SỐ 278
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
Hán dịch: Đời Đông Tấn, Tam tạng Pháp sư Phật-đà-bạt-đà-la, người nước Thiên Trúc
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 22: MƯỜI ĐỊA

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trên bảo điện Ma-ni tại cung vua trời Tha hóa tự tại cùng với đại chúng Bồ-tát không còn thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, từ thế giới khác đến nhập hội.

Những vị Bồ-tát này, tất cả trí tuệ, hàng động của Bồ-tát đều tự tại, được vào chỗ trí tuệ của chư Phật Như Lai, có thể giỏi giáo hóa tất cả thế gian. Trong một niệm, có thể hiện khắp những thần thông, đầy đủ cả nguyện của Bồ-tát. Ở tất cả trời, tất cả kiếp, tất cả đất nước, thường tu tất cả hạnh Bồ-tát, đầy đủ phước đức trí tuệ của Bồ-tát không cùng tận. Có thể vì tất cả mà làm lợi ích, có thể đến bờ kia, có tất cả trí tuệ phương tiện của Bồ-tát, có thể khiến cho chúng sinh quay lưng lại với đường sinh tử để hướng về của Niết-bàn. Các vị chẳng còn gián đoạn với tất cả hạnh của Bồ-tát, giỏi đi vào tất cả thiền định giải thoát Tam-muội của Bồ-tát; các hành động, thần thông trí tuệ thị hiện tất cả. Tất cả thần túc vô tác của Bồ-tát đều được hết. Trong khoảnh khắc, các vị Bồ-tát này có thể đi đến đại hội của chư Phật ở mười phương, thăm hỏi thưa thỉnh thọ trì bánh xe pháp, thường dùng tâm lớn để cúng dường các Đức Phật, thường hay tu tập sự nghiệp theo hành động của những Đại Bồ-tát. Thân Bồ-tát ấy hiện khắp vô lượng thế giới; âm thanh của các vị nghe được khắp nơi; tâm thông đạt, thấy rõ ba đời, tu tập đầy đủ tất cả công đức của Bồ-tát.

Những Đại Bồ-tát như vậy, công đức vô lượng, vô biên, dù cả vô số kiếp mà nói cũng chẳng thể nói. Danh hiệu những Bồ-tát ấy là: Kim Cang Tạng, Bảo Tạng, Liên Hoa Tạng, Đức Tạng, Liên Hoa Đức Tạng, Nhật Tạng, Nguyệt Tạng, Tịnh Nguyệt Tạng, Chiếu Nhất Thiết Thế Gian Trang Nghiêm Tạng, Trí Tuệ Chiếu Minh Tạng, Diệu Đức Tạng, Chiên-đàn Đức Tạng, Hoa Đức Tạng, Ưu-bát-la Hoa Đức Tạng, Thiên Đức Tạng, Phước Đức Tạng, Vô Ngại Thanh Tịnh Trí Đức Tạng, Công Đức Tạng, Na-la-diên Đức Tạng, Vô Cấu Tạng, Ly Cấu Tạng, Chủng Chủng Lạc Thuyết Trang Nghiêm Tạng, Đại Quang Minh Võng Tạng, Tịnh Minh Uy Đức Vương Tạng, Đại Kim Sơn Quang Minh Uy Đức Vương Tạng, Nhất Thiết Tướng Trang Nghiêm Tịnh Đức Tạng, Kim Cang Diệu Đức Tướng Trang Nghiêm Tạng, Diêm Xí Tạng, Túc Vương Quang Chiếu Tạng, Hư Không Vô Ngại Diệu Âm Tạng, Đà-la-ni Công Đức Trì Nhất Thiết Thế Gian Nguyện Tạng, Hải Trang Nghiêm Tạng, Tu-di Đức Tạng, Tịnh Nhất Thiết Công Đức Tạng, Như Lai Tạng, Phật Đức Tạng, Giải Thoát Nguyệt Tạng…

Những Đại Bồ-tát như vậy nhiều vô lượng, vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể xưng nói, trong đó Bồ-tát Kim Cang Tạng làm Thượng thủ.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng nương theo thần lực của Đức Phật, vào Tam-muội Bồ-tát trí tuệ quang minh, tức thời mười phương thế giới, ở mỗi phương qua những thế giới nhiều như số vi trần của mười ức cõi Phật, có những Đức Phật nhiều như số vi trần của mười ức cõi Phật đều hiện thân với danh hiệu là Kim Cang Tạng. Mười phương thế giới đều cũng như vậy. Các Đức Phật đồng thanh khen ngợi:

–Hay thay, hay thay! Này Kim Cang Tạng! Ông có thể vào được Tam-muội Bồ-tát đại trí tuệ quang minh đó. Như vậy, những Đức Phật nhiều như số vi trần của thế giới mười phương, đều đồng một danh hiệu, gia hộ thêm cho ông uy thần như là bản nguyện lực, đại uy thần lực của Phật Lô-xá-na. Ông có đại trí tuệ muốn tuyên nói cho tất cả Bồ-tát về pháp minh của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, như là vào địa trí tuệ, bao gồm tất cả căn lành, phân biệt hoàn toàn tất cả pháp, pháp trí rộng, quyết định nói các pháp, trí không phân biệt giỏi phân biệt, tất cả pháp thế gian chẳng thể nhiễm, căn lành thanh tịnh xuất thế gian, được trí lực chẳng thể nghĩ bàn, được cảnh giới nhân trí của Nhất thiết trí. Như là, đúng sự thật nói về sự sai khác mười địa của Bồ-tát, Bồ-tát an trụ mười địa, phân biệt nói về pháp vô lậu, dùng đại trí tuệ quang minh phân biệt hoàn toàn để tự trang nghiêm, vào đầy đủ trí môn, theo chỗ ứng trụ mà lớp giảng nói, được ánh sáng giảng thuyết vô ngại, đầy đủ trí địa vô ngại, chẳng quên mất tâm Bồ-tát, giáo hóa thành thục tất cả chúng sinh giới, đến được tất cả chỗ trí quyết định.

Này Kim Cang Tạng! Ông phải nói sự sai biệt của pháp môn này, đó là thần lực của chư Phật. Ông có thể đủ sức nhận thần lực trí tuệ của Như Lai, tự thanh tịnh căn lành, thanh tịnh pháp giới, lợi ích chúng sinh, vào Pháp thân, Trí thân. Đối với tất cả Phật được thọ ký, được thân cao lớn trong tất cả thế gian, qua tất cả đường thế gian, thanh tịnh được căn lành xuất thế gian.

Ngay lúc ấy, các Đức Phật mười phương cho Kim Cang Tạng thân chân thật vô lượng, cho biện tài thuyết giảng vô ngại, cho trí tuệ thanh tịnh giỏi phân biệt, cho giỏi nhớ nghĩ chẳng quên, cho tuệ giỏi quyết định, cho đến chỗ Nhất thiết trí, cho lực không hư hoại của chư Phật, cho không sợ hãi của chư Phật, cho trí vô ngại của chư Phật phân biệt các pháp, giỏi mở cửa pháp; cho tất cả nghiệp thân, miệng, ý thượng diệu của chư Phật. Vì sao vậy? Vì được Bồ-tát đại trí tuệ quang minh, cũng chính là bản nguyện lực của Bồ-tát, trực tâm thanh tịnh, trí tuệ minh bạch, giỏi tập hợp pháp trợ đạo, giỏi tu bản nghiệp, ghi nhớ vô lượng pháp, tin chắc chắn pháp thanh tịnh quang minh, giỏi được môn Đà-la-ni chẳng thể hoại, được ấn chứng bằng ấn trí pháp giới.

Bấy giờ, chư Phật mười phương đều đưa tay phải xoa đỉnh đầu Bồ-tát Kim Cang Tạng.

Bồ-tát Kim Cang Tạng liền ra khỏi Tam-muội, bảo các vị Bồ-tát:

–Này các Phật tử! Nguyện của những Bồ-tát đó nhất định không có lỗi, chẳng thể hư hoại, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, che khắp tất cả chúng sinh của các thế giới Phật trong mười phương vì cứu độ tất cả thế gian, được sự hộ trì của thần lực chư Phật. Vì sao vậy? Vì những Đại Bồ-tát đã vào được trí địa của các Đức Phật quá khứ, cũng vào được trí địa của các Đức Phật vị lai và hiện tại. Những gì là trí địa của Đại Bồ-tát? Trí địa của Đại Bồ-tát có mười thứ mà các Đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đã nói. Hôm nay nói và sẽ nói chính là những Địa đó. Ta sẽ nói đúng như vậy.

Những gì là mười?

  1. Hoan hỷ.
  2. Ly Cấu.
  3. Minh.
  4. Diệm.
  5. Nan thắng.
  6. Hiện tiền.
  7. Viễn hành.
  8. Bất động.
  9. Thiện tuệ.
  10. Pháp vân.

Đó là mười Địa mà các Đức Phật ba đời đã nói, đang nói và sẽ nói. Ta chẳng thấy có cõi chư Phật nào mà chẳng nói mười địa đó. Vì sao vậy? Vì mười Địa này chính là đạo Tối thượng diệu, là pháp môn sáng suốt tối thượng của Bồ-tát. Đây là phân biệt mười Địa.

Này Phật tử! Việc ấy chẳng thể nghĩ bàn, đó là thuận theo trí tuệ các Địa.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói tên mười Địa của Bồ-tát xong rồi thì yên lặng không nói nữa.

Bấy giờ, tất cả Bồ-tát nghe tên mười Địa của Bồ-tát xong đều khao khát muốn được nghe giải thích. Tất cả đều tự nghĩ: “Vì nhân duyên gì Bồ-tát Kim Cang Tạng nói xong tên của mười Địa thì yên lặng như vậy?”

Khi ấy, trong chúng Đại Bồ-tát, có vị Bồ-tát tên là Giải Thoát Nguyệt biết ý niệm của các Bồ-tát nên dùng kệ hỏi:

Người chánh niệm trí tuệ
Vì sao nói danh hiệu
Các địa của Bồ-tát
Rồi yên lặng chẳng giải?
Nay các Đại Bồ-tát
Đều do dự trong lòng
Vì sao nói tên đó
Mà chẳng diễn ý nghĩa?
Các Bồ-tát đại Trí
Đều muốn được lắng nghe
Như vậy nghĩa các địa
Nguyện phân biệt nói lên!
Các chúng Bồ-tát
Không tỳ vết sạch trong
An trụ không thoái chuyển
Đầy đủ đức công trí
Đều đem lòng cung kính
Chiêm ngưỡng Bậc Đại Nhân
Nguyện muốn nghe Ngài nói
Như khát nghĩ nước ngon!

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng nghe nói thế, muốn làm vừa lòng chúng, dùng kệ đáp:

Hành động các Bồ-tát
Đứng đầu khó nghĩ bàn
Phân biệt mười Địa đó
Căn bản của chư Phật
Vi diệu rất khó thấy
Tâm không thể thông suốt
Phát ra từ tuệ Phật
Nếu nghe thì hoang mang
Giữ tâm như Kim cang
Tin sâu trí tuệ Phật
Cho là diệu đệ nhất
Lòng không có nghi nan
Xa lìa tâm chấp ngã
Và hoạt động của tâm
Các Bồ-tát như vậy
Mới có thể lắng nghe
Trí tịch diệt vô lậu
Phân biệt nói rất khó
Như vẽ vào như không
Như bắt làn gió thổi
Ta nghĩ trí Thế Tôn
Tối thượng khó nghĩ bàn
Chúng sinh ít tin được
Vậy nên ta im lặng.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nghe xong lời nói này, liền nói với Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Này Phật tử! Chúng Đại Bồ-tát này, lòng thẳng trong sạch, giỏi thi hành đạo Bồ-tát, khéo huân tập pháp trợ đạo, giỏi cung kính cúng dường các Đức Phật, gieo trồng nhiều căn lành ở chỗ vô lượng Đức Phật, thành tựu vô lượng công đức thâm hậu; lìa khỏi ngu si, nghi hoặc, hối hận, không có tham lam và các kết sử; thâm tâm tin hiểu, ở vững bất động trong pháp đó, chẳng theo lời dạy của người khác. Vậy nên, này Phật tử, ông phải nương theo thần lực Đức Phật mà diễn bày nghĩa này cho những Bồ-tát đó, làm cho họ đối với pháp sâu xa ấy đều có thể chứng biết.

Khi ấy, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt muốn lập lại nghĩa này nên nói kệ khen:

Nguyện nói pháp yên ổn
Hạnh Bồ-tát cao tột
Phân biệt nơi các Địa
Khiến trí tuệ sạch trong
Trí chúng sạch không bẩn
Tin hiểu thật chính xác
Đối vô số chư Phật
Chứng tri nghĩa mười Địa.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này Phật tử! Các đại chúng đó tuy đều thanh tịnh, lìa khỏi ngu si, nghi hoặc, hối tiếc, ở trong pháp đó, chẳng theo lời dạy người khác, nhưng số còn lại thì ưa pháp nhỏ, khi nghe sự kiện sâu xa khó ngĩ bàn đó, hoặc sinh ra nghi ngờ, người đó phải chịu đựng những khổ não lâu dài. Ta thương những người này nên phải yên lặng.

Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn lập lại lần nữa ý nghĩa này nên nói kệ rằng:

Chúng đó tuy thanh tịnh
Lìa nghi ngờ, trí sâu
Tâm họ đã quyết định
Chẳng thuận theo người khác,
Như Tu-di chẳng động
Chẳng loạn như biển lớn
Kẻ khác tu chẳng lâu
Trí tuệ chưa tỏ lường,
Theo thức chẳng theo trí
Nghe rồi sinh hối nghi
Họ sẽ đọa đường ác
Ta vì thương chẳng nói!
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói:

–Thưa Phật tử! Xin hãy nương theo thần lực của Đức Phật khéo phân biệt pháp chẳng thể nghĩ bàn này. Nhờ sự hộ niệm của chư Phật khiến cho chúng dễ tin hiểu. Vì sao? Vì nói rõ nghĩa mười địa thì chư Phật mười phương ứng theo pháp hộ niệm, tất cả Bồ-tát hộ trì việc đó, tinh tấn siêng làm. Vì sao vậy? Vì đó là hành động tối thượng của Bồ-tát được đến với tất cả các Phật pháp. Ví như tất cả văn tự đều được tóm lược của chương đầu. Chương đầu là gốc, không có một chữ nào mà chẳng thuộc vào chương đầu.

Này Phật tử! Như mười Địa ấy là căn bản của tất cả Phật pháp, Bồ-tát tu hành đầy đủ mười Địa đó thì có thể được tất cả trí tuệ. Vậy nên, này Phật tử! Xin hãy nói rõ nghĩa này thì chư Phật sẽ hộ niệm, gia hộ thêm thần lực, khiến cho người tin nhận chẳng thể phá hoại.

Khi đó, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt muốn ý nghĩa sáng tỏ, nói kệ rằng:

Hay thay, người trí tuệ
Đầy đủ hạnh sạch trong
Xin nói hạnh mười Địa
Pháp vào trong mười Địa,
Đầy đủ cả trí tuệ
Được rồi, chứng Bồ-đề
Tất cả Phật mười phương
Tối thắng, Nhân Trung Tôn,
Đều hộ niệm ông cả
Nói nghĩa mười Địa đó
Mười Địa là căn nguyên
Là hoạt động của trí
Cũng là đạo rốt ráo
Pháp tu của chư Phật,
Ví như các văn tự
Đều gom ở chương đầu
Trí công đức chư Phật
Mười Địa là căn bản.

Bấy giờ, các vị Bồ-tát, cùng một lúc, đồng thanh nói kệ thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng:

Người trí tuệ thượng diệu
Nói giỏi thật không lường
Đức trọng như vua núi
Từ mẫn nói mười địa!
Giới, Niệm, Tuệ thanh tịnh
Tuyên dương nghĩa mười Địa
Căn bản của mười Lực
Bản hạnh trí không ngại
Công đức giới, định, tuệ
Đủ trong tâm của ngài
Kiêu mạn các tà kiến
Đều bị diệt tận cùng
Chúng này không nghi hoặc
Nguyện được nghe giảng giải
Như bệnh mong thầy thuốc
Như đói nghĩ ăn ngon
Chúng tôi cũng như vậy
Nghe vị pháp ngọt lành
Vậy xin ngài rộng lòng
Mở cửa Địa thứ nhất
Cho đến Địa thứ mười
Nói thứ lớp cho tôi.

Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, từ tướng bạch hào giữa hai lông mày, phóng ra ánh sáng lực Bồ-tát, có trăm ngàn a-tăng-kỳ ánh sáng làm quyến thuộc, soi khắp thế giới, chư Phật trong mười phương, không chỗ nào là không chiếu đến. Các khổ trong ba đường ác nhờ đó mà chấm dứt. Chiếp khắp đại chúng trong hội thuyết pháp của chư Phật trong mười phương, hiển hiện năng lực chẳng nghĩ bàn của Như Lai. Ánh sáng đó soi khắp thân của các vị Bồ-tát trong đại hội của chư Phật mười phương rồi thì tụ ở trên giữa hư không thành đài mây ánh sáng lớn.

Các Đức Phật mười phương cũng lại như vậy, từ tướng bạch hào giữa hai lông mày đều phóng ra ánh sáng lực Bồ-tát, có trăm ngàn a-tăng-kỳ ánh sáng làm quyến thuộc, hiển hiện thần lực chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, chiếu soi hết tất cả đại hội của chư Phật và tất cả đại chúng của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà cùng Bồ-tát Kim Cang Tạng và tòa Sư tử. Chiếu xong, ánh sáng tụ ở trên giữa hư không thành đài mây ánh sáng lớn. Khi đó, trong những đài mây ánh sáng lớn, nhờ thần lực của chư Phật nói kệ khen rằng:

Chư Phật không ai bằng
Công đức như hư không
Mười Lực, không sợ hãi
Tối tôn trên thế gian
Ở trước Phật Thích-ca
Thần lực này hiện lên
Do Phật lực hiện bày
Tạng Pháp vương vô úy
Nói tu hành các Địa
Các Địa, nghĩa không đồng
Nhờ thần lực chư Phật
Không ai phá hoại được
Nếu người nghe Pháp bảo
Thì chư Phật hộ trì
Dần dần đủ các Địa
Đã được thành Phật đạo
Nếu người nào chịu nghe
Tuy tại biển mênh mông
Và trong lửa kiếp tận
Nhất định được nghe kinh
Nếu người si nghi ngờ
Chẳng bao giờ được nghe
Vậy nên, nay Phật tử!
Nói đạo trí các Địa
Nhờ thế lực quán pháp T
hứ lớp mà tu hành
Được đến với địa khác
Đều được lợi ích hơn
Lợi tất cả thế gian
Nguyện nói chớ gián đoạn.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng quan sát mười phương, muốn khiến cho đại chúng Tăng thêm kính tin, nói kệ thêm:

Đạo Thánh của chư Phật
Rất khó hiểu vi diệu
Chẳng đắc do suy nghĩ
Do người trí thực hành
Tánh ấy từ xưa nay
Tịch nhiên không sinh diệt
Không từ gốc đến nay
Diệt trừ các khổ não
Xa lìa các cảnh giới
Đồng với tướng Niết-bàn
Không giữa, không sau cùng
Ngôn ngữ chẳng nói được
Vượt qua cả ba đời
Tướng ấy như hư không
Tu hành của chư Phật
Rất tịch diệt sạch trong
Lời nói khó nói được
Sự tu hành cũng vậy
Bằng lời nói còn khó
Huống gì dạy cho người
Trí tuệ của chư Phật
Ngoài suy nghĩ của tâm
Chẳng thể nghĩ bàn được
Chẳng có ấm, giới, nhập
Chỉ dùng trí biết thông
Chẳng phải thức biết được
Khó biết vết hư không
Sao chỉ được tướng ấy?
Nghĩa mười Địa như vậy
Tâm ý chẳng nghĩ được
Việc đó tuy là khó
Phát nguyện làm Từ bi
Dần đần đủ các Địa
Vi diệu rất khó thấy
Dùng tâm chẳng biết thông
Phải nhờ Phật lực nói
Các ông phải cùng chung
Một lòng nghe cung kính
Đã thuận theo trí tuệ
Đi vào tướng các địa
Cả ức kiếp không lường
Nói ra chẳng thể tận
Nay chân thật lược nói
Trọn vẹn về nghĩa ấy
Một lòng cung kính đợi
Nương nhờ Phật lực nói
Lớn tiếng xướng luận bàn
Danh nghĩa chẳng trái nhau
Thần lực Phật không lường
Nay thân ta đều nói
Những điều ta nói đó
Như giọt nước biển khơi.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói kệ này rồi, bảo với đại chúng:

–Này các Phật tử! Nếu chúng sinh huân tập đầy căn lành, tu tập các hạnh thiện, giỏi tập hợp pháp trợ đạo, cúng dường các Đức Phật, tu tập các pháp Bạch tịnh thì được sự hộ trì của Thiện tri thức, vào được tâm sâu rộng, tin ưa đại pháp, lòng luôn hướng về đại Bi, thích cầu trí tuệ của chư Phật. Chúng sinh như vậy thì mới có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, được Nhất thiết chủng trí, được mười Lực, được không lo sợ, được đầy đủ Phật pháp, cứu độ tất cả thế gian, tịnh tâm đại Từ bi, hướng về mười phương bằng trí hoàn toàn vô ngại; là tịnh tất cả các nước Phật, là ở trong một niệm biết sự việc ba đời, lại tự tại chuyển bánh xe đại pháp, thị hiển rộng lớn thần lực của đức Phật. Đại Bồ-tát nên sinh tâm như vậy.

Này các Phật tử! Tâm đó lấy đại Bi làm đầu; trí tuệ tăng lên, làm phương tiện giúp đỡ; trực tâm và thâm tâm hoàn hảo, lượng đồng với Phật lực, quyết định trọn vẹn chúng sinh lực và Phật lực. Hướng đến trí vô ngại, thuận theo trí tự nhiên, có thể nhận lấy tất cả Phật pháp, dùng trí tuệ giáo hóa rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không đến tận đời vị lai. Bồ-tát phát tâm như vậy tức thời vượt qua khỏi địa vị phàm phu, nhập vào quả vị Bồ-tát, sinh ra trong nhà của Đức Phật, dòng họ tôn quý, không thể chê trách hiềm nghi, vượt qua tất cả đạo thế gian, vào đạo xuất thế gian, ở trong pháp Bồ-tát, thuộc hàng những Bồ-tát, bình đẳng vào trong chủng tánh Như Lai ba đời, nhất định rốt ráo Vô thượng Bồ-đề. Bồtát trụ ở pháp như vậy thì gọi là trụ ở địa Hoan hỷ bằng pháp bất động.

Này các Phật tử! Đại Bồ-tát trụ ở địa Hoan hỷ thì nhiều hoan hỷ, nhiều chánh tín, nhiều thanh tịnh, nhiều vui mừng, nhiều nhu hòa, nhiều chịu đựng, chẳng ưa đấu tranh, chẳng ưa não loạn chúng sinh, chẳng ưa sân hận.

Này các Phật tử! Các Bồ-tát trụ ở địa Hoan hỷ đó, do niệm các Đức Phật nên sinh tâm hoan hỷ, niệm các Đại Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ, niệm các hạnh Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ, niệm các tướng thanh tịnh Ba-la-mật nên sinh tâm hoan hỷ, niệm các Bồ-tát cùng chúng thù thắng nên sinh tâm hoan hỷ, niệm các năng lực của Bồ-tát chẳng thể hư hoại nên sinh tâm hoan hỷ, niệm các pháp giáo hóa của Như Lai nên sinh tâm hoan hỷ, niệm có thể vì lợi ích của chúng sinh nên sinh tâm hoan hỷ, niệm sự đi vào các môn trí tuệ phương tiện của tất cả Đức Phật, tất cả vị Bồ-tát nên sinh tâm hoan hỷ.

Bồ-tát ấy phát khởi ý nghĩa: “Ta chuyển đổi cảnh giới tất cả thế gian nên sinh hoan hỷ, vào trong bình đẳng của tất cả Phật nên sinh lòng hoan hỷ, xa lìa phàm phu nên sinh lòng hoan hỷ, gần địa vị trí tuệ nên sinh lòng hoan hỷ, đoạn trừ tất cả đường ác nên sinh lòng hoan hỷ, cho tất cả chúng sinh làm chỗ nương nhờ nên sinh lòng hoan hỷ, thân cận nhìn thấy tất cả các Đức Phật nên sinh lòng hoan hỷ, sinh vào cảnh giới các Đức Phật nên sinh lòng hoan hỷ, vào tất cả hàng Bồ-tát nên sinh lòng hoan hỷ, lìa tất cả khủng bố nên sinh lòng hoan hỷ.” Vì sao? Vì Bồ-tát đó được địa Hoan hỷ thì sợ hãi đều không còn. Những sợ hãi ấy là: sợ không sống được, sợ tên xấu, sợ chết, sợ đọa đường ác, sợ uy đức của đại chúng. Lìa tất cả những sợ như vậy. Vì sao? Vì Bồ-tát đó không còn tướng ngã, thân còn chẳng ham huống là vật dụng. Vậy nên, Bồ-tát không có nỗi sợ không sống được. Lòng chẳng hy vọng cung kính cúng dường rằng “Ta đáng được chúng sinh cúng dường, cung cấp các điều cần thiết.” Vậy nên, Bồ-tát không có sợ danh ác, xa lìa ngã kiến, không có ngã tướng nên không có sự sợ chết.

Bồ-tát lại sinh ý nghĩ: “Ta nếu chết rồi, được sinh ra ắt được thấy chư Phật và Bồ-tát. Vậy nên không có nỗi sợ đọa đường ác. Chí muốn của ta không ai bằng, huống gì có ai hơn. Vậy nên không có nỗi sợ uy đức đại chúng.” Như vậy, Bồ-tát mãi mãi lìa khỏi tất cả những sự khủng bố.

Này các Phật tử! Bồ-tát đó lấy đại Bi làm đầu, đối với tất cả chúng sinh, lòng không hiềm hận, lòng chánh trực kiên cố, tự nhiên thanh tịnh, lại còn siêng tu tất cả căn lành. Đó là lòng tin tăng lên, tu hành nhiều tịnh tâm, tâm xác định thanh tịnh; bằng nhiều lòng tin phân biệt, sinh ra đại Bi, thành tựu đại Từ, chẳng mệt mỏi lười biếng; dùng tàm quý trang nghiêm, thành tựu nhẫn nhục nhu hòa, kính thuận giáo pháp của chư Phật, tin tưởng tôn trọng Thiện tri thức, ngày đêm thường tu tất cả căn lành, thường ưa thích pháp, cầu đa văn không chán, đúng theo chánh pháp đã nghe chánh niệm quan sát, lòng chẳng tham trước, chẳng cầu danh tiếng tốt, chẳng cầu tư lợi, thường phát sinh lòng báu không biết chán, ưa Nhất thiết trí, muốn được lực không sợ pháp bất cộng của chư Phật, cầu trợ các pháp Ba-la-mật, lìa khỏi các dối trá, làm đúng như lời nói, thường nói lời thật, chẳng làm bẩn nhà của chư Phật, chẳng bỏ giới Bồ-tát, sinh ra Nhất thiết chủng trí, lòng chẳng động như núi chúa, chẳng ưa việc thế gian, thành tựu căn lành xuất thế gian, tập hợp pháp Bồ-đề không biết chán, thường cầu đạo thắng nhất trong các thắng. Bồ-tát thành tựu pháp tịnh địa như vậy thì gọi là an trụ địa Hoan hỷ.

Bồ-tát an trụ địa Hoan hỷ như vậy thì phát các đại nguyện, sinh ra định tâm như vầy: “Ta sẽ dùng âm thanh tịnh cúng dường tất cả các Đức Thế, tất cả đồ cúng tùy ý cúng dường. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, đến tận cùng đời vị lai, cúng dường hết chư Phật trong tất cả kiếp, dùng đầy đủ đại cúng dường không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, kinh pháp mà tất cả chư Phật đã nói ta đều thọ trì hết, giữ lấy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của tất cả chư Phật. Đều thuận theo hết pháp giáo hóa của tất cả chư Phật. Đều có thể giữ gìn hết tất cả những Phật pháp. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng tận như hư không, đến tận đời vị lai đều giữ gìn hết tất cả Phật pháp trong tất cả kiếp, không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, tất cả chư Phật trong tất cả thế giới, từ trời Đâu-suất xuống, vào ở trong thai, sinh ra xuất gia, khi thành Phật đạo, được khuyến thỉnh chuyển bánh xe pháp lớn, rồi thị hiện vào đại Niếtbàn.

Lúc ấy, ta đến tận nơi cúng dường, lấy pháp làm đầu, chuyển cả ba đời. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng tận như hư không, đến tận cùng đời vị lai, đến hết tất cả kiếp. Phụng nghinh cúng dường tất cả các Đức Phật không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, tất cả sự tu hành của Bồ-tát rộng lớn không lường, chẳng thể hoại, không phân biệt, bao gồm các Ba-la-mật, sự thanh tịnh các địa, sinh ra các pháp trợ đạo, tướng chung, tướng riêng, tướng có, tướng không, có thành, có hoại. Tất cả sự tu hành của Bồ-tát, các đạo quả và bổn hạnh của các Ba-la-mật; giáo hóa tất cả khiến cho họ nhận lấy tu hành, lòng được tăng trưởng. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng tận như hư không, đến tận cùng vị lai, trong hết tất cả kiếp. Sự tu hành của Bồ-tát dùng những pháp giáo hóa, thành thục chúng sinh, không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, tất cả chúng sinh hoặc có sắc, hoặc không sắc; có tưởng; không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng; noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, bị ba cõi ràng buộc, vào với sáu đường, tất cả nơi sinh, bị danh sắc giữ lấy. Bồ-tát giáo hóa cho họ thành thục, đoạn dứt tất cả đường thế gian, khiến cho vào Phật pháp, có tất cả trí tuệ, không sợ ai cả. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng tận như hư không, đến tận cùng đời vị lai, hết tất cả kiếp, giáo hóa tất cả chúng sinh không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, tất cả thế giới rộng, hẹp và trung bình; vô số lượng chẳng thể phân biệt, chẳng thể hoại, chẳng thể động, chẳng thể nói to, nhỏ, đứng ngay thẳng, đứng nghiêng ngã, bằng phẳng vuông tròn… theo các vị trí thế giới như vậy, như lưới Nhân-đà-la sai biệt. Thế giới mười phương sai biệt như vậy Bồ-tát đều biết hết như hiện tại. Phát nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng tận như hư không, đến tận cùng đời vị lai, hết tất cả kiếp, những thế giới như vậy Bồ-tát đều biết hết như hiện tại không ngưng nghỉ.

Lại nữa, tất cả cõi Phật vào một cõi Phật, một cõi Phật vào tất cả cõi Phật. Mỗi một cõi Phật trang nghiêm không lường, lìa những cấu bẩn, đầy đủ trí tuệ thanh tịnh. Chúng sinh đều đầy ở trong ấy, thường có sức đại thần thông của chư Phật theo lòng chúng sinh mà thị hiện. Phát nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng tận như hư không, đến tận cùng đời vị lai, hết tất cả kiếp, làm thanh tịnh đất nước như vậy không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, tất cả Bồ-tát đồng tâm, đồng học, gom chung các căn, không có thù oán, đồng một cảnh giới, tâm bình đẳng hoà hợp, thường chẳng lìa nhau, theo đối tượng ấy có thể thân Phật, tự ở trong lòng đều có thể biết rõ cảnh giới chư Phật và thần thông trí lực, thường được thần thông tùy ý, có thể du hành hết tất cả đất nước, đến tất cả Phật hội đều hiện thân tướng; tất cả chỗ sinh, đều sinh vào trong ấy, đại trí tuệ chẳng có thể nghĩ bàn như vậy, đầy đủ hạnh Bồ-tát. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng khắp như hư không, đến tận cùng đời vị lai, hết tất cả kiếp hành đạo đại trí tuệ như vậy không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, cõi bánh xe không thoái lui, hành đạo Bồ-tát, hành động của nghiệp thân miệng ý chẳng vô ích. Chúng sinh thấy được liền đạt được Phật pháp; nghe âm thanh ta thì được trí tuệ chân thật; thấy ta thì lòng liền hoan hỷ, lìa các phiền não như vua cây thuốc và được hành đạo Bồ-tát như vậy. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng khắp như hư không, đến tận cùng đời vị lai, hết tất cả kiếp hành đạo chẳng thoái lui, hành động chẳng vô ích, không có ngưng nghỉ.

Lại nữa, tất cả thế giới đều chứng đắc được Vô thượng Bồ-đề. Ở đầu một sợi lông thị hiện vào thai, xuất gia, ngồi đạo tràng, thành Phật đạo chuyển pháp luân, độ chúng sinh, thị hiện đại Niếtbàn, hiện những thần thông trí lực của Như Lai, theo căn cơ của tất cả chúng sinh mà hóa độ. Ở trong từng niệm từng niệm được Phật đạo, biết tất cả pháp thật tướng của Niết-bàn. Dùng một âm thanh khiến cho tất cả chúng sinh đều phát sinh hoan hỷ, thị hiện đại Niết-bàn mà chẳng gián đoạn sự tu hành của Bồ-tát; chỉ dạy cho chúng sinh địa vị đại trí, khiến cho họ biết tất cả pháp đều là giả ngụy. Dùng đại trí tuệ thần thông tự tại sinh ra biến hóa tràn đầy pháp giới. Phát đại nguyện như vậy, rộng lớn như pháp giới, cùng khắp như hư không, đến tận cùng đời vị lai, hết tất cả kiếp được việc Phật đạo, cầu đại trí tuệ, đại thần thông… không có ngưng nghỉ.

Này các Phật tử! Bồ-tát trụ ở địa Hoan hỷ dùng mười nguyện làm đầu, sinh ra trăm vạn a-tăng-kỳ đại nguyện như vậy… Do mười pháp không thể cùng tận mà phát sinh nguyện đó. Vì để mãn nguyện này nên siêng tu hành tinh tấn.

Những gì là mười pháp không thể cùng tận?

Chúng sinh không thể cùng tận.
Thế giới không thể cùng tận.
Hư không không thể cùng tận.
Pháp giới không thể cùng tận.
Niết-bàn không thể cùng tận.
Phật ra đời không thể cùng tận.
Trí tuệ chư Phật không thể cùng tận.
Tâm sở duyên không thể cùng tận.
Khởi trí không thể cùng tận.
Thế gian chuyển, pháp chuyển, trí chuyển không thể cùng tận.

Nếu chúng sinh tận nguyện ta mới tận. Nếu thế giới hư không, pháp giới, Niết-bàn, Phật ra đời, trí tuệ chư Phật, đối tượng của tâm, khởi trí, các chuyển tận thì nguyện ta mới tận. Nhưng chúng sinh thật chẳng thể tận; thế giới, hư không, pháp giới, Niếtbàn, Phật ra đời, trí tuệ chư Phật, đối tượng của tâm, khởi trí, các chuyển thật chẳng thể tận; nên các nguyện căn lành của ta cũng chẳng thể cùng tận.

Này các Phật tử! Bồ-tát quyết định phát đại nguyện như vậy thì được tâm an ổn, tâm nhu hòa, tâm điều thuận, tâm chẳng sân nhuế, tâm chẳng bẩn, tâm chẳng phóng dật, tâm tịch diệt, tâm thẳng, tâm điều nhuận, tâm chẳng sân nhuế, tâm chẳng bẩn. Như vậy thì thành người tin, ưa dùng sự tin tưởng để phân biệt công đức. Tin sự hành đạo đời trước của chư Phật, tin thực hành các Ba-la-mật thì được tăng trưởng, tin vào hoàn toàn các Địa được công đức thù thắng, tin được thành mười lực của Phật, tin đầy đủ bốn pháp không sợ, tin pháp bất cộng chẳng thể hoại, tin pháp chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, tin thần lực tự tại của chư Phật vô lượng, vô biên, tin vô lượng hạnh môn của các Đức Như Lai, tin từ nhân duyên đến thành quả báo… Nói tóm lại tin khắp các hạnh của các Bồ-tát, trí tuệ công đức và uy thần lực của chư Phật.

