KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Căn cứ vào bản dịch của Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, đời Tống
Sa-môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán và Cư sĩ Tạ Linh Vận sửa lại
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 24: BỒ TÁT CA DIẾP

(Từ Quyển 32 đến Quyển 34)

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai thương xót tất cả chúng sinh. Đối với người chẳng điều phục có thể điều phục, người bất tịnh có thể làm cho tịnh, người không quy y có thể làm cho quy y, người chưa giải thoát có thể khiến cho giải thoát, được tám tự tại, làm đại y sư, làm đại dược vương. Tỳ-kheo Thiện Tinh là đệ tử của Phật, khi làm Bồ-tát, sau khi xuất gia, thọ trì, đọc tụng, phân biệt, giảng Mười hai bộ loại kinh văn, hoại tan kết sử cõi Dục, đạt được tứ thiền mà sao Như Lai nói, Thiện Tinh chính là Nhất-xiển-đề, người thấp hèn, ở địa ngục suốt kiếp, người chẳng thể sửa trị? Như Lai vì sao chẳng trước vì ông ấy diễn nói chánh pháp, rồi sau mới vì Bồ-tát? Như Lai Thế Tôn nếu chẳng thể cứu Tỳ-kheo Thiện Tinh thì làm sao được gọi là đấng có đại từ, đại bi, có đại phương tiện?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có ba người con. Người con thứ nhất có lòng tín thuận, cung kính cha mẹ, căn tánh lanh lợi, có trí tuệ, đối với việc thế gian có thể mau biết rõ. Người con thứ hai chẳng kính cha mẹ, không có lòng tín thuận, căn tánh lanh lợi, có trí tuệ, đối với việc thế gian có thể mau rõ biết. Người con thứ ba chẳng kính cha mẹ, không có lòng tín thuận, căn tánh ám độn, không có trí tuệ. Cha mẹ nếu khi muốn dạy bảo chúng thì nên dạy ai trước? Thân ái với ai trước? Phải dạy cho ai biết việc thế gian trước?

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trước nên dạy trao cho người con có lòng tín thuận, cung kính cha mẹ, căn tánh lanh lợi, có trí tuệ, hiểu biết việc đời. Tiếp theo dạy người con thứ hai, rồi mới đến người con thứ ba. Nhưng mà hai người con kia tuy không có lòng tín thuận, cung kính nhưng vì thương yêu nên tiếp theo phải dạy bảo họ.

–Này thiện nam! Như Lai cũng vậy. Ba người con kia, người đầu tiên là dụ cho Bồ-tát, người ở giữa là dụ cho Thanh văn, người sau cùng là dụ cho Nhất-xiển-đề. Như ý nghĩa vi tế trong các kinh của Mười hai bộ loại kinh văn, Ta trước đã vì các Bồ-tát mà nói. Ý nghĩa thiển cận của kinh thì Ta vì hàng Thanh văn mà nói. Còn ý nghĩa thế gian thì Ta vì bọn Nhất-xiển-đề, tạo tội ngũ nghịch mà nói, trong đời hiện tại tuy không có lợi ích nhưng do lòng thương xót nên làm phát sinh những chủng tử thiện cho đời sau. Này thiện nam! Như có ba thứ ruộng: Một là ruộng có kênh mương lưu thông tiện lợi dễ dàng, không có những cát, đất mặn, sành, đá, gai góc v.v… thì gieo trồng một thu được cả trăm. Hai là ruộng tuy không có cát, đất mặn, sành đá, gai góc nhưng kênh mương hiểm trở khó khăn thì thu hoạch giảm đi một nửa. Ba là ruộng mà kênh mương hiểm trở khó khăn, có nhiều cát, đất mặn, sành, đá, gai góc thì gieo trồng một chỉ thu hoạch được cỏ khô. Này thiện nam! Người nông phu, trong tháng mùa xuân, nên gieo trồng ruộng nào trước?

–Bạch Thế Tôn! Họ nên gieo trồng ruộng đầu tiên trước, tiếp đến là ruộng thứ hai, rồi sau mới đến ruộng thứ ba.

–Ruộng đầu tiên là dụ cho Bồ-tát, ruộng tiếp theo là dụ cho Thanh văn, ruộng sau cùng là dụ cho Nhất-xiển-đề. Này thiện nam! Ví như ba cái đồ đựng: cái thứ nhất lành lặn, cái thứ hai bị rò rỉ, cái thứ ba bị vỡ. Nếu muốn đựng đầy sữa tươi, sữa đặc, kem sữa thì dùng cái nào trước?

–Bạch Thế Tôn! Nên dùng cái lành lặn, tiếp đến dùng cái rò rỉ, sau mới dùng đến cái bị vỡ.

–Cái lành lặn sạch sẽ ấy là dụ cho Bồ-tát Tăng, cái rò rỉ là dụ cho Thanh văn, cái bị vỡ là dụ cho Nhất-xiển-đề. Này thiện nam! Như có ba người bệnh đều đi đến chỗ thầy thuốc: Người thứ nhất dễ điều trị, người thứ hai khó điều trị, người thứ ba thì chẳng thể điều trị. Này thiện nam! Thầy thuốc nếu trị thì phải trị ai trước?

–Bạch Thế Tôn! Nên điều trị cho người dễ trước, tiếp đến là

người thứ hai, sau mới đến người thứ ba.

–Người dễ trị là dụ cho Bồ-tát Tăng. Người khó trị là dụ cho Thanh văn Tăng. Người chẳng thể trị là dụ cho Nhất-xiển-đề. Với hạng người này trong đời hiện tại tuy không có kết quả tốt nhưng vì thương xót nên Ta vì họ gieo trồng những hạt giống lành cho đời sau. Này thiện nam! Ví như vị đại vương có ba con ngựa giống: Một là ngựa đã điều phục trẻ khỏe đầy sức mạnh. Hai là ngựa chẳng điều phục, trẻ khỏe, nhiều sức mạnh. Ba là ngựa chẳng điều phục, gầy yếu, không có sức mạnh. Nếu nhà vua cưỡi ngựa thì phải cưỡi con nào trước?

–Thưa Thế Tôn! Nên cỡi con ngựa điều phục trẻ khỏe nhiều sức mạnh, tiếp đến cỡi con thứ hai, sau mới cỡi đến con thứ ba.

–Này thiện nam! Con ngựa điều phục trẻ khỏe nhiều sức mạnh là dụ cho Bồ-tát Tăng, con ngựa thứ hai là dụ cho Thanh văn Tăng, con ngựa thứ ba là dụ cho Nhất-xiển-đề. Trong đời hiện tại hạng người này tuy không có ích lợi nhưng vì thương xót nên Ta vì họ gieo trồng hạt giống lành cho đời sau. Này thiện nam! Như khi đại thí có ba người đến: Một là người quý tộc, thông minh, trì giới. Hai là người thuộc dòng họ bậc trung, độn căn, trì giới. Ba là người thuộc dòng họ thấp hèn, độn căn, phá giới. Này thiện nam! Vị đại thí chủ này nên bố thí cho ai trước?

–Bạch Thế Tôn! Nên bố thí trước cho người quý tộc, lợi căn, trì giới, tiếp đến là người thứ hai, rồi sau mới đến người thứ ba.

–Người thứ nhất là dụ cho Bồ-tát Tăng, người thứ hai là dụ cho Thanh văn Tăng người thứ ba là dụ cho Nhất-xiển-đề. Này thiện nam! Như con sư tử lớn khi giết chết con hương tượng phải dùng hết sức của nó, giết chết một con thỏ cũng vậy, chẳng sinh ý tưởng khinh thường. Các Đức Phật Như Lai cũng như vậy, khi vì các Bồ-tát và Nhất-xiểnđề diễn nói pháp công dụng không khác nhau.

–Này thiện nam! Vào một thuở, Ta trụ ở thành Vương-xá, Tỳkheo Thiện Tinh là thị giả của Ta. Ở đầu đêm, Ta vì trời Đế thích diễn nói pháp chính yếu. Theo phép làm đệ tử là nên ngủ sau thầy. Bấy giờ, do Ta ngồi lâu nên lòng Thiện Tinh sinh ý niệm ác. Trẻ con trai gái của thành Vương-xá thời đó nếu khóc không nín thì cha mẹ hay dọa rằng: “Nếu con chẳng nín thì sẽ đem con giao cho quỷ Bạc-câu-la”.

Lúc ấy, Thiện Tinh chấp lấy lời ấy mà nói với Ta: “Hãy mau vào thiền thất! Quỷ Bạc-câu-la đến”. Ta nói: “Này người ngu si! Ông thường chẳng nghe, Như Lai Thế Tôn chẳng sợ gì sao?”. Bấy giờ, Đế thích liền nói với Ta: “Thưa Thế Tôn! Những người như vậy cũng được vào trong pháp Phật sao?”. Ta liền nói: “Này Kiều-thi-ca! Người như vậy được vào pháp Phật, cũng có Phật tánh, sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Ta tuy vì Thiện Tinh nói pháp nhưng ông này hoàn toàn không có lòng tín thọ. Này thiện nam! Vào một thuở, Ta ở tại thành Thi-bà-phú-la của nước Ca-thi, Tỳ-kheo Thiện Tinh là thị giả của Ta. Khi Ta muốn vào thành đó khất thực có vô lượng chúng sinh hết lòng khao khát, ngưỡng mộ muốn thấy dấu chân của Ta nhưng Tỳ-kheo Thiện Tinh liền theo sau Ta mà xóa sạch dấu chân. Ông ấy đã chẳng những xóa hết mà còn khiến cho chúng sinh sinh lòng bất thiện. Ta vào thành rồi, ở quán rượu, thấy một Ni-kiền còng lưng ngồi chồm hổm dưới đất ăn bã rượu. Tỳ-kheo Thiện Tinh thấy rồi nói: “Thưa Thế Tôn! Thế gian nếu có A-la-hán thì người này là tối thắng. Vì sao? Vì người này đã nói, không nhân không quả”. Ta nói: “Này người ngu si! Ông có thường nghe, A-la-hán thì chẳng uống rượu, chẳng hại người, chẳng lừa dối, chẳng trộm cắp, chẳng dâm dục chăng? Còn như người này giết hại cha mẹ, ăn nuốt bã rượu thì sao mà nói là A-la-hán? Người này sau khi xả thân ngu si sẽ rơi vào địa ngục A-tỳ, còn A-la-hán đoạn tuyệt vĩnh viễn ba đường ác thì làm sao mà nói là A-la-hán?”. Thiện Tinh liền nói: “Tánh của bốn đại còn có thể chuyển dịch, muốn khiến cho người này nhất định rơi vào địa ngục A-tỳ thì đó là điều không có”. Ta nói: “Này người ngu si! Ông thường chẳng nghe lời nói thành thật của các Đức Phật Như Lai là không có hai sao?”. Ta tuy vì Thiện Tinh này nói pháp mà ông ta tuyệt không có lòng tín thọ. Này thiện nam! Vào một thuở, Ta cùng với Tỳ-kheo Thiện Tinh trụ ở thành Vương-xá. Bấy giờ, trong thành có một Ni càn tên là Khổ Đắc, thường nói: “Phiền não của chúng sinh không nhân không duyên. Giải thoát của chúng sinh cũng không nhân không duyên”. Tỳ-kheo Thiện Tinh lại nói: “Bạch Thế Tôn! Thế gian, nếu có A-la-hán thì Khổ Đắc là bậc hơn hết”. Ta nói: “Này người ngu si! Ni càn Khổ Đắc thật chẳng phải là Ala-hán, chẳng thể hiểu rõ đạo A-la-hán”. Thiện Tinh lại nói: “Vì sao A-la-hán đối với A-la-hán mà sinh ra ganh ghét?”. Ta nói: “Này người ngu si! Ta đối với La-hán chẳng sinh ganh ghét mà ông tự sinh ra tà kiến ác. Nếu nói Khổ Đắc là La-hán thì sau bảy ngày ông ấy sẽ bị bệnh túc thực ăn không tiêu hóa, đau bụng mà chết, chết rồi sinh vào loài quỷ Thực thổ. Hạng đồng học của ông ấy sẽ đem thi thể ông ấy bỏ trong rừng lạnh”. Bấy giờ, Thiện Tinh liền đi đến chỗ của Ni-càn-tử Khổ Đắc nói: “Thưa trưởng lão! Trưởng lão có biết gì không? Sa-môn Cù-đàm đã nói ông sau bảy ngày sẽ bị bệnh túc thực, đau bụng mà chết, chết rồi sinh vào trong loài quỷ Thực thổ. Những người đồng học, đồng sư sẽ đem thi thể của ông bỏ trong rừng lạnh. Thưa trưởng lão, ông hãy tư duy khéo léo tạo mọi phương tiện tốt thì sẽ khiến cho Samôn Cù-đàm rơi vào trong tình trạng nói dối”. Lúc này, ông Khổ Đắc nghe lời đó xong thì liền nhịn ăn từ ngày thứ nhất cho đến ngày thứ sáu. Đủ bảy ngày rồi ông liền ăn đường đen. Ăn đường đen rồi lại uống nước lạnh. uống nước lạnh rồi đau bụng mà mạng chung. Ông chết rồi bạn đồng học đem thi hài ông để trong rừng lạnh. Ông liền thọ hình thể loài quỷ đói thực thổ ở bên thi hài của mình. Tỳ-kheo Thiện Tinh nghe việc này rồi, đi đến trong rừng lạnh, thấy Khổ Đắc thọ thân hình loài quỷ thực thổ ở tại bên thi hài ông ấy, đang khom lưng ngồi xổm trên đất. Thiện Tinh nói với ông ấy: “Thưa Đại đức! Ông chết rồi sao?”. Khổ Đắc đáp: “Ta đã chết rồi!”. Hỏi: “Vì sao chết vậy?”. Đáp: “Nhân đau bụng mà chết!”. Hỏi: “Ai đưa thi hài ông ra đây?”. Đáp: “Bạn đồng học đưa ra!”. Hỏi: “Đặt ở đâu?”. Đáp: “Người ngu si ơi! Ông nay chẳng biết rừng lạnh này sao?”. Hỏi: “Được thân gì?”. Đáp: “Ta được thân của loài quỷ thực thổ! Này Thiện Tinh! Ông đã lắng nghe! Như Lai nói lời thiện, lời đúng lúc, lời nghĩa, lời pháp. Này Thiện Tinh! Như Lai nói ra lời chân thật như vậy, tại sao lúc bấy giờ ông chẳng tin? Nếu có chúng sinh chẳng tin lời nói chân thật của Như Lai thì người đó cũng sẽ thọ thân này như ta”. Lúc này Thiện Tinh liền trở lại chỗ của Ta mà nói: “Bạch Thế Tôn! Ni-càn Khổ Đắc sau khi mạng chung sinh lên trời Ba Mươi Ba”. Ta nói: “Này người ngu si! A-la-hán thì không có chỗ sinh làm sao mà nói Khổ Đắc sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba?”. Thiện Tinh nói: “Thưa Thế Tôn! Thật đúng như lời Thế Tôn, Ni-càn Khổ Đắc thật chẳng sinh lên cõi trời Ba Mươi Ba mà nay đang thọ thân loài quỷ đói Thực thổ”. Ta nói: “Này người ngu si! Chư Phật Thế Tôn nói lời thành thật không sai khác. Nếu nói, Như Lai có nói hai lời thì đó là điều không có”. Thiện Tinh liền nói: “Lúc ấy Như Lai tuy nói lời nói đó nhưng con đối với việc này chẳng tin”. Này thiện nam! Ta cũng vì Tỳ-kheo Thiện Tinh nói pháp chân thật mà ông ấy tuyệt nhiên không có lòng tín thọ. Này thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh tuy đọc tụng Mười hai bộ loại kinh văn, đạt được Tứ thiền nhưng thậm chí chẳng hiểu được ý nghĩa của một bài kệ, một câu, một chữ, lại còn gần gũi bạn ác làm thoái mất Tứ thiền. Mất Tứ thiền rồi thì sinh ra tà kiến, như vầy: “Không Phật, không Pháp, không có Niết-bàn! Sa-môn Cù-đàm giỏi biết phép xem tướng nên có thể biết được tâm của người khác!”. Ta vào lúc ấy, bảo Tỳ-kheo Thiện Tinh: “Pháp của Ta nói đầu thiện, giữa thiện và về sau cũng thiện. Lời nói ấy xảo diệu, chữ nghĩa chân chính. Lời nói không xen tạp, thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh!”. Tỳkheo Thiện Tinh lại nói: “Như Lai tuy lại vì con nói pháp nhưng con thật cho là không có nhân quả!”. Này thiện nam! Nếu ông chẳng tin việc như vậy thì hiện nay Tỳ-kheo Thiện Tinh ở gần sông Ni-liênthiền, có thể cùng đi đến đó hỏi.

Bấy giờ, Đức Như Lai liền cùng với Bồ-tát Ca-diếp đi đến chỗ của Thiện Tinh. Tỳ-kheo Thiện Tinh từ xa thấy Đức Phật đến, thấy rồi liền sinh lòng tà ác. Do lòng ác nên thân sống của ông bị hãm vào địa ngục A-tỳ.

–Này thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh tuy vào kho báu vô lượng của pháp Phật mà tay trắng, không thu hoạch được gì, thậm chí chẳng được sự lợi ích của một pháp, vì buông lung và theo ác tri thức. Ví như có người tuy vào biển cả, thấy nhiều thứ báu mà không được gì vì buông lung. Lại như vào được biển tuy thấy vật báu, rồi tự giết nhau mà chết, hoặc bị quỷ ác La-sát giết chết. Tỳ-kheo Thiện Tinh cũng như vậy, vào pháp Phật rồi mà bị đại quỷ La-sát ác tri thức giết hại. Này thiện nam! Vậy nên Như Lai do thương xót nên thường nói nhiều những sự buông lung của Tỳ-kheo Thiện Tinh. Này thiện nam! Nếu vốn là người bần cùng thì đối với người này tuy thương xót nhưng không tha thiết lắm. Nếu vốn là người giàu có lớn mà bị phá sản thì đối với người này sinh thương xót sâu đậm hơn. Tỳ-kheo Thiện Tinh cũng như vậy, tuy thọ trì, đọc tụng Mười hai bộ loại kinh văn, đạt được Tứ thiền nhưng về sau thoái mất, rất đáng thương xót. Vậy nên Ta nói nhiều về những phóng dật của Tỳ-kheo Thiện Tinh. Vì nhiều phóng dật nên cắt đứt các căn lành. Những đệ tử của Ta, người có thấy nghe thì đối với người này không ai chẳng sinh lòng thương xót sâu đậm như người giàu có lúc đầu, về sau phá sản. Đã nhiều năm Thiện Tinh thường theo Ta nhưng ông ấy tự sinh lòng tà ác, mà do tà ác nên chẳng bỏ ác kiến. Này thiện nam! Ta từ trước đến nay nếu thấy ông Thiện Tinh này có một chút căn lành như sợi lông cọng tóc thì nhất định Ta chẳng nói, nhưng ông ấy đã đoạn tuyệt căn lành, là Nhất-xiển-đề, hạng người thấp kém, trụ kiếp địa ngục. Do ông ấy tuyên nói không nhân, không quả, không có tác nghiệp nên Ta mới nói, ông ấy vĩnh viễn cắt đứt thiện căn, là Nhất-xiển-đề, hạng người thấp hèn, trụ kiếp địa ngục. Này thiện nam! Ví như có các người chìm trong nhà xí, có bậc thiện tri thức dùng tay kéo lên mà nếu được đầu tóc thì liền kéo ra khỏi, nhưng tìm lâu chẳng được vậy mới ngưng ý tìm kiếm. Ta cũng như vậy, tìm thấy chút xíu căn lành của Thiện Tinh thì liền muốn cứu vớt. Nhưng Ta trọn ngày tìm kiếm mà thậm chí chẳng được chút xíu căn lành như sợi lông cọng tóc. Vậy nên ông ấy chẳng được cứu vớt ra khỏi địa ngục.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai vì sao nói trước ông đó sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ?

–Này thiện nam! Có nhiều quyến thuộc của Tỳ-kheo Thiện Tinh đều gọi Thiện Tinh là A-la-hán, là được đạo quả. Ta muốn hủy hoại lòng tà ác đó nên nói: “Ông Thiện Tinh đó do phóng dật nên đọa vào địa ngục. Này thiện nam! Ông nay phải biết, lời nói của Như Lai chân thật không hai. Vì sao? Vì nếu lời nói của Phật là sẽ đọa vào địa ngục, mà nếu chẳng đọa thì không có điều này. Lời dự toán của Thanh văn, Duyên giác thì có hai trường hợp: hoặc sai hoặc đúng. Như Tôn giả Mục-kiền-liên, ở tại nước Ma-già-đà, bảo khắp mọi người, sau bảy ngày trời sẽ tuôn mưa, mà hết thời hạn trời chẳng mưa. Ông lại dự đoán rằng, con trâu cái sẽ sinh con nghé trắng, đến khi con trâu ấy sinh thì sinh ra con nghé loang lỗ, dự đoán sinh nam thì sau sinh ra nữ. Này thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh thường nói với vô lượng chúng sinh, tất cả không quả báo thiện ác. Khi ấy ông đã cắt đứt vĩnh viễn tất cả căn lành, thậm chí không còn chút xíu như sợi lông cọng tóc. Này thiện nam! Ta biết từ lâu Tỳ-kheo Thiện Tinh này sẽ cắt đứt căn lành. Do vậy nên trọn hai mươi năm Ta chăm sóc cùng ở chung, cùng du hành. Nếu Ta rời xa chẳng gần gũi bên cạnh thì người này sẽ dạy cho vô lượng chúng sinh tạo tác nghiệp ác. Đó gọi là lực giải thứ năm của Như Lai.

–Thưa Thế Tôn! Hạng Nhất-xiển-đề vì nhân duyên gì mà không có pháp thiện?

–Này thiện nam! Hạng Nhất-xiển-đề đoạn tuyệt căn lành. Chúng sinh có năm căn như Tín v.v… mà Nhất-xiển-đề thì đoạn diệt vĩnh viễn. Do nghĩa này nên giết hại một con kiến còn bị tội sát sinh nhưng giết chết Nhất-xiển-đề thì không bị tội sát sinh.

–Bạch Thế Tôn! Nhất-xiển-đề thì nhất định không có pháp thiện. Vậy nên gọi là Nhất-xiển-đề sao?

Đức Phật dạy:

–Đúng vậy! Đúng vậy!

–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh có ba thứ thiện. Đó là quá khứ thiện, hiện tại thiện và vị lai thiện. Nhất-xiển-đề cũng chẳng thể đoạn dứt pháp thiện của vị lai thì sao nói, đoạn các pháp thiện gọi là Nhấtxiển-đề?

–Này thiện nam! Đoạn có hai thứ: Một là hiện tại diệt. Hai là hiện tại chướng ngại đến vị lai. Hạng Nhất-xiển-đề đủ cả hai thứ đoạn này. Vậy nên Ta nói, đoạn dứt các căn lành. Này thiện nam! Ví như có người chìm trong hầm xí chỉ có đầu một sợi tóc chưa chìm. Tuy đầu còn một sợi tóc chưa chìm nhưng một sợi tóc trên đầu thì chẳng thể thấy được thân. Hạng Nhất-xiển-đề cũng như vậy, tuy đời vị lai sẽ có thiện căn mà chẳng thể cứu thoát khỏi khổ của địa ngục. Đời vị lai tuy có thể cứu vớt nhưng đời hiện tại thì điều đó không có. Vậy nên gọi là chẳng thể cứu tế. Do nhân duyên Phật tánh nên có thể được cứu. Phật tánh thì chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Vậy nên Phật tánh chẳng thể đoạn được. Như hạt giống mục nát thì chẳng thể mọc mầm. Nhất-xiển-đề cũng như vậy.

–Bạch Thế Tôn! Hạng Nhất-xiển-đề chẳng đoạn dứt Phật tánh

mà Phật tánh cũng thiện thì làm sao nói, đoạn dứt tất cả pháp thiện?

–Này thiện nam! Nếu các chúng sinh trong đời hiện tại có Phật tánh thì chẳng được gọi là Nhất-xiển-đề. Như tánh ngã của chúng sinh trong thế gian, Phật tánh là thường, chẳng hệ thuộc vào ba đời. Nếu hệ thuộc vào ba đời thì gọi là vô thường. Phật tánh do vị lai sẽ thấy nên nói, chúng sinh đều có Phật tánh. Do nghĩa này nên Bồ-tát Thập Trụ trang nghiêm đầy đủ mới được thấy chút ít.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật tánh thường giống như hư không thì vì sao Như Lai nói vị lai? Nếu Như Lai nói Nhất-xiển-đề không có pháp thiện thì Nhất-xiển-đề đối với người đồng học, đồng sư, cha mẹ, thân tộc, vợ con của họ lẽ nào chẳng sinh lòng ái niệm sao? Nếu hạng ấy sinh lòng đó thì chẳng phải là thiện chăng?

Đức Phật dạy:

–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Ông hỏi hay lắm. Phật tánh giống như hư không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Tất cả chúng sinh có ba thứ thân. Đó là thân quá khứ, thân hiện tại và thân vị lai. Thân chúng sinh vị lai đầy đủ trang nghiêm thanh tịnh thì được thấy Phật tánh. Vậy nên Ta nói Phật tánh vị lai. Này thiện nam! Ta vì chúng sinh hoặc khi nói nhân là quả, hoặc khi nói quả là nhân. Vậy nên trong kinh nói mạng là ăn, thấy sắc là xúc. Thân vị lai thanh tịnh nên nói Phật tánh.

–Bạch Thế Tôn! Như lời Đức Phật nói nghĩa như vậy thì vì sao nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh?

–Này thiện nam! Phật tánh của chúng sinh tuy hiện tại không nhưng chẳng thể nói là không. Như tánh hư không tuy hiện tại không nhưng chẳng được nói là không. Tất cả chúng sinh tuy lại vô thường mà Phật tánh này thường trụ không biến đổi. Vậy nên ở trong kinh này Ta nói, Phật tánh của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, giống như hư không chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Như hư không ấy có trong ngoài thì hư không chẳng gọi là một, là thường, cũng chẳng được nói, tất cả chỗ đều có. Hư không tuy lại chẳng phải trong, chẳng phải ngoài mà các chúng sinh đều có nó. Phật tánh của chúng sinh cũng như vậy. Như lời ông nói, hạng Nhất-xiển-đề có pháp thiện thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì hạng Nhất-xiển-đề nếu có nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, nghiệp thủ, nghiệp cầu, nghiệp thí, nghiệp giải v.v… những nghiệp như vậy thì đều là nghiệp tà. Vì sao? Vì chẳng cầu nhân quả. Này thiện nam! Như quả, rễ, thân, cành, lá, hoa… của cây Ha lê lặc đều đắng, nghiệp của Nhất-xiển-đề cũng như vậy.

Này thiện nam! Như Lai biết đầy đủ các căn, lực. Vậy nên Như Lai khéo có thể phân biệt chúng sinh thượng căn, trung căn, hạ căn. Như Lai có thể biết người này chuyển đổi hạ căn trở thành trung căn, có thể biết người này chuyển đổi trung căn trở thành thượng căn, có thể biết người này chuyển đổi thượng căn trở thành trung căn, có thể biết người này chuyển đổi trung căn trở thành hạ căn. Vậy nên ông phải biết là căn tánh của chúng sinh không có quyết định. Do không quyết định nên hoặc đoạn dứt thiện căn mà đoạn rồi thì sinh trở lại. Nếu căn tánh của những chúng sinh định thì nhất định trước chẳng đoạn dứt và đoạn rồi thì sinh ra, cũng chẳng nên nói, hạng Nhất-xiển-đề rơi vào địa ngục sống lâu một kiếp. Này thiện nam! Vậy nên Như Lai nói, tất cả pháp không có tướng quyết định.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai biết đầy đủ các căn, lực thì nhất định biết Tỳ-kheo Thiện Tinh sẽ đoạn dứt thiện căn. Do nhân duyên gì mà Thế Tôn cho phép ông ấy xuất gia?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Vào thuở trước, khi Ta mới xuất gia thì em Ta là Nan-đà, tùng đệ là A-nan, Đề-bà-đạt-đa, con Ta là La-hầu-la, những người như vậy đều theo Ta xuất gia tu đạo. Nếu Ta chẳng cho ông Thiện Tinh xuất gia thì người ấy theo thứ tự sẽ được nối ngôi vua. Thế lực ông ấy tự tại thì sẽ hủy hoại pháp Phật. Do nhân duyên này nên Ta cho ông ấy xuất gia tu đạo. Này thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh nếu chẳng xuất gia cũng đoạn dứt thiện căn, ở vô lượng đời đều không có lợi ích. Nay ông ấy xuất gia rồi, tuy đoạn thiện căn nhưng có thể thọ trì giới, cúng dường cung kính bậc kỳ cựu trưởng túc và người có đức, tu tập Sơ thiền cho đến Tứ thiền. Đó gọi là nhân duyên thiện. Nhân duyên thiện như vậy có thể sinh ra pháp thiện. Pháp thiện đã sinh thì có thể tu đạo. Đã tu tập đạo thì sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên Ta cho Tỳ-kheo Thiện Tinh xuất gia. Này thiện nam! Nếu Ta chẳng cho Tỳ-kheo Thiện Tinh xuất gia thọ giới thì Ta chẳng được xưng là Như Lai đầy đủ mười lực. Này thiện nam! Phật quan sát chúng sinh đầy đủ pháp thiện và pháp bất thiện. Người này tuy đủ hai pháp như vậy nhưng chẳng bao lâu có thể đoạn dứt tất cả thiện căn mà đầy đủ căn bất thiện. Vì sao? Vì chúng sinh như vậy chẳng gần gũi bạn tốt, chẳng nghe chánh pháp, chẳng khéo tư duy, chẳng theo đúng như pháp tu hành. Do nhân duyên này người ấy có thể cắt đứt thiện căn, đầy đủ căn bất thiện. Này thiện nam! Như Lai lại biết người này đời hiện tại hay đời vị lai lúc nhỏ, lúc lớn, khi già sẽ gần gũi bạn tốt, thính thọ chánh pháp: Khổ, tập, diệt, đạo thì lúc ấy có thể lại sinh ra căn lành. Này thiện nam! Ví như có dòng suối cách xóm làng chẳng xa. Nước suối ấy ngon ngọt, đủ tám vị công đức. Có người nóng khát muốn đi đến suối. Có người trí ở bên cạnh quan sát biết người khát đó nhất định sẽ đi đến chỗ nước không gì nghi ngờ. Vì sao? Vì không có con đường nào khác. Như Lai Thế Tôn quan sát các chúng sinh cũng như vậy. Vậy nên Như Lai gọi là biết đầy đủ các căn lực.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lấy ít đất ở dưới đất đặt lên móng tay rồi bảo Bồ-tát Ca-diếp:

–Đất này nhiều hay đất của thế giới mười phương nhiều?

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đất trên móng tay thì chẳng thể sánh với đất của mười phương được.

–Này thiện nam! Có người xả thân trở lại được thân người, xả thân ba đường ác, được thọ thân người, các căn đầy đủ lành lặn, sinh ra ở trung tâm đất nước, đầy đủ chánh tín, có thể tu tập đạo, đã tu đạo là có thể được giải thoát, được giải thoát rồi là có thể vào Niết-bàn thì như đất trên móng tay. Còn chúng sinh xả thân người rồi thọ thân ba đường ác, xả thân ba đường ác rồi lại thọ thân ba đường ác, các căn chẳng đủ, sinh ra nơi biên địa, tin tà kiến điên đảo, tu tập tà đạo, chẳng được giải thoát, Niết-bàn thường lạc thì như đất đai của thế giới mười phương. Này thiện nam! Hộ trì giới cấm, tinh cần chẳng biếng trễ, chẳng phạm bốn trọng cấm, chẳng tạo tội ngũ nghịch, chẳng dùng đồ vật của Tăng chúng, chẳng làm Nhất-xiển-đề, chẳng cắt đứt căn lành, tin kinh điển Niết-bàn v.v… những người như vậy như đất trên móng tay. Phá hủy giới, biếng trễ, phạm bốn trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch, dùng độ vật của Tăng chúng, làm Nhất-xiển-đề, cắt đứt các căn lành, chẳng tin kinh điển Niết-bàn v.v… những người như vậy như đất đai của thế giới mười phương. Này thiện nam! Như Lai khéo biết chúng sinh thượng căn, trung căn và hạ căn như vậy. Vậy nên xưng Phật là bậc biết đầy đủ căn lực.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai đầy đủ sự biết căn lực này nên có thể biết sự sai biệt về ngu độn, lanh lợi, hạ căn, trung căn, thượng căn của tất cả chúng sinh, biết các căn của chúng sinh đời hiện tại, cũng biết các căn của chúng sinh đời vị lai. Sau khi Phật diệt độ, những chúng sinh như vậy sẽ nói lên như vầy: Như Lai vào Niết-bàn rốt ráo hoặc chẳng vào Niết-bàn rốt ráo, hoặc nói có ngã, hoặc nói vô ngã, hoặc có trung ấm, hoặc không trung ấm, hoặc nói có thoái, hoặc nói không thoái, hoặc nói thân Như Lai là hữu vi, hoặc nói thân Như Lai là vô vi, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp hữu vi, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp vô vi, hoặc nói tâm là hữu thường, hoặc nói tâm là vô thường, hoặc nói thọ năm dục lạc có thể chướng ngại Thánh đạo, hoặc nói chẳng ngăn ngại, hoặc nói pháp đệ nhất của đời chỉ là dục giới, hoặc nói là tam giới, hoặc nói bố thí chỉ là nghiệp của ý, hoặc nói chính là của năm ấm. Hoặc có người nói, có ba vô vi. Hoặc có người nói, không có ba vô vi. Lại có người nói, có tạo sắc. Lại có người nói, không tạo sắc. Hoặc có người nói, có không tạo tác sắc. Hoặc có người nói, không không tạo tác sắc. Hoặc có người nói, có pháp tâm sở. Hoặc có người nói, không có pháp tâm sở. Hoặc có người nói, có năm thứ hữu. Hoặc có người nói, có sáu thứ hữu. Hoặc có người nói, tám pháp trai giới, người đầy đủ giới Ưu-bà-tắc thọ được. Hoặc có người nói, người chẳng đủ thọ được. Hoặc có người nói, Tỳ-kheo phạm bốn trọng cấm rồi thì giới Tỳ-kheo vẫn tồn tại, hoặc nói chẳng tồn tại. Hoặc có người nói, bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán đều được Phật đạo, hoặc nói chẳng được. Hoặc có người nói, Phật tánh tức là cõi chúng sinh, hoặc nói Phật tánh lìa khỏi cõi chúng sinh. Hoặc có người nói, người phạm bốn trọng cấm, tạo tội ngũ nghịch, Nhất-xiển-đề v.v…. đều có Phật tánh, hoặc nói không. Hoặc có người nói, có Phật mười phương, hoặc nói không có Phật mười phương. Như Đức Như Lai thành tựu đầy đủ việc biết căn lực ấy thì vì sao ngày hôm nay chẳng quyết định nói?

