thích khác: “Kiến trí, tỉ trí, quán sát thấy ở bốn

Đế thành bốn. Bốn Đế của quá khứ, vị lai là tỷ, tức là hợp với Đế, chia ra đời thành tám trí, mười sáu hạnh. Nếu hợp với thế gian, phân tích Đế, nói là người này được đủ, thì đây là cố chứng Tu-đà-hoàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói không có pháp siêu việt này. Nhà kia sở dĩ tạo ra nghĩa này, là vì dùng đẳng trí để dứt kiết, nên lúc còn là phàm phu, do dứt tư duy phiền não, về sau dứt kiến Đế, kiết hết, thẳng vượt lên chứng quả Na-hàm. Nay, nói về “Đẳng trí” vốn là hàng phục kiết, chứ chẳng phải đạo dứt hẳn kiết. Và thấy lý, sinh ra kiến giải, phải trước dứt kiến Đế, kế là dứt tư duy. Người này trực tiếp trải qua tâm quả, mà không vượt ra ngoài quán, chẳng phải là siêu. Lúc bấy giờ, đủ tám trí, Na-hàm không còn quán bốn Đế tám trí tỷ hiện làm nhân, chỉ dùng một trí diệt Đế làm nhân được quả, đâu được gọi quả thứ ba là Tu-đà-hoàn?”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Người được A-na-hàm” cho đến “Vì sao không được gọi là Tu-đà-hoàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp được quả thứ ba cũng được pháp này, lại được đồng thời.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói vị Na-hàm này cũng được tám trí, đồng thực hành mười sáu quán hạnh.”

“Này người thiện nam! Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ” cho đến “Do nhân duyên này, nên dụ như cá thác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chung, nghĩa là phàm phu trong, ngoài, đều bỏ phàm được Thánh, nên gọi là sơ quả A-na-hàm. Vì thẳng tắt hai quả, chẳng phải mới xả cho nên là chung. Pháp Noãn trở xuống là phàm phu ngoại, cũng được thực hành mười sáu hạnh, trong, ngoài chung. Văn không chung ẩn, pháp Noãn trở lên và bốn quả đều không chung. Vì sao? Vì về sau, gồm thâu dùng làm quả biết chung, chẳng phải chỉ có hữu lậu. Pháp Noãn của quả Hướng trở lên, đều gọi là Hướng, là vô lậu thế gian, gọi chung là vô lậu. Tám trí cũng giống như vậy.

Nói siêu, nghĩa là thành quả của đạo tỷ trí. Bỏ bảy, không bỏ tám, ở đây nói bỏ bảy không bỏ tám, chẳng phải chỉ mười sáu thế tục không dứt kiết, mà rõ ràng là không có siêu việt. Đức Phật có siêu ngữ. “Vì sao?” Ca-diếp hỏi: Hàng phục được kiết của “Ba không”, nghĩa là người căn cơ nhạy bén do nhàm chán đối với địa dưới, đi tắt hai quả đầu không trụ, đến quả thứ ba mới trụ. Đức Phật vì trụ xứ nói siêu việt “Hoặc”, nghĩa là không mất ý chỉ khi trải qua Sơ quả. Bồ-tát Ca-diếp hỏi, chính là vì: Duyên” một Đế là diệt Đế. Sinh tử vô cùng, bị bốn đảo làm mê hoặc. Pháp Noãn trở xuống, cần phải “Duyên” riêng bốn Đế, giúp cho thành sơ quả. Đảo nặng đã diệt, không cần bốn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phân giải đều có chỗ. Tu-đà-hoàn thực hành trong đạo kiến Đế. A-na-hàm tư duy hạnh trong đạo. Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ: Gồm năm phương tiện đều gọi là hữu lậu. Nếu bốn ý chỉ thì chung cho ngoại đạo, phàm phu. Vì sao? Vì nói bốn ý chỉ, con người vẫn có thể có lui sụt. Trở lại phàm phu ngoại đạo. Về mặt lý chưa được chia cách với ngoại đạo, cho nên nói là chung. Nếu vào pháp Noãn, pháp căn lập chuyển, được “Pháp không” chiếu lý, không bao giờ còn lui sụt, vì chia dứt phàm phu, nên nói là không chung. Mười sáu hạnh vô lậu có hai thứ mới nhập kiến đế, chưa được quả Tu-đà-hoàn. Bấy giờ, nếu là tâm thứ mười sáu chứng quả, thì gọi là đắc quả. Tàm trí cũng có hai thứ. Nếu là tâm thứ mười lăm trở lên, thì lúc bấy giờ kiến trí, tỷ trí đều được gọi là hướng. Nếu là tâm thứ mười sáu chứng quả rồi, thì lúc giờ thực hành kiến trí, tỷ trí, quán bốn Đế, gọi là quán đắc quả. Tu-đà-hoàn xả chung, được không chung, nghĩa là không nói xả trong bốn ý chỉ trước. Trước đã xả lâu rồi, nay nói xả, là trở lại mười lăm tâm trong kiến đế, đều là mười sáu hạnh chung trong hướng. Nay, bỏ vô lậu chung, được quả không chung. Nếu khi chứng quả, mới không tạo ra mười sáu hạnh, chỉ làm cho tâm ở quả không còn chung với hướng, cho đến xả tám trí của Hướng, được tám trí của quả. Na-hàm thì không phải như vậy, nghĩa là nói Tu-đà-hoàn phân giải kiến đế, hạnh trong Hướng mới thành Tu-đà-hoàn. Na-hàm đã trải qua hai quả, phân giải tư duy, quả khác, Hướng khác, đâu được giống nhau? Tu-đà-hoàn “Duyên” với bốn Đế, Na-hàm “Duyên” một Đế, là trở lại y cứ vào giải thoát mà có tên gọi. Giống như pháp Thế bậc nhất cũng đều duyên bình đẳng. Bấy giờ, thấy hữu tình nhiều, ý nhận thức “Không” thì ít. Nếu nhập hạnh vô tướng thì tâm “Không” sẽ vượt hơn. Do đó, nên từ Pháp đệ nhất của Địa bất Như, y cứ vào “Hữu” để có được tên. Hạnh vô tướng vẫn chưa thể đều là luống dối có tâm, chỉ có hư không “Duyên” theo ánh sáng là vượt hơn. Y cứ không có được tên, nay Tu-đà-hoàn cũng “Duyên” một Đế bình đẳng, chính vì không bằng Na-hàm, lại nói là “Duyên” bốn Đế, thật ra không “Duyên” bốn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là ý đáp. Theo thứ lớp trước, sau, nói về từng bậc của hạnh. Sau đó, sẽ giải thích lý do ý không được. Hữu lậu có hai thứ: Bốn niệm, mười sáu hạnh ở trước. Hai thứ này có ở cả ngoại đạo, và phàm phu. Từ bốn niệm trở lên mười sáu, thời gian này không còn chung nữa. Vô lậu có hai thứ: Quả và Hướng, là khổ Pháp nhẫn trở lên, đến mười lăm là quả, là khi được Tu-đà-hoàn, mới không có sự khác nhau giữa mười sáu, vì chỉ chứng minh công hạnh đã làm trước đây, nên nói là đủ mười sáu. Tám trí cũng có hai, nghĩa như trên.

Nhưng trong hạnh vô tướng cũng không có tám, chỉ gọi là nhân, thời gian, danh. Bỏ mười sáu chung là bốn Niệm trước, được không chung là Phàm phu nội, bỏ tám trí của quả Hướng: Khổ, nhẫn trở lên mười lăm tâm. Được tám trí đắc quả: Thời gian về quả, rõ ràng. Nahàm không phải như vậy: Giải thích đúng về nhân của hai người khác nhau. Được quả Tu-đà-hoàn, về sau chỉ quán một Diệt Đế, không còn dùng mười sáu hạnh, tám trí để làm nhân nữa, làm sao gọi Na-hàm là Sơ quả ư?”

“Quán khắp hạnh mình, là bậc Tư-đà-hàm” cho đến “Quán khắp các phương rồi, vì ăn nên đi.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Người thứ năm, vì tiến tu tư duy, nên gọi là đi (hành).”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã trải qua Sơ quả, quán sát bốn Đế. Nay lại là Hạnh, Hướng quan hệ tư duy, dứt tham ô, sân, thô, tư duy sáu Phẩm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là người Tư-đà-hàm, vì dứt ba độc, tiến tu vào đạo, về nghĩa như cá thác vì miếng ăn nên lội đi.”

 

Phần 6

  • Giải thích hạnh thứ sáu xong lại nói rộng về A-na-hàm.
  • Giải thích hạnh thứ bảy, đến bờ bên kia, nói rộng về La-hán, cho đến Chư Phật.
  • Nói về hai người chê bai Phật, Pháp, Tăng:
    1. Vì không tin nên chê bai.
    2. Vì hiểu lầm nên chê bai.
  • Giải thích bảy thứ quả: Quả Phương tiện, quả Báo ân v.v… .

Giải thích Phật tánh “Chẳng phải” hữu như hư không, chẳng phải vô như sừng thỏ,…

  • Giải thích rộng ý nghĩa Phật tánh như hư không.
  • Giải thích rộng nghĩa Đức Phật không tranh luận với đời. Thế gian nói “Có”, Phật cũng nói “Có”.
  • Giải thích rộng nghĩa ba lậu.
  • Giải thích rộng mười hai nhân duyên, nói về Xúc tăng trưởng sinh ra ba thứ Thọ.

“Đi rồi, lại đứng, dụ cho A-na-hàm được cái ăn rồi trụ” cho đến “Bát-niết-bàn của cõi Vô sắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba phẩm kiết dưới của cõi Dục dứt hết, gọi là hạnh đã trụ. Hai cõi trên gọi là trụ. Hai là người tham chấp cõi Sắc, Vô Sắc, chẳng phải hiện diệt, đều là người thượng hạnh, ở chung giai vị trụ địa. Vị này lẽ ra phải có tên là “Hạnh”, vì văn thiếu sót. Nếu không như vậy, thì về sau, thực hành Bát-niết-bàn xong, sẽ không gì để giải thích.

Năm hạng: Đi có chậm, nhanh nên chia thành năm hạng. Bảy hạng: Chia năm thành sáu, không đủ thành tám, vì có đồng tên trong bảy.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đã dứt hết tư duy cõi Dục, sinh lên Địa trên, thọ quả báo tốt đẹp, vì tham đắm vị thiền, cho nên trụ. A-na-hàm gồm có hai hạng: Vả, mở ra hai thứ. Văn sau đây sẽ nói rõ, thấy ở chứng đắc Na-hàm, do căn cơ nhạy bén, nên tiến tu, liền được quả La-hán. Hai, Đã được khỏi khổ, tham đắm báo vui, trụ thiền, thọ sinh. Na-hàm có năm hạng, sau đây sẽ giải thích rộng về Na-hàm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tùy căn cơ thích hợp mà nói pháp, nên môn giáo khác nhau, hoặc hai, năm, sáu, bảy môn đều sẽ được chiêu cảm cùng lúc. Nay, trước mở ra hai môn:

1. Người hiện Bát-niết-bàn.

2. Từ Trung ấm trở lên, đều gọi chung là thượng lưu. Trung ấm này cũng gồm thâu hết địa vị Na-hàm. Năm môn kế: Từ Trung ấm trở lên, được chánh thức sinh lên Sơ thiền, chia làm bốn người. Đã thọ chính sanh Sơ thiền xong. Về sau thay đổi quả báo. Nhị thiền cũng sẽ thành người thượng lưu. Dù nói có năm tên gọi, nhưng cũng gồm thâu hết. Kế là sáu môn: Năm môn như trên. Vì người đầu tiên trong hai môn trước thành sáu. Bảy môn: Cũng như trên, lấy người ưa định, sinh lên cõi Sắc, dù có bốn môn khác nhau này, nhưng sẽ có một môn gồm thâu hết, cũng không dư sót.”

“Hạng thực hành Bát-niết-bàn có hai hạng” cho đến 1. “Có định tinh tấn. 2. Không có.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu đoạn văn trước không sơ suất thì đoạn văn này sẽ không có gì để giải thích. Bốn người trước rất nhanh, hai người sau rất chậm. Từ người thứ hai đến người thứ tư, sẽ đặt tên riêng, tức thuyết xưa nói người thượng lưu. Nay nói là khác với thượng lưu:

  1. Tinh tấn xong.
  2. Không có tinh tấn.

Giải thích chung bảy người sở dĩ nhanh chậm khác nhau, vào ra tùy ý, gọi là tự tại, không có là hai người trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là giải thích bốn chương môn ở trên. Ở trước, trong phần giải thích hai môn đầu, thứ hai là người tu hành ở trên nếu thọ hai thân là người căn cơ nhạy bén. Nếu từ hai thiền trở đi, sinh đến bốn Thiền, là người căn cơ chậm lụt, lại có hai hạng:

1. Tinh tấn, không có định tự tại. Người này không nhạy bén đối với định đạo. Dù tinh tấn, nhưng lại nhập định, chấp lấy vô lậu, không được ngay, không có định tự tại.

