SỐ 190
KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa, người Ấn độ
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 18 -19 -20

Phẩm 23: XA-NẶC VÀ NGỰA TRỞ VỀ CUNG

 Xa-nặc dẫn ngựa Kiền-trắc từ biệt Thái tử trở về, khi đến thành Ca-tỳ-la, mới bước vào thành trông giống như đi trong căn nhà hoang vắng, bao nhiêu hoa viên, suỐi ao, khe rãnh, sông ngòi, vườn cầm thú… ở trong ngoài bốn mặt thành Ca-tỳ-la, vì Thái tử xả tục xuất gia nên ở đây mất hết sức sống, sông hồ khô cạn, cảnh vật điêu tàn.

  Tất cả dân chúng lớn nhỏ trong thành Ca-tỳ-la, từ xa trông thấy Xa-nặc dắt ngựa Kiền-trắc trở về hoàng cung mà không thấy Thái tử đâu cả. Do không thấy Thái tử nên cùng nhau thứ lớp theo sau Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc đồng hỏi Xa-nặc:

-Thái tử Tất-đạt-đa nay ở đâu?

Lúc đó Xa-nặc nước mắt tuôn trào ướt cả mặt mày, nghẹn ngào không nói nên lời. Đám người thấy vậy kêu la buồn khóc cùng theo bên Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc tâm sinh nghi ngờ, vừa đi vừa hỏi:

-Vương tử ngày nay ở xứ nào? Nếu còn ở trong nước thì chúng ta rất vui mừng. Nay tại sao ông bỏ Thái tử về đây một mình?

Xa-nặc vừa đi vừa trả lời:

-Tôi thật không dám bỏ Thánh tử, mà Thánh tử lại trốn bỏ cung điện của mình, cởi bỏ sắc phục thánh triều, ra lệnh đuổi tôi và ngựa Kiền-trắc phải trở về, còn một mình ngài ở lại trong núi sông hạnh xuất gia.

Tất cả mọi người nghe nói như vậy, cho là việc hết sức đặc biệt ít có ở đời, họ cùng nhau ca ngợi việc làm chưa từng có. Mọi người đối diện nhau cùng nói: ‘Thái tử Tất-đạt-đa làm những việc khó làm.” Tất cả mọi người trong thành tuy miệng ca ngợi như vậy mà hai dòng nước mắt vẫn tuôn trào. Lại mỗi người tự trách thân mình: “Ôi! Ngày nay ta sao không thể cùng nhau theo Thái tử xuất gia, ta đến xem đấng thầy cõi trời người sinh hoạt đi đứng cách nào, ta nay thà đến đó, sống theo việc làm của ngài, chớ nên ở nơi đây một ngày xa cách Thái tử mà sống. Vì sao? Vì ngày nay thành này không có Thái tử nên không có oai thần và thế lực. Thành này do không có Thái tử, cho nên vắng lặng trống không so với cánh đồng hoang vu không khác. Chỗ ở rừng rú kia do có sức oai thần và thế lực của ngài, tuy là cảnh đầm ao núi rừng mà lại như xóm làng không khác.”

Có kệ nói:

Dân chúng trong thành nghe nói thế
Ca ngợi việc rất ít có thay
Thành này đã trở nên đồng vắng
Nơi có Thái tử như quốc thành.

Bấy giờ ngựa chúa Kiền-trắc hí vang, tất cả dân chúng ở tại nhà của mình nghe tiếng ngựa Kiền-trắc hí, tất cả dân chúng và bao nhiêu thể nữ ở trong hai cung đều suy nghĩ thế này: “Hẳn Thái tử trở về nội thành”, nên dân chúng và thể nữ, hoặc có người mở cửa sổ, hoặc có người vén rèm cửa lớn, tâm rất hồi hộp vui mừng, đưa mắt nhìn xa mong thấy được Thái tử. Dân chúng và thể nữ chỉ thấy ngựa chúa Kiền-trắc và Xa-nặc biệt ly Thái tử trở về một mình, thấy vậy mọi người đóng cửa vào trong phòng kêu khóc thảm thiết.

Thuở ấy Đại vương Tịnh Phạn vì thương nhớ Thái tử khổ não bức xúc thân tâm, suy nghĩ tìm cách nào để gặp được Thái tử, nên vào trai đường giữ giới thân tâm thanh tịnh tu hành khổ hạnh, ưu sầu khổ não, ngày đêm trong tâm cầu khẩn chư Thiên, chư Thần, tìm đủ phương tiện nhân duyên cầu mong gặp được Thái tử để khuây khỏa nỗi lòng.

Khi đó Xa-nặc khổ não ưu sầu buồn khóc lệ nhỏ như mưa, tay dắt ngựa Kiền-trắc, tay bưng mũ ngọc vô giá cùng các chuỗi anh lạc trang sức trên mình Thái tử bước vào trong cung Tịnh Phạn, giống như kẻ cận vệ Thái tử ở ngoài chiến trường về báo tin Thái tử bị sát hại. Xa-nặc đem chuỗi anh lạc trở về vương cung giống như vậy. Người nô bộc Xa-nặc ly biệt Thái tử, đem ngựa cùng y phục ngọc ngà quý giá về, nước mắt như mưa bước vào cung điện Đại vương cũng lại như vậy.

Khi Xa-nặc bước vào trong cung, con ngựa Kiền-trắc ở ngoài cửa cung bốn chân giậm trên đất miệng hí vang. Những người hầu hạ nơi nằm ngồi của Thái tử tưởng Thái tử trở về, nên muốn vào trong cung để chiêm ngưỡng Thái tử nhưng không thấy Thái tử đâu cả, buồn khóc nước mắt như suối, có kẻ ở chỗ đông người mà nói những điều khổ não.

Những loài chim ở trong cung của vua Tịnh Phạn như Khổng tước, Anh vũ, Sáo, Mạng mạng, Câu-sí-la… những chim này nghe tiếng hí của ngựa Kiền-trắc, cũng cho rằng Thái tử trở về hoàng cung, chúng rất vui mừng cất tiếng hót hòa dịu thánh thót.

Tất cả bầy ngựa của Đại vương ở trong chuồng, khi nghe tiếng hí của con Kiền-trắc vang lên như vậy, cũng cho rằng Thái tử trở về hoàng cung, tất cả đều vui mừng hí vang.

Thể nữ trong cung Đại vương nhiều đến trăm ngàn, như Ma-ha Ba-xà-ba-đề… Lại số thể nữ trong cung Thái tử lên đến sáu vạn người, như Đại phi Da-du-đà-la… họ đều nhớ nghĩ Thái tử hết sức ưu sầu, nước mắt ướt cả mặt mày, không còn nghĩ đến dung nhan, thân thể không tắm rửa dơ bẩn, không trang điểm y phục, cởi bỏ tất cả chuỗi anh lạc đẹp đẽ, buồn rầu áo não tâm trí chẳng an, hoặc có kẻ khóc người than, hoặc có người đang ngồi tưởng nhớ, bỗng nghe tiếng hí của con ngựa Kiền-trắc, cùng nhau nghĩ rằng: ‘Tiếng hí của ngựa Kiền-trắc to như vậy, quyết định Thái tử trở về, không còn nghi ngờ gì nữa.” Mọi người nghe tiếng ngựa Kiền-trắc, tâm rất hớn hở, do vì khát ngưỡng muốn trông thấy Thái tử nên Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Da-du-đà-la… số thể nữ nhiều đến trăm ngàn, đều từ nơi phòng mình hoặc ở trên lầu, hoặc trong cung điện, hoặc trong phòng, bỗng vội vã cùng nhau đứng dậy chạy đến nơi Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc, nhưng thể nữ chỉ từ xa trông thấy Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc ly biệt Thái tử trở về hoàng cung một mình. Thấy vậy, họ hai tay bứt lấy đầu cổ, miệng kêu khóc nước mắt đầy mặt, miệng ca ngợi những đức tính của Thái tử.

