KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Căn cứ vào bản dịch của Tam tạng Pháp sư Đàm Vô Sấm, đời Tống
Sa-môn Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán và Cư sĩ Tạ Linh Vận sửa lại
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 20: PHẠM HẠNH

(Từ Quyền 14 đến cuối Quyển 18)

Này thiện nam! Sao gọi là Phạm hạnh của Đại Bồ-tát? Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ ở Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa, trụ ở bảy pháp thiện thì được đầy đủ phạm hạnh. Những gì là bảy? Một là biết pháp, hai là biết nghĩa, ba là biết thời, bốn là biết đủ, năm là tự biết, sáu là biết mọi người, bảy là biết tôn ti.

Này thiện nam! Sao gọi là Đại Bồ-tát biết pháp? Này thiện nam! Đại Bồ-tát này biết mười hai bộ loại kinh điển là: Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Thọ Ký, Da-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-ba-đà-na, Y-đế-mục-đà-na, Xà-đà-già, Tỳ-phật-lược, A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá.

Này thiện nam! Những gì gọi là kinh Tu-đa-la? Từ “Tôi nghe như vầy” cho đến “Hoan hỷ phụng hành”, tất cả như vậy gọi là kinh Tu-đala.

Những gì gọi là kinh Kỳ-dạ? Đức Phật bảo các vị Tỳ-kheo: “Xưa Ta cùng các ông ngu si không trí tuệ, chẳng thể thấy bốn chân đế như thật. Vậy nên lưu chuyển lâu dài trong sinh tử, chìm đắm trong biển đại khổ. Những gì là Bốn chân đế? Khổ, tập, diệt, đạo. Như Phật ngày xưa vì các Tỳ-kheo nói khế kinh xong rồi. Bấy giờ lại có chúng sinh lợi căn, vì nghe pháp nên về sau đến chỗ

Phật hỏi: “Như Lai vừa rồi nói việc gì?”. Phật biết rồi liền nhân vào nội dung kinh cũ mà dùng kệ tụng:

Ta xưa cùng các ông
Chẳng thấy bốn chân đế
Nên mãi chuyển vần trong
Bể khổ lớn sinh tử.
Nếu thấy bốn chân đế
Thì được đoạn sinh tử
Sinh tử đã hết rồi
Lại chẳng thọ các hữu.

Đó gọi là kinh Kỳ-dạ.

Sao gọi là kinh Thọ Ký? Như có kinh luật, khi Như Lai nói mà vì những hàng trời, người thọ ký làm Phật: “Này A-dật-đa! Đời vị lai có vị vua tên là Nhương Khư sẽ ở đời đó mà thành đạo Phật hiệu là Dilặc”. Đó gọi là kinh Thọ Ký.

Sao gọi là kinh Già-đà? Trừ Tu-đa-la và các giới luật, ngoài ra còn có nói kệ bốn câu, như là:

Chớ làm điều ác
Làm các việc lành
Giữ tâm trong sạch
Là chư Phật dạy.

Đó gọi là kinh Già-đà.

Sao gọi là kinh Ưu-đà-na? Như Phật sau giờ ngọ vào thiền định, vì các thiên chúng rộng nói pháp chính yếu. Khi ấy, các Tỳ-kheo đều nghĩ thế này: “Đức Như Lai hôm nay làm việc gì đây?”. Sáng sớm Đức Như Lai ra khỏi thiền định, không có người hỏi, dùng tha tâm trí, liền tự nói: “Này Tỳ-kheo! Các ông phải biết, tất cả chư Thiên thọ mạng rất dài. Này các Tỳ-kheo! Hay thay! Các ông vì người khác chẳng cầu lợi cho mình. Hay thay thiểu dục! Hay thay tri túc! Hay thay tịch tĩnh!”. Các kinh không ai hỏi mà Đức Phật tự nói như vậy thì đó gọi là kinh Ưu-đà-na.
Sao gọi là kinh Ni-đà-na? Như những kinh kệ mà nguyên nhân căn bản là Phật vì người khác diễn nói. Như ở nước Xá-vệ có một người đàn ông giăng lưới bắt chim, bắt được nhốt vào lồng, rồi tùy loài mà cho uống nước, lúa ăn v.v… rồi lại thả ra. Thế Tôn biết gốc ngọn nhân duyên ấy mà nói kệ:

Chớ khinh ác nhỏ
Là không tai ương
Giọt nước tuy nhỏ
Dần đầy lu lớn.

Đó gọi là kinh Ni-đà-na.

Sao gọi là kinh A-ba-đà-na? Như lời nói ví dụ trong giới luật thì đó là kinh A-ba-đà-na.

Sao gọi là kinh Y-đế-mục-đà-na? Như lời Đức Phật nói, các Tỳkheo nên biết, khi Ta ra đời thì lời nói của Ta gọi là khế kinh. Khi Đức Phật Cưu-lưu-tôn ra đời thì gọi là cam lồ cổ. Khi Đức Phật Câu-nahàm-mâu-ni ra đời thì gọi là pháp cảnh. Khi Đức Phật Ca-diếp ra đời thì gọi là phân biệt không. Đó gọi là kinh Y-đế-mục-đà-na.

Sao gọi là kinh Xà-đà-già? Như Phật Thế Tôn, xưa làm Bồ-tát tu những hạnh khổ. Phật gọi: “Này Tỳ-kheo! Các ông nên biết, Ta ở đời quá khứ làm hươu, làm gấu, làm nai, làm thỏ, làm vua nước nhỏ, Chuyển luân Thánh vương, rồng, chim cánh vàng v.v… Khi hành đạo Bồ-tát, Ta đã có thể thọ thân hành những hạnh như vậy”. Đó gọi là kinh Xà-đà-già.

Sao gọi là kinh Tỳ-phật-lược? Đó là kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Nghĩa kinh ấy rộng lớn giống như hư không. Đó gọi là kinh Tỳphật-lược.

Sao gọi là kinh Vị Tằng Hữu? Như khi Bồ-tát mới sinh ra, không có người phò trì, liền đi bảy bước, phóng ra ánh sáng lớn soi khắp mười phương. Cũng như việc con khỉ, tay bưng lọ đựng mật, dâng lên Như Lai. Cũng như chó cổ trắng ở bên Phật nghe pháp. Như ma Ba-tuần biến làm con trâu xanh đi vào chỗ bát sành, khiến cho những bát sành va chạm lẫn nhau mà không bị thương tổn. Như khi Phật mới sinh vào miếu thờ trời, khiến cho tượng trời kia đứng dậy, xuống làm lễ cung kính. Những kinh như vậy gọi là kinh Vị Tằng Hữu.

Sao gọi là kinh Ưu-ba-đề-xá? Theo các kinh mà Phật Thế Tôn đã nói, nếu tạo tác nghị luận, phân biệt, biện nói rộng rãi tướng mạo thì gọi là kinh Ưu-ba-đề-xá. Nếu Bồ-tát có thể rõ biết mười hai bộ loại kinh điển như vậy thì gọi là biết pháp.

Sao gọi là Đại Bồ-tát biết nghĩa? Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả văn tự, ngôn ngữ mà hiểu biết rộng rãi ý nghĩa của chúng thì đó gọi là biết nghĩa.

Sao gọi là Đại Bồ-tát biết thời? Này thiện nam! Bồ-tát giỏi biết trong lúc như vậy là có thể tu tịch tĩnh, trong lúc như vậy là có thể tu tinh tấn, trong lúc như vậy là có thể tu xả định, trong lúc như vậy là có thể cúng dường Phật, trong lúc như vậy là có thể cúng dường thầy, trong lúc như vậy là có thể tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, đầy đủ Bát nhã Ba-la-mật. Đó gọi là biết thời.

Thế nào gọi là Đại Bồ-tát biết đủ? Này thiện nam! Đại Bồ-tát biết đủ là biết đủ về ăn uống, thuốc men, đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, nói năng, lặng thinh v.v… Đó gọi là biết đủ.

Này thiện nam! Sao gọi là Đại Bồ-tát tự biết? Bồ-tát này tự biết ta có niềm tin như vậy, giới cấm như vậy, đa văn như vậy, xả như vậy, tuệ như vậy, đi, lại như vậy, chánh niệm như vậy, thiện hạnh như vậy, hỏi như vậy, đáp như vậy v.v… Đó gọi là tự biết.

Sao gọi là Đại Bồ-tát biết chúng? Này thiện nam! Bồ-tát đó biết những chúng Sát-lợi, chúng Bà-la-môn, chúng Cư sĩ, chúng Sa-môn, họ đi, lại như vậy, ngồi, đứng dậy như vậy, nói pháp như vậy, hỏi, đáp như vậy. Đó gọi là biết chúng.

Này thiện nam! Sao gọi là Đại Bồ-tát biết tôn ti của người? Người có hai hạng, một là tín, hai là bất tín. Bồ-tát phải biết người tín là thiện, người bất tín là bất thiện. Lại nữa, tín có hai hạng: một là thường đến tăng viện, hai là chẳng đến. Bồ-tát nên biết, người thường đến tăng viện gọi là thiện, người chẳng đến tăng viện thì gọi là bất thiện. Người đến tăng viện lại có hai hạng: một là lễ bái, hai là chẳng lễ bái. Bồ-tát nên biết, người lễ bái gọi là thiện, người chẳng lễ bái thì gọi là bất thiện. Người lễ bái ấy lại có hai hạng: một là nghe pháp, hai là chẳng nghe pháp. Bồ-tát nên biết, người nghe pháp là thiện, người chẳng nghe pháp gọi là bất thiện. Người nghe pháp ấy lại có hai hạng: một là chí tâm nghe, hai là chẳng chí tâm nghe. Bồ-tát nên biết, người chí tâm nghe gọi là thiện, người chẳng chí tâm nghe gọi là bất thiện. Chí tâm nghe pháp lại có hai hạng: một là tư duy về nghĩa, hai là chẳng tư duy về nghĩa. Bồ-tát nên biết, người suy nghĩ về nghĩa gọi là thiện, người chẳng suy nghĩ về nghĩa gọi là bất thiện. Người suy nghĩ về nghĩa lại có hai hạng, một là theo như lời nói tu hành, hai là chẳng theo như lời nói tu hành. Người theo như lời nói tu hành gọi là thiện, người chẳng theo như lời nói tu hành gọi là bất thiện. Người theo như lời nói tu hành lại có hai hạng: một là cầu Thanh văn, chẳng thể đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh khổ não; hai là hồi hướng về Đại thừa vô thượng đem lợi ích cho nhiều người, khiến cho họ được an lạc. Bồ-tát nên biết, người có thể tạo lợi ích cho nhiều người khiến cho họ được an lạc thì tối thượng, tối thiện. Này thiện nam! Như trong các báu thì ngọc báu Như ý rất là thắng diệu, như trong các vị thì vị cam lồ là tối thượng. Như vậy Bồ-tát ở trong loài người, trời là tối thắng, tối thượng, chẳng thể ví dụ. Này thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát trụ ở kinh Đại Niết-bàn Đại Thừa, trụ bảy pháp thiện. Nếu Bồ-tát trụ ở bảy pháp thiện này rồi thì được đầy đủ phạm hạnh.

Lại nữa, này thiện nam! Lại có phạm hạnh gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu tu nhiều Từ có thể đoạn sân hận, tu tâm Bi thì cũng đoạn sân hận, thì sao nói bốn tâm vô lượng? Suy theo nghĩa mà nói thì lẽ ra có ba thôi. Thưa Thế Tôn! Từ có ba duyên, một là duyên chúng sinh, hai là duyên pháp, ba là duyên vô. Tâm Bi, Hỷ, Xả cũng như vậy. Nếu theo nghĩa này thì lẽ ra chỉ có ba, chẳng nên nói bốn. Duyên chúng sinh là duyên với năm ấm, nguyện ban cho họ niềm vui. Đó gọi là duyên chúng sinh. Duyên pháp là duyên với vật cần dùng của các chúng sinh để rồi ban cho họ. Đó gọi là duyên pháp. Duyên vô là duyên với Như Lai. Đó gọi là duyên vô. Từ là duyên nhiều với chúng sinh bần cùng mà Đại sư Như Lai vĩnh viễn lìa khỏi bần cùng, hưởng thụ đệ nhất lạc. Vậy nếu duyên chúng sinh thì chẳng duyên Phật, Pháp cũng như vậy. Do nghĩa này nên duyên Như Lai thì gọi là duyên vô. Thưa Thế Tôn! Đối tượng duyên của Từ là tất cả chúng sinh, như duyên với cha mẹ, vợ con, thân thuộc. Do nghĩa này nên gọi là duyên chúng sinh. Duyên pháp là chẳng thấy cha mẹ, vợ con, thân thuộc, chỉ thấy tất cả pháp đều từ duyên sinh. Đó gọi là duyên pháp. Duyên vô là chẳng trụ ở tướng pháp và tướng chúng sinh. Vậy nên gọi là duyên vô. Tâm Bi, Hỷ, Xả cũng như vậy. Vậy nên có ba chẳng nên có bốn. Bạch Thế Tôn! Người có hai hạng: một là kiến hạnh, hai là ái hạnh. Người kiến hạnh tu nhiều Từ, Bi. Người ái hạnh tu nhiều Hỷ, Xả. Vậy nên có có hai chẳng nên có bốn. Thưa Thế Tôn! Phàm vô lượng thì gọi là vô biên. Biên chẳng thể nắm bắt được nên gọi là vô lượng. Nếu vô lượng thì nên là một chẳng nên nói bốn. Nếu nói là bốn thì làm sao được vô lượng. Do đó nên là một, chẳng nên nói là bốn.

Đức Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp:

–Này thiện nam! Chư Phật Như Lai vì những chúng sinh đã tuyên nói pháp chính yếu. Pháp ấy bí mật, khó có thể biết rõ. Hoặc vì chúng sinh nói một nhân duyên. Như nói: Những gì là một nhân duyên? Đó là nói tất cả pháp hữu vi. Này thiện nam! Hoặc nói hai thứ, nhân và quả; hoặc nói ba thứ là phiền não, nghiệp và khổ; hoặc nói bốn thứ là vô minh, các hành, sinh và lão tử; hoặc nói năm thứ là thọ, ái, thủ, hữu và sinh; hoặc nói sáu thứ là nhân quả ba đời; hoặc nói bảy thứ là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái và thủ; hoặc nói tám thứ là mười hai nhân duyên trừ đi vô minh, hành, sinh, lão tử, còn lại là tám pháp; hoặc nói chín thứ như trong Kinh Thành nói: Trừ vô minh, hành, thức, còn lại chín pháp; hoặc nói mười một thứ như trong kinh Tát-già-ni-kiền-tử nói trừ một pháp sinh, còn lại mười một pháp; hoặc có khi nói đủ mười hai nhân duyên, như ở thành Vương-xá, Phật vì Ca-diếp v.v… nói đủ mười hai nhân duyên, từ vô minh cho đến sinh, già, bệnh, chết. Này thiện nam! Như một nhân duyên, nhưng vì chúng sinh nên chư Phật phân biệt đủ thứ. Pháp môn vô lượng cũng như vậy. Này thiện nam! Do nghĩa này nên đối với những hành xứ bí mật thâm sâu của Như Lai chẳng nên sinh ra nghi hoặc. Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn có phương tiện lớn: Vô thường nói thường, thường nói vô thường; nói vui là khổ, nói khổ là vui; bất tịnh nói tịnh, tịnh nói bất tịnh; ngã nói vô ngã, vô ngã nói ngã; chẳng phải chúng sinh nói là chúng sinh, chúng sinh thật thì nói chẳng phải chúng sinh; chẳng phải vật nói là vật, vật nói là chẳng phải vật; chẳng phải thật nói là thật, thật nói là chẳng phải thật; chẳng phải cảnh nói là cảnh, cảnh nói là chẳng phải cảnh; chẳng phải sinh nói là sinh, sinh nói là chẳng phải sinh cho đến vô minh nói là minh, minh nói là vô minh; sắc nói là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc nói là sắc; chẳng phải đạo nói là đạo, đạo nói là chẳng phải đạo. Này thiện nam! Như Lai dùng vô lượng phương tiện như vậy, vì điều phục chúng sinh thì đâu phải là hư dối. Này thiện nam! Hoặc có chúng sinh tham của cải thì đối với người ấy ta tự hóa thân mình làm vua Chuyển luân ở trong vô lượng năm, tùy theo sự cần dùng của người ấy mà cung cấp đủ thứ. Rồi sau đó Ta mới giáo hóa khiến cho người ấy an trụ vào Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có chúng sinh tham đắm năm dục thì ở trong vô lượng năm, Ta dùng năm dục vi diệu thỏa mãn lòng mong muốn của người ấy. Rồi sau đó Ta mới khuyến hóa khiến cho người ấy an trụ ở Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có chúng sinh vinh hiển giàu sang thì Ta đối với người ấy ở trong vô lượng năm, nguyện làm người giúp việc, chạy theo cung cấp hầu hạ. Được lòng người ấy rồi, Ta liền khuyến hóa khiến cho người ấy an trụ ở Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có chúng sinh tánh tình ngang ngược tự cho là phải cần có người quở trách, can gián thì Ta ở trong vô lượng trăm ngàn năm, dạy bảo, quở trách, can ngăn, dụ dỗ khiến cho lòng người ấy điều phục. Rồi sau đó Ta mới khuyên bảo khiến cho người ấy an trụ ở Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Như Lai ở trong vô lượng năm dùng đủ thứ phương tiện như vậy khiến cho các chúng sinh an trụ ở Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đâu phải là hư dối. Chư Phật Như Lai tuy ở trong các ác nhưng không bị nhiễm ô, giống như hoa sen. Này thiện nam! Ông nên biết ý nghĩa bốn tâm vô lượng như vậy. Này thiện nam! Thể tánh của tâm vô lượng này có bốn, nếu có người tu hành thì sinh cõi Đại Phạm.

Này thiện nam! Như vậy phụ thuộc vô lượng có bốn. Vậy nên gọi là bốn. Phàm tu Từ thì có thể đoạn tham dục, tu tâm Bi thì có thể đoạn sân hận, tu tâm Hỷ thì có thể đoạn sự chẳng vui, tu tâm Xả thì có thể đoạn tham dục, sân hận của chúng sinh. Này thiện nam! Do nghĩa này nên được gọi là bốn, chẳng phải là một, hai, ba. Này thiện nam! Như lời ông nói, Từ có thể đoạn được sân hận thì lẽ ra nên nói là ba, nay ông chẳng nên nan vấn như vậy. Vì sao? Này thiện nam! Sân hận có hai thứ, một là đoạt mạng sống, hai là đánh đập. Tu Từ thì có thể dứt được sự đoạt mạng sống. Tu Bi thì có thể trừ sự đánh đập. Này thiện nam! Do nghĩa này nên lẽ nào chẳng phải là bốn sao? Lại nữa, sân có hai thứ, một là sân với chúng sinh, hai là sân với chẳng phải chúng sinh. Tu tâm Từ thì đoạn sân với chúng sinh, tu tâm Bi thì đoạn sân với chẳng phải chúng sinh. Lại nữa, sân có hai thứ, một là có nhân duyên, hai là không nhân duyên. Tu tâm Từ thì đoạn sân có nhân duyên, tu tâm Bi thì đoạn sân không nhân duyên. Lại nữa, sân có hai thứ, một là huân tập lâu ở đời quá khứ, hai là huân tập ở đời hiện tại. Tu tâm Từ thì có thể đoạn sân ở quá khứ, tu tâm Bi thì đoạn sân ở hiện tại. Lại nữa, sân có hai thứ, một là sân thánh nhân, hai là sân phàm phu. Tu tâm Từ thì đoạn sân thánh nhân, tu tâm Bi thì đoạn sân phàm phu. Lại nữa, sân có hai thứ, một là thượng, hai là trung. Tu tâm Từ thì đoạn sân bậc thượng, tu tâm Bi thì đoạn sân bậc trung. Này thiện nam! Do nghĩa này nên gọi là bốn, vậy thì sao đặt nạn vấn nên là ba chẳng phải là bốn? Vậy nên, này Ca-diếp! Tâm vô lượng này do tùy thuộc đối đãi nên phân biệt làm bốn. Lại do căn khí nên gọi là bốn. Căn khí nếu có Từ thì chẳng được có tâm Bi, Hỷ, Xả. Do nghĩa này nên có đủ bốn, không giảm. Này thiện nam! Do hành phân biệt nên có bốn. Nếu khi hành Từ thì không Bi, Hỷ, Xả. Vậy nên có bốn. Này thiện nam! Do vô lượng nên cũng được gọi là bốn. Nói vô lượng thì có bốn thứ là có tâm vô lượng có duyên chẳng phải tự tại, có tâm vô lượng tự tại chẳng phải duyên, có tâm vô lượng cũng duyên cũng tự tại, có tâm vô lượng chẳng phải duyên chẳng phải tự tại. Thế nào là vô lượng có duyên chẳng phải tự tại? Duyên với vô lượng vô biên chúng sinh mà chẳng thể được Tam-muội Tự tại. Tuy được nhưng bất định hoặc được hoặc mất. Thế nào là vô lượng tự tại chẳng phải duyên? Như duyên với cha mẹ, anh em, chị em mà muốn khiến cho họ an lạc thì chẳng phải vô lượng duyên. Thế nào là vô lượng cũng duyên cũng tự tại? Đó là chư Phật Bồ-tát. Thế nào là vô lượng chẳng phải duyên chẳng phải tự tại? Hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể duyên rộng rãi với vô lượng chúng sinh, cũng chẳng phải tự tại. Này thiện nam! Do nghĩa này nên gọi là bốn vô lượng. Đây là cảnh giới của các Đức Phật Như Lai, chẳng phải là điều hiểu biết của hàng Thanh văn, Duyên giác. Này thiện nam! Bốn việc như vậy, Thanh văn, Duyên giác tuy gọi là vô lượng nhưng ít chẳng đáng kể. Các Đức Phật Bồ-tát mới được gọi là vô lượng vô biên.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Đúng vậy! Thật đúng như lời dạy của đức Thánh. Cảnh giới của các Đức Phật Như Lai chẳng phải là chỗ mà Thanh văn, Duyên giác bì kịp. Thưa Thế Tôn! Có phải có Bồ-tát trụ ở Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa được tâm từ bi mà chẳng phải là tâm đại từ, đại bi chăng?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Có Bồ-tát đối với những chúng sinh phân biệt ba phẩm: một là người thân, hai là oán ghét, ba là người bậc giữa. Đối với người thân lại chia làm ba bậc là thượng, trung, hạ; đối với oán ghét cũng vậy. Đại Bồ-tát này đối với người thân bậc thượng thì ban cho niềm vui bậc nhất, đối với bậc trung, hạ thì cũng bình đẳng ban cho niềm vui bậc nhất. Đối với người oán bậc thượng thì cho ít phần vui, đối với người oán bậc trung thì ban cho niềm vui bậc trung, đối với người oán bậc hạ thì ban niềm vui bậc nhất. Bồ-tát tu tập tăng thêm như vậy, đối với người oán bậc thượng thì ban cho niềm vui bậc trung; đối với kẻ oán ghét bậc trung và bậc hạ đều ban cho niềm vui bậc nhất, tu tập thêm nữa, đối với kẻ oán ghét bậc thượng, trung, hạ bình đẳng ban cho cho niềm vui bậc thượng. Nếu đối với người oán bậc thượng mà cho niềm vui bậc nhất thì bấy giờ được gọi là tâm Từ thành tựu. Bấy giờ, Bồ-tát đối với cha mẹ và người oán bậc thượng được tâm bình đẳng, không có sai biệt. Này thiện nam! Đó gọi là được Từ chẳng phải đại Từ.