2. Biếng nhác có định tự tại: người này đối với định đạo được bén nhạy, muốn nhập liền được mà không cần tinh tấn. Lại có hai thứ: Một là có cả hai; hai là không có cả hai, cũng là nhạy bén, chậm lụt.

“Này người thiện nam! Chúng sinh trong cõi Dục, cõi Sắc có hai thứ nghiệp” cho đến “Vì cho nên gọi là Trung Bát-niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghiệp thọ sinh, nghĩa là hành phiền não. Tác nghiệp là thân, miệng hợp thành nghiệp thọ sinh. Vì bốn thứ tâm cuối cùng, nên gọi là Trung. Tự tâm này là Trung. Hữu Học, Vô học: là tâm vô lậu. Phi học, phi Vô học: Thiện hữu lậu và vô ký xả thọ, không dùng vô lậu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói thọ thân: là Nguyện sinh thân Nahàm này với căn cơ nhạy bén, đã từ lâu, nhàm chán sinh vào cõi Dục và thời gian thân trung ấm cõi Dục vẫn diệt trong đây, không nguyện thọ sinh ở địa cõi Sắc. Tác nghiệp: Là Tu các công đức lành của bốn vô lượng. Có bốn thứ tâm: Ý nói trung ấm, lúc người Na-hàm Niết-bàn, hai trong bốn tâm này là tâm Niết-bàn.

1. Phi Học, Phi Vô học: Lúc thành quả, ở tâm vô sinh. Tâm vô sinh này không còn là Na-hàm mà nói Na-hàm. Ở trung ấm có tâm này: Vẫn là danh hiệu Na-hàm, nếu mới vào trung ấm là Na-hàm và khi Na-hàm sắp nhập Niết-bàn, đã được La-hán, tâm vô sinh này không phải hai trí tận vô sinh. Do đó, nên không được gọi là Vô học.

2. Tâm học: Là nói khi chưa được La-hán, vì cầu tiến nên được tâm học.

3. Tâm Vô học: La-hán chứng hai trí vô sinh, được gọi là tâm Vô học.

4. Tâm phi Học, phi Vô học: Trở thành tâm vô ký của quả báo La-hán. Dùng hai thứ phi học, phi Vô học để nhập Niết-bàn. Hai tâm trung gian thì “Phi”.

Phi học, phi Vô học ở trước: Tâm quán “Không” này không phải là thành quả của dứt kiết, chỉ đi trong quán “Không”, vì muốn nhập Niết-bàn, nên lấy phi học, phi Vô học ở sau. Nếu dựa vào cách giải thích về La-hán trong bốn phần Tỳ-đàm thì sẽ tùy ý (nhậm vận) được nhập Niết-bàn. Cho nên lúc trung ấm nhập chỉ dùng hai tâm, còn hai tâm trung gian thì không sử dụng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thọ thân Niết-bàn: Kế là giải thích về người thứ hai. Người này thọ chánh sinh của Sơ thiền, dứt hết kiết của ba cõi, liền thành La-hán, được gọi là thọ thân Niết-bàn.”

“Này người thiện nam! Hành Bát-niết-bàn là thường tu hành đạo nghiệp” cho đến “Đó gọi là Vô hành Bát-niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tu hành xong, không có tu hành, là sự khác nhau giữa căn cơ nhạy bén, chậm lụt trong thọ thân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Về hành Bát-niết-bàn, kế là giải thích về người thứ ba, chỉ vì thọ chánh sinh của Sơ thiền. Căn cơ có sự đặc biệt giữa ba phẩm nhạy bén, chậm lụt. Người này rất chậm lụt, cùng cực hành đạo trong sinh, sau đó mới đắc quả, gọi là hành Bát-niết-bàn.”

Đạo Tuệ ghi: Hoặc lại hai thân: Lại nêu ra ngoài khác nhau trong hành Niết-bàn thứ ba, như luận gia chỉ nói rằng, có ba người trong Sơ thiền. Ở đây nói hoặc hai thân, bốn thân, chứ không phải hành trên, tức là không chỉ Sơ thiền.”

“Hạng thượng lưu Bát-niết-bàn, nếu có người được” cho đến “Đến đệ bốn thiền cũng vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hàng phục kiết, sinh đệ bốn thiền, vì dòng phiền não lui sụt, dòng chung thì tiến lên, trên, dưới đều trở về dòng, gọi là thượng lưu, khác với thuyết thường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói thời gian sau khi được bốn thiền, khởi tâm ái Sơ thiền, lùi lại sinh Sơ thiền. Nếu theo số luận thì không có sinh lui sụt, cũng có thể nói thân này chỉ ở Sơ thiền, sau khi được tâm bốn thiền, lúc bấy giờ lại khởi tâm ái Sơ thiền, nên nói lui sụt, thật ra không phải là sinh ra lui sụt. Từ dòng đạo này, tức là trở lại dứt kiết, đến bốn thiền.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích người thứ năm. Từ giải thích chánh sinh của Sơ thiền, thọ báo của nhị thiền trở lên, được gọi là chung là người thượng lưu, nếu có người được thiền thứ bốn xong, lùi lại sinh Sơ thiền, chỉ lời nói này thì không phải nói về người Na-hàm dứt kiết của địa dưới. “Hoặc” ở ba thiền đã hết, đâu còn lui sụt. Đây là người của dòng phiền não, phần vị của phàm phu.

Đã giải thích người Na-hàm, vì sao lại dẫn phàm phu này? Vì quở trách nỗi hoài nghi của chúng sinh. Nếu từ địa dưới hướng lên địa trên, cũng gọi là thượng lưu. Từ thượng lưu, nhưng là sự “Pháp nhĩ”. So sánh với thượng lưu, nếu vì giống như gió từ hướng đông thổi đến, thì gọi là gió đông. Nước từ phía Tây chảy đến, thì gọi là dòng Đông, đó là nói theo gió. Từ chỗ đã đến để đặt tên, nước là lời nói. Y cứ chỗ hướng đến thì việc của hai người này đồng nhau. Ở đây, e rằng người tìm kiếm là sai trái, lầm lẫn, nên dẫn phàm phu, nhằm phân biệt chánh, dùng dòng đạo gọi là người Na-hàm. Không lấy dòng phiền não, nghĩa là vì người thượng lưu.

“Trong bốn thiền này lại có hai loại” cho đến “Hạng ưa nghị luận thì ở năm tầng trời tịnh cư.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:

1. “Người nhập cõi Vô sắc, chính là thượng lưu, vì chia thành cõi vô Sắc, nên là sự khác nhau trong dòng.

2. Người thích trí tuệ, giải thích lý do chia ra định tuệ bằng nhau của bốn thiền. Định của cõi Vô sắc, thì tuệ nhiều, tu ít, đồng thích tuệ, không ưa thích định. Một trong, hai ngoài. Trong là thân mình, ngoài là thân người. Định, tuệ của Trung ấm dù yếu ớt, nhưng đạo của trung ấm rất mạnh mẽ, phiền não thô động, thấy tai hại lỗi lầm, riêng được Niết-bàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là, giải thích về người thứ bảy trong môn thứ tư, chỉ tự người hiện diệt thứ nhất trong hai môn đầu, không giải thích. Kế là, người thứ sáu trong sáu môn cũng không giải thích. Vì sao? Vì nói thần căn của người này rất nhạy bén, có khả năng biện minh tức khắc bốn quả trong một thân. Ý chỉ đó không có cong vạy, ý đổi thay mà không tỏ bày. Nếu ý chỉ ấy không như vậy, thì cũng chớ so lường lý do của ý chỉ đó. Nói về sở thích của chúng sinh khác nhau: Nếu là người ưa thích biện luận thì sinh lên Năm tịnh cư. Nếu là người ưa vắng lặng, thì sẽ sinh lên cõi Vô sắc.”

“Lại có hai hạng: Một là tu huân tập thiền” cho đến “Thì sẽ quở trách định cõi Vô sắc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai người như vậy:

  1. Huân tu thiền.
  2. Không tu.

a) Tu: nghiệp trở lại trong Bốn thiền, chỗ thọ sinh khác nhau.

b) Không tu: thì không có nghiệp như số này. Kinh gia tạo ra pháp huân tu thiền rằng: Từ tâm vô lậu xuất, huân tu thiện hữu lại làm cho lý lẽ sáng suốt. Nếu như vậy tức là bậc Thánh lại khởi nghiệp. Kinh nói: “Đâu nói bậc Thánh hoàn toàn không tạo nghiệp mới? Phải biết rằng, những gì nay giải thích, chính là nghiệp trong bốn thiền xưa, nói thẳng là bậc Thánh đã vận dụng năng lực vô lậu tự tại, có thể thay đổi nghiệp xưa, việc sinh về chỗ riêng thì sẽ không có nhân riêng. Hỏi: Vì sao? Vì Phàm, Thánh trong Bốn thiền đều cùng chỗ, thường huyên náo, lẫn lộn, vì không thể sinh trí tuệ sâu xa, nên quay lại nghiệp này, sinh về xứ khác. Nếu sinh về xứ đó, thì sẽ cách xa quả báo của phàm phu, tức là tĩnh lự soi rọi ở tâm, mặt trời trí tuệ xán lạn. Cho nên kinh gọi người thích luận bàn, thì sinh lên năm tầng trời tịnh cư.

Đã giải thích về sáu người rồi, chúng sinh lại hướng về giải thích bậc trung Bát-niết-bàn, sinh ra hai điều nghi.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Trong cõi Dục có trung Bát-niết-bàn, cõi Sắc không có.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp vì chúng sinh nên hỏi. Câu hỏi thứ nhất: Nói về “Trung Niết-bàn. Lại nếu thần căn đã nhạy bén, sao hiện tại không nhập Niết-bàn?” câu hỏi thứ hai: “Sao cõi Dục có Trung Niết-bàn, mà cõi Sắc không có?”

“Này người thiện nam! Người mang thân bốn đại trong hiện tại rất yếu kém” cho đến “Cho nên không được Niết-bàn hiện tại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đức Phật không đáp theo thứ lớp. Trước đáp câu hỏi rằng: “Thần tình của người này dù nhạy bén, nhưng ở hiện tại, vì “Duyên” vào đạo không đủ, nên phải làm thân trung ấm, không được nhập diệt ngay trong hiện tại.”

“Này người thiện nam! Như điều ông hỏi: “Vì sao” cho đến “Tham lam keo kiệt, giận dữ, nên gọi là Trụ.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi sau: Thọ sinh cõi Dục là địa khổ, cũng phải nương vào duyên ngoài giúp đỡ, thì báo thân mới được lập. Nhưng chính vì dùng báo thân này, nên đã bị duyên phiền não ép ngặt, cho nên đến sau này quán sát cõi Dục là lý do phát ngộ, cho nên ở cõi Dục có trung ấm. Cõi trên là địa thiền, không đợi duyên giúp sức bên ngoài. Lại vì không có khổ lớn, nên không có trung Niết-bàn.”

“Này người thiện nam! Người đến bờ kia, dụ cho A-la-hán” cho đến “Cho nên dụ như rùa thần, vì ở dưới nước, hay trên đất liền đều qua lại một cách thong dong.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích người thứ bảy, từ La-hán trở lên đến Chư Phật, vì gọi chung là một người, nên mượn dụ rùa thần có thể lội dưới nước, đi trên đất liền. Chỉ vì giỏi việc lội dưới nước, đi trên đất liền, như văn đã kiết hợp. Trong sông thế gian, dù có bảy thứ khác nhau, nhưng đều không lìa nước. Trong Niết-bàn cũng giống như vậy, chính là có sự khác nhau giữa bảy người, cũng đều không lìa nước Phật tánh, chỉ vì nghĩa Phật tánh tùy từng việc mà gồm thâu: hoặc “Duyên” nhân, hoặc cảnh giới, rất nhiều như vậy, hoặc nhân, hoặc quả đều là Phật tánh.”

“Này người thiện nam! Như bảy hạng chúng sinh trong sông Hằng” cho đến “Đó gọi là tùy tự ý ngữ của Như Lai.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích đều là phương tiện của Phật.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu có nhân” cho đến “Thế nào là Sa-môn? Thế nào là quả Sa-môn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói quả là thường, thành nghĩa bên kia bờ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại hỏi: “Niết-bàn không có thể của nhân, lẽ ra không phải là quả mới phải?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại nêu lên hai câu hỏi:

  1. Nếu Niết-bàn không có nhân, thì làm sao gọi là quả?
  2. Niết-bàn cũng gọi là Sa-môn, thế nào là Sa-môn? Thế nào là quả Sa-môn?

“Này người thiện nam! Tất cả thế gian có bảy thứ quả” cho đến “Tức là pháp lành đã tu trong vô lượng đời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu bảy thứ quả này với ý muốn chứng lấy quả xa lìa sau cùng.”