Có kệ nói:

Các hàng thể nữ tâm đau khổ
Khát ngưỡng trông mong Thái tử về
Bỗng chỉ thấy Xa-nặc, Kiền-trắc
Lệ nhỏ tràn đầy cất tiếng khóc
Không dùng anh lạc, y phục đẹp
Đầu tóc rối bù thân gầy ốm
Hai tay ôm đầu hết hy vọng
Kêu khóc không ngủ suốt canh thâu.

Bấy giờ Ma-ha Ba-xà-ba-đề và Cù-đà-di đồng thấy viên minh châu trong búi tóc Thái tử, tán lọng, thanh đao, ngọc ma-ni trang điểm, phất trần, các chuỗi anh lạc của Thái tử do Xa-nặc mang về và ngựa Kiền-trắc cùng đoàn người đi theo sau. ThẤy vậy rồi hai tay họ tự đánh đập trên thân thể, tâm ưu sầu lo sợ, lại hỏi Xa-nặc:

-Đứa con yêu quý của ta nay ở nơi nào mà ông lại trở về một mình?

Xa-nặc đáp:

-Tâu Quốc đại Hoàng hậu, Thái tử Tất-đạt-đa vì cầu đạo Bồ-đề nên Ngài đã xả bỏ ngũ dục, vào trong núi cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa tư duy khổ hạnh.

Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe Xa-nặc nói như vậy, ví như trâu mẹ mất con, buồn khóc rơi lệ không thể kiềm chế được, tự đưa hai tay đánh đập trên người, tâm hết sức kinh sợ, miệng la lên: “Ôi thôi con ta ơi! Ôi thôi con ta ơi!” Nước mắt ràn rụa mặt mày, cả người run rẩy, bỗng nhiên bà ngã nhào lăn lộn trên đất chết giấc, giống như cá lìa khỏi nước dãy dụa đau khổ trên đất. Bà lại hỏi Xa-nặc:

-Ta nay tự xét, thân khẩu ý của ta không có điều gì sai lầm đối với ông, nhưng tại sao ông đem con ta bỏ nơi hoang vu giống như vất bỏ một khúc cây? Tại sao ông đem con ta bỏ trong rừng sống một mình đầy sự khủng bố của các loài độc xà ác thú. Ông bỏ về đây chẳng thương con ta.

Xa-nặc đáp:

-Tâu Quốc đại phu nhân, thân nô bộc này đâu dám xa lìa Thánh tử. Tâu phu nhân, ý Thánh tử xua đuổi con. Thái tử trao cho con con ngựa Kiền-trắc cùng chuỗi anh lạc rồi bảo con mau mau trở về hoàng cung, để đại phu nhân được an tâm khỏi sinh ưu sầu khổ não.

Lúc đó, các thể nữ trong cung đều khóc than: “Ôi thôi cha mẹ ơi!” Hoặc than: “ơi thôi anh em ơi!” Hoặc than: “Ôi thôi Đại vương ơi!” Hoặc than: “Phu quân ta ôi!.” Những lời chua xót ái luyến này bắt nguồn từ dục nhiễm bức xúc thân tâm. Hoặc có thể nữ liếc mắt khóc, hoặc có thể nữ nhìn nhau khóc, hoặc có thể nữ xoay lưng khóc, hoặc có thể nữ cất đầu khóc, hoặc có thể nữ đối diện nhau khóc, hoặc có thể nữ hai tay đập vào bụng mà khóc, hoặc có thể nữ đấm ngực mà khóc, hoặc có thể nữ khoanh tay mà khóc, hoặc có thể nữ đưa hai tay đập vào đầu mà khóc, hoặc có thể nữ lấy bụi đất bôi lên đầu mà khóc, hoặc có thể nữ xõa tóc che mặt mà khóc, hoặc có thể nữ bứt tóc cúi đầu mà khóc, hoặc có thể nữ giơ hai tay lên trời mà khóc, hoặc có thể nữ buồn rầu chạy loạn khắp đó đây, giống như nai rừng bị nhằm tên độc, hoặc có thể nữ lấy áo phủ cả mặt mà kêu khóc, hoặc có thể nữ cả người run rẩy, giống như gió thổi lay động tàu lá chuối, cúi đầu xuống hay ngẩng đầu lên mà khóc, hoặc có thể nữ ngã nhào trên đất chết giấc không hay biết, vừa mới tỉnh liền cất tiếng khóc, hoặc có thể nữ như cá lìa khỏi nước nằm trên đất đập dãy, hơi thở khò khè, mạng sống mong manh thiêm thiếp mà khóc, hoặc có thể nữ như cây trốc gốc ngã nhào, lăn trên đất mà khóc. Biết bao nhiêu khổ não bức xúc thân tâm thể nữ nên họ kêu khóc như vậy.

Lúc ấy Xa-nặc và ngựa Kiền-trắc cùng với vô lượng trăm ngàn thể nữ òa khóc không còn được nghe gì khác. Ma-ha Ba-xà-ba-đề nước mắt tuôn tràn, chết giấc hồi lâu mới tỉnh, vừa tỉnh lại khóc cất tiếng kêu Thái tử:

-Ôi thôi con ta ơi! Ôi thôi con ta ơi! Thân con xưa nay vốn được các loại hương thơm xoa đánh vào mình và cùng các thứ tô điểm đẹp đẽ, có oai đức to lớn như vậy; làm sao hôm nay con có thể ở chỗ hoang vu trong hang núi chịu đựng sự khổ sở, bị các loài côn trùng độc hại như: ruồi, lằn, muỗi, kiến…cắn chích thân con? Ôi thôi con ta ơi! Khi ở hoàng cung thân con luôn mặc áo Ca-thi-ca được xông các hương thơm, làm sao ngày nay con có thể chịu đựng được chiếc áo thô kệch xù xì hôi hám? Ôi thôi con ta ơi! Khi con còn ở trong hoàng cung thường dùng các thức ăn cao lương mỹ vị, được chế tạo từ các thực phẩm trăm vị vi diệu thanh tịnh, miệng chưa từng biết nếm món ăn đạm bạc, ngày nay con làm sao ăn được các thứ cơm canh bánh bột khô khan nguội lạnh? Ôi thôi con ta ơi! Khi con còn ở trong hoàng cung nằm trên giường êm nệm ấm, hoặc lại phủ lên trên bằng chiếc thiên y với hai chiếc gối tựa lót hai bên nằm ngồi tùy ý, ngày nay làm sao con có thể nằm ngồi trên đất trống hay trong rừng gai nhọn như kim? Ôi thôi con ta ơi! Khi còn ở trong hoàng cung còn có tôi trai tớ gái, hoặc có người hầu hạ hai bên, họ luôn đem tâm cung phụng kính mến, hoặc có kẻ tựa thân, hoặc có kẻ quỳ gối, hoặc có người đứng yên luôn luôn hướng về Thái tử, họ đều cung phụng không thiếu sót, ngày nay làm sao có thể sống bên người đầy sân hận, hoặc bên kẻ bần cùng hoặc bên người tánh nóng như lửa đốt, họ đối với con không từ tâm, làm sao con có thể chấp nhận sống với những người có tánh khí như vậy? Ôi thôi con ta ơi! Khi con còn ở hoàng cung có lớp lớp thể nữ hình dung đoan chánh, diện mạo xinh đẹp như hoa vây quanh hầu hạ để tùy ý con thọ hưởng khoái lạc, ngày nay con làm sao sống một mình nơi cảnh núi non trùng điệp, giống như dã thu` bị khủng bô` mà tâm con vui thú cái gì? Ôi thôi con ta ơi! Ngón chân con thẳng dài mềm mại có màn lưới, ống chân con như giò nai chúa, lòng bàn chân mềm dịu như lá sen non, với hình hai bánh xe ngàn căm in đậm nét rõ ràng tuyệt đẹp, ngày nay với bàn chân như vậy, làm sao con có thể chân không đi trên đất gai góc sạn sỏi? Hay mùa đông băng giá, mùa hè nóng bức, làm sao con có thể đi lại trên bàn chân như thế?