–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì Bồ-tát được từ như vậy mà còn chẳng được gọi là Đại Từ?

–Này thiện nam! Do khó thành nên chẳng gọi là Đại Từ. Vì sao? Vì lâu rồi, ở trong vô lượng kiếp đời quá khứ đã gom nhiều phiền não, chưa tu tập pháp thiện. Vậy nên chẳng thể ở trong một ngày mà điều phục được tâm ấy. Này thiện nam! Ví như khi hạt đậu khô thì dùi đâm nhất định chẳng thể được. Phiền não cứng chắc cũng như vậy, tuy trọn ngày đêm buộc tâm chẳng tán loạn, nhưng khó có thể điều phục. Lại như chó nhà chẳng sợ người, nai hoang ở núi rừng thấy người sợ chạy. Sân hận khó đuổi như chó giữ nhà, tâm Từ dễ mất như loài nai hoang. Vậy nên tâm này khó có thể điều phục. Do nghĩa này nên chẳng gọi là Đại Từ. Lại nữa, này thiện nam! Ví như vẽ lên đá thì hoa văn thường còn, vẽ lên nước thì mau diệt mất, chẳng trụ lâu. Sân như vẽ trên đá, các căn bản thiện như vẽ vào nước. Vậy nên tâm này khó điều phục được. Như đám lửa lớn thì ánh sáng ấy lâu tàn, ánh sáng của ánh chớp thì thoáng chốc. Sân như đám lửa, Từ như ánh chớp. Vậy nên tâm này khó điều phục được. Do nghĩa này nên chẳng gọi là Đại Từ. Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ ở sơ địa gọi là Đại Từ. Vì sao? Này thiện nam! Người tối cực ác là Nhất-xiển-đề. Khi Bồ-tát mới trụ sơ địa tu Đại Từ thì đối với Nhất-xiển-đề tâm không phân biệt, chẳng thấy lỗi của họ nên chẳng sinh ra sân. Do nghĩa này nên được gọi là Đại Từ. Này thiện nam! Vì các chúng sinh mà trừ bỏ không lợi ích thì gọi là Đại Từ. Muốn ban cho chúng sinh vô lượng lợi lạc thì gọi là Đại Bi. Đối với chúng sinh, tâm sinh hoan hỷ thì gọi là Đại Hỷ. Không thấy có sự hộ trì thì gọi là Đại Xả. Nếu chẳng thấy tướng ngã, pháp và thân mình mà thấy tất cả pháp bình đẳng không hai thì gọi là Đại Xả. Tự bỏ niềm vui của mình, ban cho người khác thì gọi là Đại Xả. Này thiện nam! Chỉ có bốn tâm vô lượng có thể khiến cho Bồ-tát tăng trưởng đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, còn các hạnh khác nhất định chẳng thể làm được. Này thiện nam! Đại Bồ-tát trước được bốn tâm vô lượng của thế gian, rồi sau đó mới phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, theo thứ lớp mới được ra khỏi thế gian. Này thiện nam! Nhân vô lượng của thế gian mà được vô lượng của xuất thế gian. Do nghĩa này nên gọi là đại vô lượng.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trừ bỏ sự không lợi ích, ban cho lợi lạc thì thật ra không có tác dụng gì. Suy nghĩ như vậy tức là quan sát rỗng không, không có thật lợi ích. Thưa Thế Tôn! Ví như khi Tỳ-kheo quán bất tịnh thấy áo mình mặc đều là tướng da mà thật chẳng phải da, cái có thể ăn uống đều thành ra tướng trùng mà thật chẳng phải là trùng, quán bát canh đậu khởi tưởng nước bẩn mà thật chẳng phải bẩn, quán món ăn sữa đặc giống như não tủy mà thật chẳng phải não tủy, quán xương nát vụn giống như bột gạo mà thật chẳng phải bột gạo. Bốn tâm vô lượng cũng như vậy, chẳng thể chân thật lợi ích chúng sinh, khiến cho họ được vui. Tuy miệng nói rằng, cho chúng sinh niềm vui nhưng thật ra chẳng được. Quán như vậy chẳng phải là hư vọng sao? Thưa Thế Tôn! Nếu chẳng phải hư vọng mà thật sự ban cho niềm vui thì những chúng sinh kia vì sao chẳng do sức uy đức của chư Phật, Bồ-tát mà được hưởng an vui? Nếu quả thật chẳng được vui thì như lời Đức Phật dạy: Ta nhớ thuở xưa, chỉ tu tâm Từ, trải qua bảy lần thành, hoại của kiếp này, Ta chẳng sinh đến đây. Khi thế giới thành thì sinh trong cõi trời Phạm. Khi thế giới hoại thì sinh lên cõi trời Quang Âm. Khi sinh lên cõi trời Phạm thì thế lực tự tại không ai có thể hàng phục, ở trong hàng ngàn vị Phạm thiên Ta là bậc tối thắng tối thượng, gọi là vua trời Đại Phạm. Có những chúng sinh đối với Ta tưởng là bậc tối thượng. Ta có ba mươi sáu lần làm Thích-đề-hoàn-nhân, vua cõi trời Đao-lợi, có vô lượng trăm ngàn lần làm vua Chuyển luân. Ta chỉ tu tâm Từ mà được quả báo của hàng trời, người như vậy. Nếu chẳng thật thì sao được cùng nghĩa này tương ứng!

Đức Phật dạy:

–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Ông quả thật dũng mãnh không gì kinh sợ!

Đức Phật vì Bồ-tát Ca-diếp mà nói kệ:

Đối với một chúng sinh
Chẳng sinh lòng sân hận
Nguyện cho họ an vui
Đó gọi là tâm Từ.
Đối tất cả chúng sinh
Nếu khởi lên tâm Bi
Gọi là chủng tánh thánh
Được phước báo không lường.
Giả sử tiên ngũ thông
Đều đầy đủ đại địa
Có chúa Đại Tự Tại
Cung cấp đủ vật dụng
Voi, ngựa đủ các vật
Quả phước báo đạt được
Chẳng bằng phần mười sáu
Của việc tu tâm Từ.

Này thiện nam! Phàm người tu Từ chân thật chẳng phải vọng tưởng thì chắc chắn là chân thật. Nếu lòng Từ của Thanh văn, Duyên giác thì đó gọi là hư vọng. Tâm Từ của chư Phật, Bồ-tát thì chân thật không hư vọng. Vì sao biết được chẳng hư vọng? Này thiện nam! Đại Bồ-tát tu hành Đại Niết-bàn như vậy thì quán đất là vàng, quán vàng là đất, đất trở thành tướng nước, nước trở thành tướng đất, nước trở thành tướng lửa, lửa trở thành tướng nước, đất trở thành tướng gió, gió trở thành tướng đất v.v… tùy ý thành tựu, không có hư vọng. Bồ-tát ấy quán chúng sinh thật chẳng phải chúng sinh, quán chẳng phải chúng sinh là chúng sinh thật v.v… đều tự ý thành tựu, không có hư vọng. Này thiện nam! Ông phải biết bốn tâm vô lượng của Bồ-tát là tư duy chân thật, chẳng phải chẳng chân thật. Lại nữa, này thiện nam! Sao gọi là tư duy chân thật? Đó là có thể đoạn trừ các phiền não. Này thiện nam! Phàm người tu tâm Từ thì có thể đoạn được tham dục, tu tâm Bi thì có thể đoạn được sân hận, tu tâm Hỷ thì có thể đoạn được điều chẳng vui, tu tâm Xả thì có thể đoạn được tham dục, sân hận và tướng chúng sinh. Do vậy gọi là tư duy chân thật. Lại nữa, này thiện nam! Bốn tâm vô lượng của Đại Bồ-tát có thể làm căn bản cho tất cả các thiện. Này thiện nam! Đại Bồ-tát nếu chẳng thấy được chúng sinh nghèo cùng thì không có nhân duyên phát sinh từ mà nếu chẳng sinh ra từ thì chẳng thể khởi tâm bố thí. Do nhân duyên bố thí nên khiến cho các chúng sinh được an ổn. Như là bố thí thức ăn, thức uống, xe cộ, quần áo, hương hoa, giường nằm, nhà cửa, đèn sáng v.v… Khi bố thí như vậy lòng không ràng buộc, chẳng sinh tham đắm mà quyết định hồi hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tâm ấy, bấy giờ không nương vào đâu, vọng tưởng đoạn diệt vĩnh viễn, không bị sợ hãi, chẳng mong danh xưng, lợi dưỡng, chẳng cầu hưởng thụ hoan lạc của trời, người, chẳng sinh kiêu mạn, chẳng mong đền đáp, chẳng lừa dối người khác, cho nên hành bố thí, chẳng cầu giàu sang. Phàm khi làm bố thí, chẳng thấy người nhận là trì giới hay phá giới, là ruộng phước hay chẳng phải ruộng phước, là tri thức hay chẳng phải tri thức. Khi thí chẳng thấy là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, chẳng chọn lựa ngày giờ, là chỗ hay chẳng phải chỗ, cũng lại chẳng kể là đói kém hay giàu có an vui, chẳng thấy nhân quả, là chúng sinh hay chẳng phải là chúng sinh, là phước hay chẳng phải là phước. Tuy lại chẳng thấy người bố thí, người thọ thí và cả tài vật bố thí cho đến chẳng thấy đoạn dứt và quả báo nhưng mà thường làm bố thí, không có đoạn tuyệt.

Này thiện nam! Bồ-tát nếu còn thấy trì giới, phá giới cho đến quả báo thì nhất định chẳng thể bố thí. Mà nếu chẳng bố thí thì chẳng đầy đủ Thí Ba-la-mật. Nếu chẳng đầy đủ Thí Ba-la-mật thì chẳng thể thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Ví như có người, thân bị tên độc, quyến thuộc của người ấy vì muốn trừ độc cho người ấy được yên ổn nên mời lương y nhổ mũi tên độc ra. Người ấy nói: “Hãy khoan chớ đụng vào. Ta nay phải quan sát mũi tên độc như vậy từ phương nào đến? Ai đã bắn nó? Là Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá hay Thủ-đà? Lại nghĩ xem cây tên bằng gỗ gì? Bằng tre hay bằng liễu? Sắc bọc đầu mũi tên ấy làm ở chỗ nào? Cứng hay mềm? Lông của tên ấy là lông cánh của loài chim nào? Là của quạ hay của chim ưng? Chất độc có ở mũi tên là do làm ra hay tự nhiên mà có? Là độc của con người hay là độc của rắn? Như vậy người ngu si kia chưa có thể biết hết những điều ấy thì đã mạng chung. Này thiện nam! Bồ-tát cũng vậy, nếu khi làm bố thí mà phân biệt người thọ thí trì giới hay phá giới cho đến quả báo thì nhất định chẳng có thể bố thí. Nếu chẳng thể bố thí thì chẳng đầy đủ Thí Ba-la-mật. Nếu chẳng đủ Thí Ba-la-mật thì chẳng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát khi làm bố thí, đối với các chúng sinh thì tâm Từ bình đẳng, tưởng giống như con. Lại khi hành thí Bồ-tát đối với các chúng sinh khởi lòng Từ Bi ví như cha mẹ nhìn con bị bệnh. Khi làm bố thí lòng Bồ-tát vui mừng giống như cha mẹ thấy con khỏi bệnh. Sau khi đã bố thí, lòng Bồ-tát buông bỏ giống như cha mẹ thấy con khôn lớn có thể tự sinh sống. Đại Bồ-tát này, ở trong lòng Từ, khi bố thí thức ăn thường phát nguyện: “Vật bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên nên khiến cho các chúng sinh được thức ăn đại trí, siêng năng tinh tấn, hồi hướng về Đại thừa Vô thượng. Nguyện các chúng sinh được món ăn thiện trí, chẳng cầu món ăn Thanh văn, Duyên giác. Nguyện cho chúng sinh được thức ăn pháp hỷ, chẳng cầu món ăn về ái dục. Nguyện cho các chúng sinh đều được món ăn Bát nhã Ba-la-mật, đều khiến cho họ đầy đủ, thu giữ vô ngại thêm lớn thiện căn. Nguyện cho các chúng sinh hiểu về tướng “không”, được thân vô ngại giống như hư không. Nguyện cho các chúng sinh thường làm người thọ nhận, thương xót tất cả, làm ruộng phước của mọi người”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát khi tu tâm Từ, phàm bố thí thức ăn cần phải phát nguyện kiên cố như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ khi bố thí nước uống thì nên phát nguyện: “Vật bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh.

Do nhân duyên này nên khiến cho các chúng sinh đi theo dòng sông Đại thừa, uống nước tám vị, mau chóng đi trên con đường Bồ-đề vô thượng, lìa khỏi dòng khô cạn Thanh văn, Duyên giác, chí khát ngưỡng Phật thừa vô thượng, đoạn dứt phiền não, khát ngưỡng pháp vị, lìa khỏi ái dục sinh tử, yêu thích Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa, đầy đủ pháp thân, được các Tam-muội, vào biển cả trí tuệ thâm sâu. Nguyện cho các chúng sinh được vị cam lồ Bồ-đề xuất thế, lìa các vị dục, được tịch tĩnh. Nguyện cho các chúng sinh đầy đủ vô lượng trăm ngàn pháp vị. Đủ pháp vị rồi thì thấy được Phật tánh. Thấy Phật tánh rồi thì có thể rưới mưa pháp xuống. Rưới mưa pháp rồi thì Phật tánh che phủ cùng khắp giống như hư không. Lại khiến cho vô lượng chúng sinh được pháp vị duy nhất, đó là Đại Thừa, chẳng phải pháp vị của các Thanh văn, Phật-bích-chi. Nguyện cho các chúng sinh được một vị cam lồ, không có sáu thứ vị sai khác. Nguyện cho các chúng sinh chỉ cầu pháp vị, vị sở hành vô ngại của pháp Phật, chẳng cầu những vị khác”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí nước uống cần phải phát nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí xe cộ thì cần phải phát nguyện: “Của bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này nên khiến cho khắp cả chúng sinh thành tựu Đại thừa, được trụ ở Đại thừa, là thừa chẳng thoái chuyển, thừa chẳng động chuyển, thừa kim cương tòa, chẳng cầu Thanh văn, Phật-bích-chi thừa, mà hướng về Phật thừa, là thừa không thể phục, thừa không thiếu thốn, thừa chẳng thoái mất, thừa vô thượng, thừa mười lực, thừa đại công đức, thừa chưa từng có, thừa hy hữu, thừa khó được, thừa vô biên, thừa biết tất cả”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ khi bố thí xe cộ cần phải phát nguyện kiên cố như vậy. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí áo phải phát nguyện: “Vật bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh được áo hổ thẹn, pháp giới che thân, xé rách áo các kiến, quần áo cách thân một thước sáu tấc, được thân kim sắc, thọ nhận những chạm xúc êm dịu không ngăn ngại, màu sáng tươi nhuận, da dẻ mịn màng, ánh sáng vô lượng không sắc lìa sắc. Nguyện cho các chúng sinh đều khắp được thân không sắc vượt qua tất cả sắc, được vào Đại Bát Niết Bàn vô sắc”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát khi bố thí áo cần phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong sự tu tâm Từ, khi bố thí hương hoa, hương xoa, hương bột, các hương tạp thì cần phải phát nguyện: “Vật bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh, tất cả đều được vòng hoa đẹp thất giác của Phật cài trên đầu. Nguyện cho các chúng sinh thân hình như vầng trăng tròn đầy, nhìn thấy những màu sắc vi diệu đệ nhất. Nguyện cho các chúng sinh đều thành một tướng, trăm phước trang nghiêm. Nguyện cho các chúng sinh tùy ý được thấy sắc màu vừa ý. Nguyện cho các chúng sinh thường gặp bạn lành, được hương thơm vô ngại, lìa khỏi những mùi xú uế. Nguyện cho các chúng sinh đủ các căn lành, châu báu vô lượng. Nguyện cho các chúng sinh cùng nhau vui hòa, không có ưu khổ, đầy đủ điều lành, chẳng còn lo nghĩ. Nguyện cho các chúng sinh đầy đủ hương giới. Nguyện cho các chúng sinh giữ giới vô ngại, hơi thơm ngào ngạt tràn đầy mười phương. Nguyện cho các chúng sinh được giới bền chắc, giới vô hối, giới Nhất thiết trí, lìa khỏi những sự phá giới, được giới không, giới chưa từng có, giới vô sư, giới vô tác, giới không cấu uế, giới không nhiễm ô, giới đã hoàn thành, giới rốt ráo, giới bình đẳng. Đối với việc xoa hương vào thân và việc dùng dao chém thân đều bình đẳng không có thương hay ghét. Nguyện cho các chúng sinh được giới vô thượng, giới Đại thừa, giới chẳng phải Tiểu thừa. Nguyện cho các chúng sinh đều được đầy đủ Giới Ba-la-mật giống như sự thành tựu giới của chư Phật. Nguyện cho các chúng sinh đều được sự huân tập tu hành của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nguyện cho các chúng sinh đều được thành tựu hoa sen vi diệu Đại Bát Niết Bàn, hơi thơm của hoa ấy tràn ngập mười phương. Nguyện cho các chúng sinh thuần ăn món ăn hương thơm ngon vô thượng Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa, giống như loài ong hút hoa chỉ lấy vị hương thơm. Nguyện cho các chúng sinh đều được thành tựu tấm thân huân tập vô lượng công đức”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí hương hoa v.v… thường phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí giường nằm nên phát nguyện: “Vật bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh được giường nằm của đấng Thiên Trung Thiên, được trí tuệ lớn, ngồi chỗ Tứ thiền, nằm giường nằm của Bồ-tát, chẳng nằm giường của Thanh văn, Phật-bích-chi, lìa khỏi giường nằm ác. Nguyện cho các chúng sinh được nằm giường an lạc, lìa khỏi giường sinh tử, thành tựu giường nằm sư tử Đại Niết-bàn. Nguyện cho các chúng sinh ngồi ở những giường này rồi lại vì vô lượng chúng sinh còn lại thị hiện thần thông sư tử du hý. Nguyện cho các chúng sinh trụ ở trong cung điện lớn Đại thừa này vì các chúng sinh diễn nói Phật tánh. Nguyện cho các chúng sinh ngồi trên giường vô thượng, chẳng bị sự hàng phục của pháp thế gian. Nguyện cho các chúng sinh được giường nhẫn nhục, lìa khỏi sinh tử thiếu thốn đói rét. Nguyện cho các chúng sinh được giường vô úy, lìa khỏi vĩnh viễn tất cả oán tặc phiền não. Nguyện cho các chúng sinh được giường thanh tịnh, chuyên cầu đạo Chánh chân vô thượng. Nguyện cho các chúng sinh được giường pháp thiện, thường được sự ủng hộ của bạn lành. Nguyện cho các chúng sinh được giường nằm nghiêng hông phải, y theo pháp sở hành của chư Phật”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm từ, khi bố thí giường nằm cần phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí nhà cửa thì phải phát nguyện: “Vật bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh ở nhà Đại thừa, tu hành hạnh của bạn lành đã hành, tu hạnh đại bi, hạnh sáu pháp Ba-la-mật, hạnh đại chánh giác, tất cả đạo hạnh của Bồ-tát đã làm, hạnh rộng lớn vô biên như hư không. Nguyện cho các chúng sinh đều được chánh niệm, xa lìa niệm ác. Nguyện cho các chúng sinh đều được an trụ thường, lạc, ngã, tịnh, vĩnh viễn lìa khỏi bốn điên đảo. Nguyện cho các chúng sinh đều thọ trì văn tự xuất thế. Nguyện cho các chúng sinh nhất định làm khí cụ của Nhất thiết trí Vô thượng. Nguyện cho các chúng sinh đều được vào nhà cam lồ. Nguyện cho các chúng sinh tâm ban đầu, tâm ở đoạn giữa, tâm sau cùng thường vào nhà Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa. Nguyện cho các chúng sinh vào đời vị lai là thường ở cung điện của Bồ-tát ở”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí nhà cửa thường phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí đèn sáng thì phải phát nguyện: “Vật bố thí của tôi hôm nay đều cho chung tất cả chúng sinh. Do nhân duyên này khiến cho các chúng sinh có ánh sáng nhiều không lường, an trụ ở pháp Phật. Nguyện cho các chúng sinh thường được soi sáng. Nguyện cho các chúng sinh được sắc thân vi diệu tươi sáng đệ nhất. Nguyện cho các chúng sinh được mắt thanh tịnh, không có các màn ngăn che. Nguyện cho các chúng sinh được đuốc đại trí, khéo hiểu tướng vô ngã, vô chúng sinh, vô nhân, vô thọ mạng. Nguyện cho các chúng sinh đều được nhìn thấy Phật tánh thanh tịnh, giống như hư không. Nguyện cho các chúng sinh được nhục nhãn thanh tịnh nhìn suốt hằng hà sa số thế giới trong mười phương. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng Phật, soi khắp mười phương. Nguyện cho các chúng sinh được mắt vô ngại, đều được thấy Phật tánh thanh tịnh. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng đại trí phá tan tất cả tối tăm và Nhất-xiển-đề. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng vô lượng, soi khắp vô lượng thế giới của chư Phật. Nguyện cho các chúng sinh thắp ngọn đèn Đại thừa, lìa khỏi đèn Nhị thừa. Nguyện cho các chúng sinh có ánh sáng diệt tan tăm tối vô minh, hơn cả ngàn mặt trời đồng thời chiếu soi. Nguyện cho các chúng sinh được ánh sáng lớn diệt hết tối tăm của ba ngàn đại thiên thế giới. Nguyện cho các chúng sinh đầy đủ ngũ nhãn, giác ngộ các pháp tướng, thành tựu sự giác ngộ vô sư. Nguyện cho các chúng sinh không thấy vô minh. Nguyện cho các chúng sinh đều được ánh sáng vi diệu của Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa, thị hiện giác ngộ Phật tánh chân thật của chúng sinh”. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tâm Từ, khi bố thí đèn sáng phải phát thệ nguyện kiên cố như vậy.