“Này người thiện nam! Như pháp thế gian, hoặc nói sinh nhân” cho đến “Chỉ có liễu nhân, không có sinh nhân.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh nhân của pháp hữu vi có hai thứ:

  1. Do nghiệp sinh, gọi là sinh nhân.
  2. Vì gần là sinh nhân.

Liễu nhân cũng có hai thứ:

1. Vì quả bất sinh, nên gọi là liễu.

2. Vì xa là liễu, pháp hữu vi khởi, nhân có chỗ sinh, nên gọi là sinh nhân, mà sinh nhân có gần, có xa. Xa thì gọi là “Liễu”, xuất thế cũng giống như vậy, nghĩa là xuất thế thì vô vi. Vô vi thì không có khởi nhân, không có sinh, gọi là liễu nhân. Có gần, xa: Gần thì gọi là sinh nhân, sinh nhân là phiền não bất sinh, tức Niết-bàn. Thân, miệng, ý thanh tịnh, đều dứt hết phiền não. Ba thoát là gần, gọi là sinh nhân, cũng là Niết-bàn mà tạo ra liễu nhân, ba mươi bảy phẩm cũng có gần xa. Xa gọi là liễu nhân, thấy rõ ràng đối với Niết-bàn, nói là không có sinh nhân, đáp câu hỏi trên, thấy Niết-bàn là quả, vì không có sinh nhân, nên gọi là “Thường”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói Niết-bàn là quả của liễu nhân, chứ không phải là chỗ sinh của sinh nhân. Ba môn giải thoát…, tạo ra bất có sinh đối với phiền não. Vì mạnh mẽ, cho nên lập ra sinh, sinh không phải nhân.”

“Này người thiện nam! Như ông hỏi: “Thế nào là Sa-môn” cho đến “Đó gọi là Sa-môn, quả Sa-môn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước nói là thể của đạo quả, dưới tự giải thích danh nghĩa. Vì muốn đáp câu hỏi thứ hai, nên nói Sa-mônna, tức tám Chánh đạo.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Vì sao” cho đến “Cho nên được gọi là Sa-môn-na.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hữu vi yếu kém, gọi là thiếu thốn. Sự khác nhau của sáu đường, gọi là đạo. Tám đạo từ đối tượng đoạn mà được gọi tên.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây nói đạo dứt thiếu thốn chỉ là sinh tử. Đạo dứt thiếu thốn có thể không dứt tất cả quả báo phiền não, có tám Chánh đạo, tức hạnh tràn đầy, nghiệp phiền lụy tiêu tan hết, gọi là quả Sa-môn.”

“Này người thiện nam! Bậc A-la-hán tu đạo này” cho đến “Gọi là A-la-hán được đến bờ bên kia.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích về pháp của bờ bên kia. Năm phần trên là chung. Ở đây nói rộng về hai giải thoát tri kiến, thân qua đến bờ bên kia.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nêu bốn trí để kiết luận. Nói đủ bảy đức tròn đầy này, tức gọi là đến bờ bên kia.”

“Như A-la-hán, Bích-chi-Phật” cho đến “Vì được quả nên gọi là đầy đủ”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Được đạo vô thượng, mới gọi là đầy đủ, chỉ có mình Phật. Gọi chung Bồ-tát, là vì đạo đồng, mới đối với người Nhị thừa cũng là bờ bên kia.”

“Này người thiện nam! Bảy hạng chúng sinh này không tu thân” cho đến “Vượt qua sông sinh tử, đến bờ bên kia.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói rộng về nghĩa đầy đủ. Ở đây lại nêu bày tóm tắt.”

“Hoặc có thuyết nói: “Người nhất-xiển-đề” cho đến “Nếu nói không được thì đó là luống dối.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói rằng hiện tại được không được, vị lai được, không được, sớm gọi là đắm, chứng tánh là luống dối.”

“Này người thiện nam! Trong bảy hạng người này, hoặc có một người đủ bảy, hoặc có bảy người, mỗi người đều có một.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một người đủ bảy, nghĩa là nói một người của ba đời, mỗi người đều có một, nghĩa là y cứ ở hiện tại.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giả gọi một người, đương lai sẽ đầy đủ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói theo đầu cuối thì Đức Phật cũng từng làm xiển-đề, cho nên một người đủ bảy. Nói theo đương vị thì mỗi người đều có một.”

“Này người thiện nam! Nếu có người tướng tâm miệng khác nhau,” cho đến “Nên biết, người này chê bai Phật, Pháp, Tăng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói tưởng “Có”, “Không” của bảy tánh, chắc chắn sẽ thấy khác, nói khác, tức là chê bai Phật. Tâm thấy tướng khác, miệng khác với bảy tướng mà nói cũng giống như vậy. Sau đây, tự có giải thích:

Tám phần Thánh đạo, cuối cùng chẳng phải là phàm phu được, nghĩa là được thì hiện tại không được, vị lai không được. Vị lai không được thì nói lời chê bai.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nói thể của tám Chánh đạo kia, lúc được quả thì tự là quả, lúc bất thiện tự là bất thiện, ý nói nhân quả không lìa. Nếu có xiển-đề đã được Bồ-đề, hoặc đều không được, đều gọi là chê bai Phật, Pháp, Tăng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là trở lại đoạn văn thứ năm trong phần phát sinh pháp lành, nêu câu kiết được, mất. Trước nói rộng về lỗi lầm. Câu một, hai sau đây được nói song song, vì dù nêu việc mất, thầm dứt mất đoạn văn kia, nhưng không thể ngay văn mà dùng.”

“Hoặc có thuyết nói: “Phật tánh của chúng sinh” cho đến “Vì tùy ý ngữ, nên gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không” đối với chúng sinh là “hữu”, thường không thể thấy, Phật tánh cũng có. Tu đạo thí thấy, chứ chẳng phải “Không có” như sừng thỏ. Sừng thỏ hiện “Không có”, không thể dùng phương tiện mà được Phật tánh cũng không thể dùng phương tiện mà được. Vì hư không là thường, nghĩa là thường không thể nhìn thấy. Vì sừng thỏ “Không có” nghĩa là “Không” thể sinh được.”

Vừa có vừa không có: “Có” là “Sẽ có”, “Không có” là hiện tại không có. Vì “Có” nên đả phá sừng thỏ. “Sẽ có” là có thể có, khác với sừng thỏ. Vì “Không có”, nên đả phá hư không, nghĩa là hiện tại dù không thấy, nhưng cuối cùng, sẽ thấy, chẳng đồng với “Không”.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói” cho đến “Thế nào gọi là như hư không?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phần sáu của đoạn lớn, nói về môn “Thường”. Sở sĩ nói về “Thường”, là vì phân biệt được Phật tánh, trở lại sinh gốc lành, khéo được quả thường. Nói về “Thường” chỉ có hai thứ:

  1. Vô thường, là hư không.
  2. Hữu thường, là Phật tánh.

Vô thường, không thể tu được. Hữu thường, tu đạo thì thấy. Vì muốn cho người nhận thức được quả thường, tu nhân thường, không cho Phạm Thiên… là thường. Trải qua từ đầu cho đến hiện nay, Đức Phật đã dùng “Không” dụ cho tánh. Trên đã nói rằng hữu, chẳng như hư không. Nay, hỏi về ý của nói ví dụ xưa kia.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ý hỏi: “Nếu Phật tánh chẳng thuộc về ba đời mà gọi là “Có”, thì hư không cũng chẳng thuộc ba đời, lẽ ra cũng là có? Đây đều là hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vật tình đối với lý tánh của nhân quả đã quyết định, tức là muốn tu thân, nếu không nhận thức quả, thì sẽ không do đâu để tiến tu, nên nêu thể của Phật tánh chẳng thuộc về ba đời, cho nên người có nhận thức thì sẽ đồng được ở vị lai. Phẩm Sư Tử Hống ở trước dù đã nói về thể của quả là “Thường”, nhưng rốt cuộc vẫn chưa giải thích đúng về sự khác nhau giữa “có”, “Không” của thể quả này. Nay, phân biệt hư không dù “Thường”, mà tánh nó là “Không”. Niếtbàn diệu hữu, với tánh vắng lặng, đều chẳng phải ba đời, mà có hữu, vô khác nhau .”

“Này người thiện nam! Tánh của hư không chẳng phải quá khứ” cho đến “Ta nói Phật tánh cũng như hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không” có bốn nghĩa, dùng để dụ cho tánh:

  1. Không có ba đời.
  2. Chẳng phải vật.
  3. Không có trong, ngoài.
  4. Không có ngăn ngại.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì ý Phật chẳng phải ba pháp này, nên nói là “Có”. Phiền não đối với Niết-bàn, Xiển-đề đối với Như Lai. Vô tình đối với Phật tánh. Vì ba cặp này, nên có hư không chẳng có đối, đâu được là “Có”.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nay, y cứ vào một đoạn thuyết này có bốn lượt gọi “Này người thiện nam! Về nghĩa:

1. Nói về thể của quả Phật là “Thường”, khác hẳn với “Thường” của hư không. Dù hai thường đồng nhau, nhưng ý chỉ của “Thường” là khác nhau.

2. Chúng sinh lại sinh ra ngờ vực: Nếu hai “Thường” đều chẳng thuộc về ba đời thì sao không gọi là “Có”, mà một “Có” một “Không”.” Phật giải thích rằng: thường ấy là đồng, phải có một đối trị, có thể gọi là hữu, mà hư không là vật, chẳng phải không thể đối trị, cho nên là vô.

3. Quở trách ngoại đạo chấp ngang trái hư không là nghĩa “Có”.

4. Dẫn chứng nói về người trí của ba đời, đều nói như vậy. Nay ở môn đầu, tóm lược phát ra vài việc để nói về tướng khác nhau của hai “Thường” kia. Nhưng trong văn, Phật đã nói lên ý chỉ “Thường” kia, lý tự rõ ràng.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Lìa các vật vô tình này, gọi là Phật tánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngoại đạo nói “Không” là pháp “Hữu”, cho nên phải nói rõ. Hiệu chung của thân tâm Như Lai, tánh là tên khác của ngộ, giải. Niết-bàn là tên chung của diệt khổ. Ba nghĩa khác nhau mà thường nhất, gọi riêng là “Chẳng phải Niết-bàn”, gọi là Niết-bàn. Thế Đế là pháp có, có , không, đúng, sai đều là tương đối. Hư không, thế đế nói là “Không”. Tất cả pháp phiền não hữu vi: Phiền não là nhân, hữu vi là quả. Nhân, quả là khổ, diệt là vui. Nhất-xiển-đề đến Bích-chi-phật: sáu độ là như đạo. Nương như đạo mà đến, nên gọi là Như Lai. Những nhân quả này không nương như đạo, Bồ-tát thì nương như đạo, mà vì chưa đến nên bỏ. Vật vô tình: Vô tình không có tánh ngộ thoát, là chẳng phải tánh.”

“Này người thiện nam! Tất cả thế gian chẳng có pháp nào không phải hư không” cho đến “Lìa bốn ấm rồi, thì không có hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế gian trụ trong hư không, vì không có chỗ chẳng phải hư không đối với “Không”, cho nên chẳng có đối. Chẳng có gì không phải bốn đại đối với bốn đại: tánh “Sắc” chẳng phải “Không”. Trụ ở trong “Không” đều là không đối với không, nghĩa là tâm dựa vào đại khởi, cũng đều là đại đối với đại, đâu được gọi bốn đại là có ư? Đức Phật không đáp, vì bốn đại kia chẳng quyết định. Dùng trí đáp để đáp. Vì sao? Vì đối tượng mà sáu thức nương tựa đều khác. Năm thức dựa vào đại, ý thức không nương tựa. Vì vô “Sắc” chẳng trụ “Không”, nên chẳng quyết định.

Niết-bàn là cuối cùng, yên ổn đến bờ kia: Đó đều là xưa không được mà nay được, “Không” vô nghĩa này. Lìa thuyết như vậy, cuối cùng thuộc về ba đời… . Lìa ba pháp, Như Lai, Phật tánh v.v… Ba pháp là hữu vi, nếu hư không là đồng, thì đồng ở ngoài ba pháp. Thuyết của người đời nói, cuối cùng chẳng thể không thuộc về ba đời, nghĩa là Đức Phật nói hai nhóm pháp Sắc và Vô sắc cho đến có thể thấy, không thể thấy. Sắc là bốn đại, chẳng phải sắc là tâm sở,”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng có gì không phải là đối của bốn đại. Vì câu hỏi này thô, nên Phật trí đáp. Như người đời nói Không chẳng phải sắc là tâm sở, sau đây sẽ nói rộng về hiểu tà, đều chẳng được tướng “Không”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bắt đầu câu hỏi thứ hai, chính là giải thích ý khác nhau, nêu lên hư không để quyết định Niết-bàn. Nay, cả hai câu hỏi đều “Có”. Nay, Phật đáp rằng: “Dù đồng là “Thường”, nhưng phải là quả Phật có đối trị mà chẳng phải “Không có”. Nói ba pháp: Như Lai, Phật tánh, Niết-bàn, vì đồng có đối tượng trị, nên thuộc về “Có”. Vì thế dưới đây sẽ bỏ hai cách giải thích về ba nghĩa này, vì chẳng phải Niết-bàn: là pháp sinh tử, chính là đối tượng trị sinh tử này, vì quả luống dối đã diệt hết, nên gọi là Niết-bàn. Là chẳng phải Như Lai: Phái Nhị thừa, xiển-đề có tâm chấp tướng nặng, nên không thể hiểu đúng như lý. Như Lai có khả năng dứt sự hiểu biết không đúng như lý này, vì được hiểu biết đúng lý nên gọi là Như Lai.