Ma-ha Ba-xà-ba-đề vì Thái tử khóc kể vô số chuyện như vậy rồi, tâm vừa tỉnh lại bình thường, từ đất đứng dậy hỏi Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, việc ấy đã như vậy, Thái tử Tất-đạt-đa con ta trên đường đi có dặn ông điều gì không? Này Xa-nặc, tóc con ta ở đâu?

Xa-nặc đáp:

-Tâu Quốc đại phu nhân, Thánh tử Tất-đạt-đa có dặn con thế này: “Này Xa-nặc, khi ông về đến triều đình sẽ thay Ta ân cần lễ bái thăm hỏi di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, sau khi lễ bái xong, ông phải thưa thế này: Kính thưa Đại mẫu, xin di mẫu chớ quá ưu sầu, chớ sinh tâm khổ não, chẳng nên nhớ nghĩ đến con, chẳng bao lâu con sẽ chứng được sở nguyện, rồi sẽ trở về phụng kiến di mẫu.”         Thưa Đại phu nhân, tự tay Thánh tử rút lấy thanh đao, tay tả cầm búi tóc, tay phải cầm thanh đao cắt lấy, rồi ném lên hư không. Lúc đó chư Thiên hứng lấy đem về cung trời cúng dường.

Ma-ha Ba-xà-ba-đề nghe Xa-nặc tâu như vậy, lại than khóc về búi tóc Thái tử:

-Ôi thôi con ta ơi! Tóc con rất dài, búi tóc mềm mại hết sức đẹp đẽ, mỗi lỗ chân lông mọc lên một sợi tóc xoay về một chiều, không rối không rụng, rất thích hợp đội lấy thiên quan thọ ngôi Thánh vương, ngày nay tại sao con nhẫn tâm quăng bỏ nó đi? ôi thôi con ta ơi! Hai tay con rất dài, lúc đi chậm rãi oai hùng như sư tử chúa, hai mắt tròn xoe như mắt trâu chúa, vai ngực nở rộng, tiếng nói vang rền như tiếng trống tiếng sấm, con người như vậy làm sao xuất gia nơi núi rừng hoang vu? Nếu ngày nay Thái tử thực hiện hạnh xuất gia thì quốc gia này vô phước, như cõi đất sụp đổ không thể hiện trở lại. Ta mong rằng người có mọi đức tính, đầy đủ công đức, ra đời làm vua và cai trị muôn dân để đem lại an lạc cho dân chúng.

Liền nói kệ:

Nếu vậy cõi đất này hết phước
Lẽ ra chẳng hiện bậc tuệ thông
Đã hiện thân công đức như thế
Nên vì nhân loại làm Thánh vương.

Bấy giờ Da-du-đà-la lớn tiếng kêu khóc, hết sức giận dữ dùng đủ lời quở trách Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, người phụ nữ chúng ta đang tuổi niên thiếu, nửa đêm ngủ say không hay biết, ông nay đem Thánh phu là người mà ta yêu quý đến bỏ ở xứ nào? Cách đây xa gần? Đấng đại trượng phu hiền thánh của ta cùng ông và ngựa cả ba đồng ra đi một lượt, mà hiện giờ chỉ có ông trở về, không thấy Thánh phu yêu quý của ta đâu cả. Do vậy ngày nay thân tâm ta lo sợ run rẩy, ông chẳng phải là người hiền lương, chẳng đem lại lợi ích cho ta. Này Xa-nặc, ta nay nói thật cùng ông, giả sử có kẻ oan gia hết sức hung dữ làm điều tàn khốc cũng không bằng tổn hại do ông gây ra, nhưng đối với ta ngày nay, việc này hết sức độc ác. Này Xa-nặc, nếu ông là người mà ta nhờ vả, lẽ ra ông phải giúp đỡ ta, che chở ta. Tại sao ngày hôm nay ông thấy ta nửa đêm ngủ say, một mình ông lén dẫn Thánh tử ta đến bỏ xứ nào? Này Xa-nặc, ông nay đối với ta làm việc của kẻ đại oán thù, việc này ông đã hoàn tất, ngày nay ông cần gì phải buồn rầu than khóc, ông nên lau nước mắt, cần gì phải gượng ép thương nhớ lệ tuôn vô ích. Này Xa-nặc, ông tạo nghiệp bất thiện, ông nay đã làm xong cần gì phải buồn. Này Xa-nặc, vì ông là thiện hữu của Thánh phu ta, nên giờ cấm đoán ra vào nội cung, đối với ông không có ngăn cản, nên ngày nay ngược lại khiến Thánh phu ta, tùy theo ý ông mà đi. Này Xa-nặc, nuôi ông trong nhà làm gì? Nay ông làm xong việc bất thiện như vậy, lẽ ra ông phải vui mừng, ta biết ông ngày nay sẽ được quả lớn, được phước lợi to. Này Xa-nặc, phàm người thế gian thà cùng người trí làm kẻ oan gia, chẳng nên cùng người ngu kết bằng hữu, ông tuy là bằng hữu của chồng ta mà ông làm việc như vậy, như vậy là không chịu suy nghĩ là tại làm sao? Này Xa-nặc, ông nay đốì với hoàng tộc ta đã làm những điều không lợi ích, lẽ ra ông nên sinh tâm rất vui sướng. Này Xa-nặc, cung điện này rất cao đẹp nguy nga, giống như những áng mây, lại dùng những chuỗi anh lạc trang hoàng, của cải sung mãn, nay những thứ đó đã vì ông mà trở thành vô nghĩa.

Da-du-đà-la liền đối với Xa-nặc mà nói kệ:

Thà gần kẻ oán có trí tuệ
Chớ nhận kẻ ngu làm bằng hữu
Do ông làm việc thiếu suy nghĩ
Hoàng tộc cùng ta khổ não nhiều.

Da-du-đà-la nói kệ rồi, lại bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, nay đối với chồng ta, nếu đã như vậy, tâm ta sao khỏi ưu sầu. Ngày nay hàng thể nữ làn da trắng như tuyết, đôi môi đỏ tợ son, dung nhan tuyệt đẹp khả ái ít ai sánh bằng, họ cởi bỏ xiêm y lộng lẫy, thân không trang sức chuỗi anh lạc, lẽ ra họ cùng nhau thọ hưởng dục lạc, nào ngờ bỗng sớm trở thành góa phụ. Vì họ mất ngủ, đêm ngày lệ nhỏ thành dòng không ngớt, kêu khóc than thở không thôi.

Này Xa-nặc, con ngựa Kiền-trắc này oán ghét ta, trong đêm hôm đó tạo điều không lợi ích, thấy ta đêm đó ngủ say, nó chở người chồng yêu quý của ta vượt thành ra đi, ngựa này tạo nghiệp vô cùng bất thiện, cớ gì ngày nay trước mặt ta hí vang tỏ vẻ đau khổ? Tiếng hí của nó vang dội khắp thành của Đại vương, mà trước kia nó chở Thánh phu ta ra đi, con ngựa bất thiện này vì cớ gì nó im hơi ẩn nhẫn mà đi? Nếu khi ban đầu ra đi nó hí vang như ngày hôm nay, thì khi ấy mọi người đang ngủ nghe tiếng nó thức dậy, thì ngày hôm nay ta cũng không gặp cảnh đại khổ não này. Con ngựa bất thiện này, giả sử tên bắn thủng xuyên qua thân nó, hoặc dùng gậy đập chết nó, lẽ ra nó không nên đưa Thái tử ra khỏi thành hướng đến nơi sơn lâm mới phải. Đằng này con ngựa không vì hoàng gia ta làm điều lợi ích, chính vì nó sợ roi vọt nên đã chở Thánh chúa là người chồng trong lòng ta thường quý mến ra khỏi thành thẳng đến sơn lâm.