Đức Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp:

–Này thiện nam! Nghĩa như vậy chẳng phải là cái biết của nhãn thức, cho đến chẳng phải là cái biết của ý thức, mà đó là cái biết của trí tuệ. Nếu người có trí tuệ thì Ta đối với người này nhất định chẳng nói sai khác. Đó cũng gọi là Ta chẳng nói hai lời. Đối với kẻ vô trí thì Ta nói lời nói bất định, mà kẻ vô trí này cũng lại cho là Ta nói lời nói bất định. Này thiện nam! Tất cả hạnh lành của Như Lai đều vì điều phục các chúng sinh. Ví như những phương thuốc của vị y vương đều vì trị liệu tất cả bệnh khổ. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn vì đất nước, vì thời tiết, vì ngôn ngữ khác, vì mọi người, vì mọi căn tánh nên ở trong một pháp nói hai cách nói, đối với pháp một tên nói ra vô lượng tên, ở trong một nghĩa nói ra vô lượng tên, ở vô lượng nghĩa nói ra vô lượng tên. Sao gọi là một tên nói ra vô lượng tên? Giống như Niết-bàn, cũng tên là Niết-bàn, cũng tên là Vô Sinh, cũng tên là Vô Xuất, cũng gọi là Vô Tác, cũng gọi là Vô Vi, cũng gọi là Quy Y, cũng gọi là Hang Ổ, cũng gọi là Giải Thoát, cũng gọi là Quang Minh, cũng gọi là Đăng Minh, cũng gọi là Bỉ Ngạn, cũng gọi là Vô Úy, cũng gọi là Vô Thoái, cũng gọi là An Xứ, cũng gọi là Tịch Tĩnh, cũng gọi là Vô Tướng, cũng gọi là Vô Nhị, cũng gọi là Nhất Hạnh, cũng gọi là Thanh Lương, cũng gọi là Vô Ám, cũng gọi là Vô Ngại, cũng gọi là Vô Tránh, cũng gọi là Vô Trược, cũng gọi là Quảng Đại, cũng gọi là Cam Lồ, cũng gọi là Cát Tường v.v… Đó gọi là một tên tạo ra vô lượng tên.

Sao gọi là một nghĩa nói ra vô lượng tên? Giống như Đế thích. Cũng gọi là Đế thích, cũng gọi là Kiều-thi-ca, cũng gọi là Bà-tha-bà, cũng gọi là Phú-lan-đà-la, cũng gọi là Ma-khư-bà, cũng gọi là Nhânđà-la, cũng gọi là Thiên nhãn, cũng gọi là Xá-chỉ-phù, cũng gọi là Kim Cương, cũng gọi là Bảo Đỉnh, cũng gọi là Bảo Tràng. Đó là một nghĩa nói ra vô lượng tên.

Sao gọi là vô lượng nghĩa nói ra vô lượng tên? Như Phật Như Lai gọi là Như Lai thì nghĩa khác tên khác, cũng gọi là A-la-ha thì nghĩa khác tên khác, cũng gọi là Tam-miệu-tam-phật-đà thì nghĩa khác tên khác, cũng gọi là Thuyền Sư, cũng gọi là Đạo Sư, cũng gọi là Chánh Giác, cũng gọi là Minh Hành Túc, cũng gọi là Đại Sư Tử Vương, cũng gọi là Sa-môn, cũng gọi là Bà-la-môn, cũng gọi là Tịch Tĩnh, cũng gọi là Thí Chủ, cũng gọi là Đáo Bỉ Ngạn, cũng gọi là Đại Y Vương, cũng gọi là Đại Tượng Vương, cũng gọi là Đại Long Vương, cũng gọi là Thí Nhãn, cũng gọi là Đại Lực Sĩ, cũng gọi là Đại Vô Úy, cũng gọi là Bảo Tụ, cũng gọi là Thương Chủ, cũng gọi là Đắc Thoát, cũng gọi là Đại Trượng Phu, cũng gọi là Thiên Nhân Sư, cũng gọi là Đại Phân Đà Lợi, cũng gọi là Độc Vô Đẳng Lữ, cũng gọi là Đại Phước Điền, cũng gọi là Đại Trí Tuệ Hải, cũng gọi là Vô Tướng, cũng gọi là Cụ Túc Bát Trí. Như vậy tất cả nghĩa khác, tên khác. Này thiện nam! Đó gọi là trong vô lượng nghĩa nói vô lượng tên.

Lại có một nghĩa nói vô lượng tên. Đó là như Ấm, cũng gọi là ấm, cũng gọi là điên đảo, cũng gọi là đế, cũng gọi là Tứ niệm xứ, cũng gọi là Tứ thực, cũng gọi là Tứ thức trụ xứ, cũng gọi là hữu, cũng gọi là đạo, cũng gọi là thời, cũng gọi là chúng sinh, cũng gọi là thế, cũng gọi là đệ nhất nghĩa; cũng gọi là tam tu thân, giới, tâm; cũng gọi là nhân quả, cũng gọi là phiền não, cũng gọi là giải thoát, cũng gọi là mười hai nhân duyên; cũng gọi là Thanh văn, Phật-bích-chi; cũng gọi là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhân thiên; cũng gọi là quá khứ, hiện tại, vị lai. Đó gọi là một nghĩa mà gọi vô lượng tên. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn vì chúng sinh nên trong rộng nói lược, trong lược nói rộng. Đệ nhất nghĩa đế nói là Thế đế, nói Thế đế pháp là Đệ nhất nghĩa đế.

Sao gọi là trong rộng nói lược? Như bảo các Tỳ-kheo: “Ta nay tuyên nói mười hai nhân duyên. Sao gọi là mười hai nhân duyên? Đó là nhân quả.

Sao gọi là trong lược nói rộng? Như bảo các Tỳ-kheo: “Ta nay tuyên nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ nghĩa là vô lượng khổ, Tập nghĩa là vô lượng phiền não, Diệt nghĩa là vô lượng giải thoát, Đạo nghĩa là vô lượng phương tiện.

Sao gọi là Đệ nhất nghĩa đế là Thế đế? Như bảo các Tỳ-kheo: “Thân này của Ta hôm nay có già, bệnh, chết”. Sao gọi Thế đế là Đệ nhất nghĩa đế? Như Ta bảo ông Kiều-trần-như: “Ông được pháp nên được gọi là A-nhã Kiều-trần-như”. Vậy nên tùy người, tùy ý, tùy lúc nên gọi là Như Lai biết các căn lực. Này thiện nam! Ta nếu phải đối với những nghĩa như vậy mà nói lời nói quyết định thì Ta chẳng được tôn xưng là Như Lai biết đầy đủ căn lực. Này thiện nam! Người có trí phải biết: Sức chở của con Hương tượng chẳng phải sức chở của con lừa mà hơn được. Việc làm của tất cả chúng sinh vô lượng vậy nên Như Lai vì họ nói đủ vô lượng pháp. Vì sao? Vì chúng sinh có nhiều phiền não. Nếu giả sử Như Lai chỉ nói về một hạnh thì chẳng gọi là Như Lai thành tựu đầy đủ sự hiểu biết các căn lực. Vậy nên ở trong kinh khác của Ta nói, năm loài chúng sinh chẳng nên trở lại vì họ nói năm thứ pháp: Vì người chẳng tin thì chẳng khen chánh tín, vì người hủy phạm giới cấm thì chẳng khen trì giới, vì người tham lam keo kiệt thì chẳng khen bố thí, vì người biếng trễ thì chẳng khen đa văn, vì người ngu si chẳng khen trí tuệ. Vì sao? Vì người trí nếu vì năm hạng người này mà nói năm việc đó thì phải biết là người này chẳng được đầy đủ sự biết các căn lực, cũng chẳng được gọi là thương xót chúng sinh. Vì sao? Vì năm hạng người này nghe năm việc đó rồi thì sinh lòng bất tín, lòng ác, lòng sân. Do nhân duyên này mà chúng sinh đó ở trong vô lượng đời chịu quả báo khổ. Vậy nên chẳng gọi là thương xót chúng sinh, biết đầy đủ căn lực. Do đó trước đây, ở trong kinh khác, Ta bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: “Thận trọng không vì người lợi căn rộng nói pháp ngữ, còn người độn căn thì nói pháp tóm lược”. Tôn giả Xá-lợi-phất nói: “Thưa Thế Tôn! Con chỉ vì thương xót nên nói, chẳng phải là đầy đủ căn lực nên nói”. Này thiện nam! Nói pháp rộng hay lược là cảnh giới của Phật, chẳng phải sự hiểu biết của hàng Thanh văn, Duyên giác. Này thiện nam! Như lời ông nói, sau khi Phật Niết-bàn, các đệ tử v.v… đều nói khác thì những người đó đều do nhân duyên điên đảo, chẳng được chánh kiến. Vậy nên họ chẳng thể tự lợi và lợi tha. Này thiện nam! Những chúng sinh đó chẳng phải chỉ một tánh, một hạnh, một căn, một thứ đất nước, một thiện tri thức. Vậy nên Như Lai vì đủ hạng người đó mà tuyên nói pháp chính yếu. Do nhân duyên này mà các Đức Phật Như Lai ba đời trong mười phương vì chúng sinh khai thị diễn nói Mười hai bộ loại kinh văn. Này thiện nam! Như Lai nói Mười hai bộ loại kinh văn đó chẳng phải vì tự lợi mà chỉ vì lợi tha. Vậy nên lực thứ năm của Như Lai gọi là Giải lực. Nhờ hai lực này mà Như Lai biết sâu: Người này hiện tại có thể cắt đứt thiện căn, người này đời sau có thể cắt đứt thiện căn, Người này hiện tại có thể được giải thoát, người này đời sau có thể được giải thoát… Vậy nên Như Lai gọi là Lực sĩ vô thượng.

Này thiện nam! Nếu có người nói, Như Lai Niết-bàn rốt ráo hay chẳng Niết-bàn rốt ráo thì người này chẳng hiểu được ý của Như Lai nên nói lời như vậy. Này thiện nam! Trong núi Hương này có năm vạn ba ngàn tiên nhân, họ đều ở chỗ Đức Phật Ca-diếp đời quá khứ, tu các công đức nhưng chưa được chánh đạo và gần gũi chư Phật nghe chánh pháp. Như Lai vì muốn độ những người đó nên bảo Tôn giả A-nan: “Qua ba tháng Ta sẽ Niết-bàn”. Chư Thiên nghe rồi, tiếng ấy lần lần vang vọng đến tận núi Hương, các tiên nhân nghe rồi liền sinh lòng hối tiếc, nói như vầy: “Sao chúng ta được sinh ra trong loài người mà chẳng thân cận Đức Phật. Các Đức Phật Như Lai ra đời rất khó như hoa Ưu-đàm. Chúng ta nay phải đi đến chỗ Đức Thế Tôn để nghe thọ chánh pháp”. Này thiện nam! Bấy giờ năm vạn ba ngàn tiên nhân liền đến chỗ Ta. Ta liền vì họ tùy cơ nói pháp: “Này các Đại sĩ! Sắc là vô thường. Vì sao? Vì nhân duyên của sắc là vô thường. Nhân vô thường sinh ra sắc thì sao gọi là thường được? Cho đến thức Ta cũng nói như vậy”. Lúc này, các tiên nhân nghe pháp này rồi tức thời chứng được quả A-la-hán.

Này thiện nam! Thành Câu-thi-na có các Lực sĩ nhiều đến ba mươi vạn người mà không có sự ràng buộc. Họ tự thị kiêu mạn, phóng túng sắc lực, thân mạng, của cải, lòng loạn cuồng say. Này thiện nam! Ta vì điều phục các Lực sĩ nên bảo Tôn giả Mục-kiền-liên: “Ông phải điều phục những Lực sĩ như vậy”. Tôn giả Mục-kiền-liên cung kính thuận theo lời dạy của Ta, trong năm năm, dùng đủ cách giáo hóa nhưng thậm chí chẳng thể khiến cho một Lực sĩ điều phục thọ pháp. Vậy nên Ta lại vì những Lực sĩ kia mà bảo Tôn giả A-nan: “Qua ba tháng, Ta sẽ Niết-bàn”. Này thiện nam! Khi ấy, các Lực sĩ nghe lời nói này rồi thì tập hợp nhau lại, sửa sang đường sá bằng phẳng. Qua ba tháng rồi, Ta liền từ nước Tỳ-xá-ly đi đến thành Câu-thi-na. Giữa đường, từ xa thấy một nhóm những Lực sĩ, Ta liền tự hóa thân làm hình dáng Sa-môn, đi đến chỗ Lực sĩ, nói như vầy: “Các đồng tử làm việc gì vậy?”. Các Lực sĩ nghe rồi đều nổi sân giận mà nói như vầy: “Này Samôn! Nay tại sao ông gọi bọn chúng tôi là đồng tử?”. Ta nói: “Các ngươi rất đông người, đến ba mươi vạn người đem hết sức lực của thân mình mà chẳng thể dời được tảng đá nhỏ xíu này thì sao chẳng gọi là đồng tử?”. Các Lực sĩ nói: “Nếu ông gọi chúng tôi là đồng tử thì phải biết ông tức là người lớn vậy”. Này thiện nam! Lúc ấy, Ta dùng hai ngón chân đào tảng đá này ra. Các Lực sĩ này thấy việc đó rồi liền đối với thân mình phát sinh ý tưởng yếu kém, lại nói: “Này ông Sa-môn! Ông có thể dời tảng đá này ra khỏi đường đi không?”. Ta nói: “Này các đồng tử! Vì nhân duyên gì mà các ông sửa sang con đường này?”. Các Lực sĩ nói: “Này ông Sa-môn! Ông chẳng biết sao? Đức Như Lai Thích Ca sẽ theo con đường này đi đen rừng Ta-la để vào Niết-bàn. Do nhân duyên đó nên chúng tôi sửa sang”. Ta khen: “Hay thay! Hay thay! Này các đồng tử! Các ông đã phát lòng lành như vậy thì Ta sẽ vì các ông dẹp bỏ tảng đá này”. Rồi Ta dùng tay nâng tảng đá ném lên cao đến tận cõi trời A-ca-nị-sắc. Các Lực sĩ thấy tảng đá ở tại hư không đều sinh kinh sợ, liền muốn chạy tứ tán. Ta lại bảo: “Này các Lực sĩ! Các ông nay chẳng nên sinh lòng sợ hãi mà toan chạy đi”. Các Lực sĩ nói: “Này ông Sa-môn! Nếu có thể cứu giúp chúng tôi thì chúng tôi sẽ ở yên”. Bấy giờ Ta lại dùng tay tiếp lấy tảng đá đặt nó vào bàn tay phải. Lực sĩ thấy rồi thì lòng sinh vui mừng, lại nói: “Thưa ông Samôn! Tảng đá này là thường hay vô thường vậy?”. Lúc ấy, Ta dùng miệng thổi tảng đá thì tảng đá liền tan hoại giống như vi trần. Lực sĩ thấy xong liền nói: “Thưa ông Sa-môn! Tảng đá này vô thường”. Họ liền sinh lòng hổ thẹn mà tự trách: “Tại sao chúng ta cậy vào sự tự do, sắc lực, thân mạng, của cải mà sinh ra kiêu mạn?”. Ta biết lòng của họ, liền xả bỏ hóa thân trở lại hình dáng cũ mà vì họ nói pháp. Các Lực sĩ thấy rồi thì tất cả đều phát tâm Bồ-đề.

Này thiện nam! Thành Câu-thi-na có một người thợ khéo tên là Thuần-đà. Người này đời trước ở chỗ Đức Phật Ca-diếp phát thệ nguyện lớn: “Khi Đức Như Lai Thích Ca vào Niết-bàn thì con sẽ cúng dường bữa ăn sau cùng”. Vậy nên Ta đang ở nước Tỳ-xá-ly, lệnh cho Tỳ-kheo Ưu-bà-ma-na: “Này thiện nam! Qua ba tháng nữa thì Ta ở rừng Ta-la song thọ tại thành Câu-thi-na vào Niết-bàn. Ông hãy đến bảo cho ông Thuần-đà biết”.

Này thiện nam! Trong thành Vương-xá có vị Tiên nhân chứng năm thông tên là Tu-bạt-đà một trăm hai mươi tuổi, thường tự xưng là người Nhất thiết trí, sinh lòng kiêu mạn lớn. Ông này đã từng ở chỗ vô lượng Phật đời quá khứ gieo trồng các căn lành. Ta cũng vì muốn điều phục người đó nên bảo Tôn giả A-nan: “Qua ba tháng, Ta sẽ vào Niếtbàn, ông Tu Bạt nghe rồi sẽ đến chỗ Ta, phát sinh lòng tin kính, Ta sẽ vì ông ấy nói đủ thứ pháp. Ông ta nghe rồi sẽ được lậu tận”.

Này thiện nam! Vua nước La-duyệt-kỳ là Tần-bà-ta-la. Thái tử của vua ấy tên là Thiện Kiến, do nghiệp nhân duyên nên sinh lòng nghịch ác muốn hại cha mình mà chẳng có cơ hội. Bấy giờ, người ác Đề-bà-đạt-đa cũng do nhân duyên nghiệp quá khứ nên ở chỗ Ta sinh lòng bất thiện muốn hại Ta, liền tu ngũ thông, chẳng bao lâu thì đạt được kết quả. Ông cùng với Thái tử Thiện Kiến giao du thân mật, vì Thái tử nên hiện làm đủ thứ việc thần thông như: từ chỗ chẳng có cửa mà ra rồi từ cửa mà vào, từ cửa mà ra rồi từ chỗ chẳng phải cửa mà vào, hoặc có khi thị hiện thân voi, ngựa, trâu, dê, trai, gái v.v… Thái tử Thiện Kiến thấy rồi liền sinh lòng ưa thích, lòng vui mừng, lòng kính tín. Vì những việc này nên Thái tử sắm sửa đủ thứ đồ cúng dường mà cúng dường cho ông ta. Lại nữa, Thái tử bạch: “Thưa Đại sư Thánh nhân! Tôi nay muốn thấy hoa Mạn-đà-la”. Đề-bà-đạt-đa liền đi đến trời Ba Mươi Ba, theo người trời đó mà tìm kiếm hoa. Nhưng phước của ông ấy hết nên không có ai cho. Đã chẳng được hoa nên ông suy nghĩ: “Cây Mạn-đà-la không ngã và ngã sở. Nếu ta tự lấy thì sẽ có tội gì!”. Trước khi ý ông muốn lấy hoa thì liền mất hết thần thông và trở lại thấy thân mình ở tại thành Vương-xá, lòng xấu hổ chẳng thể gặp lại thái tử Thiện Kiến nên lại nghĩ: “Ta nay phải đi đến chỗ Đức Như Lai cầu xin đại chúng. Đức Phật nếu cho phép thì ta sẽ tùy ý dạy bảo, kêu gọi, sai bảo Tôn giả Xá-lợi-phất v.v…”. Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa liền đến chỗ Ta nói như vầy: “Cúi xin Thế Tôn đem đại chúng này giao phó cho con. Con sẽ nói đủ thứ pháp giáo hóa khiến cho họ điều phục”. Ta nói: “Này người ngu si! Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… là những bậc thông minh đại trí, được đời tin phục mà Ta còn chẳng đem đại chúng giao phó, huống hồ là ông, người ngu si, kẻ ăn đồ nhổ bỏ chăng?”. Đề-bà-đạt-đa lại đối với Ta sinh ra tâm ác bội phần và nói như vầy: “Này Cù-đàm! Ông nay tuy điều phục được đại chúng nhưng thế lực chẳng bao lâu sẽ bị tiêu diệt”. Ông ta nói lời đó rồi, đại địa tức thời chấn động sáu cách, Đề-bà-đạt-đa liền ngã lăn ra đất. Ở bên thân ông ấy, gió rất mạnh nổi lên thổi tung những bụi đất làm nhơ bẩn ông ta. Đề-bà-đạt-đa thấy tướng ác rồi lại nói: “Nếu đời hiện tại thân này của ta nhất định vào địa ngục A-tỳ thì ta cần phải báo cái oán lớn này”. Đề-bà-đạt-đa liền đứng dậy đi đến chỗ của Thái tử Thiện Kiến. thái tử Thiện Kiến thấy rồi liền hỏi: “Thưa Thánh nhân! Vì sao dung nhan của ông tiều tụy có vẻ lo âu như vậy?”. Đề-bà-đạt-đa nói: “Tôi nay cùng ông đã trở thành rất thân ái. Người ngoài mắng ông rất là phi lý mà tôi nghe được việc này thì há chẳng lo chăng?”. Thái tử Thiện Kiến lại hỏi: “Người trong nước nhục mạ ta thế nào?”. Đề-bà-đạt-đa nói: “Người trong nước mắng ông là vị sinh oán”. Thiện Kiến lại hỏi: “Vì sao gọi ta là Vị sinh oán? Ai đặt ra cái tên này?”. Đề-bà-đạt-đa nói: “Khi ông chưa sinh ra, tất cả thầy tướng đều nói, đứa trẻ này sinh ra rồi sẽ giết cha của nó. Vậy nên người bên ngoại đều gọi ông là vị sinh oán. Tất cả người bên trong một lòng ủng hộ ông nên gọi ông là Thiện Kiến. Phu nhân Vi Đề nghe lời nói này, khi sinh ra thân ông rồi, ở trên lầu cao ném ông xuống đất, làm ông gãy một ngón tay. Do nhân duyên này mà mọi người lại gọi ông là Ba-la-lưu-chỉ. Ta nghe những điều đó rồi lòng sinh ra lo rầu mà lại chẳng thể nói cho ông biết”, Đề-bà-đạt-đa dùng đủ thứ lời lẽ ác như vậy rồi xúi thái tử giết cha và nói: “Nếu cha ông chết thì ta cũng có thể giết chết ông Sa-môn Cù-đàm”. Thái tử Thiện Kiến hỏi một vị đại thần tên là Vũ Hành: “Đại vương vì sao đặt tên ta là Vị sinh oán?”. Vị đại thần liền vì thái tử nói hết đầu đuôi chuyện ấy đúng như lời của Đề-bàđạt-đa không khác. Thái tử Thiện Kiến nghe rồi liền cùng với đại thần bắt vua cha giam ở bên ngoài thành. Ông dùng bốn thứ binh chủng canh giữ. Phu nhân Vi Đề nghe được việc này liền đi đến chỗ vua thì bị người canh giữ vua ngăn chẳng cho vào. Bấy giờ phu nhân sinh lòng sân hận liền trách mắng họ. Những người canh giữ liền báo cho thái tử: “Tâu đại vương! Phu nhân của vua cha muốn gặp vua cha, chẳng biết có nên cho không?”. Thiện Kiến nghe lại nổi giận, liền đến chỗ của mẹ, kéo tóc mẹ về trước, vung dao muốn chém. Bấy giờ, ông Kỳ-bà tâu: “Thưa đại vương! Từ khi lập quốc đến nay, tuy có những tội rất nặng nhưng chẳng liên quan đến nữ nhân, huống gì là mẹ đẻ mình”. Thái tử Thiện Kiến nghe lời nói đó rồi, vì Kỳ-bà nên liền buông tha. Ông ngăn cấm cung cấp cho vua cha quần áo, đồ nằm, ăn uống, thuốc thang, qua bảy ngày, nhà vua băng hà. Thái tử Thiện Kiến thấy vua cha chết rồi mới sinh lòng hối hận. Đại thần Vũ Hành lại dùng đủ thứ pháp tà ác để nói cho vua nghe: “Tâu đại vương! Tất cả nghiệp hạnh đều không có tội thì hôm nay vì sao vua lại sinh lòng hối hận?”. Kỳ-bà tâu: “Tâu đại vương! Đại vương phải biết là nghiệp như vậy thì tội gồm hai thứ, một là giết vua cha, hai là giết Tu-đà-hoàn. Tội như vậy, ngoại trừ Đức Phật thì không ai có thể trừ diệt được”. Vua Thiện Kiến nói: “Đức Như Lai thanh tịnh không có uế trược, còn người có tội như chúng ta thì làm sao thấy được?”. Này thiện nam! Ta biết việc như vậy nên bảo Tôn giả A-nan: “Qua ba tháng, Ta sẽ Niết-bàn”. Vua Thiện Kiến nghe được liền đến chỗ Ta. Ta vì nhà vua nói pháp tội nặng được nhẹ, nhà vua đạt được niềm vui vô căn. Này thiện nam! Những đệ tử của Ta nghe lời nói này rồi chẳng hiểu được ý của Ta nên nói, Như Lai quyết định nói Niết-bàn rốt ráo.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai thứ, một là thật nghĩa, hai là giả danh. Bồ-tát giả danh nghe Ta ba tháng sẽ vào Niết-bàn thì đều sinh thoái tâm mà nói: “Như Đức Như Lai kia mà còn vô thường, chẳng tồn tại thì chúng ta làm gì được? Vì việc này nên ở trong vô lượng đời chịu khổ não lớn. Đức Như Lai Thế Tôn thành tựu đầy đủ vô lượng công đức mà còn chẳng thể hủy hoại được loài ma chết như vậy, huống gì là bọn chúng ta có thể hoại được sao?”. Này thiện nam! Vậy nên Ta vì những Bồ-tát như vậy mà nói, Như Lai thường trụ không có biến đổi. Này thiện nam! Những đệ tử của Ta nghe lời này rồi chẳng hiểu được ý của Ta nên quyết định nói, Như Lai nhất định chẳng rốt ráo vào Niếtbàn.

Này thiện nam! Có những chúng sinh khởi đoạn kiến nói như vầy: “Thân của tất cả chúng sinh sau khi diệt thì nghiệp quả thiện ác không có người thọ”. Ta vì những người đó nói như vầy: “Quả báo thiện ác thật có người thọ”. Làm sao biết là có? Này thiện nam! Đời quá khứ tại thành Câu-thi-na, có vị vua tên là Thiện Kiến, khi làm đồng tử trải qua tám vạn bốn ngàn năm, khi làm thái tử trải qua tám vạn bốn ngàn năm và khi lên ngôi vua cũng trải qua tám vạn bốn ngàn năm. Vua ngồi chỗ vắng suy nghĩ: “Chúng sinh bạc phước, thọ mạng ngắn ngủi, thường có bốn oán đuổi theo mà chẳng tự biết còn buông lung. Vậy nên Ta phải xuất gia, tu đạo, đoạn tuyệt bốn oán sinh, già, bệnh, chết”. Vua liền ra lệnh cho quan Hữu Ty làm ngôi nhà bảy báu ở bên ngoài thành ấy. Nhà xây dựng xong, nhà vua liền bảo quần thần bá quan, phi, hậu, các con, quyến thuộc ở nội cung: “Các ngươi phải biết, ta muốn xuất gia. Các ngươi có đồng ý không?”. Bấy giờ đại thần và quyến thuộc của vua đều nói: “Hay thay! Hay thay! Tâu đại vương! Hôm nay chính là lúc đó”. Vua Thiện Kiến đem theo một người sai bảo, rồi một mình vào nhà báu ấy. Nhà vua lại trải qua tám vạn bốn ngàn năm tu tập tâm từ. Nhờ nhân duyên của lòng từ đó mà về sau tám vạn bốn ngàn đời tuần tự được làm Chuyển luân Thánh vương, trong ba mươi đời làm Thích-đề-hoàn-nhân, trong vô lượng đời làm các Tiểu vương. Này thiện nam! Vua Thiện Kiến bây giờ đâu phải ai khác mà chính là thân Ta đó. Này thiện nam! Những đệ tử của Ta nghe lời này rồi chẳng hiểu được ý Ta nên nói: “Như Lai nói nhất định có ngã và ngã sở”. Lại, một thuở, Ta vì các chúng sinh nói: “Ngã tức là tánh. Như là nhân duyên trong ngoài, mười hai nhân duyên, chúng sinh, năm ấm, tâm, giới, thế gian, công đức, nghiệp hạnh, trời Tự Tại, đời v.v…, đó gọi là ngã”. Những đệ tử của Ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý Ta nên nói: “Đức Như Lai nói nhất định có ngã”.

Này thiện nam! Vào một lúc khác, có một Tỳ-kheo đi đến chỗ Ta nói như vầy: “Thưa Thế Tôn! Sao gọi là ngã? Ai là ngã? Do duyên gì có ngã?”. Ta liền vị Tỳ-kheo mà nói: “Này Tỳ-kheo! Không ngã và ngã sở. Mắt thì vốn không nay có, đã có lại hoàn không. Khi mắt ấy sinh thì không từ đâu đến và khi mắt ấy diệt cũng không đi về đâu. Tuy có nghiệp quả nhưng không có tác giả, không có người thọ ấm và xả ấm. Như lời ông hỏi: Ai là ngã, thì là nghiệp vậy. Ngã duyên gì, tức là ái vậy. Này Tỳ-kheo! Ví như hai tay vỗ vào nhau thì tiếng phát ra trong ấy. Ngã cũng như vậy. Do ba nhân duyên chúng sinh, nghiệp, ái nên gọi là ngã. Này Tỳ-kheo! Sắc của tất cả chúng sinh chẳng phải ngã, trong ngã không sắc, trong sắc không ngã. Cho đến thức cũng như vậy. Này Tỳ-kheo! Những hạng ngoại đạo tuy nói có ngã nhưng nhất định chẳng lìa khỏi ấm. Nếu nói lìa khỏi ấm mà riêng có ngã thì không có điều này. Hành của tất cả chúng sinh như huyễn hóa, như sóng nắng. Này Tỳ-kheo! Năm ấm đều là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Này thiện nam! Bấy giờ, có vô lượng Tỳ-kheo quan sát năm ấm này không có ngã và ngã sở mà đắc quả A-la-hán. Này thiện nam! Những đệ tử của Ta nghe nói vậy rồi chẳng hiểu được ý của Ta nên cho rằng, Như Lai nói nhất định vô ngã.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta lại nói: “Ba việc hòa hợp thì được thọ thân này. Một là cha, hai là mẹ, ba là trung ấm. Ba yếu tố đó hòa hợp thì được thọ thân này”. Hoặc khi lại nói: “Hàng A-na-hàm hiện nhập Niết-bàn, hoặc ở trung ấm nhập Niết-bàn”. Hoặc lại nói: “Thân căn trung ấm đầy đủ sáng suốt đều nhân nghiệp đời trước như đề hồ sạch sẽ”. Này thiện nam! Ta hoặc có khi nói: “Chúng sinh tệ ác thọ trung ấm như tấm vải thô nhám trong thế gian, còn chúng sinh thuần thiện thọ trung ấm như tấm vải trắng mịn sản xuất ở thành Ba-lanại”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói có trung ấm”.

Này thiện nam! Ta lại vì những chúng sinh tội nghịch kia mà nói thế này: “Người tạo ngũ nghịch, khi xả thân vào thẳng địa ngục A-tỳ”. Ta lại nói: “Tỳ-kheo Đàm-ma-lưu-chi xả thân vào thẳng địa ngục A-tỳ, ở khoảng giữa không có chỗ dừng nghỉ”. Ta lại vì Phạm chí Độc Tử kia nói: “Này Phạm chí! Nếu có trung ấm thì có sáu hữu”. Ta lại nói: “Chúng sinh cõi Vô sắc không có trung ấm”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Phật nói nhất định không có trung ấm”.

Này thiện nam! Ở trong kinh, Ta lại nói có thoái lui. Vì sao? Vì đối với vô lượng các Tỳ-kheo lười biếng, trễ nãi, chẳng tu đạo, nên nói thoái là có năm thứ: một là ưa nhiều chuyện, hai là ưa nói việc đời, ba là ưa ngủ nghỉ, bốn là ưa gần kẻ tại gia, năm là ưa du hành nhiều. Do những nhân duyên này nên khiến cho các Tỳ-kheo thoái lui. Nói về nhân duyên thoái lui có hai thứ, một là trong, hai là ngoài. Hàng A-lahán tuy lìa khỏi nhân duyên bên trong nhưng chẳng lìa khỏi nhân duyên bên ngoài. Do nhân duyên bên ngoài nên sinh ra phiền não, mà sinh ra phiền não thì liền thoái lui. Lại có Tỳ-kheo tên là Cù-chỉ có đến sáu lần thoái lui. Thoái rồi thì xấu hổ trở lại tiến tu, đến lần thứ bảy mới được. Được rồi lại sợ mất nên ông dùng dao tự hại mình. Ta lại có lúc nói giải thoát, hoặc nói có sáu thứ A-la-hán v.v… Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói nhất định có thoái lui”.

Này thiện nam! Trong kinh lại nói, ví như đốt than thì than chẳng trở lại như cũ, cũng như bình vỡ là bình vô dụng. Phiền não cũng vậy, A-la-hán đoạn xong thì chẳng sinh trở lại. Kinh cũng nói, chúng sinh sinh ra phiền não, nhân duyên có ba thứ: Một là chưa đoạn phiền não, hai là chẳng đoạn nhân duyên, ba là chẳng khéo suy nghĩ. Nhưng mà A-la-hán không có hai nhân duyên là đoạn phiền não và khéo suy nghĩ. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói nhất định không thoái”.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta nói, thân Như Lai có hai thứ:

một là sinh thân, hai là pháp thân. Nói sinh thân tức là thân phương tiện ứng hóa. Như thân này thì có thể được nói rằng là sinh, già, bệnh, chết, dài, ngắn, đen, trắng, là đây, là đó, là học hay vô học. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói nhất định thân Phật là pháp hữu vi”.

Pháp thân tức là thường, lạc, ngã, tịnh, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sinh, già, bệnh, chết, chẳng phải trắng, chẳng phải đen, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải đây, chẳng phải đó, chẳng phải học, chẳng phải vô học. Nếu Phật ra đời và chẳng ra đời thì vẫn thường trụ chẳng động, không có biến dịch. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói nhất định thân Phật là pháp vô vi”.

Này thiện nam! Trong kinh của Ta nói, sao gọi là mười hai nhân duyên? Từ vô minh sinh ra hành, từ hành sinh ra thức, từ thức sinh ra danh sắc, từ danh sắc sinh ra lục nhập, từ lục nhập sinh ra xúc, từ xúc sinh ra thọ, từ thọ sinh ra ái, từ ái sinh ra thủ, từ thủ sinh ra hữu, từ hữu sinh ra sinh, từ sinh thì có lão tử ưu khổ. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói mười hai nhân duyên nhất định là hữu vi”.

Có lúc Ta lại các Tỳ-kheo: “Mười hai nhân duyên dù có Phật hay không có Phật, tánh tướng thường trụ”. Này thiện nam! Có mười hai nhân duyên chẳng từ duyên sinh. Có pháp từ duyên sinh chẳng phải mười hai nhân duyên. Có pháp từ duyên sinh cũng là mười hai nhân duyên. Có pháp chẳng phải duyên sinh cũng chẳng phải mười hai nhân duyên. Có pháp mười hai nhân duyên chẳng phải duyên sinh, đó là mười hai chi của đời vị lai. Có pháp từ duyên sinh chẳng phải mười hai nhân duyên, đó là năm ấm của A-la-hán. Có pháp từ duyên sinh cũng là mười hai nhân duyên, đó là năm ấm, mười hai nhân duyên của người phàm phu. Có pháp chẳng phải duyên sinh chẳng phải mười hai nhân duyên, đó là hư không, Niết-bàn”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói mười hai nhân duyên nhất định là vô vi”.

Này thiện nam! Trong kinh Ta nói: “Tất cả chúng sinh tạo tác nghiệp thiện ác, khi xả thân thì bốn đại ở đây tức thời tan hoại. Người nghiệp thuần thiện thì tâm liền đi lên. Kẻ nghiệp thuần ác thì tâm đi xuống”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói tâm nhất định thường”.

Này thiện nam! Vào một thuở, Ta vì vua Tần-bà-ta-la mà nói: “Này đại vương! Ông phải biết, sắc là vô thường. Vì sao? Vì nó từ nhân vô thường mà sinh ra. Sắc đó nếu từ nhân vô thường sinh ra thì người trí vì sao nói là thường? Nếu sắc là thường thì đáng lẽ chẳng hoại diệt, sinh ra các khổ não. Nay ông thấy sắc này tan diệt hư hoại. Vậy nên ông phải biết sắc là vô thường… cho đến thức cũng như vậy”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói tâm nhất định đoạn”.