Này các Phật tử! Bồ-tát phát sinh ý niệm này: Chánh pháp của chư Phật sâu xa như vậy, ly tướng như vậy, tịch diệt như vậy, rỗng không như vậy, vô tướng như vậy, vô tác như vậy, ô nhiễm như vậy, vô lượng như vậy, rộng lớn như vậy, khó hoại như vậy… mà các phàm phu thì lòng rơi vào tà kiến, vô minh si tối che mắt trí tuệ của chúng, thường dựng lên cờ kiêu mạn, rơi vào lưới khát ái, thuận theo dối trá, thường ôm lòng ganh ghét mà tạo ra nhân duyên cho chỗ sinh ra thân đời sau. Chúng huân tập nhiều tham dục, sân hận, ngu si sinh ra những nghiệp ác. Gió mạnh thù hận thổi lửa tâm tội, khiến cho thường cháy rực lên. Có làm việc thì cũng đều tương ứng điên đảo với dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu nối tiếp nhau khởi lên nơi tâm ý, thức gieo trồng ở đất ba cõi, sinh ra mầm cây khổ não. Đó là danh sắc, danh sắc hòa hợp tăng trưởng lục nhập. Căn trần đối nhau sinh ra xúc, xúc sinh ra thọ. Ham thích thọ nên sinh ra ái; ái tăng thưởng nên sinh thủ; thủ làm nhân duyên nên lại sinh ra hữu cho đời sau. Có nhân duyên nên có sinh, già, chết, ưu, bi, khổ não.

Như vậy, nhân duyên huân tập các nhóm khổ, thọ các khổ não. Trong đó không ngã, không ngã sở, không tác giả, không người nhận, không người biết, như cỏ cây ngói đá, lại như hình ảnh, như tiếng vang. Kẻ phàm phu đáng thương chẳng giác ngộ nên chịu khổ. Ở đây, Bồ-tát thấy những chúng sinh chẳng thoát khỏi các khổ liền sinh ra trí tuệ đại Bi. Những chúng sinh đó, ta nên cứu hộ, khiến cho họ được an vui của Phật đạo rốt cùng, Bồ-tát liền sinh ra trí tuệ đại Từ. Đại Bồ-tát thuận theo pháp đại Từ bi như vậy, dùng tâm thâm diệt trụ ở địa thứ nhất. Đối với tất cả Phật, học làm theo đại Trí, tức thời có thể thí hết các sở hữu. Đối với vàng, bạc, ngọc, ma-ni, xa cừ, mã não, lưu ly, san hô, hổ phách, kha bối, trân bảo anh lạc, đồ trang nghiêm thân và voi ngựa, xe cộ, nhân dân, nô tỳ, đất nước, thành ấp, vườn rừng dạo xem, thê thiếp, con trai, con gái… tất cả vật yêu mến đều đem cho hết. Đối với đầu, mắt, tai, mũi, chi tiết tay chân, vì rất trọng nên Bồ-tát Phật chẳng tham tiếc.

Đại Bồ-tát trụ ở Sơ địa, có thể thi hành bố thí lớn. Bồ-tát đó dùng tâm đại Bi cứu tất cả chúng sinh, siêng cầu việc lợi ích cho thế gian mà lòng không mệt mỏi lười biếng, vậy nên Bồ-tát sinh ra công đức không mệt mỏi. Đối với kinh điển có thể tự hiểu rõ, vậy nên Bồ-tát sinh ra công đức biết kinh điển. Được trí tuệ biết kinh điển như vậy thì có thể giỏi trù lượng việc nên làm, việc chẳng nên làm. Đối với chúng sinh thượng, trung, hạ thì Bồ-tát tùy nghi làm lợi ích cho họ, vậy nên Bồ-tát thường sinh ra công đức trí thế gian. Được công đức trí thế gian thì biết thời biết lượng, tàm quý trang nghiêm, tu tập đạo tự lợi và lợi người khác, vậy nên Bồ-tát sinh ra công đức tàm quý. Công đức như vậy, tinh tấn tu hành, lòng chẳng giải đãi thoái chuyển thì đó là công đức tinh tấn chẳng thoái, tức là được sức chịu đựng. Được sức chịu đựng ấy rồi, Bồ-tát siêng cúng dường tất cả các Đức Phật, theo lời nói của Đức Phật, tu hành đúng theo lời nói.

Này các Phật tử! Bồ-tát đó đều biết sinh khởi như vậy chính là Pháp tịnh địa. Những điều đó gọi là: Tín, từ, bi, thí, không có mệt mỏi, biết các kinh điển, giỏi giải pháp thế gian, tàm quý chịu đựng, cúng dường các Đức Phật, làm đúng như lời nói.

Lại nữa, Bồ-tát đó trụ ở địa Hoan hỷ, nếu ít thấy chư Phật thì dùng sức chú nguyện nên thấy khắp hàng trăm vạn ức na-do-tha các Đức Phật Thế Tôn, lòng rất vui mừng, thân tâm yêu kính, đem những đồ vừa ý tối thượng cúng dường các Đức Phật và tất cả chúng Tăng. Rồi Bồ-tát đem phước đức này mà hồi hướng về quả vị Vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát đó nhân cúng dường các Đức Phật nên phát sinh giáo hóa chúng sinh. Bồ-tát phần nhiều dùng hai pháp nhiếp để giúp đỡ chúng sinh. Đó là Bố thí và Ái ngữ.

Hai Nhiếp pháp sau đối với điều chưa thông đạt giỏi thì dùng sức tín giải tu hành. Sự cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh của Bồ-tát thì đều có thể nhận lấy thực hành các Pháp tịnh địa. Những công đức như vậy đều hồi hướng Nhất thiết chủng trí, càng thêm sáng tỏ thì có thể dùng được. Ví như thợ vàng luyện vàng theo sức lửa, điều hòa lửa thích hợp thì tăng thêm sắc sáng.

Như vậy, Bồ-tát cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh thực hành Pháp tịnh địa. Những công đức này đều hồi hướng Nhất thiết chủng trí càng thêm sáng tỏ, sử dụng tùy ý.

Này các Phật tử! Đại Bồ-tát đó, ở trong địa thứ nhất, tu hành quả tướng mạo, từ chỗ Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức hỏi han nghe nhớ pháp để thành tựu, không chán bỏ. Bồ-tát đó trụ ở địa thứ nhất, ở chỗ chư Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức hỏi nghe nhớ tu hành tướng quả mạo trong địa thứ hai không có nhàm chán. Như vậy, hành quả tướng mạo trong địa thứ ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười là từ chỗ chư Phật, Bồ-tát và Thiện tri thức hỏi han nghe, nhớ mà thành tựu pháp mười Địa, không nhàm chán. Bồ-tát đó giỏi biết pháp đối trị của các địa, giỏi biết sự thành hoại của các địa, giỏi biết quả của các địa, giỏi biết phân biệt được các địa, giỏi biết hạnh thanh tịnh của các địa, giỏi biết thi hành từ một địa đến một địa của các địa, giỏi biết chỗ đúng và chỗ sai của các địa, giỏi biết sự đổi chỗ của các địa, giỏi biết nghiệp thắng tiến của các địa, giỏi biết các địa được không thoái chuyển… cho đến giỏi biết pháp Tịnh địa của tất cả Bồ-tát vào vị trí địa của Như Lai.

Này các Phật tử! Như vậy Bồ-tát giỏi biết sự tu hành của các Địa: Từ chưa phát Địa thứ nhất cho đến biết được Địa thứ mười, không có chướng ngại. Bồ-tát được ánh sáng trí tuệ của các Địa, cho đến biết được ánh sáng của chư Phật. Như vị chủ buôn lớn đem nhiều nhiều người buôn, muốn đến ngôi thành lớn thì trước hỏi đường đi, lầm lỗi khi lui về, lợi hại ở đường đi. Từ chỗ chưa xuất phát đó, biết nghỉ đêm trên đường cho đến giỏi biết việc đến ngôi thành đó, có thể dùng trí tuệ suy nghĩ trù lượng đủ các đồ đạt để dùng, khiến cho không có thiếu thốn; dẫn mọi người đí đúng đường, đến được ngôi thành lớn, trong con đường nguy hiểm thì khỏi các hoạn nạn, bản thân chủ buôn và mọi người đều không ưu buồn.

Đại Bồ-tát cũng như vậy, trụ nơi Địa thứ nhất mà giỏi biết pháp đối trị các Địa, cho đến giỏi biết tất cả Pháp tịnh địa của Bồ-tát để vào trí địa của Như Lai.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát tập hợp của cải đại phước đức trí tuệ làm chủ buôn cho chúng sinh, tùy nghi giáo hóa khiến cho họ vượt khỏi sinh tử, nơi ác, nạn hiểm, bày ra con đường yên ổn…, cho đến khiến cho họ trụ ở thành lớn Nhất thiết chủng trí, không có các não. Vậy nên, Bồ-tát thường lòng chẳng mệt mỏi, siêng tu bản hạnh các địa, cho đến giỏi vào trí địa của Như Lai.

Này các Phật tử! Đó gọi là nói lược về việc Bồ-tát vào địa Hoan hỷ, còn nói rộng thì có vô lượng trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ sự việc, Bồ-tát trụ địa Hoan hỷ thì đa phần làm vua cõi Diêm-phùđề, giàu sang, quyền lực, thường ủng hộ chánh pháp, có thể dùng đại thí bảo hộ cho chúng sinh, tiêu trừ hoàn toàn những cấu bẩn keo kiệt tham lam của chúng sinh, thường hành bố thí lớn mà không cùng tận; làm những thiện nghiệp như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự… Những phước đức đó đều chẳng rời khỏi niệm Phật, chẳng rời khỏi niệm pháp, chẳng rời khỏi niệm các đồng sự, chẳng rời khỏi niệm hành đạo Bồ-tát, chẳng rời khỏi niệm những Ba-la-mật, chẳng rời khỏi mười địa, chẳng rời khỏi niệm các lực, không sợ pháp bất cộng…, cho đến chẳng rời khỏi niệm Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát thường sinh ý nghĩ: “Ở giữa tất cả chúng sinh, ta sẽ làm đứng đầu, làm hơn, làm lớn, làm diệu, làm trên, làm không gì trên, làm dẫn đường, làm tướng, làm soái, làm tôn trưởng…, cho đến ở trong tất cả chúng sinh, ta làm người y chỉ.”

Này các Phật tử! Nếu Bồ-tát đó muốn bỏ nhà, cần hành tinh tấn ở trong Phật pháp thì liền có thể bỏ nhà, vợ con, năm dục. Được xuất gia rồi, Bồ-tát cần hành tinh tấn thì trong chốc lát, được năm trăm Tam-muội, được thấy trăm Đức Phật, biết thần lực của trăm Đức Phật, có thể lay động trăm thế giới Phật, có thể bay qua trăm thế giới Phật, có thể sống lâu trăm kiếp, có thể biết việc đời quá khứ, đời vị lai đều trăm kiếp, có thể giỏi vào cả trăm pháp môn, có thể biến một thân ra làm một trăm. Ở mỗi một thân có thể thị hiện hàng trăm Bồ-tát để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thì hơn số này, trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp chẳng thể kể biết được.

Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm sáng nghĩa này, nên một lần nữa nói kệ khen rằng:

Nếu có những chúng sinh
Tu tập nhiều căn lành
Thành tựu pháp thanh bạch
Thân cận các Thế Tôn
Sức tin ưa thanh tịnh
Thuận theo tâm Từ bi
Người như vậy hay phát
Trí tuệ Phật không lường
Nhất thiết trí chư Phật
Vô lượng lực sạch trong
Sức nhận lãnh bền chắc
Thành tựu pháp Thế Tôn
Lòng bi cứu thế gian
Tịnh tu các nước Phật
Diễn bày chuyển pháp luân
Phát nguyện vô thượng ấy
Một niệm thông ba đời
Mà không có khác biệt
Hiện chủng loại sai biệt
Là để dạy thế gian
Lược nói, vì cầu hết
Công đức các Thế Tôn
Phát ra lòng rộng lớn
Giống như cõi hư không
Bi, trí tuệ đứng đầu
Phương tiện hợp tu hành
Tâm chánh trực, tận cùng
Lực ấy không có lường
Tâm hướng không chướng ngại
Chẳng theo lời người khác
Đồng chư Phật bình đẳng
Mà sinh tâm vĩ đại
Các Phật tử phát sinh
Tấm lòng báu như vậy
Lìa khỏi phàm phu địa
Vào chỗ hành của Phật
Liền sinh nhà đức Phật
Chẳng còn gì hồ nghi
Tất đồng như chư Phật
Đạo Vô thượng ắt thành
Khi sinh tâm như vậy
Được ngay Sơ địa liền
Lòng ấy chẳng hề động
Giống như núi chúa lớn
Bồ-tát đó liền có
Tướng đại Hỷ hiện lên
Lòng ấy thường thanh tịnh
Việc lớn đủ sức làm
Lòng chẳng ưa tranh đấu
Chẳng gây phiền chúng sinh
Không có lòng sân hận
Ưa cung kính, tàm quý
Lại tu hành lòng thẳng
Giữ gìn các căn mình
Thường nghĩ cứu Thế Tôn
Niệm cầu trí Thế Tôn
Lòng sinh ra Hoan hỷ
Thì khởi năm khủng bố
Khó sống, chết, tên xấu
Cõi ác, uy của chúng
Do chẳng tham trước ngã
Và cùng các ngã sở
Những người Phật tử đó
Xa lìa những sợ hãi
Thường hành tâm Từ bi
Hằng có tin cùng kính
Đức tàm quý hoàn toàn
Ngày đêm thêm pháp thiện
Ưa công đức chân thật
Chẳng thích theo các dục
Như có pháp được nghe
Thường hay suy nghĩ rõ
Không tham trước về thân
Bỏ các tâm lợi dưỡng
Vui với Bồ-đề luôn
Một lòng cầu Phật trí
Tu hành Ba-la-mật
Lìa khỏi lòng dối nịnh
Theo lời nói thực hành
Luôn nói lời chân thật
Chẳng bẩn nhà chư Phật
Chẳng bỏ học Bồ-tát
Lìa mong việc thế gian
Ưa ra khỏi cõi thế
Không chán cầu pháp lành
Tinh tấn càng thêm tăng
Những Bồ-tát như vậy
Thích tham các công đức
Mà phát khởi đại nguyện
Cầu muốn thấy Thế Tôn
Giữ pháp đến chỗ Phật
Hành diệu hạnh Bồ-tát
Giáo hóa khắp chúng sinh
Tịnh tất cả cõi Phật
Trong nước Phật của ta
Đầy những Đại Bồ-tát
Những Bồ-tát đồng tâm
Thấy nghe chẳng vô ích
Trong tất cả vi trần
Chư Phật thành Phật đạo
Phát vô lượng, vô biên
Những thệ nguyện như vậy
Nguyện đó không tận cùng
Như hư không chúng sinh
Pháp giới và Niết-bàn
Chư Phật phát ra tuệ
Tâm duyên khởi theo trí
Nguyện ta trụ như vậy
Nguyện như vậy khởi lên
Tâm nhu nhuyến điều thuận
Hay tin công đức Phật
Mà quán đến sinh chúng
Biết khởi từ nhân duyên
Thì lòng Từ bi sinh
Đối với chúng sinh khổ
Ta sẽ cứu độ liền
Ta vì chúng sinh đó
Hành đủ loại bố thí
Như đất nước giàu đẹp
Tất cả những châu báu
Voi ngựa và xe cộ
Quyến thuộc và nhân dân
Đầu mắt và tay chân
Da thịt, thí không tiếc
Cầu đủ thứ sách kinh
Lòng không có mệt mỏi
Ý nghĩa ấy giải rõ
Hay theo đời mà hành
Sức tàm quý nhận lãnh
Khiến tăng trưởng dần dần
Hay đem lòng cung kính
Cúng dường Phật không lường
Suốt ngày đêm người trí
Thường như vậy tu hành
Căn lành chuyển sáng tịnh
Giống như vàng luyện thành
Bồ-tát trụ địa đó
Mười trụ hay biết rõ
Khi tuần tự tu hành
Không có những chướng ngại
Ví như chủ khách buôn
Những thương nhân muốn lợi
Trước hỏi việc gian nan
Nguy hiểm trên dặm đường
Bồ-tát trụ Sơ địa
Giỏi biết hành các địa
Mà không có ngại ngăn
Có thể đến Phật địa
Trụ trong Sơ địa đó
Thường làm vua Diêm-phù
Giỏi biết đến các pháp
Thường hành tâm Từ bi
Như pháp mà hóa tạo
Tất cả đều kính tin
Khuyên tu hành bố thí
Để cầu trí Thế Tôn
Bồ-tát nếu bỏ nước
Xuất gia trong pháp Phật
Siêng tu hành tinh tấn
Liền được trăm Tam-muội
Thấy được trăm Thế Tôn
Chấn động trăm đất nước
Trăm nước chiếu quang minh
Bay đi cũng như vậy
Dạy trăm cõi chúng sinh
Vào với trăm cửa pháp
Việc trăm kiếp nghĩ thông
Thị hiện ra trăm thân
Hay dùng trăm Bồ-tát
Mà thị hiện quyến thuộc
Bằng nguyện lực vị ấy
Thì hơn số đó nữa
Nay sáng nghĩa Sơ địa
Chỉ lược giải nói lên
Nếu muốn nói rộng rãi
Thì ức kiếp chẳng cùng
Bồ-tát địa thứ nhất
Tên gọi là Hoan hỷ
Lợi ích cho chúng sinh
Nay đã phân biệt xong.

*********

Tất cả chúng Bồ-tát
Nghe nói nghĩa về Địa
Tâm họ đều thanh tịnh
Vui mừng thật vô cùng.
Họ đều từ chỗ ngồi
Vọt lên giữa hư không
Dùng những hoa rất đẹp
Rải cúng Kim Cang Tạng
Đều nói lời khen ngợi
Hay thay, Kim Cang Tạng!
Đại trí, không sợ hãi
Nói rõ địa Bồ-tát
Đại sĩ Giải Thoát Nguyệt
Biết tâm chúng thanh tịnh
Muốn nghe Địa thứ hai
Nói về những hành tướng
Liền thỉnh Kim Cang Tạng
Xin Đại trí thuyết giảng
Hành tướng Địa thứ hai
Tất cả đều muốn nghe.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ nhất, muốn được Địa thứ hai thì phải sinh ra mười Trực tâm.

Những gì là mười?

  1. Tâm nhu hòa.
  2. Tâm điều hòa.
  3. Tâm nhận lĩnh.
  4. Tâm chẳng phóng dật.
  5. Tâm tịch diệt.
  6. Tâm chân thật.
  7. Tâm chẳng xen tạp.
  8. Tâm không tham tiếc.
  9. Tâm thắng.
  10. Tâm lớn.

Bồ-tát do mười tâm đó mà được vào Địa thứ hai.

Bồ-tát trụ địa Ly cấu thì tự nhiên xa lìa tất cả sự sát sinh, từ bỏ đạo trượng, không có lòng sân hận, có tàm có quý. Đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát sinh lòng Từ bi, thường cầu việc vui, chẳng còn lòng ác gây hại đến chúng sinh, huống gì làm hại họ.

Bồ-tát tránh xa những việc trộm cướp, đối với vật dụng sinh hoạt thường biết vừa đủ. Nếu vật thuộc người khác thì người khác thọ dụng. Đối với những đó mà chẳng cho thì chẳng lấy.

Bồ-tát lìa khỏi tà dâm, tự thấy đủ sắc của vợ, đối với phụ nữ của người khác chẳng phát sinh một ý niệm với họ. Xa lìa vọng ngữ, Bồ-tát thường nói lời chân thật, lời chắc chắn, lời hòa thuận…, thậm chí trong mơ còn chẳng nói dối, huống gì là cố ý làm.

Bồ-tát lìa khỏi nói hai lưỡi, không có lòng phá hoại. Đối với sự đấu tranh ly tán người, Bồ-tát không ưa hòa hợp.

Bồ-tát lìa khỏi ác khẩu, những lời nói thô tục, ác độc thì tự hại thân mình cùng hại người khác. Những lời nói như vậy…, Bồ-tát đều lìa bỏ hết. Bồ-tát từ bỏ những lời nói vô nghĩa, thường nói những lời đáng nói, nên làm hay chẳng nên làm, thường nói cười đúng lúc, lời ích lợi, lời thuận pháp, lời có cân nhắc…, thậm chí khi cười đùa còn không phạm vào huống gì là cố ý làm.

Bồ-tát chẳng tham vật của người khác. Nếu vật thuộc về người khác thì người khác giữ dụng, Bồ-tát chẳng hề nghĩ: “Ta sẽ lấy nó”. Bồ-tát xa lìa lòng sân hại, thường đối với chúng sinh, cầu lòng thương mến, lòng Từ bi.

Bồ-tát lìa khỏi việc xem đoán tướng, thực hành chánh kiến, nhất định chỉ tin nhân duyên, tội phước. Bồ-tát lìa khỏi dối trá, chánh tín Tam bảo, có tâm quyết định.

Bồ-tát thường hộ đạo trọn vẹn như vậy và suy nghĩ: “Tất cả chúng sinh rơi vào cõi ác đều do con đường mười điều bất thiện. Ta sẽ ở lành pháp, cũng sẽ vì người nói các pháp lành, chỉ dạy sự hành động chân chính. Vì sao vậy? Nếu con người chẳng tự làm lành mà nói pháp cho người khác khiến cho họ sống theo pháp thiện thì không thể có.”

Lại nữa, Bồ-tát suy nghĩ sâu xa rằng, đi theo mười đường bất thiện thì đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ; đi theo mười đường thiện thì sinh trong cõi người thậm chí đến cõi trời Hữu đảnh.

Lại nữa, mười con đường thiện cùng với trí tuệ hòa hợp tu hành, nếu tâm yếu kém, ưa công đức ít, chán sợ ba cõi, lòng đại Bi mỏng manh, theo người khác nghe pháp thì đến Thanh văn thừa. Nếu đi theo mười con đường thiện đó, chẳng nghe theo người khác, tự nhiên được biết, chẳng thể đầy đủ phương tiện đại Bi mà có thể đi sâu vào những pháp nhân duyên thì đến Bích-chi-phật thừa. Nếu đi theo mười con đường thiện, thanh tịnh đầy đủ, tâm ấy rộng lớn vô lượng, vô biên, đối với chúng sinh phát tâm đại Từ bi, có sức phương tiện, chí nguyện vững bền, chẳng bỏ tất cả chúng sinh, cầu đại trí tuệ của Đức Phật, thanh tịnh các địa Bồ-tát và thanh tịnh những Ba-lamật, vào địa hạnh sâu rộng thì có thể được mười Lực của Đức Phật, bốn Sự không sợ, bốn trí vô ngại, đại Từ, đại Bi…, cho đến đầy đủ Nhất thiết chủng trí, huân tập các Phật pháp. Vậy nên, ta nên đi theo mười con đường thiện, cầu Nhất thiết trí.

Bồ-tát lại có suy nghĩ: “Mười con đường bất thiện thì trên hết là nhân duyên của địa ngục, ở giữa là nhân duyên của súc sinh, dưới cùng là nhân duyên của ngạ quỷ.”

Ở trong tội sát sinh thì có thể khiến cho chúng sinh bị đọa vào địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Nếu sinh trong lời người thì bị hai thứ quả báo là chết yểu và nhiều bệnh.

Tội của trộm cướp cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là nghèo cùng và của cải chúng chẳng được tự do.

Tội tà dâm cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là vợ chẳng trinh thuận và bà con chẳng theo ý.

Tội nói dối cũng khiến cho chúng sinh bị đoạ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là bị nhiều người báng bổ và bị người lừa dối.

Tội hai lưỡi cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là quyến thuộc độc ác, thân tộc bất hòa.

Tội ác khẩu cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là thường nghe tiếng ác và lời nói luôn gây tranh cãi.

Tội lời nói vô nghĩa cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là lời nói chẳng được tin và lời nói không rõ ràng.

Tội tham dục cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là nhiều ham muốn và chẳng khi nào biết chán, biết đủ.

Tội sân não cũng khiến cho chúng khiến cho chúng sinh bị đọ vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là thường bị người xoi bói và thường bị mọi người não hại.

Tội tà kiến cũng khiến cho chúng sinh bị đọa vào ba đường ác. Nếu sinh trong loài người thì bị hai thứ quả báo là sinh vào gia đình tà kiến và thường sinh lòng dối trá.

Này các Phật tử! Mười con đường bất thiện như vậy đều là nhân duyên của khối khổ lớn.

Bồ-tát lại suy nghĩ: “Tại sao chẳng bỏ mười con đường bất thiện đó mà tu hành mười con đường thiện, đồng thời cũng khiến cho người khác cũng tu hành mười con đường thiện này?”

Nghĩ như vậy rồi, Bồ-tát liền bỏ mười con đường bất thiện, đi vào mười con đường thiện và cũng khiến cho người khác ở đường thiện.

Bấy giờ, Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh, phát sinh lòng yên ổn, lòng vui, lòng từ, lòng bi, lòng thương, lòng lợi ích, lòng bảo hộ, lòng hướng dẫn, lòng hướng dẫn lớn, lòng xem như bản thân và sinh ý niệm:

Những chúng sinh đó rơi vào tà kiến, đuổi theo tà tâm, đi theo đường tà hiểm rất đáng xót thương.

Ta nên khiến cho chúng vào con đường chánh kiến và pháp chân thật. Chúng sinh đó thường gây đấu tranh phân biệt ta và người.

Ta nên khiến cho chúng vào trong đại Từ. Những chúng sinh đó thường tham tài vật không biết chán biết đủ, luôn luôn dùng tà mạng mà sinh sống.

Ta nên khiến cho chúng sống theo nghiệp thân miệng ý thanh tịnh. Những chúng sinh đó chạy theo tham dục, sân nhuế, ngu si, thường bị thiêu đốt của đủ thứ lửa lớn phiền não, chẳng thể quyết chí cầu phương tiện cần thiết để ra khỏi.

Ta nên khiến cho chúng diệt trừ lửa phiền não, gặp được chỗ mát mẻ. Những chúng sinh đó thường bị sự che lấp của vô minh, vào nơi rất tối tăm, lìa khỏi ánh sáng tuệ, vào trong đường sinh tử nguy hiểm, chạy theo đủ thứ loại tà kiến không lường.

Ta nên khiến cho chúng được mắt tuệ thanh tịnh không chướng ngại. Nhờ mắt đó nên biết tướng như thật tất cả pháp, được tất cả trí như thật, không chướng ngại, không lệ thuộc người khác. Những chúng sinh đó bị đọa vào đường sinh tử, sắp rớt xuống địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, vào lưới tà kiến, bị sự che trùm của đủ thứ rừng rậm ngu si, chạy theo đường lối hư vọng tà, thường bị sự tối tăm của ngu si, lìa xa thầy dẫn đường, chẳng phải con đường giải thoát mà cho là đường giải thoát, thuận theo tâm ma, xa lìa ý Phật.

Ta nên khiến cho chúng qua khỏi con đường sinh tử hiểm nghèo gian nan, ở vào chỗ người Nhất thiết trí, nơi thành lớn không sợ, không có các phiền não, sự trôi dạt của bốn dòng sông dục, hữu, kiến, vô minh. Chúng trôi theo dòng sinh tử vào trong sông ái lớn, bị sự xâm thực của những thế lực phiền não, chẳng thể tìm con đường giải thoát; thường bị nhục giác, nhuế giác, não giác và trùng ác làm hại; lại vị thân ở trong nước nên bị La-sát nắm bắt, chìm vào dòng nước xoáy sâu năm dục, lún sâu vào bùn lầy hỷ ái; sự cháy khô của đất ngã mạn không chỗ đi về; đối với tụ lạc của oán tặc mười hai nhập chẳng thể ra được, chẳng gặp thầy dẫn đường để có thể vượt thẳng ra.

Ta nên đối với chúng sinh đó phát sinh đại Từ bi, dùng sức căn lành mà cứu vớt chúng; khiến cho chúng được chỗ yên ổn, lìa các khủng bố, ở yên vùng đất báu Nhất thiết trí tuệ. Những chúng sinh đó, tâm rất tham lam, có nhiều ưu bi, khổ não, hoạn nạn, yêu ghét ràng buộc, cùm dục kèm giữ, vào nơi rừng rậm của ba cõi.

Ta nên khiến cho chúng lìa xa tất cả sự chấp trước vào ba cõi, khiến cho chúng ở nơi Niết-bàn ly tướng vô ngại. Những chúng sinh đó chấp chặt ngã, ngã sở; ở trong hang ổ năm ấm chẳng thể tự ra khỏi; thường theo bốn điên đảo, nương nhờ làng xóm trống không sáu nhập, bị sự xâm nhập của của rắn độc bốn đại, bị sự giết hại của những giặc phiền não nên chịu tất cả vô lượng khổ não này.

Ta nên khiến cho chúng lìa khỏi các tham lam, ở nơi tịch tĩnh. Đó là đoạn trừ tất cả chướng ngại được yên ổn Niết-bàn. Những chúng sinh đó, lòng chúng hẹp hòi, ưa thích pháp nhỏ, xa lìa tất cả trí tuệ vô thượng, chấp trước Tiểu thừa, chẳng có trí cầu pháp xuất ly của Đại thừa.

Ta nên khiến cho chúng ở nơi tâm rộng lớn vô lượng, vô biên đạo pháp chư Phật. Đó gọi là Đại thừa Vô thượng.

Này các Phật tử! Tùy thuận sức trì giới như vậy thì Bồ-tát đó có thể phát sinh lòng rộng đại Từ bi.

Bồ-tát đó trụ ở địa Ly cấu được thấy hàng trăm ngàn vạn ức na-do-tha những Đức Phật Thế Tôn, dùng quần áo, đồ ăn thức uống, ngọa cụ, y dược, những vật dụng mà cúng dường. Đối với Đức Phật phát sinh lòng cung kính, lại thọ trì nghiệp đạo mười thiện…, cho đến sẽ chứng đắc được quả vị Vô thượng Bồ-đề, nhất định chẳng mất giữa chừng. Bồ-tát đó trong trăm ngàn vạn ức kiếp xa lìa xan tham, phá giới cấu bẩn, tịnh tu công đức bố thí, trì giới. Ví như luyện vàng ròng bằng lửa, làm hết bẩn chuyển thành sáng sạch.

Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Ly cấu với trăm ngàn…, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, xa lìa cấu bẩn xan tham, phá giới, tịnh tu công đức bố thí, trì giới.

Bồ-tát, lúc bấy giờ, đối với bốn Nhiếp pháp, ái ngữ thêm nhiều, mười Ba-la-mật, Giới ba-la-mật rõ thật hơn, các Ba-la-mật khác cũng đều tu tập, theo địa mà tăng trưởng!

Này Phật tử! Đó gọi là địa Ly cấu thứ hai của Đại Bồ-tát.

Bồ-tát trụ ở địa đó, phần nhiều làm Chuyển luân thánh vương, làm Đại Pháp vương, được pháp lực lớn, thanh tựu bảy báu, có sức tự tại, có thể trừ tất cả cấu bẩn xan tham và sự phá giới của chúng sinh. Dùng phương tiện thiện xảo khiến cho chúng sinh sống theo mười pháp thiện, làm đại bố thí chẳng cùng tận. Làm các nghiệp thiện như: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự. Những phước đức đó đều chẳng lìa niệm Phật, chẳng lìa niệm Pháp…, cho đến chẳng lìa niệm Nhất thiết chủng trí đầy đủ. Thường phát sinh tâm đó thì trong tất cả chúng sinh, ta làm người đứng đầu, làm kẻ thắng hơn…, cho đến trong tất cả chúng sinh, ta làm người để họ nương tựa.

Này Phật tử! Bồ-tát đó nếu muốn bỏ nhà, cầu tu hành tinh tấn ở trong Phật pháp thì liền có thể bỏ nhà, vợ con, năm dục. Được xuất gia rồi, tu hành tinh tấn thì trong giây lát được ngàn Tam-muội, được thấy ngàn vị Phật, biết ngàn thần lực Phật, có thể lay động ngàn thế giới Phật, có thể bay qua ngàn thế giới Phật, có thể chiếu soi ngàn thế giới Phật, có thể giáo hóa chúng sinh ngàn thế giới, có thể sống lâu ngàn kiếp, có thể biết sự việc đời quá khứ, đời vị lai mỗi ngàn kiếp, có thể biến thân thành ngàn thân, mỗi một thân có thể thị hiện ngàn Bồ-tát để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện thì khơn cả số này mà trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp chẳng thể tính biết được.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn một lần nữa làm rõ nghĩa này nên nói kệ rằng:
Bồ-tát vào Nhị địa
Tâm nhu nhuyến, điều hòa
Giữ vững, chẳng phóng dật
Chẳng tạp, chẳng tịch diệt
Cũng chẳng có tham tiếc
Đầy đủ và lớn hơn
Đã được mười tâm đó
Thì Nhị địa vào xong
Bồ-tát trụ Địa ấy
Các công đức thành tựu
Thường lìa khỏi sát sinh
Chẳng não hại tất cả
Thường lìa trộm cướp nữa
Cũng chẳng có tà dâm
Chẳng chia rẽ, nói dối
Nói lời ác, vô nghĩa
Tài vật của người khác
Lòng tham trước chẳng sinh
Với chúng sinh chẳng hại
Lòng thẳng, hành chánh kiến
Không có lòng kiêu mạn
Ý dối trá cũng không
Nhu hòa chẳng phóng dật
Hộ trì lời Thế Tôn
Có những khổ não nặng
Địa ngục cùng súc sinh
Thân ngạ quỷ cháy rực
Đều từ lòng ác sinh
Ta nay đã lìa khỏi
Những việc ác như vậy
Tu hành đạo thật chân
Pháp lành của tịch diệt
Từ người đến Hữu đảnh
Những nơi hưởng thọ lạc
Niềm vui ba thừa, thiền
Đều sinh từ mười thiện
Nghĩ suy như vậy xong
Lòng thường chẳng phóng dật
Tự thân trì tịnh giới
Cũng dạy người gìn giữ
Quán khắp những chúng sinh
Chịu khổ não đủ thứ
Nghĩ thương như vậy xong
Chuyển sinh lòng Bi rộng
Phàm phu rất đáng thương
Đọa ở những tà kiến
Lòng mang nhiều hận sân
Thường ưa sinh đấu tranh
Năm dục ưa thích luôn
Tham cầu không có chán
Do nhân duyên ba độc
Ta nên độ cho họ
Tối ngu si phủ ngăn
Rơi đường hiểm sinh tử
Vào lưới tà kiến dày
Rơi vào lồng thế gian
Thường bị những ma tặc
Phiền não hủy hoại tan
Hạng này rất đáng thương
Ta nên độ thoát họ
Chìm sâu nước phiền não
Trôi dạt trong bốn dòng
Chịu đầy đủ không lường
Những khổ độc ba cõi
Ở trong tổ năm ấm
Sinh lòng ngã, ngã sở
Khổ này muốn thoát ra
Phải siêng năng hành đạo
Bỏ Phật tuệ tối thượng
Mà sinh lòng hạ liệt
Khiến trụ vào trí Phật
Phát tinh tấn không lường
Bồ-tát trụ địa ấy
Gom công đức vô số
Được gặp các Đức Phật
Phụng sự và cúng dường
Nhờ những nhân duyên đó
Căn lành chuyển sạch trong
Giống như vàng ròng tốt
Luyện dùng sức lửa nung
Phật tử trụ địa ấy
Thường làm Chuyển luân vương
Khiến cho những chúng sinh
Đi theo mười đường lành
Từ ban đầu phát tâm
Tu tập các phước đức
Nguyện đem cứu thế gian
Khiến được mười Lực Phật
Nếu muốn bỏ ngôi vua
Xuất gia tu học đạo
Tinh tấn siêng tu hành
Được vào ngàn Tam-muội
Được thấy ngàn Thế Tôn
Chánh thọ pháp cúng dường
Bồ-tát trụ địa ấy
Hiện rõ việc như vậy
Nếu dùng nguyện lực ấy
Hiện những việc thần thông
Độ thoát được chúng sinh
Số này thành không lường
Thường vì các thế gian
Siêng cầu những việc tốt
Giải đầy đủ như trên
Đã xong Địa thứ hai.
Địa thứ ba:
Những Bồ-tát nghe về
Hành chẳng thể nghĩ bàn
Lòng đều rất hoan hỷ
Cung kính không có lường
Tức thời giữa hư không
Những hoa hương mưa xuống
Như mây rơi khắp nơi
Cúng dường Kim Cang Tạng
Đều đồng thanh khen rằng:
“Hay thay, Kim Cang Tạng!
Giỏi nói các Đại nhân
Hộ trì tịnh giới hạnh
Với tất cả chúng sinh
Lòng có đầy thương xót
Và diễn giải nói lên
Hành tướng Địa thứ hai.”
Hạnh Bồ-tát vi diệu
Không có khác, chân thật
Những vị Bồ-tát đó
Đủ hành vi sạch trong
Vì tất cả chúng sinh
Thường cầu việc tốt lành
Diễn nói Ly cấu địa
Địa thứ hai đã xong
Trời, người cung kính ngưỡng
Địa thứ ba xin giảng
Chỉ rõ trí tu hành
Thực hành của Bồ-tát
Nguyện nói những Đại nhân
Đức thi hành bố thí
Trì giới và nhẫn nhục
Tinh tấn hành thiền định T
rí tuệ phương tiện giỏi
Và cùng tâm Từ bi
Làm sao hành pháp đó?
Tịnh các hạnh chư Phật
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Thưa Kim Cang Tạng rằng:
“Bồ-tát vào Tam địa
Phải bằng những tâm nào?”