Ngày nay cung điện này của ta do vì không chủ, điện đường, phòng thất, thành lũy xóm làng, đường sá thôn ấp, cửa sổ lầu gác, cửa nẻo lan can, tiếng ngọc khua len ken, cung điện bán nguyệt đẹp đẽ tuyệt vời hết sức hoa lệ. Nay những thứ này hoàn toàn vô nghĩa cũng vì con ngựa Kiền-trắc độc ác này. Khuê phòng trong hoàng cung ta giống như đồng vắng, mở mắt lệ rơi không còn gì để ham muốn.

Da-du-đà-la buồn khóc nghẹn ngào khổ sở nói những lời thống thiết như vậy, rồi ngất xỉu bất tỉnh rất lâu. Xa-nặc nghe những lời quở trách của Da-du-đà-la như vậy, chắp tay cúi đầu khép nép lệ nhỏ khóc ròng, tâu Đại phi Da-du-đà-la của Thánh tử:

-Ngày nay Đại phi chẳng nên quở trách tôi, tôi không sai lầm, tôi và ngựa Kiền-trắc ngày nay thật không có tội lỗi. Thánh phu của đại phi đêm hôm đó khi bắt đầu ra đi, tôi can gián tạo đủ điều chướng ngại, lúc đó tôi to tiếng kêu các phi, dùng nhiều lời nói như thế này: “Các phi mau thức dậy! Các phi mau thức dậy! Đêm nay ái phu của các phi sắp dẫn tôi và ngựa Kiền-trắc ra đi.” Hôm đó tay tôi nắm đầu tóc mỗi cung phi đánh thức, cho hay việc như vậy, tôi nắm đầu tóc Đại phi, rồi nắm đầu tóc các cung phi khác…mỗi cung phi tôi đều gọi tên và nói việc Thái tử ra đi, nhưng bấy giờ các thể nữ ấy không thức dậy. Ngoài ra đối với bao nhiêu thể nữ khác nữa cũng đều như vậy.

Khi Thánh tử ra đi, con ngựa Kiền-trắc cũng tạo đủ điều ngăn cản, miệng nó hí to hơn ngàn tiếng, chân nó giậm xuống đất không chịu bước tới, lại nhe răng hàm dưới mũi thở phì, khi tiếng ngựa hí vang xa nửa do-tuần, tiếng giậm chân của nó vang động đến hơn một câu-lô-xa.

Tôi lúc đó la lên: “Ôi ái phu của các phi đêm nay ra đi.” Đại phi cùng bao nhiêu thể nữ khác tự không hay biết những tiếng kêu to như vậy. Đó là do thần lực của chư Thiên làm tan biến tiếng động khiến mọi người không nghe.

Đại phi phải biết, tôi và ngựa Kiền-trắc thật không dám đưa Thái tử ra đi. Như vậy Đại phi tự xét biết Thánh tử của Đại phi có nghe lời tôi hay không? Nếu Thái tử nghe lời cản ngăn của tôi, thì hoàn toàn không có việc này xảy ra.

Xa-nặc hướng về phía Da-du nói kệ:

Tôi không chịu nổi, nước mắt rơi
Chắp tay cúi đầu xin tự bạch
Đại phi chẳng nên quở Kiền-trắc
Kể cả cùng tôi chớ giận hờn.

Tâu Đại phi, tôi cũng biết trước đó Đại vương Tịnh Phạn ban sắc lệnh rất nghiêm khắc, tất cả những người hầu hạ Thái tử phải cẩn thận giữ gìn Thái tử. Tuy tôi có giáo lệnh như vậy, nhưng tôi không được tự do, vì bị thần lực chư Thiên làm mê hoặc tâm ý tôi, chẳng phải tôi muốn làm việc như vậy. Việc ra đi của Thái tử cũng được thần lực của chư Thiên kêu gọi nên mau xuất gia.

Lại nữa, lúc đó tùy tâm Thánh tử muốn mở cửa thành thì cửa tự mở. Từ trước các cửa thành đều có trên ngàn người giữ gìn tâm không lơ đễnh. Nhưng hôm đó Thánh tử bước qua các cửa cung họ đều ngủ say không biết, giống như mặt trời mới mọc, ánh sáng chiếu phá tất cả các bóng tối, lúc bấy giờ tôi biết đây là việc làm của chư Thiên.

Bạch Đại phi, Thánh tử ra khỏi thành, trên đường đi tôi chạy bộ trước phía, lúc ấy thân tôi không biết mỏi mệt.

Bạch Đại phi, con ngựa Kiền-trắc này trên đường đi bốn chân nó không giậm xuống đất, giống như có người khiêng nó mà đi, tiếng hí của nó nghe cũng không xa. Thưa Đại phi, trong tâm tôi lúc đó tự nghĩ cũng biết đó là việc làm của chư Thiên.

Thưa Đại phi, bấy giờ tôi thấy Thái tử muốn làm Sa-môn đúng như pháp, nên cắt bỏ bủi tóc ném lên hư không, chư Thiên chụp lấy không cho rơi xuống đất, rồi ngài cởi bỏ y phục vương triều trao cho người thợ săn đổi lấy chiếc ca-sa hoại sắc, lúc ấy tâm tôi nghĩ đây cũng là việc làm của chư Thiên.

Bạch Đại phi, vì những việc như vậy, xin Đại phi ngày nay đối với tôi đừng có tâm giận hờn. Vì sao? Vì việc ra đi của Thái tử không phải do tôi cũng không quan hệ gì đến con ngựa Kiền-trắc.

Bấy giờ Đại phi Da-du-đà-la nằm trên đất suy nghĩ giây lát rồi cất tiếng buồn khóc kêu la nói lên thế này:

-Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngày nay thiếp sống phải đạo hiếu thuận với chồng, không biết cớ gì Thái tử lại bỏ thiếp ra đi? Thái tử đến nơi núi rừng cầu pháp tu khổ hạnh, như vậy Thái tử sống không phải đạo, do vì không tùy thuận pháp hạnh. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài lẽ nào không nghe các vua đời trước khi muốn vào sơn lâm cầu pháp tu khổ hạnh, họ đều đem cả vợ con cùng đi, các vị vua đó không tổn hại thánh đạo, cũng được thành tựu. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Lẽ nào ngài không nghe có pháp thế này: Xưa có người đi tu vẫn cùng với vợ con cạo tóc xuất gia hành đạo, tinh cần khổ hạnh, đem theo cả ngựa tốt tế tự chư Thiên hoặc lập hội Vô giá, cả hai vợ chồng đều hưởng quả báo hết sức tốt đẹp, như ngài đã biết điều này có nói trong luận Vi-đà. Nhưng cớ gì ngày nay Thái tử riêng đối với thiếp sinh tâm bỏn sẻn không cho thiếp đồng tu khổ hạnh? Ôi Thái tử! Việc làm của Thái tử vô ích, uổng phí đời người. Nếu ở thế gian Thái tử đã cùng với vợ sinh tâm ân ái, tại sao ngày nay lại ruồng bỏ vợ hiền hay là muốn lên cõi trời Đao-lợi tham đắm ngọc nữ? Ngày nay theo ý thiếp thấy việc như thế này: Ngọc nữ chư Thiên kia có gì đáng tham? Hình dung của họ có gì xinh đẹp? Tình ái ngũ dục có gì đáng hoan lạc?