Này thiện nam! Tất cả thiện căn của Thanh văn, Duyên giác, Bồtát, các Đức Phật Như Lai đều lấy Từ làm căn bản. Này thiện nam! Đại Bồ-tát tu tập tâm Từ như vậy có thể sinh ra vô lượng căn lành. Đó là quán bất tịnh, thở ra, hít vào, vô thường, sinh diệt, bốn niệm xứ, bảy phương tiện, ba chỗ quán, mười hai nhân duyên, vô ngã v.v… quán pháp Noãn, pháp Đảnh, pháp Nhẫn, pháp Thế đệ nhất, thấy đạo, tu đạo, chánh cần, như ý túc, các căn, các lực, bảy Bồ-đề phần, tám thánh đạo, bốn thiền, bốn tâm vô lượng, tám giải thoát, tám thắng xứ, mười nhất thiết nhập, không, vô tướng, vô nguyện, Tam-muội Vô tránh, trí biết tâm người khác và các thần thông, trí biết bản tế, trí Thanh văn, trí Duyên giác, trí Bồ-tát, trí Phật. Này thiện nam! Những pháp như vậy Từ là căn bản. Này thiện nam! Do nghĩa này nên Từ là chân thật, chẳng phải là hư dối. Nếu có người hỏi, cái gì là căn bản của tất cả các căn lành thì phải nói, chính là Từ. Do nghĩa này nên Từ là chân thật, chẳng phải là hư dối.

Này thiện nam! Có thể làm thiện thì gọi là tư duy thật. Tư duy thật tức là Từ. Từ tức là Như Lai. Từ tức là Đại thừa. Đại thừa tức là Từ, mà Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là đạo Bồ-đề, đạo Bồ-đề tức là Như Lai, Như Lai tức là Từ. Này thiện nam! Từ tức là Đại Phạm, Đại Phạm tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ thì có thể vì tất cả chúng sinh mà làm cha mẹ. Cha mẹ tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ chính là cảnh giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn tức là Từ. Ông phải biết, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là Phật tánh của chúng sinh. Như vậy Phật tánh bị sự che phủ của phiền não từ lâu nên khiến cho chúng sinh chẳng được nhìn thấy. Phật tánh tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là đại không, đại không tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là hư không, hư không tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là Thường, Thường tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là lạc, lạc tức là pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là tịnh, tịnh tức là pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là ngã, ngã tức là pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là cam lồ, cam lồ tức là Từ, Từ tức là Phật tánh, Phật tánh tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là đạo vô thượng của tất cả Bồ-tát, mà đạo tức là Từ, Từ tức là Như Lai. Này thiện nam! Từ tức là cảnh giới không lường của chư Phật Thế Tôn. Cảnh giới không lường tức là Từ. Ông phải biết Từ tức là Như Lai.

Này thiện nam! Từ nếu là vô thường, vô thường tức là Từ, thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu là khổ, khổ tức là Từ, thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu là bất tịnh, bất tịnh tức là Từ, thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu là vô ngã, vô ngã tức là Từ, thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu là vọng tưởng, vọng tưởng tức là Từ, thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu chẳng gọi là Thí Ba-la-mật mà Từ chẳng phải Thí Ba-la-mật thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn cho đến Bát nhã Ba-la-mật cũng như vậy. Này thiện nam! Từ nếu chẳng thể đem lại lợi ích cho chúng sinh thì Từ như vậy là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu chẳng vào đạo Nhất tướng thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu chẳng hiểu rõ các pháp thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu chẳng thể thấy tánh của Như Lai thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu thấy pháp đều là hữu tướng thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu là hữu lậu mà hữu lậu là Từ thì tức là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu là hữu vi thì Từ hữu vi là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu chẳng phải trụ ở sơ trụ, chẳng phải Từ sơ trụ thì phải biết là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ nếu chẳng thể được Mười lực Phật, Bốn vô sở úy thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn. Này thiện nam! Từ có thể được bốn quả Sa-môn thì phải biết Từ này là Từ của Thanh văn.

Này thiện nam! Từ nếu là có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thì Từ như vậy chẳng phải là việc có thể nghĩ bàn của các Thanh văn, Phật-bích-chi. Này thiện nam! Từ nếu chẳng thể nghĩ bàn thì pháp chẳng thể nghĩ bàn, Phật tánh chẳng thể nghĩ bàn, Như Lai cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ ở Đại Bát Niết Bàn Đại Thừa tu Từ như vậy, tuy lại an trụ ở trong ngủ nghỉ mà chẳng ngủ nghỉ, siêng năng tinh tấn, tuy thường tỉnh thức mà cũng không tỉnh thức vì không ngủ. Ở trong ngủ nghỉ chư Thiên tuy hộ vệ nhưng cũng không hộ vệ vì chẳng làm ác, ngủ chẳng ác mộng, không có việc chẳng lành, vì lìa ngủ nghỉ, sau khi mạng chung tuy sinh lên cõi trời Phạm, cũng không có chỗ sinh vì được tự tại. Này thiện nam! Phàm tu Từ thì có thể được thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy. Này thiện nam! Kinh điển vi diệu Đại Niết-bàn này cũng có thể thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy. Chư Phật Như Lai cũng được thành tựu vô lượng vô biên công đức như vậy.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Những tư duy của Đại Bồ-tát đều là chân thật, còn của Thanh văn, Duyên giác chẳng phải là chân thật, thì tất cả chúng sinh vì sao chẳng do uy lực của Bồ-tát mà đều hưởng an lạc? Nếu các chúng sinh thật chẳng được vui thì phải biết việc tu tâm Từ của Bồ-tát là không lợi ích.

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Từ của Bồ-tát chẳng phải chẳng lợi ích. Này thiện nam! Có những chúng sinh hoặc nhất định thọ khổ, hoặc có chúng sinh chẳng thọ. Nếu có chúng sinh nhất định thọ khổ thì Từ của Bồ-tát là không lợi ích như là Nhất-xiển-đề. Nếu có thọ khổ nhưng chẳng nhất định thì Từ của Bồ-tát là lợi ích, khiến cho chúng sinh đó đều hưởng an lạc. Này thiện nam! Ví như có người từ xa thấy sư tử, hổ báo, sài lang, quỷ La-sát v.v… tự nhiên sinh ra sợ, đi đêm thấy gốc cây cũng sinh ra kinh sợ. Này thiện nam! Như những người tự nhiên sinh sợ này, chúng sinh thấy người tu Từ như vậy thì tự nhiên sinh ra vui. Này thiện nam! Do nghĩa này nên Bồ-tát tu Từ là thật tư duy, chẳng phải không lợi ích.

Này thiện nam! Ta nói Từ này có vô lượng môn, đó là những thần thông. Này thiện nam! Như Đề-bà-đạt-đa xúi vua A-xà-thế hại Như Lai. Lúc đó, Ta vào đại thành Vương-xá, theo thứ lớp đi khất thực, vua A-xà-thế liền thả con voi điên Hộ Tài ra, muốn cho nó hại Ta và các đệ tử. Con voi ấy bấy giờ đã đạp giết vô lượng trăm ngàn chúng sinh mà chúng sinh chết rồi mùi máu xông lên nên con voi này đã ngửi phải thì cuồng say gấp bội lúc thường. Nó thấy Ta và tùy tùng mặc quần áo màu đỏ nên cho là máu nên nhắm lao vào. Trong số đệ tử của Ta người chưa lìa dục sợ hãi chạy tứ tán, chỉ trừ có A-nan. Bấy giờ, trong thành Vương-xá, tất cả muôn dân đồng thời cất tiếng kêu gào khóc lóc, nói: “Quái thay! Hôm nay Đức Như Lai chắc chết mất, sao mà đấng Chánh Giác vội vã bị hoại diệt?”. Khi đó, ông Điều-đạt, lòng sinh vui mừng nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm diệt mất, rất hay! Từ nay về sau thật sự là biến mất! Sướng thay! Đây kể như nguyện của ta đã được thỏa”. Này thiện nam! Bấy giờ, Ta vì muốn hàng phục con voi Hộ Tài nên liền nhập vào định Từ, duỗi tay chỉ về phía voi thì liền ở năm ngón tay hiện ra năm con sư tử. Con voi này thấy rồi, lòng nó rất kinh sợ, toàn thân mọp xuống đất, lễ kính dưới chân Ta. Này thiện nam! Lúc này, năm đầu ngón tay Ta thật không có sư tử mà chính là lực thiện căn của sự tu Từ nên khiến cho con voi đó được điều phục. Lại nữa, này thiện nam! Khi Ta muốn vào Niết-bàn, bắt đầu cất bước hướng về thành Câu-thi-na. Trên con đường Ta đi, có năm trăm Lực sĩ đang sửa sang bằng phẳng, quét dọn sạch sẽ, nhưng giữa đường có một tảng đá, mọi người muốn nhấc bỏ, đem hết sức mà chẳng thể được. Ta thương xót liền khởi tâm Từ. Các Lực sĩ đó liền thấy Ta dùng ngón chân cái hất tung tảng đá lớn này lên hư không, rồi lại dùng tay tiếp lấy đặt yên vào bàn tay phải, thổi một cái khiến cho viên đá tan nát, rồi lại tụ hợp trở lại, khiến cho lòng cao ngạo của các Lực sĩ đó dứt ngay. Ta liền vì họ lược nói đủ thứ pháp chính yếu, khiến cho họ đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Bấy giờ, Như Lai thật chẳng dùng ngón chân hất tung viên đá lớn này lên trong hư không và đặt trở lại vào bàn tay phải, thổi khiến cho tan nát, lại hợp lại như cũ. Này thiện nam! Ông phải biết, đó là lực thiện căn của Từ khiến cho các Lực sĩ thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Tại Nam Thiên Trúc này có một ngôi thành lớn tên là Thủ-ba-la, ở trong thành đó có một ông trưởng giả tên là Lô-chí làm chủ dẫn đường mọi người, đã ở chỗ vô lượng Phật đời quá khứ, gieo trồng các gốc thiện. Này thiện nam! Tất cả dân chúng trong thành lớn đó tin phục tà đạo, phụng thờ phái Ni-kiền. Khi ấy, Ta muốn độ ông trưởng giả đó nên từ thành Vương-xá đi đến thành ấp kia, khoảng cách giữa hai thành là sáu mươi lăm do-tuần. Ta đi bộ đến vì muốn hóa độ những người ở đó. Những người Ni-kiền kia nghe Ta sắp đến thành Thủ-ba-la liền nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đến đây thì dân chúng ở đây sẽ bỏ ta chẳng cung cấp. Chúng ta khốn cùng, nhờ vào đâu mà tự sống? Phái Ni-kiền đều phân tán đi khắp nơi bảo người trong thành đó: “Sa-môn Cù-đàm nay sắp đến đây, ông Sa-môn đó bỏ bê cha mẹ, giong ruổi đó đây. Ông ta đến chỗ nào thì có thể khiến cho đất đai, lúa gạo chẳng lên nổi, muôn dân đói kém, rất nhiều người chết, tật bệnh liên miên, không thể cứu giải. Ông Cù-đàm vô lại thuần đem những quỷ thần La-sát ác để làm thị tùng. Những người cô quả nghèo cùng, không cha, không mẹ đến học hỏi theo ông ấy làm môn đồ mà lời dạy bảo toàn nói về hư không. Ông ta đi đến chỗ nào thì chỗ ấy trước tiên là không có an vui”. Những người đó nghe rồi liền ôm lòng sợ hãi, đầu mặt lễ kính dưới chân Ni-kiền mà bạch: “Thưa Đại sư! Chúng con hôm nay phải bày kế gì?”. Người Ni-kiền đáp: “Tánh Samôn Cù-đàm ưa rừng rậm, suối chảy, nước trong. Giả sử bên ngoài có thì cần phải phá hoại. Các ngươi nên cùng nhau ra khỏi thành, xem chỗ nào có rừng thì chặt phá hết đừng để sót lại. Dòng suối, giếng ao v.v… đều bỏ phân, thây chết, đóng chặt cửa thành, chuẩn bị binh khí, phải dựng vách phòng hộ, siêng năng cố thủ. Giả sử ông Cù-đàm kia đến thì chớ cho đi tới trước. Nếu chẳng cho đi tới trước thì các ngươi sẽ yên ổn. Chúng ta cũng sẽ làm đủ thứ phép thuật khiến cho ông Cù-đàm kia quay trở lại đường đi khỏi”. Dân chúng nghe lời nói này rồi thì kính vâng, thi hành. Họ chặt phá cây cối, làm ô nhiễm các dòng nước, chuẩn bị binh khí, tự phòng hộ chắc chắn. Này thiện nam! Bấy giờ, Ta đến thành đó rồi, chẳng thấy tất cả cây cối, rừng rậm, chỉ thấy mọi người trang bị binh khí, dựng vách tự thủ. Thấy việc đó rồi, Ta liền sinh lòng Từ thương xót hướng về họ thì cây cối mọc trở lại như cũ, lại sinh trưởng những cây khác nhiều chẳng thể xưng kể. Sông, ao, suối, giếng nước trong veo, tràn đầy như lưu ly xanh, mọc lên đủ thứ hoa che dày bên trên, biến vách thành ấy thành lưu ly xanh biếc, dân chúng bên trong thành đều được thấy rõ Ta và đại chúng, cửa thành tự mở ra, không ai có thể giữ được, những binh khí trang bị đều biến thành đủ thứ hoa. Trưởng giả Lô-chí làm người dẫn đầu cùng với dân chúng thành ấy theo nhau đi đến chỗ Ta. Ta liền vì họ nói đủ thứ pháp chính yếu khiến cho những người đó đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Lúc ấy Ta thật ra chẳng hóa làm đủ thứ cây cối, dòng nước trong sạch tràn đầy sông ao, biến vách thành ấy làm lưu ly xanh biếc khiến cho muôn dân trong đó thấy rõ Ta, mở cửa thành ấy, binh khí thành hoa. Này thiện nam! Ông phải biết, đều là sức thiện căn của Từ có thể khiến cho những người ở đó thấy được việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Trong thành Xá-vệ có người nữ Bà-lamôn tên là Bà-tư-tra chỉ có một đứa con hết mực yêu thương nhưng gặp bệnh nặng mạng chung. Bấy giờ, người đàn bà sầu não nhập tâm, cuồng loạn mất tính, khỏa thân không thẹn, đi đến ngã tư đường gào khóc thất thanh: “Con ơi! Con đi chỗ nào?”. Đi cùng khắp thành ấp mà không biết mệt mỏi. Người đàn bà này đã ở chỗ các Đức Phật trước gieo trồng các gốc đức. Này thiện nam! Ta đối với người đàn bà này khởi lòng từ bi. Lúc đó người đàn bà liền được thấy Ta, tưởng là con mình, tâm trí tỉnh lại chạy tới trước ôm lấy thân Ta như kiểu ôm con. Ta liền bảo thị giả A-nan: “Ông hãy đem y phục cho người đàn bà này”. Đã cho y phục rồi, Ta liền vì người đàn bà đó nói đủ những pháp chính yếu. Người đàn bà này nghe pháp, vui mừng phấn khởi, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Lúc ấy Ta thật chẳng phải con của người đó, người đó chẳng phải là mẹ Ta, cũng không ôm Ta. Này thiện nam! Ông phải biết, đó đều là sức thiện căn của Từ đã khiến cho người đàn bà đó thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Thành Ba-la-nại có người Ưu-bà-di tên là Ma-ha Tư-na-đạt-đa, ở đời quá khứ đã ở chỗ vô lượng chư Phật gieo trồng các căn lành. Vị Ưu-bà-di này, trong chín mươi ngày mùa hạ, thỉnh mời chúng Tăng phụng thí thuốc men chữa bệnh. Lúc đó, trong chúng có một vị Tỳ-kheo mắc bệnh nặng, lương y xem bệnh thấy cần phải dùng thuốc có thịt. Nếu có được thịt thì bệnh có thể khỏi, nếu chẳng có được thịt thì tánh mạng chẳng toàn. Người Ưu-bà-di nghe thầy thuốc nói liền mang vàng đến khắp các chợ, xướng lên: “Ai có thịt bán, ta dùng vàng để mua. Nếu ai có thịt thì giá sẽ ngang bằng vàng”. Đi cùng khắp chợ trong thành mà tìm mua chẳng được, người Ưu-bà-di này liền tự lấy dao cắt thịt vế của mình nấu thành canh cho vào đủ thứ hương liệu, đưa đến cho vị Tỳ-kheo bị bệnh. Vị Tỳ-kheo dùng rồi liền khỏi bệnh. Vị Ưu-bà-di bị vết thương khổ não chẳng thể chịu đựng nổi liền lên tiếng: “Nam-mô Phật Đà! Nam-mô Phật Đà”. Lúc ấy, Ta ở tại thành Xá-vệ, nghe âm thanh ấy, đối với người Ưu-bà-di này khởi lên lòng đại từ. Người này liền thấy Ta đem lương dược xoa lên vết thương ấy, vết thương trở lại lành như cũ. Ta liền vì người ấy nói đủ thứ pháp. Nghe pháp rồi người ấy vui mừng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Lúc ấy Ta thật sự chẳng đi đến thành Bala-nại, chẳng đem thuốc thoa vết thương của người Ưu-bà-di này. Này thiện nam! Ông phải biết, đó đều là sức thiện căn của Từ khiến cho người Ưu-bà-di đó thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Người ác Điều-đạt chẳng biết đủ, uống nhiều váng sữa nên đau đầu, đầy bụng, chịu khổ não lớn, chẳng thể chịu đựng nổi nên phát lên lời như vầy: “Nam-mô Phật Đà! Nam-mô Phật Đà”. Ta khi ấy trụ tại thành Ưu-thiền-ni, nghe âm thanh ấy liền sinh tâm Từ. Bấy giờ, Điều-đạt liền thấy Ta đi đến chỗ đó, tay xoa đầu, bụng, trao cho nước muối mà bảo uống, uống rồi thì bình phục. Này thiện nam! Ta thật ra chẳng đi đến chỗ ông Điều-đạt xoa đầu, bụng, trao thuốc thang bảo uống. Này thiện nam! Ông phải biết, đó đều là sức thiện căn của Từ khiến cho Điều-đạt thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Nước Kiều-tát-la có những bọn giặc cướp, số đến năm trăm kết thành bè đảng, cướp bóc làm hại rất nhiều. Vua Ba-tư-nặc lo cho nạn tung hoành hung bạo của bọn ấy, sai lính theo dõi tìm bắt. Bắt được rồi, nhà vua cho móc mắt, rồi đem bỏ chúng trong rừng rậm tối tăm. Những bọn giặc này đã từng ở chỗ Phật đời trước, gieo trồng các gốc đức. Chúng đã mất mắt rồi, chịu khổ não lớn nên đều nói lên lời nầy: “Nam-mô Phật Đà! Nam-mô Phật Đà! Chúng con hôm nay không người cứu giúp”. Họ khóc lóc kêu gào. Lúc ấy, Ta trụ tại Tinh xá Kỳ Hoàn nghe được âm thanh ấy sinh tâm Từ, liền có luồng gió mát thổi đủ thứ hương dược trong núi Hương đầy mắt các người ấy, mắt những người ấy trở lại như cũ, chẳng khác. Những kẻ giặc mở mắt ra liền thấy Như Lai đang ở trước mặt họ, vì họ nói pháp. Giặc nghe pháp rồi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Lúc ấy, Ta thật chẳng làm gió thổi đủ thứ hương dược trong núi Hương và trụ ở trước những người ấy nói pháp. Này thiện nam! Ông phải biết, đó đều là sức thiện căn của Từ khiến cho bọn giặc kia thấy việc như vậy.