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Này Phật tử! Những Đại Bồ-tát thanh tịnh Địa thứ hai rồi, muốn được Địa thứ ba thì phải dùng mười thâm tâm.

Những gì là mười?

  1. Tâm tịnh.
  2. Tâm dũng mãnh.
  3. Tâm chán.
  4. Tâm ly dục.
  5. Tâm không thoát.
  6. Tâm bền vững. 7. Tâm minh tịnh. 8. Tâm không đủ.
  7. Tâm thắng.
  8. Tâm lớn.

Bồ-tát do mười tâm đó mà được vào Địa thứ ba.

Bồ-tát trụ ở sáng suốt có thể quan sát tất cả pháp hữu vi đúng như thật tướng. Đó là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, hư hoại, chẳng lâu, chẳng thể tin tưởng, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng từ đời trước đến, chẳng đi về đời sau, chẳng trụ ở hiện tại. Bồ-tát quan sát tướng chân thật của tất cả pháp hữu vi như vậy thì biết được các pháp không tác động; không sinh khởi, không đến, không đi, mà những chúng sinh bị ưu bi khổ não yêu ghét ràng buộc không có dừng lại, không cố định chỗ sinh; chỉ vì lửa tham, sân, si đốt cháy làm càng thêm khổ não đưa đến khổ lớn cho đời sau, không có thật tánh, giống như huyễn hóa. Thấy như vậy rồi thì đối với tất cả pháp hữu vi trở nên lìa chán, hướng về trí tuệ của Đức Phật. Bồ-tát đó biết trí tuệ của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, có thế lực lớn, không ai thắng được, không có tạp tướng, không có suy tàn; có khả năng đến được đại thành không sợ, yên ổn; có thể cứu chúng sinh thoát khổ não không lường. Thấy biết Phật trí không lường, thấy pháp hữu vi vô lượng khổ não như vậy, thì đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát sinh ra mười tâm thù thắng.

Những gì là mười?

  1. Chúng sinh cô độc không ai cứu.
  2. Nghèo nàn không nơi giúp đỡ.
  3. Lửa ba độc cháy rực chẳng dứt.
  4. Bị giam ở ngục ba cõi bền chắc.
  5. Thường ở trong những rừng gai ác phiền não.
  6. Không có sức chính quán.
  7. Ở trong thiện pháp, tâm rất ít mong cầu.
  8. Mất diệu pháp của Phật.
  9. Thường thuận theo dòng nước sinh tử.
  10. Sợ hãi Niết-bàn.

Bồ-tát đó thấy những khổ não của chúng sinh thì phát đại tinh tấn: Đối với những chúng sinh đó nên cứu, ta nên dạy, nên khiến cho thanh tịnh, nên khiến cho chúng được giải thoát, nên vào chỗ thiện, nên khiến cho an ổn, nên khiến cho hoan hỷ, nên khiến cho biết chỗ đúng, nên khiến cho được độ thoát, nên khiến cho diệt khổ.

Bồ-tát nhàm chán lìa tất cả pháp hữu vi như vậy, nhớ mãi chúng sinh, thấy Nhất thiết trí lợi ích không lường. Tức thời, Bồ-tát muốn đủ trí tuệ của Đức Phật để cứu độ chúng sinh nên siêng hành đạo Bồ-tát và có suy nghĩ: “Những chúng sinh bị đọa trong những phiền não khổ lớn. Ta phải dùng những phương tiện gì để cứu vớt chúng đây? Khiến cho chúng được mãi mãi trụ nơi an vui tột cùng. Tức chúng phải biết ở trong trí tuệ giải thoát vô ngại thì mới có thể được điều này. Trí tuệ giải thoát vô ngại đó chẳng ngoài trí thông đạt các pháp như thật, thật hành tuệ vô hành. Tuệ sáng như vậy từ đâu mà được? Phải biết rằng, chẳng lìa khỏi đa văn mà có trí tuệ quyết định.”

Bồ-tát lại có ý niệm này: “Tất cả Phật pháp lấy gì làm gốc? Chẳng lìa việc nghe pháp, Bồ-tát biết như vậy thì cầu tất cả pháp. Càng thêm tinh cần ngày đêm nghe nhận, không có chán đủ, thích pháp, yêu pháp, y vào pháp, thuận pháp, viên mãn pháp, đầy đủ pháp, hoàn tất pháp, quy về pháp, cầu pháp, tùy thuận thực hành pháp. Bằng những phương tiện cầu pháp của Bồ-tát như vậy. Như đối với trân bảo không còn tiếc rẻ. Đối với các vật này, chẳng phát sinh tư tưởng cho là khó khăn, chỉ đối với người nói pháp thì phát sinh tư tưởng khó gặp gỡ. Vì cầu pháp nên đới với vật trong ngoài, không gì mà chẳng thể bỏ được. Đất nước, nhân dân, ngọc ma-ni, bảy báu, voi ngựa, xe cộ, các báu anh lạc, đồ trang nghiêm thân, thê thiếp, con cái, chi tiết tay chân…, đem thân thí cho, không gì tiếc rẻ.”

Lại vì cầu pháp nên đối với người nói pháp tận tâm cung kính, cúng dường, cung cấp, hầu hạ, phá trừ kiêu mạn, ngã mạn, đại mạn; đối với những khổ não ác đều có thể nhẫn nhục. Vì rất mong cầu pháp nên nếu được một câu pháp chưa từng nghe thì xem hơn là được trân báu đầy trong ba ngàn cả ngàn thế giới. Được nghe một bài kệ hơn được làm vua Chuyển luân thánh, làm Thích Đề-hoàn Nhân, làm vua trời Phạm ở vô lượng kiếp.

Có người đến nói với Bồ-tát đó rằng: “Ta có một câu nói pháp của Đức Phật có thể làm thanh tịnh đạo Bồ-tát. Hôm nay, nếu ông có thể vào trong hầm lửa, chịu được khổ lớn thì ta sẽ đem trao cho.”

Bồ-tát đó suy nghĩ: “Ta nhận được một câu pháp thì giả sử dù cho khắp ba ngàn cả ngàn thế giới đầy lửa, từ cõi trời Phạm ta cũng tự gieo mình xuống, huống gì là chút lửa nhỏ này. Ta chịu hết những khổ của địa ngục còn được để cầu pháp, huống gì là những khổ não nhỏ mọn trong cõi người. Vì cầu pháp nên Bồ-tát phát tâm như vậy.

Lại như được nghe pháp thì Bồ-tát lòng thường hỷ lạc, có thể chính quán hết. Bồ-tát đó nghe các pháp rồi, thu phục tâm mình, ở nơi vắng vẻ sinh ý nghĩ: “Đúng theo lời dạy mà tu hành thì mới được Phật pháp. Nếu chỉ dùng miệng nói thì không có được.”

Bồ-tát như vậy thì lìa khỏi dục ác, pháp bất thiện, có giác, có quán, lìa dục sinh hỷ lạc thì vào Sơ thiền. Diệt giác quán, bên trong thanh tịnh, tâm trú một chỗ, không giác không quán, định sinh hỷ lạc thì vào Nhị thiền. Lìa hỷ, hành xả, thành tựu niệm tuệ, thân thọ lạc mà các Hiền thánh đã nói, có thể xả hỷ, nghĩ thọ lạc thì vào Tam thiền. Đoạn bỏ khổ vui, lo mừng đã diệt, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh thì vào Tứ thiền.

Bồ-tát vượt qua tất cả sức tướng, diệt tất cả tướng hữu đối, không niệm tất cả tướng sai khác nên biết Hư không vô biên liền vào cõi hư không vô sắc định.

Qua tất cả tướng hư không, biết Thức vô biên thì liền vào cõi Vô sở hữu vô sắc định. Qua tất cả tướng thức, biết không sở hữu thì liền vào cõi Vô sở hữu vô sắc định. Qua tất cả cõi vô sở hữu biết phi hữu tưởng, phi hữu tưởng yên ổn thì liền vào cõi Phi hữu tưởng phi vô tưởng vô sắc định. Thuận các pháp tu hành mà chẳng lệ thuộc vào lạc thọ.

Bồ-tát đó dùng tâm Từ rộng lớn không lường, không sân hận, không não hại, dùng sức tin hiểu đầy khắp mười phương. Tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả cũng như vậy.

Bồ-tát đó có sức thần thông, có thể lay động mặt đất. Một thân biến làm nhiều thân, nhiều thân biến làm một thân, hiện ra biến mất, ra đi trở về, xuyên qua đá cứng như đi trong hư không, ngồi kiết già mà đi giống như chim bay, bước đi trong nước như đi trên đất, vào trong đất như vào nước. Thân phát ra lửa khói như khối lửa lớn, có uy đức, có thể sờ mó xoa nắn mặt trời, mặt trăng. Thân có lực tự tại cho đến trời Phạm. Thiên nhĩ Bồ-tát đó thanh tịnh hơn cả tai trời, người, nghe hết âm thanh xa gần của người và trời.

Bồ-tát đó dùng Tha tâm trí biết như thật tâm người khác. Tâm

dục biết như thật tâm dục. Tâm ly dục biết như thật tâm ly dục. Tâm sân, tâm ly sân; tâm si, tâm ly si, tâm cấu, tâm ly cấu; tâm nhỏ, tâm lớn; tâm rộng, tâm hẹp; tâm loạn, tâm vô loạn; tâm định, tâm bất định; tâm trói, tâm mở; tâm có hữu thượng, tâm vô thượng…, biết như thật… tâm hữu thượng… tâm vô thượng.

Bồ-tát đó nhớ biết chỗ đã sinh sống đời trước. Từ một đời, hai đời…, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha đời; từ một kiếp, hai kiếp…, cho đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp. Vô thượng thành hoại trong những kiếp ấy, những nhân duyên đã trải qua trong những kiếp ấy Bồ-tát đều có thể nghĩ nhớ như: “Ta sinh ở xứ đó, dòng họ như vậy, tên họ như vậy, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy, sống lâu như vậy…” Ta chết ở đó, sinh ở nơi này; chết ở nơi này, sinh ở chỗ đó… Đại loại như vậy, Bồ-tát đều có thể nhớ biết.

Thiên nhãn thanh tịnh của Bồ-tát đó hơn mắt của người và trời, nhìn thấy những chúng sinh chết chỗ này sinh chỗ kia, hình sắc đẹp xấu, nghèo hèn, giàu sang, đi theo đường thiện hay ác, tùy theo nghiệp nhận lấy quả. Bồ-tát đều biết đúng như thật. Như là: Những chúng sinh đó đã tạo ra nghiệp ác của thân, nghiệp ác của miệng, nghiệp ác của ý, nghịch chống Hiền thánh, tin nhận tà kiến, phát sinh nhân duyên gây tội nghiệp, nên khi thân qua đời phải đọa vào đường ác. Những chúng sinh thành tựu nghiệp thiện của thân, nghiệp thiện của miệng, nghiệp thiện của ý, chẳng nghịch chống Hiền thánh, tin nhận chánh kiến, thực hành nhân duyên tạo thiện nghiệp, nên qua đời sinh vào chỗ thiện.

Bồ-tát đó đối với các thiền định giải thoát Tam-muội có thể vào có thể ra mà chẳng sinh vào các chỗ ấy; có chỗ ở pháp trợ Bồđề thì dùng nguyện lực nên có thể sinh trong ấy.

Bồ-tát đó trụ ở địa Minh địa, thấy hàng trăm ngàn vạn ức nado-tha các Đức Phật Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán, y phục, thực thẩm, đồ nằm, y dược.

Bồ-tát thân cận các Đức Phật nghe nhận kinh pháp, theo đúng lời nói mà tu hành.

Bồ-tát đó quán các pháp chẳng sinh chẳng diệt, do những duyên mà có. Những trói buộc về dục, hữu, vô minh đã huân tập ở trong ngàn ức kiếp đều trở nên nhỏ nhoi mỏng manh, chẳng tích tập nữa. Vì chẳng tích tập nên đoạn được tà tham, tà sân, tà si. Ví như vàng ròng được thợ rất giỏi luyện đổi sang tánh ròng tốt đẹp, ánh sáng hơn bội phần.

Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở Minh địa chẳng huân tập ba sự ràng buộc, nên đoạn trừ được tà tham, tà sân, tà si, nên các căn lành chuyển đổi thêm sáng suốt. Tâm Bồ-tát đó nhẫn nhục, mỹ diệu, không hoại, bất động, chẳng bẩn, chẳng cao thấp. Tất cả hành động chẳng mong báo đáp mà đối với người khác có hành động nhỏ thì mong báo đáp, chẳng dối trá, chẳng nhiễm loạn…, trở nên tịnh minh hơn.

Bồ-tát, lúc bấy giờ, đối với bốn Nhiếp pháp, ái ngữ, lợi ích nhiều thêm, mười Ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-lamật thắng thêm, các pháp trợ đạo khác đều trở nên minh tịnh.

Này các Phật tử! Đó gọi là lược nói về thứ ba, Minh địa của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở trong địa đó phần nhiều được làm Thích Đềhoàn Nhân, trí tuệ mạnh báu; có thể dùng phương tiện chuyển đổi chúng sinh, khiến cho họ lìa khỏi dâm dục; hành động thiện nghiệp như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự; đều chẳng rời khỏi niệm Phật, chẳng rời khỏi niệm pháp…, cho đến chẳng rời khỏi niệm Nhất thiết chủng trí.

Bồ-tát thường có ý nghĩ: “Ta sẽ đối với tất cả chúng sinh làm kẻ đứng đầu, làm người thắng hơn…, cho đến đối với tất cả chúng sinh sẽ làm người để họ y chỉ.”

Bồ-tát đó nếu muốn cầu tu hành tinh tấn thì ở trong khoảnh khắc, có thể được mười vạn Tam-muội…, cho đến có thể thị hiện mười vạn Bồ-tát để làm quyến thuộc. Nếu Bồ-tát dùng nguyện lực thần thông tự tại thì hơn cả số này, trăm ngàn vạn ức na-do-tha ngần ấy kiếp chẳng thể tính biết được.

Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn một lần nữa làm sáng tỏ nghĩa, nên nói kệ khen rằng:

Tâm Bồ-tát tín sâu
Thì được Địa thứ ba
Lòng thanh tịnh rất mạnh
Chán lìa dục, chẳng thoái
Nhận lãnh vững không chán
Thắng, lớn đầy đủ cả
Bằng những tâm như trên
Được vào Địa thứ ba
Người trí trụ Minh địa
Quán các pháp hữu vi
Bất tịnh, vô thường, khổ
Tướng bại hoại, vô ngã
Không có tánh chắc bền
Diệt trong từng ý niệm
Như vậy, suy nghĩ biết
Không có tướng đến đi
Thấy các pháp hữu vi
Như bệnh, như ghẻ chóc
Bị tâm ái ràng buộc
Sinh những khổ ưu bi
Chỉ vì tham sân si
Lửa mạnh đã thiêu đốt
Từ vô thỉ đến nay
Cháy rực thường chẳng dứt
Với tất cả, tức thời
Sinh chán lìa ba cõi
Với giặc ác hữu vi
Lòng không còn tham trước
Chỉ cầu trí Như Lai
Không lường, không giới hạn
Sâu xa, khó nghĩ bàn
Thanh tịnh không các khổ
Thương xót các sinh chúng
Không phước tuệ nghèo cùng
Lửa ba độc thường cháy
Người cứu hộ cũng không
Đọa ở trong địa ngục
Thảm thiết khổ không lường
Kẻ phàm phu phóng dật
Chìm trong biển não phiền
Mù tối không nhìn thấy
Mất pháp bảo Thế Tôn
Thường theo dòng sinh tử
Sợ hãi điều không sợ
Ta đối chúng sinh đó
Độ thoát họ phải siêng
Tinh tấn cầu trí tuệ
Vì người làm lợi hơn
Suy nghĩ tìm phương tiện
Mà cứu độ nên dùng
Chỉ có trí vô ngại
Thâm diệu của Thế Tôn
Nhân gì có trí ấy?
Hành, không hành tuệ sinh?
Nghĩ suy trí tuệ đó
Từ đa văn khởi lên
Tính toán xong như vậy
Siêng cầu pháp đa văn
Ngày đêm thường tinh tấn
Nghe nhận chẳng mệt nhàm
Đọc tụng, yêu thích pháp
Chỉ pháp là quý tôn
Vì muốn cầu được pháp
Dùng những thứ trân bảo
Những vợ con thân ái
Những bà con tùy ý
Đất nước và thành ấp
Những báu vật sinh hoạt
Hoan hỷ mà bố thí
Không luyến tiếc trong lòng
Đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi
Răng, miệng và tay chân
Chi tiết thân, máu, thịt
Tủy não và tim gan
Đem cho những thứ này
Chẳng lấy làm gian nan
Nếu được nghe chánh pháp
Đó là hiếm có hơn
Giả sử có người nói
Với Bồ-tát này rằng:
“Nay nếu ông chịu nhảy
Vào lửa lớn cháy hừng
Sau đó cho ông pháp
Của Thế Tôn đã nói.”
Nghe rồi liền hoan hỷ
Tự nhảy không nghi nan
Giả sử ba ngàn cõi
Lửa lớn đầy ở trong
Từ trời Phạm nhảy xuống
Chẳng đủ làm khó khăn
Nếu vì cầu một câu
Nói pháp của Thế Tôn
Để cứu những khổ não
Được nó rất khó khăn
Từ lúc tâm mới phát
Cho đến Phật đạo thành
Ta trong giai đoạn ấy
Các kiếp này tận cùng
Vì muốn cầu được pháp
Chịu đựng khổ A-tỳ
Huống gì những khổ não
Nhỏ mọn của thế gian
Do nhân duyên nghe pháp
Hay được vững chánh niệm
Nhờ giữ được chánh niệm
Có thể sinh các thiền
Những Tam-muội thâm diệu
Và năm thứ thần thông
Phát sinh theo thứ lớp
Chẳng phát sinh tự tại
Bồ-tát trụ địa đó
Lòng quyết định thực hành
Cúng dường nhiều Đức Phật
Đã nói pháp cho mình
Đoạn tà, ái, si, nhuế
Các phước đều mỏng manh
Ví như thành vàng luyện
Chỗ ấy điều hòa xong
Bồ-tát trụ địa đó
Kho phước đức đầy tràn
Thường làm vua Đao-lợi
Tự tại bỏ dục dâm
Yêu thích công đức Phật
Hóa đạo chúng không lường
Đều hay khiến trụ vào
Trong Phật đạo cao thượng
Bồ-tát trụ địa đó
Hay dùng lòng dịu dàng
Siêng tu hành tinh tấn
Tam-muội được trăm ngàn
Thấy trăm ngàn chư Phật
Tướng tốt trang nghiêm thân
Lòng ấy chuyển mạnh mẽ
Nguyện lực thù thắng hơn
Thường thấy các chúng sinh
Siêng cầu việc tốt lành
Phân biệt giải thoát ấy
Minh địa thứ ba xong.

Địa thứ tư:
Các Phật tử nghe nói
Về địa hành như trên
Không thể lường sâu xa
Lòng đều rất vui mừng
Tung hoa hương rất quý
Cúng dường cho Thế Tôn
Đất đai và biển lớn
Đều chấn động khắp cùng
Trên trời các Thiên nữ
Ở giữa cõi hư không
Đều dùng tiếng vi diệu
Ngợi khen thượng pháp này
Vua Tha hóa tự tại
Nghe rồi rất vui mừng
Mưa xuống Ma-ni báu
Tung lên Phật cúng dường
Vui mừng khen ngợi rằng:
Hay thay, Phật xuất thế!
Tạng công đức lan tràn
Chúng ta được lợi ích
Hôm nay ta nghe xong
Nghĩa địa hành Bồ-tát
Việc đó kiếp trăm ngàn
Khó nghe mà được nghe
Xin nói Địa tiếp theo
Cho người trời lợi ích
Đều muốn nghe vui mừng
Ý nghĩa hành các Địa
Giải Thoát Nguyệt lần nữa
Thỉnh Kim Cang Tạng rằng:
“Nguyện vì các Bồ-tát
Nói hành Địa thứ tư.”

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Này Phật tử! Những Đại Bồ-tát tịnh Địa thứ ba rồi, muốn được Địa thứ tư phải dùng mười pháp môn.

Những gì là mười?

  1. Quan sát chúng sinh giới.
  2. Quan sát pháp giới.
  3. Quan sát thế giới.
  4. Quan sát hư không giới.
  5. Quan sát thức giới.
  6. Quan sát Dục giới.
  7. Quan sát Sắc giới.
  8. Quan sát Vô sắc giới.
  9. Quan sát Thắng tín giải giới.
  10. Quan sát Đại tâm giới.

Bồ-tát nhờ mười pháp môn minh mà được vào Địa thứ tư.

Bồ-tát trụ ở Diệm địa thì liền ở nhà của Như Lai, được có thế lực, được pháp bên trong. Có mười trí?

Những gì là mười?

  1. Tâm chẳng thoái chuyển.
  2. Ở trong Tam bảo được lòng chẳng mất, sự thanh tịnh rốt ráo.
  3. Tu tập quán sinh diệt.
  4. Tu tập các pháp xưa nay chẳng sinh.
  5. Thường tu tập sự thành hoại của thế gian.
  6. Tu tập nghiệp nhân duyên nên có sinh.
  7. Tu tập phân biệt sự sai khác của môn sinh tử Niết-bàn.
  8. Tu tập nghiệp chúng sinh chẳng diệt.
  9. Tu tập đời trước, đời sau sai biệt.
  10. Tu tập hiện tại thường tiêu diệt chẳng trụ.

Bồ-tát hành mười tâm trí thì sinh vào nhà của Phật, thì được thế lực.

Này Phật tử! Đại Bồ-tát trụ ở Địa thứ tư đó mà quán nội thân, tuân theo thân quan sát, tinh cần một lòng thì trừ được tham ưu của thế gian. Quán ngoại thân, tuân theo thân quan sát, tinh cần một lòng thì trừ được tham ưu của thế gian. Quán nội ngoại thân, tuân theo thân quan sát, tinh cần một lòng thì trừ được tham ưu của thế gian.

Quán nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm, nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp…, tuân theo những pháp đó mà quan sát, tinh cần một lòng, thì trừ được tham ưu của thế gian.

Bồ-tát đó, nếu các pháp ác và bất thiện chưa phát sinh, thì chẳng sinh, siêng tinh tấn phát tâm chánh và đoạn; nếu các pháp ác và bất thiện đã phát sinh thì liền được đoạn trừ, siêng tinh tấn phát tâm chánh đoạn. Chưa sinh ra các thiện pháp thì làm cho phát sinh, siêng tinh tấn phát tâm chánh hành; đã sinh các thiện pháp rồi thì được trụ chẳng mất, càng tu thêm nữa, siêng tinh tấn phát tâm chánh hành.

Bồ-tát đó tu hành bốn Như ý túc. Muốn thành tựu định đoạn hành, tu Như ý túc, thì y chỉ nhàm chán, y chỉ xa hoa, y chỉ diệt tận, hồi hướng Niết-bàn. Định tinh tấn, định tâm, định tuệ, đoạn hành thành tựu, tu Như ý túc y chỉ nhàm chán, y chỉ xa lìa, y chỉ tận diệt, hồi hướng Niết-bàn.

Bồ-tát đó tu hành Tín căn, Tinh tấn căn, Niệm căn, Định căn, Tuệ căn y chỉ nhàm chán, xa lìa, diệt, hồi hướng Niết-bàn. Bồ-tát đó tu hành Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực, y chỉ yếm ly, diệt; hồi hướng Niết-bàn.

Bồ-tát đó tu hành Niệm giác phần, Trạch pháp giác phần, Tinh tấn giác phần, Hỷ giác phần, Ỷ giác phần, Định giác phần, Xả giác phần y chỉ yếm, ly, diệt hồi hướng Niết-bàn.

Bồ-tát đó tu hành Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh Nghiệp, chánh Mạng, chánh Tinh tấn, chánh Niệm, chánh định y chỉ yếm ly, diệt hồi hướng Niết-bàn.

Bồ-tát đó dùng tâm chẳng xả chúng sinh, tu hành bằng bản nguyện trợ, lấy đại Bi làm đầu, đại Từ phối hợp hành động, là bao gồm cả Nhất thiết trí, làm trang nghiêm nước Phật, là đủ các lực không sợ, là pháp bất cộng, ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp của Phật, là đầy đủ âm thanh, là thuận theo giải thoát sâu xa của Phật, là tư duy đại trí tuệ phương tiện nên làm.

Này các Phật tử! Bồ-tát trụ ở địa Diệm thì các thân kiến… chấp ngã, chấp chúng sinh, chấp nhân, thọ giả, tri giả, kiến giả; chấp năm ấm, mười hai nhập, mười pháp giới; sự co duỗi, cuốn mở, hiện ra biến mất, tìm cầu hành động tham ái của tâm, bảo thủ kiến chấp làm chỗ quy về, làm chỗ đất ở đều đoạn trừ hết.

Bồ-tát đó càng thêm tinh tấn, sinh ra trí tuệ phương tiện trợ đạo pháp, theo chỗ tu hành, lòng trở nên nhu hòa, kham nhận hữu dụng, không có mệt mỏi, chuyển cầu thượng pháp, tăng thêm trí tuệ, cứu tất cả thế gian, thuận theo các bậc Thầy cung kính, nhận lời chỉ dạy, y theo lời nói tu hành.

Bồ-tát đó, lúc bấy giờ, biết ơn, biết đền ơn, lòng trở nên hòa thiện, cùng ở chung nơi an lạc. Lòng ngay thẳng, lòng nhu nhuyến không có tà vạy. Tu hành hạnh chánh định, không có kiêu mạn, thuận theo lời răn dạy, thông được ý người nói. Đầy đủ tâm thiện, tâm nhu nhuyến, tâm tịch diệt, tâm nhẫn nhục như vậy thì tư duy tu hành các Pháp tịnh địa.

Bồ-tát đó, lúc bấy giờ, thành được tinh tấn chẳng chuyển, tinh tấn chẳng xả, tinh tấn chẳng nhiễm, tinh tấn chẳng hoại, tinh tấn chẳng chán mệt, tinh tấn rộng lớn, tinh tấn vô biên, tinh tấn dũng mãnh, tinh tấn không gì bằng, tinh tấn cứu tất cả chúng sinh. Các Bồ-tát tu tập tinh tấn như vậy…, tâm ngay thẳng thanh tịnh chẳng mất, thâm tâm tin giải sáng suốt, căn lành tăng trưởng, xa lìa thế gian, cấu trược bất tín đã diệt hết, không nghi không hối, hiện tiền đầy đủ tất cả việc đại tín giải của đức Phật, chẳng chán chẳng bỏ, tự nhiên tâm an lạc không lường thường hiện rõ.

Bồ-tát trụ ở Diệm địa thứ tư có thể thấy số trăm ngàn vạn ức na-do-tha những Phật Thế Tôn, tôn trọng tán thán, cung kính cúng dường y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược; gần gũi các Đức Phật, một lòng nghe pháp, tin nhận vâng làm. Bồ-tát thường ở chỗ Đức Phật xuất gia tu đạo. Lòng vui thích, lòng thâm sâu của Bồ-tát đó thanh tịnh tin hiểu bình đẳng trở nên sáng tỏa, sống lâu nhiều kiếp. Trăm ngàn vạn ức na-do-tha ngần ấy kiếp căn lành trở nên thù thắng. Ví như dùng vàng ròng làm đồ trang sức thì những thứ vàng khác chẳng bì kịp. Như vậy, Bồ-tát trụ ở Diệm địa này thì căn lành chuyển tăng, các Bồ-tát địa dưới chẳng thể bì kịp. Ví như ngọc Ma-ni, ánh sáng của nó trong sạch có thể soi khắp bốn phương, các thứ báu khác chẳng bì kịp, dù ở trong nước mưa ánh sáng chẳng diệt.

Bồ-tát trụ ở Diệm địa, thì các Bồ-tát ở các địa dưới chẳng thể bì kịp; tất cả những ma và những phiền não đều chẳng thể phá hoại.

Này các Phật tử! Đó là lược nói về Địa thứ tư, Diệm địa của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở trong địa đó, thường được làm vua trời Tu-dạma, giáo hóa chúng sinh, phá được tâm ngã; thiện nghiệp đã làm như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều chẳng lìa niệm Phật, chẳng lìa niệm pháp…, cho đến chẳng lìa niệm Nhất thiết chủng trí đầy đủ, Bồ-tát thường phát sinh ý nghĩ: “Ta sẽ đối với tất cả chúng sinh làm người đứng đầu, làm kẻ thắng hơn…; cho đến đối với tất cả chúng sinh, ta làm người y chỉ.”

Bồ-tát đó như muốn chuyên cần tu hành tinh tấn thì trong giây lát, được trăm ức Tam-muội…, cho đến thị hiện trăm ức Bồ-tát để làm quyến thuộc. Nếu Bồ-tát dùng nguyện lực thị hiện tự tại thì hơn cả số này, trăm ngàn vạn ức na-do-tha ngần ấy kiếp chẳng thể tính biết được.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng một lần nữa muốn làm sáng tỏ nghĩa này, nói kệ khen rằng:

Các Bồ-tát đầy đủ
Tu hành Minh địa xong
Quan sát các chúng sinh
Pháp và cả thế giới
Thức, Dục, Sắc hư không
Vô sắc, rất tin hiểu
Tâm lớn thanh tịnh nên
Được vào Địa thứ tư
Liền ở nhà Thế Tôn
Thêm lớn được thế lực
Chẳng lui đạo Thế Tôn
Tin Tam bảo chẳng hoại
Xem các pháp diệt sinh
Tất cả xưa nay không
Biết thế gian thành bại
Theo nghiệp mà có sinh
Nghiệp chúng sinh sai biệt
Sinh tử khác Niết-bàn
Quán pháp đời trước, sau
Tướng chẳng trụ, diệt luôn
Các vị Đại Bồ-tát
Đắc pháp như vậy xong
Xót thương các chúng sinh
Tu thân, thọ, tâm, pháp
Trong ngoài bốn Niệm xứ
Y cứ nơi nhàm chán
Cũng y chỉ tịch diệt
Hồi hướng về Niết-bàn
Diệt trừ các pháp ác
Thiện pháp được lớn thêm
Tu tập bốn Chánh cần
Bốn Như ý túc hành
Tu hành theo năm Lực
Và tu tập năm Căn
Tu hành bảy Giác ý
Tám đường Thánh thực hành
Tu tập pháp như vậy
Đều là vì chúng sinh
Trợ giúp cho bản nguyện
Lòng Từ bi đứng trên
Gồm cả Nhất thiết trí
Trang nghiêm cõi Thế Tôn
Thành tựu mười thứ Lực
Vô úy, pháp Bất cộng
Những âm thanh lời nói
Đạo pháp diệu sâu xa
Và giải thoát vô ngại
Trí phương tiện mênh mông
Từ thân kiến đầu tiên
Đến sáu mươi hai kiến
Chúng sinh và ngã nhân
Thọ mạng, tri kiến ấy
Ở các ấm, nhập, giới
Đi đến chỗ tham trước
Khi được Địa thứ tư
Đều đã diệt lìa xong
Đoạn các nghiệp phiền não
Tâm ấy chuyển sáng suốt
Những nghiệp thiện đã làm
Đều vì cứu thế gian
Bồ-tát, lòng nhu hòa
Thường chẳng bị buông lung
Sử dụng ý chánh trực
Cầu lợi cho chúng sinh
Như việc mong cầu ấy
Đều vì đạo Vô thượng
Đạt vị Đại trí tuệ
Lợi ích cho thế gian
Thâm tâm cúng dường
Thầy Tu hành đúng như nói
Biết ân, báo đáp ân
Dễ dạy, không sân hận
Không có tâm dối trá
Nhu hòa cùng vui ở
Pháp như vậy tu hành
Tinh tấn chẳng thoái chuyển
Bồ-tát thành địa này
Chẳng mất tâm chánh trực
Tin hiểu cùng tịnh tâm
Các căn lành thêm lớn
Các cấu trược thế gian
Việc chẳng tin, nghi, hối
Tất cả pháp như vậy…
Đều được trừ diệt hết
Những Bồ-tát ở trong
Diệm địa thứ tư đó
Được gặp Phật không lường
Nghe nói pháp thính thọ
Ở chỗ các Thế Tôn
Xuất gia không bị lùi
Như vàng ròng trang sức
Vàng khác chẳng bì kịp
Bồ-tát trụ địa đó
Những công đức thâm tâm
Trí tuệ và phương tiện
Hành đạo đã sạch trong
Thậm chí nghìn ức ma
Đều chẳng thể phá hoại
Như ngọc sáng chân diệu
Nước mưa chẳng làm tối
Bồ-tát trụ địa đó
Được trời, người cúng dường
Thường làm Dạ-ma vương
Chuyển đổi các tà kiến
Đã làm các nghiệp lành
Đều vì trí tuệ Phật
Lòng ấy thường vững bền
Chẳng thể chuyển động được
Nếu tinh tấn siêng hành
Được trăm ức Tam-muội
Thấy trăm ức Thế Tôn
Nguyện lực thì hơn đó
Như vậy Địa thứ tư
Tên là Diệm, sạch trong
Vô lượng phước trí tuệ
Nay đã giảng thuyết xong.