Nếu như Thái tử nói rằng không tham đắm khoái lạc chư Thiên thì tại sao lại bỏ công đức oai thần của một vương vị, xa lánh thiếp và hàng thể nữ nơi cung điện này.

Thái tử đã xả bỏ tất cả xuất gia vào nơi sơn lâm vắng để tu khổ hạnh. Còn thiếp ngày nay không cầu quả báo chư Thiên, cũng không muốn làm thân ngọc nữ, tâm thiếp biết thế này là đủ, thiếp có oai lực thế này, ở tại nhân gian không cầu sinh lên cõi trời, chỉ ở nơi đây tu hành khổ hạnh với sở nguyện: Nếu ở nhân gian hay sinh lên trời chỉ nguyện sống đúng như pháp hầu hạ kề bên Thái tử.

Nếu tâm Thái tử quyết định dứt khoát xa lìa hàng thể nữ chúng tôi mà vào trong rừng núi hoang vu, thì tâm nguyện luôn luôn được hầu hạ bên Thái tử của thiếp kiên cố không thay đổi, bền chắc như đá không khác.

Như thiếp ngày nay thật sự trở thành góa phụ, vì thấy phu chủ của mình bỏ triều đình xuất gia vào trong sơn lâm khiến cho thiếp nơi phòng trống cô đơn, làm sao lòng thiếp không tan nát cho được.

Rồi nàng nói kệ:

Tâm ta ngày nay tuy bền chắc
Cứng như sắt đá có khác gì
Chồng bỏ vào núi nội cung trống
Làm sao tâm ta chẳng nát tan.

Da-du-đà-la vì mất Thái tử nên khổ não bức xúc tinh thần hôn mê, bỗng nhiên té nhào xuống đất bất tỉnh giây lâu mới tỉnh dậy, hoặc có lúc kêu khóc buồn thám, hoặc có lúc đứng cúi đầu nín thinh suy nghĩ, hoặc có lúc kinh sợ cuồng loạn nói nhảm:

-Người chồng của ta nay đi phương nào? Thánh tử của ta dừng nghỉ ở đâu, khiến ta ngày nay cô độc ở trong cung một mình? Thái tử ruồng bỏ ta, phản bội ta mà đi. Từ ngày nay không có Thái tử ta không nằm giường cũ, không dùng nước nóng hương thơm tắm gội, lại trên thân cũng không trang điểm, không lau chùi, không tô son điểm phấn, lại cũng không mặc y phục nhiều màu sắc rực rỡ, từ ngày nay về sau ta không mang các chuỗi anh lạc, cũng không đeo các tràng hoa hay hương thơm, không ăn các thức ăn cao lương mỹ vị, cũng không uống các thứ nước ngon ngọt, tất cả các thứ rượu ta đều không uống. Xưa từng ăn các thức ăn ngon nay lại không ăn, trên đầu để tóc trần không cần trang điểm, ta tuy ở nhà mà tâm ta luôn luôn tưởng như đang ở trong rừng núi tu khổ hạnh, cho đến chẳng thấy đấng trượng phu tối thắng, ta thấy tất cả viên lâm sông hồ khe suôi, nhà cửa cung điện đều đầy đất bụi, giống như cánh đồng hoang vắng, do vì không có Thánh tử nơi thành Ca-tỳ-la. Tất cả cung điện lầu gác đều thiếu vẻ tươi sáng trang nghiêm giống như bãi sa mạc, do vì mọi người ở đây trong tâm ưu sầu khổ não, nên không thể tự kiềm chế, mất chánh niệm, lại không còn biết xấu hổ.

Khi Da-du-đà-la lăn lộn trên đất nói nhảm như vậy, thì bao nhiêu thể nữ trong cung đều đồng thanh kêu khóc lớn tiếng, lệ nhỏ ướt cả mặt mày.

Kệ nói:

Khổ não như vậy bức xúc người
Da-du-đà-la cùng thể nữ
Nhìn nhau òa khóc lệ tuôn trào
Mưa rào giữa hạ nào có khác.

Xa-nặc thấy Da-du-đà-la than thở những lời khổ não như vậy, mới khuyên can:

-Đại phi chớ nên sinh tâm khổ não thống thiết như vậy, chớ quá buồn rầu khổ sở, cần phải nguôi đi chớ nên nhớ nghĩ Thánh tử nữa. Khi Thái tử ra đi, tuy Ngài ở trong nhân gian so với chư Thiên không khác, oai thần khí lực của Ngài nào khác chư Thiên. Khi Thái tử ra đi có chư Thiên vây quanh hộ vệ, bên hữu thì có Phạm thiên vương và quyến thuộc, bên tả thì có chúa trời Đế Thích và quyến thuộc cõi trời Đao-lợi, phía Đông thì có vua Càn-thát-bà Đề-đầu-lại-tra, phía Nam thì có vua Cưu-bàn-trà Tỳ-lâu-lặc-xoa, phía Tây thì có Tỳ-lâu-bác-xoa và các Long vương, phía Bắc thì có trời Tỳ-sa-môn thống lãnh các quỷ Dạ-xoa. Thân họ đều mặc áo giáp kim cang, tay cầm cung tên hay giáo mác vây quanh hộ vệ, đi phía trước dẫn đường hay đi phía sau hộ tống, hoặc ở hai bên tả hữu tùy tùng hộ vệ. Trên không trung luôn luôn có ngàn vạn chư Thiên ngọc nữ, họ đều vui mừng hớn hở khắp cả châu thân không thể kiềm chế được, đem các loại hoa rải trên mình Thánh tử không ngớt. Lúc đó Thánh tử thấy ngọc nữ chư Thiên tâm không vui, không thích, không thương, không giận, không lấy, không bỏ, tâm Thánh tử không tham đắm sự hầu hạ của ngọc nữ như vậy.

Tâu Quốc mẫu Đại phi, khi Thánh tử ra đi, chư Thiên hiện thần thông đem bao nhiêu việc cúng dường Thánh tử như vậy, ngày nay tôi khó có thể trình bày tường tận mọi sự việc.

Xa-nặc trình bày như vậy rồi, đệ nhị phi Thánh nữ Cù-đà-di giống như cành đại thọ gãy nhào, nàng nằm dài trên đất không thể đứng dậy nổi, Thánh nữ Cù-đà-di vì lửa ái thương nhớ Thánh tử thiêu đốt bứt xúc thân tâm, hết sức Ưu sầu buồn phiền khổ sở, thân nằm trên đất lăn lộn khóc than thốt lên thế này:

-Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Mặt Ngài đầy đặn như trăng rằm. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Thân Ngài đẹp đẽ không ai sánh bằng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài đầy đủ các tướng vô thượng tối thắng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Thân Ngài thanh tịnh thế gian không ai sánh bằng, các bộ phận trên cơ thể không tỳ vết, đẹp đẽ như tượng vàng. Ôi thôi phu chủ của ta ơi! Công đức của Ngài rất tối thắng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có lòng đại từ bi được người trời cúng dường, ôi thôi phu chủ của ta ơi! Ngài dũng kiện có sức mạnh như thần Na-la-diên, không một kẻ thù nào địch lại, mà còn hàng phục được kẻ thù. Ôi thôi phu chủ của ta ơi! Giọng nói của Ngài như Phạm thiên, thánh thót như con chim Ca-lăng-tần-già. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Tiếng tốt của Ngài vang khắp mọi nơi. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có trăm ngàn phước đức trang nghiêm, người trời trong thế gian không ai sánh bằng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Công đức của Ngài viên mãn, chư Tiên thấy Ngài đều sinh tâm hoan hỷ. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài như rừng trí tuệ, mọi người nghe danh Ngài thảy đều cúng dường. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Đối trong thế gian ngài có một thiệt căn tối thượng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Mắt Ngài sáng xanh như hoa sen xanh. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Môi miệng Ngài đỏ như trái tần bà. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Miệng Ngài có bốn mươi răng trắng sạch tinh khiết, như sữa, như lụa, như sương, như tuyết. Ôi thôi phu chủ của ta ơi! Mũi Ngài cao thẳng như ống vàng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Lông trắng ở giữa hai hàng lông mày của Ngài thanh tịnh mọc ngay chính giữa. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có đôi vai rộng nở nang bằng phẳng, bụng dài thon, thắt lưng lõm như chiếc cung, tay chân mềm mại. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Ngài có bắp vế, ống chân, bắp tay, cánh tay giống như vòi voi; bàn tay bàn chân bằng phẳng, móng đều đỏ hồng. Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Những chuỗi anh lạc của ngài, Đại vương Tịnh Phạn chọn ngày lành tháng tốt vào đêm sao tốt xuất hiện mới làm, khi ấy Đại vương rất hoan hỷ, tại sao ngài xa lánh nó? Thiếp nay cũng chẳng muốn thấy các chuỗi anh lạc này.

Lúc đó, Cù-đà-di do tâm khổ não khủng bố luôn luôn kinh hoàng giống như nai rừng bị thợ săn đuổi lạc vào hoa viên, tay họ cầm cung tên đuổi theo bắn thân nai, nó vô cùng khổ sở chạy khắp đó đây, quan sát bốn phương không có nơi che chở để được thoát nạn. Trong lúc này tâm Cù-đà-di cũng lại như vậy, hoặc ở trong cung nói nhảm, hoặc nơi điện đường tự tranh luận một mình, hay chạy khắp mọi nơi không tìm ra Thái tử, buồn khóc kêu gào nước mắt ướt cả mặt mày, không ai khuyên giải được, nàng khổ sở vô cùng. Rồi lại lớn tiếng xướng lên:

-Khi Thánh tử còn ở tại triều thì nơi đây đầy đủ mọi vật tốt đẹp nguy nga tráng lệ tràn đầy nhựa sống, có oai thần như trời Đế Thích ở cung trời Đao-lợi, ngày nay bỗng nhiên Thái tử vô cớ bỏ đi, nơi đây tất cả đều mất hết, thành này giống như rừng tử thi, giống như đầm vắng núi hoang hoặc như đồng nội. Khi còn Thái tử, ở nơi cung này, ta cùng Ngài thọ hưởng vô số dục lạc, tâm ta say đắm khoái lạc không biết nhàm chán, ngày nay không còn Thái tử, tâm ta không còn say đắm, ví như cá trạch rời nước nằm trên đất khô, không một chút vui trong giây lát huống nữa là sinh tâm khoái lạc. Ta nay cũng vậy, vì không có Thái tử tâm nào có vui. Giống như bướm không vui mùa xuân vì không có hoa, nên bướm chẳng màng đến hoa lâm hay không thích hoa lá. Ta nay cũng vậy, vì không có Thái tử nơi đây chẳng có gì vui thú!

Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Chỗ nằm ngồi trước kia của Ngài thường trổi âm nhạc hòa lẫn tiếng hát, vì tâm thể nữ trong cung vui thích đồng ca hát, nay cũng cung điện này đâu có khác, mà làm cho tâm ta bỗng nhiên không vui mà lại ưu sầu khổ não, huống nữa là có kỹ nhạc.

Ôi thôi, phu chủ ta ơi! Thân Ngài mang các tràng hoa tuyệt đẹp, các chuỗi anh lạc trang sức trên thân, dầu thơm phấn thơm tùy thời cung cấp đầy đủ không thiếu sót, chính đương thời kỳ thọ hưởng khoái lạc, tâm rất hoan mê, không biết cớ gì tự nhiên bỏ đi.         Ví như bầu trời bỗng kéo mây mù, nổi lên sấm chớp giáng trận mưa đá rồi liền tạnh. Thánh tử cũng vậy, sắp lên ngôi vua thọ hưởng khoái lạc, không có điều gì là không được toại ý, mà lại bỏ thánh vị ra đi.

Phải chăng ta thuở xưa tinh cần bố thí nhiều vật quý giá rồi sinh tâm hối tiếc, do tâm hối tiếc nên nay mắc phải quả báo này, tuy thọ quả báo vô cùng tối đẹp, bỗng nhiên lại mất, do vì nghiệp hối tiếc nên nay bỗng thành góa phụ. Ngày nay ta bạc phước nên mất vị phu chủ vô thượng tối thắng này.

Ôi cuộc tình ân ái hòa hợp chẳng bao lâu rồi liền ly biệt, giống như trò chơi nơi hý trường, chẳng được mấy chốc rồi lại giải tán. Cuộc tình của ta với Thánh tử cũng lại như vậy.

Lại nghe truyền thuyết, ngày xưa có một vị vua tu tiên, ngài tu hạnh tịch tĩnh điều phục các căn chứng được thiền định, ngài vào trong rừng núi giữ giới không sát sinh, thân chuyên khổ hạnh, uống diệu dược, ăn quả cây ngon ngọt, cùng đem theo vợ con ẩn thân trong rừng đồng tu phạm hạnh, nay đây Thái tử vì duyên gì, một mình vào nơi núi rừng hoang vắng siêng năng tinh tấn.

Rồi Cù-đà-di lại choàng lấy cổ ngựa Kiền-trắc lớn tiếng kêu khóc:

-Ôi thôi! Này ngựa Kiền-trắc, mi không có chút từ tâm, Thánh tử đồng sinh một ngày với mi nay ở xứ nào? Mi vì cớ gì nửa đêm đến chở Thánh tử ta ra đi mà không cho ta biết?

Rồi lại quở trách Xa-nặc:

-Ôi thôi! Này tên Xa-nặc, tâm ngươi rất độc ác, ta lỡ ngủ say tại sao ngươi không đánh thức để cho ta biết? Thái tử là người mà trong tâm ta hằng kính ái, ngày nay bỗng nhiên ra đi, mà lý do gì ngươi không kêu ta? Để cho ta từ nay suốt thời gian còn lại phải chịu cảnh sống cô đơn, đi đứng nằm ngồi một mình, thật là vô cùng khổ não. Ôi thôi! Này tên Xa-nặc, ngươi hãy nói cho ta biết khi Thánh tử ra đi bằng cách nào? Lại ai là người chỉ lối đi trong hoàng cung này? Khi ra khỏi thành ai là người hướng đạo và đi về phương nào? Rồi ngày nay Thánh tử ở đâu?

Sau khi thứ phi Cù-đà-di quở trách Xa-nặc như vậy rồi lại xuống giọng nói với chàng ta:

-Này người hiền Xa-nặc, tuy sự việc lỡ xảy ra như vậy rồi, ngươi đã hầu hạ Thái tử ra đi rồi lại trở về đây, ngươi nên biết rõ chỗ ở của Thái tử, ngươi nên hướng dẫn ta tới đó, để ta luôn luôn gần gũi bên Thái tử tu tập khổ hạnh, chuyên tâm cầu đạo, với hoài bảo cùng Thánh tử sinh lên Thiên giới.