Vì chẳng phải Phật tánh: Vì là chúng sinh cho nên không thấy Phật tánh do có nghiệp báo phiền não, nên phải dựa vào quả mà giúp thân. Đức Phật đã dứt hết nghiệp báo, không có gì cần thiết, tức là soi sáng cùng tận lý Phật tánh, là nói nghĩa bóng tối che chướng, nghiêng về đối trị hết nghiệp báo này ở hiện tại, nên gọi là Phật tánh. Tất cả thế gian chẳng có gì chẳng phải hư không đối với hư không. Thế gian chẳng có một vật nào chẳng phải hư không. Lại vì, bị hư không đối trị, nên đâu được hỏi rằng: “Hư không là ý hiểu biết bất chính. Tuy nhiên đối với tình chấp chúng sinh chưa bỏ, nên Bồ-tát Ca-diếp từ đây về sau sẽ lập ra một điều. Nếu hư không có bị đối trị thì chẳng thể là “Có”. Nay, lúc bốn đại khởi, cũng chẳng bị đối trị, vì sao gọi riêng bốn đại là “Có”? Hư không là vô, lời lẽ quyết định đã như vậy. Nay, Đức Phật vì sẽ giải thích, nên đều nói rằng: “Hư không cũng đồng với Niết-bàn là “Có”, nghĩa ấy không đúng! Vì sao? Vì nói Niết-bàn là “Có”, có thể thấy, có thể chứng đắc, có thể tạo ra các thứ sắc thích ứng, có muôn công dụng của tám ngã, rõ ràng có thể được, là hiện có. Hư không chẳng có dụng này, làm sao là “Có”? Hư không đã chẳng phải như Niết-bàn này. Sau đó, Đức Phật đáp câu hỏi: Từ “Nếu lìa pháp như vậy, lại có pháp” trở xuống, đã đối với quyết định ở trước: Nếu làm cho lìa pháp như vậy, có riêng một pháp mà là “Có” thì cái “Có” này sẽ thuộc về ba đời. Nếu hư không đều là “Có” thì lẽ ra thuộc về ba đời, là pháp vô thường? Đáp về lý đã bày tỏ. Đức Phật lại dẫn việc, lại hỏi Bồ-tát Ca-diếp rằng: “Như người đời nói hư không gọi là chẳng có sắc, chẳng có đối”. Nếu hư không chẳng phải sắc mà là “Có”, thì lẽ ra tức pháp tâm sở? Nếu là tâm sở thì chẳng thể không thuộc về ba đời, tức đồng với bốn ấm!?”

“Này người thiện nam! Các ngoại đạo nói” cho đến “Nếu thuộc về ba đời thì sao lại nói là thường?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngoại đạo gọi hư không là sắc, có đối để thấy. Phật nói chẳng phải sắc, chẳng có đối, chẳng thể trông thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn văn thứ ba, là phá chấp của ngoại đạo. Về nghĩa đúng nói hư không là “Không có”, mà nhà ngoại đạo lại chấp là “Có”, cho nên phải phá: “Nếu ông nói hư không là ánh sáng, rồi chấp cho là chỗ trụ, thì tức là sắc pháp. Nếu là sắc pháp, thì tức là có nơi chốn khác nhau, thuộc về ba đời, là pháp vô thường!?” Nói về hư không chẳng lìa ba pháp Phật lại tạo ra tướng để phá muôn pháp “Có” “Không”, đều chẳng lìa ba pháp này. Ông chấp hư không ở trong pháp nào? “Không” lấy trực tiếp chỗ không có vật thể để gọi là không Thật, là như sắc pháp cột, gỗ…. “Không thật” là mé hữu, vô. Nếu nói hư không ở trong pháp không, thì lẽ ra là vô thường? Vì sao? Vì hư không này chẳng khắp chỗ thật và “Không thật” tức là số phần. Nếu là số phần, thì không khỏi vô thường, thật khác với “Không thật”. Hai pháp lại dẫm đạp nhau. Ý phá như trước, đều có lỗi không khắp.”

Nầy người thiện nam! Nếu lại có thuyết nói về hư không” cho đến “Nếu hư không như vậy thì lẽ ra là vô thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì chỗ thật là không thì chẳng khắp, lẽ ra là vô thường. Hai chỗ là không nghĩa là chỗ thật thì chẳng không, chỗ không thì chẳng thật.”

“Này người thiện nam! Người thế gian nói trong tất cả pháp” cho đến “Hư không chẳng có ngăn ngại, đều hợp với “Có”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đều có nơi chốn, gọi là tất cả có. Chỗ bị chấp có hai thì đều là vô thường, nghĩa là theo vật.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã phá ba câu này xong. Về sau, lại kiết rằng: “Hư không là vô. Lại như người đời nói “Tất cả nơi nào không có ngăn ngại đều gọi là hư không”. Đức Phật lại lập ra câu hỏi: “Nếu chỗ không có trở ngại, gọi là hư không, thì hư không này được xem là tất cả đều đầy đủ, có khắp nơi là “Có” chỗ, “Không có” chỗ, thì sẽ là phần “Có. Nếu “Có” đầy đủ ở nơi này thì nơi khác sẽ “Không”, vì tất cả chỗ không thể khắp được, hư không của ông đã là “Có”, thì làm sao khắp được? Nếu không khắp thì có thể đếm pháp kia, đây là vô thường!” Lại nếu có người nói: “Hư không chẳng có trở ngại, đều kiết hợp với “Có”, cũng không có việc ấy.”

Lại có thuyết nói: “Hư không ở trong vật, như trái cây trong chậu”. Cho nên biết chẳng có hư không.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chim thì lay động, cây thì vắng lặng, gọi là khác nhau. Hai con dê húc nhau cả hai đều cùng cử động, gọi là chung. Hai ngón tay chập lại một chỗ. Trước ngón tay có hư không, trước hư không đã có ngón tay. Có hai hư không, hai “Có” chập lại một chỗ. Nếu có nghiệp không, kiết hợp với vật, “Không” thì vô thường, là vật thì trụ, hư không thì động, mà đã là động thì vô thường. Vật thể thì không khắp. Vì vật thể không khắp, cho nên động. Vì không khắp, nên vô thường. Sau đây sẽ nói về lỗi chẳng hư không khắp.

Nếu hư không là thường thì vật lẽ ra cũng là thường: Nếu vật thể lay động không có hư không, thì hư không sẽ không khắp. Không khắp mà thường, thì vật lẽ ra cũng là thường? Nếu hư không và vật là đồng, vừa thường vừa vô thường, thì không có việc đó! Nếu nói hư không là thường, thì ở trước chánh pháp một vật thể khởi, sau kiết hợp lại. Trước đó là khắp, sau kiết hợp là không khắp. Khắp là thường, không khắp là vô thường, thì không có việc đó! Trước không có kiết hợp, cuối cùng là pháp vô thường, nghĩa là nếu đã hợp chung, hợp chung thì hợp có trước, sau. Hợp sau vốn “Không” hợp trước cũng giống như vậy, đều là vô thường. Trước khi không có chậu đựng, cuối cùng thế nào? Nói khắp, thì chậu đựng thì trước không nay có khi chưa có chậu đựng, lẽ ra có chỗ ở. Chỗ ở khác, hư không khác, không nên nói là thường, nói là khắp.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu hư không lìa hư không mà có trụ thì câu hỏi trên sẽ hợp với hư không, câu hỏi ở đây sẽ lìa hư không. Nếu hư không hợp với “Có” thì tức là “Không” đồng với “Hữu”, tức là lìa không mà trụ. Có vật lẽ ra cũng lìa không mà trụ, đều là câu hỏi; nghĩa là có vật thể kiết hợp thì lẽ ra lìa “Hữu” chỉ là “Không”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lại nói: “Hư không ở tại vật, như trái cây trong chậu. Vì cả hai đều không đúng, nên trước giả tạo ra ba pháp, sau đả phá lối chấp đều kiết hợp của ngoại đạo kia. Sau sẽ phá riêng chấp hư không ở trong chậu:

“Nếu kiết hợp với “Hữu” thì có ba pháp kiết hợp:

  1. Nghiệp khác kiết hợp, như chim bay tụ lại đậu trên cây. Cây vốn không xao động, vì chim bay đến đậu trên cây, nên nói là nghiệp khác.
  2. Nghiệp kiết hợp chung, như hai con dê cụng nhau, nghĩa là hai động vật đều cử động, nên nói là hai nghiệp.
  3. Đã kiết hợp chung, như hai ngón tay chập lại một chỗ. Lúc trước, cả hai hợp với hai, nay vì đến kiết hợp chung, nên nói là đã kiết hợp hợp chung. Trước đã tạo ra ba câu này xong. Sau đây, theo thứ lớp, sẽ hỏi để phá:

Nếu nói là nghiệp khác kiết hợp chung, khác thì có hai:

  1. Xao động: là chim.
  2. Không xao động: là cây.

Nếu vậy, thì muôn hữu vốn không xao động như cây. Hư không của ông như chim xao động bay đến, vật kiết hợp chung là vô thường! Nếu nói vật thể kiết hợp với hư không, vật thể lại không khắp. Nếu thích hợp với không khắp, là pháp phân số.”

“Này người thiện nam! Nếu có thuyết nói “Chỗ ngón tay ở” cho đến “Vì hư không là “Chẳng có”, nên chẳng thuộc ba đời.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật nói có nương tựa hư không mà trụ, nhưng người mê lầm lại nói có pháp hư không, là có chỗ nương tựa, tức nhân duyên đối với tướng nhân quả đồng nhau. Vì nhân vô thường nên quả cũng vô thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đã phá các chấp của ngoại đạo xong. Sau, lại kiết luận rằng: “Vì hư không chẳng phải vật, nên gọi là thường, chẳng phải pháp “Có”. Phật tánh thường nhưng vì “Có”, nên chẳng thuộc ba đời.”

“Này người thiện nam! Ta hoàn toàn không tranh cãi với thế gian” cho đến “Người trí nói “Không”, ta cũng nói “Không”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phần bảy, là nói về môn nhân. Sở dĩ phải nói về nhân, là vì ở trên đã nói rằng, chỉ ba pháp là thường, pháp khác đều vô thường, khác với thế gian, mà khác thì sẽ xảy ra tranh cãi. Nay nói vì nhân khác, nên quả khác, là từ lý mà nói khác, đồng với thế trí nói, nên không tranh cãi với thế gian,”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sau đây là đoạn thứ tư, nói về tu đạo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật dạy: “Người trí ở thế gian tức là Bồ-tát. Sau đây, sẽ bỏ đoạn văn thứ bảy trong đoạn lớn, giải thích về hai nhân khác nhau. Vì sẽ nói lý này, nên trước nối tiếp tông chỉ trên, đặt ra câu hỏi: “Người trí của thế gian nói năm ấm là vô thường. Đức Phật lại nói riêng “Ngã” là thường. Thuyết nói đã không theo nhau, sẽ thành sự tranh cãi của thế gian? Vì sao Đức Phật lại nói xa lìa điên đảo, không tranh cãi với thế gian ư?”

Nay Đức Phật đáp: “Phàm phu vì lấy ba lậu làm nhân, nên phải chịu khổ, vô thường. Phật dùng kiến giải chân vô sinh làm “Duyên” để dứt bỏ nhân hữu lậu, vì chẳng còn vô thường, nên “Tức” thể là thường. Nhân lậu, vô lậu kia đều khác nhau, đâu đồng với thế gian? Như thế tức là thảo luận một cách hợp lý, thì làm gì có sai trái mà phải tranh cãi?

Nay, y theo văn này, rộng, lược có ba lượt, giải thích sinh tử vì dùng ba lậu làm nhân, nên thuộc về vô thường. Đức Phật vì không sử dụng ba lậu này làm nhân, nên thuộc về thường:

  1. Nói đúng là phàm phu không biết ba lậu là lỗi lầm.
  2. Nói về nguồn gốc khởi lậu của phàm phu.
  3. Nói về lậu cảm quả chỉ là khổ, không có vui. Nhưng ba lượt này, bậc Thánh đã biết được lỗi lầm, quán suốt cội nguồn của lậu kia, vì quán sát, lậu đó, nên sinh ra kiến giải, nên sẽ dứt trừ hết ba lậu, thành tựu tám Chánh đạo.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Đại Bồ-tát” cho đến “Như hoa Ưu-đàm-bát-la.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu nói theo lý thì sẽ không tranh cãi. Vì thấy lý, phải do hạnh, cho nên hỏi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật nêu mười pháp.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người trí nói “Không”, ta cũng nói “Không”.” Pháp sư Tăng Lượng nói: Xin quyết định nghĩa hữu vô.