*********

Các Bồ-tát nghe xong
Hành pháp Địa thứ tư
Lòng đều rất vui mừng
Phấn khởi thật không lường
Trời mưa tuôn hoa báu
Tung bay như tuyết rơi
“Hay thay, Kim Cang Tạng!”
Khen Đại sĩ: “Lành thay!”
Vua Tha hóa tự tại
Cùng với những tùy tùng
Ở trên giữa hư không
Lòng đều rất hoan hỷ
Phóng ra quang minh đẹp
Tấu lên âm nhạc trời
Khen công đức Thế Tôn
Và những chúng Bồ-tát
Những thể nữ Thiên cung
Đều dùng tiếng rất hay
Đồng thanh khen Thế Tôn
Và nói lời như vầy:
“Từ xa xưa Thế Tôn
Đã cần khổ cầu nguyện
Đạo Vô thượng Chánh chân
Đến nay vừa mới được
Lợi ích cho trời, người
Hằng lâu mới được gặp
Thích-ca Mâu-ni Phật
Ngày nay đến Thiên cung
Lâu lắm rồi, nay mới
Lay động tướng biển lớn
Vô số đời, lâu lắm
Nay mới phóng diệu quang
Chúng sinh từ lâu lắm
Nay mới được an lạc
Lâu lắm mới nghe được
Tiếng đức Từ bi vang
Bờ qua những công đức
Lâu lắm nay mới gặp
Thánh vương hay phá hết
Lòng kiêu mạn chúng con
Vô thượng đáng cung kính
Mà nay được cúng dường
Hay mở các Thiên đạo
Khiến thành Nhất thiết trí
Thế Tôn rất thanh tịnh
Vô lượng như hư không
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Như hoa sen trong nước
Rất cao lớn giữa đời
Như núi Tu-di chúa
Vượt cao trên biển cả
Vậy nên vui mừng lễ.”
Như vậy các Thiên nữ
Đều dùng những tiếng hay
Lòng cung kính ca tụng
Rồi chiêm ngưỡng Thế Tôn
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Thưa với Kim Cang Tạng:
Xin hãy nói hành tướng
Nhân duyên Địa thứ năm!

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói với Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ tư, muốn được Địa thứ năm thì phải dùng mười tâm bình đẳng.

Những gì là mười tâm bình đẳng?

  1. Pháp Phật quá khứ.
  2. Pháp Phật vị lai.
  3. Pháp Phật hiện tại.
  4. Giới tịnh.
  5. Tâm tịnh.
  6. Trừ kiến nghi hối tịnh.
  7. Đạo phi đạo tịnh.
  8. Hành trí kiến tịnh.
  9. Các pháp Bồ-đề phần chuyển thắng tịnh.
  10. Giáo hóa chúng sinh tịnh.

Bồ-tát nhờ mười tâm bình đẳng đó mà được vào Địa thứ năm.

Bồ-tát trụ ở địa Nan thắng thì khéo tu pháp Bồ-đề, thâm tâm thanh tịnh, cầu chuyển thắng đạo thì có thể đắc được Phật quả.

Bồ-tát đó được sức đại nguyện nên lòng Từ bi chẳng bỏ tất cả; được sức niệm tuệ đạo nên tu tập phước tuệ chẳng bỏ. Từ đó sinh ra phương tiện nên muốn được chuyển lên địa trên, là thắng đạo sáng suốt về pháp quán.

Bồ-tát nhận sự hộ trì của chư Phật nên sinh ra tâm định không thoái, biết đúng như thật: Đó là Khổ thánh đế, đó là Khổ tập đế, đó là Khổ diệt đế, đó là Khổ diệt đạo đế.

Bồ-tát đó giỏi biết Thế đế, giỏi biết Đệ nhất nghĩa đế, giỏi biết Tướng đế, giỏi biết Sai biệt đế, giỏi biết Thuyết đế, giỏi biết Sự đế, giỏi biết Sinh khởi đế, giỏi biết Tận vô sinh đế, giỏi biết Nhập đạo đế, giỏi biết tất cả Bồ-tát theo thứ lớp thành tựu các Địa, sinh khởi Như Lai trí đế.

Bồ-tát theo ý chúng sinh khiến cho họ vui mừng, biết Thế đế đạt đến một thừa; biết Đệ nhất nghĩa đế phân biệt tự tướng các pháp; biết tướng đế các pháp đều khác; biết Sai biệt đế, phân biệt ấm, giới, nhập; biết Thuyết đế do thân tâm khổ não; biết Khổ đế những cõi sinh nối tiếp nhau; biết Tập đế rốt ráo diệt tất cả não; biết Diệt đế đưa đến pháp không hai; biết Đạo đế do Nhất thiết chủng trí; biết tất cả pháp thứ lớp thành tất cả địa Bồ-tát; biết Như Lai trí đế bằng năng lực tin hiểu; biết đắc Vô tận đế trí. Như vậy, Bồ-tát dùng những đế trí này để biết đúng như thật tất cả pháp hữu vi là hư ngụy, dối trá, chỉ trụ trong chốc lát, mê hoặc lừa dối kẻ phàm phu.

Bồ-tát, lúc bấy giờ, đối với chúng sinh, đại Bi càng nhiều hơn nên sinh ánh sáng đại Từ. Được trí tuệ lực như vậy, Bồ-tát chẳng bỏ tất cả chúng sinh, thường cầu trí tuệ Đức Phật. Quán như thật tất cả pháp hữu vi đời trước đời sau để biết chúng sinh từ vô minh có ái đời trước, nên sinh ra lưu chuyển sinh tử, về chỗ ngũ ấm chẳng thể vượt ra, gom thêm khổ não. Trong đó, không có ngã, không ngã sở, không chúng sinh, không nhân, không người biết, không tuổi thọ. Đời sau cũng như vậy. Không thật có như vậy mà ngu si tham trước, chẳng biết rốt ráo có ra, không ra.

Bồ-tát lại suy nghĩ: “Chúng sinh phàm phu rất là kỳ lạ, vì vô minh si tối nên có vô số thân đã diệt, đang diệt, sẽ diệt. Sinh tử như vậy mà họ chẳng thể đối với thân phát sinh tư tưởng chán lìa, ngược lại làm lớn thêm vòng khổ của năm đường. Chúng trôi dạt trong dòng nước sinh tử, chẳng thể quay lại được. Chúng về với ngôi nhà năm ấm, chẳng thể lìa bỏ. Chúng chẳng biết, chẳng sợ loài rắn độc bốn đại, chẳng thể nhổ ra mũi tên kiến chấp kiêu mạn, chẳng thể diệt trừ lửa tham sân si, chẳng thể phá hoại sự ngu tối của vô minh, chẳng thể làm khô cạn biển lớn khát ái, chẳng cầu Bậc Đạo Sư Mười Lực Đại Thánh. Chúng thường theo ý ma, ở trong thành trì sinh tử, thường bị sự điều khiển tri giác các ác. Khổ não như vậy, chúng sinh cô độc không có người cứu, không có nhà ở, không có đạo rốt ráo.

Chỉ có ta, một người độc nhất không cùng bọn với chúng, tu tập phước tuệ, dùng tư lương đó khiến cho chúng sinh này trụ ở chỗ thanh tịnh hoàn toàn…, cho đến được trí lực vô ngại trong tất cả pháp.”

Suy nghĩ như vậy, Bồ-tát từ chánh quán phát sinh ra chánh lực phát nguyện: “Tất cả căn lành hành động của ta là đều vì cứu độ chúng sinh, vì tất cả chúng sinh cầu an lạc, vì lợi ích tất cả chúng sinh, vì giải thoát tất cả chúng sinh, vì tất cả chúng sinh không khổ não, vì tất cả chúng sinh không thô ác, vì tất cả chúng sinh được tâm thanh tịnh, vì giáo hóa tất cả chúng sinh, vì diệt những khổ ưu não của tất cả chúng sinh…, nên ta làm thỏa mãn nguyện ấy.”

Bồ-tát trụ ở địa Nan thắng chẳng quên các pháp nên gọi là niệm; quyết định trí tuệ nên gọi là trí; biết kinh sách theo thứ lớp nên gọi là có đạo, tự hộ và hộ người khác nên gọi là tàm quý; chẳng bỏ trì giới nên gọi nên gọi là kiên tâm; suy nghĩ đúng là phải chỗ không phải chỗ nên gọi là người giác; chẳng theo người khác nên gọi là theo trí; giỏi phân biệt câu chữ các pháp nên gọi là theo tuệ; giỏi tu thiền định nên gọi là được thần thông; theo pháp thế gian mà hành nên gọi là phương tiện, giỏi tập hợp tư lương phước đức nên gọi là không chán đủ; thường cầu nhân duyên trí tuệ nên gọi là chẳng xả; tập hợp nhân duyên đại Từ, đại Bi nên gọi là không mệt mỏi; thường nhớ nghĩ chân chính nên gọi là xa lìa phá giới; thâm tâm cầu mười Lực Phật, bốn Sự không sợ, mười tám pháp Bất cộng nên gọi là người thường niệm Phật pháp; thường khiến cho chúng sinh lìa ác tu thiện nên gọi là trang nghiêm cõi Phật, gieo trồng những phước đức, trang nghiêm ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nên gọi là thực hành các thứ nghiệp thiện; cầu trang nghiêm thân miệng ý Phật nên gọi là thường hành tinh tấn; cúng dường tất cả Bồ-tát thuyết pháp nên gọi là ưa rất cung kính, đối với tất cả phương tiện của Bồtát, lòng không ngại nên gọi là tâm vô ngại; thường ưa giáo hóa chúng sinh nên gọi là ngày đêm xa lìa tâm khác.

Khi Bồ-tát tu hành như vậy, dùng bố thí giáo hóa chúng sinh; ái ngữ, lợi ích, đồng sự cũng giáo hóa chúng sinh, lại dùng sắc thân thị hiện giáo hóa chúng sinh; cũng dùng thuyết pháp giáo hóa chúng sinh; cũng thị hiện các việc làm của Bồ-tát để giáo hóa chúng sinh; cũng thị hiện việc lớn của Đức Phật để giáo hóa chúng sinh; cũng thị hiện lỗi xấu của sinh tử để giáo hóa chúng sinh; cũng thị hiện các trí tuệ đức Phật để lợi ích giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát tu tập như vậy, dùng đại thần lực bằng nhiều thứ nhân duyên, tạo phương tiện giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát đó tuy dùng nhiều phương tiện nhân duyên, nhưng tâm thường đối với Đức Phật không mất căn lành.

Bồ-tát đó lại thường cầu chuyển thắng pháp để lợi ích chúng sinh.

Bồ-tát đó lợi ích chúng sinh nên biết về những việc của thế gian như: sách vở về kỹ thuật, văn chương, toán số, các tánh chất của vàng đá, phương thuốc trị bệnh, ghẻ lở khô gầy, quỷ dữ, thuốc độc; kỹ nhạc ca múa, cười đùa vui vẻ, đất nước thành quách, tụ lạc, nhà đất, vườn rừng ao du ngoạn, hoa trái, dược thảo, vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não… mà thị hiện những vật bảo.

Bồ-tát còn biết: Mặt trời, mặt trăng, năm chòm sao, nhị thập bát tú, xem tướng kiết hung, động đất mộng quái và các tướng trong thân.

Bồ-tát bố thí, trì giới để thu phục tâm mình, Thiền định, Thần thông, bốn Vô lượng tâm, bốn Vô sắc định, những việc không não loạn để an ổn cho chúng sinh. Thương xót chúng sinh, Bồ-tát phát ra pháp như thế này, thường khiến cho họ vào pháp vô thượng của chư Phật.

Bồ-tát trụ ở địa Nan thắng thì gặp được hàng trăm ngàn vạn ức Phật. Bồ-tát tôn trọng tán thán cung kính, cúng dường: Y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược, thân cận nghe pháp. Nghe pháp rồi xuất gia làm Pháp sư nói pháp ích lợi thì đạt được Tam-muội đa văn… cho đến qua hàng trăm ngàn vạn ức kiếp mà chẳng quên mất thì tất cả căn lành phước đức trở nên sáng tịnh. Ví như vàng ròng đã luyện thành, xa cừ đã mài dũa trong suốt thì ánh sáng càng vượt hơn.

Bồ-tát trụ ở trong Địa đó, nhờ sức trí tuệ phương tiện nên căn lành công đức càng thanh tịnh hơn, các Bồ-tát bậc dưới không bì kịp.

Lại như mặt trời, mặt trăng, tinh tú, cung điện chư Thiên được gió mang chúng đi nhưng chẳng lệch đường đi, Bồ-tát cũng như vậy trụ ở địa Nan thắng, dùng phương tiện tư duy nên phước đức căn lành càng thêm minh tịnh hơn lên mà chẳng thủ chứng, cũng chẳng mau thành đạo Vô thượng.

Này Phật tử! Đó gọi là nói lược về địa Nan thắng của Bồ-tát. Bồ-tát trụ trong Địa đó thường làm vua cõi trời Đâu-suất-đà, các căn mạnh mẽ có thể tiêu diệt thu phục hết tất cả ngoại đạo. Các vị có tạo các nghiệp như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều chẳng lìa niệm Phật, chẳng lìa niệm pháp…, cho đến chẳng lìa niệm Nhất thiết chủng trí, Bồ-tát thường phát sinh ý nghĩ: “Đối với tất cả chúng sinh, ta sẽ làm người đứng đầu, làm người thắng hơn…; cho đến đối với tất cả chúng sinh, ta làm người y chỉ.”

Này Phật tử! Bồ-tát đó nếu muốn cần hành tinh tấn thì trong giây lát được ngàn ức Tam-muội…, cho đến có thể thị hiện ngàn ức Bồ-tát để làm quyến thuộc. Nếu Bồ-tát dùng nguyện lực thần thông tự tại thì lại hơn cả số này, mà trăm ngàn vạn ức ngần ấy kiếp chẳng thể tính biết.

Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn một lần nữa làm sáng tỏ nghĩa này, nói kệ khen rằng:

Những Bồ-tát đầy đủ
Hành pháp Tứ địa xong
Tư duy ba đời Phật
Trừ hối nghi răn lòng
Tri kiến đạo phi đạo
Bồ-đề hóa chúng sinh
Như vậy quán bình đẳng
Được vào Địa thứ năm
Bốn Niệm xứ làm nỏ
Tín, năm Căn làm tên
Bốn Chánh cần làm ngựa
Bốn Như ý xe rong
Năm Lực làm áo giáp
Phá những giặc não phiền
Dũng kiện chẳng thoái chuyển
Vào thẳng Địa thứ năm
Áo vô cấu tàm quý
Tịnh giới làm hương thơm
Vòng hoa bằng bảy Giác
Thiền định làm hương xoa
Trí tuệ dùng phương tiện
Đủ thứ niệm trang nghiêm
Như vậy thì được nhập
Vườn rừng Đà-la-ni
Bốn Như ý là chân
Chánh niệm là đầu cổ
Từ bi, mắt tịnh minh
Lợi trí tuệ là răng
Dùng không, vô ngã rỗng
Phá các giặc não phiền
Bậc Nhân Sư Tử ấy
Hay vào Địa thứ năm
Bồ-tát đó đã được
Trụ ở Địa thứ năm
Chuyển tu pháp Tịnh thắng
Đều vì đạo Thế Tôn
Thường hành tâm Từ bi
Chưa từng có chán mệt
Thường vì Địa thứ năm
Tu tập các pháp lành
Tập nhiều hai tư lương
Phước đức và trí tuệ
Các năng lực phương tiện
Rõ quán pháp Địa trên
Thường được Phật gia hộ
Được thành tựu tuệ niệm
Thứ lớp giỏi tu quán
Chân thật biết các Đế
Khổ, tập, Diệt, Chánh đạo
Tối thượng trong thế gian
Nói sinh khởi sai khác
Trí vô sinh Như Lai
Quán các Đế như vậy
Tâm vi diệu sạch trong
Tuy chưa thể chứng được
Giải thoát không ngăn ngại
Nhờ thật có trí tuệ
Và cùng sức niềm tin
Được thắng hơn tất cả
Các trí tuệ thế gian
Quán các Đế như vậy
Biết rõ pháp hữu vi
Hư ngụy chẳng chân thật
Không một tướng vững bền
Nên được ở chư Phật
Quang minh của Từ bi
Vì khắp những chúng sinh
Chuyên tâm cầu tuệ Phật
Biết hữu vi sau trước
Chúng sinh rất đáng thương
Đọa chỗ tối vô minh
Bị nhân duyên ái buộc
Bồ-tát đó hay diệt
Khổ não của thế gian
Biết pháp không trường thọ
Giống như các cỏ cây
Chúng sinh do hai thứ
Phiền não và nhân duyên
Kể từ những đời trước
Đến đời sau cũng vậy
Nối nhau chẳng gián đoạn
Chẳng thể chấm dứt khổ
Do đó sinh xót thương
Ta sẽ độ thoát họ
Năm ấm chẳng còn sinh
Chẳng sợ bốn đại ác
Chẳng nhổ các tên tà
Chẳng diệt lửa ba độc
Chẳng trừ tối vô minh
Chìm trong biển ái lớn
Không có mắt trí tuệ
Xa rời thầy dẫn đường
Biết việc như vậy rồi
Càng thêm siêng tinh tấn
Thực hành các nghiệp thiện
Đều vì độ chúng sinh
Thường giữ tuệ chánh niệm
Có đạo, có tàm quý
Giữ tâm giác theo trí
Lại chuyển cho tăng thêm
Tu phước tuệ không nhàm
Trì giới chẳng yếu kém
Không mệt cầu đa văn
Chánh tu tịnh cõi Phật
Gieo tướng tốt âm thanh
Nhân duyên không chán đủ
Các nghiệp thiện đã làm
Đều vì lợi ích chúng.
Vì lợi ích thế gian
Tạo lập những kinh sách
Tánh vàng đá, y dược
Việc ca múa đùa cợt
Nhà, lầu các, lâm viên
Y phục các ẩm thực
Bày đủ các thứ báu
Khiến mọi người hoan hỷ
Xem nhật, nguyệt, ngũ tinh
Và hai tám vì sao
Đất động, tướng lành dữ
Sách mộng, các việc quái
Bố thí, giới sạch trong
Ly dục, tu thiền định
Bốn Vô lượng, Thần thông…
Cho thế gian an lạc
Bồ-tát đại trí tuệ
Được địa Nan thắng xong
Cúng dường vạn ức Phật
Theo nghe pháp Thế Tôn
Thì căn lành tu được
Hếy thảy được thanh tịnh
Giống như báu xa cừ
Mài sáng cùng vàng ròng
Ví như cung điện báu
Gió giữ nên đứng vững
Chẳng bị nhiễm thế pháp
Như hoa sen trong nước
Bồ-tát trụ Địa đó
Thường làm Đâu-suất vương
Các căn chuyển thông minh
Phá tan ngoại đạo kiến
Các nghiệp thiện đã làm
Đều vì trí Thế Tôn
Được sức Phật không sợ
Thường độ các chúng sinh
Bồ-tát được tu tập
Sức tinh tấn càng hơn
Liền có được ngàn ức
Những Tam-muội diệu thâm
Cúng dường ngàn ức Phật
Rung động ngàn thế giới
Nếu theo nguyện lực ấy
Thì số này không lường
Như vậy Địa thứ năm
Đủ loại phương tiện hành
Bậc Đại nhân Thượng trí
Đúng pháp giải nói xong.

Địa thứ sáu:
Các Bồ-tát nghe nói
Hành tướng của Địa trên
Thì ở giữa hư không
Mưa xuống châu báu đẹp
Pháp ánh sáng sạch trong
Cúng dường cho Đức Phật
“Hay thay” Họ đều khen,
“Lành thay, Kim Cang Tạng!”
Ở trên giữa hư không
Mưa đủ loại châu báu
Tướng ánh sáng xen nhau
Vi diệu rất đáng thích
Các chuỗi ngọc, hoa hương
Cờ lọng tung lên Phật
Tha hóa tự tại vương
Cùng với những quyến thuộc
Mưa các vật báu đẹp
Như tuyết bay khắp nơi
Ca ngợi cúng dường Phật
Và khen Kim Cang Tạng.
“ Hay thay” Họ đều khen…
“Giảng địa này rất hay!”
Ngàn vạn ức Thiên nữ
Ở trên giữa hư không
Tấu lên nhiều âm nhạc
Ngợi khen công đức Phật
Họ đều nói lên rằng:
“Điều Đức Như Lai dạy
Vi diệu không có lường
Diệt sạch các khổ não
Các pháp vốn tánh không
Không có tướng gì cả
“Không” chẳng có phân biệt
Bình đẳng như hư không
Không có tướng đi, đứng
Cũng chẳng có hý luận
Bản lai thường thanh tịnh
Như hư không phân biệt
Như người hay thông đạt
Tất cả tánh các pháp
Đối với có với không
Lòng ấy chẳng lay động
Chỉ dùng tâm đại Bi
Vì độ những chúng sinh
Đó là những Phật tử
Từ pháp, miệng Phật sinh
Thường tu hành bố thí
Lợi ích cho chúng sinh
Xưa nay tuy thanh tịnh
Giữ vững tâm trì giới
Tuy tâm không bị hại
Mà vẫn hành nhẫn nhục
Tuy biết pháp là lìa
Mà vẫn hành tinh tấn
Tuy đã diệt phiền não
Mà vẫn vào các thiền
Tuy đã hiểu pháp không
Mà phân biệt các pháp
Tuy nhiều trí tịch diệt
Vẫn cầu lợi cho đời
Người hay diệt các ác
Tên gọi là Đại nhân.”
Như vậy các Thiên nữ
Dùng trăm ngàn tiếng hay
Xưng tán ca tụng xong
Im lặng chiêm ngưỡng
Phật Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Thỉnh Kim Cang Tạng rằng:
“Hành tướng gì phải có
Để thành Địa thứ sáu?”

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát đã đủ năm Địa, muốn vào Địa thứ sáu, phải dùng mười pháp bình đẳng.

Những gì là mười?

  1. Do vô tánh nên tất cả pháp bình đẳng.
  2. Do vô tướng nên tất cả pháp bình đẳng.
  3. Do vô sinh nên tất cả pháp bình đẳng.
  4. Do vô diệt nên tất cả pháp bình đẳng.
  5. Do xưa nay thanh tịnh nên tất cả pháp bình đẳng.
  6. Do không hý luận nên tất cả pháp bình đẳng.
  7. Do chẳng lấy chẳng bỏ nên tất cả pháp bình đẳng.
  8. Do xa lìa nên tất cả pháp bình đẳng.
  9. Do như huyễn, mộng, bóng dáng, tiếng vang, trăng trong nước nên tất cả pháp bình đẳng.
  10. Do có không chẳng phải hai nên tất cả pháp bình đẳng.

Bồ-tát do mười pháp bình đẳng này mà được vào Địa thứ sáu.

Như vậy, Bồ-tát quan sát tánh của tất cả các pháp có thể nhẫn chịu thuận theo Địa thứ sáu thì tuy Vô sinh pháp nhẫn chưa hiện tiền nhưng tâm đã thành tựu minh lợi thuận nhẫn. Bồ-tát đó quán tướng tất cả pháp như vậy, lấy đại Bi làm đầu thì đại Bi thêm lớn. Quán tướng sinh diệt của thế gian thì Bồ-tát sinh ý nghĩ nơi thọ thân của thế gian mà có đều do ngã, tham trước vào ngã. Nếu lìa chấp trước ngã thì không có chỗ sinh. Tất cả phàm phu thường theo tà niệm, hành theo đạo tà, do sự tối tăm của ngu si làm cho tham đắm vào ngã, hành động sinh ra ba nghiệp là tội nghiệp, phước nghiệp, bất động nghiệp; sinh ra chủng tử của tâm hữu lậu. Do tâm hữu lậu, hữu thủ nên sinh ra thân sinh tử. Nghĩa là, nghiệp chính là đất, thức là hạt giống, vô minh che lấp, nước ái thấm nhuần, tâm ngã tưới đủ thứ các tà kiến, khiến cho tăng trưởng sinh ra mầm danh sắc. Nhân danh sắc nên sinh ra các căn. Các căn hợp lại nên có xúc. Từ xúc sinh ra thọ. Do thọ nên sinh ra ái. Ái tăng trưởng nên có thủ. Thủ làm nhân duyên nên có hữu. Từ hữu sinh ra thân năm ấm gọi là sinh. Năm ấm suy tàn gọi là già. Năm ấm diệt gọi là chết. Do nhân duyên già chết mà có ưu bi, khổ não, các sự khổ tụ tập. Đó là mười hai nhân duyên.

Không có người gom tập lại, không có kẻ làm tiêu tan đi, duyên hợp thì có, duyên tán thì không. Như vậy, Bồ-tát ở trong Địa thứ sáu quan sát thuận theo mười hai nhân duyên, lại sinh ra ý niệm: Vì chẳng biết đúng như thật về Đệ nhất nghĩa nên có vô minh. Vô minh sinh nghiệp đó là hành. Nương theo hành có thức ban đầu. Cùng với thức cộng sinh có bốn thủ ấm, y vào thủ ấm thì có danh sắc. Danh sắc thành tựu thì có lục nhập. Căn, trần hợp lại nên có xúc. Xúc nhân duyên nên sinh ra thọ. Tham lạc thọ thì gọi là ái. Ái tăng trưởng thì gọi là thủ. Từ thủ tạo ra nghiệp thì gọi là hữu. Nghiệp báo thành năm ấm thì gọi là sinh. Năm ấm thay đổi thì gọi là lão. Năm ấm tan hoại gọi là tử. Lúc tử biệt ly, lòng tham luyến nóng bức lên gọi là bi, phát ra tiếng kêu khóc. Năm thức là khổ, ý thức là ưu. Ưu khổ càng nhiều thêm gọi là não. Như vậy chỉ sinh ra khối khổ lớn. Mười hai nhân duyên đó không ngã, không ngã sở, không người làm, không người sai làm. Nếu có người làm thì có việc để làm, nếu không có người làm thì không có việc để làm. Trong Đệ nhất nghĩa không có người làm, không có việc để làm.

Bồ-tát lại sinh ý nghĩ: “Ba cõi hư vọng chỉ do tâm tạo tác, mười hai duyên phần đều từ nơi tâm. Vì sao? Vì theo sự việc mà phát sinh tâm dục. Tâm đó tức chính là thức, việc chính là hành. Hành lừa dối tâm nên gọi vô minh. Chỗ thức sở y gọi là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng gọi là lục nhập. Ba việc hòa hợp thì có xúc. Xúc cộng với sinh gọi là thọ. Tham đắm chỗ thọ gọi là ái. Ái chẳng bỏ gọi là thủ. Thủ đó hòa hợp gọi là hữu. Từ hữu phát sinh gọi là sinh. Sinh biến đổi gọi là lão. Lão hoại diệt gọi là tử.

Lại nữa, vô minh có hai hoạt động:

  1. Si trong duyên.
  2. Làm nhân cho hành.

Hành cũng có hai hoạt động:

  1. Sinh quả báo đời vị lai.
  2. Làm nhân cho thức.

Thức cũng có hai hoạt động:

  1. Có thể thọ sinh.
  2. Làm nhân cho danh sắc.

Danh sắc cũng có hai hoạt động:

  1. Khiến cho thức phát sinh nối tiếp nhau.
  2. Làm nhân cho sáu nhập.

Lục nhập cũng có hai hoạt động:

  1. Duyên sáu trần.
  2. Làm nhân cho xúc.

Xúc cũng có hai hoạt động:

  1. Có thể xúc cho đối tượng.
  2. Làm nhân cho thọ.

Thọ cũng có hai hoạt động:

  1. Cảm giác với việc.
  2. Làm nhân cho ái.

Ái cũng có hai hoạt động:

  1. Sinh tâm tham luyến với sự yêu mến.
  2. Làm nhân cho thủ.

Thủ cũng có hai hoạt động:

  1. Tăng trưởng phiền não.
  2. Làm nhân cho hữu.

Hữu cũng có hai hoạt động:

  1. Có thể sinh vào cảnh giới.
  2. Làm nhân cho sinh.

Sinh cũng có hai hoạt động:

  1. Phát sinh ra năm ấm.
  2. Làm nhân cho lão.

Lão cũng có hai hoạt động:

  1. Khiến cho các căn già cả.
  2. Làm nhân cho tử.

Tử cũng có hai hoạt động:

  1. Phá hoại thân năm ấm.
  2. Do chẳng thấy biết đúng mà khiến cho chốt sống nối tiếp nhau chẳng dứt.

Lại nữa, vô minh duyên các hành thì vô minh khiến hành chẳng gián đoạn, trợ giúp thành hành vậy. Hành duyên thức thì khiến thức chẳng gián đoạn, giúp thành thức vậy. Thức duyên danh sắc thì khiến cho danh sắc chẳng gián đoạn, giúp thành danh sắc vậy…; cho đến sinh duyên lão tử ưu bi khổ não thì khiến cho tử chẳng gián đoạn, giúp thành tử vậy. Vô minh diệt thì các hành diệt…, cho đến sinh diệt nên lão tử ưu bi khổ não diệt. Nhân diệt nên quả cũng diệt.

Lại nữa, vô minh, ái và thủ, ba phần đó chẳng gián đoạn đường phiền não. Hành và hữu, hai phần đó chẳng gián đoạn đường nghiệp. Những phần nhân duyên khác thì chẳng gián đoạn đường khổ. Đời trước, đời sau nối tiếp nhau vậy do ba đường đó chẳng đoạn. Ba đường đó chẳng có ngã và ngã sở nên có sinh diệt.

Lại nữa, vô minh và hành chính là việc đời quá khứ. Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ chính là việc đời hiện tại. Ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử chính là việc đời vị lai. Do đó mà có sự xoay chuyển của ba đời. Vô minh diệt nên các hành diệt, gọi là thuyết đoạn tương tục của ba đời.

Lại nữa, mười hai nhân duyên nói lên ba khổ: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập gọi là hành khổ; xúc, thọ gọi là khổ khổ; ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử, ưu bi, khổ não gọi là hoại khổ. Vô minh diệt nên các hành diệt… cho đến sinh diệt nên các lão tử diệt, đây gọi là thuyết gián đoạn ba khổ tương tục.

Lại nữa, nhân vô minh sinh nên các hành sinh, vô minh diệt nên các hành diệt, vì tánh các hành là không. Những cái khác cũng vậy. Vô minh làm các hành sinh ra gọi là thuyết sinh phước. Vô minh diệt các hành diệt gọi là thuyết diệt phược. Những cái khác cũng như vậy.

Lại nữa, vô minh làm các hành sinh đó là thuyết quán không thật có tùy thuận. Vô minh diệt các hành diệt là thuyết thuận theo quán tâm diệt. Những cái khác cũng như vậy. Như vậy, phép thuận nghịch mười thứ quán về mười hai nhân duyên còn gọi là phân nhân duyên theo thứ lớp thuộc về tự giúp nhau thành pháp, chẳng rời nhau, theo ba đường mà hoạt động, phân biệt đời trước, đời sau ba khổ sai biệt, từ nhân duyên khởi lên sự sinh diệt trói buộc, quán sát không cùng tận.

Bồ-tát đó tùy theo mười hai nhân duyên, không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng thì lìa khỏi tác giả, người sai làm không chủ, mà theo các nhân duyên. Khi quán như vậy thì pháp môn Không giải thoát hiện ra. Diệt việc này còn chẳng nối tiếp thì pháp môn Vô tướng giải thoát hiện ra. Biết hai thứ này, chẳng còn hỷ lạc về các cõi, chỉ có đại Bi giáo hóa chúng sinh thì pháp môn Vô nguyện giải thoát hiện ra. Bồ-tát tu hành ba môn giải thoát, lìa khỏi tướng ngã, lìa khỏi tướng tác giả, người nhân, lìa khỏi tướng có không thì tâm Bi tăng thêm. Do tâm Bi nên tu hành tinh tấn, đối với pháp Bồ-đề, chưa được đầy đủ muốn khiến cho đầy đủ.

Bồ-tát sinh ý nghĩ: “Pháp hữu vi hòa hợp thì tăng, ly gián thì giảm; đủ duyên thì tăng, chẳng đủ thì giảm. Ta biết lỗi của pháp hữu vi nên chẳng cần hòa hợp, vì đủ các nhân duyên giáo hóa chúng sinh nên cũng chẳng cần diệt pháp hữu vi.”

Bồ-tát biết pháp hữu vi vô tánh như vậy, chẳng có tướng kiên cố, không sinh không diệt, cùng với đại Bi hòa hợp, chẳng bỏ chúng sinh thì liền được ánh sáng Bát-nhã ba-la-mật vô ngại hiện ra. Được trí tuệ đó đầy đủ, tu tập nhân duyên Vô thượng Bồ-đề mà chẳng trụ ở pháp hữu vi, quán tướng tịch tĩnh của tánh pháp hữu vi mà cũng chẳng trụ trong ấy, vì muốn đầy đủ pháp Bồ-đề vô thượng.

Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền được Tam-muội Thắng không, Tammuội Tánh không, Tam-muội Đệ nhất nghĩa không, Tam-muội Cứu cánh không, Tam-muội Đại không, Tam-muội Hiệp không, Tammuội Sinh không, Tam-muội Như thật ly hư vọng không, Tam-muội Lược không, Tam-muội Ly phân biệt bất phân biệt không…, hàng vạn Tam-muội như vậy hiên ra. Tam-muội Vô tướng vô nguyện cũng như vậy. Bồ-tát đó trụ ở địa Hiện tiền thì các tâm thâm tâm, quyết định, chân, sâu xa thậm thâm, không thoái chuyển, không rộng, vô biên, lạc trí, tuệ phương tiện hòa hợp… Những tâm như vậy càng lớn thêm, thuận theo Vô thượng Bồ-đề, tất cả Luận sư chẳng thể khuynh động. Vào giới trí địa, chuyển đổi Thanh văn, Bích-chiphật địa, quyết định hướng về Phật trí, tất cả chúng ma và các phiền não đã chẳng thể phá hoại. An trụ trong ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát, tu cửa giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, chuyên dùng phương tiện trí tuệ của hành pháp trợ Bồ đề.

Bồ-tát đó trụ ở địa Hiện tiền thì đối với Bát-nhã ba-la-mật càng tăng nhiều hơn, được Minh thượng thuận nhẫn nên thuận theo pháp đó không có trái ngược. Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền được thấy trăm ngàn vạn ức Phật, tôn trọng tán thán, cung kính cúng dường y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược, thân cận các Đức Phật. Ở chỗ các Đức Phật lắng nghe chánh pháp, theo đúng lời dạy mà tu hành, khiến cho Đức Phật hoan hỷ. Người đó trở nên hoàn hảo hơn, biết kho tàng Phật pháp, cho đến vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp tất cả căn lành nên minh tịnh. Ví như vàng ròng dùng lưu ly mài dũa thì ánh sáng trở nên đẹp hơn.

Bồ-tát trụ ở địa Hiện tiền dùng tuệ phương tiện nên tất cả căn lành trở nên minh tịnh hơn, các địa khác chẳng bằng. Ví như ánh sáng mặt trăng khiến cho thân của chúng sinh mát mẻ, bốn thứ gió thổi chẳng thể ngăn được.

Bồ-tát ở địa Hiện tiền thì căn lành trở nên hoàn hảo hơn có thể diệt lửa phiền não của chúng sinh, bốn thứ ác ma đã chẳng thể phá hoại.

Này Phật tử! Đó là lược nói về địa Hiện tiền của Bồ-tát. Bồ-tát trụ ở địa này, phần nhiều làm vua trời Tha hóa tự tại, trí tuệ thông minh, có thể phá tan tất cả kẻ tăng thượng mạn, Thanh văn vấn nạn chẳng thể làm cho cùng tận. Thực hành các việc như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự thì Bồ-tát chẳng lìa niệm Phật, chẳng lìa niệm pháp…, cho đến chẳng lìa Nhất thiết chủng trí.