Lại nữa, này thiện nam! Thái tử Lưu Ly do ngu si nên phế bỏ cha mình tự lập làm vua, lại nhớ hiềm khích xưa, hại nhiều người họ Thích. Ông bắt lấy một vạn hai ngàn người con gái họ Thích, dùng hình phạt cắt tai, mũi, chặt đứt tay, chân rồi xô họ xuống hầm, hào. Những người con gái, thân chịu khổ não, nói lên: “Nam-mô Phật Đà! Nam-mô Phật Đà! Chúng con hôm nay không có ai cứu giúp!”. Họ lại gào khóc. Những người con gái này đã ở chỗ Phật đời trước gieo trồng các căn lành. Lúc ấy, Ta ở trong rừng trúc, nghe được âm thanh đó, liền khởi tâm Từ. Bấy giờ, những người con gái thấy Ta đi đến thành Ca-tỳ-la, dùng nước rửa vết thương và lấy thuốc xoa vào, khổ đau liền tiêu trừ, tai, mũi, tay, chân trở lại như cũ. Ta liền vì họ lược nói pháp chính yếu, khiến cho họ đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những người con gái ấy liền xuất gia thọ giới cụ túc ở chỗ của Tỳ-kheo-ni Đại Ái Đạo. Này thiện nam! Bấy giờ, Như Lai thật chẳng đi đến thành Catỳ-la, dùng nước rửa vết thương, thoa thuốc, dứt khổ. Này thiện nam! Ông phải biết, đó đều là lực thiện căn của Từ khiến cho những người con gái đó được việc như vậy. Tâm Bi, Hỷ, Xả cũng như vậy. Này thiện nam! Do nghĩa này nên Đại Bồ-tát tu tư duy Từ tức là chân thật, chẳng phải là hư dối. Này thiện nam! Phàm vô lượng thì chẳng thể nghĩ bàn, việc làm của Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, việc làm của chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn, Kinh điển Đại Niết-bàn Đại Thừa này cũng chẳng thể nghĩ bàn.

*********

Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát tu Từ, Bi, Hỷ, Xả rồi được trụ ở địa Cực ái nhất tử. Này thiện nam! Sao địa này gọi là Cực ái, lại gọi là Nhất tử? Này thiện nam! Ví như cha mẹ thấy con yên ổn, lòng rất vui mừng. Đại Bồ-tát trụ trong địa này cũng như vậy, xem các chúng sinh đồng với con một, thấy người tu thiện thì phát sinh đại hoan hỷ. Vậy nên địa này gọi là Cực ái. Này thiện nam! Ví như cha mẹ thấy con gặp hoạn nạn thì lòng khổ não, xót thương sầu khổ không nỡ lìa bỏ. Đại Bồ-tát trụ trong địa này cũng như vậy, thấy các chúng sinh bị sự ràng buộc bức thiết của phiền não, lòng sinh ra sầu khổ, lo nghĩ như lo nghĩ cho con, các lỗ chân lông trên thân đều rướm máu. Vậy nên địa này gọi là Nhất tử. Này thiện nam! Như khi người còn nhỏ nhặt lấy hòn đất, phân dơ, ngói, đá, xương khô, cành cây đặt vào trong miệng. Cha mẹ thấy thế rồi, sợ con bị hoạn nạn nên tay trái nắm lấy đầu, tay phải móc ra. Đại Bồ-tát trụ trong địa này cũng như vậy, thấy pháp thân của các chúng sinh chưa tăng trưởng, hoặc nghiệp thân, miệng, ý làm việc bất thiện. Bồ-tát thấy thế rồi bèn dùng tay trí cứu vớt ra, chẳng muốn cho chúng lưu chuyển sinh tử chịu những khổ não. Vậy nên địa này gọi là Nhất tử. Này thiện nam! Ví như đứa con thân yêu của cha mẹ bỏ đi mà chết mất. Cha mẹ sầu não nguyện cùng chết theo. Bồ-tát cũng vậy, thấy Nhất-xiển-đề đọa vào địa ngục cũng nguyện cùng sinh vào trong địa ngục. Vì sao? Vì Nhất-xiển-đề này khi thọ khổ, hoặc lòng sinh ra một niệm cải hối thì ta liền sẽ vì họ mà nói đủ thứ pháp khiến cho họ được sinh ra một niệm lành. Vậy nên địa này gọi là Nhất tử. Này thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một người con. Người con ấy ngủ, thức, đi, đứng, nằm, ngồi v.v… lòng cha mẹ luôn nghĩ đến. Nếu nó có tội lỗi thì cha mẹ khéo nói dỗ dành, chẳng ghét bỏ con. Đại Bồ-tát cũng như vậy, thấy các chúng sinh rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hoặc ở trong hàng trời, người làm các việc thiện, ác thì lòng thường nghĩ đến họ, chẳng buông bỏ họ. Nếu họ làm những điều ác nhất định chẳng sinh sân giận mà ghét bỏ họ. Vậy nên địa này lại gọi là Nhất tử.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy, lời nói ấy bí mật. Trí con hôm nay cạn cợt làm sao có thể hiểu được. Nếu Bồ-tát trụ ở địa Nhất tử có thể như vậy thì sao thuở xưa Như Lai khi làm quốc vương hành đạo Bồ-tát đã đoạn tuyệt mạng của người Bà-la-môn? Nếu Như Lai xưa được địa này thì nên hộ niệm hắn, còn nếu chẳng được thì vì nhân duyên gì mà chẳng đọa vào địa ngục? Giả sử xem tất cả chúng sinh đều bình đẳng như con đồng với La-hầu-la, thì vì sao Như Lai lại hướng về Đề-bà-đạt-đa mà nói: “Người si dại không xấu hổ, ăn nước dãi của người nhổ ra” khiến cho ông đó nghe rồi phát sinh sân hận, dấy lên lòng bất thiện, làm chảy máu thân Phật? Đề-bà-đạt-đa tạo ác này rồi, Như Lai lại nói rằng, sẽ đọa vào địa ngục một kiếp để chịu tội. Thưa Thế Tôn! Lời nói như vậy thì làm sao đối với nghĩa này chẳng trái ngược nhau? Thưa Thế Tôn! Ông Tu-bồ-đề trụ ở địa Hư không, phàm muốn vào thành cầu xin thức ăn thức uống, trước tiên cần phải quan sát người. Nếu có người đối với mình sinh lòng ngờ vực, ganh ghét thì ông chẳng đi, thậm chí đói cùng cực cũng chẳng đi khất thực. Vì sao? Vì Tôn giả Tu-bồ-đề này luôn nghĩ: “Ta nhớ thuở xưa, ở chỗ ruộng phước đã sinh một niệm ác. Do nhân duyên này nên ta bị đọa vào địa ngục chịu đủ thứ khổ. Ta nay thà chịu đói trọn ngày chẳng ăn, nhất định chẳng khiến cho người đó đối với ta khởi lên ngờ vực mà bị đọa vào địa ngục chịu khổ não”. Ông ấy lại nghĩ: “Nếu có chúng sinh ngờ vực ta đứng thì ta sẽ trọn ngày ngồi ngay thẳng, chẳng đứng dậy. Nếu có chúng sinh ngờ vực ta ngồi thì ta sẽ trọn ngày đứng, chẳng dời chỗ. Đi, nằm cũng vậy”. Tôn giả Tu-bồ-đề này hộ chúng sinh mà còn dấy khởi lòng như vậy, huống gì là Bồ-tát. Bồ-tát nếu được địa Nhất tử thì vì duyên gì mà Như Lai nói ra lời thô này, khiến cho các chúng sinh khởi lòng trọng ác?

–Này thiện nam! Ông nay chẳng nên nạn vấn là Phật Như Lai vì các chúng sinh tạo nhân duyên phiền não. Này thiện nam! Giả sử muỗi mòng có thể uống hết biển cả, Như Lai nhất định không làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Giả sử làm cho đại địa này đều không còn màu sắc, nước thành tướng khô cứng, lửa thành tướng lạnh, gió thành tướng đứng yên, Tam bảo, Phật tánh và cả hư không trở nên tướng vô thường thì Như Lai nhất định cũng chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Giả sử người bị tội hủy phạm bốn trọng cấm và Nhất-xiển-đề bài báng chánh pháp mà hiện thân được thành mười lực, bốn vô sở úy, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp thì Như Lai nhất định cũng chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Giả sử Thanh văn, Phậtbích-chi v.v… là thường trụ, bất biến thì Như Lai nhất định cũng chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Giả sử những Bồ-tát Thập Trụ v.v… phạm bốn trọng cấm, làm Nhất-xiển-đề, bài báng chánh pháp thì Như Lai nhất định cũng chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Giả sử tất cả vô lượng chúng sinh đoạn diệt Phật tánh, Như Lai rốt ráo vào Bát-niết-bàn thì Như Lai nhất định cũng chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Giả sử ném sợi tơ có thể trói buộc được gió, răng có thể phá hoại sắt, móng có thể hủy hoại núi Tu-di thì Như Lai nhất định cũng chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Thà cùng rắn độc ở chung một chỗ, thà đưa hai tay mình vào miệng sư tử, thà dùng than Khư-đà-la tắm rửa thân thể chứ chẳng nên nói rằng, Như Lai Thế Tôn làm nhân duyên phiền não cho chúng sinh. Này thiện nam! Như Lai chân thật có khả năng vì chúng sinh đoạn trừ phiền não, nhất định chẳng tạo tác nhân duyên phiền não cho họ.

Này thiện nam! Đúng như lời ông nói, Như Lai thuở xưa đã giết Bà-la-môn. Này thiện nam! Đại Bồ-tát thậm chí con kiến còn chẳng giết huống gì là Bà-la-môn. Bồ-tát thường làm đủ thứ phương tiện, ban cho chúng sinh thọ mạng nhiều không lường. Này thiện nam! Phàm cho người ăn thì tức là cho mạng sống. Khi Đại Bồ-tát hành Thí Ba-lamật thì thường thí cho chúng sinh thọ mạng vô lượng. Này thiện nam! Tu Giới bất sát được sống lâu dài. Khi Đại Bồ-tát hành Giới Ba-la-mật thì tức là thí cho tất cả chúng sinh thọ mạng vô lượng. Này thiện nam!

Thận trọng cửa miệng, không gây tội lỗi thì được thọ mạng lâu dài. Khi Đại Bồ-tát hành Nhẫn Ba-la-mật, thường khuyên chúng sinh chớ sinh tư tưởng oán giận, đưa cái đúng đến người, đem sai quấy về mình, không có sự tranh tụng, được thọ mạng lâu dài. Vậy khi Bồ-tát hành Nhẫn Ba-la-mật thì đã thí cho chúng sinh thọ mạng vô lượng. Này thiện nam! Tinh cần tu thiện được thọ mạng lâu dài. Khi Đại Bồ-tát hành Tinh tấn Ba-la-mật, thường khuyên chúng sinh siêng tu pháp thiện, chúng sinh tu hành rồi được thọ mạng vô lượng. Vậy nên khi Bồtát hành Tinh tấn Ba-la-mật, đã thí cho chúng sinh thọ mạng vô lượng. Này thiện nam! Tu thâu giữ tâm thì được thọ mạng lâu dài. Khi Đại Bồ-tát hành Thiền Ba-la-mật thì khuyên các chúng sinh tu tâm bình đẳng. Chúng sinh tu hành rồi thì được thọ mạng lâu dài. Vậy nên khi Bồ-tát hành Thiền Ba-la-mật rồi thí cho chúng sinh thọ mạng vô lượng. Này thiện nam! Đối với các pháp thiện mà chẳng buông lung thì được thọ mạng lâu dài. Khi Đại Bồ-tát hành Bát nhã Ba-la-mật thì khuyên các chúng sinh đối với những pháp thiện chẳng sinh buông lung. Chúng sinh tu hành rồi thì do nhân duyên này mà được thọ mạng lâu dài. Vậy nên khi Bồ-tát hành Bát nhã Ba-la-mật rồi thì thí cho chúng sinh thọ mạng vô lượng. Này thiện nam! Do nghĩa này nên Đại Bồ-tát đối với các chúng sinh nhất định không đoạt lấy mạng họ. Này thiện nam! Ông vừa hỏi là khi giết Bà-la-môn thì ta đã được địa Nhất tử này chưa? Này thiện nam! Khi đó ta đã được rồi. Do thương xót nên ta đoạn dứt mạng căn ông ấy, chứ chẳng phải do tâm ác. Này thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con nên rất nặng tình yêu thương mà đứa con phạm phải pháp luật nhà nước. Khi đó cha mẹ do sợ hãi nên hoặc đuổi đi, hoặc giết chết con. Tuy có sự đuổi đi, hay giết chết nhưng không có tâm ác. Đại Bồ-tát vì hộ chánh pháp cũng như vậy, nếu có chúng sinh bài báng Đại thừa thì liền dùng roi đánh đập nghiêm trị để sửa trị họ, hoặc đoạt mạng của họ là muốn khiến cho họ đổi đời để tuân tu pháp lành. Bồ-tát thường phải suy nghĩ thế này: “Dùng nhân duyên gì có thể khiến cho chúng sinh phát khởi tín tâm?”. Rồi theo phương tiện ấy mà cần phải làm cho họ. Những Bà-la-môn, sau khi mạng chung sinh vào địa ngục A-tỳ liền có ba ý nghĩ: Một là tự nghĩ, ta từ chỗ nào mà sinh đến đây? Liền tự biết từ trong nhân đạo đến. Hai là tự nghĩ, chỗ sinh của ta hôm nay là chỗ nào? Rồi liền tự biết chính là địa ngục A-tỳ. Ba là tự nghĩ, ta do nghiệp duyên gì mà sinh đến đây? Rồi liền tự biết do việc bài báng kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng chẳng tin nhân duyên nên bị quốc chủ giết chết mà sinh đến đây. Họ nghĩ ra việc này rồi, liền đối với kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng phát sinh lòng tin kính, tức thời mạng chung, sinh vào thế giới của Đức Như Lai Cam Lồ Cổ, ở đó thọ mạng đầy đủ mười kiếp. Này thiện nam! Do nghĩa này nên vào thuở xa xưa ta mới cho người đó mười kiếp thọ mạng. Sao gọi là giết? Này thiện nam! Có người đào đất, cắt cỏ, chặt cây, băm vằm xác chết, mắng chửi, đánh đập v.v… do những nghiệp duyên này có bị đọa vào địa ngục không?

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như sự hiểu biết của con về ý nghĩa lời nói của Phật thì người đó phải đọa vào địa ngục. Vì sao? Vì thuở xưa Phật vì hàng Thanh văn nói pháp: “Này Tỳ-kheo! Vì tất cả chúng sinh nhân tâm ác nên đọa vào địa ngục”.

Bấy giờ, Đức Phật khen Bồ-tát Ca-diếp:

–Hay thay! Hay thay! Đúng như lời ông nói. Ông nên khéo thọ trì. Này thiện nam! Nếu nhân tâm ác mà đọa vào địa ngục thì Bồ-tát bấy giờ quả thật không có tâm ác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh thậm chí cả trùng, kiến v.v… đều phát sinh lòng thương xót làm lợi ích. Vì sao? Vì Bồ-tát giỏi biết phương tiện nhân duyên, dùng sức phương tiện muốn khiến cho chúng sinh gieo trồng các thiện căn. Này thiện nam! Do nghĩa này nên Ta vào lúc bấy giờ, dùng phương tiện khéo léo, tuy đoạt lấy mạng của Bà-la-môn ấy mà chẳng phải tâm ác. Này thiện nam! Theo pháp của Bà-la-môn, nếu giết loài kiến đựng đầy mười xe thì không có tội báo. Muỗi, bọ chét, chấy, rận, mèo, chồn, sư tử, cọp, sói, gấu v.v… những loài trùng độc, thú ác và những thứ còn lại có thể làm hại chúng sinh có giết đầy mười xe và các loài quỷ thần, La-sát, Cưu-bàn-trà, Ca-la-phú-đơn-na làm chúng sinh điên cuồng, khô cạn cùng các loài quỷ thần có thể tạo tác sự nhiễu hại cho chúng sinh, cho dù có đoạt mất mạng chúng thì đều không có tội báo. Nếu có thể sám hối, nhịn ăn ba ngày thì tội ấy tiêu diệt, không còn. Nếu giết Hòa thượng, hại cha mẹ mình, nữ nhân và trâu bò thì vô số ngàn năm ở trong địa ngục. Này thiện nam! Phật và Bồ-tát biết rằng, giết có ba bậc là hạ, trung, thượng. Bậc hạ là giết từ con kiến cho đến tất cả loài súc sinh, chỉ trừ Bồ-tát thị hiện sinh ra. Này thiện nam! Đại Bồ-tát do nhân duyên thệ nguyện thị hiện thọ thân súc sinh. Đó gọi là giết bậc hạ. Do nhân duyên giết bậc hạ nên đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu đủ khổ bậc hạ. Vì sao? Vì các chúng sinh có thiện căn nhỏ nhoi. Vậy nên kẻ giết chịu đủ tội báo. Đó gọi là giết bậc hạ. Giết hại bậc trung là giết từ người phàm phu cho đến A-na-hàm. Đó gọi là giết hại bậc trung. Do nhân duyên nghiệp này nên đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh chịu đủ khổ bậc vừa. Đó gọi là giết hại bậc trung. Giết hại bậc thượng là giết từ cha mẹ cho đến A-la-hán, Phật-bích-chi, Bồ-tát bất thoái chuyển. Đó gọi là giết hại bậc thượng. Do nhân duyên nghiệp này nên đọa vào trong đại địa ngục A-tỳ, chịu đủ khổ bậc thượng. Đó gọi là giết hại bậc thượng. Này thiện nam! Nếu có người có thể giết Nhất-xiển-đề thì chẳng đọa vào trong ba thứ giết hại này. Này thiện nam! Những Bàla-môn đó v.v… tất cả đều là Nhất-xiển-đề. Ví như đào đất, cắt cỏ, chặt cây, băm vằm xác chết, mắng chửi, đánh đập v.v… không có tội báo. Giết Nhất-xiển-đề cũng như vậy, không có tội báo. Vì sao? Vì các Bàla-môn thậm chí không có niềm tin vào năm pháp. Vậy nên tuy giết họ nhưng chẳng đọa vào địa ngục.