Này thiện nam! Trong kinh Ta nói, những đệ tử của Ta thọ nhận những hương hoa, vàng bạc, vật báu, vợ con, nô tỳ v.v… trăm thứ vật bất tịnh vẫn đạt được chánh đạo, mà được chánh đạo rồi cũng chẳng rời bỏ. Những đệ tử của Ta nghe lời nói đó rồi, chẳng hiểu ý của Ta mà nói chắc rằng: “Như Lai nói thọ năm dục chẳng phương hại Thánh đạo”.

Lại có một thuở, Ta lại nói: “Người tại gia mà được chánh đạo thì không có điều này”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói người thọ năm dục quyết định ngăn trở đạo chân chánh”.

Này thiện nam! Trong kinh Ta nói, xa lìa phiền não chưa được giải thoát giống như ở Dục giới tu tập pháp đệ nhất của thế gian. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói pháp đệ nhất chỉ là Dục giới”.

Lại nữa, Ta nói, pháp noãn, pháp đỉnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất ở tại Sơ thiền đến Tứ thiền. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói những pháp như vậy ở tại Sắc giới”.

Lại nữa, Ta nói, các ngoại đạo v.v… trước đã đoạn phiền não của bốn thiền, tu tập pháp noãn, pháp đỉnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất mà quan sát bốn chân đế thì được quả A-na-hàm. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói pháp đệ nhất ở tại Vô sắc giới”.

Này thiện nam! Trong kinh Ta nói, trong bốn thứ thí có ba thứ tịnh: Một là thí chủ tin nhân, tin quả, tin thí mà người thọ chẳng tin. Hai là người thọ thí tin nhân, quả, thí mà thí chủ chẳng tin. Ba là thí chủ và người thọ cả hai đều tin. Bốn là thí chủ và người thọ cả hai chẳng tin. Đó là bốn thứ thí mà ba thứ đầu là tịnh. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói thí chỉ do ý”.

Này thiện nam! Ta có thuở lại nói, người bố thí khi bố thí dùng năm thứ để bố thí. Những gì là năm? Một là thí sắc, hai là thí lực, ba là thí an, bốn là thí mạng, năm là thí biện. Do nhân duyên này nên thí chủ trở lại được năm quả báo. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Phật nói thí tức là năm ấm”.

Này thiện nam! Ta có thuở tuyên nói, Niết-bàn tức là xa lìa phiền não, tận diệt vĩnh viễn không còn pháp gì sinh trở lại, giống như đèn tắt. Nói hư không tức là không sở hữu. Ví như thế gian không sở hữu nên gọi là hư không. Chẳng phải do duyên trí mà diệt, tức là không sở hữu. Như hư không kia có thì đáng lẽ có nhân duyên. Có nhân duyên đáng lẽ có tận diệt. Do hư không kia không nên không có tận diệt. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói không có ba vô vi”.

Này thiện nam! Có một thuở, Ta vì Tôn giả Mục-kiền-liên mà nói: “Này Mục-kiền-liên! Luận về Niết-bàn tức là chương cú, tức là dấu chân, là chỗ rốt ráo, là chỗ không sợ hãi, tức là đại sư, là đại quả, là trí rốt ráo, tức là Tam-muội Đại nhẫn vô ngại, là đại pháp giới, là vị cam lồ, tức là khó thấy. Này Mục-kiền-liên! Nếu nói không Niết-bàn thì làm sao có người bài báng thì rơi vào địa ngục”. Này thiện nam! Những đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói có Niết-bàn”.

Lại vào một thuở nọ, Ta vì Tôn giả Mục-kiền-liên nói: “Này Mục-kiền-liên! Mắt chẳng bền chắc cho đến thân cũng vậy, chúng đều chẳng bền chắc. Vì chẳng bền chắc nên gọi là hư không. Như ăn uống xuống rồi thì tiêu hóa. Tất cả âm thanh đều giải thoát hư không”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta cho là: “Như Lai nói nhất định có hư không vô vi”.

Lại vào một thuở nọ, Ta vì Tôn giả Mục-kiền-liên nói: “Này Mục-kiền-liên! Có người chưa được quả Tu-đà-hoàn, khi trụ ở pháp nhẫn thì đoạn được vô lượng quả báo của ba đường ác. Ông phải biết, chẳng từ trí duyên mà diệt”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói nhất định “có” chẳng phải do trí mà diệt”.

Này thiện nam! Ta lại vào một thuở nọ vì Tỳ-kheo Bạt-ba nói: “Nếu Tỳ-kheo quan sát sắc hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, hoặc gần, hoặc xa, hoặc lớn, hoặc nhỏ v.v… những sắc như vậy chẳng phải ngã và ngã sở. Nếu Tỳ-kheo quan sát như vậy rồi thì có thể cắt đứt sắc ái”. Bạt Ba lại nói: “Sao gọi là sắc?”. Ta nói: “Bốn đại gọi là sắc, bốn ấm gọi là danh”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói nhất định sắc chính là bốn đại”.

Này thiện nam! Ta lại nói: “Ví như nhân tấm gương mà có hình dáng hiện ra. Sắc cũng như vậy, nhân bốn đại tạo ra. Nào là to, nhỏ, nhám, trơn, xanh, vàng, đỏ, trắng, dài, ngắn, vuông, tròn, xiêng, góc, nhẹ, nặng, lạnh, nóng, đói, khát, mây, bụi, mù. Đó gọi là tạo sắc giống như tiếng vang và hình dáng”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói có bốn đại thì có tạo sắc thành ra không bốn đại, không có tạo sắc”.

Này thiện nam! Thuở xưa có vương tử Bồ-đề nói lời như vầy: “Nếu có Tỳ-kheo hộ trì giới cấm mà phát lòng ác thì phải biết lúc đó đã mất giới Tỳ-kheo”. Khi ấy Ta nói: “Này vương tử Bồ-đề! Giới có bảy thứ, từ ở thân miệng có vô tác sắc. Do nhân duyên vô tác sắc này nên tâm ấy tuy ở trong ác, vô ký nhưng chẳng gọi là mất giới mà còn gọi là trì giới. Vì nhân duyên gì gọi là vô tác sắc? Chẳng phải nhân sắc khác mà chẳng tạo tác quả sắc khác”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Phật nói có vô tác sắc”.

Này thiện nam! Ở kinh khác Ta lại nói như vầy: “Giới tức là ngăn chận, chế ngự pháp ác. Nếu chẳng làm ác thì đó gọi là trì giới”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói nhất định không có vô tác sắc”.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta nói như vầy: “Sắc ấm cho đến thức ấm của Thánh nhân đều là sự phát xuất của nhân duyên vô minh. Tất cả phàm phu cũng như vậy. Từ vô minh sinh ra ái thì phải biết ái này tức là vô minh. Từ ái sinh ra thủ thì phải biết thủ này tức là vô minh ái. Từ thủ sinh ra hữu thì phải biết hữu này tức là vô minh ái thủ. Từ hữu sinh ra thọ thì phải biết thọ này tức là hành hữu. Từ thọ nhân duyên sinh ra danh sắc, vô minh, ái, thủ, hữu, hành, thọ, xúc, thức, lục nhập v.v… Vậy nên thọ tức là mười hai chi”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói không có tâm sở”.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta nói như vầy: “Từ bốn pháp mắt, sắc, ánh sáng, ái dục sinh ra nhãn thức. Nói dục ác tức là nói vô minh. Khi tánh dục cầu thì gọi là ái. Ái nhân duyên thủ. Thủ gọi là nghiệp. Nghiệp nhân duyên thức. Thức duyên danh sắc. Danh sắc duyên lục nhập. Lục nhập duyên xúc. Xúc duyên tưởng, thọ, ái tín, tinh tấn, định, tuệ v.v… Những pháp như vậy nhân xúc mà sinh ra, nhưng chẳng phải là xúc”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Phật nói có tâm sở”.

Này thiện nam! Hoặc có khi Ta nói, chỉ có một hữu. Hoặc nói, có hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín cho đến hai mươi lăm hữu. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên cho là: “Như Lai nói có năm hữu, hoặc nói có sáu hữu”.

Này thiện nam! Một thuở trước đây, khi Ta trụ ở rừng Ni-câu-đà tại thành Ca-tỳ-la-vệ, ông Thích Ma-nam đi đến chỗ Ta mà nói như vầy: “Sao gọi là Ưu-bà-tắc?”. Ta liền vì ông ấy mà trả lời: “Nếu có thiện nam, thiện nữ nào các căn hoàn bị, thọ ba quy y thì đó gọi là Ưubà-tắc”. Ông Thích Ma-nam nói: “Bạch Thế Tôn! Sao gọi là một phần Ưu-bà-tắc?”. Ta đáp: “Nếu thọ ba quy y và thọ một giới thì đó gọi là một phần Ưu-bà-tắc”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói giới Ưu-bà-tắc chẳng thọ đủ được”.

Này thiện nam! Vào một thuở, Ta trụ ở bên sông Hằng, bấy giờ ông Ca-chiên-diên đi đến chỗ Ta mà nói như vầy: “Bạch Thế Tôn! Con dạy chúng sinh bảo họ thọ trai pháp hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một giờ, hoặc một niệm. Người như vậy có thành trai giới không?”. Ta đáp: “Này Tỳ-kheo! Người này được việc thiện chớ chẳng gọi là được trai giới”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói Bát giới trai thọ đầy đủ mới được”.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta nói như vầy: “Nếu có Tỳ-kheo phạm bốn trọng cấm rồi thì chẳng gọi là Tỳ-kheo mà gọi là Tỳ-kheo phá, Tỳ-kheo vong thất, lại chẳng có thể sinh ra hạt giống mầm thiện. Ví như hạt giống cháy chẳng sinh ra kết quả. Như đầu cây Đa-la nếu bị chặt phá thì chẳng sinh ra trái, Tỳ-kheo phạm bốn trọng cấm cũng như vậy”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói các Tỳ-kheo phạm bốn trọng cấm rồi thì mất giới Tỳ-kheo”.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta vì ông Thuần-đà mà nói về bốn thứ Tỳ-kheo, một là rốt ráo đến đạo, hai là thị đạo, ba là thọ đạo, bốn là ô đạo. Phạm bốn trọng cấm tức là ô đạo. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói các Tỳ-kheo phạm bốn trọng cấm rồi chẳng mất giới cấm”.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta bảo các Tỳ-kheo: “Một thừa, một đạo, một hạnh, một duyên, một thừa cho đến một duyên như vậy có thể vì chúng sinh tạo tác đại tịch tĩnh, đoạn vĩnh viễn tất cả khổ của sự trói buộc, sầu khổ và nhân của khổ, khiến cho tất cả chúng sinh đến nhất hữu”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán đều đắc Phật đạo”.

Này thiện nam! Ở trong kinh Ta nói: “Hàng Tu-đà-hoàn lên trời xuống nhân gian, qua lại bảy lần thì liền Bát-niết-bàn. Hàng Tư-đàhàm một lần thọ thân người, trời thì liền Bát-niết-bàn. Hàng A-na-hàm thường có năm thứ, hoặc có người trung gian Bát-niết-bàn cho đến người thượng lưu Bát-niết-bàn. Hàng A-la-hán thường có hai thứ, một là hiện tại, hai là vị lai. Hiện tại cũng đoạn phiền não năm ấm, vị lai cũng đoạn phiền não năm ấm”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà nói là: “Như Lai nói Tu-đà-hoàn cho đến A-na-hàm chẳng được Phật đạo”.

Này thiện nam! Ở trong kinh này Ta nói: “Phật tánh có đủ sáu việc, một là thường, hai là thật, ba là chân, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là khả kiến”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói Phật tánh của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.

Này thiện nam! Ta lại nói: “Phật tánh của chúng sinh giống như hư không. Hư không thì chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai, chẳng phải nội, chẳng phải ngoại, chẳng phải thuộc về sắc, thanh, hương, vị, xúc. Phật tánh cũng vậy”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói Phật tánh của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.

Này thiện nam! Ta lại nói nữa: “Phật tánh của chúng sinh giống như kho báu trong nhà người con gái nghèo, như viên ngọc báu kim cương trên trán vị lực sĩ, như dòng suối cam lồ của vị Chuyển luân Thánh vương”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Như Lai nói Phật tánh của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.

Này thiện nam! Ta lại nói: “Người phạm bốn trọng cấm, Nhấtxiển-đề, người bài báng kinh Phương Đẳng, người tạo tác tội ngũ nghịch đều có Phật tánh. Những chúng sinh như vậy đều không có pháp thiện mà Phật tánh chính là thiện”. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta nên xướng lên: “Như Lai nói Phật tánh của chúng sinh lìa khỏi chúng sinh mà có”.

Này thiện nam! Ta lại nói: “Chúng sinh tức là Phật tánh. Vì sao? Vì nếu lìa khỏi chúng sinh thì chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên Ta cùng với vua Ba-tư-nặc nói về bài dụ con voi. Như người mù nói về voi tuy chẳng được voi nhưng chẳng lìa khỏi voi. Chúng sinh nói sắc cho đến nói thức chính là Phật tánh thì cũng như vậy, tuy chẳng phải Phật tánh nhưng chẳng phải chẳng Phật tánh. Như Ta vì nhà vua nói bài dụ về cây đàn không hầu, Phật tánh cũng vậy”. Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà phát biểu đủ thứ ý kiến, như việc người mù hỏi về sữa, mà Phật tánh cũng vậy. Do nhân duyên này nên hoặc có người nói, người phạm bốn trọng cấm, bài báng kinh phương đẳng, tạo tội ngũ nghịch, Nhất-xiển-đề v.v… đều có Phật tánh, hoặc nói không. Này thiện nam! Ở khắp nơi nơi trong kinh Ta nói: “Một người ra đời nhiều người lợi ích, trong một đất nước có hai vua Chuyển luân, trong một thế giới có hai Phật ra đời thì không có điều này. Một Tứ thiên hạ có tám Tứ thiên vương cho đến hai trời Tha Hóa Tự Tại cũng không có điều này. Nhưng Ta mới nói từ địa ngục A-tỳ của cõi Diêm-phù-đề lên đến cõi trời A-ca-nị-tra. Các đệ tử của Ta nghe những lời nói đó rồi, chẳng hiểu được ý của Ta mà cho là: “Đức Phật nói không có mười phương Phật”. Nhưng ở trong những kinh Đại Thừa, Ta cũng nói có mười phương Phật.

**********

 

Này thiện nam! Tranh luận như vậy là cảnh giới của Phật, chẳng phải là sự hiểu biết của các Thanh văn, Duyên giác. Nếu người đối với vấn đề này sinh lòng nghi ngờ thì còn có thể tiêu hoại vô lượng phiền não như núi Tu-di. Nếu người ở trong vấn đề này sinh ra quyết định thì đó gọi là chấp trước.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là chấp trước?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Người như vậy, hoặc theo người khác nghe, hoặc tự tìm ở kinh điển, hoặc người khác dạy bảo cho, mà đối với những việc đã nhận được chẳng thể buông bỏ thì đó gọi là chấp trước.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy chấp trước là thiện hay bất thiện?

–Này thiện nam! Chấp trước chẳng gọi là thiện. Vì sao? Vì chẳng thể tiêu hoại các lưới nghi.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy con người vốn tự chẳng nghi ngờ thì làm sao mà nói rằng chẳng hoại lưới nghi?

–Này thiện nam! Phàm chẳng nghi tức là nghi.

–Thưa Thế Tôn! Nếu có người cho là hàng Tu-đà-hoàn chẳng rơi vào ba ác thì người đó cũng phải gọi là chấp trước, gọi là nghi?

–Này thiện nam! Đó có thể gọi là định, chẳng được gọi là nghi. Vì sao? Này thiện nam! Ví như có người trước thấy người và cây. Sau đó đi đêm từ xa thấy gốc cây liền sinh tưởng nghi ngờ là người hay là cây? Này thiện nam! Như người trước thấy Tỳ-kheo và Phạm chí, sau đó trên đường từ xa thấy Tỳ-kheo liền sinh tưởng nghi ngờ là Sa-môn hay là Phạm chí? Này thiện nam! Như người trước thấy bò và trâu, lúc sau từ xa thấy bò liền sinh tưởng nghi ngờ là bò hay là trâu? Này thiện nam! Tất cả chúng sinh trước thấy hai vật thì về sau liền sinh ra nghi ngờ. Vì sao? Vì tâm chẳng hiểu rõ. Ta cũng chẳng nói hàng Tu-đàhoàn có đọa vào ba ác, chẳng đọa vào ba ác thì người đó vì sao sinh lòng nghi?

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, cần phải trước thấy rồi sau đó mới nghi. Nhưng có người chưa thấy hai thứ vật cũng sinh nghi là sao? Như là Niết-bàn. Thưa Thế Tôn! Ví như có người trên đường đi gặp vũng nước đục, nhưng chưa từng thấy, mà vẫn sinh nghi ngờ, nước như vậy là sâu hay là cạn? Người này chưa thấy thì làm sao sinh nghi?

–Này thiện nam! Phàm Niết-bàn tức là đoạn khổ, chẳng phải Niết-bàn tức là khổ. Cái thấy của tất cả chúng sinh có hai thứ: Khổ, chẳng phải khổ. Khổ, chẳng phải khổ tức là đói khát, nóng lạnh, sân giận, vui mừng, bệnh ốm, yên ổn, già, trẻ, sinh, chết, trói buộc, giải thoát, ân ái biệt ly, oán ghét tụ hội. Chúng sinh thấy rồi liền sinh nghi ngờ: “Phải chăng có sự xa lìa rốt ráo khổ não như vậy?”. Vậy nên chúng sinh đối với Niết-bàn mà sinh ra nghi vậy. Theo ý ông nếu cho rằng, người này trước khi đến chưa thấy vũng nước đục mà làm sao sinh nghi ngờ thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì người đó đã thấy ở chỗ khác rồi. Vậy nên ở chỗ này chưa từng đến mà lại sinh nghi.

–Bạch Thế Tôn! Người này khi trước thấy chỗ sâu, cạn rồi chẳng sinh nghi, đến nay vì sao mà lại sinh nghi?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Vì trước kia chưa đi nên đã sinh nghi. Vậy nên Ta nói, chẳng rõ nên nghi.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, nghi tức là chấp trước, chấp trước tức là nghi, là ai vậy?

–Này thiện nam! Là người đoạn thiện căn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Những hạng người nào có thể đoạn thiện căn?

–Này thiện nam! Nếu có người thông minh, trí tuệ, căn tánh lanh lợi, có thể giỏi phân biệt mà xa lìa bạn lành, chẳng nghe chánh pháp, chẳng khéo tư duy, chẳng theo đúng như pháp mà trụ thì người như vậy có thể cắt đứt căn lành. Người lìa khỏi bốn việc đó thì lòng tự suy nghĩ: “Không có vật bố thí. Vì sao? Vì thí tức là xả bỏ của cải. Nếu bố thí có quả báo thì phải biết thí chủ đáng lẽ thường nghèo cùng. Vì sao? Vì hạt với quả tương tự. Vậy nên nói, không nhân không quả”. Nếu nói không nhân không quả như vậy thì đó gọi là cắt đứt căn lành. Người đó lại khởi ý nghĩ: “Thí chủ, người nhận và cả tài vật ba việc đều vô thường, không có đình trụ. Nếu không đình trụ thì làm sao nói, đây là thí chủ, người nhận, tài vật? Nếu không người nhận thì làm sao được quả báo? Do nghĩa này nên không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ: “Người bố thí khi thí có năm việc thí. Người nhận đã nhận rồi hoặc có khi làm thiện, hoặc làm bất thiện mà thí chủ này cũng lại chẳng được quả thiện hay bất thiện. Như pháp thế gian, từ hạt sinh ra quả, rồi quả trở lại làm hạt. Nhân tức là thí chủ, quả tức là người nhận mà người nhận này chẳng thể dùng pháp thiện hay bất thiện này để khiến cho thí chủ được. Do nghĩa này nên không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ: “Không có vật thí. Vì sao? Vì vật thí vô ký. Nếu là vô ký thì làm sao được quả báo thiện? Không quả báo thiện ác tức là vô ký. Của cải nếu vô ký thì phải biết là không quả báo thiện ác. Vậy nên không thí, không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ: “Thí tức là ý. Nếu là ý thì không thấy, không đối, chẳng phải là sắc pháp. Nếu chẳng phải là sắc pháp thì làm sao có thể thí. Vậy nên không thí, không nhân không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người này có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ: “Thí chủ nếu vì tượng Phật, tượng trời, cha mẹ quá cố mà hành thí tức là không người nhận. Nếu không người nhận thì không quả báo. Nếu không quả báo thì đó là không nhân. Nếu không nhân thì không quả”. Nếu người nói không nhân không quả như vậy thì phải biết người này có thể cắt đứt căn lành. Người đó lại nghĩ: “Không cha, không mẹ. Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh sinh ra chúng sinh thì đáng lẽ thường sinh không có đoạn tuyệt. Vì sao? Vì nhân thường có vậy. Nhưng mà chẳng thường sinh. Vậy nên phải biết là không có cha mẹ”. Lại nghĩ: “Không cha không mẹ. Vì sao? Vì nếu thân chúng sinh nhân cha mẹ mà có thì một người nên đủ hai căn nam và nữ. Nhưng mà không đủ thì phải biết là chúng sinh chẳng phải nhân cha mẹ”. Lại nghĩ: “Chẳng phải nhân cha mẹ mà sinh ra chúng sinh. Vì sao? Vì mắt thấy chúng sinh chẳng giống cha mẹ như là thân sắc, tâm, oai nghi, lùi tới. Vậy nên cha mẹ chẳng phải là nhân của chúng sinh”. Lại nghĩ: “Tất cả thế gian có bốn thứ không: Một là chưa sinh ra gọi là không như khi cục bùn chưa có công dụng của cái bình. Hai là diệt rồi gọi là không như khi bình vỡ rồi thì đó gọi là không. Ba là đều khác nhau không có trong nhau như trong bò không ngựa, trong ngựa không bò. Bốn là rốt ráo là không như sừng thỏ, lông rùa. Cha mẹ của chúng sinh cũng như vậy, đồng với bốn không này. Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh thì khi cha mẹ chết mà con chẳng nhất định chết? Vậy nên cha mẹ chẳng phải nhân của chúng sinh”. Lại nghĩ: “Nếu nói cha mẹ là nhân của chúng sinh thì đáng lẽ nhân cha mẹ thường sinh ra chúng sinh. Nhưng lại có hóa sinh, thấp sinh. Vậy nên phải biết chẳng phải nhân cha mẹ sinh ra chúng sinh”. Lại nghĩ: “Tự có chúng sinh, chẳng phải nhân cha mẹ mà được sinh trưởng. Ví như chim khổng tước nghe tiếng sấm mà có thai. Lại như con sẻ xanh uống nước mắt con sẻ đực mà có thai. Như loài chim mạng mạng thấy con trống thì múa mà có thai”. Khi khởi những ý niệm này mà người ấy chẳng gặp thiện tri thức thì phải biết người đó có thể cắt đứt căn lành. Có người lại nghĩ: “Tất cả thế gian không có quả báo thiện ác. Vì sao? Vì có những chúng sinh đủ mười pháp thiện, ưa bố thí, siêng tu công đức mà người này cũng lại bị bệnh tật, chết yểu, tài vật tổn thất, chịu nhiều ưu khổ. Có chúng sinh làm mười điều ác, tham lam keo kiệt, ganh ghét, lười biếng, chẳng tu các điều thiện mà họ được thân yên ổn không bệnh, sống lâu trọn đời, thừa thải của báu, không có các sầu khổ. Vậy phải biết là không có quả báo thiện ác”. Họ lại nghĩ: “Ta cũng từng nghe các bậc Thánh nhân nói, có người tu thiện khi mạng chung đọa vào ba đường ác, có người làm ác khi mạng chung được sinh lên cõi trời, người. Vậy phải biết là không có quả báo thiện ác”. Họ lại nghĩ: “Tất cả Thánh nhân có hai lối nói, hoặc nói sát sinh được quả báo thiện, hoặc nói sát sinh bị quả báo ác. Vậy phải biết lời nói của thánh bất định. Thánh nếu bất định thì ta làm sao định được? Vậy nên biết là không có quả báo thiện ác”. Họ lại nghĩ: “Tất cả thế gian không có Thánh nhân. Vì sao? Vì nếu nói là Thánh nhân thì đáng lẽ được chánh đạo. Khi tất cả chúng sinh đầy đủ phiền não mà tu chánh đạo thì phải biết người tu đó đều có chánh đạo và phiền não cùng một lúc. Nếu có cùng một lúc thì phải biết là chánh đạo chẳng thể phá kết. Nếu không phiền não mà tu chánh đạo thì như vậy việc làm của chánh đạo là gì? Vậy người đủ phiền não thì đạo chẳng thể hoại, chẳng đủ phiền não thì đạo vô dụng. Vậy phải biết là tất cả thế gian không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ: “Vô minh duyên hành cho đến sinh duyên lão tử, mười hai nhân duyên này, tất cả chúng sinh đều cùng có. Tám thánh đạo thì tánh của chúng sinh bình đẳng cũng nên như vậy: Khi một người được thì đáng lẽ tất cả đều được, khi một người tu thì đáng lẽ tất cả khổ diệt. Vì sao? Vì phiền não bình đẳng. Nhưng mà nay thì chẳng được. Vậy nên phải biết là không có chánh đạo”. Họ lại nghĩ: “Thánh nhân đều có việc đồng với phàm phu như là ăn uống, đi, đứng, nằm, ngủ nghỉ, vui cười, đói khát, nóng lạnh, ưu sầu, sợ hãi. Nếu họ đồng với phàm phu trong những việc như vậy thì phải biết Thánh nhân chẳng được đạo Thánh. Nếu được đạo thánh thì các vị ấy cần phải cắt đứt vĩnh viễn những việc như vậy. Những việc như vậy mà các vị ấy chẳng cắt đứt thì phải biết không có Thánh đạo”. Họ lại nghĩ: “Thánh nhân có thân hưởng thọ niềm vui năm dục, cũng lại nhục mạ đánh đập người, ganh ghét, kiêu mạn, chịu khổ vui, tạo tác nghiệp thiện ác. Do nhân duyên này nên biết không có Thánh nhân. Nếu có đạo thì nên cắt đứt việc này. Việc này chẳng cắt đứt thì phải biết là không có đạo”. Họ lại nghĩ: “Người nhiều thương xót thì gọi là Thánh nhân. Vì nhân duyên gì gọi là Thánh nhân? Vì nhân duyên đạo nên gọi là Thánh nhân. Nếu tánh của đạo là thương xót thì nên thương nghĩ đến tất cả chúng sinh chẳng đợi tu rồi sau đó mới được. Như đạo ấy không thương xót thì vì sao Thánh nhân nhận được đạo Thánh có thể thương xót? Vậy phải biết là đời không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ: “Tất cả bốn đại chẳng từ nhân mà sinh, chúng sinh đều có tánh bốn đại này thì chẳng quan sát chúng sinh bên này nên đến, bên kia chẳng nên đến. Nếu có tánh Thánh đạo thì nên như vậy. Nhưng mà nay chẳng vậy. Vậy nên biết là đời không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ: “Nếu các Thánh nhân có một Niết-bàn thì phải biết là không có Thánh nhân. Vì sao? Vì chẳng thể đắc. Theo lý của pháp thường trụ thì chẳng thể được, chẳng thể lấy hay bỏ. Nếu các Thánh nhân Niết-bàn nhiều tức là vô thường. Vì sao? Vì pháp có thể tánh. Niết-bàn nếu khi mỗi một người được thì tất cả nên được. Niếtbàn nếu nhiều tức là có giới hạn mà có giới hạn thì làm sao gọi là thường? Nếu có người nói, thể của Niết-bàn là một mà giải thoát thì nhiều như vòm miệng thì một mà răng, lưỡi thì nhiều. Nghĩa lý này chẳng đúng. Vì sao? Vì mỗi một đều sở đắc riêng, chẳng phải tất cả được. Vì cũng có giới hạn nên phải là vô thường. Nếu đã vô thường thì làm sao được gọi là Niết-bàn? Niết-bàn nếu không thì ai là Thánh nhân? Vậy nên biết là không có Thánh nhân”. Họ lại nghĩ: “Đạo Thánh nhân chẳng phải nhân duyên được. Nếu đạo Thánh nhân chẳng phải nhân duyên được thì vì sao tất cả chẳng làm Thánh nhân? Nếu tất cả người chẳng phải Thánh nhân thì phải biết là không có Thánh nhân và cả Thánh đạo”. Họ lại nghĩ: “Đức Thánh nói, chánh kiến có hai nhân duyên, một là từ người khác nghe pháp, hai là bên trong tự suy nghĩ. Hai nhân duyên này nếu từ duyên sinh ra thì cái mà từ đó sinh ra lại cũng từ duyên sinh ra. Như vậy đắp đổi cho đến vô cùng. Còn nếu hai việc này chẳng từ duyên sinh ra thì tất cả chúng sinh vì sao chẳng được”. Khi khởi những sự quan sát này thì có thể cắt đứt căn lành. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh thấy sâu không nhân không quả như vậy thì người đó có thể cắt đứt năm căn như tín căn v.v… Này thiện nam! Người cắt đứt căn lành chẳng phải là người thấp hèn ngu độn, cũng chẳng phải ở trong cõi trời và ba đường ác. Kẻ phá Tăng cũng vậy.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người như vậy thì khi nào trở lại thiện căn?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Người như vậy có hai trường hợp sinh trở lại thiện căn. Đó là khi mới vào địa ngục và khi ra khỏi địa ngục.

Này thiện nam! Thiện có ba thứ, quá khứ, hiện tại, vị lai. Nếu là

quá khứ thì tánh của nó tự diệt. Nhân tuy diệt mà quả báo chưa chín, vậy nên không gọi là đoạn quả của quá khứ, đoạn nhân của ba đời, nên gọi là đoạn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu đoạn nhân của ba đời thì gọi là đoạn thiện căn, mà người đoạn thiện căn thì có Phật tánh. Như vậy Phật tánh chính là quá khứ hay chính là hiện tại hay chính là vị lai hay là khắp ba đời? Nếu là quá khứ thì làm sao gọi là thường? Phật tánh chính là thường. Vậy nên phải biết chẳng phải là quá khứ. Nếu là vị lai thì làm sao gọi là thường? Vì sao Phật nói tất cả chúng sinh nhất định sẽ được? Nếu nhất định được thì làm sao nói là đoạn? Nếu là hiện tại thì làm sao lại thường? Vì sao lại nói nhất định sẽ thấy? Như Lai cũng nói Phật tánh có sáu, một là thường, hai là chân, ba là thật, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Nếu người đoạn thiện căn có Phật tánh thì chẳng được gọi là đoạn thiện căn. Nếu không có Phật tánh thì tại sao lại nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh? Nếu nói, Phật tánh cũng có, cũng đoạn thì sao Như Lai lại nói là thường?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn đối với chúng sinh nên có bốn cách đáp, một là định đáp, hai là phân biệt đáp, ba là tùy vấn đáp, bốn là trí đáp.

Này thiện nam! Sao gọi là định đáp? Nếu hỏi: “Nghiệp ác được quả thiện hay quả bất thiện?” thì nên quyết định đáp, bị quả bất thiện và thiện cũng như vậy mà đáp. Nếu hỏi: “Như Lai có Nhất thiết trí không?” thì nên quyết định đáp, chính là Nhất thiết trí. Nếu hỏi: “Pháp Phật có thanh tịnh chăng?” thì nên quyết định đáp, nhất định thanh tịnh. Nếu hỏi: “Đệ tử của Như Lai có đúng như pháp mà trụ không?” thì nên quyết định đáp, có đúng như pháp mà trụ. Đó gọi là định đáp.

Sao gọi là phân biệt đáp? Như lời nói về pháp bốn chân đế của Ta. Những gì là bốn? Khổ, tập, diệt, đạo. Sao gọi là Khổ đế? Có tám khổ nên gọi là Khổ đế. Sao gọi là Tập đế? Nhân của năm ấm nên gọi là Tập đế. Sao gọi là Diệt đế? Tham dục, sân, si hết rốt ráo nên gọi là Diệt đế. Sao gọi là Đạo đế? Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gọi là Đạo đế. Đó gọi là phân biệt đáp.

Sao gọi là tùy vấn đáp? Như lời Ta nói, tất cả các pháp vô thường. Lại có người hỏi: “Đức Như Lai Thế Tôn vì pháp gì mà nói đến vô thường?” thì đáp: “Như Lai vì pháp hữu vi nên nói vô thường”. Đối đáp về vô ngã cũng vậy. Như lời Ta nói, tất cả các pháp đều thiêu đốt. Lại hỏi: “Đức Như Lai Thế Tôn nhằm vào pháp nào mà nói tất cả đều thiêu đốt?” thì đáp: “Như Lai vì tham, sân, si nên nói tất cả thiêu đốt”.

Này thiện nam! Mười lực Như Lai, bốn vô sở úy, đại từ, đại bi, ba niệm xứ, tám muôn ức các môn Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, ba vạn năm ngàn các môn Tam-muội ngũ trí ấn v.v… bốn ngàn hai trăm các môn Tam-muội kim cang định v.v…, phương tiện Tam-muội nhiều vô lượng vô biên v.v… những pháp như vậy là Phật tánh của Phật. Phật tánh như vậy thì có bảy tính chất: Một là thường, hai là ngã, ba là lạc, bốn là tịnh, năm là chân, sáu là thật, bảy là thiện. Đó gọi là phân biệt đáp. Này thiện nam! Phật tánh của Bồ-tát thân sau có sáu việc: Một là thường, hai là tịnh, ba là chân, bốn là thật, năm là thiện, sáu là ít thấy. Đó là phân biệt đáp. Như trước ông hỏi, người đoạn thiện căn có Phật tánh thì người đó cũng có Phật tánh Như Lai, cũng có Phật tánh thân sau. Hai Phật tánh này chướng ngại vị lai nên được gọi là không rốt ráo được, nên được gọi là có. Đó gọi là phân biệt đáp. Phật tánh của Như Lai chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Phật tánh của thân sau thì hiện tại, vị lai ít có thể thấy nên được gọi là hiện tại. Chưa thấy đủ nên gọi là vị lai. Khi Như Lai chưa được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì nhân của Phật tánh cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai, còn quả thì chẳng vậy, có quả là ba đời, có quả chẳng ba đời. Nhân Phật tánh của Bồ-tát thân sau cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Đó gọi là phân biệt đáp. Phật tánh của Bồ-tát Cửu Trụ có sáu tính chất. Một là thường, hai là thiện, ba là chân, bốn là thật, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Nhân của Phật tánh cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Đó gọi là phân biệt đáp. Phật tánh của Bồ-tát Bát Trụ xuống đến Lục Trụ có năm tính chất: Một là chân, hai là thật, ba là tịnh, bốn là thiện, năm là có thể thấy. Nhân của Phật tánh cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và quả cũng như vậy. Đó gọi là phân biệt đáp. Phật tánh của Bồ-tát Ngũ Trụ xuống đến Sơ Trụ có năm tính chất: Một là chân, hai là thật, ba là tịnh, bốn là có thể thấy, năm là thiện hay bất thiện. Này thiện nam! Năm thứ Phật tánh, sáu thứ Phật tánh, bảy thứ Phật tánh này thì người đoạn thiện căn nhất định sẽ được nên được nói rằng có. Đó gọi là phân biệt đáp.