Bồ-tát thường sinh ý nghĩ: “Ta đối với tất cả chúng sinh, sẽ làm người đứng đầu, làm người thắng hơn…; cho đến đối với tất cả chúng sinh, ta làm người y chỉ.”

Bồ-tát đó nếu muốn siêng tu tinh tấn thì trong giây lát, được trăm ngàn vạn ức Tam-muội…, cho đến thị hiện trăm ngàn ức Bồ-tát để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thì có thể hơn số đó, trăm ngàn vạn ức kiếp chẳng thể tính biết được.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn làm sáng tỏ ý nghĩa này, nói kệ khen rằng:

Các Bồ-tát đã được
Hành đầy đủ năm Địa
Biết các pháp vô tánh
Vô tướng, không sinh diệt
Xưa nay thường thanh tịnh
Các hý luận cũng không
Các pháp thường lìa tướng
Chẳng lấy cũng chẳng bỏ
Tánh không giống như huyễn
Lìa hai, không phân biệt
Hành thuận theo như vậy
Vào xong Địa thứ sáu
Trụ Minh lợi thuận nhẫn
Bằng năng lực trí tuệ
Quan sát đến tất cả
Tướng thế gian sinh diệt
Biết hết các thế gian
Đều từ vô minh có
Nếu diệt được vô minh
Thì thế gian không có
Chẳng hoại duyên quả báo
Hành động và giả danh
Quả thật không tác giả
Mà người nhận cũng không
Quán hữu vi như vậy
Như mây, tướng không thật
Chẳng biết nghĩa Chân đế
Gọi đó là vô minh.
Từ đó sinh nghiệp ý
Miệng, thân tạo quả hành
Từ hành nên có thức
Danh sắc sinh ra liền
Như vậy tuần tự sinh
Khối khổ não sinh tử
Biết rõ về ba cõi
Chỉ có từ lòng tham
Biết mười hai nhân duyên
Chỉ ở trong một tâm
Như vậy thì sinh tử
Chỉ từ tâm phát sinh
Nếu tâm bị tiêu diệt
Thì sinh tử hết luôn
Vô minh hai hoạt động
Duyên si, tạo ra nghiệp
Cho đến phần già chết
Hoại tan năm ấm tụ
Từ những việc thế này
Sinh ra đủ khổ não
Việc đó nếu chấm dứt
Thì khổ não cũng diệt
Nếu vô minh đầy đủ
Nối nhau thì chẳng diệt
Nếu chấm dứt nhân duyên
Thì không còn tương tục
Ái, thủ và vô minh
Tức là đường phiền não
Nghiệp là hữu và hành
Phần còn lại là khổ
Vô minh, hành quá khứ
Thức, danh sắc, lục nhập
Xúc, thọ là hiện tại
Còn lại là tương lai
Si, thức và danh sắc
Lục nhập là hành khổ
Xúc thọ là khổ khổ
Còn lại là hoại khổ
Sinh từ các duyên sinh
Nên có các ràng buộc
Nếu diệt hết mọi duyên
Thì trói buộc không còn
Quả sinh từ các nhân
Nhân diệt thì quả diệt
Như vậy xem các pháp
Thì tự tánh đều không
Tùy thuận với vô minh
Thì có những thế gian
Nếu chẳng còn thuận theo
Thì đoạn liền với “hữu”
Đây có thì kia có
Đây không thì kia không
Như vậy mười quán pháp
Pháp nhân duyên thậm thâm
Nhân duyên theo giai đoạn
Khứ, lai và hiện tại
Hoạt động theo một tâm
Phân biệt có ba đường
Ba thứ khổ khác nhau
Sinh diệt cùng trói buộc
Không thật có cùng tận
Thực hành quán thuận nghịch
Bồ-tát vào như vậy
Mười hai pháp nhân duyên
Biết “không” như mộng huyễn
Không người làm người nhận
Quán nhân duyên như vậy
Người tu trí với không
Diệt nhân chẳng tương tục
Đi vào hành vô tướng
Biết hai hư giả ấy
Trong ấy chẳng mong cầu
Chỉ dùng tâm đại Bi
Thường độ cho chúng sinh
Như vậy các Đại nhân
Tu tập môn giải thoát
Lòng bi yêu thích Phật
Các công đức không lường
Được vạn Tam-muội Không
Định Vô tướng, Vô nguyện
Trí tuệ càng tiến thêm
Vào đến Thượng thuận nhẫn
Được trí không ngăn ngại
Giải thoát của Bồ-tát
Như vậy các căn lành
Chuyển thắng lợi minh tịnh
Cúng dường Phật không lường
Chư Phật đã khen ngợi
Ở chỗ các Thế Tôn
Căn lành càng lớn thêm
Như đem báu lưu ly
Mài dũa với vàng ròng
Ánh sáng càng rực rỡ
Báu khác chẳng bì kịp
Như trăng đi trên không
Mát mẻ cho tất cả
Bốn thứ gió thổi mạnh
Chẳng thể khiến hết mát
Trí tuệ của Bồ-tát
Diệt các lửa phiền não
Bốn ma chẳng hoại được
Nghĩa ấy cũng như vậy
Bồ-tát trụ Địa ấy
Thường làm Thiện Hóa vương
Các căn đều thông minh
Phá tan tăng thượng mạn
Thực hành các nghiệp thiện
Đều theo trí tuệ thông
Thanh văn dù vấn nạn
Chẳng thể hỏi tận cùng
Phật tử đó nếu muốn
Tinh tấn thân như vậy
Thì khoảnh khắc liền được
Ức trăm ngàn Tam-muội
Thấy được trăm ngàn ức
Thế giới Phật mười phương
Như trời thu trong mát
Ánh trăng đẹp sạch trong
Như vậy Địa thứ sáu
Thâm diệu, thật khó biết
Thanh văn chẳng rõ biết
Đại sĩ lược nói xong.

Địa thứ bảy:
Lúc bấy giờ Thiên chúng
Ở trên giữa hư không
Mưa hương hoa trân bảo
Như mây trên Thế Tôn
Vui mừng phát tiếng vang
Tất cả khen: Hay thay!
Hay thay! Kim Cang Tạng
Biết rõ Đệ nhất nghĩa
Vô lượng khối công đức
Hoa sen trong thế nhân
Nói hạnh thượng diệu ấy
Lợi ích những thế gian
Vua Tha hóa tự tại
Mưa hoa báu quang minh
Rơi lả tả cúng dường
Trừ phiền não của người
Chư Thiên và Thiên vương
Đều cùng nhau nói rằng
“Nghe nghĩa của địa ấy
Thì được lợi vô cùng”
Liền trổi trăm ngàn thứ
Những âm nhạc rất hay
Các Thiên nữ ngợi khen
Nhờ nương thần lực Phật
Chư Phật, Đấng Tịch Diệt
Hay chuyển ác làm lành
Tất cả các thế gian
Đều chung cùng cung kính
Tuy ra khỏi thế gian
Mà dạy pháp thế gian
Biết thân đồng tướng thật
Mà hiện nhiều loại thân
Tuy dùng các ngôn ngữ
Diễn nói pháp tịch diệt
Mà biết ở ngôn ngữ
Không có tướng âm thanh
Hay qua trăm ngàn cõi
Thượng diệu cúng chư Phật
Biết thân, cõi của Phật
Lìa tướng, trí tự tại
Tuy giáo hóa chúng sinh
Mà không tưởng ta, người
Gồm hết công đức lớn
Trong ấy chẳng chấp trước
Vì kiến chấp tướng thủ
Lửa ba độc đốt đời
Chẳng chấp thủ các tướng
Từ bi sinh tinh tấn
Chư Thiên và Thiên nữ
Hoan hỷ bày cúng dường
Tán thán xong như vậy
Lặng lẽ quán Thế Tôn
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Thỉnh Kim Cang Tạng rằng:
“Đại chúng đều thanh tịnh
Xin nói Địa thứ bảy.”

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát đã đầy đủ Địa thứ sáu rồi, muốn vào Địa thứ bảy thì từ tuệ phương tiện sinh ra mười diệu hạnh.

Những gì là mười?

  1. Khéo tu Không, Vô tướng, Vô nguyện mà vận dụng lòng Từ bi.
  2. Ở trong chúng sinh theo pháp bình đẳng của chư Phật mà chẳng bỏ sự cúng dường chư Phật.
  3. Thường ưa tư duy cửa không khí mà tu tập phước đức tư lương.
  4. Xa lìa ba cõi mà trang nghiêm cho ba đời.
  5. Rốt ráo tịch diệt các lửa phiền não nhưng vì chúng sinh phát sinh pháp diệt lửa phiền não tham, sân, si.
  6. Thuận theo các pháp như huyễn, như mộng, như trăng trong nước chẳng hai tướng mà phát sinh phân biệt đủ các loại phiền não và chẳng mất quả báo của nghiệp.
  7. Biết tất cả nước Phật rỗng không như hư không đều là tướng ly mà phát sinh hạnh làm tịnh Phật quốc.
  8. Biết tất cả Pháp thân Phật không có thân mà phát sinh sắc thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm.
  9. Biết âm thanh chư Phật chẳng thể nói, tướng tịch diệt mà tùy theo tất cả phát sinh đủ chủng loại âm thanh trang nghiêm.
  10. Biết hết chư Phật, ở trong một niệm, thông đạt cả ba đời mà biết tất cả tướng, các thứ thời, các thứ kiếp được Vô thượng Bồđề, tùy theo sự tin hiểu của chúng sinh mà nói như vậy.

Đây gọi là tuệ từ phương tiện phát sinh mười diệu hạnh.

Đại Bồ-tát tu diệu hạnh này thì phương tiện tuệ như vậy xuất hiện, nên gọi là vào Địa thứ bảy.

Bồ-tát đó trụ ở Địa thứ bảy thì vào vô lượng cõi chúng sinh,

vào vô lượng pháp giáo hóa chúng sinh của chư Phật, vào vô lượng thế giới, vào vô lượng đất nước thanh tịnh của chư Phật, vào vô lượng những pháp sai biệt, vào vô lượng trí chư Phật được đạo vô lượng, vào vô lượng những kiếp số, vào vô lượng các Đức Phật thông đạt ba đời, vào vô lượng sự ưa muốn sai biệt của chúng sinh, vào vô lượng sắc thân sai biệt của chư Phật, vào vô lượng sự hiểu biết của tâm hành, các căn sai biệt của chúng sinh và chư Phật, vào vô lượng âm thanh ngôn ngữ khiến cho chúng sinh hoan hỷ của chư Phật, vào vô lượng tâm sở sai biệt của tâm chúng sinh, vào vô lượng hạnh theo trí tuệ của chư Phật, vào thị hiện vô lượng tin hiểu của Thanh văn thừa, vào vô lượng sự thuyết nhân duyên của đạo khiến cho chúng sinh tin hiểu của chư Phật, vào vô lượng trí tuệ tu tập thành của Bích-chi-phật, vào vô lượng tuệ thậm thâm đã nói của chư Phật, vào vô lượng sự hành đạo của các Bồ-tát, vào vô lượng việc tu hành Đại thừa đã nói của chư Phật khiến cho chúng sinh được vào. Bồ-tát phát sinh ý nghĩ: “Như vậy, các Đức Phật có vô lượng, vô biên thế lực lớn. Thế lực như vậy ta nên tu tập. Được thế lực này chẳng thể phân biệt.”

Bồ-tát tư duy trí tuệ như vậy, tu tập tuệ đại phương tiện, an trụ ở Phật trí. Do pháp bất động, nên thường sinh ra đủ loại đạo để độ chúng sinh không chướng ngại. Đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể phát sinh ra pháp độ chúng sinh, xa lìa những ấm, cái; trụ ở những oai nghi, thường chẳng xa lìa những niệm tưởng như vậy.

Bồ-tát ở trong một niệm đầu đủ mười Ba-la-mật và sự tu hành mười Địa. Vì sao vậy? Vì Bồ-tát ở trong mỗi một niệm lấy đại Bi làm đầu để tu tập Phật pháp, hồi hướng tất cả về đại trí tuệ. Mười Ba-la-mật thì Bồ-tát đem thiện căn do sự tu tập để cầu Phật đạo hồi hướng cho chúng sinh. Bố thí ba-la-mật có thể diệt tất cả lửa nóng phiền não.

Trì giới ba-la-mật đó lấy Từ bi làm đầu; đối với tất cả chúng sinh, không có tâm làm tổn hại.

Nhẫn nhục ba-la-mật cầu căn lành không chán đủ.

Tinh tấn ba-la-mật đó thì tâm tu đạo chẳng mất thường hướng về Nhất thiết trí.

Thiền ba-la-mật đó thì nhận được cửa bất sinh của các pháp.

Bát-nhã ba-la-mật có thể sinh ra vô lượng trí môn.

Phương tiện ba-la-mật đó thì cầu tăng thêm trí tuệ.

Nguyện ba-la-mật thì các ma ngoại đạo chẳng thể phá hoại.

Lực ba-la-mật thì đối với tất cả pháp tướng nói đúng như thật.

Trí ba-la-mật thì trong từng niệm như vậy đầy đủ mười Ba-lamật.

Khi Bồ-tát đó đầy đủ mười Ba-la-mật thì bốn Nhiếp pháp, ba mươi bảy phẩm, ba giải thoát môn, tất cả pháp trợ Vô thượng Bồđề… ở trong từng niệm từng niệm đều đầy đủ hết.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát chỉ cần Địa thứ bảy là đầy đủ pháp trợ Bồ-đề hay tất cả các Địa cũng có đầy đủ?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát, ở trong các Địa đều đầy đủ hết pháp trợ Bồ-đề, nhưng địa Viễn hành là hơn các Địa nên nói như vậy. Vì sao vậy? Vì các Đại Bồ-tát ở trong Địa thứ bảy công hạnh đầy đủ, vào đường trí tuệ thần thông.

Này Phật tử! Bồ-tát ở Địa thứ nhất phát nguyện duyên vào tất cả Phật pháp, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Ở Địa thứ hai, trừ các cấu trong lòng, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Ở Địa thứ ba, càng tăng trưởng, được ánh sáng pháp, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Ở Địa thứ tư, Bồ-tát vào đạo, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Ở Địa thứ năm, hành thuận theo pháp thế gian, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Ở Địa thứ sáu, vào môn thậm thâm, đầy đủ pháp trợ Bồ-đề.

Địa thứ bảy này sinh ra tất cả Phật pháp, đầy đủ pháp trợ Bồ đề. Vì sao vậy? Vì Đại Bồ-tát ở trong Địa này được sự hành đạo của những trí tuệ. Do các lực này nên Địa thứ tám tự nhiên được thành.

Này Phật tử! Ví như hai thế giới, một thanh tịnh, một cấu uế. Khoảng giữa hai thế giới đó khó có thể qua được. Muốn qua được thế giới này phải dùng thần thông và sức đại nguyện. Bồ-tát cũng như vậy, tu hành ở tạp đạo thì khó có thể vượt qua được, phải dùng đến sức đại nguyện, sức đại trí tuệ, sức đại phương tiện thì mới qua được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói:

–Bồ-tát thứ bảy hành động đã là tịnh? Hay còn là cấu?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Từ Hoan hỷ địa trở đi, hành động của Bồ-tát đều lìa khỏi nghiệp của tội. Vì sao vậy? Vì hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, những hành động tùy theo địa thanh tịnh chẳng gọi là đã vượt qua.

Này Phật tử! Ví như Chuyển luân thánh vương cỡi voi báu lớn du hành bốn thiên hạ, thấy những chúng sinh bần cùng khốn khổ nhà vua tuy không khổ nhưng vẫn chưa thoát khỏi thân người. Nếu vua bỏ thân vua sinh ở cõi Phạm, du hành một ngàn thế giới, hiện uy lực lớn thì lúc bấy giờ mới gọi là thoát khỏi thân người.

Bồ-tát cũng vậy, từ Địa thứ nhất ở tại những Ba-la-mật thừa, biết ý nghĩ và hành động của tất cả chúng sinh và các cấu bẩn phiền não, nhưng chẳng bị ô nhiễm cấu bẩn phiền não. Tuy đi đường thiện đạo chẳng gọi là vượt qua. Nếu xả tất cả, tu hạnh công đức, vào đến Địa thứ tám, lúc bấy giờ gọi là đi bằng thừa thanh tịnh, biết hết tất cả những cấu bẩn phiến não mà chẳng bị sự nhiễm ô của cấu bẩn phiền não thì mới gọi là vượt qua.

Này các Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy thì qua khỏi tham dục…, những cấu bẩn phiền não. Ở Địa thứ bảy này chẳng gọi là có phiền não, chẳng gọi là không phiền não. Vì sao vậy? Vì tất cả phiền não chẳng phát sinh, nên chẳng gọi là có phiền não. Mong cầu trí tuệ Như Lai nhưng chưa mãn nguyện nên chẳng gọi là không phiền não.

Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy thành tựu nghiệp thanh tịnh thân, miệng, ý. Nghiệp bất thiện phiền não của Bồ-tát ấy đã lìa bỏ hết, còn thiện nghiệp thì còn tu tập.

Lại nữa, kinh sách của thế gian, như đã nói ở Địa thứ năm, tự nhiên có được. Ở tam thiên đại thiên thế giới, Bồ-tát được làm Đại sư rất là hy hữu, trừ Như Lai.

Bồ-tát Địa thứ tám, không có thâm tâm diệu hạnh nào của chúng sinh mà có thể bằng được. Thiền định, Thần thông, Giải thoát, Tam-muội của Bồ-tát đó chẳng tùy theo thiền sinh mà tùy theo ý muốn. Bồ-tát trụ ở địa Viễn hành, ở trong từng niệm, từng niệm tu tập đầy đủ phương tiện tuệ và tất cả pháp trợ Bồ-đề, trở nên vượt hơn, đầy đủ. Có thể vào các Tam-muội Thiện phục, Thiện tuệ, tấn tuệ, Kiên cố an trụ, Tri thần thông môn, Tịnh pháp giới, Thuận Phật giáo, Chủng chủng nghĩa tạng, Bối sinh tử hướng Niết-bàn… đầy đủ trăm vạn Tam-muội như vậy làm thanh tịnh địa này.

Bồ-tát đó được những tam mưội này thì trí tuệ phương tiện hoàn hảo thanh tịnh, đắc sâu sức đại Bi nên gọi là qua khỏi địa Thanh văn, Bích-chi-phật, đi đến địa Phật trí. Bồ-tát đó trụ ở Địa này thì tu hành vô lượng nghiệp thân vô tướng, hành vô lượng nghiệp miệng, ý vô tướng. Hạnh Bồ-tát thanh tịnh nên được Vô sinh pháp nhẫn soi sáng các pháp.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói:

–Thưa Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ nhất có vô lượng nghiệp thân, vô lượng nghiệp miệng, vô lượng nghiệp ý rồi có thể qua khỏi Thanh văn, Bích-chi-phật địa không?

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Nhờ duyên vào pháp lớn nên qua khỏi chứ chẳng phải sức thật hành, còn Địa thứ bảy là do sức thật hành vậy. Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể phá hoại được. Ví như người sinh tại vương gia thì hơn tất cả. Vì sao vậy? Vì địa vị tôn quý. Thân kia to lớn, trí tuệ thành tựu thì mới chân thật vượt hơn tất cả. Bồ-tát cũng như vậy, khi mới phát tâm thì đã hơn Nhị thừa vì thâm tâm phát đại nguyện thanh tịnh. Hiện nay, Bồ-tát trụ ở địa này thì lực trí tuệ hơn Thanh văn và Bích-chi-phật.

Này Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy được Vô hành thậm thâm viễn ly. Nghiệp thân, miệng, ý đều cầu thắng pháp mà chẳng lìa bỏ. Do tâm chuyển thắng nên tuy tu hành thật tế mà chẳng chứng thật tế.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói:

–Thưa Phật tử! Bồ-tát từ Địa nào thì có thể tịch diệt?

Ngài Kim Cang Tạng nói:

–Từ Địa thứ sáu có thể vào tịch diệt, Bồ-tát trụ ở Địa này, ở trong từng niệm từng niệm, có thể vào tịch diệt mà chẳng chứng tịch diệt. Bồ-tát đó thành tựu nghiệp thân, miệng, ý nhiều không thể nghĩ bàn; hành thật tế mà chẳng chứng thật tế. Ví như có người đi thuyền vào biển, giỏi phép đi biển, giỏi biết tướng trạng của nước thì chẳng bị nạn chìm đắm trong nước. Như vậy, Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy này, ngồi thuyền những Ba-la-mật có thể tu hành thực tế mà chẳng chứng thực tế.

Bồ-tát do lực đại nguyện như vậy nên được lực trí tuệ. Từ thiền định trí tuệ phát sinh lực đại phương tiện, nên tuy rất muốn Niết-bàn mà hiện thân sinh tử; tuy có bà con vây quanh mà lòng thường xa lìa. Do nguyện lực nên Bồ-tát thọ sinh ở ba cõi mà chẳng bị ô nhiễm của thế pháp, tâm thường vắng lặng. Do năng lực phương tiện mà lại tinh tấn hành theo Phật trí, chuyển đổi Thanh văn, Bích-chi-phật địa. Đạt được Phật pháp tạng mà thị hiện ma giới. Tuy vượt qua bốn ma mà thị hiện hành động ma. Tuy hiện hạnh ngoại đạo mà chẳng bỏ Phật pháp. Tuy hiện thân tất cả thế gian mà lòng thường ở tại pháp xuất thế gian. Tất cả việc trang nghiêm thì hơn các Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân, Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm Thiên vương…, mà chẳng bỏ pháp lạc, pháp ái.

Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, trụ ở địa Viễn hành thì gặp được trăm ngàn vạn ức na-do-tha Đức Phật, tôn trọng, tán thán, cung kính, cúng dường y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược cúng dường các Đức Phật, hộ trì Phật pháp. Sự vấn nạn trí tuệ của các Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể phá hoại. Bồ-tát thương xót khắp chúng sinh nên pháp nhẫn trở nên thanh tịnh. Vô lượng trăm ngàn vạn ức na-dotha kiếp, căn lành Bồ-tát đó trở nên vượt hơn.

Ví như vàng ròng dùng các thứ báu đẹp trang nghiêm xen lẫn vào càng trở nên sáng đẹp hơn, các kim loại khác chẳng bì kịp. Bồtát cũng như vậy, trụ ở địa Viễn hành, tất cả căn lành từ phương tiện trí tuệ phát sinh càng trở nên sáng tịnh hơn, không ai có thể phá hoại được.

Ví như ánh sáng mặt trời thì ánh sáng mặt trăng, sao chẳng thể bì kịp; tất cả bùn nước đều có thể khô kiệt. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Viễn hành thì căn lành trở nên vượt hơn, mà tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật địa chẳng thể bì kịp, lại có thể làm khô kiệt bùn nhơ phiền não.

Này các Phật tử! Đó gọi là lược nói địa Viễn hành của Đại Bồtát. Bồ-tát trụ ở địa đó phần nhiều làm vua trời Tha hóa tự tại, các căn mạnh mẽ có thể phát sinh nhân duyên ngộ đạo cho chúng sinh. Căn lành đã làm như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, chẳng rời niệm pháp…, cho đến chẳng rời niệm Nhất thiết chủng trí đầy đủ.

Bồ-tát đó thường sinh tâm: “Ta đối với tất cả chúng sinh sẽ làm người đứng đầu, làm người thắng hơn…, cho đến đối với tất cả chúng sinh ta làm người y chỉ.”

Bồ-tát đó nếu muốn như vậy cần hành tinh tấn thì ở trong giây lát được trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội…, cho đến có thể hiện trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-tát để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện thì hơn cả số này mà hàng trăm ngàn vạn ức kiếp chẳng thể tính biết.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn một lần nữa làm sáng tỏ nghĩa này, nói kệ khen rằng:

Tâm định trí tuệ sâu
Đủ hành Địa sáu xong
Một lúc sinh phương tiện
Tuệ vào Địa thứ bảy
Hành Không, Vô tướng, Nguyện
Mà tu tâm Từ bi
Thuận pháp Phật bình đẳng
Mà cúng dường Thế Tôn
Tuy dùng trí quán Không
Mà tu phước không chán
Tuy trang nghiêm ba cõi
Mà lòng ưa viễn ly
Tuy lòng tịch diệt luôn
Mà vẫn diệt pháp ác
Chẳng hai tướng, hành không
Mà hành tâm Từ bi
Tuy quán tất cả cõi
Trống rỗng như hư không
Mà vẫn trang nghiêm tốt
Các cõi Phật sạch trong
Tuy biết thân chư Phật
Pháp tướng đồng vô tướng
Mà trồng ba hai tướng
Tám mươi vẻ đẹp xinh
Tuy biết pháp âm thanh
Chẳng có tướng ngôn ngữ
Mà khen Phật bằng tiếng
Thì được pháp chiếu sáng
Bồ-tát mà như vậy
Liền vào địa thứ bảy
Trụ địa đó hay quán
Nghiệp chúng sinh không lường
Cũng biết pháp chư Phật
Giáo hóa cho chúng sinh
Thế giới vô số kiếp
Tướng sai biệt các pháp
Lại biết các chúng sinh
Sinh đủ thứ dục lạc
Biết nói pháp ba thừa
Khiến chúng sinh tin hiểu
Ta nên cầu giáo hóa
Thành tựu chúng sinh đó
Dùng tư duy như vậy
Phương tiện tuệ hòa hợp
Bốn uy nghi ở trong
Thường hành đạo như vậy
Mỗi một niệm ở trong
Đủ cả pháp Bồ-đề
Là Thí, Giới, các loại…
Mười thứ Ba-la-mật
Như vậy, các Bồ-tát
Phước đức đã tu hành
Đều cho các chúng sinh
Là Thí ba-la-mật,
Diệt cấu ác trong lòng
Là Giới ba-la-mật,
Chẳng bị sáu trần hại
Nhẫn nhục ba-la-mật,
Thường phát sinh pháp thắng
Tinh tấn ba-la-mật,
Chẳng lay động tâm đạo
Là Thiền ba-la-mật,
Vô sinh nhẫn chiếu minh
Bát-nhã ba-la-mật,
Hồi hướng đạo Thế Tôn
Phương tiện ba-la-mật,
Cầu được đạo thắng hơn
Là Nguyện ba-la-mật,
Không có thể phá hoại
Là Lực ba-la-mật
Hay hiểu lời chân thật
Là Trí ba-la-mật
Pháp trợ Bồ-đề trên
Niệm niệm đều luôn giữ
Phát đại nguyện mênh mông
Duyên vào với đại pháp
Địa công đức đầu tiên
Gọi đó là Cụ túc.
Địa thứ hai tên là:
Trừ các tâm cấu ác
Thứ ba: Nguyện tăng minh
Địa thứ tư: Nhập đạo
Thứ năm: Tùy thế hành
Thứ sáu: Nhập thâm pháp
Thứ bảy: Gom tất cả
Đủ pháp Bồ-đề phần
Các công đức phát sinh
Và dùng tất cả nguyện
Công đức như vậy nên
Khiến vào Địa thứ tám
Tất cả các hành động
Tự nhiên được thanh tịnh
Địa Viễn hành khó qua
Sức đại Trí có thể
Như khoảng giữa hai nước
Khó có thể vượt quá
Ở trong địa thứ bảy
Thanh tịnh như Thánh vương
Tuy trụ ở đường đó
Chẳng gọi qua tất cả
Thứ tám nếu đến liền
Là Tuệ địa Bồ-tát
Bấy giờ vượt ý giới
Trụ ở trong trí nghiệp
Như Thiên vương, Phạm vương
Chẳng thể gọi là người
Bồ-tát không bị tội
Như hoa sen trên nước
Trụ Địa đó, Bồ-tát
Qua khỏi các dục tham…
Chẳng gọi “có phiền não”
Chẳng gọi đã diệt hết
Vào trong đường chính đó
Không có các phiền não
Còn nguyện cầu Phật đạo
Chẳng được gọi là tận
Ở trong những thế gian
Kinh sách, việc kỹ thuật
Chú thuật và tụng văn
Tự nhiên biết sáng tỏ
Tu tập các thiền định
Và cả những thần thông…
Vô lượng tâm lợi đời
Việc đó đều phát sinh.
Bấy giờ Bồ-tát ấy
Vượt qua khỏi Nhị thừa
An trụ Địa thứ bảy
Bồ-tát trong các hành
Do khi tâm mới phát
Sức nguyện lớn nên hơn
Nay Địa này ở trong
Tự dùng sức trí tuệ
Giống như con quốc vương
Khi sinh đã tôn quý
Sau do công đức thành
Được mọi người tôn trọng
Trụ đây được trí sâu
Tinh tấn càng thêm tăng
Niệm niệm vào tịch diệt
Chẳng chấp thủ chẳng đắc
Như người chèo thuyền khéo
Vào trong biển mênh mông
Tuy nước sâu đi khó
Mà chẳng bị hại chìm
Bồ-tát tu chuyển thắng
Phương tiện trí tuệ nên
Công đức đều đầy đủ
Thế gian chẳng biết được
Cúng dường vô lượng Phật
Tâm ấy chuyển sạch trong
Như vàng ròng xen báu
Xen lẫn nên rất đẹp
Được ánh sáng tuệ Phật
Làm khô cạn nước ái
Như ánh sáng vầng nhật
Làm khô cạn đất bùn
Trụ địa đó thường làm
Tha hóa tự tại vương
Các căn đều mạnh mẽ
Các đạo quả đạt thông
Nếu muốn siêng tinh tấn
Được thấy ức trăm ngàn
Na-do-tha chư Phật
Sức nguyện thì lại hơn
Địa thứ bảy tuệ tịnh
Nhị thừa và Thiên nhân
Đều ngoài cảnh giới ấy
Nay đã lược nói xong.

*********

Vua Tha hóa tự tại
Bồ-tát và chư Thiên
Nghe nói các hạnh trên
Lòng đều rất vui mừng
Mưa hương hoa thượng diệu
Anh lạc, cờ, lọng báu
Ngọc ma-ni tốt đẹp
Tung cùng Phật, đại chúng
Thiên nữ ở không trung
Tấu đủ loại âm nhạc
Cúng dường Đức Thế Tôn
Cùng những vị Bồ-tát
Tiếng vi diệu đồng thanh
Ca tụng công đức Phật:
Đấng Tuệ thông tất cả
Tối tôn trong chúng sinh
Vì thương xót thế gian
Hiện những sức thần thông
Hương hoa và châu báu
Đều lên tiếng như vậy
Ở trong một hạt bụi
Hiện ra na-do-tha
Những vị Phật không lường
Nói pháp ở trong đó
Ở trong một hạt bụi
Hiện ra vô lượng Phật N
úi Tu-di Kim cang
Mà thế gian chẳng chật
Ở trong một hạt bụi
Hiện có ba đường ác
A-tu-la, Thiên, nhân
Các loại chịu nghiệp báo
Trong nước các Thế Tôn
Nghe các tiếng của Phật
Chuyển vô thượng pháp luân
Ứng theo lòng chúng sinh
Trong các cõi của Phật
Đủ loại thân chúng sinh
Tùy chúng sinh tướng cõi
Thị hiện đủ loại thân
Tất cả các trời, người
Tất cả đều dừng lại
Trước tiên, Phật quan sát
Sau nói pháp cho nghe
Chúng sinh thấy rõ ràng
Nước Phật trong hạt bụi
Cũng thấy cõi mênh mông
Là do uy thần Phật
Như vậy, Phật hiện ra
Đủ thứ thần thông lực
Nếu vì chúng sinh nói
Việc đó chẳng thể cùng
Dùng âm vi diệu đó
Mà khen ngợi Thế Tôn
Lòng đều rất hoan hỷ
Im lặng chiêm ngưỡng Phật
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Thỉnh Kim Cang Tạng rằng:
“Nguyện xin Phật tử nói
Pháp tu Địa thứ tám.”

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát đã tu tập Địa thứ bảy bằng tuệ hạnh phương tiện đạo tịnh, tập hợp hết các pháp trợ đạo, đủ đại nguyện lực, được sự hộ trì của thần lực chư Phật thì tự được sức căn lành, thường nghĩ thuận theo năng lực của Như Lai, sự không sợ pháp bất cộng. Trực tâm, thâm tâm thanh tịnh; thành tựu phước đức trí tuệ, đại Từ, đại Bi chẳng bỏ chúng sinh; tu hành vô số trí đạo, vào các pháp xưa nay không sinh, không khởi, không tướng, không thành, không hoại, không đến, không đi, không đầu, không giữa, không cuối; vào trí của Như Lai. Tất cả tâm, ý, thức, nhớ tưởng, phân biệt không chỗ tham trước, tất cả các pháp như tánh hư không. Đó gọi là Bồ-tát được Vô sinh pháp nhẫn, vào Địa thứ tám.

Vào địa Bất động thì gọi là Bồ-tát thâm hạnh. Tất cả thế gian chẳng thể đo lường được hạnh đó. Nó lìa tất cả các tướng, lìa tất cả các tưởng, tất cả tham trước… Tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, chẳng thể phá hoại được. Nó sâu lớn xa lìa mà hiện ở trước. Ví như Tỳ-kheo được thần thông tâm được tự tại, thứ lớp vào Diệt tận định; tất cả sự động tâm, nhớ nghĩ đều bị tận diệt hết.

Bồ-tát cũng vậy, Bồ-tát trụ ở Địa này thì những mong cầu phương tiện bằng thân, khẩu, ý nghiệp đều tự diệt hết, trụ ở địa Viễn ly. Như người trong mơ muốn qua nước sâu, phát sinh sự cố gắng thi hành phương tiện lớn. Trong khi vượt qua thì bỗng nhiên thức dậy, thì đối với sự việc phương tiện tâm đều buông bỏ hết.

Bồ-tát cũng như vậy, từ lúc ban đầu đến nay phát khởi đại tinh tấn tu tập đạo hạnh, đến địa Bất động thì tất cả xả bỏ, tất cả chẳng tu hành theo hai tâm, những điều nghĩ tưởng chẳng còn xuất hiện. Ví như người sinh vào cõi Phạm thì phiền não cõi Dục chẳng còn xuất hiện. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Bất động tất cả các ý thức của tâm chẳng còn hiện hữu. Thậm chí tâm Phật, tâm Bồ-tát, tâm Niết-bàn còn chẳng hiện hữu huống chi là sẽ phát sinh những tâm thế gian.

Này Phật tử! Bồ-tát đó thuận theo Địa này là do bản nguyện lực. Lại nữa, chư Phật vì Bồ-tát mà hiện thân ở trong dòng nước pháp của các Địa đem cho trí tuệ của Như Lai làm nhân duyên cho họ. Các Đức Phật đều nói lời này:

–Hay thay, hay thay! Ông được nhẫn đệ nhất này là thuận tất cả Phật pháp. Này thiện nam! Ta có mười Lực, bốn pháp Không sợ, mười tám pháp Bất cộng. Nay, ông chưa được thì sẽ được! Vậy nên, ông hãy thêm tinh tấn, chớ bỏ pháp môn nhẫn này.

Này thiện nam! Ông đã được giải thoát đệ nhất tịch diệt sâu xa này, còn tất cả phàm phu thì còn xa pháp tịch diệt, thường bị giác quán phiền não làm hại. Ông phải thương xót tất cả chúng sinh này.

Lại nữa, này thiện nam! Ông nghĩ đến bản nguyện của mình là muốn lợi ích chúng sinh, muốn được trí tuệ môn chẳng thể nghĩ bàn.

Lại nữa, này thiện nam! Tất cả pháp tánh, tất cả pháp tướng, dù có Phật hay không Phật vẫn thường trụ chẳng khác. Tất cả Như Lai chẳng do được pháp này mà gọi là Phật; Thanh văn, Bích-chiphật cũng được pháp tịch diệt không phân biệt này.