Này thiện nam! Trước đây ông hỏi vì sao Đức Như Lai mắng Đềbà-đạt-đa là người ngu si ăn nước dãi. Ông cũng chẳng nên hỏi câu hỏi như vậy. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn, phàm lời nói ra đều chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Hoặc có lời nói chân thật vì sự yêu thương thế gian mà chẳng phải lúc, chẳng phải pháp, chẳng vì lợi ích thì lời nói như vậy Ta nhất định chẳng nói. Này thiện nam! Hoặc lại có lời nói thô ác hư vọng, chẳng phải lúc, chẳng phải pháp mà người nghe chẳng yêu thương, chẳng thể lợi ích thì ta cũng chẳng nói. Này thiện nam! Nếu có lời nói tuy thô nhưng chân thật, chẳng hư vọng, đúng lúc, đúng pháp, có thể làm cho tất cả chúng sinh được lợi ích, người nghe tuy chẳng vui lòng nhưng ta cần phải nói. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Biến Tri biết phương tiện. Này thiện nam! Như Ta có một thuở, du hành trong khu rừng ở xóm làng Khoáng Dã. Tại khu rừng ấy, có một quỷ thần tên là Khoáng Dã thuần ăn máu thịt, giết hại nhiều chúng sinh. Nó lại ở tại xóm làng ấy mỗi ngày ăn thịt một người. Này thiện nam! Vào lúc đó, Ta vì quỷ thần kia rộng nói pháp chính yếu, nhưng quỷ thần bạo ác ngu si vô trí đó chẳng thọ giáo pháp. Ta liền hóa thân làm quỷ đại lực lay động cung điện của con quỷ ấy khiến cho chỗ ở chẳng yên. Con quỷ đó liền đem quyến thuộc của nó ra khỏi cung điện, muốn đến chống trả lại. Quỷ thấy Ta, tức thời mất hồn, sợ hãi ngã lăn ra đất mê man bất tỉnh giống như người chết. Ta dùng tay từ bi xoa lên thân quỷ ấy, quỷ liền ngồi dậy mà nói như vầy: “Vui thay! Hôm nay ta được sống lại. Vị đại thần vương này đủ uy đức lớn, có lòng từ bi xả bỏ tội lỗi của ta”. Quỷ ấy liền đối với Ta phát sinh lòng tin thiện. Ta liền trở lại thân Như Lai, rồi vì quỷ ấy nói đủ thứ pháp chính yếu khiến cho quỷ thần đó thọ giới không sát sinh. Vào ngày đó, trong thôn Khoáng Dã có một ông trưởng giả theo thứ tự đáng lẽ phải chết, người trong thôn đã đưa đến giao cho quỷ thần đó. Quỷ thần nhận rồi liền đem giao cho Ta. Ta đã nhận rồi liền vì ông trưởng giả đặt lại tên là Thủ Trưởng Giả. Bấy giờ, quỷ kia liền bạch với Ta: “Bạch Thế Tôn! Con và quyến thuộc chỉ trông chờ vào máu thịt để tự sống còn. Nay đã thọ giới thì nên phải sống ra sao?”. Ta liền đáp: “Từ nay Ta sẽ bảo đệ tử Thanh văn, theo chỗ nào có tu hành pháp Phật thì đều khiến họ cho ngươi ăn uống”. Này thiện nam! Do nhân duyên này nên Ta vì các Tỳ-kheo chế giới như vầy: “Các ông từ nay luôn phải cho quỷ Khoáng Dã đó ăn. Nếu có trú xứ nào chẳng bố thí thì phải biết, họ chẳng phải là đệ tử của Ta mà là đồ đảng quyến thuộc của thiên ma”. Này thiện nam! Như Lai vì muốn điều phục chúng sinh nên thị hiện đủ thứ phương tiện như vậy, chẳng phải là cố làm cho quỷ đó sinh ra kinh sợ. Này thiện nam! Ta cũng dùng cây đánh quỷ hộ pháp. Lại vào một thuở, trên một ngọn núi, Ta đã xô quỷ đầu dê rơi xuống núi. Lại ở trên ngọn cây Ta đánh ngã quỷ Hộ-di-hầu. Ta khiến cho voi Hộ Tài thấy năm con sư tử, sai thần Kim cương khủng bố Tát-già-ni-kiền, cũng dùng kim đâm vào thân của quỷ Tiểu Mao. Ta tuy làm như vậy nhưng cũng chẳng khiến cho những quỷ thần đó bị diệt mất. Ta chỉ muốn khiến cho những quỷ đó an trụ ở chánh pháp nên thị hiện đủ thứ phương tiện như vậy thôi. Này thiện nam! Bấy giờ, Ta thật sự chẳng nhục mạ Đề-bà-đạt-đa mà Đề-bà-đạt-đa cũng chẳng ngu si ăn nước dãi của người, cũng chẳng sinh ở trong đường ác, địa ngục A-tỳ, chịu tội một kiếp, cũng chẳng phá hoại Tăng, làm chảy máu thân Phật, cũng chẳng vi phạm bốn tội nặng, bài báng chánh pháp, kinh điển Đại thừa, chẳng phải Nhất-xiển-đề, cũng chẳng phải là Thanh văn, Phật-bíchchi. Này thiện nam! Việc ông Đề-bà-đạt-đa quả thật chẳng phải là cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác biết được mà chỉ là sự thấy biết của chư Phật. Này thiện nam! Vậy nên ông nay chẳng nên nạn vấn, vì nhân duyên gì Như Lai quở trách, nhục mạ Đề-bà-đạt-đa. Đối với cảnh giới của chư Phật, ông chẳng nên sinh ra lưới nghi ngờ như vậy.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ví như mía ngọt luôn luôn chưng nấu thì được đủ thứ vị. Con cũng như vậy, theo Phật luôn nghe nhiều sẽ được vị pháp, như là vị xuất gia, vị lìa dục, vị tịch diệt, vị đạo… Thưa Thế Tôn! Ví như vàng ròng đem nung lâu nóng chảy, tôi luyện thì trở nên sáng sạch, điều hòa, mềm mại, màu sắc sáng loáng rực rỡ, giá trị vàng ấy khó lường. Rồi sau đó nó mới là của báu quý trọng của hàng người, trời. Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng vậy, có trịnh trọng hỏi han thì mới được nghe thấy ý nghĩa sâu xa, khiến cho hành giả thọ trì phụng tu sâu sắc, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi sau đó họ mới được sự tôn trọng, cung kính, cúng dường của hàng trời, người.

Bấy giờ, Đức Phật khen Bồ-tát Ca-diếp:

–Hay thay! Hay thay! Đại Bồ-tát vì muốn tạo lợi ích cho các chúng sinh nên thưa hỏi Như Lai về nghĩa sâu xa như vậy. Này thiện nam! Do nghĩa này nên ta theo ý ông nói về pháp Đại Thừa Phương Đẳng sâu xa bí mật đó là “Cực ái như nhất tử địa”.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát tu Từ, Bi, Hỷ được địa Nhất tử thì khi tu tâm Xả lại được địa gì?

Đức Phật đáp:

–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Ông khéo biết thời, biết Ta sắp nói thì ông hỏi đến. Khi Đại Bồ-tát tu tâm Xả thì được trụ ở địa Bình đẳng không như Tôn giả Tu-bồ-đề. Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ ở địa Bình đẳng không thì chẳng thấy có cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, thân tộc, bạn bè, kẻ oán người thân cho đến chẳng thấy ấm, giới, các nhập, chúng sinh, thọ mạng. Này thiện nam! Ví như hư không không có cha mẹ, anh em, vợ con cho đến không có chúng sinh, thọ mạng. Tất cả các pháp cũng như vậy, không có cha mẹ cho đến thọ mạng. Đại Bồ-tát thấy tất cả pháp cũng như vậy. Tâm Bồ-tát ấy bình đẳng như hư không kia. Vì sao? Vì Bồ-tát khéo có thể tu tập các pháp không.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Không?

–Này thiện nam! Không đó là nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, vô thỉ không, tánh không, vô sở hữu không, đệ nhất nghĩa không, không không, đại không. Đại Bồ-tát quán nội không thế nào? Đại Bồ-tát này quan sát nội pháp là không. Nội pháp không này là không cha mẹ, kẻ oán, người thân, kẻ không oán không thân, chúng sinh, thọ mạng, thường, lạc, ngã, tịnh, Như Lai, Pháp, Tăng, tài vật sở hữu. Trong nội pháp này, tuy có Phật tánh mà Phật tánh đó chẳng phải nội, chẳng phải ngoại. Vì sao? Vì Phật tánh thường trụ, chẳng biến dịch. Đó gọi là Đại Bồ-tát quán nội không. Ngoại không thì cũng như vậy, không có nội pháp. Nội ngoại không thì cũng như vậy. Này thiện nam! Chỉ có Như Lai, Pháp, Tăng, Phật tánh là chẳng ở tại hai loại không. Vì sao? Vì bốn pháp như thế là thường, lạc, ngã, tịnh. Vậy nên bốn pháp chẳng gọi là không. Đó gọi là nội, ngoại đều không. Này thiện nam! Hữu vi không là pháp hữu vi đều là không. Đó là nội không, ngoại không, nội ngoại không; thường, lạc, ngã, tịnh không; chúng sinh, thọ mạng, Như Lai, Pháp, Tăng, đệ nhất nghĩa không; trong đó Phật tánh chẳng phải là pháp hữu vi. Vậy nên Phật tánh chẳng phải là pháp hữu vi không. Đó gọi là hữu vi không. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát quán vô vi không? Pháp vô vi này đều là không. Đó là không, vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, ấm, giới, nhập, chúng sinh, thọ mạng, tướng, hữu vi, hữu lậu, nội pháp, ngoại pháp. Trong pháp vô vi, bốn pháp: Phật v.v… chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, tánh là thiện nên chẳng phải vô vi, tánh thường trụ nên chẳng phải hữu vi. Đó gọi là Bồ-tát quán vô vi không. Sao gọi là Bồ-tát quán vô thỉ không? Đại Bồ-tát này thấy sinh tử vô thỉ đều là không tịch. Cái gọi không là thường, lạc, ngã, tịnh đều không tịch, không có biến dịch. Chúng sinh, thọ mạng, Tam bảo, Phật tánh và pháp vô vi cũng vậy. Đó gọi là Bồ-tát quán vô thỉ không. Thế nào là Bồ-tát quán tánh không? Đại Bồ-tát này quan sát bản tánh của tất cả pháp đều không. Những cái gọi là ấm, giới, nhập, thường, vô thường, khổ, lạc, tịnh, bất tịnh, ngã và vô ngã v.v… Bồ-tát quan sát tất cả các pháp như vậy mà chẳng thấy bản tánh thì đó gọi là Đại Bồ-tát quán tánh không. Thế nào là Đại Bồ-tát quán vô sở hữu không? Như người không con nói rằng nhà cửa trống không. Quán không rốt ráo là không có người thân yêu. Người ngu si nói, các phương trống không. Người nghèo cũng nói, tất cả rỗng không. Các kiến chấp như vậy là hoặc không hoặc chẳng phải không. Khi Bồ-tát quan sát như người bần cùng, tất cả đều không, thì đó gọi là Đại Bồ-tát quán vô sở hữu không. Thế nào là Đại Bồ-tát quán đệ nhất nghĩa không? Này thiện nam! Khi Đại Bồ-tát quan sát đệ nhất nghĩa thì thấy mắt này khi sinh không từ đâu lại và khi nó diệt cũng không đi về đâu, xưa không nay có, đã có rồi lại không, tìm kiếm thật tánh ấy thì không mắt, không chủ. Như mắt, tất cả các pháp cũng như vậy. Sao gọi là đệ nhất nghĩa không? Có nghiệp có báo mà chẳng thấy tác giả, pháp không như vậy gọi là đệ nhất nghĩa không. Đó gọi là Đại Bồ-tát quán đệ nhất nghĩa không. Thế nào là Đại Bồ-tát quán không không? Trong không không này mới là chỗ mê đắm của Thanh văn, Phật-bích-chi. Này thiện nam! Có đó, không đó thì đó gọi là không không. Đúng đó, chẳng phải đúng đó thì đó gọi là không không. Này thiện nam! Bồ-tát Thập Trụ đối với pháp đó còn thông đạt phần ít giống như hạt bụi nhỏ, huống gì là những người khác. Này thiện nam! Như vậy không không cũng chẳng đồng với Tam-muội Không không mà Thanh văn sở đắc. Đó gọi là Bồ-tát quán không không. Này thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát quán đại không? Này thiện nam! Nói đại không nghĩa pháp môn là Bát nhã Ba-la-mật. Đó gọi là đại không. Này thiện nam! Đại Bồ-tát được không như vậy thì được trụ ở địa Hư không đẳng. Này thiện nam! Ta nay ở trong đại chúng này khi nói những nghĩa không như vậy thì có mười hằng hà sa Đại Bồ-tát liền được trụ ở địa Hư không đẳng. Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ ở địa đó rồi thì không có tâm trở ngại, trói buộc, câu chấp, không còn mê muội đối với tất cả pháp. Do nghĩa này nên gọi là địa Hư không đẳng. Này thiện nam! Ví như hư không đối với sắc đáng yêu chẳng sinh tham đắm, đối với sắc chẳng yêu thương chẳng sinh sân giận. Đại Bồ-tát trụ trong địa này cũng như vậy, đối với sắc đẹp, tâm xấu không sinh tham đắm hay sân giận. Này thiện nam! Ví như hư không rộng lớn không trở ngại đều có thể dung chứa tất cả các pháp. Đại Bồ-tát trụ trong địa này cũng như vậy, rộng lớn không trở ngại đều có thể dung chứa tất cả các pháp. Do nghĩa này nên được gọi là địa Hư không đẳng.

Này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ trong địa này, đối với tất cả pháp đều thấy, đều biết. Hoặc hành, hoặc duyên, hoặc tánh, hoặc tướng, hoặc nhân, hoặc duyên, hoặc tâm chúng sinh, hoặc căn, hoặc thiền định, hoặc thừa, hoặc thiện tri thức, hoặc trì giới cấm, hoặc bố thí v.v… những pháp như vậy, Bồ-tát đều thấy biết tất cả. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát trụ trong địa này, biết mà chẳng thấy. Sao gọi là biết? Biết pháp tự nhịn đói, gieo xuống vực sâu, nhảy vào lửa đỏ, tự rơi xuống từ núi cao, thường kiễng một chân, năm lửa nướng thân, thường nằm trên tro đất, gai nhọn, cành bện, lá cây, cỏ xấu, phân bò, mặc áo vải thô, áo gai, đồ bỏ ở bãi tha ma rách rưới bẩn thiểu, áo vải khâm bà la, quần áo bằng rơm cỏ, da hươu nai, ăn rau, ăn củ rễ, cặn dầu, phân trâu, rễ cây, trái cây v.v… Nếu đi xin ăn thì giới hạn một nhà. Người chủ nhà nếu nói không thì liền bỏ đi. Giả sử người chủ đó gọi lại thì nhất định chẳng quay trở lại, chẳng ăn thịt muối, năm thứ vị của sữa bò, đồ uống thường là nước trấu, nước sôi, thọ trì giới của bò, giới của chó gà trĩ, lấy tro bôi thân thể, để tóc dài làm hình tướng, dùng dê khi cúng tế, trước chú nguyện, sau giết thịt, bốn tháng thờ lửa, bảy ngày hớp gió, dùng trăm ngàn ức hoa cúng dường chư Thiên. Những ước muốn nhân những việc này mà thành tựu. Những pháp như vậy mà có thể là nhân của giải thoát vô thượng thì đó là điều không có được. Đó gọi là biết. Sao gọi là chẳng thấy? Đại Bồ-tát chẳng thấy một người tu hành pháp như vậy mà được giải thoát thì đó gọi là chẳng thấy. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát cũng thấy, cũng biết. Thấy những gì? Thấy các chúng sinh làm những tà pháp đó nhất định đọa vào địa ngục thì đó gọi là thấy. Sao gọi là biết? Biết những chúng sinh từ địa ngục sinh ra ở trong loài người, nếu có thể tu hành Thí Ba-la-mật cho đến đầy đủ những Nhẫn Ba-la-mật thì người đó nhất định được vào Chánh giải thoát. Đó gọi là biết. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại cũng có thấy, cũng có biết. Sao gọi là thấy? Thấy thường, vô thường; khổ, vui; tịnh, bất tịnh; ngã, vô ngã; đó gọi là thấy. Sao gọi là biết? Biết các Đức Như Lai nhất định chẳng rốt ráo vào Niết-bàn, biết thân Như Lai là kim cương chẳng hoại, chẳng phải là thân do phiền não thành tựu, lại chẳng phải là thân xú uế tan rã. Bồ-tát cũng lại có thể biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Đó gọi là biết. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại cũng có biết, cũng thấy. Sao gọi là biết? Biết chúng sinh này thành tựu tín tâm, biết chúng sinh kia cầu Đại thừa, người này thuận dòng, người kia nghịch dòng, người này chánh trụ. Bồ-tát biết chúng sinh này đã đến bờ kia, người thuận dòng gọi là người phàm phu, người nghịch dòng là từ bậc Tu-đà-hoàn cho đến Duyên giác, người Chánh trụ gọi là Bồ-tát v.v…, người đến bờ kia tức là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Đó gọi là biết. Sao gọi là thấy? Đại Bồ-tát trụ ở kinh điển Đại Niết-bàn Đại Thừa tu tâm phạm hạnh, dùng Thiên nhãn thanh tịnh thấy các chúng sinh tạo ba nghiệp thân, miệng, ý chẳng lành nên đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thấy những chúng sinh tu nghiệp thiện thì mạng chung sẽ nhất định sinh lên trời hay trong loài người, thấy có các chúng sinh từ tối vào tối, có các chúng sinh từ tối ra sáng, có chúng sinh từ sáng vào tối, có các chúng sinh từ sáng vào sáng. Đó gọi là thấy. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại cũng biết, cũng thấy. Đại Bồ-tát biết các chúng sinh tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ; biết người này đời nay tạo thành nghiệp ác, hoặc nhân tham dục, sân giận, ngu si, nghiệp đó nhất định ứng với việc thọ báo ở địa ngục; biết người này chỉ tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ nên đời hiện tại thọ báo nhẹ nhàng, chẳng đọa vào địa ngục. Sao gọi là nghiệp có thể hiện báo? Sám hối phát lồ những việc ác của mình. Sau khi đã sám hối rồi lại chẳng dám làm, thành tựu đức hổ thẹn, cúng dường Tam bảo, luôn tự quở trách. Do nhân duyên nghiệp thiện này, người đó chẳng rơi vào địa ngục mà ở đời hiện tại thọ quả báo như là đau đầu, đau mắt, đau bụng, đau lưng, chết bất đắc kỳ tử, bị quở trách, mạ nhục, đánh đập, giam cầm đói khát, khốn khổ v.v… biết thọ những quả báo nhẹ ở đời hiện tại như vậy, đó gọi là biết. Sao gọi là thấy? Đại Bồ-tát thấy người như vậy chẳng thể tu tập thân, giới, tuệ tạo chút ít nghiệp ác, do nhân duyên nghiệp này nên thọ báo hiện tại. Người này ít ác nhưng chẳng thể sám hối, chẳng tự quở trách, chẳng sinh hổ thẹn, không có sợ sệt. Nghiệp này nếu lớn thêm thì thọ quả báo địa ngục. Đó gọi là thấy. Lại có biết mà chẳng thấy. Sao gọi là biết mà chẳng thấy? Biết các chúng sinh đều có Phật tánh, vì bị sự che phủ của các phiền não nên chẳng thể thấy được. Đó gọi là biết mà chẳng thấy. Lại có biết mà ít thấy. Đại Bồ-tát Thập Trụ v.v… biết các chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng thấy chẳng rõ ràng giống việc nhìn trong đêm tối chẳng rõ ràng. Lại cũng thấy, cũng biết, đó là chư Phật Như Lai cũng thấy, cũng biết. Lại cũng thấy, cũng biết, chẳng thấy, chẳng biết. Cũng thấy cũng biết, đó là văn tự, ngôn ngữ, nam nữ, xe cộ, bình chậu, nhà cửa, thành ấp, quần áo, ăn uống, núi sông, vườn rừng, chúng sinh, thọ mạng v.v… trong thế gian. Đó gọi là cũng biết, cũng thấy. Sao gọi là chẳng thấy, chẳng biết? Lời nói vi mật của Thánh nhân không có trai gái… cho đến vườn rừng. Đó gọi là chẳng thấy chẳng biết. Lại có biết mà chẳng thấy. Biết cái ban cho, biết chỗ cung cấp, biết kẻ thọ nhận, biết nhân quả bảo ứng, đó gọi là biết. Sao gọi là chẳng thấy? Chẳng thấy vật cho, chỗ cung cấp, người thọ nhận và cả quả báo, đó gọi là chẳng thấy cái biết của Đại Bồ-tát có tám thứ tức là cái biết bằng ngũ nhãn của Như Lai.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát có thể biết như vậy được những lợi gì?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Đại Bồ-tát có thể biết như thế được bốn vô ngại là pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại, nhạo thuyết vô ngại. Pháp vô ngại là biết tất cả pháp và tên gọi của pháp. Nghĩa vô ngại là, biết những nghĩa của tất cả pháp, có thể tùy theo tên gọi của các pháp mà tạo nghĩa. Từ vô ngại là, luận theo chữ, luận theo chính âm, luận về pháp cú, luận về biện luận ở đời. Nhạo thuyết vô ngại là, nói Đại Bồtát phàm có sự diễn nói thì không có chướng ngại, chẳng thể chuyển động, không sự kinh sợ, khó có thể hàng phục. Này thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát có thể thấy biết như vậy liền được bốn trí vô ngại. Lại nữa, này thiện nam! Pháp vô ngại là Đại Bồ-tát biết cùng khắp pháp của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật. Nghĩa vô ngại là, thừa tuy có ba nhưng biết chúng quy về một, nhất định chẳng cho là có tướng sai khác. Từ vô ngại là, Đại Bồ-tát ở trong một pháp tạo tác đủ thứ tên, trải qua vô lượng kiếp, nói chẳng thể cùng tận. Thanh văn, Duyên giác mà có thể nói được như thế thì đó là điều không có. Nhạo thuyết vô ngại là, Đại Bồ-tát ở vô lượng kiếp, vì các chúng sinh diễn nói các pháp mà hoặc tên, hoặc nghĩa, đủ thứ sai khác, nói chẳng thể cùng tận. Lại nữa, này thiện nam! Pháp vô ngại là, Đại Bồ-tát tuy biết các pháp mà chẳng chấp trước. Nghĩa vô ngại là, Đại Bồ-tát tuy biết các nghĩa mà chẳng chấp trước. Từ vô ngại là, Đại Bồ-tát tuy biết danh tự mà cũng chẳng chấp trước. Nhạo thuyết vô ngại là, Đại Bồ-tát tuy biết nói thông suốt tối thượng như vậy mà cũng chẳng chấp trước. Vì sao? Này thiện nam! Vì nếu chấp trước thì chẳng gọi là Bồ-tát.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng chấp trước thì chẳng biết pháp. Nếu biết pháp thì tức là chấp trước. Nếu biết pháp mà chẳng chấp trước thì không có cái để biết làm sao Như Lai nói rằng, biết pháp mà chẳng chấp trước?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Phàm đã chấp trước thì chẳng gọi là vô ngại. Không có sự chấp trước mới gọi là vô ngại. Này thiện nam! Vì vậy tất cả các Bồ-tát có chấp trước thì không có vô ngại, mà nếu không có vô ngại thì chẳng gọi là Bồ-tát, phải biết người này gọi là phàm phu. Vì sao chấp trước gọi là phàm phu? Vì tất cả phàm phu chấp trước sắc cho đến chấp trước thức. Do chấp trước sắc nên sinh ra lòng tham, vì sinh lòng tham nên bị sắc trói buộc cho đến bị sự trói buộc của thức. Do bị trói buộc nên chẳng được thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, ưu bi, tất cả phiền não đại khổ. Vậy nên chấp trước gọi là phàm phu. Do nghĩa này nên tất cả phàm phu không có bốn vô ngại. Này thiện nam! Đại Bồ-tát đã ở trong vô lượng vô số kiếp, thấy biết pháp tướng. Do thấy biết nên biết được nghĩa của những pháp ấy. Do thấy pháp tướng và biết cả nghĩa nên ở trong sắc mà chẳng sinh chấp trước ràng buộc cho đến ở trong thức cũng như vậy. Do chẳng chấp trước nên Bồ-tát đối với sắc chẳng sinh lòng tham cho đến ở trong thức cũng chẳng sinh tham. Do không tham nên chẳng bị sự trói buộc của sắc cho đến chẳng bị sự trói buộc của thức. Do chẳng bị trói buộc nên được thoát khỏi tất cả phiền não sinh, già, bệnh, chết, sầu lo, đại khổ. Do nghĩa này nên tất cả Bồtát được bốn vô ngại. Này thiện nam! Do nhân duyên này nên Ta vì đệ tử, trong mười hai bộ loại kinh điển nói rằng chấp trước thì gọi là sự trói buộc của ma. Nếu chẳng chấp trước thì thoát khỏi sự trói buộc của ma. Ví như ở đời có người có tội thì bị vua bắt trói, người không tội thì vua chẳng bắt trói. Đại Bồ-tát cũng như vậy, có chấp trước thì bị sự trói buộc của ma, không có chấp trước thì mà chẳng thể ràng buộc. Do nghĩa này nên Đại Bồ-tát không có sự chấp trước.