Nếu có người nói: “Người đoạn thiện căn thì quyết định có Phật tánh, quyết định không có Phật tánh. Đó gọi là trí đáp.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nghe mà không trả lời mới gọi là trí đáp. Như Lai dùng nhân duyên gì để đáp, mà gọi là trí đáp.

–Này thiện nam! Ta cũng không nói trí mà chẳng đáp, mới gọi là trí đáp. Này thiện nam! Như vậy trí đáp lại có hai thứ: một là chận đứng, hai là không để ý, theo nghĩa này nên gọi là trí đáp.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói thì sao gọi là nhân cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai? Quả cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai? Chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Năm ấm có hai thứ, một là nhân, hai là quả. Là nhân thì năm ấm là quá khứ, hiện tại, vị lai. Là quả thì năm ấm cũng là quá khứ, hiện tại, vị lai và cũng chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai. Này thiện nam! Kiết sử của tất cả vô minh phiền não đều là Phật tánh. Vì sao? Vì nhân của Phật tánh. Từ vô minh, hành v.v… và các phiền não được năm ấm thiện thì đó gọi là Phật tánh. Từ năm ấm thiện mà chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên ở trong kinh trước Ta đã nói, Phật tánh của chúng sinh như máu với sữa hòa lẫn. Máu tức là vô minh, hành v.v… tất cả phiền não. Sữa tức là năm ấm thiện. Vậy nên Ta nói, từ các phiền não và năm ấm thiện được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như thân chúng sinh đều từ tinh huyết-mà được thành tựu, Phật tánh cũng vậy. Hàng Tu-đà-hoàn, hàng Tư-đà-hàm vì đoạn ít phiền não nên Phật tánh như sữa. Phật tánh của hàng A-na-hàm như sữa đặc, của hàng A-la-hán giống như váng sữa, của hàng Phật-bích-chi cho đến Bồ-tát Thập Trụ giống như bơ. Phật tánh của Như Lai giống như đề hồ. Này thiện nam! Phiền não hiện tại làm chướng ngại nên khiến cho các chúng sinh chẳng được nhìn thấy. Như trong núi Hương có loại cỏ Nhẫn nhục mà chẳng phải tất cả bò đều có thể ăn được, Phật tánh cũng vậy. Đó gọi là phân biệt đáp.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Năm thứ, sáu thứ, bảy thứ Phật tánh, nếu vị lai có thì vì sao nói, người đoạn thiện căn có Phật tánh?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Như các chúng sinh có nghiệp quá khứ mà nhân nghiệp này nên chúng sinh hiện tại thọ quả báo. Còn chúng sinh có nghiệp vị lai, do chưa sinh ra nên nhất định chẳng sinh quả báo. Có phiền não hiện tại hoặc không phiền não thì tất cả chúng sinh nên rõ ràng thấy Phật tánh. Vậy nên người đoạn thiện căn do nhân duyên phiền não đời hiện tại có thể cắt đứt căn lành. Những đời vị lai nhờ nhân duyên của lực Phật tánh nên trở lại sinh ra thiện căn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vị lai làm sao có thể sinh ra thiện căn?

–Này thiện nam! Giống như đèn và mặt trời tuy lại chưa sinh ra nhưng cũng có thể phá bóng tối, thì sự sinh của vị lai có thể sinh ra chúng sinh. Phật tánh vị lai cũng như vậy. Đó gọi là phân biệt đáp.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu nói năm ấm là Phật tánh thì vì sao nói, Phật tánh của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Vì nhân duyên gì mà ông quên như vậy? Ta trước chẳng đã nói Phật tánh của chúng sinh là trung đạo đó sao?

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con thật chẳng quên. Nhưng do việc chúng sinh đối với trung đạo này chẳng thể hiểu nên con hỏi mà thôi.

–Này thiện nam! Chúng sinh chẳng hiểu tức là trung đạo: Hoặc khi có hiểu, hoặc có khi chẳng hiểu. Này thiện nam! Ta vì chúng sinh được khai giải mà nói, Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì sao? Vì chúng sinh phàm phu hoặc nói, Phật tánh trụ ở trong năm ấm như trong đồ đựng có trái cây. Hoặc nói, lìa năm ấm có Phật tánh giống như hư không. Vậy nên Như Lai nói trung đạo, Phật tánh của chúng sinh chẳng phải trong sáu nhập, chẳng phải ngoài sáu nhập mà trong ngoài hợp lại nên gọi là trung đạo. Vậy nên Như Lai tuyên nói Phật tánh tức là trung đạo, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài nên gọi là trung đạo. Đó gọi là phân biệt đáp.

Lại nữa, này thiện nam! Sao gọi là chẳng phải trong chẳng phải ngoài? Này thiện nam! Hoặc nói, Phật tánh tức là ngoại đạo. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ở vô lượng kiếp, ở trong ngoại đạo, cắt đứt các phiền não, điều phục tâm mình, giáo hóa chúng sinh rồi sau đó mới đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do đó Phật tánh tức là ngoại đạo. Hoặc nói, Phật tánh tức là nội đạo. Vì sao? Vì Bồ-tát tuy ở trong vô lượng kiếp, tu tập ngoại đạo nhưng nếu lìa khỏi nội đạo thì chẳng thể đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do đó Phật tánh tức là nội đạo. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên mà nói, Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là trung đạo. Đó gọi là phân biệt đáp.

Lại nữa, này thiện nam! Hoặc nói, Phật tánh tức là thân kim cương của Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vì sao? Vì chẳng hư dối. Hoặc nói, Phật tánh tức là Mười lực, Bốn vô sở úy, Đại từ đại bi và Bốn niệm xứ, Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm. Vì sao? Vì nhân Tam-muội này mà sinh ra thân kim cương ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói, Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là trung đạo. Đó gọi là phân biệt đáp.

Lại nữa, này thiện nam! Hoặc có người nói, Phật tánh tức là bên trong tư duy tốt. Vì sao? Vì lìa khỏi tư duy tốt thì chẳng thể đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên Phật tánh tức là bên trong tư duy tốt. Hoặc có người nói, Phật tánh tức là theo người khác nghe pháp. Vì sao? Vì theo người khác nghe pháp thì có thể bên trong tư duy tốt. Nếu chẳng nghe pháp thì không có tư duy. Do đó Phật tánh tức là theo người khác nghe pháp. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói, Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là trung đạo. Lại nữa, này thiện nam! Lại có người nói, Phật tánh là ngoài như Đàn Ba-la-mật mà từ Đàn Ba-lamật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do đó nói, Đàn Ba-lamật tức là Phật tánh. Hoặc có người nói, Phật tánh là bên trong như là năm Ba-la-mật (còn lại). Vì sao? Vì lìa khỏi năm việc này thì phải biết là không có nhân quả Phật tánh. Do đó nói, năm Ba-la-mật tức là Phật tánh. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói, Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là trung đạo. Lại nữa, này thiện nam! Hoặc có người nói, Phật tánh ở trong ví như viên ngọc báu trên trán của lực sĩ. Vì sao? Vì thường, lạc, ngã, tịnh như viên ngọc báu. Do đó nói, Phật tánh ở bên trong. Hoặc có người nói, Phật tánh ở bên ngoài như bảo tàng của người nghèo. Vì sao? Vì do phương tiện nên mới được thấy. Phật tánh cũng vậy, ở bên ngoài chúng sinh, phải dùng phương tiện mới được thấy nó. Vậy nên Như Lai ngăn chận quan niệm nhị biên này mà nói, Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, gọi là trung đạo.

Này thiện nam! Phật tánh của chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không. Vì sao? Vì Phật tánh tuy có nhưng chẳng phải như hư không. Vì sao? Vì hư không của thế gian tuy dùng vô lượng phương tiện khéo léo nhưng chẳng thể thấy được mà Phật tánh có thể thấy. Vậy nên tuy có nhưng chẳng phải như hư không. Phật tánh tuy không nhưng chẳng đồng với sừng thỏ. Vì sao? Vì lông rùa, sừng thỏ dùng vô lượng phương tiện khéo léo vẫn chẳng thể sinh được mà Phật tánh có thể sinh ra. Vậy nên Phật tánh tuy không nhưng chẳng đồng với sừng thỏ. Nên Phật tánh chẳng phải có chẳng phải không mà cũng có cũng không. Sao gọi là có? Tất cả đều có. Những chúng sinh này chẳng đoạn, chẳng diệt như ngọn đèn cháy sáng, cho đến đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đó gọi là có. Sao gọi là không? Tất cả chúng sinh hiện tại chưa có tất cả pháp Phật thường, lạc, ngã, tịnh. Vậy nên gọi là không. Có không hợp lại tức là trung đạo. Vậy nên Phật nói, Phật tánh của chúng sinh chẳng phải có chẳng phải không. Này thiện nam! Nếu có người hỏi: “Trong chủng tử này có quả hay không có quả?” thì nên đáp chắc chắn: “Cũng có cũng không”. Vì sao? Vì lìa hạt thì chẳng thể sinh ra quả. Vậy nên gọi là có. Hạt chưa mọc mầm nên gọi là không. Do nghĩa này nên cũng có cũng không. Vì sao? Vì thời tiết có khác nhưng thể ấy là một. Phật tánh của chúng sinh cũng như vậy. Nếu nói, trong chúng sinh có Phật tánh riêng khác thì nghĩa đó chẳng đúng. Vì sao? Vì chúng sinh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là chúng sinh chỉ vì thời tiết khác mà có tịnh hay bất tịnh. Này thiện nam! Nếu có người hỏi: “Hạt giống này có thể sinh ra quả không? Quả này có thể sinh ra hạt không?” thì nên quyết đáp chắc chắn: “Cũng sinh, cũng chẳng sinh”.

–Bạch Thế Tôn! Như người đời nói trong sữa có sữa đặc, thì nghĩa đó ra sao?

–Này thiện nam! Nếu có người nói, trong sữa có sữa đặc thì đó gọi là chấp trước. Nếu nói không có sữa đặc thì gọi là hư vọng. Lìa khỏi hai việc này thì nên nói chắc chắn, cũng có cũng không. Vì sao gọi là có? Vì từ sữa sinh ra sữa đặc. Nhân tức là sữa, quả tức là sữa đặc. Đó gọi là có. Sao gọi là không? Sắc vị đều khác, cách dùng chẳng đồng: Bệnh nóng uống sữa, bệnh lạnh uống sữa đặc. Sữa sinh ra bệnh lạnh, sữa đặc sinh ra bệnh nóng. Này thiện nam! Nếu nói trong sữa có tánh sữa đặc thì sữa tức là sữa đặc, sữa đặc tức là sữa. Nếu tánh của chúng là một thì vì nhân duyên gì sữa xuất hiện trước mà sữa đặc chẳng sinh ra trước? Nếu có nhân duyên thì tất cả người đời vì sao chẳng nói. Còn nếu không nhân duyên thì vì sao sữa đặc chẳng xuất hiện trước? Nếu sữa đặc chẳng xuất hiện trước thì ai tạo tác thứ lớp sữa, sữa đặc, váng sữa, bơ, đề hồ? Vay nên biết là, sữa đặc trước không nay có. Nếu trước không nay có tức là pháp vô thường. Này thiện nam! Nếu có người nói, sữa có tánh sữa đặc nên có thể sinh ra sữa đặc. Nước không có tánh của sữa đặc nên chẳng sinh ra sữa đặc, thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao? Vì nước và cỏ cũng có tánh của sữa và sữa đặc. Vì sao? Vì nhân nước và cỏ thì sinh ra sữa và sữa đặc. Nếu nói trong sữa quyết định có tánh của sữa đặc mà nước và cỏ không thì đó gọi là hư vọng. Vì sao? Vì lòng chẳng bình đẳng nên nói hư vọng. Này thiện nam! Nếu nói trong sữa quyết định có sữa đặc thì trong sữa đặc cũng nên quyết định có tánh của sữa. Vậy vì nhân duyên gì trong sữa sinh ra sữa đặc mà trong sữa đặc chẳng sinh ra sữa? Nếu không nhân duyên thì phải biết là sữa đặc trước không nay có. Vậy nên người trí nên nói, trong sữa chẳng phải có tánh của sữa đặc, chẳng phải không có tánh của sữa đặc. Này thiện nam! Vậy nên Như Lai ở trong kinh nói lời như vầy: “Tất cả chúng sinh quyết có Phật tánh”. Đó gọi là chấp trước. Nếu nói không Phật tánh thì đó gọi là hư vọng. Người trí nên nói Phật tánh của chúng sinh cũng có cũng không.

Này thiện nam! Bốn việc hòa hợp sinh ra nhãn thức. Những gì là bốn? Đó là nhãn căn, sắc trần, ánh sáng và tác ý. Tánh của nhãn thức này chẳng phải nhãn căn, chẳng phải sắc trần, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải tác ý mà từ sự hòa hợp nên liền được sinh ra. Như vậy nhãn thức trước không nay có, đã có rồi lại hoàn không. Vậy phải biết nhãn thức không có bản tánh. Tánh của sữa đặc trong sữa cũng như vậy. Hoặc có người nói, nước không có tánh của sữa đặc nên chẳng sinh ra sữa đặc, vậy nên trong sữa nhất định có tánh của sữa đặc thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao? Này thiện nam! Vì tất cả các pháp nhân khác quả khác, cũng chẳng phải một nhân sinh tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sinh ra. Này thiện nam! Như từ bốn yếu tố sinh ra nhãn thức thì chẳng thể lại nói từ bốn yếu tố này đáng lẽ sinh ra nhĩ thức. Này thiện nam! Lìa khỏi phương tiện, trong sữa được sữa đặc, sữa đặc sinh ra váng sữa, hay không được mà cần phải có phương tiện? Này thiện nam! Kẻ trí chẳng thể thấy, lìa khỏi phương tiện mà từ sữa được sữa đặc, váng sữa cũng vậy, không lìa khỏi phương tiện như vậy mà được. Này thiện nam! Vậy nên ở trong kinh này, Ta nói: “Nhân sinh nên pháp có, nhân diệt nên pháp không. Này thiện nam! Như tánh của muối là mặn, có thể khiến cho vật chẳng phải mặn thành mặn. Nếu vật chẳng phải mặn trước có tánh mặn thì người đời vì sao lại cầu mặn? Nếu trước không tánh mặn thì phải biết là trước không nay có, do duyên khác mà được mặn vậy. Nếu nói tất cả vật chẳng mặn đều có tánh mặn mà vì quá ít nên chẳng biết, thì do tánh mặn quá ít này có thể khiến cho mặn. Nếu vốn không tánh mặn thì tuy có muối nhưng chẳng thể khiến cho nó mặn được. Ví như hạt giống tự có bốn đại duyên với bốn đại bên ngoài mà được tăng trươn g mầm chồi, thân cây, cành lá. Tánh của muối cũng vậy thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì vật chẳng mặn, trước có tánh mặn thì muối đáng lẽ cũng có ít tánh chẳng mặn. Muối này nếu có hai tánh như vậy thì vì nhân duyên gì mà lìa khỏi vật chẳng mặn, chẳng thể dùng một mình muối thôi? Vậy nên biết là muối vốn không hai tánh. Như muối, tất cả vật chẳng mặn cũng như vậy. Nếu nói sức bốn đại bên ngoài có thể làm tăng trưởng bốn đại bên trong thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao? Vì nói theo thứ lớp. Chẳng từ phương tiện mà trong sữa có sữa đặc, váng sữa, cho đến tất cả các pháp đều chẳng như vậy, chẳng phải do phương tiện mà được. Bốn đại cũng như vậy. Nếu nói từ bốn đại bên ngoài làm tăng trưởng bốn đại bên trong, chẳng thấy từ bốn đại bên trong làm tăng trưởng bốn đại bên ngoài, như trái cây Thi-lợi-sa, trước không hình chất nhưng khi có sao Mão thì trái sinh ra lớn đủ năm tấc, thì như vậy thật chẳng nhân vào bốn đại bên ngoài mà lớn.

Này thiện nam! Như lời Ta nói, Mười hai bộ loại kinh văn, hoặc Ta theo ý mình mà nói, hoặc theo ý người khác mà nói, hoặc theo ý mình và ý người khác mà nói.

Sao gọi là theo ý mình nói? Như năm trăm vị Tỳ-kheo hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất: “Thưa Đại đức! Đức Phật nói, nhân của thân là gì?”. Tôn giả Xá-lợi-phất nói: “Này các Đại đức! Các ông cũng đều được chánh giải thoát thì tự nên biết. Vì duyên gì mà hỏi như vậy?”. Có Tỳkheo nói: “Thưa Đại đức! Khi tôi chưa chứng được chánh giải thoát thì cho là ý vô minh tức là nhân của thân. Khi tôi khởi quán này thì đắc quả A-la-hán”. Lại có Tỳ-kheo nói: “Thưa Đại đức! Khi tôi chưa chứng được giải thoát chân chánh thì cho ái vô minh tức là nhân của thân. Khi tôi khởi quán này thì đắc quả A-la-hán”. Hoặc có vị nói, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, ẩm thực, năm dục v.v… tức là nhân của thân. Bấy giờ năm trăm vị Tỳ-kheo, ai cũng đều tự nói sự hiểu biết của mình, rồi cùng đi đến chỗ Ta, cúi đầu dưới chân Ta, đi quanh về bên phải ba vòng, lễ bái xong rồi họ lui ngồi một bên, rồi ai cũng đem ý nghĩa hiểu biết của mình như trên, hướng về Ta mà trình bày. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: “Bạch Thế Tôn! Những người như vậy thì ai nói đúng? Ai nói chẳng đúng?”. Ta bảo: “Này Tôn giả Xá-lợiphất! Hay thay! Hay thay! Tất cả Tỳ-kheo ai cũng nói đúng cả”. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch: “Bạch Thế Tôn! Ý Phật thế nào?”. Ta bảo: “Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta vì chúng sinh cõi Dục nói, cha mẹ tức là nhân của thân”. Những kinh như vậy gọi là theo ý của mình mà nói.

Sao gọi là theo ý người khác nói? Như ông trưởng giả Ba-tra-la đi đến chỗ của Ta nói thế nầy: “Thưa Sa-môn Cù-đàm! Ngài biết huyễn không? Nếu Ngài biết huyễn tức là người đại huyễn. Nếu Ngài chẳng biết thì chẳng phải là Nhất thiết trí”. Ta nói: “Này Trưởng giả! Người biết huyễn gọi là người huyễn sao?”. Ông Trưởng giả nói: “Đúng vậy! Đúng vậy! Người biết huyễn tức là người huyễn”. Phật nói: “Này trưởng giả! Bên trong nước Xá-vệ của vua Ba-tư-nặc, có người Chiênđà-la tên là Khí Hư. Ông có biết không?”. Ông Trưởng giả đáp: “Thưa Cù-đàm! Tôi biết ông đó đã lâu”. Ta nói: “Ông biết lâu thì có thể trở thành Chiên-đà-la chăng?”. Ông Trưởng giả nói: “Thưa Cù-đàm! Tôi tuy biết người Chiên-đà-la đó nhưng thân này của tôi chẳng phải Chiên-đà-la”. Đức Phật nói: “Này trưởng giả! Ông đã nắm được nghĩa này, biết Chiên-đà-la thì chẳng phải là Chiên-đà-la, thì Ta nay vì sao chẳng được biết huyễn mà chẳng phải huyễn? Này Trưởng giả! Ta thật biết huyễn, biết người huyễn, biết quả báo huyễn, biết kỹ thuật huyễn. Ta biết giết, biết người giết, biết quả báo của giết, biết giải thoát sự giết cho đến biết tà kiến, biết người tà kiến, biết quả báo tà kiến, biết giải thoát tà kiến. Này trưởng giả! Nếu nói người chẳng phải huyễn gọi là người huyễn, người chẳng phải tà kiến nói là người tà kiến thì bị tội không lường”. Trưởng giả nói: “Thưa Cù-đàm! Như lời Ngài nói thì tôi bị tội lớn. Nay của cải của tôi đều đem dâng lên Ngài, mong Ngài chớ cho vua Ba-tư-nặc kia biết việc này của tôi”. Phật nói: “Này trưởng giả! Nhân duyên của tội đó chẳng phải là mất của cải mà nhân đó bị rơi vào ba đường ác”. Khi đó trưởng giả nghe đến tên cõi ác thì lòng sinh kinh sợ, thưa với Ta: “Bạch Thế Tôn! Tôi nay thất ý chuốc lấy tội lớn! Thưa Thế Tôn! Thế Tôn là đấng Nhất Thiết Trí nên phải biết rõ, chứng được giải thoát. Tôi phải làm sao để được thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh?”. Bấy giờ, Ta vì ông đó nói bốn chân đế. Ông trưởng giả nghe rồi thì được quả Tu-đà-hoàn, lòng sinh hổ thẹn, hướng về Ta sám hối: “Con vốn ngu si, Phật chẳng phải người huyễn mà nói là huyễn. Con từ hôm nay quy y Tam bảo”. Ta bảo: “Hay thay! Hay thay! Này Trưởng giả!”. Đó gọi là theo ý người khác mà nói.

Sao gọi là theo ý mình và ý người khác nói? Như lời Ta nói, tất cả kẻ trí của thế gian nói có thì Ta cũng nói có. Kẻ trí nói không thì Ta cũng nói không. Người trí thế gian nói năm dục lạc có vô thường, khổ, không, vô ngã, có thể đoạn thì Ta cũng nói là có. Người trí thế gian nói năm dục lạc có thường ngã tịnh thì đó là điều không có. Ta cũng nói như vậy, không có điều đó. Đó gọi là theo ý mình ý người mà nói. Này thiện nam! Như lời Ta nói, Bồ-tát Thập Trụ thấy ít Phật tánh. Đó gọi là theo ý người khác mà nói. Vì sao gọi là thấy ít? Vì Bồ-tát Thập Trụ được Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm v.v… ba ngàn pháp môn. Vậy nên tự biết rõ ràng họ sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà chẳng thấy tất cả chúng sinh nhất định được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên Ta nói, Bồ-tát Thập Trụ thấy phần ít Phật tánh. Này thiện nam! Ta tuy thường nói “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Đó gọi là theo ý mình nói. “Tất cả chúng sinh chẳng đoạn chẳng diệt cho đến được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Đó gọi là theo ý mình nói. “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, vì phiền não che nên chẳng thể thấy được”, Ta nói như vậy, ông nói như vậy. Đó gọi là theo ý mình ý người mà nói.

Này thiện nam! Như Lai, hoặc khi vì một pháp mà nói vô lượng pháp, như trong kinh nói, tất cả nhân phạm hạnh là thiện tri thức. Nhân của tất cả phạm hạnh tuy không lường, nhưng nói thiện tri thức thì đã bao gồm hết. Như lời Ta nói, tất cả hạnh ác thì tà kiến là nhân. Nhân của tất cả hạnh ác tuy không lường nhưng nếu nói tà kiến thì đã bao gồm hết. Hoặc nói: Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác lấy tín tâm làm nhân. Nhân của Bồ-đề này tuy lại không lường nhưng nếu nói tín tâm thì đã bao gồm hết. Này thiện nam! Như Lai tuy nói vô lượng các pháp để làm rõ Phật tánh, nhưng chẳng lìa ấm nhập và giới.

Này thiện nam! Như Lai nói pháp cho chúng sinh, có bảy cách nói: Một là nói nhân, hai là nói quả, ba là nói nhân quả, bốn là nói dụ, năm là nói điều chẳng có, sáu là nói điều thông thường ở đời, bảy là nói như ý.

Sao gọi là nói nhân? Trong nhân hiện tại nói quả vị lai. Như Ta nói: “Này thiện nam! Ông thấy chúng sinh ưa giết hại cho đến ưa hành tà kiến, thì phải biết người đó tức là người của địa ngục. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh chẳng ưa giết hại cho đến tà kiến thì phải biết người đó tức là hàng trời, người. Đó gọi là nói nhân.

Sao gọi là nói quả? Trong quả hiện tại nói nhân quá khứ. Như trong kinh nói: “Này thiện nam! Như ông đã thấy, chúng sinh nghèo cùng, hình dung xấu xí, chẳng được tự tại, thì phải biết người đó chắc chắn có phá giới, lòng ganh ghét, lòng sân hận, lòng không hổ thẹn. Nếu thấy chúng sinh nhiều của cải, giàu có, các căn đầy đủ, uy đức tự tại thì phải biết người đó có trì giới, bố thí, tinh cần, hổ thẹn, không có ganh ghét, sân hận”. Đó gọi là nói quả.

Sao gọi là nói nhân quả? Như trong kinh nói: “Này thiện nam! Nhân tiếp xúc sáu nhập của chúng sinh hiện tại thì đó gọi là nghiệp quả của quá khứ”. Như Lai cũng nói, tên đó là nghiệp. Nhân duyên của nghiệp này được quả vị lai. Đó gọi là nói nhân quả.

Sao gọi là nói dụ? Như nói: Vua sư tử tức là dụ cho thân Ta, hay là đại Tượng vương, đại Long vương, cây Ba-lợi-chất-đa-la, Thất bảo tụ, Đại hải, Tu-di sơn, Đại địa, Mưa lớn, Thuyền sư, Đạo sư, Điều ngự, Trượng phu, Lực sĩ, Ngưu vương, Bà-la-môn, Sa-môn, Đại thành, cây Đa-la v.v… những dụ như vậy, kinh gọi là nói dụ.

Sao gọi là nói điều chẳng có? Trong kinh Ta nói: “Trời đất có thể hợp lại, sông chẳng chảy vào biển”. Như vì vua Ba-tư-nặc nói: “Bốn phương núi đến”. Như vì Ưu-bà-di Lộc Mẫu nói: “Nếu cây Ta-la có thể thọ tám giới thì được thọ hưởng niềm vui của người trời”. Như nói: “Thà nói Bồ-tát Thập Trụ có tâm thoái chuyển, chứ chẳng nói Như Lai có nói hai lời. Thà nói người Tu-đà-hoàn đọa vào ba đường ác, chứ chẳng nói Bồ-tát Thập Trụ có tâm thoái chuyển”. Đó gọi là nói điều chẳng có.

Sao gọi là nói điều thông thường? Như Ta nói: “Trai gái, lớn nhỏ, đi lại ngồi nằm, xe cộ, phòng xá, bình áo, chúng sinh, thường, lạc, ngã, tịnh, quân đội, rừng, thành ấp, huyễn hóa, hợp tan v.v… Đó gọi là nói điều thông thường ở đời.

Sao gọi là nói như ý? Như Ta quở trách người hủy giới cấm khiến cho người đó tự trách mà hộ trì giới cấm. Như Ta khen ngợi người Tuđà-hoàn khiến cho các phàm phu sinh ra lòng thiện. Ta khen ngợi Bồtát khiến cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề. Ta nói sự khổ não của ba đường ác khiến mọi người tu tập các pháp thiện. Ta nói tất cả đều bị đốt cháy là chỉ cho tất cả pháp hữu vi, vô ngã cũng vậy. Ta nói, các chúng sinh đều có Phật tánh là vì khiến cho tất cả chẳng buông lung. Đó gọi là lời như ý.

Này thiện nam! Như Lai lại có lời nói theo ý mình: Phật tánh của

Như Lai có hai: một là có, hai là không. Có, đó là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, Mười lực, Bốn vô sở úy, Ba niệm xứ, đại từ đại bi, vô lượng Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, vô lượng Tam-muội Kim cương, vô lượng Tam-muội Phương tiện, vô lượng Tam-muội Ngũ trí ấn. Đó gọi là có. Không, đó là Như Lai, trong quá khứ không có thiện, chẳng thiện, vô ký, nghiệp, nhân, quả báo, phiền não, năm ấm, mười hai nhân duyên. Đó gọi là không.

Này thiện nam! Như có không, thiện chẳng thiện, có lậu không lậu, thế gian chẳng phải thế gian, thánh chẳng phải thánh, hữu vi vô vi, thật chẳng thật, tịch tĩnh chẳng phải tịch tĩnh, tranh cãi chẳng phải tranh cãi, cõi chẳng phải cõi, phiền não chẳng phải phiền não, thủ chẳng phải thủ, thọ ký chẳng phải thọ ký, có chẳng phải có, ba đời chẳng phải ba đời, thời chẳng phải thời, thường vô thường, ngã vô ngã, lạc vô lạc, tịnh vô tịnh, sắc thọ tưởng hành thức chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức, nội nhập chẳng phải nội nhập, ngoại nhập chẳng phải ngoại nhập, mười hai nhân duyên chẳng phải mười hai nhân duyên, đó gọi là có, không có Phật tánh của Như Lai… cho đến có, không có Phật tánh của Nhất-xiển-đề cũng như vậy.

Này thiện nam! Ta tuy nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh mà chúng sinh chẳng hiểu được những lời nói theo ý mình như vậy của Ta.

Này thiện nam! Những lời nói như vậy của Bồ-tát thân sau còn chẳng thể hiểu huống gì là đối với hàng Nhị thừa và các hạng Bồ-tát khác. Này thiện nam! Một thuở nọ, Ta ở tại núi Kỳ-xà-quật, cùng với Bồ-tát Di-lặc chung luận bàn thế đế. Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… năm trăm Thanh văn đối với việc này đều chẳng hay biết, huống gì là đệ nhất nghĩa đế xuất thế.

Này thiện nam! Hoặc có Phật tánh, Nhất-xiển-đề thì có mà người thiện căn thì không. Hoặc có Phật tánh, người thiện căn có mà Nhấtxiển-đề thì không. Hoặc có Phật tánh, cả hai đều có. Hoặc có Phật tánh, cả hai đều không.

Này thiện nam! Các đệ tử của Ta nếu hiểu được ý nghĩa của bốn câu như vậy thì chẳng nên nạn vấn, người Nhất-xiển-đề nhất định có Phật tánh, hay nhất định không có Phật tánh? Nếu nói chúng sinh đều có Phật tánh thì đó gọi là theo lời nói tự ý của Như Lai. Lời nói tự theo ý như vậy của Như Lai thì chúng sinh làm sao hiểu một hướng được.

Này thiện nam! Như trong sông Hằng có bảy loài chúng sinh: Một là thường chìm, hai là tạm nổi rồi trở lại chìm, ba là nổi rồi dừng lại, bốn là nổi rồi quan sát khắp bốn phương, năm là quan sát khắp rồi đi, sáu là đi rồi dừng lại, bảy là trên nước trên đất đều đi. Chúng sinh thường chìm là gọi loài cá lớn thọ nghiệp ác lớn, thân nặng ở sâu. Vậy nên thường chìm. Chúng sinh tạm nổi rồi chìm trở lại như loài cá lớn thọ nghiệp ác, thân nặng ở cạn, tạm thấy ánh sáng. Nhân ánh sáng nên nó tạm nổi nhưng vì nặng nên chìm trở lại. Chúng sinh nổi rồi liền dừng là gọi loài cá Chỉ di, thân ở nước cạn, ưa thấy ánh sáng nên nổi rồi dừng lại. Chúng sinh dừng lại nhìn khắp bốn phương là gọi loài cá tích, vì kiếm tìm thức ăn nên quan sát khắp bốn phương. Chúng sinh quan sát rồi đi là gọi loài cá tích, từ xa thấy vật khác cho là có thể ăn nên mau chóng đi đến đó. Chúng sinh quan sát rồi đi, đi rồi dừng lại là loài cá này đi đến rồi, đã được mồi có thể ăn thì liền dừng lại nên gọi là đi rồi dừng lại. Chúng sinh trên nước, đất đều đi tức là loài rùa.

Này thiện nam! Dòng sông Đại Niết-bàn vi diệu cũng vậy, trong sông ấy cũng có bảy loài chúng sinh: Từ loài đầu tiên thường chìm cho đến loài thứ bảy hoặc vào hoặc ra. Nói thường chìm là, có người nghe kinh Đại Niết-bàn này, nói là Như Lai thường trụ không có biến dịch, thường, lạc, ngã, tịnh, nhất định chẳng rốt ráo vào Niết-bàn. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, người Nhất-xiển-đề bài báng kinh Phương Đẳng, tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng cấm nhất định sẽ được thành đạo Bồ-đề, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Phật-bíchchi v.v… nhất định sẽ được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nghe những lời nói này rồi, họ sinh ra lòng bất tín liền nghĩ và nói thế này: “Kinh điển Niết-bàn này là sách ngoại đạo, chẳng phải là kinh Phật”. Người này, bấy giờ xa lìa bạn tốt, chẳng nghe chánh pháp. Tuy có lúc họ được nghe nhưng chẳng thể tư duy. Tuy họ lại tư duy nhưng chẳng tư duy thiện, mà chẳng tư duy thiện nên như trụ ở pháp ác. Người trụ ở pháp ác có sáu thứ: Một là ác, hai là không thiện, ba là làm ô nhiễm pháp, bốn là tăng hữu, năm là não nhiệt, sáu là thọ quả báo ác. Đó gọi là chìm. Vì sao bị chìm? Vì không lòng thiện, thường làm ác, chẳng tu đối trị. Đó gọi là chìm. Sở dĩ gọi rằng ác là bị Thánh nhân quở trách, lòng sinh bố úy, người thiện xa lìa chẳng ích chúng sinh. Đó gọi là ác. Nói không thiện là, có thể sinh ra vô lượng quả báo ác, thường bị sự trói buộc của vô minh, ưa cùng người ác làm bạn bè, không có tu các phương tiện tốt, lòng điên đảo, thường lầm lẫn. Đó gọi là không thiện. Nói rằng làm ô nhiễm pháp là, thường làm ô nhiễm thân miệng, làm ô nhiễm chúng sinh thanh tịnh, tăng thêm nghiệp bất thiện, xa lìa pháp thiện. Đó gọi là làm ô nhiễm pháp. Nói tăng hữu là, làm những điều như ba người trên đã làm, có thể tăng thêm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chẳng thể tu tập pháp giải thoát, nghiệp thân, miệng, ý chẳng chán các hữu. Đó gọi là tăng hữu. Nói não nhiệt là, người ấy làm đủ bốn việc như trên có thể khiến cho thân tâm có hai việc phiền não. Xa lìa tịch tĩnh thì gọi là nhiệt. Thọ quả báo địa ngục nên gọi là nhiệt. Đốt cháy các chúng sinh nên gọi là nhiệt. Đốt cháy các pháp thiện nên gọi là nhiệt. Này thiện nam! Lòng tin thanh lương thì người này chẳng đủ, nên gọi là nhiệt. Nói người thọ quả báo ác là, người đầy đủ năm việc trên, chết đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Này thiện nam! Có ba việc ác, lại gọi là quả báo ác: Một là phiền não ác, hai là nghiệp ác, ba là báo ác. Đó gọi là thọ quả báo ác.

Này thiện nam! Người này đầy đủ sáu việc như trên thì có thể cắt đứt căn lành, tạo tác năm tội ngũ nghịch, có thể phạm bốn trọng cấm, có thể hủy báng Tam bảo, sử dụng vật của chúng Tăng, có thể làm đủ thứ việc phi pháp. Do nhân duyên này nên chìm đắm ở tại địa ngục Atỳ, phải thọ thân hình dọc ngang tám vạn bốn ngàn do diên. Nghiệp thân, miệng, ý của người này nặng nên chẳng thể thoát ra. Vì sao? Vì tâm người ấy chẳng thể sinh ra pháp thiện nên tuy có vô lượng những Đức Phật ra đời mà chẳng nghe chẳng thấy nên gọi là thường chìm mất như con cá lớn trong dòng sông Hằng.