Bồ tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cho nên nói là thường, hằng không thay đổi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ nói về chấp nhân quả khác nhau, làm câu hỏi: Nếu sự đồng mà nói khác thì lẽ ra đã ô nhiễm. “Đã lìa ba thứ” trở xuống, nếu nói theo lý thì chẳng tranh cãi, nói và thấy khác nhau, làm sao không tranh cãi được. Sắc của phàm phu trở xuống là nói nhân quả khác nhau. Nói không đến nơi thì không khỏi ô nhiễm, tranh cãi.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là sắc?” cho đến “Biết bệnh rồi mới cho thuốc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi từ đáp mà lìa, thấy lỗi thì lìa, không thấy thì theo. Hỏi lưọc mà đáp rộng.”

“Này người thiện nam! Như có người dắt người mù vào trong rừng gai” cho đến “Dù có cảm thọ quả báo, nhưng quả báo cũng nhẹ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói lìa ác có dần dầu. Sau khi biết tội lỗi của mình rồi, từ quả báo của trời, người nói lỗi lầm, sẽ được lợi của hai đời. Quả báo nhẹ, là khổ do si mê sinh khởi, vì hễ nhận thấy lỗi lầm của mình thì si mê sẽ vơi nhẹ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như có người mù vào trong rừng gai. Người mù dụ cho phàm phu, rừng gai dụ cho ba lậu. Lại ba lậu này dẫn dắt chúng sinh chịu quả báo khổ. Bỏ rừng gai để quay trở về như quả khởi thì nhân dứt. Dù cho được thoát khỏi rừng gai, nhưng thân bị trầy xước, dù cho thời gian sau, chán khổ tu đạo, nhưng cũng phải chịu tám khổ.”

“Này người thiện nam! Có bốn hạng người: Một là lúc tạo nghiệp cho đến quả báo của ngạ quỷ, súc sinh, trời, người.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc tạo nghiệp thì nặng, đến khi chịu quả báo lại nhẹ. Vì khi tạo nghiệp không thấy lỗi lầm của mình. Đến khi chịu quả báo mới thấy bốn thứ như vậy.”

“Cho nên trong Khế kinh ta nói” cho đến “Không bị pháp thế gian làm nhiễm ô.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xa lìa phiền não, hạnh quán có năm:

  1. Quán thể.
  2. Quán nhân.
  3. Quán quả.
  4. Quán nhẹ nặng.
  5. Khuyên tu đạo.

Đây là thường, phần tự hiện trong ba đoạn văn dưới:

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Tức là nhân của tham, nhân của sân, nhân của si.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về quán tâm hạnh rộng khắp ở trên, duyên theo pháp không được, đều là vô minh, “Duyên” tội lỗi nặng kia, được chia làm “Dục hữu”. Thân mạng ở cõi Dục, nhờ vào duyên ngoài. Duyên ngoài tồn tại, tình dục nặng, gọi là dục lậu. Si ở cõi trên nhẹ, gọi thẳng là hữu. Giác quán ác bên trong, cuối cùng sinh ra dục lậu, “Duyên” là tưởng ngoài. Cho nên tất cả gọi là dục lậu, lậu là các phiền não như tham, v.v… duyên trong ngoài sinh, giác quán là tưởng “duyên” chẳng phải dục. Năng sinh ra dục là dục, từ dục sinh ra là dục lậu. “Ngã” và “Ngã sở”, không thể phân biệt ấm giới, đều là vô minh. Phải biết vô minh kia là chung. Nhân tham, nhân si là ba phiền não. “Duyên” với tội nặng kia: Vô minh có cả nhẹ nặng, được làm nhân cho si.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ hai, trước giải thích, giải thích về danh nghĩa của ba lậu, sau giải thích tướng của lậu, nhân khởi lên nguồn gốc của lậu. Những gì phàm phu đã làm, tâm không thể quên, chỉ vì tự mình bị lỗi lầm, nên thành nhân của lậu. Bậc Thánh dùng đạo tự xử, vì tâm không tồn đọng điều gì, nên thành duyên của đạo. Đôi khi nói quả trong nhân, nghĩa là nói về kiến giải vô lậu, vốn chẳng phải quả báo. Vì từ chỗ xuất phát đặt tên, nên nói vô lậu là quả. Bồ-tát Cadiếp trước đây hỏi về quả vô lậu, lại nói: “Người trí dứt các quả báo, nay các bậc Thánh làm sao có được? Đức Phật đáp: “Thật ra không có quả báo vô lậu. Cho nên biết được vô lậu, là do pháp sinh tử tan nát, diệt mất, chẳng phải lại có tập đế, mà người hiểu biết gọi là vô lậu, chỉ vì không lệ thuộc ba cõi. Do cảm quả biến dịch, e rằng chẳng phải ý Thánh, nhưng hiện tại là liễu nghĩa của Đại thừa. Đức Phật tự quyết đoán rằng: “Sự thật không có quả báo vô lậu”, đâu lại cảm quả sinh tử, trở thành tập Đế ư? Kinh Thắng Man gọi nghiệp vô lậu là “Nhân”, vô minh trụ địa là “Duyên”, nghĩa là tự có ý riêng không quan hệ dùng vô lậu làm tập Đế. Năm ấm là quả của nghiệp phiền não, gởi gắm quả báo vô thường, khổ của người khác.

Ở trên, nương vào bậc Thiện tri thức, về mặt lý, vì phát được kiến giải vô lậu này trong duyên, nên nói là quả, nói về lý thì thật ra chẳng phải quả. Hoặc từ thân, tâm cho đến bên Phạm thiên, cũng là nói quả trong nhân. Tâm là nhân nhất định, nhân nhất định này có thể được thân Phạm thiên.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Bốn đại là nhân xa, phiền não cũng như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Làm nhân quả lẫn nhau; chẳng phải nữ lấy nữ, gọi là vô minh. Phân biệt tốt xấu gọi là bất thiện. Lấy tốt xấu rồi, lại thêm tướng nữ. Chín phẩm như vậy, làm nhân quả lẫn nhau. Con là nhân gần, cuối cùng, phiền não cũng giống như vậy. Dù lẫn sinh nhau mà vóc dáng người nữ là nhân xa, tướng mạo đẹp, xấu là nhân gần.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Từ vô minh sinh ra ấm, nhập, giới….”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là vô minh nội, đến nhân bên trong, bên ngoài, là phiền não. Nhân trong ngoài năng sinh ra vô minh, gọi là vô minh, như nói sắc… gọi là dục.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người trí phải quán sát nguyên nhân sinh ra phiền não.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lượt thứ hai, nói rộng về việc tạo ra hành nghiệp gì? Cuối cùng nhận phòng nhà như thế nào? Lúc bấy giờ, bạn xấu ác ở chung là xứ. Sự và hành động là đồng, ngoài là khác.

Tâm thọ sâu đậm cúng dường phòng, nhà. Chuyển hạ làm trung, nghĩa làm thêm lớn cho việc ở trên là khác.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Có thể làm lớn mạnh các thứ phiền não.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn nói về phiền não, cũng dùng phiền não quá khứ làm nhân. Như trong một chậu đựng: Từ vô thỉ đến nay, khởi vô lượng phiền não, trong chủng tử (hạt giống) dù hàng phục tạm thời, nhưng hễ gặp ái thì sinh.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Người trí quán sát thế nào” cho đến “Phiền não như vậy sẽ chịu các quả ác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lượt thứ ba nói rộng về ba thứ: Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Vô thường cũng vậy.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Có quả vô lậu” cho đến “Có công năng diệt trừ tất cả quả báo phiền não.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các ấm của bậc Thánh là quả phiền não. Nếu dứt quả thì rẽ ra không có bậc Thánh. Nói quả trong nhân, là hễ nói dứt nhân báo thì gọi là đoạn quả. Đây gọi là trong nhân nói quả. Vô lậu chẳng phải là nhân của báo, không ở trong đoạn. “Ngã” từ thân tâm: Định là tâm, Phạm thiên là quả báo của định, định sẽ được thân, gọi là định là thân. Không có quả báo vô lậu: Không có quả báo khổ vui, lại không sinh ra lậu: Không sinh ra lậu, chính là Niết-bàn, không có pháp nào để dứt.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đó gọi là trong thân có thuốc hay.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bỏ qua phần thứ tư, nói rộng về phần tu đạo thứ năm. Có “Hoặc” gọi là chúng sinh, không có “Hoặc” thì chẳng phải chúng sinh, là nhân quả phiền não. Từ “Hoặc” sinh ra “Hoặc”, không có đạo nào để tu, nói về tám đạo, cũng dùng phiền não làm nhân phát ra một nhân, hai quả. Cuối cùng vì quả ác, nên hột ác. Nhân đã qua thì quả hiện, sẽ làm hột cho vị lai. Đều ác cả ba đời. Trước dụ cho núi Tuyết, là nói trong thân có vua thuốc hay. Xét về việc thì khác với dụ ở trước, lẽ ra không có người có khả năng tu phạm hạnh thanh tịnh như vậy: Tám đạo Niết-bàn có thể tiến đến Niết-bàn, gọi là phạm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là lượt thứ ba, nói về ba lậu. Nay, Bồ-tát Ca-diếp phát câu hỏi đầu tiên: “Nếu dùng nhân quả phiền não đều cùng khắp là pháp ác thì sao lại nói rằng, trong thân chúng sinh có vua thuốc hay? Chỉ vì pháp ví dụ khác nhau. Ở trên nói “Vua thuốc hay, dụ cho pháp nhân Phật tánh”. Nay, trong đây nói rằng: “Vua thuốc hay, nghĩa là kiến giải vô lậu. Nay Đức Phật đáp: “Như thế gian nói: “Từ hột được trái. Trái này lại làm nhân cho hột. Có người không thể: Như hột lúa từ hạt lúa quá khứ sinh ra, gọi đó là quả. Nhưng hột lúa này lại có công năng sinh ra lúa vị lai, lại thành nghĩa nhân. Vật thể nhánh, lá… dù từ nhân sinh, nhưng lại có khả năng làm nhân sau. Nói về phiền não cũng vậy. Từ nhân của “Hoặc” quá khứ được năm ấm hiện nay. Trong quả hiện nay lại khởi ra nhân vị lai. Quả báo nối nhau. Ở đây có nghĩa “Tức” nhân, “Tức” quả, đã mượn ví dụ như trên. Sau đây là phát ra sự:

  1. Có quả phiền não là nhân phiền não: Là nghĩa “Nhân “Tức quả tức hạt.”
  2. Quả chẳng phải nhân, nghĩa là vô lậu giải. Đã gởi gắm trong quả báo này, tu được kiến giải này, không còn sinh sau, chỉ cho quả chẳng phải báo, nên gọi là phạm hạnh thanh tịnh.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa “Có” chưa rõ ràng, nên hỏi lại: “Quả phiền não chẳng phải nhân phiền não: phiền não khởi có nhân duyên. Dùng phiền não quá khứ làm nhân, tướng hiện tại làm duyên. Nhân duyên đều đến. Nếu dùng vô tướng làm duyên, thì nhân đến, duyên không đến, đến này là quả chứ chẳng phải nhân, gọi là phạm hạnh.”

 

Phần 7

  • Nói về ba thứ nghiệp: Thân, miệng, ý.
  • Nói về bốn thứ báo: là báo hắc, báo bạch, báo tạp, báo không hắc không bạch.
  • Nói rộng về nghiệp phiền não, lại là nghĩa sinh nhau.
  • Nói về pháp thế bậc nhất có nghĩa lậu, vô lậu.
  • Nói rộng ba mươi bảy phẩm tạo ra chín thứ danh, nói là chủ thắng đạo… .
  • Nói rộng mười tưởng, nói rộng bảy tưởng.

“Này người thiện nam! Chúng sinh quán sát thọ ấm, biết nó là nhân gần của tất cả lậu” cho đến “Vì dứt hòa hợp, nên không sinh ra thọ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích ái là nhân, lấy “Ngã” làm niềm vui, thì sẽ sinh ra yêu đắm. Mười hai nhân duyên đã gây ra thiện, ác: Lấy sinh tử làm vui. Vì không thể xa lìa, nên gọi là thời gian thọ. Do nhân duyên nào sinh ra? Kế là quán nhân của thọ. Nhân lại có nhân, từ sâu kín đến hiển rõ, nói có thể dứt. Không do trời Tự Tại sinh. Nhân cần phải đúng, đều từ duyên hợp mà sinh, nghĩa là “Duyên” hòa hợp thì chẳng phải mình, chẳng phải người, sinh không có chủ nhất định. Tức là ái, nghĩa là lạc thọ sinh ra ái, ái sinh ra lạc thọ, làm nhân quả lẫn nhau. Là trong hòa hợp, nghĩa là vì từ hòa hợp, nên chẳng phải “có”. Vì hòa hợp sinh ra nên chẳng phải “Không”. Dứt hòa hợp thì bất sinh.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây, là quán sáu pháp, đó là thọ, tưởng, xúc, dục, nghiệp, khổ. Chỉ có pháp xúc chẳng có quán riêng, mà gá vào các môn. Cho nên trước quán thọ, vì tất cả “Hoặc” khởi, đều do thọ, nên quán sát lỗi của thọ trước. Theo quán thọ, quán nhân của thọ trước. Kế là quán quả báo của thọ nặng nhẹ, ba chỗ diệt của thọ. Lậu trong ngoài trên cảnh ngoài tâm sinh, lậu hết do ba thọ khởi. Thọ như vậy vì sao lại sinh? Kế là quán nhân của thọ. Nhân duyên như thế từ đâu sinh? Vì theo thứ lớp các nhân quán, chẳng bao giờ không có nhân mà sinh.