Lại nữa, này thiện nam! Pháp vô ngại là Đại Bồ-tát khéo biết danh tự, gìn giữ chẳng quên mất. Cái mà gọi là giữ gìn là, như đất, như núi, như mắt, như mây, như người, như mẹ. Tất cả các pháp cũng như vậy. Nghĩa vô ngại là, Bồ-tát tuy biết tên gọi các pháp mà chẳng biết nghĩa. Bồ-tát đắc sự vô ngại của nghĩa thì biết nghĩa. Sao gọi là biết nghĩa? Gọi sự giữ gìn của đất là, như đất giữ gìn khắp tất cả chúng sinh và chẳng phải chúng sinh. Do nghĩa này nên gọi là sự giữ gìn của đất. Này thiện nam! Gọi sự giữ gìn của núi là, Đại Bồ-tát khởi lên suy nghĩ thế này: “Vì sao gọi là sự giữ gìn của núi? Núi có thể giữ gìn đất khiến cho không nghiêng đổ. Vậy nên gọi là giữ gìn. Vì sao lại gọi là sự giữ gìn của mắt? Mắt có thể giữ ánh sáng nên gọi là giữ gìn. Vì sao lại gọi là sự giữ gìn của mây? Mây gọi là hơi rồng, hơi rồng giữ nước nên gọi là sự giữ gìn của mây. Vì sao lại gọi là sự giữ gìn của người? Vì người có thể giữ gìn pháp và cả phi pháp nên gọi là sự giữ gìn của người. Vì sao lại gọi là sự giữ gìn của mẹ? Vì mẹ có thể giữ gìn con nên gọi là sự giữ gìn của mẹ. Đại Bồ-tát biết tên gọi câu nghĩa của tất cả pháp cũng như vậy. Từ vô ngại là, Đại Bồ-tát dùng đủ thứ lời để diễn nói một nghĩa, cũng không có nghĩa, giống như tên gọi trai, gái, nhà cửa, xe cộ, chúng sinh v.v… Vì sao vô nghĩa? Này thiện nam! Phàm nói nghĩa chính là cảnh giới của các Đức Phật, Bồ-tát, còn ngôn từ là cảnh giới của phàm phu. Do biết nghĩa nên được từ vô ngại. Nhạo thuyết vô ngại là, Đại Bồ-tát biết từ, biết nghĩa, nên ở trong vô lượng vô số kiếp nói từ nói nghĩa mà chẳng thể cùng tận. Đó gọi là Nhạo thuyết vô ngại. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong vô lượng vô số kiếp đã tu hành thế đế.

Do đã tu hành nên biết pháp là vô ngại. Bồ-tát lại ở vô lượng vô số kiếp tu đệ nhất nghĩa đế nên được nghĩa vô ngại, cũng ở vô lượng vô số kiếp tu tập luận Tỳ-dà-la-na nên được từ vô ngại, cũng ở vô lượng vô số kiếp tu tập luận thuyết thế đế nên được nhạo thuyết vô ngại. Này thiện nam! Thanh văn, Duyên giác nếu có được bốn vô ngại này thì đó là điều không có. Này thiện nam! Trong chín bộ loại kinh điển Ta nói, hàng Thanh văn, Duyên giác có bốn vô ngại, nhưng hàng Thanh văn, Duyên giác thật ra không có. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát vì độ chúng sinh nên tu Bốn trí vô ngại như vậy. Hàng Duyên giác tu pháp tịch diệt, chí ưa ở một mình, nếu giáo hóa chúng sinh thì chỉ hiện thần thông, trọn ngày lặng thinh, không tuyên thuyết điều gì cả thì sao có Bốn trí vô ngại? Vì sao lặng thinh mà không nói điều gì? Vì Duyên giác chẳng thể nói pháp độ người, khiến cho họ được pháp noãn, pháp đảnh, pháp nhẫn, pháp thế đệ nhất, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Phật-bích-chi, và Đại Bồ-tát chẳng thể khiến cho người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Này thiện nam! Duyên giác ra đời, thế gian không có chín bộ loại kinh điển. Vậy nên Duyên giác không có từ vô ngại và nhạo thuyết vô ngại. Này thiện nam! Hàng Duyên giác tuy biết các pháp nhưng không có pháp vô ngại. Vì sao? Vì pháp vô ngại thì gọi là biết văn tự. Hàng Duyên giác tuy biết văn tự nhưng không có văn tự vô ngại. Vì sao? Vì họ chẳng biết hai chữ thường trụ. Vậy nên hàng Duyên giác chẳng được pháp vô ngại. Hàng Duyên giác tuy biết nghĩa nhưng không có sự vô ngại đối với nghĩa. Người chân thật biết nghĩa là, biết các chúng sinh đều có Phật tánh. Nghĩa của Phật tánh là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do nghĩa này nên hàng Duyên giác chẳng được gọi là nghĩa vô ngại. Vậy nên tất cả hàng Duyên giác không có bốn trí vô ngại. Sao gọi là hàng Thanh văn không có bốn vô ngại? Vì han g Thanh văn không có ba thứ phương tiện khéo léo. Những gì là ba? Một là cần phải nói lời dịu dàng, sau đó mới trao truyền giáo pháp. Hai là cần phải nói lời thô tháo, sau đó mới giáo hóa. Ba là chẳng dịu dàng, chẳng thô tháo, sau đó giáo hóa. Hàng Thanh văn không có ba thứ này nên không có bốn vô ngại. Lại nữa, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết rốt ráo từ, nghĩa, không có trí tự tại biết được các cảnh giới, không có Mười lực, Bốn vô sở úy, chẳng thể rốt ráo qua được dòng sông lớn Mười hai nhân duyên; chẳng thể biết các căn lợi, độn sai khác của chúng sinh, chưa thể đoạn trừ vĩnh viễn lòng nghi hoặc hai đế, chẳng biết các loại cảnh giới sở duyên của tâm chúng sinh, chẳng thể khéo nói đệ nhất nghĩa không. Vậy nên hàng Nhị thừa không có bốn vô ngại.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu hàng Thanh văn, Duyên giác, tất cả không có bốn vô ngại thì sao Như Lai nói rằng, Xá-lợi-phất trí tuệ đệ nhất, Đại-mục-kiền-liên thần thông đệ nhất, Ma-ha Câu-hy-la bốn vô ngại đệ nhất? Nếu như những vị ấy không có thì vì sao Như Lai nói như vậy?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen Bồ-tát Ca-diếp:

–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Ví như sông Hằng có vô lượng nước, nước sông lớn Tân-đầu cũng vô lượng, nước sông lớn Bácxoa cũng vô lượng, nước sông lớn Tất-đà cũng vô lượng, nước trong ao A-nậu-đạt cũng vô lượng, nước trong biển cả cũng vô lượng. Như vậy, những lượng nước tuy đồng là vô lượng, nhưng nước ấy nhiều ít thật ra chẳng bằng nhau. Bốn trí vô ngại của hàng Thanh văn, Duyên giác và các Bồ-tát cũng như vậy. Này thiện nam! Nếu nói ngang bằng thì đó là điều không có. Này thiện nam! Ta vì phàm phu mà nói rằng bốn trí vô ngại của Ma-ha Câu-hy-la là tối đệ nhất. Về câu hỏi của ông thì nghĩa ấy là như vậy. Này thiện nam! Hàng Thanh văn hoặc có được một vô ngại, hoặc có được hai, còn nếu đầy đủ cả bốn thì đó là điều không có.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời nói trước đây của Phật trong phẩm Phạm hạnh, Bồ-tát thấy biết được bốn vô ngại. Nếu Bồ-tát thấy biết thì không sở đắc, cũng không có tâm nói rằng không sở đắc. Thưa Thế Tôn! Đại Bồ-tát này thật không sở đắc. Nếu khiến cho tâm Bồ-tát có sở đắc thì chẳng phải là Bồ-tát mà gọi là phàm phu. Thế sao Như Lai nói rằng Bồ-tát có sở đắc?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Hay thay! Hay thay! Điều Ta sắp muốn nói thì ông lại hỏi. Này thiện nam! Đại Bồ-tát thật không có sở đắc, mà không sở đắc thì gọi là Bốn vô ngại. Này thiện nam! Do nghĩa này nên không sở đắc thì gọi là vô ngại. Nếu có sở đắc thì gọi là ngại, mà có chướng ngại thì gọi là bốn điên đảo. Này thiện nam! Đại Bồ-tát không có bốn điên đảo nên được vô ngại. Vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Vô sở đắc thì gọi là tuệ. Đại Bồ-tát được tuệ ấy gọi là vô sở đắc. Có sở đắc gọi là vô minh. Bồ-tát vĩnh viễn đoạn trừ bóng tối vô minh nên gọi là vô sở đắc. Như vậy nên gọi Bồ-tát là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Vô sở đắc gọi là Đại Niết-bàn. Đại Bồ-tát an trụ trong Đại Niết-bàn như vậy thì chẳng thấy tánh tướng của tất cả các pháp, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là hai mươi lăm hữu, mà Bồ-tát đoạn trừ vĩnh viễn hai mươi lăm hữu, được Đại Niết-bàn, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Vô sở đắc thì gọi là Đại thừa. Đại Bồ-tát chẳng trụ các pháp nên được Đại thừa, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là đạo Thanh văn, Phật-bích-chi. Bồ-tát đoạn trừ vĩnh viễn đạo Nhị thừa nên được Phật đạo, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Vô sở đắc thì gọi là kinh Phương Đẳng. Đại Bồ-tát đọc tụng kinh như vậy nên được Đại Niết-bàn, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là mười hai bộ loại kinh điển. Việc tu hành của Bồ-tát, thuần nói kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Vô sở đắc thì gọi là hư không. Thế gian không có vật gọi là hư không. Bồ-tát được Tam-muội hư không này thì không sở kiến, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là luân hồi sinh tử. Tất cả phàm phu luân hồi sinh tử nên có sở kiến. Bồ-tát đoạn trừ vĩnh viễn tất cả sinh tử, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát không sở đắc thì gọi là thường, lạc, ngã, tịnh. Đại Bồ-tát thấy Phật tánh nên được thường, lạc, ngã, tịnh, vậy nên Bồtát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Đại Bồ-tát đoạn trừ vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh này, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Vô sở đắc thì gọi là đệ nhất nghĩa không. Đại Bồ-tát quan sát đệ nhất nghĩa không đều không sở kiến, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là năm kiến chấp. Bồ-tát đoạn trừ vĩnh viễn năm kiến chấp này nên được đệ nhất nghĩa không, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Lại nữa, này thiện nam! Vô sở đắc thì gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi Đại Bồ-tát được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đều không sở kiến, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc thì gọi là Bồ-đề của Thanh văn, Duyên giác. Bồ-tát vĩnh viễn đoạn dứt Bồ-đề của Nhị thừa, vậy nên Bồ-tát gọi là vô sở đắc. Này thiện nam! Câu hỏi của ông cũng vô sở đắc, lời nói của Ta cũng vô sở đắc. Nếu nói có sở đắc là quyến thuộc của ma, chẳng phải là đệ tử của Ta.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Khi Thế Tôn vì con mà nói là Bồ-tát vô sở đắc thì vô lượng chúng sinh đoạn trừ tâm hữu tướng. Do việc này nên con mới dám thưa hỏi về nghĩa của vô sở đắc, khiến cho vô lượng chúng sinh như vậy v.v… lìa khỏi quyến thuộc của ma, làm đệ tử của Đức Phật.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai trước đây vì ông Thuần-đà nói kệ:

Xưa có nay không
Xưa không nay có
Pháp ba đời có
Không có điều đó.

Bạch Thế Tôn! Nghĩa này thế nào?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Ta vì hóa độ cac chúng sinh mà nói lời đó, cũng vì Thanh văn, Phật-bích-chi mà nói lời đó, vì Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử mà nói lời đó, chứ chẳng chỉ vì một mình Thuần-đà mà nói bài kệ đó. Khi ấy Văn-thù-sư-lợi sắp hỏi Ta, Ta biết ý ông ấy nên đã vì ông ấy nói rồi. Ta đã nói xong, Văn-thù-sư-lợi liền được hiểu rõ.

Bồ-tát Ca-diếp thưa:

–Thưa Thế Tôn! Như Văn-thù-sư-lợi v.v… có bao nhiêu người để có thể rõ nghĩa này? Cúi xin Thế Tôn lại vì đại chúng phân biệt giảng nói rộng rãi.

–Này thiện nam! Hãy lắng nghe! Nay Ta sẽ vì ông diễn bày vấn đề đó một lần nữa. Nói rằng xưa có là, Ta thuở xưa vốn có vô lượng phiền não. Do phiền não nên hiện tại không có Đại Bát Niết Bàn. Nói rằng xưa không là, vốn không Bát nhã Ba-la-mật. Do không Bát nhã Ba-la-mật nên hiện tại có đủ các phiền não kiết. Nếu có Sa-môn, Bàla-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai có phiền não, thì đó là điều không có. Lại nữa, này thiện nam! Nói xưa có là, Ta thuở xưa vốn có thân cha mẹ hòa hợp. Vậy nên hiện tại không có thân pháp kim cương vi diệu. Nói rằng xưa không là, thân của Ta không có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do không có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp nên hiện tại có đủ bốn trăm linh bốn bệnh. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-lamôn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Pham, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại, vị lai có bệnh khổ thì đó là điều không có. Lại nữa, này thiện nam! Nói rằng xưa có là, Ta xưa vốn có vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Do vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh nên hiện tại không có Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nói rằng xưa không là, vốn chẳng thấy Phật tánh. Do chẳng thấy Phật tánh nên không có thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai không có thường, lạc, ngã, tịnh, thì đó là điều không có. Lại nữa, này thiện nam! Nói rằng xưa có là, vốn có tâm phàm phu tu khổ hạnh cho là được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do việc này nên hiện tại chẳng thể phá hoại bốn ma. Nói rằng xưa không là, Ta vốn không có sáu pháp Ba-la-mật. Do không có sáu pháp Ba-la-mật nên tâm phàm phu tu hành khổ hạnh, gọi là được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai có khổ hạnh, thì đó là điều không có. Lại nữa, này thiện nam! Nói rằng xưa có là, Ta xưa vốn có thân tạp thực. Do thân tạp thực nên hiện tại không có thân vô biên. Nói rằng xưa không là, vốn không có ba mươi bảy pháp trợ đạo. Do không có ba mươi bảy phẩm trợ đạo nên hiện tại có đủ thân tạp thực. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai có thân tạp thực, thì đó là điều không có. Lại nữa, này thiện nam! Nói rằng xưa có là, Ta xưa vốn có tâm chấp trước tất cả pháp. Do việc này nên hiện tại không có định rốt ráo “Không”. Nói rằng xưa không là, Ta vốn không có nghĩa thật trung đạo. Do không có nghĩa chân thật của trung đạo nên đối với tất cả pháp có tâm chấp trước. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-lamôn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Pham, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai nói tất cả pháp là có tướng, thì đó là điều không có. Lại nữa, này thiện nam! Nói rằng xưa có là, Ta khi mới được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có các đệ tử Thanh văn độn căn. Do có đệ tử Thanh văn độn căn nên chẳng được diễn nói Nhất thừa chân thật. Nói rằng xưa không là, vốn không có tượng vương trong hạng người lợi căn như Bồ-tát Ca-diếp v.v… Do không có người lợi căn như Ca-diếp v.v… nên tùy nghi dùng phương tiện khai thị ba thừa. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai hoàn toàn diễn nói pháp ba thừa, thì đó là điều không có. Lại nữa, này thiện nam! Nói rằng xưa có là, Ta vốn nói rằng, sau ba tháng nữa, ở Ta-la song thọ sẽ vào Niếtbàn. Vậy nên hiện tại chẳng được nói kinh điển Phương Đẳng Đại Bát Niết Bàn. Nói rằng xưa không là, vốn không có Đại Bồ-tát Văn-thù-sưlợi v.v… Do không có nên hiện tại nói rằng, Như Lai vô thường. Nếu có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người nói rằng, Như Lai quá khứ, hiện tại và vị lai vô thường, thì đó là điều không có.

Này thiện nam! Như Lai vì các chúng sinh nên tuy biết các pháp nhưng nói rằng chẳng biết, tuy thấy các pháp nhưng nói rằng chẳng thấy, pháp có tướng mà nói rằng không tướng, pháp không tướng nói rằng có tướng, thật có vô thường mà nói rằng thường, thật thường mà nói rằng vô thường. Lạc, ngã, tịnh v.v… cũng như vậy. Pháp ba thừa nói rằng một thừa, pháp một thừa tùy nghi nói ba thừa, tướng lược nói rộng, tướng rộng nói lược, pháp bốn trọng nói là Thâu-lan-giá, pháp Thâulan-giá nói pháp bốn trọng, phạm nói chẳng phải phạm, chẳng phải phạm nói phạm, khinh tội nói trọng, trọng tội nói khinh. Vì sao? Vì Như Lai thấy rõ ràng căn của chúng sinh. Này thiện nam! Như Lai tuy nói thế nhưng nhất định không hư vọng. Vì sao? Vì lời nói hư vọng tức là tội lỗi. Như Lai đã đoạn dứt hết tất cả tội lỗi thì làm sao có lời hư vọng? Này thiện nam! Như Lai tuy lời nói không hư vọng nhưng nếu biết chúng sinh nhân nói hư vọng mà được pháp lợi thì Như Lai tùy nghi phương tiện vì họ nói. Này thiện nam! Tất cả thế đế, nếu đối với Như Lai thì tức là đệ nhất nghĩa đế. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn vì đệ nhất nghĩa đế nên nói đến thế đế, cũng khiến cho chúng sinh được đệ nhất nghĩa đế. Nếu khiến cho chúng sinh chẳng được đệ nhất nghĩa đế như vậy thì các Đức Phật nhất định chẳng tuyên nói thế đế. Này thiện nam! Có lúc Như Lai diễn nói thế đế mà các chúng sinh gọi là Phật nói đệ nhất nghĩa đế. Có lúc diễn nói đệ nhất nghĩa đế mà các chúng sinh gọi là Phật diễn nói thế đế. Đó là cảnh giới sâu xa vi diệu của các Đức Phật, chẳng phải là đối tượng hiểu biết của hàng Thanh văn, Duyên giác. Này thiện nam! Ông trước chẳng nên vấn nạn, Đại Bồ-tát vô sở đắc. Bồ-tát thường đắc đệ nhất nghĩa đế thì sao nạn vấn là vô sở đắc?

Bồ-tát Ca-diếp lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đệ nhất nghĩa đế cũng gọi là đạo, cũng gọi là Bồ-đề, Niết-bàn. Nếu có Bồ-tát nói rằng có đắc đạo, Bồ-đề, Niết-bàn thì tức là vô thường. Vì sao? Vì pháp, nếu thường thì không thể đắc, giống như hư không thì ai có đắc. Thưa Thế Tôn! Như vật của thế gian vốn không mà nay có nên gọi là vô thường. Đạo cũng như vậy, đạo có đắc thì gọi là vô thường. Pháp, nếu thường thì không đắc, không sinh, giống như Phật tánh không đắc, không sinh. Thưa Thế Tôn! Phàm là đạo thì chẳng phải sắc, chẳng phải chẳng sắc, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải sinh, chẳng phải diệt, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải có, chẳng phải không v.v… thì sao Đức Như Lai nói rằng có thể đắc Bồ-đề, Niết-bàn cũng như vậy.