Này thiện nam! Ta tuy nói Nhất-xiển-đề v.v… gọi là thường chìm nhưng lại có người thường chìm mà chẳng phải Nhất-xiển-đề. Đó là ai vậy? Như người vì cõi giới mà tu thí, giới, thiện. Đó gọi là thường chìm.

Này thiện nam! Có bốn việc thiện mà gặt lấy quả ác. Những gì là bốn? Một là vì muốn hơn người khác nên đọc tụng kinh điển, hai là vì lợi dưỡng nên thọ trì giới cấm, ba là vì lệ thuộc người khác mà làm bố thí, bốn là vì phi tưởng phi phi tưởng xứ nên lắng lòng tư duy. Đó là bốn việc thiện bị quả báo ác. Nếu người tu tập bốn việc này thì đó gọi là chìm rồi trở lại nổi, nổi rồi trở lại chìm. Vì sao gọi là chìm? Vì ưa ba hữu. Vì sao gọi là nổi? Vì do thấy ánh sáng. Ánh sáng tức là nghe thí, giới, định. Vì sao trở lại chìm? Vì tăng trưởng tà kiến, sinh ra kiêu mạn. Vậy nên ở trong kinh Ta nói kệ:

Nếu có chúng sinh ưa các hữu

Vì có tạo tác nghiệp thiện ác

Người này liền mất đạo Niết-bàn

Đó gọi tạm nổi trở lại chìm.

Đi trong biển sinh tử hắc ám

Tuy được giải thoát xen phiền não

Người này trở lại thọ quả ác

Đó gọi tạm nổi trở lại chìm.

Này thiện nam! Như con cá lớn kia nhân thấy ánh sáng nên tạm được nổi lên mặt nước. Nhưng cá ấy nặng nên trở lại chìm đắm. Như hai người trên cũng như vậy.

Này thiện nam! Lại hoặc có người đam mê ba hữu thì đó gọi là chìm. Được nghe kinh Đại Niết-bàn này sinh ra lòng tin thì đó gọi là nổi. Vì nhân duyên gì gọi đó là nổi? Vì nghe kinh này rồi, xa lìa pháp ác, tu tập pháp thiện nên đó gọi là nổi. Người này tuy tin nhưng cũng chẳng đầy đủ. Vì nhân duyên gì mà tin chẳng đầy đủ? Vì người này tuy tin Đại Bát Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh nhưng nói thân Như Lai vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Như Lai thì có hai thứ Niết-bàn, một là hữu vi, hai là vô vi. Hữu vi Niết-bàn không thường, lạc, ngã, tịnh; vô vi Niết-bàn có thường, lạc, ngã, tịnh. Họ tuy tin chúng sinh có Phật tánh nhưng nhất định chẳng phải tất cả đều có Phật tánh. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ.

Này thiện nam! Tin có hai thứ, một là tin, hai là cầu. Người như vậy tuy lại có tin nhưng chẳng thể tìm cầu. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ: một là từ nghe sinh ra, hai là từ nghĩ sinh ra. Lòng tin của người này từ nghe mà sinh ra, chẳng từ nghĩ sinh ra. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ: một là tin có đạo, hai là tin người đắc đạo. Lòng tin người này chỉ tin có đạo, hoàn toàn chẳng tin có người đắc đạo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Tin lại có hai thứ: một là tin chánh, hai là tin tà. Nói có nhân quả, có Phật, Pháp, Tăng thì đó gọi là tin chánh. Nói không có nhân quả, tánh Tam bảo khác, tin các lời nói tà vạy, Phú-đan-na v.v…. thì đó gọi là tin tà. Người này tuy tin Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, nhưng chẳng tin Tam bảo đồng một tánh tướng. Họ tuy tin nhân quả nhưng chẳng tin người thọ quả báo. Vậy nên gọi là tin chẳng đầy đủ. Người đó thành tựu lòng tin chẳng đầy đủ, việc thọ giới cấm cũng chẳng đầy đủ. Vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ? Vì nhân chẳng đủ nên giới cấm đã đắc cũng chẳng đầy đủ. Lại vì nhân duyên gì gọi là chẳng đầy đủ? Vì giới cấm có hai thứ: một là giới oai nghi, hai là giới tùng giới. Người đó tuy đầy đủ giới oai nghi nhưng chẳng đủ giới tùng giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Lại, giới có hai thứ: một là tác giới, hai là không tác giới. Người đó chỉ đủ tác giới chẳng đủ không tác giới. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ: một là từ thân miệng được chánh mạng, hai là từ thân miệng chẳng được chánh mạng. Người đó từ thân miệng chẳng được chánh mạng nên gọi đó là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ: một là giới cầu, hai là giới xả. Người đó chỉ đủ giới cầu, chẳng được giới xả. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ: một là tùy hữu, hai là tùy đạo. Người đó chỉ đủ giới tùy hữu, chẳng đủ giới tùy đạo. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ. Giới lại có hai thứ: một là giới thiện, hai là giới ác. Thân, miệng, ý thiện thì đó gọi là giới thiện. Giới của trâu, giới của chó thì đó gọi là giới ác. Người đó tin sâu hai thứ giới này đều có quả báo thiện. Vậy nên gọi là giới chẳng đầy đủ.

Người đó chẳng đầy đủ hai việc là tín và giới. Việc tu học đa văn cũng chẳng đầy đủ thì làm sao gọi là nghe chẳng đầy đủ? Mười hai bộ loại kinh văn mà Như Lai đã nói chỉ tin sáu bộ, chẳng tin sáu bộ. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Tuy thọ trì sáu bộ loại kinh văn này nhưng chẳng thể đọc tụng, vì người khác giảng nói, không có sự lợi ích. Vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Lại nữa, thọ nhận sáu bộ kinh này rồi vì luận nghị, vì hơn kẻ khác, vì lợi dưỡng, vì các hữu nên thọ trì, đọc tụng, giảng nói, vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ. Này thiện nam! Ở trong kinh Ta nói, nghe đầy đủ thì thế nào là đầy đủ? Nếu có Tỳkheo, thân, miệng, ý thiện, trước có thể cúng dường Hòa thượng, các sư trưởng, người có đức. Những vị sư trưởng đó v.v… đối với người này sinh lòng ái niệm. Do nhân duyên này nên các vị dạy trao kinh pháp, người đó hết lòng thọ trì, đọc tụng, tu tập. Thọ trì, đọc tụng, tu tập rồi thì thu được trí tuệ, được trí tuệ rồi thì có thể khéo suy nghĩ, theo đúng như pháp mà trụ. Khéo suy nghĩ rồi thì được chánh nghĩa, được chánh nghĩa rồi thì thân tâm tịch tĩnh, thân tâm tịch tĩnh rồi thì sinh tâm hoan hỷ. Do tâm hoan hỷ nên tâm được định, nhân được định nên được chánh tri kiến. Có chánh tri kiến rồi thì đối với các hữu, lòng sinh nhàm chán, mà nhàm chán các hữu nên có thể được giải thoát. Người đó không có những việc như vậy nên gọi là nghe chẳng đầy đủ.

Người chẳng đủ ba việc như vậy thì thí cũng chẳng đầy đủ. Thí có hai thứ, một là tài thí, hai là pháp thí. Người đó tuy thực hiện tài thí mà vì cầu có nên tuy hành pháp thí nhưng cũng chẳng đầy đủ. Vì sao? Vì còn giữ kín chẳng nói hết sợ người khác hơn. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ. Tài, pháp hai thứ thí đều có hai thứ, một là thánh, hai là chẳng phải thánh. Thánh thì thí rồi chẳng cầu quả báo. Chẳng phải thánh thì thí rồi cầu quả báo. Bậc Thánh thí pháp làm tăng trưởng pháp. Kẻ chẳng phải thánh thí pháp làm tăng trưởng các hữu. Những người như vậy vì thêm của cải mà hành tài thí, vì thêm các hữu mà hành pháp thí. Vậy nên gọi là thí chẳng đầy đủ. Lại nữa, người đó thọ nhận sáu bộ kinh văn mà thấy người thọ pháp thì cung cấp, còn người chẳng thọ thì chẳng cung cấp. Đó gọi là thí chẳng đầy đủ.

Người chẳng đủ bốn việc như trên thì việc tu trí tuệ cũng chẳng đầy đủ. Tánh của trí tuệ là tánh có thể phân biệt. Người đó chẳng thể phân biệt Như Lai là thường hay vô thường. Ở trong kinh Niết-bàn này Như Lai nói, Như Lai tức là giải thoát, giải thoát tức là Như Lai, Như Lai tức là Niết-bàn, Niết-bàn tức là giải thoát. Ở trong nghĩa này người đó chẳng thể phân biệt. Phạm hạnh tức là Như Lai, Như Lai tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Từ, Bi, Hỷ, Xả tức là giải thoát, giải thoát tức là Niết-bàn, Niết-bàn tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Đối với nghĩa này người đó chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là trí chẳng đầy đủ. Lại nữa, chẳng thể phân biệt được Phật tánh. Phật tánh tức là Như Lai, Như Lai tức là tất cả pháp bất cộng, pháp bất cộng tức là giải thoát, giải thoát tức là Niếtbàn, Niết-bàn tức là pháp bất cộng. Đối với nghĩa này họ chẳng thể phân biệt. Vậy nên gọi là trí chẳng đầy đủ. Lại nữa, chẳng thể phân biệt bốn đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Chẳng thể phân biệt bốn chân đế nên chẳng biết thánh hạnh, chẳng biết thánh hạnh nên chẳng biết Như Lai, chẳng biết Như Lai nên chẳng biết giải thoát, chẳng biết giải thoát nên chẳng biết Niết-bàn. Vậy nên gọi là trí chẳng đầy đủ.

Người chẳng đủ năm việc như vậy thì có hai thứ, một là tăng trưởng pháp thiện, hai là tăng trưởng pháp ác. Sao gọi là tăng trưởng pháp ác? Người đó chẳng thấy mình chẳng đầy đủ mà tự nói đầy đủ và sinh lòng chấp trước, đối với người đồng hành tự cho mình hơn. Vậy nên họ thân cận bạn ác đồng với mình. Đã thân cận rồi lại còn được nghe pháp chẳng đầy đủ, nghe rồi lòng vui mừng và lòng họ nhiễm trước khởi lên kiêu mạn, hành động nhiều phóng dật, rồi nhân phóng dật nên gần gũi với hàng tại gia, cũng ưa nghe nói việc tại gia, xa lìa pháp xuất gia thanh tịnh. Do nhân duyên này nên thêm lớn pháp ác, pháp ác tăng nên thân, miệng, ý khởi nghiệp bất tịnh. Vì ba nghiệp bất tịnh nên thêm lớn quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó gọi là tạm nổi rồi trở lại chìm. Tạm nổi rồi trở lại chìm thì trong pháp Phật của Ta người ấy là ai? Là Đề-bà-đạt-đa, Tỳ-kheo Cù-già-ly, Tỳ-kheo Uyển Thủ, Tỳ-kheo Thiện Tinh, Tỳ-kheo Chỉ-đề-xá, Tỳ-kheo Mãn Túc, Tỳkheo-ni Từ Địa, Tỳ-kheo-ni Khoáng Dã, Tỳ-kheo-ni Phương, Tỳ-kheoni Mạn, trưởng giả Tịnh Khiết, Ưu-bà-tắc Cầu Hữu, Xá Lặc Thích Chủng, Trưởng giả Tượng, Ưu-bà-di Danh Xưng, Ưu-bà-di Quang Minh, Ưu-bà-di Nan-đà, Ưu-bà-di Quân, Ưu-bà-di Linh v.v… Những người như vậy gọi là tạm nổi rồi trở lại chìm ví như con cá lớn thấy ánh sáng nên nổi lên mà thân nặng nên chìm.

Người thứ hai tự thấy biết sâu xa là sự tu hành chẳng đầy đủ, chẳng đầy đủ nên cầu gần gũi bạn lành, gần gũi bạn lành nên ưa hỏi han điều chưa nghe, nghe rồi ưa thọ, thọ rồi ưa suy nghĩ tốt, suy nghĩ tốt rồi có thể trụ đúng như pháp, trụ đúng như pháp nên thêm lớn căn lành, thêm lớn căn lành nên nhất định chẳng chìm. Đó gọi là trụ. Trong pháp Phật của Ta, những người ấy là ai? Đó là Xá-lợi-phất, Đại Mụckiền-liên, A-nhã Kiều-trần-như v.v… năm vị Tỳ-kheo, Gia-xá v.v… năm trăm vị Tỳ-kheo, đồng tử A-nâu-lâu-đà, Ca-diếp, Ma-ha Ca-diếp, Thập lực Ca-diếp, Tỳ-kheo-ni Cù-đàm-di, Tỳ-kheo-ni Ba-tra-la-hoa, Tỳkheo-ni Thắng, Tỳ-kheo-ni Thật Nghĩa, Tỳ-kheo-ni Ý, Tỳ-kheo-ni Bạt-đà, Tỳ-kheo-ni Tịnh, Tỳ-kheo-ni Bất Thoái Chuyển, Vua Tần-bàta-la, Trưởng giả Úc-già, Trưởng giả Tu-đạt-đa, Thích Ma-nam, Bầntu-đạt-đa, con ông Trưởng giả Thử Lang, Trưởng giả Danh Xưng, Trưởng giả Cụ Túc, Tướng quân Sư Tử, Trưởng giả Ưu-ba-ly, Trưởng giả Đao, Ưu-bà-di Vô Úy, Ưu-bà-di Thiện Trụ, Ưu-bà-di Ái Pháp, Ưubà-di Dũng Kiện, Ưu-bà-di Thiên Đắc, Ưu-bà-di Thiện Sinh, Ưu-bà-di Cụ Thân, Ưu-bà-di Ngưu Đắc, Ưu-bà-di Khoáng Dã, Ưu-bà-di Ma-hatư-na v.v… Những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di như vậy được gọi là trụ. Sao gọi là trụ? Thường ưa nhìn thấy ánh sáng thiện. Do nhân duyên này nếu Phật ra đời, hoặc chẳng ra đời thì những người như vậy nhất định chẳng tạo ác. Đó gọi là trụ. Như loài cá Chỉ-di ưa thấy ánh sáng chẳng đắm chẳng chìm, những chúng như trên cũng như vậy. Vậy nên, ở trong kinh Ta nói kệ:

Người khéo có thể phân biệt nghĩa

Hết lòng cầu quả vị Sa-môn

Và hay quở trách tất cả hữu

Người ấy gọi là trụ như pháp.

Nếu hay cúng dường vô lượng Phật

Có thể tu đạo vô lượng đời

Hưởng vui thế gian chẳng buông lung

Người đó gọi là trụ như pháp.

Thân cận bạn lành nghe chánh pháp

Trong khéo tư duy, trụ như pháp

Tu tập đạo, ưa thấy quang minh

Chứng được giải thoát trụ yên ổn.

*********

 

Này thiện nam! Trí chẳng đầy đủ gồm có năm việc. Người đó biết rồi cầu gần bạn lành. Bạn lành ấy phải biết quan sát người này về tham dục, sân hận, ngu si và suy nghĩ để biết người này thiên về cái gì nhiều. Nếu biết người đó tham dục nhiều thì liền nên vì họ nói pháp quán bất tịnh. Người sân hận nhiều thì vì họ nói từ bi. Người suy nghĩ hiểu biết nhiều thì dạy cho họ phép đếm hơi thở. Người chấp trước ngã nhiều thì phải vì họ phân tích mười tám giới v.v… Người đó nghe rồi chí tâm thọ trì, chí tâm thọ trì rồi theo đúng như pháp tu hành, theo đúng như pháp tu hành rồi theo thứ lớp chứng được Bốn niệm xứ, quán thân thọ, tâm, pháp. Đắc pháp quán này rồi thì theo thứ lớp quán mười hai nhân duyên. Quán như vậy rồi thì người đó được pháp noãn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh đều có pháp noãn. Vì sao? Vì như lời Phật nói, ba pháp hòa hợp gọi là chúng sinh: một là thọ mạng, hai là noãn, ba là thức. Nếu theo nghĩa này thì tất cả chúng sinh đáng lẽ trước có noãn mà vì sao Như Lai nói, pháp noãn nhân bạn lành sinh ra?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Pháp noãn mà như lời ông hỏi thì tất cả chúng sinh cho đến Nhất-xiển-đề đều có hết. Còn pháp noãn mà hôm nay Ta nói là pháp noãn cần phải nhân phương tiện, rồi sau đó mới được thì nó vốn không nay có. Do nghĩa này nên chẳng phải các chúng sinh, tất cả trước đã có. Vậy nên hôm nay, ông chẳng nên nạn vấn Ta là tất cả chúng sinh đều có pháp noãn. Này thiện nam! Pháp noãn như vậy là pháp của Sắc giới, chẳng phải Dục giới có được. Nếu nói, tất cả chúng sinh có thì chúng sinh Dục giới đáng lẽ cũng có, nhưng Dục giới không có nên phải biết là chẳng phải tất cả có. Vì sao? Vì đệ tử của Ta có, còn ngoại đạo thì không. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh chẳng nhất định đều có. Này thiện nam! Tất cả ngoại đạo chỉ quán sáu hạnh, còn đệ tử của Ta đầy đủ mười sáu hạnh. Mười sáu hạnh này không hẳn là tất cả chúng sinh đều có.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Cái nói là pháp noãn thì sao gọi là noãn? Vì tự tánh noãn hay vì người khác nên noãn?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Pháp noãn như vậy, tự tánh noãn, chẳng phải vì người khác nên noãn.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai trước đã nói, mã sư Mãn Túc không có pháp noãn. Vì sao? Vì ở chỗ Tam bảo không tín tâm. Vậy nên không có noãn thì phải biết tín tâm tức là pháp noãn.

–Này thiện nam! Tín chẳng phải pháp noãn. Vì sao? Vì nhân ở tín tâm rồi sau mới được noãn. Này thiện nam! Luận về pháp noãn tức là trí tuệ. Vì sao? Vì quan sát bốn đế. Vậy nên gọi đó là mười sáu hạnh mà hạnh tức là trí. Này thiện nam! Như câu hỏi của ông, nhân duyên gì nên gọi là noãn? Này thiện nam! Luận về pháp noãn tức là tướng lửa của tám Thánh đạo. Vậy nên gọi là noãn. Này thiện nam! Ví như dùi lửa thì trước có hơi ấm, tiếp đến có lửa sinh ra và sau cùng thì bốc khói. Đạo vô lậu này cũng như vậy. Hơi ấm tức là mười sáu hạnh, lửa tức là quả Tu-đà-hoàn, khói tức là tu đạo, cắt đứt kiết sử.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy pháp noãn cũng là pháp hữu, cũng là hữu vi. Quả báo pháp này được năm ấm của Sắc giới nên gọi là hữu. Do nhân duyên này nên lại gọi là hữu vi. Nếu là hữu vi thì làm sao có thể là tướng của đạo vô lậu được?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này thiện nam! Như vậy pháp noãn tuy là pháp hữu, hữu vi, nhưng trở lại có thể phá hoại pháp hữu hữu vi. Vậy nên nó có thể là tướng của đạo vô lậu. Này thiện nam! Như người cỡi ngựa cũng yêu ngựa nhưng cũng thúc giục ngựa. Noãn tâm cũng vậy, vì ưa thích nên thọ sinh, vì nhàm chán nên quan sát hạnh. Vậy nên tuy lại là pháp hữu, hữu vi mà có thể cùng làm tướng cho chánh đạo kia đắc pháp noãn. Có bảy mươi ba hạng người, Dục giới có mười hạng người. Hạng người này đầy đủ tất cả phiền não, từ đoạn một phần cho đến chín phần. Như ở Dục giới, từ Sơ thiền cho đến Vô sở hữu xứ cũng như vậy. Đó gọi là bảy mươi ba hạng. Những người như vậy được pháp noãn rồi chẳng có thể cắt đứt căn lành, làm tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng cấm. Hai hạng người này, một là gặp bạn lành, hai là gặp bạn ác. Người gặp bạn ác thì tạm nổi trở lại chìm. Người gặp bạn lành thì quan sát khắp bốn phương, quan sát bốn phương tức là pháp đỉnh. Pháp này tuy tánh là năm ấm nhưng cũng duyên bốn đế. Vậy nên được gọi là quan sát khắp bốn phương. Được pháp đỉnh rồi tiếp đến được pháp nhẫn. Nhẫn này cũng vậy, tánh cũng năm ấm, cũng duyên bốn đế. Người này tiếp đến được pháp thế đệ nhất. Pháp này tánh là năm ấm, cũng duyên bốn đế. Người này tiếp đến được pháp khổ nhẫn mà tánh của nhẫn là tuệ duyên với một đế. Như vậy pháp nhẫn duyên một đế rồi cho đến thấy đạo đoạn phiền não, được quả Tu-đà-hoàn. Đó gọi là loại thứ tư quan sát khắp bốn phương. Bốn phương tức là bốn đế.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Phật trước đã nói, việc đoạn phiền não của hàng Tu-đà-hoàn giống như dòng nước dọc ngang bốn mươi dặm, cái còn lại ấy thì như một giọt nước trên đầu sợi lông. Trong giọt nước nhỏ này thì sao nói là đoạn ba kết? Gọi là Tu-đà-hoàn thì một là chấp ngã, hai là chẳng phải nhân chấp là nhân, ba là nghi võng. Thưa Thế Tôn! Vì nhân duyên gì gọi Tu-đà-hoàn quan sát khắp bốn phương? Lại vì nhân duyên gì gọi Tu-đà-hoàn? Lại vì nhân duyên gì dùng cá Tích dụ cho Tu-đà-hoàn?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Hàng Tu-đà-hoàn tuy lại có thể đoạn vô lượng phiền não nhưng ba thứ nặng này cũng thuộc về tất cả kiết sử phải đoạn của hàng Tu-đà-hoàn. Này thiện nam! Ví như vị đại vương khi ra đi tuần du tuy có bốn binh chủng nhưng người đời chỉ nói vua đến vua đi. Vì sao? Vì thế gian xem trọng vua. Ba phiền não này cũng như vậy. Vì nhân duyên gì mà gọi đó là nặng? Vì tất cả chúng sinh thường sinh khởi, vì vi tế khó nhận biết nên gọi là nặng. Vì ba kết này khó có thể đoạn trừ, vì có thể là nhân của tất cả phiền não, vì là oán địch của ba thứ đối trị là giới, định, tuệ. Này thiện nam! Có các chúng sinh nghe Tu-đà-hoàn có thể đoạn vô lượng phiền não như vậy thì sinh tâm thoái chuyển, liền nói lên: “Chúng sinh làm sao có thể đoạn vô lượng phiền não như vậy?”. Vậy nên Như Lai thị hiện phương tiện nói có ba. Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì mà hàng Tu-đà-hoàn dụ cho sự quan sát bốn phương?

Này thiện nam! Hàng Tu-đà-hoàn quan sát bốn đế đạt được bốn việc: Một là trụ ở đạo kiên cố, hai là có thể quan sát khắp, ba là có thể thấy như thật, bốn là có thể hoại oán lớn. Đạo kiên cố nghĩa là năm căn của Tu-đà-hoàn không thể động. Vậy nên gọi là trụ đạo kiên cố. Quan sát cùng khắp nghĩa là Tu-đà-hoàn có thể quở trách phiền não trong ngoài. Thấy như thật tức là nhẫn trí. Hoại oán lớn nghĩa là hoại bốn điên đảo. Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì gọi là Tu-đà-hoàn? Này thiện nam! Tu là gọi vô lậu, đà-hoàn là gọi tu tập. Tu tập vô lậu nên gọi là Tu-đà-hoàn. Này thiện nam! Lại nữa, Tu gọi là dòng. Dòng có hai thứ: một là thuận dòng, hai là ngược dòng. Do ngược dòng nên gọi là Tu-đà-hoàn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu từ ý nghĩa này thì vì nhân duyên gì mà hàng Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán chẳng được gọi là Tu-đà-hoàn?

–Này thiện nam! Từ Tu-đà-hoàn cho đến các Đức Phật cũng được gọi là Tu-đà-hoàn. Nếu từ Tư-đà-hàm cho đến chư Phật không Tu-đà-hoàn thì làm sao được gọi là Tư-đà-hàm cho đến Phật? Tên của tất cả chúng sinh có hai thứ: một là cựu, hai là khách. Khi còn là phàm phu thì có tên gọi của đời. Đã đắc đạo rồi thì đổi tên gọi là Tu-đà-hoàn. Do trước đắc đạo nên tên là Tu-đà-hoàn, rồi sau đắc tiếp nên gọi là Tư-đà-hàm. Người đó cũng tên là Tu-đà-hoàn, cũng tên là Tư-đà-hàm cho đến Phật cũng như vậy.

Này thiện nam! Lưu có hai thứ: Một là giải thoát, hai là Niết-bàn.

Tất cả Thánh nhân đều có hai thứ này, cũng có thể được gọi là Tu-đàhoàn, cũng gọi là Tư-đà-hàm cho đến Phật cũng như vậy.

Này thiện nam! Tu-đà-hoàn cũng gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì Bồ-tát tức là tận trí và vô sinh trí mà hàng Tu-đà-hoàn cũng lại mong cầu hai thứ trí như thế. Vậy nên phải biết hàng Tu-đà-hoàn được gọi là Bồ-tát. Hàng Tu-đà-hoàn cũng được gọi là giác. Vì sao? Vì chánh giác thì thấy đạo, cắt đứt phiền não. Do nhân quả của chánh giác nên chánh giác chung với đạo và chẳng chung với đạo. Tư-đà-hàm cho đến A-la-hán cũng như vậy.

Này thiện nam! Tu-đà-hoàn này thường có hai hạng: Một là lợi căn, hai là độn căn. Người độn căn thì qua lại cõi người, trời bảy lần. Người độn căn đó lại có năm thứ: hoặc người có sáu lần, năm lần, bốn lần, ba lần, hai lần qua lại trời, người. Người lợi căn thì hiện tại chứng được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán.

Này thiện nam! Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì dùng loài cá Tích dụ cho hàng Tu-đà-hoàn? Này thiện nam! Loài cá Tích có bốn đặc tính: Một là xương nhỏ nên nhẹ, hai là có cánh nên nhẹ, ba là ưa thấy ánh sáng, bốn là ngậm vật giữ chặt. Hàng Tu-đà-hoàn cũng có bốn đặc tính: phiền não vi tế dụ cho xương nhỏ, có chỉ và quán nên dụ cho có cánh, thấy đạo dụ cho ưa thay ánh sáng, ngậm vật giữ chặt là dụ cho nghe. Như Lai nói vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh thì giữ chặt chẳng bỏ dụ cho ngậm vật giữ chặt. Giống như Ma vương hóa làm hình dáng Phật, trưởng giả Thủ-la nhìn thấy rồi lòng kinh hãi. Ma thấy lòng ông trưởng giả ấy động rồi, liền nói với ông Trưởng giả: “Ta trước nói có bốn chân đế là lời nói chẳng chân thật. Nay ta sẽ vì ông nói lại có năm đế, sáu ấm, mười ba nhập, mười chín giới”. Ông trưởng giả nghe rồi liền quan sát pháp tướng, nhưng đều không có cái lý này. Vậy nên kiên trì lòng mình chẳng động.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tu-đà-hoàn này trước đã được đạo nên gọi là Tu-đà-hoàn. Vì sơ quả nên gọi là Tu-đà-hoàn. Nếu trước đã đắc đạo gọi là Tu-đà-hoàn thì khi đắc pháp khổ nhẫn vì sao chẳng được gọi là Tu-đà-hoàn mà gọi là Hướng? Nếu vì sơ quả mà gọi là Tu-đà-hoàn thì người ngoại đạo trước đã đoạn phiền não, đến được Vô sở hữu xứ mà tu đạo vô lậu lại được quả A-na-hàm, thì vì sao chẳng gọi họ là Tu-đàhoàn?

–Này thiện nam! Do sơ quả nên gọi là Tu-đà-hoàn. Như lời ông hỏi, người ngoại đạo trước đã đoạn phiền não, đến được Vô sở hữu xứ mà tu đạo vô lậu đắc quả A-na-hàm thì vì sao chẳng gọi họ là Tu-đàhoàn? Này thiện nam! Do sơ quả nên gọi là Tu-đà-hoàn. Người này khi ấy đầy đủ tám trí và mười sáu hạnh.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Người được A-na-hàm cũng như vậy, cũng được tám trí, đủ mười sáu hạnh mà vì sao chẳng được gọi là Tu-đà-hoàn?

–Này thiện nam! Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ: Một là chung, hai là không chung. Mười sáu hạnh vô lậu cũng có hai thứ: Một là hướng quả, hai là đắc quả. Tám trí cũng có hai: Một là hướng quả, hai là đắc quả. Người Tu-đà-hoàn xả mười sáu hạnh chung, đắc mười sáu hạnh không chung, bỏ tám trí hướng quả, đắc tám trí đắc quả. Ana-hàm thì chẳng như vậy. Vậy nên sơ quả gọi là Tu-đà-hoàn.

Này thiện nam! Hàng Tu-đà-hoàn duyên với bốn đế, còn hàng Ana-hàm chỉ duyên một đế. Vậy nên sơ quả gọi là Tu-đà-hoàn. Do nhân duyên này nên dùng loài cá Tích để dụ. Người quan sát khắp rồi đi tức là Tư-đà-hàm hết lòng tu đạo vì đoạn trừ tham, sân, si, kiêu mạn như con cá Tích kia quan sát khắp bốn phương rồi vì mồi ăn nên đi. Đi rồi dừng lại là dụ cho A-na-hàm được thức ăn rồi dừng lại. A-na-hàm này thường có hai thứ: Một là hiện tại đắc A-na-hàm rồi tiến tu liền được quả A-la-hán. Hai là tham đắm Tam-muội Tịch tĩnh trong Sắc giới, Vô sắc giới mà người này chẳng thọ thân Dục giới nên gọi là A-na-hàm. A-na-hàm này lại có năm thứ: Một là Trung Bát-niết-bàn, hai là Thọ thân Bát-niết-bàn, ba là Hành Bát-niết-bàn, bốn là Vô hành Bát-niếtbàn, năm là Thượng lưu Bát-niết-bàn. A-na-hàm lại có sáu thứ: năm thứ nêu trên, thêm sáu là Hiện tại Bát-niết-bàn. Lại có bảy thứ: sáu thứ như trên, thêm bảy là Vô sắc giới Bát-niết-bàn. Hành Bát-niết-bàn lại có hai thứ: Hoặc thọ hai thân, hoặc thọ bốn thân. Nếu thọ hai thân thì đó gọi là lợi căn. Nếu thọ bốn thân thì đó gọi là độn căn. Lại có hai thứ: Một là tinh tấn không tự tại định, hai là biếng trễ có tự tại định. Lại có hai thứ: Một là cụ tinh tấn, hai là bất cụ.

Này thiện nam! Chúng sinh nơi Dục giới có hai thứ nghiệp: Một

là tác nghiệp, hai là thọ sinh nghiệp. Trung Niết-bàn thì chỉ có tác nghiệp không có thọ sinh nghiệp. Vậy nên ở khoảng giữa mà Bát-niếtbàn, đó là xả thân Dục giới, chưa đến Sắc giới. Do lợi căn nên ở Trung Niết-bàn. Hàng A-na-hàm Trung Niết-bàn này có bốn thứ tâm: Một là phi học phi vô học, hai là học, ba là vô học, bốn là phi học phi vô học. Vào Niết-bàn thì sao lại gọi là Trung Bát-niết-bàn? Này thiện nam! Vì trong bốn thứ tâm của A-na-hàm này có hai: Một là Niết-bàn và hai là phi Niết-bàn. Vậy nên gọi là Trung Bát-niết-bàn. Thọ thân Niết-bàn có hai thứ: Một là tác nghiệp, hai là sinh nghiệp. Người xả thân Dục giới thọ thân Sắc giới, tinh cần tu đạo, hết thọ mạng ấy thì vào Niết-bàn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu nói hết thọ mạng vào Niết-bàn thì sao nói thọ thân Niết-bàn?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Người này thọ thân rồi sau đó mới đoạn trừ phiền não của ba cõi nên gọi là Thọ thân Niết-bàn. Này thiện nam! Hành Bát-niết-bàn thì thường tu hành đạo. Do có sức của Tam-muội hữu vi nên có thể đoạn trừ phiền não mà vào Niết-bàn. Đó gọi là Hành Bát-niết-bàn. Vô hành Niết-bàn là, người này quyết định biết sẽ được Niết-bàn nên biếng trễ. Cũng do lực của Tam-muội hữu vi nên hết thọ mạng thì được vào Niết-bàn. Đó gọi là Vô hành Niết-bàn. Thượng lưu Bát-niết-bàn là, nếu có người được đệ Tứ thiền rồi mà sinh ra ái tâm ở Sơ thiền thì do nhân duyên này sinh lùi lại ở Sơ thiền. Hạng này có hai dòng: Một là dòng phiền não, hai là dòng đạo. Nhờ dòng đạo nên người này thọ mạng hết sinh ra thích Nhị thiền. Do nhân duyên này nên họ sinh ra ở Nhị thiền cho đến đệ Tứ thiền cũng như vậy. Trong bốn thiền này lại có hai thứ: Một là vào Vô sắc giới, hai là vào Ngũ tịnh cư. Hai hạng người như vậy thì một hạng ưa Tam-muội và hạng thứ hai ưa trí tuệ. Hạng ưa trí tuệ thì vào Ngũ tịnh cư còn hạng ưa Tammuội thì vào Vô sắc giới. Như vậy hai hạng người: Một là tu đệ Tứ thiền thì có năm bậc sai khác, hai là chẳng tu. Những gì là năm? Đó là hạ, trung, thượng, thượng trung và thượng thượng. Người tu thượng thượng thì ở trời Vô Tiểu. Người tu thượng trung thì ở trời Thiện Kiến. Người tu thượng phẩm thì ở trời Thiện Khả Kiến. Người tu trung phẩm thì ở trời Vô Nhiệt. Người tu hạ phẩm thì ở trời Thiểu Quang. Hai hạng người như vậy, một là ưa luận nghị, hai là ưa tịch tĩnh. Người ưa tịch tĩnh thì vào Vô sắc giới. Người ưa luận nghị thì ở Ngũ tịnh cư. Lại có hai hạng người, một là tu tập thiền, hai là chẳng tu tập thiền. Người tu tập thiền thì vào Ngũ tịnh cư. Người chẳng tu tập thiền thì sinh ở Vô sắc giới. Hết thọ mạng thì người ấy Bát-niết-bàn, nên gọi là Thượng lưu Bát-niết-bàn. Nếu muốn vào cõi Vô sắc thì chẳng thể tu tập năm cấp bậc của Tứ thiền. Nếu tu năm cấp bậc của Tứ thiền thì có thể quở trách định của cõi Vô sắc.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bậc Trung Niết-bàn là người lợi căn. Nếu là người lợi căn thì vì sao hiện tại chẳng vào Niết-bàn? Vì sao Dục giới có Trung Niết-bàn mà Sắc giới thì không?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Người đó hiện tại bốn đại gầy yếu chẳng thể tu đạo, tuy có Tỳ-kheo với bốn đại mạnh khỏe nhưng không có phòng nhà, thức ăn thức uống, quần áo, ngọa cụ, thuốc chữa bệnh v.v… mọi duyên chẳng đủ, nên chẳng được hiện tại Niết-bàn. Này thiện nam! Vào một thuở nọ, Ta ở tại Tinh xá A-na-bàn-đề nước Xá-vệ, có một Tỳ-kheo đi đến chỗ Ta nói như vầy: “Thưa Thế Tôn! Con thường tu đạo mà chẳng thể được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán”. Ta tức thời bảo Tôn giả A-nan: “Nay Tôn giả phải vì vị Tỳ-kheo này cấp đủ những sự cần dùng”. Bấy giờ, Tôn giả A-nan đem vị Tỳ-kheo này đến rừng Kỳ-đà cấp cho phòng nhà tốt. Khi đó vị Tỳ-kheo nói với Tôn giả A-nan: “Thưa Đại đức! Xin Đại đức vì tôi trang hoàng phòng nhà, sửa sang sạch sẽ, làm đẹp bằng bảy báu, treo lọng báu, cờ phướn bằng lụa”. Tôn giả A-nan nói: “Thế gian, người nghèo mới gọi là Sa-môn thì tôi sao có thể bày biện những việc đó?”. Vị Tỳ-kheo này nói: “Thưa Đại đức! Nếu Đại đức có thể vì tôi làm thì tốt. Nếu chẳng thể thì tôi sẽ trở lại đi đến chỗ Đức Thế Tôn”. Lúc này, Tôn giả A-nan liền đi đến chỗ Phật thưa: “Thưa Thế Tôn! Vừa rồi Tỳ-kheo theo con yêu cầu đủ thứ bằng bảy báu, cờ, lọng, chẳng xem xét việc này sẽ như thế nào”. Lúc ấy, Ta lại bảo Tôn giả A-nan: “Nay Tôn giả trở lại theo ý của Tỳkheo, bày biện đủ những vật cần dùng”. Bấy giờ, Tôn giả A-nan trở lại phòng đó, vì vị Tỳ-kheo này bày biện đầy đủ mọi thứ. Tỳ-kheo được như ý rồi thì hết lòng tu đạo, chẳng bao lâu ông ta liền được quả Tu-đàhoàn cho đến quả A-la-hán.