Xa-nặc nghe đủ lời trách mắng đau khổ cùng giọng nói ngọt ngào của Cù-đà-di, hết sức buồn bã ưu sầu khổ não, bức xúc thân tâm đau khổ tăng lên gấp bội phần, nước mắt tuôn trào ướt cả mặt mày, nhưng gắng gượng tỏ vẻ bình tĩnh chậm rãi an ủi Cù-đà-di:

-Xin phu nhân lắng nghe, chẳng nên ưu sầu, lại chẳng nên khóc lóc như vậy, chẳng bao lâu chúng ta sẽ gặp Thánh tử. Vì sao? Vì khi Thánh tử bảo tôi trở về hoàng cung, Ngài có nói thế này: “Này Xa-nặc, khi ngươi trở về hoàng cung, thay Ta hỏi thăm tất cả quyến thuộc, các phi tần và cùng tất cả các đồng tử bằng hữu tri thức. Ta nay bảo ngươi trở về nội cung an ủi mọi người, thay Ta nói với họ: Ta nay đã dẹp trừ màn lưới tham sân si, chẳng bao lâu ta sẽ chứng trí tuệ Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi chứng đạo rồi Ta hứa sẽ trở về thành Ca-tỳ-la.” Tôi biết Thánh tử quyết định sẽ chứng được đại trí tuệ đáp ứng bản nguyện của Ngài, Ngài sẽ trở về không chút nghi ngờ, biết bậc tối thắng trong chúng sinh nhất định không có lời nói thiếu chân thật.

Thuở ấy Đại vương Tịnh Phạn khổ sở ở trong cung tế tự chư Thiên xong rồi, xa nghe trong cung điện của Thái tử có tiếng kêu khóc vang dội, Đại vương liền từ trong cung điện của mình bước ra, ngay khi ấy gặp Xa-nặc đem tán lọng, chuỗi anh lạc của Thái tử và dắt con ngựa Kiền-trắc đến, bày biện các vật và theo sự chỉ dạy của Thái tử, Xa-nặc ân cần thưa hỏi đảnh lễ đầu mặt sát chân Đại vương, nước mắt ràn rụa cả mặt mày, y theo lời Thái tử dạy nghẹn ngào tâu lên nhà vua.

Đại vương Tịnh Phạn thấy chuỗi ngọc anh lạc, tán lọng và ngựa Kiền-trắc của Thái tử, đồng thời nghe những lời từ hiếu ân cần thưa hỏi của Thái tử, bỗng nhiên lớn tiếng thất kinh kêu khóc:

-Ôi thôi đứa con yêu quý của ta ơi! Ai ngờ như thế này!

Khi ấy nhà vua Tịnh Phạn vì thương nhớ Thái tử ưu sầu bức xúc thân tâm, vật mình té nhào xuống đất mê man bất tỉnh.

Có kệ:

Vua nghe Bồ-tát thệ nguyện sâu
Lai thấy Xa-nặc, Kiền-trắc về
Bỗng nhiên té nhào tâm bất tỉnh
Như cờ Đế Thích gãy tự nhiên.

Bấy giờ, bao nhiêu quyến thuộc thân tộc ở trong cung Đại vương Tịnh Phạn thấy nhà vua té nhào xuống đất, họ đều sinh tâm ưu sầu khổ não không còn một chút gì vui thú, tự cất tiếng kêu khóc, thốt ra những lời buồn than áo não.

Tất cả dân chúng lớn nhỏ trong thành Ca-tỳ-la vì biệt ly Thái tử, nên họ cũng kêu oán khóc vang. Các hàng quyến thuộc tuần tự cùng nhau an ủi Đại vương Tịnh Phạn.

Đại vương thương nhớ Thái tử tâm ưu não không nguôi, các thân tộc, hoặc có người khuyên giải, hoặc có người đỡ Đại vương ngồi dậy, tuy nhà vua ngồi dậy nhưng chẳng được bao lâu rồi lại ngã lăn xuống đất mê man bất tỉnh, hoặc giả như có lúc nào tỉnh dậy thì kêu khóc nước mắt ướt cả mặt mày, rồi bảo Xa-nặc:

-Này Xa-nặc, vì cớ gì ông không đưa Thái tử về cung?

Xa-nặc tâu:

-Thưa Đại vương, xin ngài biết cho, con cũng hết sức ân cần dùng mọi cách để thuyết phục Thánh tử trở về Hoàng cung, nhưng tâm Thánh tử không còn ưa thích tất cả các pháp thế tục trong cuộc đời này, Ngài bỏ tất cả không chút lưu luyến, Ngài lại nói với con thế này: “Ông chớ nên can gián Ta, Ta không cần tất cả các thứ ngũ dục, xa lìa thân tộc quốc thành, chỉ thích cảnh núi rừng khe suôi vắng lặng.”

Đại vương Tịnh Phạn nghe Xa-nặc tâu như vậy và thấy đồ tư trang chuỗi anh lạc… của Thái tử nằm trên đất, ngài liền đảnh lễ các vật này, lệ nhỏ ướt cả mặt mày, lớn tiếng kêu khóc, rồi bảo Xa-nặc:

-Ta nay sức kiệt lại không còn ý khí, tay chân đều rã rời giống như cây khô trơ trụi, ngày nay ta xa cách Thái tử như cây không cành lá chỉ còn có thân cây. ĐốI với các nước bên ngoài, nay họ thấy vậy khinh khi, ta lại một mình không còn năng lực, như cây bị mưa đá, làm trò vui cho trẻ con.

Ôi thôi con ta ơi! Con là bậc Đại trượng phu tối thượng có hình dung khôi ngô khả ái không ai sánh bằng, là đồng tử dịu hiền lại trái tâm nguyện của ta, tại sao con xuất gia xa lìa ngũ dục, là đứa con tâm ta yêu mến mà lại bỏ ra đi!

Ôi thôi con ta ơi! Trên thân con có đủ các tướng, trong mỗi tướng đều đầy đủ trăm phước trang nghiêm.

Ôi thôi, con ta ơi! Khắp thân thể con đều đầy đủ các tướng tốt.

Ôi thôi, con ta ơi! Con chờ cho thể nữ ngủ say, con lén ra đi.

Ôi thôi, con ta ơi! Thuở xưa tại cung điện ta không có chút ưu sầu.

Ôi thôi, con ta ơi! Trong các nhà vua con là hơn hết.

Ôi thôi, con ta ơi! Từ trước đến nay con thường sinh trong dòng họ các nhà vua.

Ôi thôi, con ta ơi! Tại sao hôm nay con bỏ vương vị xuất gia?

Ôi thôi, con ta ơi! Con được nhiều người thích chiêm ngưỡng, hoặc kẻ nam người nữ, hoặc kẻ già người trẻ hay các bậc trượng phu, một khi mắt họ trông thấy con, là không một ai không hoan hỷ.

Ôi thôi, con ta ơi! Con là bậc tài giỏi đa trí.

Ôi thôi, con ta ơi! Nay con xả bỏ tất cả quyến thuộc, bốn châu thiên hạ và bảy báu mà xuất gia sống một mình.

Ôi thôi, con ta ơi! Nay con bỏ hoàng cung xuất gia ví như đại bạch tượng lay nhổ cổ thụ.

Ôi thôi, con ta ơi! Khi con ra khỏi hoàng cung trải qua bao nhiêu cửa thành, các cửa đều khó mở khó đóng, hơn nữa khi mở đóng tiếng động vang đi rất xa, tại sao hôm nay khiến ta không nghe? Ắt được chư Thiên cản ngăn tiếng động.

Ôi thôi, con ta ơi! Ngày nay nơi thành Ca-tỳ-la này, các hàng quyến thuộc dòng họ Thích mất hết hy vọng, do vì Thái tử Tất-đạt-đa xả tục xuất gia.

Ôi thôi, con ta ơi! Bao nhiêu quyến thuộc dòng họ Thích nơi thành Ca-tỳ-la có bao nhiêu tài sản vàng bạc ngọc ngà, kho lẩm lúa mạch, tiền bạc đồ vật… họ đều xả bỏ coi như đờm dãi, vì Thái tử bỏ đi xuất gia.