Đức Phật dạy:

–Đúng vậy! Này thiện nam! Đạo có hai thứ: Một là thường, hai là vô thường. Tướng Bồ-đề cũng có hai thứ: Một là thường, hai là vô thường. Niết-bàn cũng vậy. Đạo của ngoại đạo thì gọi là vô thường. Đạo của nội đạo thì gọi là thường. Bồ-đề của Thanh văn, Duyên giác thì gọi là vô thường. Bồ-đề của các Đức Phật, Bồ-tát thì gọi là thường. Giải thoát bên ngoài thì gọi là vô thường. Giải thoát bên trong thì gọi là thường. Này thiện nam! Đạo cùng Bồ-đề và cả Niết-bàn đều gọi là thường. Tất cả chúng sinh thường bị sự che phủ của vô lượng phiền não không có mắt tuệ nên chẳng thể thấy được. Nhưng các chúng sinh vì muốn thấy nên tu giới, định, tuệ. Do tu hành nên họ thấy đạo, Bồ-đề và cả Niết-bàn. Đó gọi là Bồ-tát đắc đạo, Bồ-đề và Niết-bàn. Tánh tướng của đạo thật chẳng sinh diệt. Do nghĩa này nên chẳng thể nắm bắt. Này thiện nam! Đạo tuy không hình tướng để có thể thấy, có thể cân lường, có thể biết mà thật hữu dụng. Này thiện nam! Như tâm chúng sinh tuy chẳng phải sắc, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải thô, chẳng phải tế, chẳng phải trói, chẳng phải mở, chẳng phải là pháp có thể thấy mà cũng là có. Do nghĩa này nên Ta vì ông Tu-đạt nói, tâm trưởng giả làm chủ ngôi thành. Nếu trưởng giả chẳng hộ trì tâm thì chẳng hộ trì thân, miệng, nếu đã hộ trì tâm thì hộ trì thân, miệng. Do chẳng khéo hộ trì thân, miệng này nên khiến cho các chúng sinh rơi vào ba đường ác. Hộ trì thân, miệng thì khiến cho chúng sinh được Niết-bàn của hàng trời, người, được gọi là chân thật, nếu chẳng được thì gọi là chẳng chân thật. Này thiện nam! Đạo cùng Bồ-đề và cả Niếtbàn cũng như vậy, cũng có, cũng thường. Như những điều ấy không thì làm sao có thể đoạn tất cả phiền não? Do những điều ấy có nên tất cả Bồ-tát tỏ rõ thấy biết. Này thiện nam! Thấy có hai thứ, một là thấy tướng mạo, hai là thấy tỏ rõ. Sao gọi là thấy tướng mạo? Như từ xa thấy khói thì gọi là thấy lửa mà thật chẳng thấy lửa. Tuy chẳng thấy lửa nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Thấy chim hạc trong không liền nói rằng thấy nước. Tuy chẳng thấy nước nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy hoa lá liền nói thấy rễ cây. Tuy chẳng thấy rễ cây nhưng chẳng phải hư vọng. Như người xa xa thấy sừng trâu ở bờ dậu liền nói thấy trâu. Tuy chẳng thấy trâu nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy nữ nhân mang thai liền nói thấy dục. Tuy chẳng thấy dục nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy cây sinh lá liền nói thấy nước. Tuy chẳng thấy nước nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Lại như thấy mây liền nói thấy mưa. Tuy chẳng thấy mưa nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Như thấy thân nghiệp và cả khẩu nghiệp liền nói thấy tâm. Tuy chẳng thấy tâm nhưng cũng chẳng phải hư vọng. Đó gọi là thấy tướng mạo. Sao gọi là thấy tỏ rõ? Như mắt thấy sắc. Này thiện nam! Như người mắt sáng chẳng hoại, tự xem trái cây A-ma-lặc trong bàn tay. Đại Bồ-tát thấy tỏ rõ đạo, Bồ-đề, Niết-bàn cũng như vậy. Tuy thấy tướng như vậy nhưng không có tướng thấy. Này thiện nam! Do nhân duyên này nên Ta thuở trước bảo ông Xá-lợi-phất: “Điều mà tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc người trong thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu thì chỉ có Như Lai là biết, thấy, hiểu hết và các Bồ-tát cũng như vậy. Này Xá-lợiphất! Điều mà thế gian thấy, biết, hiểu thì Ta cùng Bồ-tát cũng biết, thấy, hiểu. Điều mà chúng sinh thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, họ cũng chẳng tự biết là chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu. Còn điều mà chúng sinh thế gian biết, thấy, hiểu thì liền tự nói, ta biết, ta thấy, ta hiểu. Này Xá-lợi-phất! Như Lai biết, thấy, hiểu tất cả mà cũng chẳng tự nói rằng, ta biết, thấy, hiểu, tất cả. Bồ-tát cũng như vậy. Vì sao? Vì giả sử Như Lai khởi tướng biết, thấy, hiểu thì phải biết đó chẳng phải là Phật Thế Tôn mà gọi là phàm phu. Bồ-tát cũng vậy”.

*********

Bồ-tát Ca-diếp thưa:

–Như Phật Thế Tôn vì Tôn giả Xá-lợi-phất nói: “Điều thế gian biết, Ta cũng biết, điều thế gian không biết, Ta cũng biết hết”. Nghĩa đó như thế nào?

–Này thiện nam! Tất cả thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu Phật tánh. Nếu có biết, thấy, hiểu Phật tánh thì chẳng gọi là thế gian mà gọi là Bồ-tát. Người thế gian cũng lại chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu Mười hai bộ loại kinh điển, Mười hai nhân duyên, Bốn điên đảo, Bốn đế, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Đại Bát Niết Bàn. Nếu họ biết, thấy, hiểu thì chẳng gọi là thế gian mà phải gọi là Bồ-tát. Này thiện nam! Đó gọi là thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu. Sao gọi là điều biết, thấy, hiểu của thế gian? Đó là gọi Phạm thiên, Tự Tại thiên, Bát Tý thiên v.v…, tánh, thời, vi trần, pháp và phi pháp là chủ tạo hóa, thế giới chung, thỉ, chấp hai kiến đoạn, thường. Nói rằng, Sơ thiền cho đến Phi tưởng phi phi tưởng gọi là Niết-bàn. Này thiện nam! Đó gọi là sự biết, thấy, hiểu của thế gian. Đại Bồ-tát đối với việc như vậy cũng biết, thấy, hiểu. Bồ-tát biết, thấy, hiểu như vậy rồi, nếu nói rằng, chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu thì đó là hư vọng, mà pháp hư vọng thì là tội lỗi. Vì tội lỗi nên đọa vào địa ngục. Này thiện nam! Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc Samôn, hoặc Bà-la-môn nói rằng, không có đạo, Bồ-đề, Niết-bàn thì phải biết hạng người này gọi là Nhất-xiển-đề, là quyến thuộc của ma, gọi là bài báng pháp. Bài báng pháp như vậy gọi là bài báng chư Phật. Người như vậy chẳng gọi là thế gian, chẳng gọi là chẳng phải thế gian.

Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp nghe việc như vậy rồi liền dùng kệ mà khen ngợi Đức Phật:

Đấng thương xót chúng sinh
Nên nay con về nương
Khéo nhổ mọi tên độc
Nên xưng Đại Y Vương.
Thầy thuốc ở thế gian
Trị lành nhưng bệnh lại
Đức Như Lai trị bệnh
Hoàn toàn chẳng tái phát
Thuốc cam lồ của Phật
Đem ban cho chúng sinh
Mà chúng sinh đã uống
Thì chẳng chết, chẳng sinh
Vì con nay Đức Phật
Diễn nói Đại Niết-bàn
Chúng sinh nghe bí tạng
Liền đắc chẳng sinh diệt.

Bồ-tát Ca-diếp nói bài kệ này rồi, liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, điều mà tất cả thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, Bồ-tát đều có thể biết, thấy, hiểu. Giả sử Bồ-tát là người thế gian thì không được nói, thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu mà Bồ-tát có thể biết, thấy, hiểu. Nếu chẳng phải là thế gian thì có tướng gì khác?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Nói Bồ-tát cũng là thế gian, cũng chẳng phải là thế gian; chẳng biết, thấy, hiểu thì gọi là thế gian, còn biết, thấy, hiểu thì chẳng gọi là thế gian. Ông nói có gì khác, thì Ta nay sẽ nói. Này thiện nam! Hoặc nam hoặc nữ, nếu mới nghe kinh Niết-bàn này mà liền sinh ra kính tín phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đó gọi là Bồ-tát thế gian. Mà tất cả thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu thì như vậy Bồ-tát cũng đồng thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu. Bồ-tát nghe kinh Niết-bàn này rồi biết có thế gian chẳng biết, thấy, hiểu điều mà Bồ-tát đáng lẽ phải biết, thấy, hiểu. Biết việc đó rồi, Bồ-tát liền tự tư duy: “Ta phải dùng phương tiện gì để tu tập cho được biết, thấy, hiểu”. Rồi lại tự nghĩ: “Chỉ có chí tâm tu trì tịnh giới”. Này thiện nam! Bấy giờ, Bồ-tát do nhân duyên này, nên vào đời vị lai sinh đến chỗ nào thì giới thường thanh tịnh. Này thiện nam! Đại Bồ-tát do giới thanh tịnh nên sinh đến bất cứ chỗ nào thường không kiêu mạn, tà kiến, nghi hoặc và nhất định chẳng nói, Như Lai rốt ráo vào Niết-bàn. Đó gọi là Bồ-tát tu trì tịnh giới. Giới đã thanh tịnh, tiếp theo là tu thiền định. Do tu định nên sinh ở nơi nào, chẳng mất chánh niệm. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Mười hai bộ loại kinh điển, chư Phật Thế Tôn thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả Bồ-tát an trụ ở kinh Đại Niết-bàn Phương Đẳng, đều thấy Phật tánh. Những việc như vậy v.v… nhớ nghĩ mà chẳng quên. Nhân tu định nên được mười một không. Đó gọi là Bồ-tát tu định thanh tịnh. Giới, định đã đủ, tiếp theo tu tuệ. Do tu tuệ nên chẳng chấp trước trong thân có ngã, trong ngã có thân, là thân, là ngã, chẳng phải thân, chẳng phải ngã v.v… Đó gọi là Bồ-tát tu tập tịnh tuệ. Do tu tuệ nên việc thọ trì giới bền chắc chẳng động. Này thiện nam! Ví như núi Tu-di chẳng bị bốn thứ gió làm rung động. Đại Bồ-tát cũng như vậy, chẳng bị bốn điên đảo làm rung động. Này thiện nam! Bấy giờ Bồ-tát tự biết, thấy, hiểu giới đã thọ trì không bị khuynh động. Đó gọi là sự biết, thấy, hiểu của Bồ-tát, chẳng phải thế gian. Này thiện nam! Bồ-tát thấy sự trì giới bền chắc chẳng động, tâm không hối hận. Vì không hối hận nên tâm được hoan hỷ. Vì được hoan hỷ nên tâm an vui. Vì được an vui nên tâm yên ổn. Vì tâm yên ổn nên được định vô động. Vì được định vô động nên được thật tri kiến. Vì được thật tri kiến nên chán lìa sinh tử. Vì chán lìa sinh tử nên liền được giải thoát. Vì được giải thoát nên thấy ánh sáng Phật tánh. Đó gọi là sự biết, thấy, hiểu của Bồ-tát, chẳng phải thế gian. Này thiện nam! Đó gọi là thế gian chẳng biết, thấy, hiểu mà là sự biết, thấy, hiểu của Bồ-tát.

Bồ-tát Ca-diếp lại thưa:

–Sao gọi là Bồ-tát tu trì tịnh giới, tâm không hối hận cho đến thấy rõ Phật tánh?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Giới thế gian thì chẳng gọi là thanh tịnh. Vì sao? Vì giới thế gian đối với có nên có tánh bất định, chẳng phải rốt ráo, chẳng thể rộng lớn vì tất cả chúng sinh. Do nghĩa này nên gọi là bất tịnh. Do bất tịnh nên có tâm hối hận. Do hối hận nên tâm chẳng hoan hỷ. Do không hoan hỷ nên không an vui. Do không an vui nên không yên ổn. Do không yên ổn nên không có định bất động. Do không có định bất động nên không có tri kiến chân thật. Do không có tri kiến chân thật nên không chán lìa. Do không chán lìa nên không giải thoát. Do không giải thoát nên chẳng thấy Phật tánh. Do chẳng thấy Phật tánh nên nhất định chẳng thể được Đại Bát Niết Bàn. Đó gọi là giới thế gian chẳng thanh tịnh. Này thiện nam! Giới thanh tịnh của Đại Bồ-tát là, giới chẳng phải giới, vì chẳng phải là có, vì nhất định rốt ráo, vì chúng sinh. Đó gọi là giới của Bồ-tát thanh tịnh. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong tịnh giới, tuy chẳng muốn sinh tâm không hối hận, nhưng tâm không hối hận tự nhiên sinh khởi. Này thiện nam! Ví như có người cầm giữ gương sáng, chẳng mong thấy mặt mà hình dáng mặt tự hiện lên, cũng như người nông phu gieo hạt vào ruộng tốt, chẳng mong mọc mầm mà mầm tự mọc ra, cũng như thắp đèn, chẳng mong tiêu diệt bóng tối mà bóng tối tự diệt. Này thiện nam! Đại Bồ-tát giữ vững tịnh giới, tâm không hối hận tự nhiên sinh khởi cũng như vậy. Do tịnh giới nên tâm được hoan hỷ. Này thiện nam! Như người đẹp đẽ tự thấy diện mạo, lòng sinh hoan hỷ, người trì tịnh giới cũng như vậy. Này thiện nam! Người phá giới, thấy giới bất tịnh, tâm chẳng hoan hỷ. Như người tàn phế tự thấy diện mạo, chẳng sinh vui vẻ. Này thiện nam! Ví như hai người con gái chăn bò, một người mang bình đựng váng sữa, một người mang bình đựng nước uống. Cả hai đều cùng đến thành phố để bán, trên đường đi trượt chân ngã, cả hai bình đều vỡ. Một người thì hoan hỷ, một người thì sầu não. Trì giới, phá giới cũng như vậy. Người trì giới thì tâm hoan hỷ, vì tâm hoan hỷ nên liền suy nghĩ: “Các Đức Phật Như Lai ở trong Niết-bàn nói, người có thể trì giới thanh tịnh thì được Niết-bàn. Ta nay tu tập tịnh giới như vậy cũng sẽ được Niết-bàn.

Do nhân duyên này nên tâm an vui”.

Bồ-tát Ca-diếp lại thưa:

–Hỷ cùng với lạc có gì sai biệt?

–Này thiện nam! Khi Đại Bồ-tát chẳng làm ác thì gọi là mừng, tâm trì tịnh giới thì gọi là vui. Này thiện nam! Đại Bồ-tát quan sát sinh tử thì gọi là mừng, thấy Đại Niết-bàn thì gọi là vui. Dưới thì gọi là mừng, trên thì gọi là vui. Lìa khỏi pháp liên hệ thế gian thì gọi là mừng, được pháp bất cộng thì gọi là vui. Do giới thanh tịnh nên thân thể nhẹ nhàng mềm mại, miệng không thô ác, lỗi lầm. Bấy giờ, Bồ-tát hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc ngửi, hoặc thuởng thức, hoặc xúc chạm, hoặc biết v.v… đều không có các thứ khó chịu. Do không khó chịu nên tâm được yên ổn. Do tâm yên ổn nên được tịch định. Được tịch định nên được thấy biết chân thật. Do thấy biết chân thật nên chán lìa sinh tử. Do chán lìa sinh tử nên được giải thoát. Do được giải thoát nên thấy Phật tánh, thấy Phật tánh nên được Đại Niết-bàn. Đó gọi là trì giới thanh tịnh của Bồ-tát, chẳng phải là giới của thế gian. Vì sao? Này thiện nam! Vì sự thọ trì tịnh giới của Đại Bồ-tát có năm pháp trợ giúp. Những gì là năm? Một là tín, hai là tàm, ba là quý, bốn là thiện tri thức, năm là tôn kính giới. Bồ-tát lìa khỏi năm cái nên thấy thanh tịnh, lìa khỏi năm kiến nên tâm không lưới nghi, lìa khỏi năm nghi: một là nghi Phật, hai là nghi Pháp, ba là nghi Tăng, bốn là nghi giới, năm là nghi chẳng phóng dật. Bấy giờ, Bồ-tát liền được năm căn là tín, niệm, tinh tấn, định, tuệ. Được năm căn nên được năm thứ Niết-bàn là sắc giải thoát cho đến thức giải thoát. Đó gọi là Bồ-tát trì giới thanh tịnh chẳng phải giới của thế gian. Này thiện nam! Đó gọi là sự chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu của thế gian mà là sự biết, thấy, hiểu của Bồ-tát.

Này thiện nam! Nếu đệ tử của Ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giảng nói kinh điển Đại Niết-bàn mà có người phá giới, sẽ có người quở trách, khinh chê, hủy nhục mà nói: “Nếu kinh điển Đại Niết-bàn bí tạng có uy lực thì sao khiến cho ông hủy phạm giới đã thọ? Nếu người thọ trì kinh điển Đại Niết-bàn này mà hủy phạm giới cấm thì phải biết kinh này không có uy lực. Nếu không có uy lực thì tuy lại đọc tụng nhưng không có lợi ích”. Do sự khinh khi, hủy báng kinh Niết-bàn này nên khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh rơi vào địa ngục. Kẻ thọ trì kinh này mà hủy phạm giới thì tức là ác tri thức của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của Ta, mà là quyến thuộc của ma. Người như vậy, Ta cũng chẳng cho thọ trì kinh điển này. Thà khiến cho chẳng thọ, chẳng trì, chẳng tu chứ chẳng để cho người hủy phạm giới thọ trì tu tập. Này thiện nam! Nếu đệ tử của Ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói kinh Niết-bàn thì phải nghiêm chính thân tâm, thận trọng chớ có đùa giỡn, khinh suất, lay động. Về thân thì đùa giỡn, về tâm thì xem thường: Tâm cầu có thì gọi là xem thường, thân tạo các nghiệp thì gọi là đùa giỡn. Nếu đệ tử của Ta cầu có, tạo nghiệp thì chẳng nên thọ trì kinh điển Đại Niết-bàn Đại Thừa này. Nếu có người thọ trì kinh như vậy thì người ta sẽ khinh chê, quở trách thế này: “Nếu kinh Đại Niết-bàn là bí tạng của Phật có uy lực thì sao lại khiến cho ông cầu có, tạo nghiệp? Nếu người trì kinh mà cầu có, tạo nghiệp thì phải biết kinh này không uy lực. Nếu không uy lực thì tuy thọ trì nhưng không lợi ích”. Duyên vào sự khinh chê, hủy báng kinh Niết-bàn này nên lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh rơi vào địa ngục. Kẻ thọ trì kinh này mà cầu có, tạo nghiệp thì chính là ác tri thức của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của Ta, mà chính là quyến thuộc của ma. Lại nữa, này thiện nam! Nếu đệ tử của Ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói kinh Đại Niếtbàn thì chớ nói chẳng phải thời, chớ nói chẳng phải chỗ, chớ nói khi chẳng ai thỉnh, chớ nói với tâm coi thường, chớ nói khắp nơi nơi, chớ nói để tự khen, chớ nói để khinh người khác, chớ nói để diệt pháp Phật, chớ nói để làm hưng thịnh pháp thế gian. Này thiện nam! Nếu đệ tử của Ta thọ trì kinh này, chẳng phải lúc mà nói cho đến làm hưng thịnh pháp thế gian mà nói thì người ta sẽ khinh khi, quở trách thế này: “Nếu kinh Đại Niết-bàn là tạng bí mật của Đức Phật có uy lực thì sao khiến cho ông chẳng phải lúc mà nói cho đến làm hưng thịnh pháp thế gian mà nói. Nếu người thọ trì kinh nói như vậy thì phải biết kinh này là không uy lực. Nếu kinh không uy lực thì tuy thọ trì nhưng không lợi ích”. Duyên vào sự khinh khi, hủy báng kinh Niết-bàn nên khiến cho vô lượng chúng sinh rơi vào địa ngục. Người thọ trì kinh này chẳng phải lúc mà nói cho đến làm hưng thịnh pháp thế gian mà nói thì chính là ác tri thức của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của Ta, mà là quyến thuộc của ma. Này thiện nam! Nếu người thọ trì muốn nói Đại Niếtbàn, nói Phật tánh, nói tạng bí mật của Như Lai, nói Đại thừa, nói kinh Phương Đẳng, nói thừa Thanh văn, nói thừa Phật-bích-chi, nói giải thoát, thấy Phật tánh thì trước tiên phải thanh tịnh thân mình. Do thân thanh tịnh nên không bị quở trách. Do không bị quở trách nên khiến cho vô lượng người đối với Đại Niết-bàn phát sinh lòng tin thanh tịnh. Lòng tin đã sinh nên cung kính kinh này. Nếu nghe một bài kệ, một câu, một chữ ở người nói pháp mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải biết người nói pháp đó chính là thiện tri thức chân thật của chúng sinh, chẳng phải ác tri thức, chính là đệ tử của Ta, chẳng phải quyến thuộc của ma. Đó gọi là Bồ-tát, chẳng phải là thế gian. Này thiện nam! Đó gọi là sự chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu của thế gian mà chính là sự thấy, biết, hiểu của Bồ-tát.

Lại nữa, này thiện nam! Sao lại gọi là sự chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu của tất cả thế gian chính là sự biết, thấy, hiểu của Bồ-tát? Đó là sáu niệm xứ. Những gì là sáu? Là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Này thiện nam! Sao gọi là niệm Phật? Là niệm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn thường trụ chẳng biến dịch, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, đại sư tử hống, gọi là đại Sa-môn, đại Bà-la-môn, đại thanh tịnh rốt ráo đến bờ kia, đấng Vô năng thắng, đấng Vô kiến đỉnh, không có sợ hãi, chẳng kinh, chẳng động, một mình không bạn bè, không thầy tự giác ngộ, thành tựu trí báu như trí nhanh chóng, trí lớn, trí sắc bén, trí thâm sâu, trí giải thoát, trí bất cộng, trí rộng lớn. Tượng vương trong loài người, Ngưu vương trong loài người, Long vương trong loài người, đấng Trượng phu trong loài người, hoa sen Phân-đàlợi trong loài người, đấng Điều ngự nhân sư, bậc đại Thí chủ, đấng đại Pháp sư. Do biết pháp nên gọi là đại Pháp sư. Do biết nghĩa nên gọi là đại Pháp sư. Do biết thời nên gọi là đại Pháp sư. Do biết đủ nên gọi là đại Pháp sư. Do biết ngã nên gọi là đại Pháp sư. Do biết đại chúng nên gọi là đại Pháp sư. Do biết đủ thứ tánh của chúng sinh nên gọi là đại Pháp sư. Do biết các căn lợi, độn, trung bình nên gọi là đại Pháp sư. Do nói trung đạo nên gọi là đại Pháp sư.