Này thiện nam! Ông xem chúng ta thân tướng thanh tịnh không lường, hào quang không lường, âm thanh không lường. Ông nên phát sinh những việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam tử! Ông vừa được một phát minh này, đó là tất cả pháp tịch diệt không có phân biệt. Sự chứng đắc của chúng ta thật vô lượng, vô biên, ông nên tinh cần đạt được những pháp này!

Này thiện nam! Mười phương có không lường đất nước, không lường chúng sinh, không lường những pháp sai biệt… Ông nên thông đạt như thật việc đó, thuận theo trí như thế. Bồ-tát, chư Phật cho vô lượng, vô biên nhân duyên để phát sinh môn trí tuệ như thế… Do vô lượng môn này nên Bồ-tát đó có thể phát sinh vô lượng nghiệp trí và đều thành tựu hết.

Này các Phật tử! Nếu chư Phật chẳng cho Bồ-tát phát sinh môn trí tuệ thì Bồ-tát đó sẽ chứng lấy Niết-bàn, xả bỏ việc lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nhờ chư Phật làm cho chúng sinh vô lượng, vô biên trí tuệ môn này ở trong một niệm có thể sinh ra trí tuệ mà so với từ Sơ địa cho đến Thất địa, trăm phần chẳng bằng một; vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ phần chẳng bằng một…, cho đến dùng tính toán, thí dụ cũng chẳng sánh kịp. Vì sao? Trước tiên là do thân tu tập, gom thu công đức, nay ở trong địa này được vô lượng thân tu Bồ-tát đạo. Do vô lượng âm thanh, vô lượng trí tuệ, vô lượng chỗ sinh, vô lượng đất nước thanh tịnh, vô lượng giáo hóa chúng sinh, cúng dường, cung cấp, hầu hạ vô lượng chư Phật, thuận theo vô lượng Phật pháp, vô lượng năng lực thần thông, vô lượng đại hội khác nhau; vô lượng nghiệp thân, miệng, ý; gom tất cả sự hành đạo của Bồ-tát, do pháp bất động vậy.

Này Phật tử! Như người ngồi thuyền đi qua biển cả. Chưa đến biển cả thì dùng nhiều công sức vào biển thì nhờ sức gió nên không còn gian nan trở ngại nữa. Đi một ngày hơn tất cả công sức ban đầu, trong trăm ngàn năm đi chẳng thể bì kịp. Bồ-tát cũng như vậy, gom lại nhiều căn lành, lên thuyền Đại thừa vào biển đại trí tuệ của Bồtát tu hành chẳng bỏ ra công sức mà có thể gần gũi tất cả trí tuệ của chư Phật. Sánh với sự tu hành trước hoặc một kiếp, hoặc trăm ngàn vạn ức kiếp đã chẳng thể bì kịp.

Này Phật tử! Đại Bồ-tát đến Địa thứ tám thì từ đại phương tiện tuệ sinh ra không tâm vô công dụng. Tại đạo Bồ-tát, tư duy thế lực trí tuệ của chư Phật mà biết thế giới sinh, thế giới diệt, thế giới thành; thế giới hoại. Biết do nhân duyên nghiệp gì gom lại nên thế giới thành, biết do nhân duyên nghiệp gì diệt nên thế giới hoại. Bồtát đó biết tánh đất, nước, lửa, gió, tướng nhỏ, tướng vừa, tướng vô lượng, tướng khác nhau, tướng vi trần nhỏ, biết tướng khác nhau của vi trần. Sự sai khác của vi trần có trong một thế giới, Bồ-tát đều có thể biết hết. Biết bảo vật nhiều như ngần ấy vi trần, thân chúng sinh nhiều như ngần ấy vi trần, biết sự sai biệt về vi trần của vạn vật trong thế giới. Phân biệt chúng sinh thân lớn thân nhỏ do bao nhiêu vi trần thành; thân địa ngục, thân ngạ quỷ, thân súc sinh do bao nhiêu vi trần thành; thân A-tu-la, thân trời do bao nhiêu vi trần thành… Bồ-tát đều biết rõ hết.

Bồ-tát đó từ trí phân biệt vi trần như vậy thì biết Dục, Sắc, Vô sắc giới thành bại; biết Dục, Sắc, Vô sắc giới về tướng nhỏ, tướng vừa, tướng vô lượng; biết tướng sai khác Dục, Sắc, Vô sắc giới. Biết ba cõi khác nhau như vậy thì gọi là Bồ-tát giao hóa chúng sinh bằng trí sáng suốt phân biệt. Bồ-tát giỏi phân biệt thân chúng sinh, giỏi quán sát chỗ sinh, theo chỗ chúng sinh, theo thân của chúng sinh để vì chúng mà thọ thân.

Bồ-tát đó hiện thân đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, tùy theo thân của chúng sinh mỗi mỗi đều sai khác. Ví như mặt trời mặt trăng ở tất cả những chỗ có nước đều hiện hình dáng trong đó. Hoặc hai hoặc ba… cho đến vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng thể nói tam thiên đại thiên thế giới, thân Bồ-tát ở khắp trong đó, Bồ-tát tùy theo sự sai khác của thân chúng sinh mà vì chúng thọ thân.

Bồ-tát thành tựu trí tuệ như vậy, ở một thế giới, thân chẳng lay động…, cho đến ở chẳng thể nói thế giới chư Phật, tùy theo thân chúng sinh, tùy theo sự tin thích của chúng. Ở các đại hội của Đức Phật mà hiện hình dáng của thân. Nếu ở trong Sa-môn thì hiện hình Sa-môn. Ở trong Bà-la-môn thì hiện hình Bà-la-môn. Ở trong dòng Sát-lợi thì hiện hình Sát-đế-lợi. Ở trong Cư sĩ thì hiện hình Cư sĩ. Ở trong Tứ Thiên vương, trong Đế Thích, trong Ma, trong Phạm thiên… thì thị hiện hình… Phạm thiên… cho đến ở trong trời A-ca-nịsắc thì hiện hình A-ca-nị-sắc. Dùng để độ Thanh văn thừa thì hiện hình Thanh văn. Dùng để độ Bích-chi-phật thì hiện hình Bích-chiphật. Dùng để độ Bồ-tát thừa thì hiện hình Bồ-tát. Dùng để độ Phật thân thì hiện hình Phật thân. Sở dĩ có nhiều chẳng thể nói trong các nước Phật, Bồ-tát tùy theo thân chúng sinh tin ưa sai khác để hiện, vì chúng thọ thân mà thật đã xa lìa thân tướng khác nhau thường trụ ở bình đẳng.

Bồ-tát đó biết thân chúng sinh, biết thân đất nước, biết thân nghiệp báo, biết thân Thanh văn, biết thân Bích-chi-phật, biết thân Bồ-tát, biết thân Như Lai, biết thân trí, biết thân pháp, biết thân hư không. Bồ-tát đó biết sự ưa thích trong thâm tâm của chúng sinh như vậy rồi thì hoặc ở thân chúng sinh tạo ra thân mình. Hoặc ở thân chúng sinh tạo ra thân đất nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai, thân trí, thân pháp, thân hư không. Hoặc ở thân đất nước tạo ra thân mình, thân nghiệp báo cho đến thân hư không. Hoặc ở thân nghiệp báo tạo ra thân mình cho đến thân hư không. Hoặc ở thân mình tạo ra thân chúng sinh, thân đất nước, thân nghiệp báo, thân Thanh văn, thân Bích-chi-phật, thân Bồ-tát, thân Như Lai, thân trí, thân pháp, thân hư không. Bồ-tát đó biết chúng sinh huân tập nghiệp thân, báo thân, phiền não thân, sắc thân, vô sắc thân. Biết các đất nước Phật, tướng lớn, tướng nhỏ, tướng không lường, tướng cấu, tướng tịnh, tướng rộng, tướng nghiêng ngã, tướng bằng phẳng, tướng vuông tròn, tướng sai biệt, Bồ-tát đó biết thân nghiệp báo là giả danh sai khác, thân Thanh văn là giả danh sai khác, thân Bích-chi-phật là giả danh sai khác, thân Bồ-tát là giả danh sai khác.

Bồ-tát đó biết thân Như Lai, thân Bồ-tát, thân nguyện, thân hóa, thân trụ trì, thân tướng tốt trang nghiêm, thân thế lực, thân như ý, thân phước đức, thân trí, thân pháp.

Bồ-tát đó biết thân trí giỏi phân biệt như thật, biết thân pháp bình đẳng tướng chẳng hoại, biết thân hư không với tướng không lường, tướng cùng khắp, tướng vô hình.

Bồ-tát đó biết các thân sinh ra như vậy thì được mạng tự tại, tâm tự tại, của cải tự tại, nghiệp tự tại, sinh tự tại, nguyện tự tại, tín giải tự tại, như ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại.

Bồ-tát đó được mười tự tại là người trí chẳng thể nghĩ bàn, người trí không lường, người trí rộng, người trí chẳng thể hoại. Bồtát theo trí tuệ như vậy rốt ráo thường khởi lên nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý vô tội. Nghiệp thân theo trí hành, nghiệp miệng theo trí hành, nghiệp ý theo trí hành thì Bát-nhã ba-la-mật tăng lên, lấy đại Bi làm đầu, giỏi tu phương tiện, giỏi khởi các nguyện, được sự hộ trì tốt của thần thông chư Phật, thường chẳng bỏ trí lợi ích cho chúng sinh, biết hết sự sai biệt trong vô biên thế giới. Nói tóm lại, Bồ-tát trụ ở địa Bất động thì hành động của thân, miệng, ý đều có thể huân tập tất cả Phật pháp.

Bồ-tát đó trụ ở địa này thì lìa tất cả phiền não nên giỏi trụ ở lực tịnh tâm; lòng thường chẳng lìa khỏi đạo nên giỏi trụ ở lực thâm tâm, chẳng xả bỏ chúng sinh nên giỏi trụ ở lực đại Bi; cứu tất cả thế gian nên giỏi ở lực đại Từ, chẳng quên pháp đã nghe nên giỏi ở lực Đà-la-ni, phân biệt quán sát tất cả Phật pháp nên giỏi trụ ở tất cả lực giới thuyết; đi vô biên thế giới sai biệt nên giỏi ở lực thần thông; chẳng bỏ tất cả hành động của Bồ-tát nên giỏi trụ ở lực nguyện; tu tập tất cả Phật pháp nên giỏi trụ ở Lực ba-la-mật, giỏi sinh Nhất thiết chủng trí nên giỏi trụ ở lực Như Lai.

Bồ-tát đó được trí lực như vậy nên hiện ra tất cả hành động không có lỗi lầm.

Này các Phật tử! Địa này của Bồ-tát chẳng thể hư hoại nên gọi là Bất động địa. Trí tuệ chẳng chuyển nên gọi là Bất chuyển địa. Tất cả thế gian chẳng thể lường biết được nên gọi là Uy đức địa. Không còn sắc dục nên gọi là Đồng chân địa. Thọ sinh theo ý nên gọi là Tự tại địa. Lại chẳng còn làm nên gọi là Thành địa. Quyết định biết nên gọi là Cứu cánh địa. Phát hoàn toàn đại nguyện nên gọi là Biến hóa địa. Chẳng thể hoại nên gọi là Trụ trì địa. Đã tu hành căn lành từ trước nên gọi là Vô công lực địa.

Bồ-tát được trí tuệ như vậy thì gọi là vào cảnh giới Phật, gọi là sự chiếu sáng của công đức Phật, gọi là theo uy nghi Phật, đi đường hướng về Phật pháp; thường được hộ trì của thần lực chư Phật, thường được sự nghinh đón của bốn vua trời, Thích Đề-hoàn Nhân, các Phạm vương…, thần Kim cang Mật Tích thường theo thị vệ.

Bồ-tát đó có thể giỏi sinh ra các thiền Tam-muội, có thể làm ra vô lượng những thân sai khác. Ở trong những thân đều có thế lực, được năng lực đại quả báo thần thông. Ở trong vô biên Tam-muội được tự tại. Có thể được thọ ký vô lượng, tùy theo chỗ chúng sinh mà thị hiện thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bồ-tát đó được vào đại trí tuệ như vậy thì giỏi thông đạt các pháp, thường phóng ra ánh sáng đại trí vượt qua các cõi trong pháp giới không bị ngại, giỏi biết các cõi sai khác của thế giới, có thể hiện bày tất cả các công đức theo ý tự tại, hiểu rõ đời trước đời sau, có thể bằng trí đi vào cảnh giới ma để giáo hóa, vào cảnh giới hành của Như Lai, có thể ở vô biên thế giới hành đạo Bồ-tát. Do chẳng còn chuyển đổi tướng nên địa này có tên là Bất động.

Này Phật tử! Bồ-tát ở tại địa Bất động thì giỏi phát sinh năng lực Thiền định nên thường thấy vô biên những Đức Phật, chẳng bỏ việc cúng dường cung cấp các Đức Phật. Ở trong mỗi kiếp, mỗi một thế giới, số Đức Phật nhiều trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ, Bồ-tát đó đều cung kính, cúng dường tôn trọng, khen ngợi đức Phật, theo các Đức Thế nhận các pháp minh của các thế giới sai biệt.

Bồ-tát đó đi sâu vào Pháp tạng của Như Lai, hỏi việc sai biệt của thế giới và việc không thể cùng tận thì cho đến trăm ngàn vạn ức kiếp chẳng thể nói hết.

Lại nữa, các căn lành trở nên sáng suốt hơn. Ví như vàng ròng xen lẫn vào các báu làm chuỗi ngọc đeo của vua Chuyển luân mà tất cả nhân dân không thể đoạt được. Đại Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Bất động căn lành trở nên thanh tịnh thì tất cả Thanh văn, Bích-chiphật…, cho đến Bồ-tát ở Địa thứ bảy đã chẳng thể hoại được. Bồ-tát trụ ở Địa đó, do có trí giỏi phân biệt nên ánh sáng trí tuệ diệt trừ tất cả nhiệt não của chúng sinh.

Ví như vua trời Đại Phạm chủ của một ngàn thế giới, có thể ở trong một lúc ban bố lòng Từ đầy cả ngàn thế giới, cũng có thể phóng ánh sáng soi khắp trong đó. Đại Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Bất động có thể phóng ánh sáng của thân soi khắp thế giới nhiều như số vi trần của mười vạn cõi Phật, diệt trừ những nhiệt não của chúng sinh, khiến được mát mẻ.

Này các Phật tử! Đó gọi là lược nói về Bất động địa thứ tám của Bồ-tát. Còn nếu nói rộng thì nói đến vô lượng ức kiếp cũng chẳng thể hết được.

Bồ-tát trụ ở Địa đó, phần nhiều được làm vua trời Đại phạm, làm chủ cả ngàn thế giới, các căn thông minh. Giảng cho các chúng sinh, Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát về đạo Ba-la-mật, không có cùng tận, giảng nói về thế giới sai biệt không thể hoại. Làm các nghiệp lành như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều chẳng lìa niệm Phật, chẳng lìa niệm pháp, cho đến chẳng lìa niệm Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát đó thường phát sinh ý nghĩ: “Đối với chúng sinh ta sẽ làm người đứng đầu, làm kẻ thắng hơn, cho đến đối với tất cả chúng sinh, ta làm người y chỉ.”

Bồ-tát đó nếu muốn chuyên cần tu hành tinh tấn thì ở trong giây lát được Tam-muội nhiều như số vi trần của trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới…, cho đến có thể thị hiện Bồ-tát nhiều như số vi trần của trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới để làm quyến thuộc. Nếu Bồ-tát dùng nguyện lực, thần thông tự tại thì có thể hơn số đó, mà hằng trăm ngàn vạn ức kiếp chẳng thể tính được.

Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng muốn một lần nữa làm sáng tỏ ý nghĩa này, nói kệ khen rằng:

Bồ-tát Địa thứ bảy
Tuệ phương tiện đã tịnh
Tập hợp pháp trợ đạo
Vào năng lực đại nguyện
Thần lực chư Phật hộ
Đều thành tựu căn lành
Cầu đến trí tuệ thắng
Địa thứ tám vào trong
Giỏi gom được phước tuệ
Mà có đại Từ bi
Lìa những tâm hữu hạn
Lòng đồng như hư không
Như đã nói trong pháp
Được định lực trong tâm
Như vậy được tịch diệt
Nhẫn vi diệu vô sinh
Các pháp từ xưa nay
Không khởi cũng không sinh
Không có thành vô tướng
Nghĩa đến, đi cũng không
Đầu, giữa, cuối các pháp
Không phân biệt như vậy
Không có tâm, ý, nghiệp
Đồng như là hư không
Thành tựu nhẫn như vậy
Các hí luận cũng không
Thì được địa Bất động
Hành thậm thâm tịch diệt
Tất cả những thế gian
Chẳng thể đo lường được
Tất cả các tâm tướng
Đều đã tận diệt xong.
Bồ-tát trụ Địa đó
Tâm thức không phân biệt
Như vào định diệt tận
Ức niệm tưởng chẳng còn
Giống như người trong mộng
Muốn tìm cách qua sông
Thức dậy ý hết muốn
Không còn tìm cách nữa
Đã được pháp nhẫn đó
Diệt tan các niệm tưởng
Như sinh ở trời Phạm
Không não phiền Dục giới
Do lực bản nguyện giúp
Và Phật đang dẫn đường
Như vậy, Nhẫn đệ nhất
Là chức vị chư Phật
Chúng ta trí lực sâu
Pháp bất cộng không sợ
Ông chưa được điều này
Phải thêm siêng tinh tấn
Ông tuy được diệt tan
Tất cả lửa phiền não
Phải quán các thế gian
Phiền não thường rực cháy
Phải nghĩ đến nguyện mình
Muốn lợi cho chúng sinh
Các pháp biết khắp cùng
Rộng độ cho tất cả
Tánh, tướng pháp chân thật
Thường trụ không thay đổi
Điều này Nhị thừa thông
Mà chẳng gọi là Phật
Phải được trí sâu xa
Vi diệu và vô ngại
Ba đời đều thông đạt
Mới được gọi là Phật
Là Đấng không ai bằng
Trời, người đều cung kính
Mở cho họ cửa trí
Khiến vào với Phật pháp
Thành tựu được vô biên
Vô lượng diệu trí tuệ
Các pháp trước đã làm
Chẳng bằng nay một niệm
Như vậy, Bồ-tát thành
Địa diệu trí tuệ xong
Thì ở trong một niệm
Thân ở khắp mười phương
Vào cửa trí tuệ đó
Hành đạo không ngăn ngại
Như đi ở trong biển
Nhờ sức của gió lớn
Không cầu phải dụng tâm
Chỉ ở tại nghiệp trí
Quán thế giới mười phương
Thành, hoại và tồn tại
Biết một phần bốn đại
Cùng biết những khác nhau
Nhỏ, vừa và không lường
Đủ thứ tiếng sai khác
Hay biết số vi trần
Cả ba ngàn thế giới
Cũng biết chúng sinh thân
Nhiều như bụi bốn đại
Thân chư Thiên các báu
Nhiều như bụi khác nhau
Biết rõ hết khắp cùng
Việc khác cũng biết vậy
Nhờ trí tuệ nhân duyên
Lòng trở nên nhu hòa
Vì lợi ích chúng sinh
Hiện thân khắp thế giới
Hay ở thân chúng sinh
Tự hiện là thân mình
Và dùng các cõi Phật
Và các loại thân khác
Như nhật nguyệt trên không
Ảnh hiện các chỗ nước
Cũng như vậy Bồ-tát
Đầy khắp cõi ba ngàn
Thường trụ ở Pháp thân
Sáng ngời chẳng di động
Ở tâm tịnh chúng sinh
Đều hiện thân tướng ấy
Theo ưa thích trong lòng
Vì thọ sinh mà hiện
Ở các hội trời, người
Đều hiện ra thân ấy
Bồ-tát với nhân duyên
Tự tại trong hòa hợp
Cho đến tùy ý mong
Vì họ hiện thân Phật
Thân đất nước, chúng sinh
Thân Hiền thánh, nghiệp báo
Thân trí cùng Pháp thân
Biết đều đồng bình đẳng
Do nhân duyên đó nên
Được thần thông như ý
Vì khiến đời vui mừng
Mà hiện thân đủ loại
Hay được mười thứ trí
Diệu tự tại vô cùng
Hành động theo trí hạnh
Thuận với tâm Từ bi
Các pháp của chư Phật
Đều hay giỏi tu hành
Sống trong ba tịnh giới
Vững như núi Tu-di
Hay được mười thứ Lực
Của bậc Đại Bồ-tát
Tất cả các chúng ma
Đều chẳng thể lay chuyển
Được chư Phật bảo hộ
Thích, Phạm đều kính lễ
Thần Mật Tích Kim cang
Thường theo để thị vệ
Bồ-tát được Địa đó
Công đức không có lường
Trăm ngàn vạn ức kiếp
Nói cũng chẳng thể cùng
Thân cận vô số Phật
Tăng thêm các căn lành
Như vàng ròng xen báu
Chuỗi ngọc vua trang nghiêm
Bồ-tát tại Địa đó
Thường làm Đại Phạm vương
Thống lãnh ngàn đất nước
Công đức không có lường
Đem ba thừa giáo hóa
Mà không có tận cùng
Lòng từ sáng soi khắp
Diệt những nóng phiền não
Hay ở trong khoảnh khắc
Được những Tam-muội thiền
Bằng số bụi trăm vạn
Cả ba ngàn thế giới
Hay thấy Phật mười phương
Số lượng cũng như vậy
Nếu dùng thêm nguyện lực
Thì không lường số ấy
Hôm nay lược nói xong
Diệu tướng Địa thứ tám
Nếu diễn nói rộng hơn
Ngàn ức kiếp chẳng hết.

Địa thứ chín:
Khi Phật tử tuyên dương
Diệu nghĩa Địa thứ tám
Do thần lực Phật nên
Chấn động vô lượng nước
Mọi thần trí phát sinh
Vô lượng sáng vi diệu
Soi khắp cõi mười phương
Chúng sinh được an lạc
Trăm ngàn vạn Bồ-tát
Trụ ở giữa hư không
Bày vật đẹp cúng dường
Mà chư Thiên không có
Tự tại, Đại Phạm thiên
Và cùng vua Tha hóa
Bày vật cúng, vui mừng
Công đức Phật mênh mông
Ngàn vạn những Thiên nữ
Đều cung kính vui mừng
Đồng dùng âm vi diệu
Công đức Phật ngợi khen.
Do thần lực Phật nên
Sinh diệu pháp như vậy
Tịch diệt giỏi tu hành
Nên không có tâm ác
Đều ở nơi Địa ấy
Hạnh Bồ-tát khéo hành
Vì lợi ích thế gian
Nên đi khắp mười phương
Dạy mọi người Phật đạo
Lòng không ngại hư không
Thần lực các Bồ-tát
Vật thượng diệu cúng dường
Hơn người, trời mười phương
Do phước đức nên có
Con Phật, người và trí
Vì chúng hiện lực Phật
Ở một nước chẳng rời
Mà hiện khắp nơi nơi
Lợi ích cho thế gian
Như trăng tròn trong sáng
Diệt tất cả âm thanh
Ngôn ngữ, những tưởng niệm
Mà dùng những âm thanh
Nói pháp như tiếng vang.
Nếu chúng sinh hạ liệt
Tâm chúng bị chìm đắm
Thì bày Thanh văn đạo
Khiến ra khỏi khổ đau
Nếu lại có chúng sinh
Thiếu các căn lanh lợi
Ưa thích pháp nhân duyên
Thì nói Bích-chi-phật
Nếu người căn thông suốt
Lợi ích cho chúng sinh
Có tâm đại Từ bi
Thì nói đạo Bồ-tát
Nếu người tâm vô thượng
Quyết định ưa việc lớn
Thì thị hiện thân Phật
Nói Phật pháp không lường,
Ví như nhà ảo thuật
Bày đủ thứ thân hình
Các thân tướng như vậy
Đều không có thật chân.
Như vậy các Phật tử
Giỏi biết thuật trí tuệ
Hay bày tất cả hành
Tâm lìa khỏi có, không
Ngàn vạn các Thiên nữ
Đồng dùng âm vi diệu
Khen ngợi như vậy xong
Im lặng chiêm ngưỡng Phật.
Giải Thoát Nguyện nói rằng:
“Phật tử, đại hội tịnh
Một lòng nguyện lắng nghe
Thực hành Địa thứ tám.”

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát dùng vô lượng trí tuệ như vậy khéo quan sát Phật đạo để muốn cầu đạt được tịch diệt giải thoát. Muốn cầu đạt được tư duy trí tuệ Như Lai. Muốn vào Pháp tạng thâm mật của Đức Như Lai. Muốn quan sát chẳng thể nghĩ bàn đại trí tuệ. Muốn quan sát Đà-la-ni Tam-muội. Muốn cho thanh tịnh nữa, muốn cho thần thông quảng đại, muốn phân biệt sự sai khác của thế giới, tu các Phật lực, bốn điều không sợ, pháp Bất cộng, không ai có thể phá hoại được. Muốn thuận theo lực chuyển pháp luân của chư Phật mà tu hành; muốn chẳng bỏ đại Bi đại nguyện đã thọ. Bồ-tát tư duy như vậy thì được vào đệ Cửu địa.

Bồ-tát trụ ở Địa này thì biết đúng như thật pháp hành thiện, bất thiện, vô ký; biết pháp hành hữu lậu, vô lậu; biết pháp hành thế gian, xuất thế gian; biết pháp hành suy nghĩ, không thể suy nghĩ; biết pháp hành định, bất định; biết pháp hành Thanh văn, Bích-chi-phật; biết pháp hành Bồ-tát đạo, biết pháp hành Như Lai địa; biết pháp hành hữu vi, vô vi… Thuận theo trí như vậy thì Bồ-tát biết các hành sự khó của thực tâm Bồ-đề phiền não, nghiệp, các căn, dục, tánh, trực tâm, sử tâm, sinh, tập khí, ba tụ khác nhau.

Bồ-tát còn biết những tướng tâm sai biệt của chúng sinh, tướng tâm trang nghiêm thế gian, tướng tâm thay đổi nhanh, tướng tâm hoại, không hoại; tướng tâm vô hình, tướng tâm vô biên tự tại, tướng tâm thanh tịnh sai biệt, tướng tâm cấu, vô cấu; tướng tâm trói mở, tướng tâm dối trá hay ngay thẳng, tướng tâm theo đạo… đều biết đúng như thật.

Bồ-tát đó biết tướng sâu, tướng cạn của phiền não. Biết tướng thân cận, tướng không xa lìa của tâm; biết tướng sử triền sai biệt; biết tướng tương ưng, bất tương ưng với tâm đó tùy theo lúc sinh mà được tướng quả báo; biết tướng sai biệt trong ba cõi; biết tướng ái si kiến vào sâu như tên bắn; biết tướng trọng tội của kiêu mạn si; biết tướng không gián đoạn của nhân duyên ba nghiệp; cho đến biết như thật tướng hoạt động sai khác của tám muôn bốn ngàn phiền não.

Bồ-tát đó biết những tướng của nghiệp thiện, bất thiện, vô ký; biết tướng phân biệt, chẳng phân biệt; tướng tùy theo tâm, tướng chẳng xa lìa của tâm, tướng tự nhiên tận, tướng hành đạo tận, tướng tập họp các loại, tướng chẳng mất quả báo, tướng thứ đệ, tướng quả báo có, tướng quả báo không, tướng quả báo hắc hắc, tướng quả báo bạch bạch, tướng quả báo hắc bạch hắc bạch, tướng nghiệp có thể tận phi hắc phi bạch.

Bồ-tát đó biết tướng nghiệp phát sinh, tướng nghiệp sai biệt, biết tướng vô lượng số nhân duyên sinh khởi nghiệp, biết tướng nghiệp thế gian, nghiệp xuất thế gian sai biệt, tướng hiện báo, tướng sinh báo, tướng hậu báo, tướng theo các thừa định, tướng bất định…, cho đến biết như thật tám muôn bốn ngàn những tướng nghiệp sai biệt.

Bồ-tát đó biết tướng sai biệt của các căn thượng, trung, hạ; biết tướng dị biệt, chẳng dị biệt của đời trước, đời sau; biết tướng thượng, trung, hạ; biết tướng tùy theo phiền não, tướng không lìa; biết tướng tùy theo các định, tướng bất định, tướng thuần thục, tướng chưa thuần thục, tướng theo căn chuyển, tướng dễ hoại, tướng nắm giữ vững, tướng tăng thượng, tướng chẳng thể hoại, tướng chuyển, tướng chẳng chuyển, tướng sai biệt ba đời, tướng từ lâu xa cộng sinh khác nhau…, cho đến biết như thật tám muôn bốn ngàn tướng sai biệt của các căn.

Bồ-tát đó biết tướng sai biệt của các dục. Bồ-tát đó biết tướng sai biệt căn các tánh hạ, trung, thượng…, cho đến biết như thật tám muôn bốn ngàn tướng sai biệt của các tánh.

Bồ-tát đó biết tướng sai biệt của trực tâm hạ, trung, thượng…, cho đến biết như thật tám muôn bốn ngàn tướng sai biệt của trực tâm.

Bồ-tát đó biết tướng các kết sử cộng tâm sinh, không cộng tâm sinh; tâm tương ưng, tâm không tương ưng từ vô thỉ đến nay não hại chúng sinh cùng với tướng tất cả thiền định giải thoát thần thông. Biết tướng trói buộc của ba cõi, tướng vô lượng tâm chẳng hiện hữu, tướng mở cửa phiền não, tướng chẳng biết đối trị, tướng không thực có, tướng mở pháp môn của bất luận Thánh đạo nào…, đều biết như thật.

Bồ-tát đó biết tướng các đường sinh sai biệt như là địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, A-tu-la, người, trời, cõi Sắc, cõi Vô sắc, cõi Hữu tướng, cõi Vô tướng… sai khác. Nghiệp là ruộng, ái là nước, vô minh là mái che, thức là hạt giống, thân sau là cây mầm, danh sắc cộng sinh chẳng lìa nhau, si ái nối tiếp nhau; tham sống, ưa hoạt động, dục ái, chẳng ưa Niết-bàn; tướng ba cõi sai biệt nối tiếp nhau, đều biết như thật.

Bồ-tát đó biết các tập khí có phát khởi, chẳng phát khởi. Tùy chỗ sinh mà có tập khí. Tùy nghiệp của chúng sinh mà có tập khí; tùy nghiệp phiền não mà có tập khí; thiện, ác, vô ký có tập khí; ly dục có tập khí. Tùy thân sau có tập khí, thứ lớp đều tùy theo các cảnh giới mà có tập khí. Đã lâu chẳng gián đoạn, giữ nghiệp phiền não, muốn xa lìa thì không có pháp… Bồ-tát đều biết như thật.

Bồ-tát đó biết tướng định, chẳng định của chúng sinh: tướng chánh định, tướng tà định, tướng bất định, tướng chánh định trong chánh kiến, tướng tà định trong tà kiến, tướng lìa hai bất định tưởng này; tướng nhất nhất nghịch tà định, tướng năm căn chánh định, lìa hai bất định tướng này; tướng tà vị tà định, tướng chánh vị chánh định, lìa hai bất định tướng này, thâm nhập vào tướng tà tụ rất khó chuyển, tu theo tướng nhân duyên đạo Vô thượng, tướng giúp đỡ chúng sinh bất định, Bồ-tát đều biết như thật.

Này Phật tử! Đại Bồ-tát tùy theo trí như vậy thì gọi là an trụ địa Thiện tuệ.

Bồ-tát trụ ở địa đó thì biết tướng các hành sai biệt của chúng sinh như vậy rồi, tùy theo sự giải thoát của họ mà cho nhân duyên, pháp giáo hóa chúng sinh, pháp độ chúng sinh.

Bồ-tát biết như thật mà nói pháp cho họ về tướng Thanh văn thừa, tướng Bích-chi-phật thừa, tướng Bồ-tát thừa, tướng Như Lai địa.

Bồ-tát biết như thật rồi tùy theo nhân duyên của chúng sinh mà vì chúng nói pháp. Tùy theo tâm, tùy theo căn, tùy theo dục sai khác mà vì chúng nói pháp. Lại tùy theo các nghiệp, tùy theo trí tuệ mà vì chúng nói pháp. Biết tất cả nghiệp hành mà vì chúng nói pháp. Theo tánh chúng sinh, đi sâu vào chỗ khó mà vì chúng nói pháp. Theo chỗ sinh ra, theo nơi sinh sống, theo phiền não phải chịu, theo tập khí chuyển đổi mà nói pháp. Tùy theo thừa khiến được giải thoát mà nói pháp.

Bồ-tát đó trụ ở địa này là Đại Pháp sư thủ hộ Pháp tạng của chư Phật, vào nghĩa thâm diệu, dùng vô lượng tuệ phương tiện, ngôn từ của bốn trí vô ngại để nói pháp.

Bồ-tát đó thường theo bốn vô ngại trí mà chẳng hề bị phá hoại.

Những gì là bốn?

1. Pháp vô ngại.

2. Nghĩa vô ngại.

3. Từ vô ngại.

4. Nhạo thuyết vô ngại.

Bồ-tát đó dùng Pháp vô ngại trí biết được tự tướng của các pháp; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết pháp sai biệt; dùng Từ vô ngại trí để biết nói các pháp chẳng thể bị phá hoại; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để biết nói các pháp theo thứ lớp chẳng gián đoạn.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để biết các pháp không thể tính; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết các tướng sinh diệt của các pháp; dùng Từ vô ngại trí để biết các pháp giả danh nhưng chẳng đoạn giả danh để thuyết; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để biết tùy theo giả danh mà chẳng phá hoại vô biên thuyết.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để biết tướng sai biệt của các pháp hiện tại; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết tướng sai biệt của các pháp quá khứ, vị lai; dùng Từ vô ngại trí để biết nói lên sự chẳng thể hoại của các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại; dùng các Nhạo thuyết vô ngại trí để ở mỗi một đời được vô biên pháp sáng suốt để thuyết giảng.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để biết sự sai biệt của các pháp; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết nghĩa sai bịêt của các pháp; dùng Từ vô ngại trí để tùy theo ngôn âm mà vì chúng sinh nói pháp; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để tùy theo sự hiểu biết mà nói pháp.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để dùng pháp trí phương tiện biết các pháp sai biệt chẳng thể hoại; dùng Nghĩa vô ngại trí để dùng trí so sánh như thật để biết các pháp sai biệt; dùng Từ vô ngại trí để lấy trí thế gian nói các pháp có sai biệt; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để biết nói rõ về Đệ nhất nghĩa.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để biết các pháp một tướng chẳng hoại; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết pháp ấm, nhập giới, đế, nhân duyên; dùng Từ vô ngại trí để dùng âm thanh vi diệu dẫn đường về cho tất cả thế gian; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để điều đã nói trở nên vượt hơn có thể khiến cho chúng sinh được vô biên pháp sáng suốt.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để biết một thừa rốt ráo, bao gồm tất cả không sai biệt; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết các thừa sai biệt; dùng Từ vô ngại trí để có thể nói các thừa không sai biệt; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để dùng một pháp môn nói vô biên pháp sáng suốt.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để có thể vào tất cả hạnh Bồ-tát, hạnh trí, hạnh pháp, hạnh tùy trí; dùng Nghĩa vô ngại trí để có thể phân biệt nghĩa sai biệt của mười Địa; dùng Từ vô ngại trí để nói thuận theo các đạo và quả chẳng thể hoại; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để nói tướng vô biên của tất cả hành.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để biết tất cả Phật ở trong một niệm được giác ngộ; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết chủng loại thời gian chủng loại cõi sai biệt; dùng Từ vô ngại trí để theo sự đắc đạo sai biệt của chư Phật mà nói; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để đối với một câu pháp mà nói đến vô biên kiếp chẳng cùng tận.