Này thiện nam! Vô lượng chúng sinh đáng lẽ vào Niết-bàn nhưng vì thiếu thốn làm loạn lòng họ nên chẳng vào được. Này thiện nam! Lại có chúng sinh rất ưa giáo hóa nên lòng họ rộn ràng chẳng thể định được. Vậy nên chẳng được Hiện tại Niết-bàn. Này thiện nam! Như lời ông hỏi, vì nhân duyên gì xả thân Dục giới có Trung Niết-bàn mà Sắc giới thì không?

Này thiện nam! Người này quan sát ở Dục giới, nhân duyên phiền não có hai: Một là nội, hai là ngoại, mà trong Sắc giới không có ngoại nhân duyên. Dục giới lại có hai thứ ái tâm, một là dục ái, hai là thực ái. Quán sát hai ái này, hết lòng quở trách, quở trách rồi thì được vào Niết-bàn. Trong Dục giới này có thể quở trách các phiền não thô như là tham lam keo kiệt, sân hận, ganh ghét, không hổ, không thẹn. Do nhân duyên này nên có thể được Niết-bàn. Lại, đạo của Dục giới, tánh của đạo ấy dũng kiện. Vì sao? Vì được bốn quả. Vậy nên Dục giới có Trung Niết-bàn mà trong Sắc giới thì không. Này thiện nam! Trung Niết-bàn thì thường có ba thứ. Đó là thượng, trung, hạ. Thượng là xả thân chưa rời khỏi Dục giới liền được Niết-bàn. Trung là bắt đầu rời khỏi Dục giới chưa đến Sắc giới liền được Niết-bàn. Hạ là rời khỏi Dục giới rồi đến biên giới Sắc giới mới được Niết-bàn. Dụ dùng loài cá Tích được mồi ăn rồi dừng lại, người này cũng vậy. Sao gọi là dừng lại? Ở tại Sắc giới và Vô sắc giới được thọ thân. Vậy nên gọi là dừng lại. Chẳng thọ thân trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh của Dục giới, nên gọi là dừng lại. Đã đoạn trừ vô lượng các phiền não kết, còn lại chút ít, nên gọi là dừng lại. Lại vì nhân duyên gì mà gọi đó là dừng lại? Vì chẳng bao giờ tạo tác việc của phàm phu, nên gọi là dừng lại. Mình không sợ gì, chẳng khiến người khác sợ, nên gọi là dừng lại. Xa lìa hai ái, xan tham, sân hận nên gọi là dừng lại.

Này thiện nam! Người đến bờ kia là dụ cho A-la-hán, Phật-bíchchi, Bồ-tát, Phật, giống như rùa thần trên nước trên đất đều đi được cả. Vì nhân duyên gì mà dùng rùa làm thí dụ? Vì khéo che giấu năm chi. Những bậc A-la-hán này cho đến chư Phật cũng như vậy, khéo che năm căn nên dụ cho rùa. Nói nước và đất thì nước dụ cho thế gian, đất dụ cho xuất thế gian. Các vị Thánh này cũng như vậy, có thể quan sát tất cả phiền não ác nên đến bờ kia. Vậy nên dụ cho đến dưới nước, trên đất đều đi.

Này thiện nam! Như bảy loài chúng sinh trong sông Hằng, tuy có tên là cá, rùa nhưng chẳng lìa khỏi nước. Như vậy trong Đại Niết-bàn vi diệu, từ Nhất-xiển-đề lên đến chư Phật tuy có tên khác nhau nhưng cũng chẳng lìa khỏi nước Phật tánh. Này thiện nam! Bảy loại chúng sinh này hoặc pháp thiện, hoặc pháp bất thiện, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc đạo thứ đệ, hoặc nhân, hoặc quả… hết thảy đều là Phật tánh. Đó gọi là ngôn ngữ Tùy tự ý của Như Lai.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có nhân thì có quả, nếu không nhân thì không quả. Niết-bàn gọi là quả nên thường không có nhân. Nếu không nhân thì sao gọi là quả? Nhưng mà Niết-bàn này cũng gọi là Sa-môn và gọi là quả Sa-môn thì thế nào là Sa-môn? Thế nào là quả Sa-môn?

–Này thiện nam! Tất cả thế gian có bảy thứ quả: Một là quả phương tiện, hai là quả báo ân, ba là quả thân cận, bốn là quả tàn dư, năm là quả bình đẳng, sáu là quả quả báo, bảy là quả viễn ly. Quả phương tiện là, như người thế gian, mùa thu, thu hoạch nhiều lúa, đều nói với nhau, được quả phương tiện. Quả phương tiện còn gọi là quả nghiệp hành. Quả như vậy thì có hai thứ nhân: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần là gọi hạt giống. Nhân xa là gọi nước, phân bón, công sức của người. Đó gọi là quả phương tiện. Quả báo ân là, người thế gian cung phụng cha mẹ, cha mẹ đều nói, ta nay đã được quả báo ân dưỡng. Con có thể báo đền ơn cha mẹ thì đó gọi là quả. Quả như vậy thì nhân cũng có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần tức là nghiệp thuần thiện đời quá khứ của cha mẹ. Nhân xa tức là cha mẹ đã sinh ra con hiếu. Đó gọi là quả báo ân. Quả thân cận thì ví như có người gần gũi bạn lành hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán. Người đó xướng lên: “Ta nay được quả thân cận”. Quả như vậy thì nhân có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần là lòng tin, nhân xa là bạn lành. Đó gọi là quả thân cận. Quả dư tàn thì như nhân chẳng sát hại được thân thứ ba kéo dài thêm thọ mạng. Đó gọi là quả dư tàn. Quả như vậy thì có hai thứ nhân: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần tức là thân, miệng, ý thanh tịnh. Nhân xa tức là kéo dài thêm thọ mạng. Đó gọi là quả tàn dư. Quả bình đẳng nghĩa là khí thế giới. Quả như vậy thì cũng có hai thứ nhân: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần như là chúng sinh tu mười nghiệp thiện. Nhân xa như là tam tai. Đó gọi là quả bình đẳng. Quả quả báo thì như người chứng được thân thanh tịnh rồi tu nghiệp thanh tịnh của thân, miệng, ý. Người đó liền nói, ta đắc quả quả báo. Quả như vậy thì nhân có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần thì như là thân, miệng, ý hiện tại thanh tịnh. Nhân xa thì như là thân, miệng, ý quá khứ thanh tịnh. Đó gọi là quả quả báo. Quả viễn ly tức là Niết-bàn lìa các khổ não. Tất cả nghiệp thiện là nhân của Niết-bàn. Nó lại có hai thứ: Một là nhân gần, hai là nhân xa. Nhân gần tức là ba cửa giải thoát. Nhân xa tức là việc tu hành pháp thiện của vô lượng đời.

Này thiện nam! Như pháp thế gian, hoặc nói sinh nhân, hoặc nói liễu nhân. Pháp xuất thế cũng như vậy, cũng nói sinh nhân, cũng nói liễu nhân. Này thiện nam! Ba cửa giải thoát, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể vì tất cả phiền não làm chẳng sinh ra sinh thân, cũng vì Niết-bàn mà làm liễu nhân. Này thiện nam! Lìa xa phiền não thì được thấy rõ ràng Niết-bàn. Vậy nên Niết-bàn chỉ có liễu nhân, không có sinh nhân. Này thiện nam! Như lời ông hỏi, thế nào là Sa-môn na? Thế nào là Sa-môn quả? Này thiện nam! Sa-môn na tức là tám chánh đạo. Sa-môn quả là từ đạo diệt trừ vĩnh viễn tất cả tham, sân, si v.v… Đó gọi là Sa-môn na và Sa-môn quả.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà tám chánh đạo gọi là Samôn na?

–Này thiện nam! Đời gọi Sa-môn là thiếu. Na gọi là đạo. Như vậy đạo là đoạn tất cả thiếu, đoạn tất cả đạo. Do nghĩa này nên gọi tám chánh đạo là Sa-môn na. Từ trong đạo này chứng được quả nên gọi là Sa-môn quả. Này thiện nam! Lại, Sa-môn na là, như người thế gian có người vui với sự tịch tĩnh yên lặng thì cũng gọi là Sa-môn. Như vậy thì đạo cũng thế, có thể khiến cho hành giả lìa khỏi các ác của thân, miệng, ý và tà mạng v.v… mà được vui tịch tĩnh, nên gọi là Samôn na. Này thiện nam! Như hạng hạ nhân của đời có thể làm bậc thượng nhân, nên gọi là Sa-môn na. Như vậy đạo cũng như vậy, có thể khiến cho hạng hạ nhân làm bậc thượng nhân, nên gọi là Sa-môn na. Này thiện nam! Hàng A-la-hán tu đạo này thì được Sa-môn quả. Vậy nên được gọi là đến bờ kia. Quả A-la-hán tức là năm phần pháp thân vô học: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, nhân năm phần này được đến bờ kia. Vậy nên gọi là đến bờ kia. Đến bờ kia rồi tự nói: “Ta, sự sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã hoàn thành, lại chẳng thọ thân sau”. Này thiện nam! A-la-hán này đã đoạn trừ vĩnh viễn nhân duyên sinh ba đời, nên tự nói: “Ta sự sinh đã hết”, cũng cắt đứt thân năm ấm của ba cõi, nên lại nói: “Ta, sự sinh đã hết”, việc tu phạm hạnh đã rốt ráo, nên nói: “Phạm hạnh đã lập”. Lại xả bỏ học đạo nên cũng gọi là đã lập. Như sở cầu thuở trước, ngày nay đã được, vậy nên nói: “Việc làm đã hoàn thành”. Tu đạo đắc quả cũng nói, đã hoàn thành. Chứng được Tận trí, Vô sinh trí nên nói: “Ta, sự sinh đã hết, tận diệt các hữu kết”. Do những nghĩa này nên gọi là A-la-hán được đến bờ kia. Như A-la-hán, Phật-bích-chi cũng như vậy. Bồ-tát và Phật thành tựu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật nên gọi là đến bờ kia. Phật và Bồ-tát được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi thì gọi là đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Vì sao? Vì được quả của sáu pháp Ba-la-mật. Do được quả nên gọi là đầy đủ.

Này thiện nam! Bảy loại chúng sinh này chẳng tu thân, chẳng tu giới, chẳng tu tâm, chẳng tu tuệ, chẳng thể tu tập bốn việc như vậy thì có thể tạo tác tội nặng ngũ nghịch, có thể cắt đứt căn lành, phạm bốn trọng cấm, bài báng Phật, Pháp, Tăng. Vậy nên họ được gọi là thường đắm chìm.

Này thiện nam! Trong bảy hạng người này nếu có người có thể thân cận thiện tri thức, hết lòng nghe thọ chánh pháp của Như Lai, nội tâm khéo tư duy, theo đúng như pháp mà trụ, tinh cần tu tập thân, giới, tâm, tuệ thì được gọi là qua khỏi dòng sông sinh tử, đến được bờ kia. Nếu có người nói, người Nhất-xiển-đề được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đó gọi là nhiễm trước, còn nếu nói, chẳng được thì đó gọi là hư vọng.

Này thiện nam! Bảy hạng người này, hoặc có một hạng đủ cả

bảy, hoặc bảy hạng mỗi hạng chỉ có một. Này thiện nam! Nếu hạng người mà tâm miệng tưởng khác, nói khác, cho là Nhất-xiển-đề đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì phải biết người đó bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu hạng người mà tâm miệng tưởng khác, nói khác, cho là Nhất-xiển-đề chẳng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng.

Này thiện nam! Nếu có người nói Bát thánh đạo phận là sở đắc của phàm phu thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người nói, Bát thánh đạo phận chẳng phải là sở đắc của phàm phu thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng.

Này thiện nam! Nếu có người nói, tất cả chúng sinh nhất định có Phật tánh, nhất định không có Phật tánh, thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng.

Này thiện nam! Vậy nên ở trong khế kinh Ta nói có hai hạng người bài báng Phật, Pháp, Tăng: Một là chẳng tin vì lòng sân hận, hai là tuy tin nhưng chẳng hiểu nghĩa.

Này thiện nam! Nếu người có lòng tin mà không có trí tuệ thì người đó có thể thêm lớn vô minh. Nếu có trí tuệ mà không có lòng tin thì người đó có thể thêm lớn tà kiến.

Này thiện nam! Người chẳng tin vì lòng sân hận nên nói, không có Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Người tin mà không tuệ thì giải nghĩa điên đảo khiến cho người nghe pháp bài báng Phật, Pháp, Tăng.

Này thiện nam! Vậy nên Ta nói, người chẳng tin vì lòng sân hận, người có tin mà không trí tuệ là những người có thể bài báng Phật, Pháp, Tăng.

Này thiện nam! Nếu có người nói, Nhất-xiển-đề v.v… chưa sinh ra pháp thiện liền đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu lại có người nói, Nhấtxiển-đề bỏ Nhất-xiển-đề, ở trong thân khác đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì người đó cũng gọi là bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu lại có người nói, Nhất-xiển-đề có thể sinh ra thiện căn, sinh thiện căn rồi nối nhau chẳng đoạn đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên nói, Nhất-xiển-đề đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải biết người đó chẳng bài báng Tam bảo.

Này thiện nam! Nếu có người nói, tất cả chúng sinh nhất định có Phật tánh, thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng tạo tác, chẳng sinh khởi nhưng vì nhân duyên phiền não nên chẳng thấy thì phải biết người đó bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người nói, tất cả chúng sinh đều không có Phật tánh giống như sừng thỏ, từ phương tiện sinh ra, vốn không nay có, có rồi trở lại không, thì phải biết người đó bài báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu có người nói, Phật tánh của chúng sinh chẳng phải có như hư không, chẳng phải không như sừng thỏ. Vì sao? Vì hư không thì thường, sừng thỏ thì không có. Vậy nên nói, cũng có cũng không. Nếu có thì nên phá sừng thỏ, còn không thì nên phá hư không. Người nói như vậy thì chẳng bài báng Tam bảo.

Này thiện nam! Luận về Phật tánh thì chẳng gọi là một pháp, chẳng gọi là mười pháp, chẳng gọi là trăm pháp, chẳng gọi là ngàn pháp, chẳng gọi là vạn pháp. Khi chưa đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì tất cả thiện, bất thiện, vô ký đều gọi là Phật tánh. Như Lai, hoặc khi trong nhân nói quả, trong quả nói nhân. Đó gọi là lời nói tùy ý của Như Lai. Vì lời nói tùy ý nên gọi là Như Lai, lời nói tùy ý nên gọi là A-la-ha, lời nói tùy ý nên gọi là Tam-miệu-tam-phật-đà.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, Phật tánh của chúng sinh giống như hư không, thì sao gọi là như hư không?

–Này thiện nam! Tánh của hư không chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Phật tánh cũng vậy.

Này thiện nam! Hư không chẳng phải quá khứ. Vì sao? Vì không có hiện tại. Nếu có pháp hiện tại thì có thể nói quá khứ. Nhưng do không có hiện tại nên không có quá khứ, cũng không có hiện tại. Vì sao? Vì không có vị lai. Nếu có pháp vị lai thì có thể nói hiện tại. Nhưng do không có vị lai nên không có hiện tại, cũng không có vị lai. Vì sao? Vì không có hiện tại và quá khứ. Nếu có hiện tại, quá khứ thì có vị lai, nhưng do không có hiện tại, quá khứ nên không có vị lai. Do nghĩa này nên tánh của hư không chẳng phải thuộc về ba đời.

Này thiện nam! Do hư không không có nên không có ba đời, chẳng phải là có nên không có ba đời. Như hoa hư không chẳng phải là có nên không có ba đời. Hư không cũng vậy, chẳng phải là có nên không có ba đời.

Này thiện nam! Không có vật tức là hư không, Phật tánh cũng vậy.

Này thiện nam! Hư không không có nên chẳng phải thuộc về ba đời. Phật tánh thường nên chẳng phải thuộc về ba đời.

Này thiện nam! Như Lai đã đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên Phật tánh và tất cả pháp Phật của Như Lai thường trụ không biến đổi. Do nghĩa này nên không có ba đời giống như hư không.

Này thiện nam! Hư không không có nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài, Phật tánh thường nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên nói Phật tánh giống như hư không.

Này thiện nam! Như trong thế gian, không chỗ ngăn ngại gọi là hư không. Như Lai đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi thì đối với tất cả pháp không có ngăn ngại nên nói, Phật tánh giống như hư không. Do nhân duyên này Ta nói, Phật tánh giống như hư không.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai, Phật tánh, Niết-bàn chẳng phải thuộc về ba đời mà gọi là hữu. Hư không cũng chẳng phải thuộc về ba đời mà vì sao chẳng được gọi là hữu?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Vì chẳng phải Niết-bàn gọi là Niết-bàn. Vì chẳng phải Như Lai gọi là Như Lai. Vì chẳng phải Phật tánh gọi là Phật tánh. Sao gọi là chẳng phải Niết-bàn? Đó là tất cả pháp hữu vi phiền não. Vì phá phiền não hữu vi như vậy nên gọi là Niết-bàn. Chẳng phải Như Lai là gọi từ hàng Nhất-xiển-đề đến Phật-bích-chi. Vì phá Nhất-xiển-đề đến Phật-bích-chi như vậy nên gọi là Như Lai. Chẳng phải Phật tánh là, gọi tất cả những vật vô tình như tường vách, sành, đá v.v… Lìa những vật vô tình như vậy thì đó gọi là Phật tánh. Này thiện nam! Tất cả thế gian đều tiếp xúc với hư không, ở trong hư không.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế gian cũng đều tiếp xúc với bốn đại mà vẫn gọi bốn đại là có, nhưng vì sao tiếp xúc với hư không mà chẳng gọi là có?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Nếu nói Niết-bàn chẳng phải thuộc về ba đời mà hư không cũng vậy thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao? Vì Niết-bàn là có, có thể thấy, có thể chứng, là sắc với đủ dấu vết, chương cú, là có, là tướng, là duyên, là chỗ quy y, là ánh sáng tịch tĩnh, là bờ bên kia yên ổn, sáng trong, vắng lặng. Vậy nên được gọi là chẳng phải thuộc về ba đời. Còn tánh của hư không là không có những pháp như vậy, nên gọi là không. Nếu có cái xa lìa những pháp như vậy mà lại có pháp thì nên thuộc về ba đời. Hư không nếu đồng với pháp có này thì chẳng thể chẳng phải thuộc về ba đời.

Này thiện nam! Như người đời nói, hư không là không sắc, không đối, chẳng thể nhìn thấy. Nếu không sắc, không đối, chẳng thể nhìn thấy thì tức là tâm sở pháp. Hư không nếu đồng với tâm sở pháp thì chẳng thể chẳng thuộc về ba đời. Vì nếu thuộc về ba đời thì là bốn ấm. Vậy nên lìa khỏi bốn ấm rồi thì không có hư không.

Lại nữa, này thiện nam! Các ngoại đạo nói, hư không tức là ánh sáng. Nếu là ánh sáng thì là sắc pháp. Hư không nếu là sắc pháp thì là vô thường. Đã là vô thường thì thuộc về ba đời, vậy làm sao ngoại đạo nói là chẳng phải ba đời? Nếu thuộc về ba đời thì chẳng phải hư không, cũng có thể nói, hư không là thường.

Này thiện nam! Lại có người nói, hư không tức là trụ xứ. Hư không nếu có trụ xứ tức slà sắc pháp, mà tất cả chỗ trụ đều là vô thường thuộc về ba đời. Hư không cũng thường, chẳng phải thuộc về ba đời. Nếu nói có chỗ thì biết là không có hư không. Lại có người nói, hư không tức là thứ lớp. Nếu là thứ lớp tức là pháp sổ. Nếu là có thể tính đếm tức là thuộc về ba đời. Nếu thuộc về ba đời thì làm sao nói là thường?

Này thiện nam! Nếu lại nói hư không chẳng lìa khỏi ba pháp: Một là không, hai là thật, ba là không thật. Nếu nói không là đúng thì phải biết hư không là pháp vô thường. Vì sao? Vì không có chỗ thật. Nếu nói là thật đúng thì phải biết hư không cũng là vô thường. Vì sao? Vì chỗ không là không. Nếu không, thật thì phải biết hư không cũng là vô thường. Vì sao? Vì cả hai chỗ là không. Vậy nên gọi hư không là vô vi.

Này thiện nam! Như nói, hư không là pháp có thể tạo tác. Như nói bỏ cây cối, bỏ nhà cửa làm cho trống không, làm bằng phẳng trống không, che phủ hư không, vọt lên hư không, vẽ màu sắc hư không như nước biển cả. Vậy nên hư không là pháp có tạo tác. Tất cả pháp tạo tác đều là vô thường, giống như chiếc bình gốm. Hư không nếu vậy thì nên là vô thường.

Này thiện nam! Người thế gian nói, chỗ không ngăn ngại trong tất cả pháp gọi là hư không. Chỗ không ngăn ngại này đối với tất cả chỗ là có đầy đủ hay là có từng phần? Nếu có đầy đủ thì phải biết chỗ còn lại không có hư không. Nếu có từng phần thì là pháp đó, đây có thể tính đếm. Nếu là có thể tính đếm thì phải biết là vô thường.

Này thiện nam! Nếu có người nói, hư không, không ngăn ngại cùng với có, hòa hợp. Lại có người nói, hư không ở tại sự vật như trái cây ở trong đồ đựng. Cả hai đều chẳng đúng. Vì sao? Vì nếu nói cùng hòa hợp thì có ba thứ: Một là khác nghiệp hợp như loài chim bay tập họp trên cây. Hai là cộng nghiệp hợp như hai con dê tiếp xúc nhau. Ba là đã hợp rồi cùng hợp như hai ngón tay hợp ở một chỗ. Nếu nói, khác nghiệp hợp chung mà khác thì có hai, một là nghiệp của vật, hai là nghiệp của hư không. Nếu nghiệp không hợp với vật thì không là vô thường. Nếu nghiệp vật hợp với không thì vật là bất biến, bất biến ấy cũng là vô thường. Nhưng nếu nói hư không là thường mà tánh hư không ấy chẳng động, cùng với vật động hợp thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao? Vì hư không nếu thường thì vật cũng nên thường. Vật nếu không thường thì hư không cũng không thường. Nếu nói hư không cũng thường cũng vô thường thì đó là điều không có. Nếu cộng nghiệp hợp thì nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì hư không gọi là cùng khắp nên nếu cùng nghiệp hợp thì nghiệp cũng nên cùng khắp. Nếu nghiệp này cùng khắp thì tất cả nên cùng khắp. Nếu tất cả cùng khắp thì tất cả nên hợp, chẳng nên nói có hợp cùng chẳng hợp. Nếu nói đã hợp cùng với hợp như hai ngón hợp thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao? Vì trước không có hợp về sau mới hợp. Trước không, sau có là pháp vô thường. Vậy nên chẳng thể nói, hư không đã hợp rồi cùng hợp như pháp thế gian trước không sau có là vật vô thường. Hư không nếu vậy thì cũng nên vô thường. Nếu nói hư không ở tại sự vật như trái cây ở trong đồ đựng thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao? Vì như vậy thì hư không trước lúc không đồ chứa, ở đâu? Nếu có chỗ trụ thì có nhiều hư không. Như hư không ấy nhiều thì làm sao nói là thường, là một, là cùng khắp? Nếu giả sử hư không lìa khỏi không mà có chỗ trụ thì vật cũng nên lìa khỏi hư không mà trụ. Vậy nên biết là không có hư không. Này thiện nam! Nếu có người nói, chỗ trụ của ngón tay gọi là hư không thì phải biết hư không là pháp vô thường. Vì sao? Vì ngón tay có bốn phương. Nếu có bốn phương thì phải biết hư không cũng có bốn phương. Nhưng tất cả pháp thường đều không địa phương xứ sở, do có phương sở nên hư không vô thường. Nếu là vô thường thì chẳng lìa khỏi năm ấm, mà lìa khỏi năm ấm là không có gì.

Này thiện nam! Có pháp, nếu từ nhân duyên trụ thì phải biết pháp đó gọi là vô thường.

Này thiện nam! Ví như tất cả chúng sinh, cây cối, nhờ đất mà trụ, mà đất vô thường nên những vật nhờ ở đất theo thứ lớp cũng vô thường.

Này thiện nam! Như đất nương vào nước mà nước vô thường nên đất cũng vô thường. Như nước nương vào gió mà gió vô thường nên nước cũng vô thường. Gió nương hư không mà hư không vô thường nên gió cũng vô thường. Nếu vô thường thì làm sao nói, hư không là thường, cùng khắp tất cả chỗ? Vì hư không là không nên chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng như sừng thỏ là vật không có nên chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai. Vậy nên Ta nói, Phật tánh là thường nên chẳng phải thuộc về ba đời. Hư không là không nên chẳng phải thuộc về ba đời.

Này thiện nam! Ta nhất định chẳng cùng thế gian tranh cãi. Vì sao? Vì người trí thế gian nói có, Ta cũng nói có, người trí thế gian nói không, Ta cũng nói không. Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đầy đủ bao nhiêu pháp để chẳng cùng với đời tranh cãi, chẳng bị thế pháp làm ô nhiễm?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp thì chẳng cùng với đời tranh cãi và chẳng bị thế pháp làm ô nhiễm. Những gì là mười? Một là tín tâm, hai là có giới, ba là thân cận bạn lành, bốn là bên trong giỏi tư duy, năm là đầy đủ tinh tấn, sáu là đầy đủ chánh niệm, bảy là đầy đủ trí tuệ, tám là đầy đủ chánh ngữ, chín là ưa thích chánh pháp, mười là thương xót chúng sinh.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ mười pháp như vậy thì chẳng cùng với đời tranh cãi, chẳng bị thế pháp làm ô nhiễm, như hoa Ưu-bát-la.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, người trí ở đời nói có, Ta cũng nói có, người trí ở đời nói không, Ta cũng nói không, thì những gì mà người trí ở đời gọi là có, không?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Người trí ở đời nếu nói sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã cho đến thức cũng như vậy thì, này thiện nam! Đó gọi là người trí ở đời nói có, Ta cũng nói có.

Này thiện nam! Người trí ở đời nói sắc không có thường, lạc, ngã, tịnh và thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy thì, này thiện nam! Đó gọi là người trí ở đời nói không, Ta cũng nói không.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người trí thế gian tức là Phật, Bồ-tát, tất cả Thánh nhân. Nếu sắc của các Thánh nhân là vô thường, khổ, không, vô ngã thì sao Như Lai nói sắc thân của Phật thường hằng không biến đổi? Người trí thế gian đã nói là không có pháp, sao Như Lai lại nói là có? Như Lai đã nói như thế, tại sao lại nói là không cùng thế gian tranh cãi, không bị thế pháp làm nhiễm ô? Như Lai đã lìa ba thứ điên đảo là tưởng đảo, tâm đảo và kiến đảo thì đáng lẽ nói sắc thân Phật thật là vô thường, nhưng nay nói thường thì sao được gọi là xa lìa điên đảo, chẳng cùng với đời tranh cãi?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Sắc của phàm phu từ phiền não sinh ra. Vậy nên kẻ trí nói sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã. Sắc của Như Lai thì xa lìa phiền não. Vậy nên nói là thường hằng, không biến đổi.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là sắc từ phiền não sinh?

–Này thiện nam! Phiền não có ba thứ là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Kẻ trí phải nên quan sát tội lỗi của ba lậu này. Vì sao? Vì biết tội lỗi rồi có thể xa lìa. Ví như thầy thuốc trước xem mạch bệnh nhân, biết bệnh tại đâu, rồi sau đó mới trao cho thuốc.

Này thiện nam! Như có người đem người mù đến trong rừng gai rồi bỏ đó trở về. Người mù về sau rất khó ra khỏi được mà giả sử có ra khỏi được thì thân thể cũng rách nát hết. Phàm phu thế gian cũng như vậy, chẳng thể thấy biết tội lỗi của ba lậu nên chạy đuổi theo. Như người thấy được tội lỗi ấy thì có thể xa lìa. Biết tội lỗi rồi thì tuy có thọ quả báo nhưng là quả báo nhỏ, nhẹ.

Này thiện nam! Có bốn hạng người: Một là khi tạo nghiệp thì nặng, khi thọ báo thì nhẹ. Hai là khi tạo nghiệp thì nhẹ, khi thọ báo thì nặng. Ba là khi tạo nghiệp thì nặng, khi thọ báo cũng nặng. Bốn là khi tạo nghiệp thì nhẹ, khi thọ báo cũng nhẹ.

Này thiện nam! Nếu người có thể quan sát tội lỗi của phiền não thì người này tạo nghiệp, thọ quả đều nhẹ.

Này thiện nam! Người có trí có ý nghĩ như vầy: “Ta nên xa lìa các lậu như vậy. Lại nữa, chẳng nên làm những việc xấu xa thô bỉ như vậy. Vì sao? Vì Ta nay chưa được giải thoát khỏi quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, trời. Ta nếu tu đạo thì sẽ nhờ cái lực đó mà phá hoại các khổ”. Người này quan sát rồi thì tham dục, sân hận, ngu si nhỏ yếu dần đi. Đã thấy tham dục, sân hận, ngu si nhẹ rồi thì lòng người ấy vui mừng mà khởi ý nghĩ này: “Ta nay như vậy đều do lực nhân duyên tu đạo nên khiến cho ta đươc lìa khỏi pháp bất thiện, gần gũi pháp thiện. Vậy nên hiện tại được thấy chánh đạo thì cần phải siêng năng tu tập đạo thêm lên”. Người này nhân sức siêng tu đạo đó mà xa lìa vô lượng những phiền não ác và lìa khỏi quả báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người. Vậy nên ở trong khế kinh Ta nói, phải quan sát tất cả phiền não hữu lậu và nhân của hữu lậu. Vì sao? Vì người có trí nếu chỉ quan sát lậu, chẳng quan sát nhân của lậu thì chẳng thể cắt đứt các phiền não. Vì sao? Vì kẻ trí quan sát: “Lậu từ nhân này sinh ra, Ta nay cắt đứt nhân thì lậu chẳng sinh ra”.

Này thiện nam! Như vị thầy thuốc kia, trước cắt đứt nhân của bệnh thì bệnh chẳng sinh ra. Kẻ trí, trước cắt đứt nhân của phiền não thì cũng như vậy. Người có trí trước phải quan sát nhân, tiếp đến quan sát quả báo, biết từ nhân thiện sinh ra quả thiện, biết từ nhân ác sinh ra quả ác, quan sát quả báo rồi xa lìa nhân ác. Quan sát quả báo rồi lại phải tiếp đến quan sát sự nặng nhẹ của phiền não. Quan sát được nặng nhẹ rồi thì trước lìa khỏi phiền não nặng. Đã lìa khỏi phiền não nặng rồi thì phiền não nhẹ tự tiêu mất.

Này thiện nam! Người trí nếu biết phiền não, nhân của phiền não, quả của phiền não, phiền não nặng nhẹ thì người này lúc ấy, tinh cần tu đạo chẳng dừng chẳng hối, gần gũi bạn lành, hết lòng nghe pháp vì diệt các phiền não như vậy.

Này thiện nam! Ví như người bệnh tự biết bệnh nhẹ thì nhất định có thể trừ khỏi, tuy uống thuốc đắng nhưng uống vào chẳng hối. Người có trí cũng như vậy, siêng tu Thánh đạo, hoan hỷ, chẳng buồn, chẳng dừng chẳng hối.

Này thiện nam! Nếu người có thể biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, phiền não nhẹ nặng mà vì trừ phiền não nên siêng tu Thánh đạo thì người này chẳng từ phiền não sinh ra sắc và thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Nếu người chẳng thể biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, phiền não nặng nhẹ nên chẳng siêng tu tập Thánh đạo thì người đó từ phiền não sinh ra sắc và thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.

Này thiện nam! Người biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, phiền não nặng nhẹ rồi vì cắt đứt phiền não mà tu hành Thánh đạo tức là Như Lai. Do nhân duyên này nên sắc của Như Lai thường cho đến thức thường.

Này thiện nam! Kẻ chẳng biết phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não và phiền não nặng nhẹ, chẳng tu tập đạo tức là phàm phu. Vậy nên sắc của phàm phu vô thường và thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.

Này thiện nam! Người trí của thế gian, tất cả Thánh nhân, Bồ-tát, chư Phật nói hai nghĩa này. Ta cũng như vậy nói hai nghĩa này. Vậy nên Ta nói, chẳng cùng với người trí của thế gian tranh cãi, chẳng bị thế pháp làm ô nhiễm.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, có ba thứ lậu thì sao gọi là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Dục lậu là giác quán ác bên trong nhân duyên bên ngoài mà sinh ra dục lậu. Vậy nên thuở trước, Ta ở tại thành Vương-xá, bảo Tôn giả A-nan: “Này Tôn giả A-nan! Ông nay hãy nhận bài kệ tụng của người con gái này! Bài kệ này chính là lời tuyên thuyết của chư Phật đời quá khứ”. Vậy nên tất cả giác quán ác bên trong và các nhân duyên bên ngoài gọi là dục. Đó gọi là dục lậu. Hữu lậu là, các pháp ác bên trong và các nhân duyên bên ngoài của Sắc giới và Vô sắc giới trừ các nhân duyên bên ngoài và các giác quán bên trong của Dục giới. Đó gọi là hữu lậu. Vô minh lậu là, chẳng thể rõ biết ngã và ngã sở, chẳng phân biệt trong ngoài thì gọi là vô minh lậu.