Không từ tưởng sinh: Riêng ngoại đạo này chấp tưởng ấm của trời Vô tưởng, tưởng phi tưởng. Nếu có nhân này sinh ra thì phải dứt nhân của thọ này trước. Nhân duyên tức là thọ, nghĩa là tâm diệt từ quá khứ, cảm thọ tác nhân sinh ra. Chẳng có thọ: Trong nhân duyên không có tánh thọ, chẳng phải vô thọ: Không lìa nhân duyên mà có.”

“Này người thiện nam! Người trí quán sát nhân rồi” cho đến “Đó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu không quán quả khổ, thì sẽ không nhàm chán thọ. Vì dứt nhân của thọ, nên kế là quán quả. Nhân duyên của thọ được giải thoát, là ưa thích “Sinh” thì trói buộc, ưa thích diệt thì giải thoát. Dứt “Ngã”, “Ngã sở”, nghĩa là biết chẳng có chủ tể. Có một ít xứ diệt, nghĩa là ba tuệ dứt kiết, dùng văn tư để dứt kiết thô, gọi là rốt ráo nhỏ. Tu tuệ dứt kiết sâu, gọi là giải thoát rốt ráo. Nhận biết từ tám chánh, thì liền tu tập: Tám đạo vô lậu là tu tuệ.”

Thêm lớn thân, tâm: Tám đạo hướng về diệt mà thêm lớn trái với đạo, làm sao thêm lớn được?

Nhân duyên của “Xúc”, là văn tư quán nhân xa, tu tuệ quán nhân gần ở dưới là quán quả. Chẳng nói vô minh: là thiện hữu lậu và vô ký, tạp thực và ái, có công năng làm cho sinh tử không dứt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quán nhân đã xong, kế là quán quả: Mắc phải quả báo khổ của ba đường ác. Quả của ba đường ác này đều là báo của nhà bốn tâm, nhưng phải là không lìa thọ. Những gì là thọ? Các thọ có công năng tạo ra nhân ái. Những ái nào là? Chủ thể tạo ra nhân của thọ? Ở đây nói về nghĩa sinh lẫn nhau, ái cũng là chủ thể tạo ra nhân của thọ, thọ cũng có thể tạo ra nhân của ái.

Quán sát nhân quả nặng nhẹ đã xong. Kế là lượt thứ ba, quán chỗ thọ diệt. Nếu được năm căn mà tín, đứng đầu, hai “Không” thành tựu thì gọi là tạo ra một ít diệt, đến chánh quán vô lậu, gọi là diệt lớn. Đạo này quán thọ có ba tướng, là tướng trạng của ba thọ. Tuy nhiên ba thọ này có thể làm nhiều thêm phiền não của thân, tâm trong hành ấm. Do nhân duyên nào có thể tăng nhiều thêm? Vì từ nhân duyên ba Xúc nên sinh:

  1. Xúc vô minh, là xúc phiền não.
  2. Xúc minh: Có công năng sinh ra tám Chánh đạo vô lậu.
  3. Xúc chẳng phải minh, vô minh: Là Tâm lành của thế tục.

Thọ như vậy, vừa gọi là nhân, vừa gọi là quả: Từ xúc sinh gọi là quả. Vì năng sinh ra thọ, nên cũng gọi là nhân. Quán thọ tạo ra ba môn đã xong. Nay, kế là lại quán sát quả báo của ái: Do ái mà sinh, cho nên phải quán. Người trí quán ái lại có hai thứ ăn lẫn lộn. Ái là bốn cách ăn, vô thực ái: Là dứt bốn cách ăn chứng được vô lậu.

Nếu muốn dứt ái, thì trước phải dứt nhân của thọ, nhân gần là thọ, nhân xa là xúc, nhân quả dứt hết, thì mới được tám Chánh đạo, tức gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Người trí phải quán” cho đến “Vì tưởng, thọ diệt nên gọi là giải thoát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai việc do nhân duyên nào sinh ra? Ái thọ là gốc của sinh tử, lại là quán nhân gần. Biết do tưởng sinh: Tưởng chấp giả danh mà điên đảo có nhẹ nặng, nặng là nhân ái, nhẹ là nhân của thọ. Thấy sắc không sinh tham, nghĩa là giải thích nhân của thọ, yêu đắm sinh ra sự tham ưa, là giả nhãn thức thấy sắc, chưa được giả tưởng, lấy giả tưởng thọ được tốt, xấu. Nhẹ là nhân của thọ và khi quán thọ cũng không sinh lòng tham: Giải thích nhân của ái. Thọ từ điên đảo sinh tưởng điên đảo. Lấy thường, lạc rồi, cho đến tham ái, nặng là nhân của ái.

Tưởng có ba thứ: ít có hai thứ:

1. “Duyên” nhỏ.

2. Thời gian trụ duyên ít, cho đến vô lượng cũng như vậy. Chưa định: tâm phân tán, duyên không nhất định, cũng khi dừng lại ít. Định cõi Dục thô cũng như vậy. Vô sắc của cõi Vô sắc không bị duyên ngoài làm nghiêng động, ở lại trong định lâu làm sao nói ư?

Tưởng, thọ diệt gọi là giải thoát: Giải thích lý do tại sao Đức Phật nói tưởng, thọ là nhân hữu lậu?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người trí phải quán hai việc thọ và ái từ đâu sinh? Biết từ tưởng sinh: Từ đây trở xuống sẽ nói về hai môn theo thứ lớp. Quán tưởng tức là pháp tướng giả, nên gọi là tưởng. Hễ điên đảo “Duyên” luống dối đều không được pháp thật. Ba thứ tưởng này: Nếu “Duyên” nhỏ của tưởng tượng thì gọi là tưởng nhỏ. “Duyên” lớn của tưởng tượng, gọi là tưởng lớn. “Duyên” vô lượng của tưởng tượng, gọi là tưởng lớn. “Duyên” vô lượng của tưởng tượng gọi vô tưởng vô lượng.

Lại, có tưởng nhỏ, là người chưa nhập định, định điện quang của cõi Dục. Lại, có tưởng lớn, là người đã nhập định, địa định của tám thiền. Lại có vô lượng tưởng: Mười “Tất cả nhập”. Nếu vì ba tưởng diệt thì thọ diệt. Tưởng, thọ đã diệt, thì gọi là giải thoát.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Diệt tất cả pháp” cho đến “Người nghe cũng giải thích cho chúng sinh hiểu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích về pháp: Pháp riêng, chúng sinh chung. Nhân của tướng chung, riêng, nói một thì biết hai, nhân của tướng tâm sở. Thọ tưởng ở chỗ yêu cầu. Thọ, tưởng có thể dứt bỏ, nên biết pháp khác cũng dứt được, nên nói là cũng vậy.”

Nên gần gũi: Chỉ nói pháp lẫn lộn, người nhận hiểu cũng lẫn lộn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Do lời nói này, Bồ-tát Ca-diếp liền hỏi: “Nếu vì nói tưởng, thọ diệt có được gọi là giải thoát hay không? “Phật đáp: “Đôi khi Như Lai nhân chúng sinh nói pháp, người nghe mà hiểu, như trước kia, Đức Phật đã nói với Đại Ca-diếp: “Lúc chúng sinh diệt, pháp lành cũng diệt theo, chỉ vì pháp do con người truyền bá sâu rộng. Nếu người không còn thực hành chánh pháp nữa, thì pháp sẽ không truyền bá. Vì lấy chúng sinh để nói về pháp. Nhân pháp nói cho chúng nghe mà cũng nhận hiểu. Nói cho chúng sinh: Như Phật nói cho Tôn giả A-nan nghe:

Nếu có pháp nào sinh ra phiền não, thì không nên gần gũi, tức là ác tri thức. Nếu pháp nào có công năng sinh ra điều lành, thì nên gần gũi, là Thiện tri thức.

Đã nói pháp đáng gần gũi. Vì pháp không đáng gần gũi, nên chúng sinh liền được nhân pháp, nhận hiểu chúng sinh nào thiện, chúng sinh nào bất thiện, tức là người tốt, đáng gần gũi, người không tốt, không đáng gần gũi.”

“Này người thiện nam! Dù Như Lai nói hai “Diệt” tưởng, và thọ” cho đến “Dù có cỏ độc, cũng có thuốc hay!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu không có tưởng thì Thế đế giải thích pháp gọi là tưởng. Điều mà người đời truyền chung gọi là lưu bố. Thế đế có hai:

  1. Lý.
  2. Đảo.

“Duyên” giả danh rộng là lý, chấp có “Một”, “Khác” là đảo. Đảo thì sinh ra chấp đắm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dù nói hai “Diệt” tưởng và thọ, nhưng chính là để nói chung tất cả pháp diệt. Vì tưởng do xúc sinh ra, nên kế là quán xúc có hai thứ: Nhân vô minh mà thức khởi lên hai phiền não là tưởng và thọ. Do biết thức mà dứt phiền não được giải thoát. Vì xúc vốn gởi gắm ở các môn, nên không quán riêng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Người trí quán sát năm dục” cho đến “Dù có cỏ độc, nhưng cũng có thuốc hay.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tức là sắc, thinh, nghĩa là trước, phải quán nhân của dục. Nhân có trong, ngoài. Sắc… là bên ngoài, tưởng điên đảo là bên trong. Bèn sinh ra thọ: Tức là dục. Dục không có pháp riêng. Tưởng điên đảo phần nhiều là dục lạc, gọi là thọ. Sau mười điều ác thì tưởng khởi, gọi là tưởng của mười điều ác. Do cha, mẹ ác: Giết hại là quả báo của hành nghiệp (hành báo), địa ngục là sinh báo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế lượt thứ ba là quán dục. Dục tức năm trần, nói năm trần chẳng phải dục, mà có công năng sinh ra dục. Vì trong nhân nói quả, nên gọi là dục. Sở dĩ quán sát dục là vì nhân năm trần mà sinh thức đắm thức. Vì chấp đắm thức, nên sinh ra tưởng. nhân tưởng, nên sinh thọ. Vì thọ nên sinh ái, dục trong hành ấm. Nhưng từ năm trần đến thọ, đều là nhân của dục. Chỉ vì lỗi lầm của thức ít, nên không thực hành môn quán riêng.”

“Này người thiện nam! Người trí quán dục như vậy” cho đến “Gây ra ba nghiệp: Thân, miệng, ý.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế sẽ quán nghiệp: Tám khổ lấy sinh làm gốc. Phiền não và nghiệp kiết hợp hiện hành, sau đó mới thọ sinh. Kế là quán nghiệp, thọ, tưởng, xúc, dục tức phiền não: Tánh “Hoặc” đều là phiền não, do đầu, cuối có nhẹ, nặng khác nhau, được gọi riêng là xúc, vì không có môn riêng, vì đều là nhân của tưởng, thọ:

  1. Nghiệp tác sinh.
  2. Nghiệp tác thọ: Giúp nghiệp thọ sinh, gọi là sinh, chủ thể được sinh báo gọi là thọ.

“Này người thiện nam! Hai nghiệp thân, miệng”: Tạo tác là nghĩa “Nghiệp, ý, tánh tạo tác. Không tạo tác từ sinh thân, miệng có cả hai. Do nhân nên được gọi là nghiệp: Thân, miệng không phải là tánh tạo tác, nhân ý thức mà được gọi tên. Chánh nghiệp là ý thức, nghiệp kỳ hạn là thân, miệng: Tánh thiện, ác này gọi là chánh: Ứng với thiện, ác của người khác, gọi là kỳ hạn. Vì phát trước, nên gọi là ý. Cuối cùng được gọi là chánh: Đây là giải thích đúng: Phát trước là chủ, từ người khác là ứng. Tức vô minh, xúc: Nghiệp chủ thể chung cho bốn. Dục, nói là nhân khổ, chỉ nói vô minh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người trí quán dục rồi, phải quán nghiệp: Môn thứ tư nói về thọ, tưởng, xúc, dục, tức là phiền não. Phiền não này gây ra nghiệp: Tức chi “Hành” trong mười hai nhân duyên. Không tạo ra thọ, nghiệp: Không tạo ra nghiệp báo của kiết sử nhuận sinh. Vì sao? Vì lúc đầu gây ra nghiệp, phải là chưa thay đổi quả báo, tức là chưa dùng “Hoặc” nhuận sinh. Phiền não như vậy hiện hành chung có hai thứ: Sinh nghiệp và thọ nghiệp, nghĩa là muốn nói về phiền não thì đầu cuối không lìa nhau, lại được tác nhân, tác nghiệp lẫn nhau, cũng được tạo ra nghiệp thọ sinh.