Lại nữa, Bồ-tát dùng Pháp vô ngại trí để biết tất cả Phật ngữ, tất cả Phật lực, bốn điều không sợ, pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, vô ngại trí, chuyển pháp luân, Nhất thiết chủng trí; dùng Nghĩa vô ngại trí để biết âm thanh Đức Như Lai nói tám muôn bốn ngàn hạnh sai biệt của các căn ưa thích, tùy theo lòng chúng sinh; dùng Từ vô ngại trí để dùng âm thanh của Như Lai nói tất cả các hạnh chẳng thể hoại; dùng Nhạo thuyết vô ngại trí để dùng trí lực của chư Phật tùy theo âm thanh ưa thích của chúng sinh mà nói.

Đại Bồ-tát giỏi biết vô ngại trí như vậy, an trụ ở Địa thứ chín thì gọi là được Phật pháp tạng, là Đại Pháp sư, được các nghĩa Đà-lani, các pháp Đà-la-ni, khởi lên trí Đà-la-ni, danh tiếng Đà-la-ni, uy đức Đà-la-ni, vô ngại Đà-la-ni, vô biên toàn tạp nghĩa tạng Đà-lani… Bồ-tát được trăm vạn a-tăng-kỳ Đà-la-ni, như vậy… Tùy theo phương tiện thuyết, vô lượng nhạo thuyết sai biệt như vậy mà nói pháp. Bồ-tát được vô lượng Đà-la-ni môn như vậy thì có thể ở chỗ vô lượng đức Phật mà nghe pháp, nghe rồi chẳng quên. Đúng như pháp đã nghe, Bồ-tát có thể dùng vô lượng môn sai biệt để vì người diễn nói. Bồ-tát đó ở chỗ một đức Phật dùng trăm vạn a-tăng-kỳ Đàla-ni nghe và nhận chính pháp. Từ chỗ một đức Phât như thế thì ở chỗ vô lượng đức Phật cũng như vậy.

Khi Bồ-tát đó lễ kính Đức Phật đã nghe được pháp sáng suốt, chẳng phải học nhiều Thanh văn để được năng lực Đà-la-ni, trong mười vạn kiếp đã có thể thọ trì.

Bồ-tát đó được lực Đà-la-ni, lực vô ngại trí nhạo thuyết như vậy, dùng để thuyết pháp, nên ở tại tòa pháp, trước chúng sinh đầy trong cả ngàn thế giới vẫn theo được ý họ mà nói pháp.

Bồ-tát đó ở trên pháp tòa, chỉ trừ chư Phật và các Bồ-tát đã được thọ ký, còn đối với tất cả thì hơn hết.

Bồ-tát đó ngồi ở pháp tòa, hoặc dùng một âm thanh muốn khiến cho tất cả đều được giải rõ thì liền được giải rõ.

Hoặc dùng đủ thứ âm thanh muốn khiến cho tất cả đều được hiểu biết thì liền được hiểu biết.

Hoặc bằng im lặng chỉ phóng ra ánh sáng muốn khiến cho tất cả đều được hiểu pháp thì liền được hiểu pháp.

Hoặc tất cả lỗ chân lông đều phát ra Pháp âm.

Hoặc các vật có sắc, vô sắc của tam thiên đại thiên thế giới đều phát ra Pháp âm.

Hoặc dùng một âm thanh vang khắp cả thế giới muốn khiến cho tất cả đều được hiểu thì liền được hiểu.

Nếu Bồ-tát đó được chúng sinh của tam thiên đại thiên thế giới dùng vô lượng âm thanh cùng một lúc vấn nạn, những điều hỏi đều khác nhau, thì ở trong một niệm ghi nhận hết tất cả những vấn nạn như vậy, rồi dùng một âm thanh giải đáp đều khiến cho tất cả hiểu biết hết. Như vậy hoặc hai, hoặc ba, hoặc trăm, hoặc ngàn…, cho đến chẳng thể nói, chẳng thể nói tam thiên đại thiên thế giới mà chúng sinh ở đầy trong đó, Bồ-tát vì họ nói pháp.

Nương theo thần lực Đức Phật, Bồ-tát có thể vì chúng sinh làm Phât sự, càng thêm được trí tuệ sáng suốt. Ở trong một hạt bụi có đại hội nhiều như số bụi của chẳng thể nói, chẳng thể nói các thế giới, Đức Phật ở trong đó tùy theo tâm của chúng sinh mà thuyết pháp khiến cho mỗi chúng sinh được ngần ấy các pháp không lường.

Một Đức Phật như thế thì tất cả các Đức Phật cũng như vậy. Một vi trần mà như thế thì tất cả mười phương thế giới cũng như vậy. Ở trong đó phát sinh sức nhớ nghĩ lớn. Ở trong một niệm, từ chỗ tất cả Đức Phật nghe nhận pháp nhưng chẳng mất một câu. Như đại hội trên đầy cả chúng sinh trong đó, Bồ-tát dùng pháp sáng suốt quyết định diễn pháp thanh tịnh, ở trong một niệm, khiến cho chúng sinh ở đó đều được hiểu rõ, huống gì là chúng sinh trong ba ngàn thế giới.

Bồ-tát đó trụ ở địa này thì căn lành trở nên thù thắng hơn, đi sâu vào sự tu tập của chư Phật, thường cùng với tất cả chư Phật hội họp thâm nhập vào giải thoát của Bồ-tát. Bồ-tát thuận theo trí như vậy thì thường gặp chư Phật. Ở trong mỗi kiếp, vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức lần dùng đồ cúng thượng diệu cúng dường các Đức Thế. Ở chỗ các Đức Phật thưa hỏi các việc, thông đạt các Đà-la-ni, tất cả căn lành trở nên minh tịnh hơn.

Này Phật tử! Như vàng ròng rất xinh đẹp, mão đội quý báu của vua Chuyển luân bằng vàng ròng. Tất cả Tiểu vương không thể đoạt nó được. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Thiện tuệ thì tất cả căn lành trở nên minh tịnh hơn. Thanh văn, Bích-chi-phật và các địa Bồ-tát khác chẳng thể phá hoại được. Căn lành của Bồ-tát đó trở nên sáng có thể soi chiếu đến chỗ nạn phiền não của chúng sinh. Như vua trời Đại phạm có thể soi chiếu hết tất cả chỗ nạn của tam thiên đại thiên thế giới. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Thiện tuệ, căn lành minh tịnh chiếu soi các nạn xứ phiền não của chúng sinh.

Này các Phật tử! Đó là lược nói về địa Thiện tuệ thứ chín của Bồ-tát. Còn nếu nói rộng thì đến vô lượng, vô biên kiếp chẳng thể nói được hết Bồ-tát trụ ở Địa đó phần nhiều làm vua Đại phạm, thống lãnh cả ba ngàn thế giới, không ai có thể hơn được. Giải nghĩa đúng như thật, trong tự tại mà được tự tại, có thể giỏi tuyên nói về Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát Ba-la-mật, các câu hỏi về chúng sinh…, không thể cùng tận. Căn lành đã làm của Bồ-tát đó như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều chẳng lìa niệm Phật, chẳng lìa niệm pháp…, cho đến chẳng lìa niệm Nhất thiết chủng trí.

Bồ-tát đó thường phát sinh tâm này: “Đối với tất cả chúng sinh, ta sẽ làm người đứng đầu, làm người vượt hơn…; cho đến đối với tất cả chúng sinh, ta làm người y chỉ.” Bồ-tát đó nếu muốn cần hành tinh tấn như vậy thì ở trong một niệm được Tam-muội nhiều như số vi trần của trăm vạn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới. Cho đến có thể thị hiện Bồ-tát nhiều như số vi trần của trăm vạn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới để làm quyến thuộc. Nếu Bồ-tát đó dùng nguyện lực thì thần thông tự tại lại hơn cả số đó mà hàng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp chẳng thể tính được.

Bấy giờ, Bồ-tát Kim Cang Tạng, một lần nữa, muốn làm sáng tỏ nghĩa này, nói kệ khen rằng:

Các Bồ-tát tùy thuận
Lực trí sâu không lường
Đệ nhất rất vi diệu
Đời khó biết được rõ
Người lợi ích chúng sinh
Đến liền Địa thứ chín
Được vào với chư Phật
Bí mật của Pháp tạng.
Được Tam-muội vi diệu
Đà-la-ni tối thượng
Sức thần thông quảng đại
Vào cả tướng thế giới
Sức trí tuệ quyết định
Quán rõ pháp Thế Tôn
Đại nguyện, bi tâm lực
Địa thứ chín được thành
Tu hành thuận địa ấy
Giữ Pháp tạng của Phật
Liền thông hết các pháp
Vô ký, thiện chẳng thiện
Hữu lậu và vô lậu,
Thế gian, xuất thế gian
Là pháp nghĩ bàn được
Và chẳng thể nghĩ bàn
Biết pháp định, bất định
Tướng ba thừa hoàn toàn
Tư duy pháp hữu vi
Phân biệt vô vi pháp
Khi biết pháp như vậy
Diệt các tối vô minh
Thuận theo tâm trí đó
Là vi diệu tột cùng
Biết tất cả chỗ khó
Tướng sai biệt của tâm
Trang sức đời rất dễ
Lòng tự tại vô biên
Tướng phiền não cạn sâu
Tướng không xa rời tâm
Biết sử, triền sai biệt
Tùy thuận nối nhau luôn
Biết nghiệp, đủ thứ loại
Mỗi mỗi tướng chẳng đồng
Nhân diệt quả chẳng mất
Việc như vậy thông đạt
Lại biết ở chúng sinh
Các căn thượng, trung, hạ
Rộng lớn và sai biệt…
Tướng trước, sau đều thông
Biết dục hạ, trung, thượng
Và các tánh chẳng đồng
Cho đến biết nhiều thứ
Đến tám muôn bốn ngàn
Nạn xứ, phiền não sử
Từ vô thỉ đến nay
Đều cùng tâm cộng hành
Ràng buộc chẳng thể đoạn
Biết được các kết sử…
Chỉ vọng tưởng biệt phân
Không có phương xứ sở
Tướng định, sự cũng không
Thường chẳng lìa khỏi thân
Lại cũng khó được biết
Sức thiền có thể ngăn
Đạo Kim cang đoạn được
Lại biết rõ chúng sinh
Vào sáu đường sai biệt
Vô minh phủ, ái ướt
Ruộng nghiệp, thức là giống
Sinh ra mầm thân sau
Danh sắc chung tăng trưởng
Từ vô thỉ tử sinh
Nối nhau ở ba cõi
Biết các đường trời rồng
Do nghiệp tâm phiền não
Pháp này nếu lìa xong
Đó là không thật có.
Tất cả những chúng sinh
Đều ở trong ba đường
Hoặc chìm trong tà kiến
Hoặc tại đường trí thông
Bồ-tát trụ Địa đó
Biết hết tâm chúng sinh
Các căn và dục lạc
Chủng loại nghĩa sai biệt
Khéo suy nghĩ trong lòng
Tùy nghi mà nói pháp
Trí vô ngại đạt thông
Khéo dùng ngôn từ nói
Bồ-tát làm Pháp sư
Giống như vua sư tử
Vua núi báu, vua trâu
Ở yên không sợ hãi
Ở khắp các thế giới
Mưa pháp vị ngọt lành
Giống như đại Long vương
Hay mưa đầy bể cả
Bồ-tát đó biết thông
Từ nghĩa pháp không ngại
Giỏi hay thuận theo hành
Đầy đủ lực nhạo thuyết
Tổng trì có thể được
Trăm vạn a-tăng-kỳ
Hay thọ pháp Thế Tôn
Như biển nhận mưa rồng
Bồ-tát được như vậy,
Những thâm diệu sạch trong
Đà-la-ni vô lượng
Các năng lực Tam-muội
Hay ở trong một niệm
Được thấy Phật không lường
Nghe Phạm âm thanh tịnh
Diễn nói diệu pháp bảo
Bồ-tát đó, hoặc dạy
Chúng sinh cả ngàn cõi
Tùy tâm căn tốt đẹp
Nói pháp khiến vui mừng
Như vậy không nhiều lường
Cả ba ngàn thế giới
Cần tinh tấn chuyển hơn
Mà phát khởi suy nghĩ
Ở trong một vi trần
Vô lượng Phật nói pháp
Theo tâm tướng chúng sinh
Diễn nói nghĩa vi diệu
Bồ-tát đó thọ liền
Như đất nhận hạt giống
Nên phát nguyện như vầy
Khắp nơi cả mười phương
Chúng sinh trong các cõi
Đều hợp lại một chỗ
Trong một niệm ta liền
Biết hết được tâm chúng
Thuyết pháp, dùng một tiếng
Khiến đoạn hết nghi ngờ
Bồ-tát trụ địa ấy
Vua pháp trong nhân thiên
Làm thầy nói pháp lớn
Thuận theo tánh chúng sinh
Thường ở trong ngày đêm
Cùng chư Phật chung hội
Hay trụ ở sâu xa
Trí tịch diệt giải thoát
Cúng dường Phật không lường
Căn lành chuyển minh tịnh
Giống như Chuyển luân vương
Mão vàng ròng trang nghiêm
Ánh sáng soi chúng sinh
Các nạn xứ phiền não
Như ánh sáng Phạm vương
Soi đến cả ngàn cõi
Bồ-tát trụ địa ấy
Ở thế giới ba ngàn
Làm Đại Phạm Thiên vương
Các căn đều mạnh mẽ
Giỏi dùng ba thừa pháp
Giác ngộ các chúng sinh
Các nghiệp lành đã làm
Đều thiện niệm chân chính
Hay ở trong một niệm
Mà được không có lường
Những Tam-muội thâm diệu
Nhiều như bụi thế giới
Được thấy Phật mười phương
Nói Pháp âm vi diệu,
Thấy thần lực Thế Tôn
Lại phát nguyện không lường.
Như vậy Địa thứ chín
Nơi đại trí tu hành
Thâm diệu khó thấy biết
Nay đã lược nói xong.

*********

Nói các Đại Bồ-tát
Hành động thật vô thượng
Vô số na-do-tha
Chư Thiên Thủ-đà-hội
Ở trên giữa hư không
Lòng đều rất hoan hỷ
Đều dùng tâm cung kính
Cúng dường Phật các báu.
Na-do-tha Bồ-tát
Hoan hỷ thật không lường
Đốt hương thơm kỳ diệu
Diệt trừ các phiền não,
Vua Tha hóa tự tại
Cùng đại chúng chư Thiên
Cùng ở giữa hư không
Lòng đều rất vui mừng
Đều đem lòng cung kính
Dâng đủ thứ cúng dường
Họ tung lên vải báu
Rơi xuống từ không trung,
Vô lượng ức Thiên nữ
Thân tâm đều vui mừng
Ở trên giữa hư không
Lòng kính cúng dường Phật,
Đồng tấu ức không lường
Vô số loại âm nhạc
Trong tất cả vật báu
Phát ra tiếng như vầy
Đức Phật ngồi chỗ này
Mà hiện khắp mười phương
Trong tất cả đất nước
Đều có Phật hiện lên.
Vô lượng ức đủ thứ
Tướng tốt trang nghiêm thân
Đặc biệt không ai bằng
Đầy tràn cả thế giới
Ở trong một lỗ lông
Phát vô lượng ánh sáng
Diệt trừ lửa não phiền
Của tất cả thế gian
Số bụi cả mười phương
Còn có thể tính được
Ánh sáng một lỗ lông
Chẳng có thể cùng tận
Đều thấy Phật hiện thân
Với ba mươi hai tướng
Tám mươi vẻ đẹp nghiêm
Chuyển pháp luân vô thượng
Hoặc thấy những Thế Tôn
Vì chúng mà thuyết pháp
Thấy ở Đâu-suất thiên
Vì chư Thiên giáo hóa
Hoặc từ Đâu-suất thiên
Xuống ở trong thai mẹ
Hoặc thấy khi sơ sinh
Thấy xuất gia đêm tối
Hoặc thấy ngồi đạo tràng
Mà thành đạo vô thượng
Hoặc thấy chuyển pháp luân
Hoặc thấy vào Niết-bàn
Ở vô lượng đất nước
Thị hiện bằng nhiều cách
Muốn độ chúng sinh nên
Có những việc như vậy…
Như nhà ảo thuật giỏi
Thuật huyễn hóa tài tình
Hiện nhiều cho chúng sinh
Đủ thứ chân tướng khác,
Như vậy trong tuệ Phật
Khéo léo thị hiện lên
Biến hóa tất cả thân
Khắp cùng các thế giới,
Tất cả pháp tịch không
Trước sau không tánh tướng
Đồng như cõi hư không
Đại sư cũng như thế.
Được vào tánh tướng của
Đệ nhất nghĩa nhiệm mầu
Theo tánh tướng các pháp
Thị hiện thần lực Phật,
Tất cả hạnh của Phật
Những chúng sinh và pháp
Đều cùng đồng vô tướng
Tất cả pháp đều không.
Nếu muốn được Phật trí
Nên lìa ác tưởng nhớ
Có, không đều đạt thông
Chóng làm Thầy trời người
Chư Thiên, chúng thể nữ
Đều phát ra như thế
Ngàn vạn thứ diệu âm
Rồi im lặng nhìn Phật.
Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt
Thấy chúng đều lặng yên
Thỉnh ngài Kim Cang Tạng:
Thưa Phật tử vang danh!
Bồ-tát từ điạ chín
Cho đến Địa thứ mười
Các sức Đại thần thông
Nay nguyện xin lược nói.

Bồ-tát Kim Cang Tạng nói:

–Này Phật tử! Đại Bồ-tát có vô lượng trí tuệ như vậy, giỏi tu hành Phật đạo…, cho đến Địa thứ chín. Họ giỏi huân tập pháp Bạch tịnh, huân tập vô lượng pháp trợ đạo. Họ được sự hộ trì của đại công đức trí tuệ mà tu hành đại Bi. Biết phân biệt rõ thế giới sai biệt, vào tận nạn xứ của chúng sinh, đi vào hành xứ của các Đức Như Lai, niệm thuận theo hành xứ tịch diệt của Đức Như Lai, đi theo các Phật lực, không sợ pháp bất cộng kiên trì chẳng bỏ, được đến địa vị Nhất thiết trí. Đại Bồ-tát hành trì như vậy thì gần với ngôi vị Phật, thì được Tam-muội Ly cấu của Bồ-tát hiện ra.

Lại nữa, họ còn vào được các Tam-muội Nhập pháp giới sai biệt, Tam-muội Trang nghiêm đạo tràng, Tam-muội Vũ nhất thiết thế gian hoa quan, Tam-muội Hải tạng, Tam-muội Hải ấn, Tammuội Hư không quản, Tam-muội Quán sát nhất thiết pháp tánh, Tam-muội Tùy nhất thiết chúng sinh tâm hành, Tam-muội Như thật tri nhất thiết pháp, Tam-muội Đắc Như Lai trí tín…, trăm vạn a-tăngkỳ Tam-muội như vậy đều hiện ra.

Bồ-tát đó vào hết những Tam-muội này, biết rõ những công dụng sai biệt ở trong đó. Tam-muội sau cùng tên là Ích nhất thiết trí vị. Khi Tam-muội đó hiện tại tiền thì tức thời hoa sen báu xuất hiện, chu vi bằng trăm vạn tam thiên đại thiên thế giới. Tất cả các báu xen lẫn trang sức, hơn tất cả vật trang sức của trời, người; sinh ra căn lành xuất thế gian, biết tất cả pháp như huyễn như hóa, tuệ không thành tựu, ánh sáng có thể soi tất cả thế giới; lưu ly làm cành, Chiên-đàn vương làm đài, mã não làm tua, Diêm-phù-đàn kim làm cánh, ánh sáng không lường, tất cả báu đẹp đều ở trong ấy. Lưới báu che bên hoa ấy. Có hoa sen nhiều như số vi trần của mười tam thiên đại thiên thế giới để làm quyến thuộc.

Lúc bấy giờ Bồ-tát, thân ngài đặc biệt xinh đẹp xứng đáng với tòa hoa. Bồ-tát được năng lực của Tam-muội Ích nhất thiết trí vị nên thân ngồi tòa hoa sen vĩ đại, tức thời trên những hoa sen quyến thuộc đều có Bồ-tát. Mỗi một vị Bồ-tát ngồi trên hoa sen liền được trăm vạn Tam-muội, đều một lòng chiêm ngưỡng vị Đại Bồ-tát.

Khi vị Đại Bồ-tát đó lên tòa hoa sen thì tất cả thế giới hiện tại trong mười phương đều chấn động lớn. Tất cả cõi ác đều ngưng lại, ánh sáng soi khắp mười phương thế giới. Tất cả thế giới đều nghiêm tịnh hết, đều được thấy nghe đại hội của chư Phật. Vì sao? Vì khi Bồ-tát đó ngồi lên tòa sen vĩ đại thì tức thời dưới chân phóng ra trăm vạn a-tăng-kỳ ánh sáng chiếu soi địa ngục A-tỳ trong mười phương, diệt hết khổ não của chúng sinh. Trên hai gối ấy phóng ra số ấy ánh sáng chiếu soi tất cả súc sinh trong mười phương, diệt trừ khổ não. Ở rốn phóng ra số ấy ánh sáng chiếu soi loài người trong mười phương, yên ổn khoái lạc. Hai tay phóng ra số ấy ánh sáng chiếu soi cung chư Thiên và A-tu-la trong mười phương. Từ hai mí mắt phóng ra số ấy ánh sáng chiếu soi chúng Thanh văn trong mười phương. Từ cổ phóng ra số ấy ánh sáng chiếu soi Bích-chi-phật trong mười phương. Miệng phóng ra số ấy ánh sáng chiếu soi Bồtát trong mười phương, cho đến người trụ ở Địa thứ chín. Tướng bạch hào phóng ra số ấy ánh sáng chiếu soi Bồ-tát đắc quả vị trong mười phương tất cả cung ma bị che khuất biến mất. Trên đỉnh phóng ra ánh sáng nhiều như số vi trần của trăm vạn a-tăng-kỳ tam thiên đại thiên thế giới chiếu soi đại hội của chư Phật ở mười phương. Các ánh sáng ấy nhiễu quanh mười vòng xong, trụ ở hư không, tạo thành lưới ánh sáng cao lớn minh tịnh, cúng dường chư Phật. Cúng dường như vậy, so với sự cúng dường của Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến Địa thứ chín thì hơn cả trăm phần. Thậm chí dùng tính toán, thí dụ cũng chẳng thể so sánh kịp. Lưới ánh sáng lớn đó hơn cả hoa hương, hương bột, hương xoa, y phục, cờ phướn, lọng báu, các anh lạc báu, ngọc báu Ma-ni, đồ cúng dường của cả mười phương thế giới. Từ căn lành xuất thế gian sinh ra nên trên mỗi một đại pháp hội của chư Phật đều mưa xuống các báu giống như đám mây lớn. Nếu có chúng sinh nào hay biết được sự cúng dường đó thì đều nhất định được đạo lớn vô thượng. Những ánh sáng mưa xuống cúng dường vĩ đại xong thì nhiễu quanh đại hội mười vòng, rồi vào dưới chân các Đức Phật.

Lúc bấy giờ, các Đức Phật và các vị Đại Bồ-tát biết ở thế giới ấy có Đại Bồ-tát ấy hành đạo như vậy, được thành tựu thọ ký thì tức thời vô biên Bồ-tát ở mười phương…, cho đến người trụ ở Địa thứ chín đều đến vây quanh, thiết lập đại cúng dường, một lòng cung kính. Họ đều được một vạn Tam-muội.

Tất cả Đại Bồ-tát được thọ ký thì ở bụng Kim cang trang nghiêm, phóng ra ánh sáng lớn tên là Phá giặc ma; có vô lượng trăm ngàn vạn ánh sáng làm quyến thuộc, soi khắp thế giới mười phương, thị hiện vô lượng thần lực rồi cũng vào lại trong ngực Đại Bồ-tát đó. Ánh sáng này tắt xong, Bồ-tát đó liền được trăm ngàn vạn ức đại thế thần lực thần thông trí tuệ.

Lúc bấy giờ, các Đức Phật, từ tướng bạch hào ở khoảng hai mi, phóng ra ánh sáng tên là Ích nhất thiết trí, có vô lượng, vô biên ánh sáng quyến thuộc, chiếu soi hết tất cả thế giới mười phương, vây quanh mười vòng, thị hiện đại thần thông lực của chư Phật, khuyến khích vô lượng trăm ngàn vạn ức những Bồ-tát.

Mười phương thế giới chấn động sáu cách, diệt trừ tất cả khổ não của ác đạo; tất cả cung ma đều bị che khuất biến mất, thị hiện tất cả chỗ đắc đạo của chư Phật; thị hiện tất cả sự trang nghiêm của đại hội chư Phật; rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Ánh sáng đó chiếu soi tất cả thế giới rồi tập hợp giữa hư không, bày ra sự trang nghiêm của đại thần thông, rồi nhập vào đỉnh Bồtát đó. Những ánh sáng quyến thuộc thì nhập vào đỉnh của những Bồ-tát ngồi trên tòa sen quyến thuộc. Tức thời, họ được mười ngàn Tam-muội mà trước đó chưa có được. Ánh sáng đó vào đỉnh của Bồ-tát này. Ánh sáng một Đức Phật như thế thì tất cả ánh sáng của chư Phật cũng như vậy.

Khi tất cả ánh sáng của chư Phật mười phương vào đỉnh của Bồ-tát, đó gọi là Đắc chức, gọi là vào cõi chư Phật, đủ mười Lực của Phật, thuộc vào số của Phật.

Này Phật tử! Ví như con lớn của Chuyển luân thánh vương thành tựu tướng vương. Chuyển luân thánh vương cho con ngồi lên cái bành voi bằng vàng Diêm-phù-đàn trên lưng với Thánh báu, rồi lấy nước bốn biển, màn trướng căng lên, đủ loại cờ phướn âm nhạc trang nghiêm… rồi lại cầm chén vàng đựng nước thơm tưới lên đỉnh đầu của con liền gọi là Quán đảnh Đại vương; chuyển đầy đủ mười nẻo nghiệp thiện nên gọi là Chuyển luân thánh vương.

Đại Bồ-tát cũng như vậy, khi nhận chức, chư Phật dùng nước trí tưới lên đỉnh đầu Bồ-tát, đó gọi là Quán đảnh Pháp vương. Đầy đủ mười Lực của Phật, được vào số của Phật thì đó gọi là Đại trí tuệ chức địa của Đại Bồ-tát. Do chức đó nên Đại Bồ-tát chịu vô lượng trăm ngàn ức khổ để làm việc khó. Bồ-tát đó được chức này rồi, trụ ở địa Pháp vân thì vô lượng công đức trí tuệ tăng thêm.

Này Phật tử! Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân thì biết đúng như thật. Sự tập khởi của Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, biết đúng như thật. Thế gian tánh, chúng sinh tánh, thức tánh, hữu vi tánh, vô vi tánh, hư không tánh, pháp tánh, Niết-bàn tánh, tà kiến chư phiền não tánh, biết đúng như thật. Sự tập khởi của các pháp thế gian thành hoại, Thanh văn đạo, Bích-chi-phật đạo, Bồ-tát đạo, mười Lực, bốn Điều không sợ, mười tám pháp Bất cộng, Sắc thân, Pháp thân của chư Phật, Nhất thiết trí, đắc Phật đạo chuyển pháp luân, thị hiện diệt độ tập… Nói tóm lại, Bồ-tát đó biết đúng như sự thật vì tập khởi mà có tất cả pháp sai biệt.

Bồ-tát dùng trí tuệ như vậy thuận theo hạnh Bồ-đề thì biết đúng như thật về các sự giáo hóa chúng sinh, nghiệp, phiền não, các kiến, thế giới, pháp giới, Thanh Văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Như Lai, Nhất thiết phân biệt vô phân biệt.

Bồ-tát đó biết đúng như thật giữ gìn về Phật lực, pháp, nghiệp, phiền não, thời, nguyện, đời trước, hành, sống lâu, trí.

Bồ-tát đó trụ ở Thập địa thì biết các vi tế trí của chư Phật như là: Trí hành vi tế, trí qua đời vi tế, trí thọ thai vi tế, trí xuất sinh vi tế, trí xuất gia vi tế, trí đắc đạo vi tế, thần lực tự tại vi tế, Chuyển pháp luân vi tế, trí giữ thọ mạng vi tế, trí thị Niết-bàn vi tế, trí pháp tồn tại vi tế… Những trí vi tế như vậy, Bồ-tát đều biết đúng như thật.

Lại nữa, các chỗ ẩn mật của Phật như là: Thân mật, khẩu mật, ý mật, biết thời, phi thời mật, cho Bồ-tát thọ ký mật, thu phục chúng sinh mật, các thừa sai biệt mật, nghiệp hành động như thật mật, hành đạo đắc Bồ-đề mật… Những pháp mật như vậy, Bồ-tát đó đều biết đúng như thật.

Thể nhập trí về kiếp của chư Phật như là: Một kiếp bao gồm atăng-kỳ kiếp, a-tăng-kỳ kiếp gom trong một kiếp, kiếp có số gồm kiếp vô số, kiếp vô số gồm kiếp hữu số, một niệm gồm một kiếp, một kiếp gồm một niệm, kiếp gồm phi kiếp, phi kiếp gồm kiếp, kiếp có Phật gồm kiếp không Phật, kiếp không Phật thâu nhiếp kiếp có Phật; kiếp quá khứ vị lai gồm kiếp hiện tại, kiếp hiện tại gồm kiếp quá khứ vị lai; kiếp vị lai, quá khứ nhiếp kiếp hiện tại, kiếp hiện tại nhiếp kiếp quá khứ vị lai; trường kiếp dài gồm kiếp ngắn, kiếp ngắn gồm kiếp dài…

Các pháp thuộc về tướng các kiếp…, Bồ-tát đó đều biết đúng như thật. Trí vào trong vi trần của chư Phật, như là trí quốc thổ, trí chúng sinh thân tâm trí, trí chúng sinh thân tâm đắc đạo, trí chúng sinh hành, trí chí nhất thiết xứ, trí biến hành Phật đạo, trí thuận hành, trí nghịch hành, trí chẳng thể nghĩ bàn, tất cả trí thế gian mà Thanh văn, Bích-chi-phật, Bồ-tát chẳng thể biết, Bồ-tát đó đều biết đúng như thật.

Này Phật tử! Trí tuệ chư Phật rộng lớn không lường, Bồ-tát trụ ở địa đó thì có thể được vào những trí tuệ như vậy. Đại Bồ-tát thuận theo địa đó tu hành thì được chẳng thể nghĩ bàn giải thoát của Bồ-tát, giải thoát vô ngại, giải thoát tịnh hạnh, giải thoát phổ môn minh, giải thoát Như Lai tạng, giải thoát tùy vô ngại luận, giải thoát nhập tam thể, giải thoát pháp tánh tạng, giải thoát minh, giải thoát thắng tiến…

Bồ-tát lấy mười thứ giải thoát đó làm đầu thì được vô lượng,

vô biên trăm ngàn vạn vô lượng a-tăng-kỳ Giải thoát, trăm ngàn vạn vô lượng a-tăng-kỳ Tam-muội; trăm ngàn vạn vô lượng a-tăngkỳ Đà-la-ni, trăm ngàn vạn vô lượng a-tăng-kỳ Thần thông cũng như vậy.

Bồ-tát đó thành tựu trí tuệ như vậy, thuận theo Bồ-đề, thành tựu vô lượng niệm lực thì có thể ở trong phút chốc đến chỗ của vô lượng Đức Phật trong mười phương nghe vô lượng pháp minh, vô lượng pháp vũ đều có thể thọ trì được. Ví như vua rồng Ta-già-la tuôn ra mưa lớn thì chỉ trừ biển cả còn các nơi khác chẳng thể được.

Đại Bồ-tát cũng như vậy, được mưa lớn đại pháp của Đức Như Lai, tất cả chúng sinh, Thanh văn, Bích-chi-phật…, cho đến Bồ-tát địa thứ chín chẳng thể thọ nhận, chỉ có Bồ-tát này trụ ở địa Pháp vân mới có thể trì. Ví như biển lớn, một ông vua rồng nổi lên mây mưa lớn, biển đều có thể nhận được. Hoặc hai, hoặc ba…., cho đến vô lượng, vô biên những ông vua rồng lớn khởi lên mây mưa, cùng một lúc tuôn mưa xuống biển đều có thể nhận lấy.

Đại Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Pháp vân, ở nơi một Đức Phật…, cho đến chẳng thể nói, chẳng thể nói Đức Phật, ở trong một niệm, đều có thể đủ sức nhận lấy mây mưa đại pháp của chư Phật như vậy. Vậy nên địa này có tên là địa Pháp vân.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Thưa Phật tử! Bồ-tát đó, ở trong một niệm, có thể đủ sức nhận lấy bao nhiêu mưa đại pháp minh?

Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp:

–Này Phật tử! Ví như chẳng thể nói trăm ngàn vạn ức na-dotha thế giới nhiều như vi trần khắp mười phương chúng sinh trong những thế giới như vi trần đó, giả sử họ đều được nghe và thọ trì Đà-la-ni làm thị giả của Phật, làm đại Thanh văn đa văn đệ nhất, như Tỳ-kheo Thiện Phục của Đức Phật Liên Hoa Thượng Kim Cang. Một chúng sinh ấy thành tựu sức đa văn như vậy, những chúng sinh khác cũng vậy. Một người đã ghi nhận thì những người khác thế nào? Năng lực đa văn mà tất cả chúng sinh thọ trì có nhiều chăng?

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt đáp:

–Thưa rất nhiều, chẳng thể kể được.

Này Phật tử! Ta sẽ nói cho ông. Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân ở trong phút chốc, ở chỗ một Đức Phật nhận mưa đại pháp minh của tạng pháp ba đời thì tất cả năng lực đa văn ở trên chẳng bằng một phần trăm; cho đến dùng tính toán, thí dụ cũng chẳng thể sánh kịp. Như được nghe ở chỗ một Đức Phật, ở khắp chư Phật cả mười phương thế giới như vi trần, đều có thể thọ trì mưa đại pháp minh.

Lại có thể, các pháp minh hơn như vậy đến vô lượng, vô biên, ở trong phút chốc, Bồ-tát đó đều có thể thọ trì hết. Vậy nên, địa này có tên là địa Pháp vân.

Này Phật tử! Đại Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân, tự theo nguyện lực phát sinh đại Từ bi, phước đức trí tuệ mà dùng làn mây dày hiện đủ loại thân; dùng mây đủ màu sắc thông minh không sợ làm ánh chớp, rền tiếng sấm lớn, nói pháp thu phục ma. Mỗi niệm mỗi lúc có thể đối với thế giới vi trần nói trên, đều cùng khắp hết, dùng mưa pháp lành, mưa pháp cam lồ diệt trừ lửa phiền não do vô minh khởi lên, theo sự ưa thích của lòng chúng sinh. Vậy nên có tên là địa Pháp vân.

Lại nữa, này Phật tử! Đại Bồ-tát trụ ở Pháp vân địa thì ở một thế giới, từ trời Đâu-suất giáng xuống…, cho đến thị hiện Đại Niếtbàn. Tất cả Phật sự, theo việc độ sinh đều thị hiện thần lực. Hoặc hai, hoặc ba…, cho đến thế giới nhiều như số vi trần nói trên, lại còn hơn trăm vạn ức a-tăng-kỳ thế giới đó nữa, Bồ-tát đó từ trời Đâusuất giáng xuống…, cho đến thị hiện đại Niết-bàn. Tất cả Phật sự, theo việc độ chúng sinh đều hiện thần lực.