Này thiện nam! Vô minh tức là căn bản của tất cả các lậu. Vì sao? Vì nhân vô minh của tất cả chúng sinh duyên với ấm, giới, nhập nhớ tưởng, khởi tướng gọi là chúng sinh. Đó gọi là tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo. Do nhân duyên này sinh ra tất cả lậu. Vậy nên ở mười hai bộ loại kinh văn, Ta nói, vô minh tức là nhân của tham, nhân của sân, nhân của si.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai thuở trước ở trong Mười hai bộ loại kinh văn có nói: “Chẳng khéo suy nghĩ nhân duyên sinh ra tham, sân, si”. Vì nhân duyên gì đến nay nói là vô minh?

–Này thiện nam! Hai pháp như vậy giúp nhau làm nhân quả, giúp nhau tăng trưởng: Tư duy bất thiện sinh ra vô minh, nhân duyên vô minh sinh ra tư duy bất thiện.

Này thiện nam! Những điều ấy có thể sinh trưởng các phiền não nên đều gọi là nhân duyên của phiền não. Thân cận nhân duyên phiền não như vậy thì gọi là vô minh, tư duy bất thiện. Như hạt sinh ra mầm thì hạt là nhân gần, bốn đại là nhân xa, phiền não cũng vậy.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, vô minh tức là lậu, thì sao lại nói, nhân vô minh nên sinh ra các lậu?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Như lời Ta nói, vô minh lậu tức là nội vô minh. Do vô minh sinh ra các lậu thì đó là nhân nội ngoại. Nếu nói vô minh lậu là gọi sự điên đảo ở bên trong, thì chẳng nhận thức được vô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu nói tất cả phiền não là nhân duyên thì đó gọi là chẳng biết ngã và ngã sở bên ngoài. Nếu nói vô minh lậu là vô thỉ vô chung, thì từ vô minh sinh ra ấm, giới, nhập.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, người có trí biết được nhân của lậu, thì sao gọi là biết được nhân của lậu?

–Này thiện nam! Người trí phải quan sát, vì nhân duyên gì mà sinh ra phiền não này? Làm việc gì mà sinh ra phiền não? Vào lúc nào mà sinh ra phiền não? Khi ở chung với ai mà sinh ra phiền não? Ở đâu mà sinh ra phiền não? Quan sát việc gì rồi sinh ra phiền não? Thọ nhận phòng nhà, ngọa cụ, ẩm thực, y phục, thuốc thang của ai mà sinh ra phiền não? Vì nhân duyên gì nên chuyển từ hạ lên trung, chuyển từ trung lên thượng, từ hạ nghiệp lên trung, từ trung nghiệp lên thượng? Khi Đại Bồ-tát khởi sự quan sát này thì được xa lìa nhân duyên sinh ra lậu. Khi quan sát như vậy phiền não chưa sinh thì ngăn chận khiến cho chẳng sinh, phiền não đã sinh thì liền trừ diệt. Vậy nên ở trong khế kinh, Ta nói, kẻ trí phải quan sát nhân sinh ra phiền não.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Thưa Thế Tôn! Chúng sinh có một thân thì làm sao có thể khởi đủ thứ phiền não?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Như trong một đồ vật đựng đủ thứ hạt, khi gặp được nước mưa rồi thì loại nào cũng đều tự mọc lên. Chúng sinh cũng vậy, đồ chứa tuy là một, nhưng do nhân duyên ái mà có thể sinh trưởng đủ thứ phiền não.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Kẻ trí làm sao quan sát được quả báo?

–Này thiện nam! Người trí phải quan sát: Các nhân duyên của lậu có thể sinh ra địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; nhân duyên của lậu này được thân người, trời tức là vô thường, khổ, không, vô ngã; trong đồ chứa thân này có ba thứ khổ, ba thư vô thường; nhân duyên của lậu này có thể khiến cho chúng sinh tạo tác tội ngũ nghịch, thọ các báo ác, có thể cắt đứt căn lành, phạm bốn trọng cấm, bài báng Tam bảo. Người trí phải quan sát: Ta đã thọ được thân như vậy thì chẳng nên sinh khởi những phiền não như vậy mà bị thọ các quả ác.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Có quả vô lậu. Thế Tôn lại nói, kẻ trí đoạn trừ các quả báo thì quả vô lậu có ở trong sự đoạn trừ này không? Những người đắc đạo có quả vô lậu, cũng như kẻ trí ấy cầu quả vô lậu thì sao Đức Phật nói, tất cả kẻ trí nên đoạn trừ quả báo? Nếu người ấy đoạn thì các Thánh nhân hôm nay làm sao có được?

–Này thiện nam! Như Lai, hoặc khi trong nhân nói quả, trong quả nói nhân. Như người thế gian nói, bùn tức là bình, lụa tức là áo. Đó gọi là trong nhân nói quả. Trong quả nói nhân thì như con bò tức là nước cỏ, người tức là thức ăn. Ta cũng như vậy, trong nhân nói quả. Ở trước, trong kinh đã nói: “Ta do tâm thân đi đến biên giới của Phạm thiên”. Đó gọi là trong nhân nói quả. Trong quả nói nhân thì như lục nhập này gọi là nghiệp quá khứ. Đó gọi là trong quả nói nhân.

Này thiện nam! Tất cả Thánh nhân chân thật không có quả báo vô lậu. Quả báo tu đạo của tất cả Thánh nhân lại chẳng sinh ra lậu. Vậy nên gọi là quả báo vô lậu.

Này thiện nam! Người có trí khi quan sát như vậy thì quả báo phiền não liền được tiêu diệt vĩnh viễn. Này thiện nam! Người trí quan sát rồi, vì đoạn trừ quả báo phiền não như vậy nên tu tập Thánh đạo. Thánh đạo tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tu đạo này rồi có thể diệt quả báo của tất cả phiền não.

*********

 

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh đều từ phiền não mà bị quả báo. Nói phiền não tức cái ác. Phiền não từ phiền não ác sinh ra cũng gọi là ác. Phiền não như thế có hai thứ: Một là nhân, hai là quả. Nhân ác nên quả ác, quả ác nên chủng tử ác. Như trái cây Nhiệm-bà, hạt của nó đắng nên hoa trái, thân, lá v.v… tất cả đều đắng. Giống như cây độc thì hạt của nó độc nên trái cũng độc. Nhân cũng chúng sinh, quả cũng chúng sinh, nhân cũng phiền não, quả cũng phiền não, nhân quả phiền não tức là chúng sinh, chúng sinh tức là nhân quả phiền não. Nếu theo nghĩa này thì sao Như Lai trước đây dụ rằng, núi Tuyết có cỏ độc, cũng có cây thuốc vi diệu? Nếu nói, phiền não tức là chúng sinh, chúng sinh tức là phiền não thì sao nói trong thân chúng sinh có thuốc vi diệu?

Đức Phật dạy:

–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Có vô lượng chúng sinh đều đồng với sự nghi ngờ này. Ông nay có thể vì họ trình bày và thỉnh cầu giảng giải. Ta cũng có thể cắt đứt sự nghi ngờ ấy. Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Hãy suy nghĩ kỹ càng. Ta nay sẽ vì ông phân biệt giảng nói. Này thiện nam! Dụ núi Tuyết tức là chúng sinh. Nói cỏ độc tức là phiền não. Thuốc vi diệu tức là phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh có thể tu phạm hạnh thanh tịnh như vậy thì đó gọi là trong thân có thuốc vi diệu.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là chúng sinh có phạm hạnh thanh tịnh?

–Này thiện nam! Giống như thế gian, từ hạt sinh ra quả và quả này có thứ có thể cho hạt làm nhân hay có quả chẳng thể cho. Có thứ có thể cho hạt làm nhân thì đó là hạt của quả. Nếu trái chẳng thể cho hạt làm nhân thì chỉ được gọi là quả chẳng được gọi là hạt. Tất cả chúng sinh cũng như vậy, đều có hai thứ: Một là có quả phiền não là nhân của phiền não. Hai là có quả phiền não chẳng phải nhân của phiền não. Quả phiền não này chẳng phải nhân của phiền não thì đó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.

Này thiện nam! Chúng sinh quan sát thọ biết được nhân gần của tất cả phiền não gọi chung là nội ngoại phiền não. Vì thọ nhân duyên nên chẳng thể đoạn tuyệt tất cả các phiền não, cũng chẳng thể ra khỏi ngục tù ba cõi. Chúng sinh nhân thọ mà chấp trước ngã và ngã sở rồi sinh ra tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Vậy nên chúng sinh trước phải quan sát thọ. Thọ như thế là vì tất cả ái mà tạo tác nhân gần. Vậy nên kẻ trí muốn đoạn tuyệt ái thì trước phải quan sát thọ.

Này thiện nam! Việc làm thiện ác của mười hai nhân duyên của tất cả chúng sinh đều nhân lúc thọ. Vậy nên Ta vì A-nan nói: “Này Tôn giả A-nan! Việc làm thiện ác của tất cả chúng sinh đều là do khi thọ”. Vậy nên kẻ trí trước phải quan sát thọ. Đã quan sát thọ rồi lại phải quan sát lại thọ như vậy là do nhân duyên nào sinh ra? Nếu có nhân duyên sinh ra thì nhân duyên như vậy lại từ đâu sinh ra? Nếu không nhân sinh ra thì vì sao chẳng sinh ra không thọ? Lại quan sát thọ này chẳng nhân trời Tự Tại sinh, chẳng nhân sĩ phu sinh, chẳng nhân vi trần sinh, chẳng phải thời tiết sinh, chẳng nhân tưởng sinh, chẳng nhân tánh sinh, chẳng từ tự sinh, chẳng từ người khác sinh, chẳng phải mình và người khác sinh, chẳng phải không nhân sinh. Thọ này đều từ duyên hợp mà sinh ra. Nhân duyên tức là ái. Trong sự hòa hợp này chẳng phải có thọ, chẳng phải không thọ. Vậy nên Ta phải cắt đứt sự hòa hợp này. Cắt đứt sự hòa hợp thì chẳng sinh ra thọ.

Này thiện nam! Người trí đã quan sát nhân rồi thì tiếp đến quan sát quả báo. Chúng sinh nhân thọ mà thọ vô lượng khổ não của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh cho đến ba cõi. Do nhân duyên thọ nên thọ niềm vui vô thường, do nhân duyên thọ nên cắt đứt căn lành, do nhân duyên thọ nên chứng được giải thoát. Khi khởi sự quan sát này thì chẳng tạo tác nhân của thọ. Sao gọi là chẳng tạo tác nhân của thọ? Nghĩa là phân biệt thọ: những thọ nào có thể làm nhân của ái? Những ái nào có thể làm nhân của thọ?

Này thiện nam! Chúng sinh nếu có thể quan sát sâu như vậy về nhân của ái và nhân của thọ thì liền có thể đoạn tuyệt ngã và ngã sở.

Này thiện nam! Nếu người có thể khởi những quan sát như vậy thì nên phân biệt ái cùng thọ diệt tại chỗ nào? Rồi liền thấy ái thọ có chỗ diệt ít thì cũng nên biết có rốt ráo diệt. Bấy giờ liền đối với giải thoát sinh lòng tin. Sinh lòng tin rồi thì biết chỗ giải thoát này do đâu mà được? Biết là từ tám chánh đạo thì liền tu tập. Sao gọi là tám chánh đạo? Đạo này quan sát thọ có ba thứ tướng: Một là khổ, hai là lạc, ba là chẳng khổ chẳng lạc. Ba thứ như vậy đều có thể tăng trưởng thân cùng với tâm. Vì nhân duyên gì có thể tăng trưởng? Nhân duyên xúc. Xúc này có ba thứ: Một là vô minh xúc, hai là minh xúc, ba là chẳng phải minh và vô minh xúc. Nói minh xúc tức là tám chánh đạo. Hai xúc còn lại ấy tăng trưởng thân tâm và ba thứ thọ. Vậy Ta nên đoạn tuyệt nhân duyên của hai xúc. Xúc đã cắt đứt thì chẳng sinh ra ba thọ.

Này thiện nam! Như vậy thọ cũng là nhân. cũng gọi là quả. Người trí phải quan sát vừa là nhân, vừa là quả. Sao gọi là nhân? Nhân thọ mà sinh ra ái thì gọi là nhân. Sao gọi là quả? Nhân nơi xúc mà sinh ra nên gọi đó là quả. Vậy nên thọ này cũng là nhân, cũng là quả. Người trí quán thọ như vậy rồi, tiếp đến lại quan sát việc thọ quả báo của ái đó gọi là ái. Người trí quan sát ái lại có hai thứ: Một là tạp thực, hai là vô thực. Tạp thực ái là nhân sinh ra già bệnh chết và tất cả các hữu. Vô thực ái là đoạn tuyệt sinh, già, bệnh, chết và tất cả các hữu, tham đạo vô lậu. Người trí lại phải khởi ý niệm như vầy: “Nếu ta sinh ra ái tạp thực này thì chẳng thể đoạn tuyệt sinh, già, bệnh, chết. Ta nay tuy tham đạo vô lậu nhưng chẳng đoạn nhân của thọ thì chẳng thể được đạo quả vô lậu. Vậy nên trước cần phải đoạn trừ xúc này. Xúc đã đoạn rồi thì thọ tự diệt. Thọ đã diệt rồi thì ái cũng diệt theo”. Đó gọi là tám chánh đạo.

Này thiện nam! Nếu có chúng sinh có thể quan sát như vậy thì tuy có thân độc nhưng trong thân ấy cũng có thuốc vi diệu, như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.

Này thiện nam! Như vậy chúng sinh tuy từ phiền não mà được quả báo, nhưng quả báo này chẳng phải phiền não làm nhân, nên gọi là phạm hạnh thanh tịnh.

Lại nữa, này thiện nam! Người trí phải quan sát hai thứ thọ, ái do nhân duyên gì sinh ra? Biết là nhân tưởng sinh ra. Vì sao? Vì chúng sinh thấy sắc cũng chẳng sinh tham và khi quan sát thọ cũng chẳng sinh ra tham. Nếu đối với sắc sinh ra tưởng điên đảo, thì gọi sắc là thường, lạc, ngã, tịnh; thọ là thường hằng không có biến đổi. Nhân tưởng điên đảo này sinh ra tham, sân, si. Vậy nên người trí cần phải quan sát tưởng. Quan sát tưởng như thế nào? Phải khởi ý niệm này: “Tất cả chúng sinh chưa được chánh đạo đều có tưởng điên đảo. Tưởng điên đảo là thế nào? Là đối với cái chẳng phải thường sinh ra tưởng thường, đối với cái chẳng vui sinh ra tưởng vui, đối với cái chẳng phải tịnh sinh ra tưởng tịnh, đối với pháp không sinh ra tưởng ngã, đối với cái chẳng phải trai gái, lớn nhỏ, ngày đêm, năm tháng, y phục, phòng xá, ngọa cụ mà sinh tưởng là nam nữ cho đến ngọa cụ. Tưởng này có ba thứ, một là nhỏ, hai là lớn, ba là vô lượng. Nhân duyên nhỏ nên sinh ra tưởng nhỏ, nhân duyên lớn nên sinh ra tưởng lớn, nhân duyên vô lượng nên sinh ra tưởng vô lượng. Lại có tưởng nhỏ gọi là chưa vào định. Lại có tưởng lớn gọi là đã vào định. Lại có tưởng vô lượng gọi là thập nhất thiết nhập. Lại có tưởng nhỏ là gọi tất cả tưởng của Dục giới. Lại có tưởng lớn là gọi tất cả tưởng của Sắc giới. Lại có tưởng vô lượng là gọi tất cả tưởng của Vô sắc giới. Ba tưởng diệt thì thọ tự diệt. Tưởng, thọ diệt thì gọi là giải thoát.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Diệt tất cả pháp gọi là giải thoát, Như Lai tại sao nói tưởng, thọ diệt gọi là giải thoát?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Như Lai, hoặc khi nhân chúng sinh mà nói pháp, người nghe hiểu được pháp, hoặc khi nhân pháp mà nói chúng sinh, người nghe cũng hiểu nói cho chúng sinh. Sao gọi là nhân chúng sinh mà nói người nghe hiểu pháp? Như Ta trước vì Tôn giả Ca-diếp nói: “Này Tôn giả Ca-diếp! Khi chúng sinh diệt thì pháp thiện diệt”. Đó gọi là nhân chúng sinh mà nói, người nghe hiểu pháp. Sao gọi là nhân pháp nói chúng sinh mà người nghe cũng hiểu là nói chúng sinh? Như Ta trước vì Tôn giả A-nan nói: “Này Tôn giả A-nan! Ta cũng chẳng nói thân cận tất cả pháp, cũng lại chẳng nói chẳng thân cận tất cả pháp. Nếu pháp thân cận rồi mà pháp thiện suy yếu, pháp bất thiện tăng trưởng thì pháp như vậy chẳng nên thân cận. Nếu thân cận pháp rồi mà pháp bất thiện suy yếu, pháp thiện tăng trưởng thì pháp như vậy nên thân cận”. Đó gọi là nhân pháp nói chúng sinh mà người nghe cũng hiểu là nói chúng sinh.

Này thiện nam! Như Lai tuy nói tưởng, thọ cả hai diệt, nhưng đã nói thâu tóm tất cả có thể đoạn trừ. Người trí đã quan sát tưởng như vậy rồi tiếp đến quan sát nhân của tưởng. Vô lượng tưởng này nhân đâu mà sinh ra? Biết là nhân xúc sinh ra. Xúc này có hai thứ: Một là xúc nhân phiền não, hai là xúc nhân giải thoát. Nhân vô minh sinh ra gọi là xúc phiền não. Nhân minh sinh ra gọi là xúc giải thoát. Nhân xúc phiền não sinh ra tưởng điên đảo. Nhân xúc giải thoát sinh ra tưởng bất điên đảo. Quan sát nhân của tưởng rồi, tiếp đến quan sát quả báo.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu do nhân tưởng phiền não này mà sinh ra tưởng điên đảo thì tất cả Thánh nhân thật có tưởng điên đảo mà không có phiền não, nghĩa này thế nào?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Thánh nhân có tưởng điên đảo như thế nào?

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả Thánh nhân đối với bò thì khởi tưởng bò và cũng nói là bò, với ngựa khởi tưởng là ngựa và cũng nói là ngựa, trai gái, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ, đi lại cũng vậy. Đó gọi là tưởng điên đảo.

Này thiện nam! Tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: Một là tưởng thế lưu hành, hai là tưởng chấp trước. Tất cả Thánh nhân chỉ có tưởng thế lưu hành mà không có tưởng chấp trước. Tất cả phàm phu do giác quán ác nên đối với tưởng thế lưu hành sinh ra tưởng chấp trước. Tất cả Thánh nhân do giác quán thiện nên đối với tưởng thế lưu hành chẳng sinh ra tưởng chấp trước. Vậy nên phàm phu gọi là tưởng điên đảo. Bậc Thánh nhân tuy biết nhưng chẳng gọi là tưởng điên đảo. Người trí quan sát nhân của tưởng như vậy rồi tiếp đến quan sát quả báo. Quả báo của tưởng ác này thọ nhận ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trời, người. Như Ta nhân cắt đứt giác quán ác nên vô minh xúc đoạn trừ, nên tưởng đoạn diệt. Nhân tưởng đoạn trừ nên quả báo cũng đoạn diệt. Kẻ trí vì đoạn trừ nhân của tưởng như vậy mà tu tám chánh đạo.

Này thiện nam! Nếu có thể khởi sự quan sát như vậy thì được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam! Đó là trong thân độc của chúng sinh có thuốc vi diệu, như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.

Lại nữa, này thiện nam! Người trí quan sát dục, mà dục tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Này thiện nam! Đó là trong nhân Như Lai nói quả, từ năm việc này sinh ra dục chứ thật chẳng phải dục.

Này thiện nam! Người ngu si tham cầu thọ dục đó, nên đối với sắc sinh tưởng điên đảo cho đến đối với xúc cũng sinh ra tưởng điên đảo. Nhân duyên tưởng điên đảo liền sinh ra tho. Vậy nên thế gian nói, nhân tưởng điên đảo sinh ra mười thứ tưởng. Nhân duyên dục nên ở tại thế gian thọ quả báo ác, đem điều ác gia hại cha mẹ, Sa-môn, Bà-lamôn v.v… Việc chẳng nên làm mà làm, chẳng tiếc thân mạng. Vậy nên kẻ trí quan sát biết nhân duyên tưởng ác này sinh ra tâm dục. Kẻ trí quan sát nhân của dục như vậy rồi tiếp đến quan sát quả báo. Dục này có nhiều quả báo ác như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, loài người, cõi trời. Đó gọi là quan sát quả báo. Nếu tưởng ác đó được trừ diệt thì nhất định chẳng sinh ra lòng dục này. Không có lòng dục nên chẳng thọ thọ ác. Không thọ ác thì không quả ác. Do vậy Ta nên trước đoạn trừ tưởng ác. Đoạn tưởng ác rồi thì những pháp như vậy tự nhiên tiêu diệt. Do vậy kẻ trí vì diệt tưởng ác nên tu tám chánh đạo. Đó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Đó gọi là trong thân độc của chúng sinh có diệu dược, như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.

Lại nữa, này thiện nam! Kẻ trí quan sát dục đó như vậy rồi tiếp đến phải quan sát nghiệp. Vì sao? Vì người có trí phải khởi ý niệm này: “Thọ, tưởng, xúc, dục tức là phiền não, mà phiền não này có thể tạo tác sinh nghiệp, chẳng tạo tác thọ nghiệp. Phiền não như vậy cùng đi với nghiệp thì có hai thứ: Một là tạo tác sinh nghiệp, hai là tạo tác thọ nghiệp. Vậy nên kẻ trí phải quan sát nghiệp. Nghiệp này có ba thứ là thân, miệng, ý.

Này thiện nam! Thân, miệng hai nghiệp cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là nghiệp quả, chỉ còn ý gọi là nghiệp, chẳng gọi là quả. Vì nhân duyên của nghiệp nên gọi là nghiệp. Này thiện nam! Hai nghiệp thân và miệng gọi là ngoại nghiệp. Nghiệp ý gọi là nội nghiệp. Ba thứ nghiệp này đi chung với phiền não nên tạo ra hai thứ nghiệp: Một là sinh nghiệp, hai là thọ nghiệp. Này thiện nam! Chính nghiệp tức là ý nghiệp. Kỳ nghiệp (nghiệp có kỳ hẹn) là nghiệp thân và miệng. Phát ra trước nên gọi là nghiệp ý. Từ nghiệp ý sinh ra gọi là nghiệp thân và miệng. Vậy nên nghiệp ý được gọi là chính. Kẻ trí quan sát nghiệp rồi tiếp đến quan sát nhân của nghiệp. Nhân của nghiệp tức là vô minh xúc. Nhân vô minh xúc mà chúng sinh cầu hữu, nhân duyên của cầu hữu tức là ái. Nhân duyên ái nên tạo tác ba thứ nghiệp thân, miệng, ý.

Này thiện nam! Kẻ trí quan sát nhân của nghiệp như vậy rồi, tiếp đến quan sát quả báo. Quả báo có bốn thứ: Một là đen thì quả báo đen, hai là trắng thì quả báo trắng, ba là tạp thì quả báo tạp, bốn là chẳng đen chẳng trắng thì quả báo chẳng đen chẳng trắng. Đen quả báo đen là, khi tạo tác nghiệp cấu bẩn thì quả báo cũng cấu bẩn. Trắng quả báo trắng là, khi tạo tác các nghiệp sạch thì quả báo cũng sạch. Tạp quả báo tạp là, khi tạo tác nghiệp tạp thì quả báo cũng tạp. Chẳng trắng chẳng đen quả báo cũng chẳng trắng chẳng đen là gọi nghiệp vô lậu.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trước nói vô lậu không có quả báo, nay sao nói có quả báo chẳng trắng chẳng đen?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Nghĩa này có hai: Một là vừa quả vừa báo, hai là chỉ là quả chẳng phải báo. Đen thì quả báo đen cũng gọi là quả, cũng gọi là báo. Nhân của đen sinh ra nên được gọi là quả, mà quả này có thể làm nhân nên lại gọi là báo. Tịnh, tạp cũng vậy. Quả vô lậu là, nhân hữu lậu sinh ra nên gọi là quả, mà chẳng làm nhân cho cái khác nên chẳng gọi là báo. Vậy nên gọi là quả mà chẳng gọi là báo.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nghiệp vô lậu này chẳng phải là hắc pháp thì vì nhân duyên gì chẳng gọi là bạch?

–Này thiện nam! Không có báo nên chẳng gọi là bạch. Đối trị với hắc nên gọi là bạch. Ta nay nói thọ quả báo thì gọi hắc là bạch. Nghiệp vô lậu này chẳng thọ báo nên chẳng gọi là bạch mà gọi là tịch tĩnh. Như vậy nghiệp là có quyết định chỗ thọ báo. Như mười pháp ác thì nhất định tại địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; mười nghiệp thiện thì nhất định tại người và trời. Mười pháp bất thiện có thượng, trung, hạ. Nhân duyên thượng nên thọ thân địa ngục. Nhân duyên trung nên thọ thân súc sinh. Nhân duyên hạ nên thọ thân ngạ quỷ. Nghiệp con người về mười thiện lại có bốn thứ: Một là hạ, hai là trung, ba là thượng, bốn là thượng thượng. Nhân duyên hạ nên sinh ra ở cõi Uất-đan-việt. Nhân duyên trung nên sinh ra ở cõi Phất-bà-đề. Nhân duyên thượng nên sinh ra ở cõi Cù-đà-ni. Nhân duyên thượng thượng nên sinh ra ở cõi Diêmphù-đề. Người có trí khởi sự quan sát này rồi liền khởi ý niệm này: “Ta phải làm sao đoạn trừ quả báo này”. Lại khởi ý niệm này: “Nghiệp đó nhân duyên vô minh xúc sinh ra, ta nếu đoạn trừ vô minh cùng xúc thì như vậy nghiệp quả diệt, chẳng sinh ra”. Vậy nên kẻ trí vì đoạn trừ nhân duyên vô minh, xúc nên tu tám chánh đạo. Đó gọi là phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam! Đó gọi là trong thân độc của chúng sinh có diệu dược, như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.

Lại nữa, này thiện nam! Người trí quan sát nghiệp, quan sát phiền não rồi, tiếp đến quan sát hai quả báo sở đắc này. Hai quả báo này tức là khổ. Đã biết là khổ thì có thể lìa bỏ tất cả thọ sinh. Người trí lại quan sát nhân duyên phiền não sinh ra phiền não, nhân duyên nghiệp cũng sinh ra phiền não, nhân duyên phiền não lại sinh ra nghiệp, nhân duyên nghiệp sinh ra khổ, nhân duyên khổ nên sinh ra phiền não, nhân duyên phiền não sinh ra hữu, nhân duyên hữu sinh ra khổ, nhân duyên hữu sinh ra hữu, nhân duyên hữu sinh ra nghiệp, nhân duyên nghiệp sinh ra phiền não, nhân duyên phiền não sinh ra khổ, nhân duyên khổ sinh ra khổ.

Này thiện nam! Kẻ trí nếu có thể khởi sự quan sát như vậy thì phải biết người đó có thể quan sát nghiệp khổ. Vì sao? Vì sự quan sát như trên tức là mười hai nhân duyên sinh tử. Nếu người có thể quan sát mười hai nhân duyên sinh tử như vậy thì phải biết người đó chẳng tạo ra nghiệp mới, có thể phá hoại nghiệp cũ.

Này thiện nam! Người có trí quan sát khổ của địa ngục. Quan sát từ một địa ngục cho đến một trăm ba mươi sáu chỗ. Mỗi một địa ngục có đủ thứ khổ mà đều là nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra. Quan sát địa ngục rồi, tiếp đến quan sát khổ của ngạ quỷ và súc sinh v.v… Khởi sự quan sát này rồi, lại quan sát những khổ của người và trời. Như vậy mọi thứ khổ đều từ nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra.

Này thiện nam! Trên trời tuy không có việc khổ não lớn nhưng thân thể mềm mại mịn màng ấy, khi thấy năm tướng suy thì chịu khổ vô cùng như khổ địa ngục, không sai khác. Này thiện nam! Kẻ trí quan sát sâu những khổ của ba cõi đều từ nhân duyên nghiệp phiền não sinh ra.

Này thiện nam! Ví như đồ vật bằng đất thô rất dễ bị vỡ. Chúng sinh thọ thân cũng như vậy. Đã thọ thân rồi tức là đồ chứa mọi khổ, ví như cây lớn hoa trái sum suê mọi loài chim có thể phá hoại, như nhiều cỏ khô chút lửa nhỏ có thể đốt cháy. Chúng sinh thọ thân bị sự phá hoại của khổ cũng như vậy.

Này thiện nam! Kẻ trí nếu có thể quan sát khổ tám thứ như trong hạnh thánh thì phải biết người đó có thể đoạn trừ mọi khổ. Này thiện nam! Kẻ trí quan sát sâu tám khổ này, rồi tiếp đến quan sát nhân của khổ. Nhân của khổ tức là ái vô minh. Ái vô minh này có hai thứ: Một là cầu thân mạng, hai là cầu của cải. Cầu thân, cầu tài cả hai đều là khổ. Vậy nên phải biết ái vô minh tức là nhân của khổ.

Này thiện nam! Ái vô minh này có hai thứ: Một là nội, hai là ngoại. Nội thì có thể tạo tác nghiệp, ngoại thì có thể làm tăng trưởng. Lại nữa, nội có thể tạo tác nghiệp, ngoại có thể tạo tác quả của nghiệp. Đoạn nội ái rồi thì nghiệp được đoạn, đoạn ngoại ái rồi thì quả được đoạn. Nội ái có thể sinh ra khổ của đời vị lai. Ngoại ái có thể sinh ra khổ của đời hiện tại. Kẻ trí quan sát ái tức là nhân của khổ. Đã quan sát nhân của khổ rồi, tiếp đến quan sát quả báo của khổ. Quả báo của khổ tức là thủ, quả báo của ái gọi là thủ. Nhân duyên thủ này là nội ngoại ái mà ái thì có ái khổ.

Này thiện nam! Kẻ trí phải quan sát nhân duyên của ái là thủ, nhân duyên của thủ là ái. Nếu ta có thể cắt đứt hai việc ái và thủ thì chẳng tạo nghiệp mà thọ mọi sự khổ. Vậy nên kẻ trí vì đoạn ái khổ nên tu tám chánh đạo. Này thiện nam! Nếu có người có thể quan sát như vậy thì gọi là phạm hạnh thanh tịnh. Đó gọi là trong thân độc của chúng sinh có thuốc vi diệu, như trong núi Tuyết tuy có cỏ độc nhưng cũng có diệu dược.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là phạm hạnh thanh tịnh?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Là tất cả các pháp.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp thì nghĩa chẳng quyết định. Vì sao? Vì Như Lai, hoặc nói là thiện hay chẳng thiện, hoặc khi nói là bốn niệm xứ quán, hoặc nói mười hai nhập, hoặc nói là thiện tri thức, hoặc nói là mười hai nhân duyên, hoặc nói là chúng sinh, hoặc nói là chánh kiến hay tà kiến, hoặc nói mười hai bộ loại kinh văn, hoặc nói chính là nhị đế, nhưng hôm nay Như Lai nói tất cả pháp là phạm hạnh thanh tịnh thì những gì là tất cả pháp?

Đức Phật dạy:

–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Như vậy kinh Đại Niếtbàn vi diệu mới chính là bảo tàng của tất cả pháp. Ví như biển lớn chính là kho tàng của mọi báu, kinh Niết-bàn này cũng như vậy, tức là kho tàng bí mật của tất cả chữ nghĩa.

Này thiện nam! Như núi Tu-di là cội nguồn của mọi thứ thuốc, kinh Niết-bàn này cũng vậy, tức là căn bản của giới Bồ-tát. Này thiện nam! Ví như hư không là trú xứ của tất cả vật, kinh này cũng vậy, là trú xứ của tất cả pháp thiện. Này thiện nam! Ví như gió mạnh, không thể trói buộc, tất cả hạnh Bồ-tát là kinh này cũng như vậy, chẳng bị sự trói buộc của tất cả pháp ác phiền não. Này thiện nam! Ví như kim cương không thể phá vỡ, kinh này cũng vậy, tuy có người tà ác ngoại đạo nhưng chẳng thể phá hoại. Này thiện nam! Như cát của sông Hằng không thể tính đếm, nghĩa của kinh này cũng như vậy, không thể tính đếm.

Này thiện nam! Kinh điển này vì các Bồ-tát mà làm cờ pháp như cờ Đế thích.

Này thiện nam! Kinh này tức là thương chủ đi đến thành Niếtbàn, như vị thầy dẫn đường lớn dẫn các thương nhân đi vào biển cả.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì các Bồ-tát làm ánh sáng pháp, như mặt trời, mặt trăng của thế gian có thể phá các tối tăm.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì chúng sinh bệnh khổ làm thuốc tốt nhất, như thuốc vi diệu trong núi Hương có thể trị mọi bệnh.

Này thiện nam! Kinh này có thể là cây gậy của Nhất-xiển-đề giống như người yếu nhờ gậy mà đứng lên được.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì tất cả người ác mà làm cây cầu, giống như cây cầu của đời có thể đưa tất cả đi qua.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì người đi trong ba cõi gặp nóng bức phiền não mà làm sự che mát như cái dù của thế gian ngăn che sức nóng của mặt trời.

Này thiện nam! Kinh này tức là vua đại vô úy có thể hủy hoại tất cả ma ác phiền não, như sư tử chúa hàng phục mọi loài thú.

Này thiện nam! Kinh này tức là thầy đại thần chú có thể hoại tất cả ma quỷ phiền não như thầy thần chú của đời có thể trừ khử yêu quái.

Này thiện nam! Kinh này tức là mưa đá vô thượng có thể hoại tất cả quả báo sinh tử như mưa đá của đời phá hoại cây trái.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì người hư con mắt giới làm đại lương dược giống như thuốc An-xà-đà của thế gian trị lành bệnh đau mắt.

Này thiện nam! Kinh này có thể an trụ tất cả pháp thiện như đất thế gian mọi vật có thể an trụ.

Này thiện nam! Kinh này tức là gương sáng của chúng sinh hủy giới như gương soi của thế gian nhìn thấy các cảnh vật.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì người không hổ thẹn mà làm y phục như áo quần của đời che đậy hình thể.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì người nghèo pháp thiện làm của báu lớn như vị trời Công Đức làm lợi ích cho người nghèo.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì chúng sinh khao khát pháp làm nước uống cam lồ như nước tám vị làm sung túc người khát.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì người phiền não mà làm giường pháp, như người đời gặp được giường yên ổn.

Này thiện nam! Kinh này có thể vì Bồ-tát Sơ địa cho đến Bồ-tát Thập địa mà làm chuỗi ngọc, hương hoa, hương bột, hương đốt v.v… chiếc xe đầy đủ chủng tánh thanh tịnh hơn tất cả chỗ thọ diệu lạc của sáu pháp Ba-la-mật như cây Ba-lợi-chất-đa-la của trời Đao-lợi.

Này thiện nam! Kinh này tức là búa bén kim cương có thể chặt tất cả cây lớn phiền não, là dao bén có thể cắt đứt tập khí, là sức mạnh có thể tiêu diệt ma oán, là lửa trí đốt cháy củi phiền não, là kho nhân duyên xuất ra Phật-bích-chi, là tạng Thanh văn sinh ra người Thanh văn, là mắt của tất cả chư Thiên, là chánh đạo của tất cả mọi người, là chỗ nương cậy của tất cả loài súc sinh, là chỗ giải thoát của loài ngạ quỷ, là đấng Vô Thượng Tôn của địa ngục, là đồ dùng vô thượng của tất cả chúng sinh trong mười phương, là cha mẹ của các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại trong mười phương.