Ôi thôi, con ta ơi! Cha vì con xây dựng cung điện bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, tại sao ngày nay con bỏ cung điện ấy xuất gia ưa thích sống nơi vắng vẻ không người, vui cảnh sơn lâm chỉ đầy cầm thú.

Ôi thôi, con ta ơi! Thuở trước khi con chào đời, các Tiên nhân đoán hai việc, do vậy cha hết sức vui mừng tràn ngập châu thân không thể kiềm chế, nên lúc ấy bỗng nhiên đảnh lễ dưới chân hài nhi.

Ôi thôi, con ta ơi! Ngày nay con xuất gia, các vị thần hộ thành đều xa lánh nơi đây.

Ôi thôi, con ta ơi! Mặt con đầy đặn như trăng rằm. Răng con trắng sạch. Mắt con như mắt trâu chúa.

Ôi thôi, con ta ơi! Trước đây thường được nghe tiếng nói của con cha rất vui mừng, ngày nay nhớ tưởng lại càng sầu thảm.

Ôi thôi, con ta ơi! Ta thường dùng các loại hương chiên-đàn thơm hảo hạng như Đa-già-la, trầm thủy ngưu đầu để thoa trên thân con, dùng các chuỗi anh lạc trang sức trên thân con, dùng các loại hương xông để xông tấm thân mềm mại của con. Nay bỗng nhiên cha không thấy con.

Con ơi! Tâm cha ái luyến con thấm tận da, thịt, gân, mạch, xương, tủy vậy mà nay bỗng nhiên con xuất gia vào trong núi rừng!

Khi ấy, Đại vương Tịnh Phạn lại khấn vái:

-Ngày nay tôi đem tâm cầu nguyện tất cả chư vị Thần vương Hộ thế ủng hộ chúng sinh ở bốn phương, nay sẽ vì Thái tử xin quý ngài thường tạo những điều lợi ích giúp đỡ.

Ngày nay tôi đem tâm cầu nguyện chúa trời Đế Thích ngàn mắt trên Thiên giới, là vị vua trời, phu quân của Xá-chỉ, có thế lực lớn được thiên dân bao quanh hầu hạ, xin quý ngài giúp cho Thái tử.

-Lại mong các vị thần gió, thần nước, thần lửa, thần đất ở bốn phương chính và bốn phương phụ nơi thế gian, xin các ngài giúp đỡ cho Thái tử.

Các ngài là bậc Trượng phu vô thượng siêu việt làm sao vất bỏ bốn đại thiên hạ. Con ta xuất gia lập chí cầu quả Thánh vô thượng cực diệu. Ta mong cầu đại nguyện của con ta chóng thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, để ta sớm được chứng kiến.

Đại vương Tịnh Phạn nằm trên đất đem vô số lời quở trách con ngựa Kiền-trắc:

-Ngươi là con ngựa bất thiện, từ trước tới giờ ngươi đem lại cho ta nhiều điều an vui, nhưng nay vì lý do gì mà ngươi lại tạo những điều hết sức vô ích tổn hại đến dòng họ Thích của ta? Thái tử con ta thường yêu mến ngươi, đối với tâm ta cũng vậy, vì ngươi trước đây thường đem lại cho chúng ta những điều hoan hỷ, nhưng ngày nay ngươi làm những việc như vậy, là ngươi trở lại hủy diệt ngươi. Ngươi hãy đưa ta đến chỗ Thái tử đang ở, để ta cùng đứa con yêu dấu đồng tu khổ hạnh. Do vì ta ngày nay cách biệt Thái tử, thì thọ mạng ta chẳng bao lâu, đời sống ta chỉ trong chốc lát!

Rồi nhà vua nói kệ:

Ngựa Kiền-trắc, ngươi hãy mau lên
Đưa ta đi đến nơi Thái tử
Ta xa Thái tử mạng khó còn
Như người bệnh nặng không thuốc thang.

Nhà vua nói lời như vậy rồi, do lòng thương nhớ Thái tử nên đau khổ bức xúc, người nằm trên đất cắl tiếng khóc vang khổ não vô cùng, hoặc vừa chồm dậy lại liền ngã xuống ấm ức nghẹn ngào.

Lúc ấy có một vị đại thần thông minh trí tuệ cùng các Quốc sư, Bà-la-môn, thấy vua Tịnh Phạn lăn lộn trên đất, nghiêng bên tả ngã bên hữu, thân tâm lúc nào cũng rất ưu sầu áo não, buồn thảm khổ sở bức xúc không thôi. Họ muốn hóa giải tâm trạng u sầu này, cố làm ra vẻ không chút buồn rầu, đồng bạch Đại vương:

-Tâu Đại vương, ngày nay ngài nên xả bỏ sự ưu sầu khồ não, phải có nghị lực kiên cường, tâm ý bình tĩnh, chẳng nên ngã nhào chết giấc, giống như kẻ tầm thường khóc kể nước mắt ròng rã. Vì sao Đại vương không nên làm như vậy?

Tâu Đại vương, như trong quá khứ có nhiều vị vua đã từ bỏ vương vị như ném tràng hoa héo, mà vào thâm sơn tu khổ hạnh. Lại nữa, tâu Đại vương, Thái tử Tất-đạt-đa đã kết thiện duyên trong quá khứ nên ngày nay tiếp tục tu khổ hạnh để đạt quả Bồ-đề.

Tâu Đại vương, ngày nay, ngài nên nhớ lại lời Tiên nhân A-tư-đà năm trước. Tiên nhân thuở ấy tâu Đại vương: “Đồng tử này không thể lấy phước báo nhân thiên ràng buộc được và cũng không thể lấy ngôi Chuyển luân thánh vương mua chuộc người, hầu để mong người tham đắm dục lạc thế gian”.

Tâu Đại vương, ngày nay, nếu ngài quyết định kêu gọi Thái tử trở về, Đại vương chỉ ban sắc lệnh cho chúng tôi ra đi, Thái tử sẽ vâng theo vương lệnh, hoàn toàn không dám chống trái.

Đại vương liền bảo:

-Nếu hai khanh thấy như vậy là hợp lý, thì mau đến đó khuyên Thái tử trở về, còn nếu không được như vậy, thì thân mạng trẫm ngày nay thật bất an! Vì các khổ sở bức xúc.

Khi ấy đại thần và Quốc sư Bà-la-môn nhận sắc lệnh của vua Tịnh Phạn liền cùng nhau khởi hành để đi đến chỗ của Thái tử. Họ nói kệ:

Thái tử tu khổ hạnh như đây
Vua nhớ lời Tư-đà thuở trước
Ngôi Chuyển luân Thái tử chẳng ham
Đối ngũ dục nhân gian chẳng tưởng.

Đại thần và Quốc sư nói kệ rồi, hai người cùng nhau lên đường.

Đoạn nói về con ngựa Kiền-trắc, ngựa nghe đủ mọi lời quở trách thống thiết như trên, trong tâm hết sức ưu sầu buồn bã. Do tâm bị khổ não bức bách, không một chút an vui nên đưa đến bỏ mạng. Sau khi mạng chung thần thức sinh lên cõi trời Đao-lợi. Sau khi đã sinh lên cõi trời, biết Như lai đã thành đạo liền từ bỏ Thiên giới sinh xuống trần thế, làm con của một nhà Bà-la-môn đầy đủ sáu hạnh nơi thành Na-ba thuộc vùng Trung thổ Ấn độ. Qua thời gian đến tuổi trưởng thành, người con của nhà Bà-la-môn này đến đảnh lễ Đức Như Lai. Như Lai biết tiền thân người này trước làm thân ngựa, sau khi chết được sinh lên trời. Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói cho vị ấy nghe được tiền duyên đời trước làm thân ngựa. Vị ấy nghe pháp rồi, dứt sạch các lậu, giải thoát chứng Niết-bàn.