Bồ-tát đó trụ ở địa này, ở trong trí tuệ được tự tại lực bậc thượng, hoặc làm cho quốc độ chật hẹp thành rộng lớn, quốc độ rộng lớn thành chật hẹp; quốc độ bất tịnh thành thanh tịnh, quốc độ thanh tịnh thành bất tịnh. Như vậy, đối với tất cả thế giới đều có thần lực. Bồ-tát đó, hoặc ở trong một vi trần đặt cả sông, núi Thiết-vi của ba ngàn thế giới mà chẳng bị dồn nén, đem những sự trang nghiêm của hoặc hai, hoặc ba, cho đến chẳng thể nêu bày hết số thế giới vào trong một hạt bụi.

Hoặc đem sự trang nghiêm của một thế giới vào trong chẳng

thể nêu bày hết số thế giới.

Hoặc đem chúng sinh của chẳng thể nêu bày hết số thế giới đặt vào trong một thế giới mà chẳng bị dồn nén.

Hoặc đem chúng sinh của một thế giới đặt vào trong chẳng thể nêu bày hết số thế giới.

Hoặc đem chẳng thể nêu bày hết số thế giới vào trong một hạt bụi mà chẳng làm phiền chúng sinh.

Hoặc trong một hạt bụi hiện ra tất cả việc trang nghiêm thần thông lực của Đức Phật.

Hoặc trong một niệm hiện thân nhiều như số vi trần chẳng thể nêu bày hết số thế giới.

Trong một thân thị hiện vô lượng tay, dùng mỗi một tay cầm hằng hà sa số hoa sen để tung lên các Đức Phật. Tạp hương, hương bột, cờ phướn, lọng báu, vật báu… Những đồ trang nghiêm như vậy đều dùng tay cầm, cúng dường các Đức Phật. Mỗi một thân cũng như vậy.

Lại mỗi một thân hóa ra ra nhiều đầu như vi trần. Ở mỗi một đầu có lưỡi nhiều như vi trần dùng thần lực khen ngợi chư Phật. Những việc như vậy, ở trong một niệm, đầy khắp mười phương. Ở trong một niệm dùng sức thần thông, ở vô lượng thế giới thị hiện được Phật đạo, chuyển pháp luân…, Đại Bát-niết-bàn. Trong ba cõi dùng sức thần thông thị hiện vô lượng thân. Trong thân hiện ra vô lượng Phật, vô lượng việc trang nghiêm Phật. Trong thân hiện ra tất cả việc thế giới thành hoại. Hoặc ở trong một lỗ chân lông phát ra tất cả gió mà chẳng gây hại chúng sinh. Hoặc dùng vô lượng, vô biên thế giới làm một biển nước.

Trong biển nước này làm ra hình một hoa sen lớn, ánh sáng màu sắc chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới. Ở giữa hiện ra cây Bồ-đề trang nghiêm với nhiều sự việc vi diệu cho đến thị hiện được Nhất thiết chủng trí. Hoặc trong thân hiện ra ngọc báu ma-ni của một phương thế giới.

Rồi mặt trời, mặt trăng, tinh tú, tất cả ánh sáng…, cho đến ánh sáng của mười phương cũng như vậy. Hoặc miệng thở hơi ra có thể khiến cho mười phương vô lượng thế giới đều đại chấn động mà chẳng khiến cho chúng sinh có ý nghĩ sợ hãi. Hoặc bày ra thủy kiếp tận, phong kiếp tận, hỏa kiếp tận của thế giới khắp mười phương mà thân chúng sinh vẫn tùy ý trang nghiêm. Hoặc ở tự thân hiện ra thân Như Lai, thân Như Lai hiện ra tự thân, thân Như Lai làm ra nước của mình, nước của mình làm ra thân Như Lai.

Này Phật tử! Đại Bồ-tát ở tại địa Pháp vân có thần biến như vậy. Lại còn vô lượng thần lực tự tại thị hiện nữa.

Bấy giờ, trong hội các vị Bồ-tát, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, bốn vua Trời, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, Tự tại Thiên tử, Tịnh cư thiên… Đều sinh khởi ý niệm này: “Nếu thần thông lực, trí tuệ lực của Bồ-tát vô lượng, vô biên như vậy thì Phật như thế nào?”

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt biết ý nghĩ của đại chúng nên hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Này Phật tử! Hôm nay các đại chúng nghe được lực thần thông trí tuệ của Bồ-tát đó đều rơi vào lưới nghi ngờ. Ông phải xóa tan tất cả nghi hoặc, bày ra sự trang nghiêm tốt đẹp của thần thông Bồ-tát.

Bồ-tát Kim Cang Tạng liền vào Tam-muội Nhất thiết Phật quốc thể tánh. Khi ấy, các đại chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, bốn vua Trời, Thích Đề-hoàn Nhân, Phạm thiên vương, Tự tại Thiên tử, Tịnh cư thiên… đều tự thấy biết mình vào trong thân của Bồ-tát Kim Cang Tạng. Bên trong thân ấy, họ thấy những sự kiện trang nghiêm của ba ngàn thế giới mà hoặc trọn một kiếp nói chẳng thể hết. Ở trong đó, họ thấy cây đạo tràng của Phật mà chu vi thân của nó đến mười vạn ba ngàn thế giới; cao đến trăm vạn ba ngàn thế giới; che phủ đến ba ngàn ức ba ngàn thế giới. Dưới cây cao rộng có tòa ngồi sư tử. Trên tòa ngồi ấy có Đức Phật hiệu Nhất Thiết Trí Vương Như Lai. Tất cả đại chúng đều thấy Đức Phật ngồi trên tòa mà đồ trang nghiêm, đồ cúng dường thượng diệu có ở trong đó, trọn một kiếp nói cũng chẳng thể hết. Bồ-tát Kim Cang Tạng thị hiện đại thần lực như vậy xong thì khiến cho đại chúng đều trở về chỗ cũ. Tất cả chúng hội phát sinh tư tưởng hy hữu im lặng, nhất tâm quan sát Bồtát Kim Cang Tạng.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát Kim Cang Tạng:

–Thưa Phật tử! Tam-muội đó có thế lực lớn rất là hiếm có. Tam-muội đó có danh hiệu là gì?

Đáp rằng:

–Tam-muội đó tên là Nhất thiết Phật quốc thể tánh.

Hỏi rằng:

–Cảnh giới thế lực của Tam-muội đó ra sao?

Đáp rằng:

–Này Phật tử! Nếu Đại Bồ-tát giỏi tu, thành tựu năng lực Tammuội đó thì có thể đem số tam thiên đại thiên thế giới nhiều như số vi trần của vô lượng hằng sa thế giới như vậy hiện ở trong thân, lại còn hơn số đó nữa.

Bồ-tát ở tại địa Pháp vân được vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức những đại Tam-muội như vậy.

Bồ-tát đó trụ ở trong địa này thì thân nghiệp của thân khó thể dò biết, khẩu nghiệp của miệng khó thể dò biết, ý nghiệp của ý khó thể dò biết, thần lực tự tại khó thể dò biết, quán pháp ba đời khó thể dò biết, sự nhập vào các Tam-muội khó thể dò biết, trí lực khó thể dò biết, tự tại các giải thoát khó thể dò biết. Sự biến hóa, sự biến hóa thần lực, hành động như ý khó thể dò biết…, cho đến giở chân, hạ chân…, Bồ-tát trụ ở địa Thiện tuệ khó thể dò biết.

Này Phật tử! Bồ-tát ở địa Pháp vân không lường như vậy. Nếu nói rộng ra thì dù có nói đến vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp cũng chẳng thể hết được.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nói:

–Thưa Phật tử! Nếu sức Bồ-tát có năng lực thần thông như vậy thì năng lực biến hóa thần thông của Phật như thế nào?

Đáp rằng:

–Này Phật tử! Ví như có người thấy một hòn đất mà cho rằng: “Tất cả đất của vô biên thế giới mà nhiều như thế này ư?” Điều ông hỏi thì ta cho là như vậy. Trí tuệ không lường của Đức Như Lai thì làm sao đem trí tuệ của Bồ-tát mà muốn đo lường.

Này Phật tử! Như người lấy một phần đất tối thiểu của bốn thiên hạ, còn người khác lấy tối đa.

Bồ-tát ở địa Pháp vân cả vô lượng kiếp chỉ có thể nói như ít đất huống gì là địa Như Lai. Hôm nay ta sẽ nói để khiến cho ông biết điều đó Đức Phật đang làm chứng! Như thế giới chư Phật nhiều bằng số vi trần của mười phương vô lượng, vô biên thế giới, mà trong đó đều đầy những Bồ-tát Địa thứ mười. Vô lượng, vô biên thiện nghiệp, tu tập công đức trí tuệ thiền định của Bồ-tát đó đối với công sức trí tuệ của Đức Như Lai, trăm phần chẳng bằng một, trăm ngàn vạn ức phần chẳng bằng một…; cho đến dùng tính toán, thí dụ cũng chẳng thể bì kịp.

Này Phật tử! Bồ-tát đó tùy theo trí tuệ như vậy mà thuận với thân, miệng, ý của Như Lai, chẳng bỏ những Tam-muội của Bồ-tát, lòng siêng cúng dường tất cả các Đức Phật. Ở mỗi một kiếp đem tất cả đồ cúng cúng dường vô lượng, vô biên các Đức Phật thì có thể nhận đủ hết thần lực của chư Phật, lại trở nên thù thắng hơn. Bồ-tát đó đối với những vấn nạn về pháp tánh thì không ai có thể thắng, cho đến vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức kiếp chẳng thể cùng tận.

Này Phật tử! Ví như vàng trời dùng ngọc ma-ni và các thứ báu xen lẫn để làm đồ trang nghiêm cho vua trời Tự tại thì đồ trang nghiêm của chư Thiên khác chẳng thể bì kịp, cũng không ai đoạt được.

Bồ-tát trụ ở Địa thứ mười thì căn lành trí tuệ từ bậc Sơ địa thứ nhất cho đến bậc Địa thứ chín chẳng thể bì kịp. Bồ-tát trụ ở Địa đó được đại trí chiếu sáng, thuận theo Nhất thiết trí thì những trí tuệ khác chẳng thể phá hoại. Ví như ánh sáng của vua trời Đại tự tại có thể khiến cho thâm tâm chúng sinh trong sáng, tất cả ánh sáng nơi chúng sinh sống chẳng thể bì kịp.

Đại Bồ-tát cũng vậy, trụ ở địa Pháp vân thì ánh sáng trí tuệ, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể bì kịp. Thậm chí, Bồ-tát Địa thứ chín cũng chẳng thể bì kịp. Bồ-tát đó trụ trong Địa này có thể khiến cho vô lượng chúng sinh trụ ở đạo Nhất thiết trí.

Này Phật tử! Bồ-tát trụ ở Địa đó thì chư Phật mười phương vì họ thuyết giảng về các trí tuệ ba đời, pháp giới, Nhất thiết trí, thế giới, phổ chiếu trụ trì nhất thiết thế, đại Từ đại Bi phổ phú nhất thiết chúng sinh. Nói tóm lại, chư Phật vì họ nói đầy đủ đến đạo Nhất thiết trí.

Này Phật tử! Đó gọi là địa Pháp vân thứ mười của Đại Bồ-tát.

Bồ-tát trụ ở Địa đó thường được làm vua trời Ma-hê-thủ-la, trí tuệ minh đạt, giỏi nói về các Ba-la-mật của Thanh văn, Bích-chiphật, Bồ-tát.

Ở trong pháp tánh, nếu có kẻ vấn nạn thì họ không thể khiến cho cùng tận. Các thiện nghiệp đã làm như Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự đều chẳng lìa niệm Phật, chẳng lìa niệm Pháp…, cho đến chẳng lìa niệm đầy đủ Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát đó thường có ý nghĩ: “Đối với tất cả chúng sinh ta sẽ làm người đứng đầu, làm kẻ thắng hơn…; cho đến đối với tất cả chúng sinh ta làm người nương tựa.” Nếu muốn cần một hành tinh tấn như vậy, thì ở trong một niệm liền được Tam-muội nhiều như số vi trần của vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha chẳng thể nêu bày hết số thế giới…, cho đến thị hiện Bồ-tát nhiều bằng số vi trần như vậy để làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực, thần thông tự tại thì lại hơn cả số đó. Đó là các hạnh, đồ thượng diệu cúng dường, tin hiểu, sinh ra nghiệp, hoặc thân, hoặc miệng, hoặc ánh sáng, hoặc các căn, hoặc như ý túc, hoặc âm thanh, hoặc hành động…, cho đến dù trăm ngàn vạn ức ngần ấy kiếp chẳng thể tính toán kể ra hết được.

Này Phật tử! Bồ-tát Địa thứ mười đó theo thứ lớp tu hành, hướng về Nhất thiết chủng trí. Như từ ao A-nâu-đạt bốn dòng sông chảy tràn đầy bốn thiên hạ, không có cùng tận, rồi mới vào biển lớn.

Bồ-tát cũng như vậy, từ Bồ-tát phát ra nước căn lành đại nguyện, dùng bốn Nhiếp pháp làn tràn đầy chúng sinh mà chẳng cùng tận, rồi mới đến Nhất thiết chủng trí.

Này Phật tử! Bồ-tát Địa thứ mười đó, nhân Phật trí có sai biệt, như nhân đại địa có mười đại sơn vương.

Những gì là mười?

Đó là Tuyết sơn vương, Hương sơn vương, Kha-lê-la sơn vương, Tiên thánh sơn vương, Do-càn-đà sơn vương, Mã nhĩ sơn vương, Nilân-đà-la sơn vương, Chước-ca-la sơn vương, Túc tuệ sơn vương, Tudi sơn vương.

Như Tuyết sơn vương, tất cả dược thảo đều tụ tập trong đó chẳng thể nào cùng tận. Bồ-tát cũng vậy, trụ ở địa Hoan hỷ, tất cả kinh sách, kỹ nghệ, văn tụng, chú thuật trong thế gian…, tụ tập ở trong đó, không có cùng tận.

Như Hương sơn vương, tất cả hương thơm tụ tập trong đó mà chẳng thể cùng tận. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Ly cấu, trì giới, đầu-đà, uy nghi, trợ pháp tu tập ở trong đó không thể nào cùng tận.

Như Kha-lê-la sơn vương, chỉ do báu tạo thành, tụ tập những diệu hoa, lấy chẳng thể hết. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở Minh địa, tụ tập tất cả thiền định, thần thông, giải thoát, Tam-muội của thế gian, hỏi chẳng thể hết.

Như Tiên thánh sơn vương, chỉ do báu tạo thành, có nhiều Thánh nhân đắc năm phép thần thông, chẳng thể cùng tận. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở Diệm địa, tụ tập nhân duyên khiến cho chúng sinh vào đạo, đủ thứ loại vấn nạn chẳng thể cùng tận.

Như Do-càn-đà sơn vương, chỉ do báu tạo thành, tập hợp thần Đại Dạ-xoa chẳng thể cùng tận. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở Nan thắng địa, tập hợp tất cả tự tại như ý thần thông nói không thể hết.

Như Mã nhĩ sơn vương, chỉ do báu tạo thành, tập hợp các quả đẹp lấy chẳng thể hết. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Hiện tiền, tập hợp pháp nhân duyên sâu xa nói về quả Thanh văn chẳng thể cùng tận.

Như Ni-dân-đà-la sơn vương, chỉ do báu tạo thành, tập hợp tất cả Đại lực Long thần chẳng thể cùng tận. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Viễn hành, tập hợp đủ loại phương tiện trí tuệ, nói vì đạo Bíchchi-phật chẳng thể cùng tận.

Như Chước-ca-la sơn vương, chỉ do báu tạo thành, tập hợp người tâm tự tại chẳng thể cùng tận. Bồ-tát cũng vậy, trụ ở địa Bất động, tập hợp tất cả đạo Bồ-tát tự tại, nói về tánh thế gian chẳng thể cùng tận.

Như Túc tuệ sơn vương, chỉ do báu tạo thành, tập hợp các A-tula đại thần lực không có cùng tận. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Thiện tuệ, tập hợp trí chuyển nghiệp cho chúng sinh, nói tướng thế gian chẳng thể cùng tận.

Như Tu-di sơn vương, chỉ do báu tạo thành, tập hợp các Thiên thần không có cùng tận. Bồ-tát cũng như vậy, trụ ở địa Pháp vân, tập hợp mười Lực của Như Lai, bốn sự không sợ, nói về các Phật pháp chẳng thể cùng tận.

Mười núi báu đó, đồng ở tại biển lớn, nhân nước biển lớn mà có tướng khác. Bồ-tát mười địa cũng vậy, đồng ở tại Phật trí, nhân Nhất thiết trí nên có tướng sai biệt.

Này Phật tử! Như biển lớn do mười tướng nên có tên là Đại hải không có thể cạn.

Những gì là mười?

  1. Sâu dần dần.
  2. Chẳng nhận xác chết.
  3. Làm cho các thứ nước khác mất tên cũ.
  4. Một vị.
  5. Nhiều báu.
  6. Rất sâu khó vào.
  7. Rộng lớn không lường.
  8. Nhiều chúng sinh thân lớn.
  9. Thủy triều rất đúng lúc.
  10. Có thể nhận tất cả các mưa lớn, không có đầy tràn.

Các Địa của Bồ-tát cũng như vậy, do mười nhân duyên nên không có thể phá hoại.

Những gì là mười?

  1. Trong Hoan hỷ địa dần dần phát sinh nguyện kiên cố.
  2. Trong Ly cấu địa chẳng cùng với người phá giới sống chung.
  3. Trong Minh địa bỏ các giả danh.
  4. Trong Diệm địa, đối với Đức Phật được một lòng chẳng mất tịnh tín.
  5. Trong Nan thắng địa, sinh ra vô lượng phương tiện thần thông của thế gian, tạo ra việc của thế gian.
  6. Trong Hiện tiền địa, quan sát nhân duyên thậm thâm.
  7. Trong Viễn hành địa, dùng tâm rộng lớn giỏi quan sát các pháp.
  8. Trong Bất động địa có thể khởi lên Đại trang nghiêm để thị hiện.
  9. Trong Thiện tuệ địa có thể được giải thoát thâm sâu, thông đạt hạnh thế gian như thật chẳng mất.
  10. Trong Pháp vân địa có thể nhận tất cả mưa đại pháp minh của chư Phật.

Này Phật tử! Ví như ngọc báu đại ma-ni có mười việc có thể cho chúng sinh tất cả vật báu.

Những gì là mười?

  1. Ra khỏi biển lớn.
  2. Điêu khắc hoàn hảo.
  3. Trở nên trong sáng đẹp.
  4. Chẳng có dơ bẩn.
  5. Dùng lửa tôi luyện.
  6. Trang nghiêm cho các báu.
  7. Xâu bằng sợi tơ báu.
  8. Đặt trên trụ cao lưu ly.
  9. Ánh sáng soi bốn bên.
  10. Theo ý vua, mưa xuống các vật báu.

Báu của Bồ-tát phát tâm Bồ-đề cũng có mười việc. Những gì là mười?

  1. Ban đầu phát tâm bố thí lìa xan tham.
  2. Trì giới tu Đầu-đà khổ hạnh.
  3. Dùng những Thiền định, Giải thoát, Tam-muội khiến cho trở nên tịnh diệu.
  4. Dùng đạo hạnh thanh tịnh.
  5. Tu tập dùng phương tiện thần thông.
  6. Dùng pháp nhân duyên sâu xa trang nghiêm.
  7. Dùng đủ các loại phương tiện trí tuệ sâu xa để xuyên suốt.
  8. Đặt thần thông tự tại lên trên cờ phướn.
  9. Quan sát nghiệp chúng sinh, phóng ra ánh sáng trí tuệ đa văn.
  10. Chư Phật trao cho trí tuệ đối với chúng sinh có thể làm Phật sự theo tâm niệm của Đức Phật.

Này Phật tử! Hành động của Bồ-tát đó tập hợp tất cả trí tuệ công đức các pháp môn. Nếu chẳng gieo trồng sâu căn lành thì chẳng thể được nghe.

Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi:

–Thưa Phật tử! Nếu được nghe thì người đó làm được bao nhiêu phước?

Đáp rằng:

–Tùy theo thế lực trí tuệ của Đức Phật phát tâm Nhất thiết trí như vậy, bao gồm lấy phước đức. Người đó được nghe pháp môn này thì được phước đức cũng như vậy. Vì sao? Vì nếu không có tâm Bồ tát thì nghe pháp môn đó chẳng thể tin hiểu thọ trì. Huống chi là đem thân tu tập để có thể thành tựu việc ấy. Vậy nên phải biết rằng, người đó thuận theo Nhất thiết chủng trí thì được nghe tin hiểu thọ trì tu hành.

Khi Bồ-tát nói phẩm kinh này thì ở những thế giới nhiều như số vi trần của mười ức nước Phật trong mười phương có sáu cách, mười tám tướng chấn động. Do pháp thần lực của Phật như vậy nên chư Thiên mưa xuống hoa, hương bột, chuỗi ngọc, vải báu, cờ phướn, lọng báu, vật trang nghiêm thân, trời mưa xuống tạo thành những âm nhạc ca ngợi.

Lại có âm thanh lớn khen ngợi sự thù thắng của mười Địa. Như ở cung vua trời Tha hóa tự tại trong bốn thiên hạ của thế giới này đang nói về mười Địa thì tất cả thế giới trong mười phương đều cũng như vậy. Do thần lực của Đức Phật nên ở mười phương vượt qua các cõi nhiều như vi trần của mười ức nước Phật, có Bồ-tát nhiều như số vi trần của mười ức nước Phật đi đến thế giới này, đầy khắp hư không. Họ đều nói lên lời này:

–Hay thay, hay thay! Này Kim Cang Tạng! Ngài đã khéo nói lên pháp mười địa của Bồ-tát.

Này Phật tử! Chúng ta đều là Kim Cang Tạng, xuất phát từ thế giới Kim cang đức, chỗ Đức Phật Kim Cang Tràng mà đến đây! Những chỗ mà chúng ta đi qua đều đang nói đến kinh đó. Chúng hội như ở đây, ngôn từ nghĩa lý cũng như vậy. Chúng ta do thần lực của Đức Phật nên đến làm chứng việc đó. Khi ta đến đây thì ở điện báu Ma-ni trên cung vua trời Tha hóa tự tại của tất cả thế giới mười phương đều có Bồ-tát nhiều như số vi trần của mười ức nước Phật, đến để làm chứng cũng như vậy.

Khi ấy, Bồ-tát Kim Cang Tạng quan sát mười phương, quan sát tất cả đại chúng, quan sát pháp giới, khen ngợi tâm Nhất thiết trí ban đầu phát lên, thị hiện cảnh giới Bồ-tát, làm sạch lực hạnh Bồ-tát, bao gồm Nhất thiết chủng trí. Tùy theo chúng sinh mà nói, trừ tất cả cấu uế của thế gian, cho chúng sinh nhân duyên về Nhất thiết chủng trí, thị hiện chẳng thể nghĩ bàn việc trang nghiêm trí tuệ, khen ngợi tất cả tướng sai biệt của công đức Bồ-tát, muốn khiến cho các địa trở nên sáng hơn để bày tỏ cho chúng sinh, nhờ vào thần lực của Đức Phật nên đã nói kệ khen rằng:

Hành động các Bồ-tát
Ưa tịch diệt hoàn toàn
Tâm ấy không chấp trước
Giống như là hư không.
Trừ cấu tham, sân, si
Ở đạo, trí đứng vững
Hạnh vô thượng như vậy
Nguyện ưa muốn lắng nghe.
Những Bồ-tát như thế,
Ở tại kiếp không lường
Lòng siêng thường tu tập
Tất cả các căn lành
Cúng dường Phật, La-hán
Bích-chi-phật không lường
Vì lợi cho chúng sinh
Mới sinh tâm Bồ-đề.
Tinh tấn trì giới hạnh
Đầu-đà trừ sạch tội
Tu nhẫn nhục rất giỏi
Tàm quý đầy uy đức
Vì nhân duyên phước tuệ
Tâm càng trong sáng hơn
Ưa sâu vào trí Phật Sinh
Bồ-đề, như Phật.
Cúng dường cho tất cả
Phật ba đời mười phương
Các cõi như hư không
Đều khiến cho trong sạch
Tất cả pháp bình đẳng
Đều giỏi biết đạt thông
Vì độ những chúng sinh
Nên phát tâm Bồ-đề.
Những Bồ-tát như vậy
Phát sinh tâm không lường
Đến được địa Hoan hỷ
Ưa bố thí, ngăn ác.
Được các lực bản nguyện
Lòng Từ bi rộng thêm
Thân hành mười đường thiện
Đạt thành địa Ly cấu.
Đủ công đức giới, văn
Lòng từ thương thế gian
Mãi lìa các cấu uế
Thâm tâm thường sạch trong,
Xem khắp các thế gian
Lửa ba độc cháy bừng
Bậc Đại sĩ như vậy
Vào địa Minh thứ ba.
Quán ba cõi đều không
Cũng như bệnh, vô thường
Như nhọt, như trúng tên
Khổ cháy luôn không lường,
Lỗi hữu vi nhìn thấy
Ưa thích công đức Phật
Được ánh sáng trí Phật
Vào Địa thứ tư liền.
Thành tựu được niệm tuệ
Đạo trí được đến xong
Ở địa này dâng cúng
Trăm ngàn Đấng Thế Tôn,
Thường hay tư duy niệm
Chư Phật, đức không lường
Được vào địa Nan thắng
Ở tất cả thế gian.
Hay dùng tuệ phương tiện
Thị hiện đủ thứ lên
Những hoạt động hữu vi
Đem lợi cho thế gian,
Cúng dường cho chư Phật
Làm việc ích chúng sinh
Pháp vô sinh hiện hữu
Được vào địa Hiện tiền.
Các hành động Bồ-tát
Thế gian khó biết thông
Thường không có tâm ngã
Đều lìa khỏi có, không,
Các pháp vốn không tịch
Hành theo mười hai duyên
Tỏ rõ vi diệu này
Thì vào địa Viễn hành.
Những phương tiện hành tuệ
Được tướng pháp tịch nhiên
Bậc Đại sĩ như vậy
Khó biết, khó thể bằng,
Vì muốn khiến cõi đời
Được thiện tịch diệt nên
Lại siêng tu các hạnh
Đủ loại phước đức lành,
Vào khắp với chúng sinh
Đủ loại, tâm hành động
Như vậy hay vào được
Địa Bất động như không.
Các Bồ-tát đại trí
Giỏi có thể tu hành
Đủ thứ các trí nghiệp
Mười Lực tự tại thành,
Hay dùng những thân thể
Không có, lường vô biên
Hiện khắp mười phương cõi
Mà nói pháp thiện diệu,
Giỏi đạt đến ba cõi
Và những tánh chúng sinh
Đại Từ bi như vậy
Thì địa Thiện tuệ thành.
Tịnh trí diệu đệ nhất
Giỏi quán các thế gian
Trừ diệt nghiệp phiền não
Các nạn xứ thậm thâm,
Vì vượt những điều đó
Được pháp tạng Thế Tôn
Giỏi nói Đệ nhất nghĩa
Đều không chỗ lỗi lầm,
Hành thứ lớp như vậy
Đầy đủ các pháp lành
Thì đến Địa thứ chín
Tu hành nhiều phước tuệ.
Muốn được các Phật lực
Được lợi từ đệ nhất
Mới được tất cả Phật
Trao chức vị trí liền,
Trước được vô số định
Trí hành rộng mênh mông
Tối hậu được khó hoại
Đạt đến vị Tam-muội.
Nếu hay được như vậy
Tam-muội thêm trí tuệ
Trang nghiêm tất cả báu
Xuất hiện hoa sen lớn,
Bồ-tát xứng hoa sen
Hiện thân ngồi lên trên
Bồ-tát những hoa khác
Đều chung một lần nhìn.
Khi ấy Đại Bồ-tát
Từ thân phóng không lường
Trăm ngàn ức ánh sáng
Diệt các khổ thế gian,
Sau đó trên đỉnh phát
Trăm ngàn ức quang minh
Chiếu khắp mười phương cõi
Hội đại chúng Thế Tôn,
Ở giữa hư không, chúng
Hóa thành lưới quang minh
Cúng dường chư Phật xong
Vào dưới chân Thế Tôn
Thì tất cả Đức Phật
Các Đại sĩ tôn quý
Đều biết Bồ-tát ấy
Được trao trí đức xong.
Như vậy, tất cả Phật
Giữa lông mày phóng quang
Tên: Ích nhất thiết trí
Đỉnh Bồ-tát, vào trong,
Thì vô lượng chư Phật
Liền ban chức Bồ-tát
Như Chuyển luân thánh vương
Trao con ngôi Thái tử,
Thì mười phương thế giới
Đều chấn động vô cùng
Cho đến ngục A-tỳ….
Các khổ đều diệt tan,
Bồ-tát đủ tất cả
Trí tuệ được chức xong
Như vậy gọi là đến
Địa vô thượng Pháp vân.
Trụ ở trong địa đó
Trí tuệ thật vô biên
Giỏi biết khắp tất cả
Các nhân duyên thế gian
Vào pháp Sắc, Vô sắc
Cõi Dục, Sắc, Vô sắc
Có thể biết chúng sinh
Đất nước và pháp tánh.
Lại có thể vào trong
Pháp tánh không tính được
Cho đến hay xét xem
Tánh hư không vô lượng,
Địa này lại biết thông
Việc Bồ-tát biến hóa
Chư Phật sức uy thần
Trí vi tế, việc nhỏ.
Lại có thể đạt thông
Tất cả các kiếp số
Ở trong một vi trần
Nhìn thấy các thế giới,
Tất cả các Thế Tôn
Ở Địa vô thượng ấy
Sinh ra, đi xuất gia
Đắc đạo, Chuyển pháp luân,
Thị hiện vào Niết-bàn
Đều tùy thuận với trí
Diệu giải thoát tịch nhiên
Đều được ở Địa ấy.
Các Đại sĩ, địa ấy
Sực nhớ nghĩ lớn thêm
Mưa đại pháp chư Phật
Đều thọ trì đầy đủ,
Ví như nước biển cả
Giữ hết mưa Long vương
Pháp chư Phật quảng đại
Bồ-tát nhận cũng vậy.
Ở một chỗ Thế Tôn
Một lúc nghe nhận pháp
Chúng sinh như vi trần
Mười phương vô lượng cõi,
Đều tổng trì đa văn
Thành tựu Thanh văn thừa
Bồ-tát chẳng như trên
Tính toán chẳng bì kịp,
Do trí tuệ không lường
Và đại nguyện lực trước
Có thể trong một niệm
Đầy khắp vô lượng cõi,
Mưa pháp vũ ngọt lành
Diệt các lửa phiền não
Vậy nên, các Thế Tôn
Tên là Pháp vân địa.
Địa này, Đại sĩ trụ
Đồ cúng dường Thế Tôn
Hơn vật của chư Thiên
Đại thần lực bày khắp,
Hiện các học chuyển thắng
Hơn số đó, không lường
Nếu người muốn nghĩ ngợi
Mê muội chẳng thông hiểu.
Đại trí trụ địa ấy
Việc nhấc chân, hạ chân
Tất cả các Bồ-tát
Đến cả Địa thứ chín,
Đều chẳng thể biết được
Huống chi là chúng sinh
Ba đời các Thanh văn
Và cùng Bích-chi-phật,
Trụ đây, Phật bày lên
Tất cả việc trí tuệ
Cũng khiến cho đạt thông
Ba đời trí Vô ngại.
Bày pháp tánh tịch nhiên
Cũng đủ loại biến hóa
Tất cả loài chúng sinh
Ở trong các thế giới,
Tất cả pháp tu hành
Việc thậm thâm sâu xa
Các công đức Thế Tôn
Thứ lớp bày cho biết.
Bồ-tát trụ Địa trên
Hay dùng đồ cúng lớn
Cúng dường Phật mười phương
Khắp tất cả thế giới,
Tất cả những thế gian
Loài chúng sinh trong đó
Gom hết đồ cúng dường
Đều chẳng thể bì kịp.
Người trí trụ Địa trên
Có thể phá tất cả
Những tối tăm vô minh
Mở bày ra Phật đạo
Như Tự tại Thiên vương
Ánh sáng diệt não nhiệt
Trí Phật tử quang minh
Diệt ác cũng như vậy.
Trụ Địa đó thường làm
Vua Tự tại ba cõi
Các trí tuệ đạt thông
Dùng ba thừa giáo hóa,
Trong một niệm có thể
Được Tam-muội không lường
Thấy hết mười phương Phật
Số ấy cũng không lường.
Bồ-tát Kim Cang Tạng
Bảo các Đại sĩ rằng:
Ta nay lược giải nói
Diệu hạnh mười Địa trên,
Nếu diễn nói rộng rãi
Ngàn ức kiếp chẳng cùng
Đó là tên các Địa
Của Bồ-tát sạch trong.
Vì đã được Phật trí
Nên trụ yên mười Địa
Trong ấy chẳng di động
Giống như Đại sơn vương.
Địa một đủ tất cả:
Các kỹ thuật, sách kinh
Giống như trong núi Tuyết
Các thảo dược mọc đầy.
Trì giới và Đa văn
Ở tại trong Địa hai
Giống như Hương sơn vương
Tập hợp mọi chất thơm.
Như Kha-lê-la sơn
Chứa nhiều những hoa báu
Minh địa gom trí văn
Thiền định cũng như vậy.
Diệm địa tích tụ thêm
Pháp vào đạo chẳng hoại
Như trong Tiên thánh sơn
Đi, dừng giỏi tịch tĩnh.
Địa năm các thần thông
Không thể ai bì kịp
Như Do-càn-đà sơn
Gom nhiều Dạ-xoa chúng.
Địa sáu khéo phân biệt
Các quả không cùng tận
Giống như Mã-nhĩ sơn
Có vô lượng diệu quả.
Địa bảy phương tiện tuệ
Không ai có thể bằng
Như Ni-dân-đà sơn
Có đầy những vua Rồng.
Trụ ở trong Địa tám
Trí tự tại không lường
Như Chước-ca-la sơn
Nhiều người tâm tự tại.
Địa chín lòng sạch trong
Nói pháp không chướng ngại
Giống như Túc tuệ sơn
Chỗ A-tu-la ở.
Địa mười lực Thế Tôn
Công đức không cùng tận
Như Tu-di sơn vương
Gom tất cả Thiên chúng
Địa một lại ở trong
Phát khởi đại nguyện rộng
Địa hai trì giới luôn
Địa ba giả danh hoại
Địa thứ tư tinh chuyên
Địa năm mọi việc hay
Địa sáu tướng thậm thâm
Địa bảy lòng quảng đại
Trong Địa tám đủ loại
Trang nghiêm các thần thông
Địa chín trí nghĩ đẹp
Hơn tất cả thế gian
Địa mười hay thọ trì
Mưa đại pháp Thế Tôn
Biển lớn hạnh Bồ-tát
Khó động, chẳng thể cùng.
Phát tâm xuất thế gian
Thì được vào Địa một
Trì giới trụ Địa hai
Địa ba tu các thiền
Địa bốn đạo hạnh tịnh
Năm, rèn phương tiện tuệ
Sáu trang nghiêm nhân duyên
Bảy phương tiện tuệ sâu
Tám, đến cờ lưu ly
Địa chín quán tất cả
Chỗ hiểm nạn chúng sinh
Ánh sáng trí soi khắp
Địa mười thọ chức trí
Như ngọc theo ý vua
Như vậy thứ lớp tịnh
Bồ-đề tâm-báu quý,
Mười phương các thế giới
Số nhiều như bụi trần
Có thể trong một niệm
Tính biết nhiều, ít liền
Có thể dùng chút xíu
Tính biết cả hư không
Đại công đức của Phật
Vô lượng chẳng thể cùng.