Này thiện nam! Vậy nên kinh này thâu giữ tất cả pháp. Như lời Ta trước đã nói, kinh này tuy thâu giữ tất cả các pháp, nhưng Ta nói, phạm hạnh tức là Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

Này thiện nam! Nếu lìa ba mươi bảy phẩm trợ đạo như vậy thì nhất định chẳng thể được chánh quả Thanh văn cho đến quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng thấy Phật tánh và quả Phật tánh. Do nhân duyên này nên phạm hạnh tức là Ba mươi bảy phẩm. Vì sao? Vì tánh của Ba mươi bảy phẩm chẳng phải điên đảo mà có thể hủy hoại điên đảo. Tánh ấy chẳng phải ác kiến mà có thể hủy hoại ác kiến. Tánh ấy chẳng phải bố úy mà có thể hủy hoại bố úy. Tánh ấy chính là tịnh hạnh có thể khiến cho chúng sinh rốt ráo tạo tác phạm hạnh thanh tịnh.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp hữu lậu cũng lại có thể làm nhân của pháp vô lậu thì vì sao Như Lai chẳng nói hữu lậu là phạm hạnh thanh tịnh?

–Này thiện nam! Tất cả hữu lậu tức là điên đảo. Vậy nên hữu lậu chẳng được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đệ nhất pháp thế gian chính là hữu lậu hay là vô lậu?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Chính là hữu lậu.

–Thưa Thế Tôn! Tuy là hữu lậu nhưng tánh chẳng phải điên đảo mà vì sao chẳng gọi là phạm hạnh thanh tịnh?

–Này thiện nam! Đệ nhất pháp thế gian là nhân của vô lậu nên tựa như vô lậu, hướng về vô lậu nên chẳng gọi là điên đảo. Này thiện nam! Phạm hạnh thanh tịnh phát tâm nối tiếp nhau cho đến rốt ráo, còn đệ nhất pháp của thế gian chỉ là một niệm. Vậy nên chẳng được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Năm thức của chúng sinh cũng là hữu lậu, chẳng phải là điên đảo, lại chẳng phải một niệm thì vì sao chẳng gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.

–Này thiện nam! Năm thức của chúng sinh tuy chẳng phải là một niệm nhưng là hữu lậu, lại là điên đảo, làm tăng thêm các lậu nên gọi là hữu lậu. Thể của nó chẳng phải chân thật, chấp trước tưởng nên điên đảo. Thế nào gọi là thể chẳng phải chân thật, chấp trước nên sinh điên đảo? Chẳng phải trong nam nữ sinh ra tưởng nam nữ cho đến nhà cửa, xe cộ, cái bình, quần áo cũng như vậy. Đó gọi là điên đảo. Này thiện nam! Tánh của ba mươi bảy phẩm không điên đảo. Vậy nên được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh. Này thiện nam! Nếu có Bồ-tát đối với ba mươi bảy phẩm mà biết căn, biết nhân, biết thâu lấy, biết tăng thêm, biết chủ, biết đạo, biết thắng, biết thật, biết rốt ráo thì như vậy Bồ-tát được gọi là Phạm hạnh thanh tịnh.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là biết căn cho đến biết rốt ráo?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Hay thay! Hay thay! Bồ-tát nêu ra câu hỏi vì hai việc: Một là vì sự hiểu biết của mình, hai là vì sự hiểu biết của người khác. Ông nay đã biết rồi, chỉ vì vô lượng chúng sinh chưa hiểu biết mà thưa thỉnh việc này. Vậy nên Ta nay một lần nữa khen ngợi ông: “Hay thay! Hay thay!”. Này thiện nam! Căn bản của ba mươi bảy phẩm chính là dục, mà nhân là minh xúc, thâu lấy gọi là thọ, tăng thêm gọi là khéo suy tư, chủ gọi là niệm, đạo gọi là định, thắng gọi là trí tuệ, thật gọi là giải thoát, rốt ráo gọi là Đại Bát Niết Bàn. Này thiện nam! Thiện dục tức là căn bản của sự mới phát tâm đạo cho đến căn bản của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên Ta nói dục là căn bản.

Này thiện nam! Như thế gian nói, tất cả khổ não thì ái là căn bản,

tất cả bệnh tật thì ăn chính là căn bản, tất cả sự chia ly thì đấu tranh là gốc, tất cả việc ác thì hư dối là gốc.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai trước ở trong kinh này đã nói, tất cả pháp thiện thì chẳng phóng dật là gốc, đến nay mới nói tới dục là nghĩa làm sao?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Nếu nói sinh nhân thì tức là thiện dục. Nếu nói liễu nhân thì tức là chẳng phóng dật đó. Như thế gian nói tất cả quả thì hạt là nhân của quả ấy. Hoặc lại nói có hạt là sinh nhân, đất là liễu nhân. Nghĩa này cũng vậy.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai trước ở trong kinh khác nói ba mươi bảy phẩm thì Phật là căn bản là nghĩa làm sao?

–Này thiện nam! Như Lai trước nói chúng sinh bắt đầu biết Ba mươi bảy phẩm thì Phật chính là căn bản. Nếu tự chứng được thì dục là căn bản.

–Thưa Thế Tôn! Sao minh xúc gọi dục là nhân?

–Này thiện nam! Như Lai hoặc khi nói minh là tuệ, hoặc nói là tín. Này thiện nam! Nhân duyên tín nên gần gũi bạn lành thì đó gọi là xúc. Nhân duyên gần gũi được nghe chánh pháp thì đó gọi là xúc. Nhân nghe chánh pháp mà thân, miệng, ý thanh tịnh thì đó gọi là xúc. Nhân ba nghiệp thanh tịnh nên thu hoạch được chánh mạng thì đó gọi là xúc. Nhân chánh mạng nên được căn giới thanh tịnh. Nhân tịnh căn giới nên ưa chỗ tịch tĩnh. Nhân ưa tịch tĩnh nên có thể khéo tư duy. Nhân khéo tư duy nên được như pháp trụ. Nhân như pháp trụ nên được ba mươi bảy phẩm, có thể hoại phá vô lượng những phiền não ác. Đó gọi là xúc.

Này thiện nam! Thọ gọi là thâu lấy. Khi chúng sinh thọ thì có thể tạo tác thiện hay ác. Vậy nên gọi thọ là thâu lấy. Này thiện nam! Nhân duyên thọ nên sinh ra các phiền não mà ba mươi bảy phẩm có thể phá hoại. Vậy nên gọi thọ là thâu lấy. Nhân khéo tư duy có thể phá phiền não. Vậy nên gọi là tăng thêm. Vì sao? Vì siêng tu tập nên được ba mươi bảy phẩm như vậy. Nếu quán có thể phá các phiền não ác thì cần nhờ vào chuyên niệm. Vậy nên lấy niệm làm chủ. Như trong thế gian, tất cả bốn binh chủng đều theo ý của chủ tướng. Ba mươi bảy phẩm cũng như vậy, đều theo niệm chủ.

Này thiện nam! Đã vào định rồi, Ba mươi bảy phẩm có thể giỏi phân biệt tất cả pháp tướng. Vậy nên lấy định làm dẫn đường. Phân biệt pháp tướng của ba mươi bảy phẩm này thì trí là hơn hết. Vậy nên lấy tuệ làm đầu. Như vậy trí tuệ biết phiền não rồi thì nhờ lực trí tuệ nên phiền não tiêu diệt. Như trong thế gian, bốn binh phá hoại oán tặc, hoặc một, hoặc hai người dũng kiện có thể phá. Ba mươi bảy phẩm cũng như vậy, lực trí tuệ có thể phá hoại phiền não. Vậy nên dùng tuệ làm đầu.

Này thiện nam! Tuy nhân tu tập ba mươi bảy phẩm chứng được tứ thiền thần thông an lạc nhưng cũng chẳng gọi là thật. Nếu khi phá hoại phiền não chứng được giải thoát thì mới gọi là thật. Đối với Ba mươi bảy phẩm này phát tâm tu đạo thì tuy được cái vui thế gian và cái vui xuất thế gian, bốn quả Sa-môn và cả giải thoát nhưng cũng chẳng được gọi là rốt ráo. Nếu có thể đoạn trừ việc sở hành của Ba mươi bảy phẩm thì đó gọi là Niết-bàn. Vậy nên Ta nói rốt ráo tức là Đại Niếtbàn.

Lại nữa, này thiện nam! Tâm ái niệm thiện tức là dục. Nhân ái niệm thiện mà gần gũi bạn lành nên gọi là xúc. Đó gọi là nhân. Nhân gần gũi bạn lành nên gọi là thọ. Đó gọi là thâu lấy. Nhân gần gũi bạn lành có thể khéo tư duy nên gọi là tăng thêm. Nhân bốn pháp này có thể sinh trưởng đạo, đó là dục, niệm, định, trí. Đó tức là chủ, đạo, thắng. Nhân ba pháp này được hai giải thoát, do đoạn trừ ái nên được tâm giải thoát, do cắt đứt vô minh nên được tuệ giải thoát. Đó gọi là thật. Tám pháp rốt ráo như vậy đắc quả gọi là Niết-bàn nên gọi là rốt ráo.

Lại nữa, này thiện nam! Dục tức là phát tâm xuất gia. Xúc tức là bạch bốn yết-ma. Đó gọi là nhân. Nhiếp tức là thọ hai thứ giới: Một là Ba-la-đề-mộc-xoa giới, hai là Tịnh căn giới. Đó gọi là thọ. Đó gọi là thâu lấy. Tăng thêm tức là tu tập bốn thiền, chủ tức là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, đạo tức là quả A-na-hàm, thắng tức là quả A-la-hán, thật tức là quả Phật-bích-chi, rốt ráo tức là quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, này thiện nam! Dục là thức, xúc là lục nhập, thâu giữ là thọ, tăng thêm là vô minh, chủ là danh sắc, đạo là ái, thắng là thủ, thật gọi là hữu, rốt ráo là sinh già bệnh chết.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Căn bản, nhân, tăng, ba pháp như vậy có gì sai khác?

–Này thiện nam! Cái gọi là căn tức là mới phát, nhân tức là tương tự chẳng đoạn, tăng tức là diệt tương tự rồi có thể sinh ra tương tự.

Lại nữa, này thiện nam! Căn tức là tác, nhân tức là quả, tăng tức là có thể dùng. Này thiện nam! Đời vị lai tuy có quả báo nhưng do chưa thọ nên gọi là nhân và khi thọ quả ấy thì đó gọi là tăng.

Lại nữa, này thiện nam! Căn tức là cầu, đắc tức là nhân, dùng tức là tăng. Này thiện nam! Trong kinh này thì căn tức là thấy đạo, nhân tức là tu đạo, tăng tức là vô học đạo.

Lại nữa, này thiện nam! Căn tức là chánh nhân, nhân tức là phương tiện nhân. Từ hai nhân này thu hoạch được quả báo gọi là tăng trưởng.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, rốt ráo tức là Niết-bàn. Như vậy Niết-bàn làm sao có thể đắc?

–Này thiện nam! Nếu Đại Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di có thể tu mười tưởng thì phải biết người đó có thể đắc Niết-bàn. Những gì là mười? Một là tưởng vô thường. Hai là tưởng về khổ. Ba là tưởng vô ngã. Bốn là tưởng về nhàm chán xa lìa ăn uống. Năm là tưởng tất cả thế gian chẳng thể vui. Sáu là tưởng về chết. Bảy là tưởng nhiều tội lỗi. Tám là tưởng xa lìa. Chín là tưởng diệt. Mười là tưởng vô ái.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di tu tập mười thứ tưởng như vậy thì người đó rốt ráo nhất định được Niết-bàn, chẳng theo người khác mà tự mình có thể phân biệt thiện hay bất thiện. Đó gọi là chân thật xứng với nghĩa Tỳ-kheo, cho đến được xứng với nghĩa Ưu-bà-di.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ-tát cho đến Ưu-bà-di tu tưởng vô thường?

–Này thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Một là mới phát tâm, hai là đã hành đạo. Tưởng vô thường cũng lại có hai thứ: Một là thô, hai là tế. Bồ-tát mới phát tâm khi quán tưởng vô thường khởi suy nghĩ này: “Vật của thế gian có hai thứ, một là nội, hai là ngoại. Như vậy nội vật vô thường biến dị. Ta thấy lúc sinh, lúc nhỏ, lúc lớn, lúc trai trẻ, lúc già nua, lúc chết, những thời gian này mỗi mỗi đều chẳng đồng. Vậy nên phải biết nội vật vô thường”. Bồ-tát lại khởi ý niệm này: “Ta thấy chúng sinh, hoặc có người mập mạp, đầy đủ sắc lực, đi lại tiến dừng tự tại không trở ngại. Hoặc thấy có người bệnh khổ, sắc lực tiều tụy, nhan mạo hao tổn, chẳng được tự tại. Hoặc thấy có người giàu có, của cải, kho tàng đầy ắp. Hoặc thấy có người nghèo cùng, đụng việc thì thiếu thốn. Hoặc thấy có người thành tựu vô lượng công đức. Hoặc thấy có người đầy đủ vô lượng pháp ác. Vậy nên chắc chắn biết là nội pháp vô thường”. Bồ-tát lại quan sát ngoại pháp: Khi hạt, khi mầm, khi thân, khi lá, khi hoa, khi quả v.v… những thời gian như vậy mỗi mỗi đều chẳng đồng. Như vậy ngoại pháp hoặc có đầy đủ, hoặc chẳng đầy đủ. Vậy nên phải biết tất cả ngoại vật nhất định là vô thường. Đã quán pháp thấy là vô thường rồi thì lại quán pháp nghe: Ta nghe chư Thiên thành tựu đầy đủ hoan lạc cực diệu, thần thông tự tại mà cũng có năm tướng. Vậy nên phải biết là vô thường. Lại nghe kiếp ban đầu có các chúng sinh, mỗi mỗi đều đầy đủ công đức thượng diệu, ánh sáng nơi thân tự chiếu soi chẳng nhờ mặt trời, mặt trăng. Nhưng do lực vô thường nên ánh sáng diệt, công đức tổn. Lại nghe: Ngày xưa có vị Chuyển luân Thánh vương thống lãnh bốn cõi thiên hạ, thành tựu bảy báu, được đại tự tại nhưng chẳng thể phá hoại tướng vô thường. Bồ-tát lại quan sát đại địa: Thuở xưa, là chỗ ở của vô lượng chúng sinh, không có chỗ trống bằng bánh xe, sinh trưởng đầy đủ tất cả diệu dược, rừng rậm, cây cối hoa trái sum suê. Nhưng chúng sinh bạc phước khiến cho đại địa này không còn thế lực, vật sinh ra trở nên hư hao. Vậy nên phải biết pháp trong ngoài, tất cả vô thường. Đó gọi là thô vô thường. Đã quán thô rồi, Bồ-tát tiếp đến quán tế. Sao gọi là tế? Đại Bồ-tát quán tất cả vật nội ngoại cho đến vi trần ở tại thời vị lai đã là vô thường. Vì sao? Vì thành tựu đầy đủ tướng phá hoại. Nếu sắc vị lai chẳng phải vô thường thì chẳng thể nói, sắc có mười thời sai khác. Những gì là mười? Một là thời kỳ màng, hai là thời kỳ phôi bào, ba là thời kỳ bào thai, bốn là thời kỳ cục thịt, năm là thời kỳ hình thành các chi, sáu là thời kỳ trẻ sơ sinh, bảy là thời kỳ trẻ thơ, tám là thời kỳ thiếu niên, chín là thời kỳ thanh niên, mười là thời kỳ suy lão. Bồ-tát quán màng, nếu chẳng phải vô thường thì đáng lẽ chẳng đến phôi bào, cho đến thanh niên, nếu chẳng phải vô thường thì chẳng bao giờ đến già. Nếu những thời đó chẳng phải từng niệm từng niệm diệt thì chẳng bao giờ lớn dần mà đáng lẽ phải một lúc trở thành lớn đầy đủ. Do việc này nên phải biết là nhất định có từng niệm từng niệm vô thường vi tế. Lại thấy có người với các căn đầy đủ, nhan mạo rực rỡ mà về sau thấy khô khốc tiều tụy, lại nghĩ: “Người đó quyết định có từng niệm từng niệm vô thường”. Lại quán bốn đại và bốn oai nghi, lại quán trong ngoài đều có hai nhân của khổ là đói khát, nóng lạnh, lại quán là bốn. Nếu không niệm vô thường vi tế thì cũng chẳng thể nói bốn khổ như vậy. Nếu có Bồ-tát có thể khởi ý niệm này thì đó gọi là Bồ-tát quán vô thường vi tế. Như nội ngoại sắc, tâm pháp cũng vậy. Vì sao? Vì sáu căn duyên sáu trần. Khi căn duyên trần thì hoặc sinh ra tâm hỷ, hoặc sinh ra tâm sân, hoặc sinh ra tâm ái, hoặc sinh ra tâm tham, lần lượt sinh ra tâm khác, chẳng phải một thứ. Vậy nên phải biết, tất cả sắc pháp và chẳng phải sắc pháp đều là vô thường. Này thiện nam! Bồ-tát nếu có thể ở trong một niệm thấy tất cả pháp sinh diệt vô thường thì đó gọi là Bồ-tát đủ tưởng vô thường. Này thiện nam! Kẻ trí tu tập tưởng vô thường rồi thì xa lìa tưởng điên đảo về thường.

Tiếp đến tu tưởng khổ. Vì nhân duyên gì nên có khổ như vậy? Biết sâu sắc khổ này là do vô thường, do vô thường nên thọ sinh, già, bệnh, chết, do sinh, già, bệnh, chết nên gọi là vô thường, do duyên vô thường nên thọ nội ngoại khổ. Đói khát, nóng lạnh, đánh đập, nhục mạ v.v… những khổ như vậy đều do vô thường. Lại nữa, kẻ trí quán sát sâu sắc thân này tức là đồ đựng vô thường. Đồ đựng vô thường tức là khổ. Do đồ đựng khổ nên pháp được chứa đựng cũng lại là khổ. Này thiện nam! Kẻ trí lại quán sinh tức là khổ, diệt tức là khổ. Vì sinh, diệt khổ nên gọi là vô thường, chẳng phải ngã và ngã sở. Tu tưởng vô ngã, kẻ trí lại quán khổ tức là vô thường, vô thường tức là khổ. Nếu khổ vô thường thì người trí vì sao nói có ngã? Khổ chẳng phải là ngã, vô thường cũng vậy. Như vậy năm ấm cũng khổ, vô thường thì chúng sinh vì sao nói có ngã? Lại nữa, quán tất cả pháp có sự hòa hợp khác, chẳng từ một hòa hợp sinh ra tất cả pháp, cũng chẳng phải một pháp là quả của tất cả hòa hợp. Tất cả hòa hợp đều không tự tánh, cũng không một tánh, cũng không tánh khác, cũng không tánh của vật, cũng không tự tại. Các pháp nếu có những tướng như vậy thì người trí làm sao nói có ngã? Lại nghĩ: Trong tất cả pháp không có một pháp nào có thể làm tác giả. Nếu giả sử một pháp chẳng thể làm thì mọi pháp hòa hợp cũng chẳng thể làm. Tánh của tất cả các pháp nhất định chẳng thể một mình sinh một mình diệt mà hòa hợp nên diệt, hòa hợp nên sinh. Pháp này sinh ra rồi thì chúng sinh tưởng điên đảo nói, hòa hợp này từ hòa hợp sinh ra. Tưởng của chúng sinh điên đảo, không có chân thật thì sao mà có ngã chân thật được? Vậy nên kẻ trí quán là vô ngã. Lại nữa, quán kỹ càng vì nhân duyên gì mà chúng sinh nói có ngã? Ngã này nếu có thì một hay là nhiều? Ngã nếu là một thì tại sao mà có Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳxá, Thủ-đà, trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, lớn nhỏ, già trẻ? Vậy nên biết ngã chẳng phải là một. Ngã nếu là nhiều thì tại sao nói, ngã của chúng sinh là một, là cùng khắp, không có bờ cõi? Hoặc một, hoặc nhiều, hoặc cả hai đều vô ngã.

Người trí quán vô ngã như vậy rồi, tiếp đến lại quán tưởng về sự nhàm chán, xa lìa ăn uống. Bồ-tát nghĩ: “Nếu tất cả pháp vô thường, khổ, không, vô ngã thì vì sao do ăn uống mà khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân, miệng, ý? Nếu có chúng sinh vì tham ăn uống nên khởi lên ba thứ nghiệp ác của thân, miệng, ý mà của cải kiếm được mọi người đều cùng hưởng, nhưng về sau chịu quả báo khổ thì không ai cùng chia sẽ”.

Này thiện nam! Kẻ trí lại quán tất cả chúng sinh vì ăn uống nên thân tâm chịu khổ. Nếu do các khổ mà được ăn thì vì sao đối với việc ăn uống này ta lại sinh ra tham chấp? Vậy nên đối với việc ăn uống chẳng sinh ra lòng tham. Lại nữa, kẻ trí phải quán nhân ăn uống mà thân được tăng trưởng, ta nay xuất gia, thọ giới, tu đạo vì muốn xả thân, nhưng nay tham việc ăn uống này thì làm sao được xả thân này?

Quán như vậy rồi, tuy có thọ sự ăn uống nhưng coi như quỷ Khoáng dã ăn thịt con mình, lòng chán ghét thấy chẳng ngon lành. Quán sát sâu xa sự ăn uống có lỗi như vậy. Tiếp đến quán xúc thực như bò bị lột da, bị vô lượng loài trùng bu ăn. Tiếp đến quán tư thực như đám lửa lớn, thức thực giống như ba trăm mũi nhọn.

Này thiện nam! Người trí quán bốn thứ ăn như vậy rồi thì đối với sự ăn uống chẳng bao giờ sinh tưởng ham thích. Nếu còn sinh tham thì phải quán bất tịnh. Vì sao? Vì lìa khỏi tham ái nên đối với tất cả loại ăn uống có thể khéo phân biệt, tưởng bất tịnh, và tùy theo các bất tịnh đó mà khiến cho thức ăn uống cùng tương tự. Quán như vậy rồi, nếu được thức ăn ngon và cả thức ăn dở thì khi thọ giống như bôi thuốc lên ung nhọt, chẳng bao giờ sinh lòng tham ái. Này thiện nam! Kẻ trí nếu có thể quán như vậy thì đó gọi là thành tựu được tưởng nhàm chán xa lìa ăn uống.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Kẻ trí quán ăn uống khởi tưởng bất tịnh thì chính là quán chân thật hay quán hư giả? Nếu là quán chân thật thì thức ăn được quán đó thật chẳng phải bất tịnh. Nếu là hư giả thì pháp đó sao gọi là tưởng thiện?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Người quán như vậy cũng là thực quán, cũng là hư giả. Có thể dứt trừ được lòng tham ăn nên gọi là thật. Chẳng phải là trùng mà thấy trùng nên gọi là hư giả. Này thiện nam! Tất cả hữu lậu đều gọi là hư mà cũng có thể là thật. Này thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo phát tâm xin ăn mà khởi ý niệm: “Ta sẽ xin ăn, nguyện được thức ăn ngon, chớ được đồ thô xấu. Nguyện được nhiều, chớ được ít. Cũng nguyện cho mau được chớ cho chậm trễ”. Tỳ-kheo như vậy chẳng gọi là đối với việc ăn được tưởng chán lìa mà việc tu tập pháp thiện ngày đêm hao suy, pháp bất thiện sẽ tăng trưởng dần.

Này thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo khi muốn xin ăn thì trước phải nguyện: “Nguyện cho những người xin ăn đều được no đủ và người cho được phước không lường. Ta nếu được ăn là để trị liệu thân độc hại, tu tập pháp lành, lợi ích cho thí chủ”. Khi khởi nguyện này thì sự tu hành pháp thiện ngày đêm tăng trưởng, pháp bất thiện sẽ tiêu diệt dần.

Này thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo có thể tu như vậy thì phải biết người đó chẳng ăn không của tín thí ở trong nước.

Này thiện nam! Kẻ trí đầy đủ bốn tưởng như vậy thì có thể tu tưởng thế gian chẳng thể vui, vị ấy nghĩ thế này: “Tất cả thế gian không chỗ nào chẳng có sinh, lão, bệnh, tử mà thân nầy của ta không chỗ nào mà chẳng sinh ra. Nếu trong thế gian không có một chỗ được lìa khỏi sinh, già, bệnh, chết thì ta sẽ làm sao mà vui với thế gian. Tất cả thế gian không có gì được mà chẳng mất. Vậy nên thế gian nhất định là vô thường. Nếu là vô thường thì sao kẻ trí vui với đời được? Mỗi một chúng sinh trải qua cùng khắp tất cả thế gian thọ đủ khổ vui. Tuy lại được thọ thân Phạm thiên cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng, nhưng mạng chung rồi trở lại rơi vào trong ba đường ác. Tuy làm thân Tứ thiên vương cho đến thân trời Tha Hóa Tự Tại, nhưng khi mạng chung rồi sinh ra trong đường súc sinh, hoặc làm sư tử, hổ báo, sài lang, voi ngựa, bò lừa. Tiếp đến Bồ-tát quán thân của Chuyển luân Thánh vương, thống lãnh bốn cõi thiên hạ, giàu sang tự tại, nhưng khi phước hết nghèo cùng khốn khổ, ăn mặc chẳng ai cung cấp. Người trí quán sâu những việc như vậy rồi thì đối với thế gian chẳng thể sinh tưởng ưa thích. Kẻ trí quán hữu pháp của thế gian như là nhà cửa, quần áo, ăn uống, ngọa cụ, thuốc thang, hương hoa, chuỗi ngọc, đủ thứ kỹ nhạc, của cải, vật báu, những việc như vậy đều vì để lìa khỏi khổ mà thể của những vật đó tức là khổ thì làm sao dùng khổ mà muốn lìa khỏi khổ?

Này thiện nam! Người trí quán như vậy rồi thì đối với vật của thế gian chẳng sinh ưa thích.

Này thiện nam! Ví như có người thân mắc bệnh nặng, tuy có đủ thứ âm nhạc, ca hát, hương hoa, chuỗi ngọc nhưng không bao giờ đối với những vật ấy sinh ưa thích. Người trí quán rồi cũng như vậy.

Này thiện nam! Người trí quán sâu, tất cả thế gian chẳng phải chỗ quy y, chẳng phải chỗ giải thoát, chẳng phải chỗ tịch tĩnh, chẳng phải chỗ khả ái, chẳng phải chỗ bờ kia, chẳng phải pháp thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu ta tham ưa thế gian như vậy thì ta làm sao được lìa khỏi pháp đó. Như người chẳng ưa chỗ tối tăm mà cầu ánh sáng, lại trở lại về với tối tăm. Tối tăm tức là thế gian, ánh sáng tức là xuất thế gian. Nếu ta ưa thế gian thì tăng trưởng tối tăm, xa lìa ánh sáng. Tối tăm tức là vô minh, ánh sáng tức là trí minh. Nhân của trí minh này tức là tưởng thế gian không đáng ưa. Tất cả tham kết tuy là ràng buộc nhưng hôm nay tham trí minh chẳng tham thế gian. Kẻ trí quán sâu pháp như vậy rồi thì đầy đủ tưởng thế gian không đáng ưa.

Này thiện nam! Người có trí đã tu tập tưởng thế gian không đáng ưrồi, tiếp đến tu tưởng chết. Quán thọ mạng này thường bị sự nhiễu hại của vô lượng oán thù, từng niệm từng niệm tổn giảm, không có tăng trưởng giống như nước chảy xiết từ núi xuống chẳng được dừng, cũng như sương buổi sớm thế chẳng tồn tại lâu dài, như người tù bị dẫn đến chợ mỗi bước mỗi bước đi gần tới chỗ chết, như dắt bò, dê đi đến chỗ giết thịt.

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Kẻ trí quán từng niệm từng niệm diệt như thế nào?

–Này thiện nam! Ví như bốn người đều giỏi thuật bắn tên tụ lại ở một chỗ, đều bắn về một phương, đều nghĩ thế này: “Bốn mũi tên của chúng ta đều phát ra, đều rơi xuống”. Lại có một người nghĩ: “Bốn mũi tên ấy khi chúng chưa rơi xuống, ta có thể cùng một lúc dùng tay bắt lấy hết”. Này thiện nam! Người như vậy có thể nói là nhanh không?

Bồ-tát Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Đúng vậy!

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Sự nhanh nhẹn của quỷ Địa hành lại càng nhanh hơn người ấy. Có quỷ Phi hành lại nhanh hơn quỷ Địa hành. Tứ thiên vương lại nhanh hơn quỷ Phi hành. Thiên thần Nhật nguyệt lại nhanh hơn Tứ thiên vương. Trời Hành Kiên Tật lại nhanh hơn Nhật nguyệt. Thọ mạng của chúng sinh lại nhanh hơn trời Kiên Tật.

Này thiện nam! Một hơi thở, một nháy mắt mà thọ mạng của chúng sinh bốn trăm lần sinh diệt. Kẻ trí nếu có thể quán mạng như vậy thì đó gọi là có thể quán niệm niệm diệt.

Này thiện nam! Kẻ trí quán mạng hệ thuộc vua chết: Ta nếu có thể lìa khỏi vua chết thì vĩnh viễn đoạn trừ được thọ mạng vô thường. Lại nữa, kẻ trí quán thọ mạng này giống như cây cao lớn bên bờ sông, cũng như có người tạo tội đại nghịch chịu tội chết không ai thương tiếc, như khi sư tử chúa đói khát cùng khốn, cũng như khi độc xà hớp gió lớn, giống như con ngựa khát giữ gìn nước, như con ác quỷ lớn khi sân hận phát khởi, vua chết của chúng sinh cũng như vậy.

–Bạch Thế Tôn! Kẻ trí nếu có thể khởi quán như vậy thì đó gọi là tu tập tưởng về chết.

–Này thiện nam! Kẻ trí lại quán: Ta nay xuất gia, giả sử được thọ mạng, bảy ngày bảy đêm thì ta sẽ ở trong thời gian đó, tinh cần tu đạo, hộ trì giới cấm, nói pháp giáo hóa lợi ích cho chúng sinh. Đó gọi là kẻ trí tu tưởng về chết. Lại cho bảy ngày bảy đêm là nhiều thì nếu được sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ cho đến khoảnh khắc thở hít vào ta cũng sẽ ở trong thời gian đó tinh cần tu đạo, hộ trì giới cấm, nói pháp giáo hóa lợi ích cho chúng sinh. Đó gọi là kẻ trí giỏi tu tưởng về chết. Kẻ trí đầy đủ sáu tưởng như trên thì liền được bảy tưởng nhân. Những gì là bảy? Một là thường tưởng tu. Hai là ưa tưởng tu. Ba là tưởng vô sân. Bốn là tưởng không ganh ghét. Năm là tưởng thiện nguyện. Sáu là tưởng vô mạn. Bảy là tưởng Tammuội tự tại. Này thiện nam! Nếu có Tỳ-kheo đầy đủ bảy tưởng thì đó gọi là Sa-môn, gọi là Bà-la-môn, đó gọi là tịch tĩnh, gọi là tịnh khiết, gọi là giải thoát, gọi là người trí, gọi là chánh kiến, gọi là đến bờ kia, gọi là đại y vương, gọi là đại thương chủ, gọi là giỏi hiểu bí mật của Như Lai. Tỳ-kheo này cũng biết bảy thứ lời nói của chư Phật, gọi là chánh kiến, biết đoạn trừ bảy thứ lời nói làm phát sinh nghi hoặc.

Này thiện nam! Nếu người đầy đủ sáu tưởng như trên thì phải biết là người đó có thể quở trách ba cõi, xa lìa ba cõi, diệt trừ ba cõi, ở trong ba cõi mà chẳng sinh ra ái trước. Đó gọi là kẻ trí đầy đủ mười tưởng. Nếu có vị Tỳ-kheo đầy đủ mười tưởng thì xứng đáng được tướng Sa-môn.

Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp liền ở trước Đức Phật, dùng kệ khen ngợi Đức Phật:

Đại y vương thương xót thế gian
Thân và trí tuệ đều tịch tĩnh
Trong pháp vô ngã có chân ngã
Vậy nên kính lễ đấng Vô thượng.
Phát tâm rốt ráo chẳng phân biệt
Hai tâm như vậy, tâm trước khó
Tự chưa được độ, độ người trước
Nên con lễ đấng mới phát tâm.
Mới phát rồi làm thầy nhân thiên
Hơn hẳn Thanh văn và Duyên giác
Phát tâm như vậy vượt ba cõi
Vậy nên được gọi Tối Vô Thượng.
Cứu thế cần cầu, sau mới được
Như Lai không thỉnh mà làm thầy
Phật như nghé con theo thế gian
Vậy nên được gọi Đại Bi Ngưu.
Công đức Như Lai đầy mười phương
Phàm phu vô trí chẳng thể khen
Con nay khen ngợi tâm từ bi
Ví báo hai nghiệp miệng và thân.
Thế gian thương ưa tự lợi mình
Như Lai trọn chẳng làm việc đó
Đoạn báo thế gian cho chúng sinh
Nên con lễ đấng Tự Tha Lợi.
Thế gian làm lợi ích người thân
Như Lai lợi ích không thân, oán
Phật không tâm này như thế nhân
Nên tâm Phật bình đẳng không hai.
Thế gian nói khác, lại làm khác
Như Lai nói như làm không hai
Phàm tu hành là đoạn các hành
Nên được gọi là Như Lai vậy.
Trước đã biết rõ lỗi phiền não
Thị hiện khắp nơi vì chúng sinh
Giải thoát rồi, ở mãi thế gian
Vì từ bi ưa ở sinh tử.
Tuy hiện thân trời và thân người
Theo đuổi từ bi như bò nghé
Như Lai tức là mẹ chúng sinh
Lòng từ tức là bò nghé vậy.
Tự thọ mọi khổ vì chúng sinh
Khi nghĩ xót thương lòng chẳng hối
Đầy tâm từ bi chẳng biết khổ
Nên con cúi lạy đấng Bạt Khổ.
Như Lai tuy làm phước không lường
Nghiệp thân, miệng, ý hằng thanh tịnh
Thường vì chúng sinh, chẳng vì mình
Nên con lễ đấng Nghiệp Thanh Tịnh.
Như Lai thọ khổ, khổ chẳng màng
Thấy chúng sinh khổ như mình khổ
Tuy làm chúng sinh ở địa ngục
Chẳng sinh tưởng khổ và tâm hối.
Thọ hết các khổ của chúng sinh
Đều là Như Lai, một mình chịu
Biết rồi tâm ấy càng vững bền
Nên hay siêng tu đạo vô thượng.
Phật đủ một vị tâm đại từ
Thương nghĩ chúng sinh tưởng như con
Chúng sinh chẳng biết Phật cứu mình
Cho nên bài báng Phật, Pháp, Tăng.
Thế gian tuy đủ mọi não phiền
Cũng có vô lượng những tội ác
Mọi kết và tội khiên như vậy
Khi mới phát tâm Phật đã dứt.
Chỉ có chư Phật khen ngợi Phật
Trừ Phật không ai có thể khen
Con nay chỉ dùng một pháp khen
Đem tâm từ đi khắp thế gian.
Từ là đại pháp của Thế Tôn
Từ này có thể độ chúng sinh
Là Giải thoát chân thật vô thượng
Giải thoát tức là Đại Niết-bàn.