Trở lại đến “thủ” sau, quán nghiệp đã xong, tức kế là, quán nhân, nhân chính là vô minh, xúc. Nhân si vô minh này, thức chấp lấy trong “Duyên”, cho đến sinh ra nghiệp trong hành ấm. Quán thân cũng xong, tức kế là quán sát quả báo mà nghiệp đã được:

Phẩm Thiện thượng thượng, được sinh làm người cõi Diêm-phùđề, đây là giải thích sự vượt hơn đối với đạo lý thọ sinh, khác với thuyết của giáo pháp xưa. Dù rằng hai giáo khác nhau, nhưng mỗi giáo đều tự có ý. Về nghĩa của ba thiên hạ còn lại, so sánh rất dễ biết, cũng đều khác với ý chỉ thọ sinh ở trước, là bình đẳng không giải thích riêng nữa.”

“Này người thiện nam! Người trí quán nghiệp nhân như thế rồi” cho đến “Quả báo, gọi là nghiệp vô lậu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lúc tác nghiệp là nhơ bẩn” là giải thích tên nghiệp, vì nhân bất thiện, nên phải chịu quả báo khổ!”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Dù cho có cỏ độc, cũng có thuốc hay.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa này có hai:

  1. Vừa là quả, vừa là báo.
  2. Chỉ là quả, chẳng phải báo: Quả là nhân của báo, danh từ này là chung. Vì là nhân của báo, danh từ này là riêng. Hữu lậu có hai, vô lậu chỉ có một.”

“Này người thiện nam! Vì không có quả báo, nghĩa là nghiệp từ quả báo đặt tên. Vì khổ, lạc, thọ là chánh báo. Tánh chất của khổ là đen, tánh lạc là trắng. Lấy vui chữa trị khổ, gọi là đối trị diệt khổ, vui, được vắng lặng.

Có chỗ thọ báo nhất định: Đen ở ba đường, trắng ở trời, người. Uất-đơn-việt, đối với vui ở đời thì nó là trên, đối với vui của đạo thì nó là dưới.”

“Này người thiện nam! Người trí quán nghiệp, quán phiền não xong” cho đến “Nhân khổ “Duyên” sinh khổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai sở này được, quán hai pháp

khổ, kiết hợp hiện hành. Niết-bàn được gọi là quả, hai quả tức khổ. Lìa tất cả sự thọ sinh: vì “Sinh” là gốc khổ, nên trước nói về “Sinh”.”

Lại, quán nhân duyên phiền não, kế là quán nghiệp của bốn đạo và phiền não là nhân, đạo lý khổ là quả, tên danh từ chung nhân quả gọi là “hữu đạo”. Bốn đạo sinh nhau, chớ biết về thứ lớp đó.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người trí quán nghiệp xong, kế là quán nghiệp phiền não mà được quả: Môn thứ năm là quán khổ, nói về nghiệp phiền não và khổ, lại sinh lẫn nhau. Nhân duyên của sáu đường, đều không có niềm vui nhỏ nhặt, nên bậc Thánh sẽ giúp chúng sinh dứt khổ mà tu đạo.”

“Này người thiện nam! Người trí quán sát các khổ của ba cõi như vậy” cho đến “Phải biết rằng, người này có khả năng dứt hết các khổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không gây ra nghiệp mới, làm hư hoại nghiệp cũ: Mười hai nhân duyên gồm có ba khổ, thấy ba khổ phá hoại tất cả nghiệp.

Quán tất cả địa ngục, nghĩa là quán khổ khổ. Lại, quán khổ ở cõi trời, cõi người, là quán riêng hoại khổ. Quán sâu sắc các khổ của ba cõi, nghĩa là quán riêng về hành khổ. “Nếu người trí quán tám thứ khổ” là tổng kiết.”

“Này người thiện nam! Người trí quán sâu tám khổ này xong” cho đến “Dù có cỏ độc, cũng có thuốc hay.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cầu thân, cầu của: Thân là mạng trong, của cải là mạng ngoài. Tác nghiệp làm việc thiện, ác; Thêm lớn: Là thêm lớn việc thiện, ác. Tác nghiệp: Là nghiệp tạo tác. Tạo quả: Là tạo ra nghiệp thân, miệng, tức là “Thủ”. Ái, thủ là danh từ nhẹ, nặng. Nhẹ làm nhân nặng, “Thủ” là quả. Kinh nói: Thói quen gần gũi năm dục, gọi đó là ái: ái, thủ có thêm. Kế là nhân diệt, dùng làm tánh của nhân có thêm, bớt nói ái kia có thể dứt.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đó đều là thế nào là tất cả pháp?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Đức tốt đẹp thứ tám của kinh thanh tịnh là Niết-bàn. Nhân tức là hạnh. Ba pháp Niết-bàn đều là nhân. Nói tất cả pháp như vậy mà nghĩa không quyết định. Nói là vì ý chỉ chưa rõ ràng, nên quyết định nghĩa, gốc của các pháp thiện, bất thiện. Do gốc gồm thâu ngọn, nên cũng đồng với tất cả thiện. Tri thức, gồm thâu tất cả phạm hạnh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là “Văn thứ tám trong đoạn lớn. Kế

đây sẽ nói về phần khen ngợi kinh: Nếu học theo kinh mà, thì sẽ được ra khỏi sinh tử, thành phạm hạnh thanh tịnh.”

Giáo xưa đã nói, về lý chưa đúng. Với sinh tử, vì chưa hiểu rõ về tướng trạng của nó, nên không thành chân phạm hạnh. Nay, y cứ theo đây để khen ngợi.

Gồm có ba lượt:

  1. Y cứ chung cảnh trí để khen.
  2. Y cứ riêng thể trí vô lậu của ba mươi bảy phẩm, để khen.
  3. Trải qua mười tưởng, lấy tư chất xa phát ra nghĩa để khen.

Nay, Bồ-tát Ca-diếp đã hỏi, nên Phật đáp rằng: “Là tất cả” Đây là nói chung cảnh trí, cảnh làm phát sinh sự hiểu biết, trí sinh có lý do. Vì vậy, nên gộp chung thành phạm hạnh thanh tịnh. Dù có phán quyết này, nhưng ý chỉ đó chưa sáng tỏ, nên Bồ-tát Ca-diếp lại nêu các pháp để hỏi: “Tất cả pháp không nhất định. Nay, Như Lai nhất định dùng pháp nào để làm “Tất cả”?”. Đức Phật đáp: “Kinh Đại Niết-bàn chính là kho báu của tất cả pháp, nên biết kinh này về lý, là nói đủ sáu hạnh, có công năng sinh ra tuệ, tín cho con người, nhanh chóng ra khỏi sinh tử. Vì thế đừng chớ nên nói về pháp kia, pháp này đều do Niết-bàn sinh ra, cũng tức nhờ cảnh trí này mà được Đại Niết-bàn. Cho nên đều được tạo thành Phạm hạnh thanh tịnh, nên sau đây, thường tạo ra ba mươi việc khác, nhằm khen ngợi oai lực công dụng của kinh này.”

“Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này người Thiện nam!” cho đến “Cha, mẹ của Chư Phật trong hiện tại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tất cả pháp đó là kinh pháp, khả năng cứu giúp cho những kẻ nghèo, thiếu đó là vật báu, chẳng vật báu nào không có, gọi là kho tàng. Kinh này nói quả của Phật tánh, có công năng ra khỏi sinh tử, nên gọi là báu. Nói quả, thì chẳng có pháp nào bất thường. Nói nhân thì chẳng có pháp nào không phải tánh, gọi là kho tàng. “Từ biển cả trở xuống dụ cho kho tàng, “gió mạnh trở xuống, dụ cho vật báu.”

“Này người thiện nam! Cho nên kinh này gồm thâu tất cả pháp” cho đến “Tức là ba mươi bảy pháp trợ đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trước nói về chánh nhân, lại nói về duyên nhân gần.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở trên đã y cứ chung cảnh trí. Nay, chính là dùng thể của chân vô lậu, để nói về kiến giải của chân vô tướng, vì không có chung với “Hoặc”. Nên được gọi là phạm hạnh thanh tịnh. Trong năm phương tiện, dù là sự hiểu biết tương tự, nhưng phải là thể chưa khởi “Hoặc”. Do điên đảo này, nên không phải phạm hạnh thanh tịnh.”

“Này người thiện nam! Nếu lìa ba mươi bảy phẩm như vậy” cho đến “Cho nên không được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không nói hữu lậu là phạm hạnh, nghĩa là hai thứ đạo phẩm là nói vô lậu nối nhau, cho đến Niết-bàn gọi là hạnh.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cho nên được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nêu năm thức không có phiền não, không phải điên đảo để quyết định. Chẳng phải nam, mà nghĩ là nam: Năm thức tiếp nhận nam, nữ chưa rõ, chưa thành phiền não, chẳng phải làm cho không nhận lấy, tướng chấp “Thủ” là điên đảo, năng sinh ra tham, sân.”

“Này người thiện nam! Nếu Bồ-tát đối với ba mươi bảy phẩm trợ đạo” cho đến “Rốt ráo gọi là Đại Bát-niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bảy câu đầu trong chín câu này là nhân, hai câu sau là quả. Nếu nhận biết công dụng khác nhau của nhân quả, thì sẽ biết được phạm hạnh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chuyển danh hiệu ba mươi bảy thành chín vị để nói. Vì sao? Vì phàm phu không hiểu biết, nghĩa là nói vị định không được đặt ra thuyết nhiều, ít. Nay, nói về pháp tướng không nhất định, nên chuyển thành chín vị, chỉ chia ra định tuệ, căn dặn về giới, công năng giúp đỡ sinh ra định, tuệ, chứ chẳng phải thể của chánh đạo.

Cho nên, không nhận lấy chia ra chín, gọi là bốn ý:

  1. Có bốn vị, y theo phẩm thượng, trung, hạ, để đặt tên.
  2. Có ba vị, y theo công dụng đặt tên.
  3. Một vị y cứ phần thích hợp đã trừ làm nhân.
  4. Một vị sau cùng tiêu biểu cho quả mà được tên gọi.

Bốn vị đầu, y cứ tăng tiến dần, mà được tên. Đầu tiên niệm vô lậu thứ nhất, có thể làm vốn liếng cho sự hiểu biết về sau, nên gọi phẩm vô lậu đầu tiên là căn bản. Niệm vô lậu thứ hai làm nhân: Vì khả năng sinh ra công sức sau chuyển biến mạnh mẽ, nên gọi là nhân. Niệm vô lậu thứ ba gọi là thọ: Như sau tâm của ba thọ, tức sinh phiền não. Nay nghĩa trong đây cũng đồng. Đã giải tuệ hơi sâu, vì chuyển biến công năng gồm thâu sinh ra vô lậu ở sau, nên gọi là thọ. Niệm thứ tư gọi là tăng: Mỗi niệm vô lậu này thêm sáng suốt, cho nên được thêm tên gọi. Sau đó, từ sơ trụ trở lên, theo thứ lớp sinh nhau. Cuối cùng đến trong mỗi địa của tâm Kim Cương, đều có bốn pháp này, nên biết được bốn niệm này y cứ vào sự tăng tiến, mà được gọi tên.

Kế là có ba pháp y cứ vào công dụng mà được tên gọi, nói trong mỗi phẩm đều có ba pháp này. Vì sao mà biết? Đứng đầu gọi là niệm, giữ lấy cảnh. Dẫn dắt, gọi là định: Do niệm mà giữ cảnh, tĩnh lự trong duyên mà được định, vượt hơn gọi là tuệ: Dù định có công năng giữ lấy cảnh, khiến tâm không phân tán. Nếu không có tuệ vượt hơn, hoặc không được quở trách, thì vì sức “Năng trừ” này vượt hơn, nên gọi là “Thắng”. Nếu vậy thì từ sơ trụ trở lên, Kim cương trở xuống, đương địa trong mỗi niệm đều có ba nghĩa này, nhưng không có tâm riêng.

Thật trí, đây là pháp thứ tám, lẽ ra cũng là tác dụng chung, nhưng là pháp nhỏ, khác. Vì sao? Vì nói thật, gọi là giải thoát, từ kiến giải của Sơ Trụ trở lên, trong đương địa nói là không. Hoặc chẳng giải thích về năng trị. Nay, sẽ nói về chỗ dứt trừ. Y cứ vào công đức vô vi mà người tu hành đã có được. Y cứ vào bên không có ràng buộc để tạo ra ngôn ngữ.

Thứ chín là biết rốt ráo: Nói theo lãnh vực cùng cực. Y cứ vào thể của quả Niết-bàn làm ý chỉ.”

Này người thiện nam! “Ưa muốn điều lành, chính là căn bản của việc phát đạo tâm ban đầu” cho đến “Ta nói rốt ráo tức Đại Niếtbàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sơ phát đạo tâm: Là Muốn cứu giúp chúng sinh, để phát tâm Bồ-đề. Muốn có ba thứ thiện để làm gốc cho đạo.

Có chỗ nói là Tuệ, Tín: Dục là căn bản của phát tâm. Xúc là bắt đầu của nhập hạnh, gọi là nhân duyên. Căn có nhạy bén đối với nhân duyên của tín ban đầu. Cho nên gọi là các phiền não ác đều do đức tin cầu pháp, cuối cùng dứt phiền não, đều là năng lực của niềm tin, tiến đến thành tựu quả Phật, là Tín giải thoát.

Thời gian thọ, tạo ra việc thiện, ác: Cảm thọ khổ vui, bạn lành giảng đạo. Ưa tu thì tiến đến nhiếp lấy phẩm đạo, còn ai không ưa thì lui sụt, nên nói thời gian thọ.

Sinh các phiền não: Giải thích về phiền não: Tìm niềm ưa thích thì sinh, ưa thì chủ thể dứt. Nhân tư duy tốt đẹp: Dù ưa tu đạo, nhưng phải nhận thức sự đối trị của đạo, nên khéo tư duy. Nhận thấy cần tu thì tu, phẩm đạo sẽ ngày càng tăng cao.

Cần phải chuyên niệm: Nên tu, siêng năng tu. Niệm không niệm duyên, trở thành đứng đầu các định, có thể khéo phân biệt, nên nói trí là hơn hết. Tâm định thấy các pháp, gọi là phân biệt. Nghiên cứu tỉ mỉ gọi là trí. Đầu tiên là dẫn dắt. Càng sáng suốt là vượt hơn.

Thời gian chứng giải thoát: Chứng có, không giải thoát là Niếtbàn hữu dư ra khỏi sinh tử là thật, rốt ráo là Niết-bàn Vô dư.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở trước, là Đức Phật đã qua một lần nêu tên. Nay, dưới đây sẽ bỏ thứ lớp, lại lập ra năm lớp để giải thích. Đây là lớp giải thích thứ nhất: “Căn bản là dục, dục nghĩa là tâm ưa muốn. Do danh để nói về xúc. Xúc, là tiếp xúc đối với lý ở trước, nên gọi là nói về xúc. Nhiếp lấy gọi là thọ: Nhiếp thọ các hạnh, nên gọi là thọ. Thêm, gọi là khéo tư duy: Tâm vượt hơn lý. Vì giữ gìn cảnh không dời đổi, nên gọi là chủ, gọi là niệm. Dẫn dắt gọi là định: nhiếp tâm vào một “Duyên”. Vượt hơn, gọi là trí tuệ, nghĩa là phá tan phiền não.

Thật, gọi là giải thoát: Tức là thể của trí không bị phiền não ràng buộc.

Rốt ráo gọi là Niết-bàn: Y cứ vào công dụng đều tròn đầy. Từ ưa muốn điều lành, là mới phát tâm: Sau đây là lớp giải thích thứ hai: “Từ một niệm vô lậu đầu tiên, cuối cùng đi đến thành Phật, được gọi là khéo ưa muốn. Do sự khéo ưa muốn này sẽ được thành Phật, nên gọi là căn bản. Như Lai trước đã nói không buông lung là gốc, nay mới nói dục: Nói dục là gốc, vì không buông lung giúp đỡ thành, nên gọi là “Duyên” nhân. Nếu lúc chúng sinh không hề biết gì, nhờ nương tựa Phật mới được hiểu biết. Cho nên gọi Phật là căn bản. Nay, chúng sinh biết vào thời gian tự mình chứng được, là phải do tâm ưa muốn.

Nói về xúc: Hoặc gọi là Tuệ, hoặc gọi là Tín, về nghĩa không có gì tồn tại. Vì từ niềm tin mà được kiến giải, nên giải trừ “Hoặc”, nói là giải thích Xúc.

Thọ, gọi là nhiếp thủ: Chủ thể gồm thâu sinh ra muôn điều lành, mọi điều xấu ác tiêu tan hẳn. Như sau thọ khởi nghiệp, đạo sinh sẽ dứt trừ. Nhờ khéo tư duy được lý càng sâu sắc, vì có công năng phá tan phiền não, nên gọi là Tăng”. Nhưng quán kiến giải đối trị kiết “Hoặc”, thì phải nhờ chuyên niệm, nên gọi là niệm là chủ. Lúc được định, vì có khả năng thấy rõ muôn pháp, nên gọi là dẫn dắt. Vì trí tuệ là hơn hết trong các hiểu biết, nên được gọi là Thắng. Dù được thần thông yên vui bốn thiền, nhưng không được gọi là thật. Nếu khi nào dứt bỏ hết phiền não, chứng được giải thoát, thì mới là chân thật, nên gọi là biết thật. Nếu chỉ dứt trừ một ít khổ, thì không được gọi là rốt ráo, mà phải là được Đại Niết-bàn, không có tất cả khổ, rốt ráo vô vi, mới được gọi là rốt ráo!”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Tâm nhớ nghĩ yêu mến điều lành” cho đến “Đạt được quả báo, gọi là thêm lớn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhàm chán khổ, muốn dứt trừ gọi là thiện. Cho nên, gọi xúc, là diệt khổ, phương pháp cần là ở bạn lành. Kinh nói: “Đạo là một lòng lắng nghe, lãnh thọ. Tho lãnh là khéo tư duy. Thọ là tư duy nghĩa, phẩm đạo thêm lớn. Bạch bốn lần Yết-ma, dùng giới làm người xuất gia. Bạch bốn lần được giới căn bản; hai thứ giới: là xúc, và nhân: Giới là căn bản của đạo gọi là “Nhiếp”, tức là mới phát tâm xong, chính là tương tự với không đoạn, ví như bốn phẩm gốc lành: Hạ, Trung, Thượng. Phẩm hạ, gọi là căn. Phẩm trung gọi là nhân. Phẩm Trung tương tự với phẩm Hạ.

Tăng: Cuối cùng có sinh tương tự phẩm thượng. Phẩm trung của “Diệt” gọi là tương tự. Khả năng sinh phẩm thượng thượng, gọi là sinh tương tự, vì phẩm thượng giống như phẩm thượng thượng.

Khởi phẩm hạ trung làm căn thêm lớn, tức là việc làm cuối cùng. Tăng thì có thể dùng. Ví như nấu gạo thành thức ăn. Nấu thành, gọi là nhân, khi thành cơm là tác dụng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là ba thứ còn lại, xem văn, dể thấy. Nhưng phàm phu chấp đắm cho rằng, chỉ chân vô lậu là được đặt ra chín danh từ, nên hiện nay, chỗ nào cũng đều lập ra chín vị này, cao thấp không nhất định. Cho đến tên gọi mười hai nhân duyên cũng được tạo ra chín vị này.

Với chín vị vừa kể, giải thích đã xong.

Vì con người chưa hiểu, nên Bồ-tát Ca-diếp lại hỏi: “Trước đã biết ba pháp như căn…, khác nhau là sao?” Đức Phật lại kể tiếp, giải thích lần nữa: “Ba pháp này chính là phẩm thượng, trung, hạ, theo thứ lớp sinh nhau. Vì công dụng của nhân, quả khác nhau, nên được gọi bằng ba danh từ này.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cho đến được gọi là nghĩa Ưu-bà-di.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chín phẩm trên đã nói về công dụng khác nhau theo thứ lớp của phẩm đạo, chưa nói về nghĩa hạnh. Nói mười tướng là pháp thực hành.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lượt thứ ba, là trải qua mười tưởng để khen. Nếu nương vào kinh này để tu mười tưởng, thì bất luận phàm, Thánh, theo thông lệ đều khen chung. Vì ý sao? Vì theo giáo xưa nói về lý không hoàn toàn, nên tu mười tưởng không thành. Nay, y theo lời Phật dạy: “Phàm, Thánh tu hành, đều không trái lý”, cho nên khen chung mười tưởng, nghĩa là chán lìa tưởng ăn, tưởng thế gian không đáng ưa, ba tưởng này là quán mở đầu. Kế là, có bốn tưởng: Vô thường, khổ, vô ngã, mang nhiều tội lỗi. Bốn tưởng này quan hệ với bốn lý, được lý sâu xa. Sau ba tưởng còn lại: Tưởng lìa, tưởng diệt, tưởng không có ái, là nhập Thánh quán.

Y theo văn, trước là quán tưởng vô thường. Đầu tiên quán thô, sau quán tế. Từ câu “Xa lìa thường, khinh mạn…” trở xuống, là lượt thứ hai, kế là tu tưởng khổ. Từ “Không phải ngã, ngã sở…” trở xuống, là lượt thứ ba, kế là quán vô ngã tưởng. Từ “Người trí quán vô ngã xong…” trở xuống, là lượt thứ tư, kế là quán chán lìa tưởng ăn. Từ “Đầy đủ bốn tưởng như vậy…” trở xuống, là lượt thứ năm, kế là tu tưởng thế gian không đáng ưa…” trở xuống, là lượt thứ sáu, kế là tu tưởng chết.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào gọi là” cho đến “Đó gọi là tưởng vô thường thô.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một là trong; hai là ngoài: Hữu tình là trong, vô tình là ngoài. Kế là quán về nghe: Nghe lời Hiền thánh nói. Không có xa luân hứa: Đất phì nhiêu, quả chắc thật, trồng tỉa trong nhà, đều dồi dào đầy đủ.”

“Đã quán sắc thô, kế là quán tế” cho đến “Nên bao nhiêu sự nhận lãnh của thân đều là khổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mười thời gian, xuất thai gọi là hiện tại, chưa sinh gọi là vị lai, không bao giờ lớn dần, không niệm niệm diệt. Trong, ngoài đều có hai: Trong thì đói khát, ngoài thì lạnh nóng, là quán hoại khổ. Đồ đựng vô thường, tức là hành, là quán hành khổ.”

“Này người thiện nam! Người trí lại quán sinh tức là khổ” cho đến “Hoặc là một hay nhiều, cả hai đều không có ngã.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có khác với hòa hơp: Nói pháp khác nhau, hòa hợp khác nhau. Hòa hợp thì không có tánh, không có “Ngã”. Không có một pháp nào có khả năng làm tác giả. Đây là phá tác giả. Vì hòa hợp nên diệt: Nhân diệt, quả diệt, hòa hợp diệt.”

“Người trí đã quán vô ngã như vậy rồi” cho đến “Đó gọi là đã thành tựu ý nghĩ nhàm lìa cái ăn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dù đã được quán vô ngã…, nhưng nay hễ đói thì cần cái ăn, lạnh rét thì muốn được mặc, nên dể sinh phiền não. Vì ăn sinh lòng tham, nên trước phải quán tưởng cái ăn. Như con bò bị lột da, vật va chạm vào thì khổ. Như đống lửa là tư duy, nguyện cho thân sau, thân sau như lửa. Ba trăm ngọn giáo: Thức vốn ưa duyên, mà duyên đều là khổ.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Người trí quán tưởng thức ăn” cho đến “Không luống ăn của tín thí.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Làm cho tương tự với: Quán tưởng gạo, như con sâu, bún miến như bột xương.”

“Này người thiện nam! Người trí có đủ bốn tưởng như vậy” cho đến “Đó gọi là người trí khéo tu tưởng chết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiếp theo tu tưởng chết: Vô thường, sinh diệt, diệt rồi, không nối tiếp, gọi là chết.”

“Người trí có đu sáu pháp quán tưởng như trên” cho đến “Thì xứng đáng gọi là tướng Sa-môn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại từ câu: “Nếu có đủ sáu tưởng như trên, tức nhân của bảy tưởng” trở xuống, là theo thứ lớp bảy pháp tu tưởng nhiều tội lỗi (không giải thích nhiều tội lỗi), trực tiếp đặt ra bảy câu để giải thích:

  1. Tưởng thường tu: Thường tu sáu tưởng nói trên.
  2. Tưởng ưa tu: Ưa thích tu sáu tưởng nói trên.
  3. Tưởng không giận: Lúc tu sáu tưởng, tâm không hề tức giận.
  4. Tưởng không ganh ghét. Khi tu sáu tưởng này, tâm không ganh ghét.
  5. Thiện nguyện: tu sáu tưởng trên thường chẳng phải thệ nguyện.
  6. Tưởng không ngạo mạn: Tu sáu tưởng này, không có tâm ngạo mạn.
  7. Tưởng Tam-muội: Nếu tu sáu tưởng trên, thì thường cầu Tammuội.

Có thể quở trách ba cõi, nghĩa là giải thích tưởng xa lìa thứ tám. Dứt trừ ba cõi, là giải thích về tưởng diệt thứ chín. Không sinh ái chấp đắm: Giải thích tưởng không có ái thứ mười.

“Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp liền đối trước Phật” cho đến “Giải thoát tức là Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là “Lượt thứ chín trong đoạn lớn, là khen ngợi Phật.”