Sao gọi là Như Lai? Như lời nói của chư Phật quá khứ chẳng biến đổi? Sao gọi là chẳng biến đổi? Các Đức Phật ở quá khứ vì độ chúng sinh nên nói Mười hai bộ loại kinh điển, Như Lai cũng vậy nên gọi là Như Lai. Chư Phật Thế Tôn từ Sáu pháp Ba-la-mật, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Mười một không đi đến Đại Niết-bàn, Như Lai cũng vậy. Vậy nên hiệu Phật là Như Lai. Chư Phật Thế Tôn vì chúng sinh nên tùy nghi phương tiện khai thị Tam thừa, thọ mạng không lường, chẳng thể xưng kể, Như Lai cũng vậy. Vậy nên Phật hiệu là Như Lai.

Sao gọi là Ứng? Pháp thế gian đều gọi là oan gia. Phật đối trị lại nên gọi là Ứng. Bốn ma chính là oán địch của Bồ-tát. Các Đức Phật Như Lai khi làm Bồ-tát, có thể dùng trí tuệ phá hoại bốn ma. Vậy nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng gọi là xa lìa. Khi làm Bồ-tát cần phải xa lìa vô lượng phiền não nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng gọi là vui. Các Đức Phật quá khứ khi làm Bồ-tát tuy ở trong vô lượng vô số kiếp, vì chúng sinh nên chịu các khổ não nhưng luôn luôn an lạc. Như Lai cũng vậy, nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng là, tất cả hàng trời, người nên dùng đủ thứ hương hoa, chuỗi ngọc, cờ phướn, kỹ nhạc mà cúng dường. Vậy nên gọi là Ứng.

Sao gọi là Chánh Biến Tri? Chánh là chẳng điên đảo, Biến Tri là đối với bốn điên đảo không gì chẳng thông đạt. Lại nữa, Chánh gọi là khổ hạnh, Biến Tri là biết nhân khổ hạnh quyết định có khổ quả. Lại nữa, Chánh là trong thế gian, Biến Tri là biết chắc chắn rốt cuộc tu tập trung đạo thì được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại nữa, Chánh gọi là có thể tính, có thể lường, có thể cân, Biến Tri là chẳng thể tính, chẳng thể lường, chẳng thể cân. Vậy nên hiệu Phật là Chánh Biến Tri. Này thiện nam! Thanh văn, Duyên giác cũng có Biến Tri, cũng chẳng Biến Tri. Vì sao? Vì Biến Tri là gọi Năm ấm, Mười hai nhập, Mười tám giới. Thanh văn, Duyên giác cũng được Biến Tri. Đó gọi là Biến Tri. Sao gọi là chẳng Biến Tri? Này thiện nam! Giả sử hàng Nhị thừa ở vô lượng kiếp, quan sát một sắc ấm mà chẳng thể biết hết. Do nghĩa này nên Thanh văn, Duyên giác không có Biến Tri.

Sao gọi là Minh Hạnh Túc? Minh là được vô lượng quả thiện. Hạnh là bàn chân. Quả thiện là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chân là giới, tuệ. Đi bằng chân giới, tuệ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên gọi là Minh Hạnh Túc. Lại nữa, Minh là chú, Hạnh là cát, Túc là quả. Này thiện nam! Đó là nghĩa của thế gian. Chú là giải thoát, Cát là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Quả là Đại Bát Niết Bàn. Vậy nên gọi là Minh Hạnh Túc. Lại nữa, Minh là ánh sáng, Hạnh là nghiệp, Túc là quả. Này thiện nam! Đó gọi là nghĩa của thế gian. Ánh sáng là chẳng phóng dật, nghiệp là sáu pháp Ba-la-mật, quả là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại nữa, Minh là ba minh, một là Bồtát minh, hai là chư Phật minh, ba là vô minh minh. Bồ-tát minh tức là Bát nhã Ba-la-mật. Chư Phật minh tức là Phật nhãn. Vô minh minh tức là rốt ráo không. Hạnh là ở vô lượng kiếp, vì chúng sinh nên tu các nghiệp thiện. Túc là thấy rõ Phật tánh. Do nghĩa này nên gọi là Minh Hạnh Túc.

Sao gọi là Thiện Thệ? Thiện là cao, Thệ là chẳng cao. Này thiện nam! Đó gọi là nghĩa của thế gian. Cao là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chẳng cao tức là tâm Như Lai. Này thiện nam! Tâm nếu cao thì chẳng gọi là Như Lai. Vậy nên Như Lai gọi là Thiện Thệ. Lại nữa, Thiện là thiện tri thức, Thệ là quả của thiện tri thức. Này thiện nam! Đó là nghĩa của thế gian. Thiện tri thức tức là mới phát tâm. Quả là gọi Đại Bát Niết Bàn. Như Lai chẳng xả bỏ tâm mới phát lúc ban đầu, được Đại Niết-bàn. Vậy nên Như Lai gọi là Thiện Thệ. Lại nữa, Thiện là tốt đẹp, Thệ là có. Này thiện nam! Đó là nghĩa của thế gian. Tốt đẹp là thấy Phật tánh, có là Đại Niết-bàn. Này thiện nam! Tánh của Niết-bàn thật chẳng phải có. Chư Phật Thế Tôn nhân thế gian nên nói là có. Này thiện nam! Ví như người đời thật không có con mà nói có con, thật không có đạo mà nói có đạo, Niết-bàn cũng vậy, nhân thế gian nên nói là có. Chư Phật Thế Tôn thành Đại Niết-bàn nên gọi là Thiện Thệ.

Sao gọi là Thế Gian Giải? Này thiện nam! Thế Gian là năm ấm, Giải là sự biết. Chư Phật Thế Tôn giỏi biết năm ấm nên gọi là Thế Gian Giải. Lại nữa, Thế Gian là năm dục, Giải là chẳng tham đắm, chẳng tham đắm năm dục nên gọi là Thế Gian Giải. Lại nữa, Thế Gian Giải là tất cả Thanh văn, Duyên giác đối với vô lượng vô số thế giới ở phương Đông chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu mà các Đức Phật đều biết, đều thấy, đều hiểu. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới cũng như vậy. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giải. Lại nữa, Thế Gian là tất cả phàm phu. Giải là biết nhân quả thiện ác của các phàm phu, đó chẳng phải là sự biết của Thanh văn, Duyên giác, mà chỉ có Phật mới có thể biết. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giải. Lại nữa, Thế Gian là hoa sen, Giải là chẳng bẩn. Này thiện nam! Đó là nghĩa của thế gian. Hoa sen tức là Như Lai. Chẳng bẩn là Như Lai chẳng bị sự ô nhiễm của tám pháp thế gian. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giải. Lại nữa, Thế Gian Giải là chư Phật, Bồ-tát gọi là Thế Gian Giải. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát thấy rõ thế gian nên gọi là Thế Gian Giải. Này thiện nam! Như nhờ ăn mà được sống nên gọi ăn là mạng. Chư Phật, Bồ-tát cũng như vậy, thấy rõ thế gian nên gọi là Thế Gian Giải.

Sao gọi là Vô Thượng Sĩ? Thượng Sĩ gọi là đoạn. Không có cái để đoạn gọi là Vô Thượng Sĩ. Chư Phật Thế Tôn không có phiền não nên không có cái để đoạn. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại nữa, Thượng Sĩ là tranh tụng. Vô Thượng Sĩ là không có tranh tụng, mà Như Lai không có tranh tụng. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại nữa, Thượng Sĩ là lời nói có thể hoại. Vô Thượng Sĩ là lời nói chẳng thể hoại, mà lời nói của Như Lai là lời nói mà tất cả chúng sinh không thể phá hoại. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại nữa, Thượng Sĩ là ngôi vị trên hết. Vô Thượng Sĩ là không có ngôi vị nào trên nữa, chư Phật ba đời lại không có ai vượt qua. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Thượng là mới, Sĩ là cũ. Thể chư Phật Thế Tôn là Đại Niết-bàn không mới, không cũ. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ.

Sao gọi là Điều Ngự Trượng Phu? Tự mình đã trượng phu, lại điều phục trượng phu. Này thiện nam! Như Lai thật chẳng phải trượng phu, chẳng phải chẳng trượng phu, nhân điều phục trượng phu nên gọi Như Lai là trượng phu. Này thiện nam! Tất cả trai gái nếu đủ bốn pháp thì gọi là trượng phu. Những gì là bốn? Một là thiện tri thức, hai là có thể nghe pháp, ba là suy nghĩ về nghĩa, bốn là theo đúng lời nói tu hành. Này thiện nam! Nếu nam hay nữ đủ bốn pháp này thì gọi là trượng phu. Này thiện nam! Nếu có người nam nào không có bốn pháp này thì chẳng được gọi là trượng phu. Vì sao? Vì thân tuy là trượng phu nhưng hành động đồng với súc sinh. Như Lai điều phục người nam hoặc người nữ, nên hiệu Phật là Điều Ngự Trượng Phu. Lại nữa, này thiện nam! Như người điều khiển ngựa có bốn cách: một là chạm lông, hai là chạm da, ba là chạm thịt, bốn là chạm xương. Tùy theo sự xúc chạm ấy mà ngựa theo ý người điều khiển. Như Lai cũng vậy, dùng bốn phương pháp điều phục chúng sinh: Một là nói về sinh liền khiến cho người nghe lãnh thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông ngựa thì ngựa theo ý người điều khiển. Hai là nói về sinh, già liền khiến cho người nghe lãnh thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông, da thì ngựa theo ý người điều khiển. Ba là nói về sinh, già và bệnh liền khiến cho người nghe lãnh thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông, da, thịt thì ngựa theo ý người điều khiển. Bốn là nói về sinh, già, bệnh và chết liền khiến cho người nghe lãnh thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông, da, thịt và xương thì ngựa theo ý người điều khiển. Này thiện nam! Người điều khiển điều phục ngựa không có sự cố định, Như Lai Thế Tôn điều phục chúng sinh nhất định chẳng rỗng không. Vậy nên hiệu Phật là Điều Ngự Trượng Phu.

Sao gọi là Thiên Nhân Sư? Sư có hai hạng, một là dạy điều thiện, hai là dạy điều ác. Chư Phật, Bồ-tát thường dùng pháp thiện dạy các chúng sinh. Những gì là pháp thiện? Đó là thiện về thân, miệng, ý. Chư Phật, Bồ-tát dạy các chúng sinh đều nói lời như vầy: “Này thiện nam! Ông phải xa lìa nghiệp thân bất thiện. Vì sao? Vì nghiệp ác của thân có thể xa lìa là được giải thoát. Vậy nên ta dùng pháp này dạy ông. Nếu nghiệp ác này chẳng thể xa lìa mà được giải thoát thì nhất định ta chẳng dạy ông khiến cho xa lìa nó”. Nếu các chúng sinh xa lìa nghiệp ác rồi mà còn rơi vào ba đường ác thì đó là điều không có. Do xa lìa nên thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được Đại Niết-bàn. Vậy nên chư Phật, Bồ-tát thường dùng pháp này giáo hóa chúng sinh. Miệng, ý cũng vậy. Vậy nên hiệu Phật là Thiên Nhân Sư. Lại nữa, xưa chưa đắc đạo, nay đã đắc rồi, đem đạo sở đắc vì chúng sinh giảng nói. Từ xưa đến nay chưa tu phạm hạnh nay đã tu xong, đem điều đã tu vì chúng sinh giảng nói, tự phá vô minh, lại vì chúng sinh phá hoại vô minh, tự được mắt thanh tịnh, lại vì chúng sinh phá trừ mù tối, khiến cho họ được mắt thanh tịnh, tự biết Nhị đế, lại vì chúng sinh diễn nói Nhị đế; đã tự giải thoát, lại vì chúng sinh nói pháp giải thoát; tự qua khỏi vô biên dòng sông lớn sinh tử, lại khiến cho chúng sinh đều được qua khỏi hết; tự được sự không sợ hãi, lại dạy chúng sinh khiến cho họ không kinh sợ; đã tự Niết-bàn, lại vì chúng sinh diễn nói Đại Niết-bàn. Vậy nên hiệu Phật là Thiên Nhân Sư. Thiên là ngày. Trên trời ngày dài đêm ngắn. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là không sầu não, thường hưởng thụ an vui. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là đèn sáng, có thể phá bóng tối mà làm nguồn ánh sáng lớn. Vậy nên gọi là Thiên. Cũng do có thể phá nghiệp ác đen tối, được các nghiệp thiện mà sinh lên trời. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là tốt. Do tốt lành nên được gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là mặt trời, mặt trời có ánh sáng nên gọi là Thiên. Do những nghĩa đó nên gọi là Thiên. Nhân là có thể nhiều ân nghĩa. Lại nữa, Nhân là thân, miệng, ý dịu dàng. Lại nữa, Nhân là có kiêu mạn. Lại nữa, Nhân là có thể phá kiêu mạn. Này thiện nam! Chư Phật tuy làm đại sư vô thượng của tất cả chúng sinh, nhưng trong kinh nói làm Thiên Nhân Sư. Vì sao? Này thiện nam! Trong các chúng sinh chỉ có trời cùng người là có thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể tu mười đạo nghiệp thiện, có thể được quả Tuđà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, đạo Phật-bíchchi, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên hiệu Phật là Thiên Nhân Sư.

Sao gọi là Phật? Phật là giác, đã tự giác ngộ lại có thể giác ngộ người khác. Này thiện nam! Ví như có người hay biết có giặc thì giặc không thể làm gì. Đại Bồ-tát hiểu biết tất cả vô lượng phiền não, mà hiểu rõ rồi thì khiến cho các phiền não không thể làm điều gì được. Vậy nên gọi là Phật. Do sự giác ngộ đó nên chẳng sinh, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết. Vậy nên gọi là Phật. Bà-già-bà là, Bà-già là phá, Bà là phiền não. Có khả năng phá phiền não nên gọi là Bà-giàbà. Lại nữa, người có khả năng thành tựu các pháp thiện, lại có khả năng giỏi giải nghĩa các pháp, có đại công đức không ai có thể hơn, có danh tiếng lớn vang khắp mười phương. Lại là người có khả năng bố thí đủ thứ, lại ở vô lượng vô số kiếp đã vất bỏ thân nữ. Này thiện nam! Nếu người nam hay người nữ mà có thể nghĩ đến Phật, niệm Phật như vậy thì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc sáng, hoặc tối v.v… thường được thấy Phật Thế Tôn. Này thiện nam! Vì sao gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cho đến Bà-già-bà mà có vô lượng công đức đại danh xưng như vậy? Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở vô lượng vô số kiếp xưa, cung kính cha mẹ, Hòa thượng, các thầy, các trưởng lão thượng tọa, ở vô lượng kiếp thường vì chúng sinh mà làm bố thí, kiên trì giới cấm, tu tập nhẫn nhục, siêng tu hành tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vậy nên hôm nay được thân kim cương với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Lại nữa, Bồ-tát thuở xưa, ở vô lượng vô số kiếp đã tu tập năm căn tín, tấn, niệm, định, tuệ, đối với các sư trưởng cung kính cúng dường, thường vì pháp lợi, chẳng vì lợi dưỡng. Bồ-tát nếu thọ trì mười hai bộ loại kinh điển, hoặc đọc, hoặc tụng, là luôn vì chúng sinh muốn khiến cho họ giải thoát yên ổn, sung sướng, nhất định chẳng vì mình. Vì sao? Vì Bồ-tát thường tu tâm xuất thế gian và tâm xuất gia, tâm vô vi, tâm không tranh tụng, tâm không cấu uế, tâm không trói buộc, tâm không thủ trước, tâm không ngăn che, tâm không vô ký, tâm không sinh tử, tâm không lưới nghi, tâm không tham dục, tâm không sân hận, tâm không ngu si, tâm không kiêu mạn, tâm không uế trược, tâm không phiền não, tâm không khổ, tâm vô lượng, tâm quảng đại, tâm hư không, tâm vô, tâm vô vô, tâm điều phục, tâm chẳng thủ hộ, tâm không che giấu, tâm không thế gian, tâm thường định, tâm thường tu, tâm thường giải thoát, tâm không báo trả, tâm vô nguyện, tâm thiện nguyện, tâm không lầm lẫn, tâm dịu dàng, tâm chẳng trụ, tâm tự tại, tâm vô lậu, tâm đệ nhất nghĩa, tâm bất thoái, tâm vô thường, tâm chính trực, tâm không dua nịnh quanh co, tâm thuần thiện, tâm không nhiều ít, tâm không ngang ngạnh, tâm không phàm phu, tâm không Thanh văn, tâm không Duyên giác, tâm bất thiện, tâm biết cõi, tâm biết sinh cõi nào, tâm biết ở cõi nào, tâm ở cõi tự tại. Vậy nên hôm nay Đại Bồtát được mười lực, bốn vô sở úy, đại bi, ba niệm xứ, thường, lạc, ngã, tịnh. Vậy nên Bồ-tát được xưng là Như Lai cho đến Bà-già-bà. Đó gọi là Đại Bồ-tát niệm Phật.

Sao gọi là Đại Bồ-tát niệm Pháp? Này thiện nam! Đại Bồ-tát suy nghĩ pháp tối diệu tối thượng mà chư Phật đã thuyết, nhờ pháp này nên có thể khiến cho chúng sinh được quả hiện tại. Chỉ chánh pháp này không có thời tiết là pháp mà mắt pháp thấy, chẳng phải mắt thịt thấy được, nhưng chẳng thể dùng ví dụ làm so sánh, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng trụ, chẳng diệt, chẳng thỉ, chẳng chung, vô vi, vô số, kẻ không nhà vì họ làm nhà, không chỗ về làm chỗ về, không sáng làm sáng, chưa đến bờ kia khiến cho đến bờ kia, vì chỗ không hương làm hương vô ngại, chẳng thể nhìn thấy làm cho nhìn thấy, chẳng động, chẳng chuyển, chẳng dài, chẳng ngắn, vĩnh viễn đoạn dứt các niềm vui mà vui yên ổn rốt ráo, vi diệu, chẳng phải sắc, đoạn dứt sắc mà cũng là sắc cho đến chẳng phải thức, đoạn dứt thức mà cũng là thức; chẳng phải nghiệp, đoạn nghiệp mà cũng là nghiệp; chẳng phải kết, đoạn kết mà cũng là kết; chẳng phải vật, đoạn vật mà cũng là vật; chẳng phải cõi, đoạn cõi mà cũng là cõi; chẳng phải hữu, đoạn hữu mà cũng là hữu; chẳng phải nhập, đoạn nhập mà cũng là nhập; chẳng phải nhân, đoạn nhân mà cũng là nhân; chẳng phải quả, đoạn quả mà cũng là quả; chẳng phải hư, chẳng phải thật, đoạn tất cả thật mà cũng là thật; chẳng phải sinh, chẳng phải diệt, vĩnh viễn đoạn sinh diệt mà cũng là diệt; chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng, đoạn tất cả tướng mà cũng là tướng; chẳng phải dạy, chẳng phải chẳng dạy mà cũng là thầy dạy; chẳng phải sợ, chẳng phải an, đoạn tất cả sợ mà cũng là an; chẳng phải nhẫn, chẳng phải chẳng nhẫn, vĩnh viễn đoạn chẳng nhẫn mà cũng là nhẫn; chẳng phải dừng, chẳng phải chẳng dừng, đoạn tất cả dừng mà cũng là dừng; tất cả pháp đỉnh đều có thể vĩnh viễn đoạn tất cả phiền não, vô tướng thanh tịnh, vĩnh viễn thoát khỏi các tướng, chỗ trụ rốt ráo của vô lượng chúng sinh, có thể diệt tất cả lửa sinh tử bừng cháy, chính là chỗ du cư của chư Phật thường trụ chẳng biến đổi. Đó gọi là Bồ-tát niệm Pháp.

Sao gọi là niệm Tăng? Thánh Tăng của chư Phật theo đúng như pháp mà trụ, thọ pháp chính trực, thuận theo tu hành, chẳng thể nhìn thấy, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể phá hoại, không thể nhiễu hại, chẳng thể nghĩ bàn, ruộng phước, thần hiền của tất cả chúng sinh, tuy là ruộng phước nhưng không thọ nhận gì, thanh tịnh, không bẩn, vô lậu, vô vi, rộng khắp vô biên. Lòng Thánh tăng điều hòa, dịu dàng, bình đẳng không hai, không có nhiễu hại, ô trược, thường chẳng biến đổi. Đó gọi là niệm Tăng.

Sao gọi là niệm Giới? Bồ-tát suy nghĩ: “Có giới chẳng phá, chẳng lậu, chẳng hoại, chẳng tạp, tuy không hình sắc mà có thể hộ trì, tuy không xúc chạm nhưng khéo tu phương tiện dễ được đầy đủ, không có lỗi lầm, sự khen ngợi của chư Phật, Bồ-tát chính là nhân của Đại Phương Đẳng Đại Niết Bàn. Này thiện nam! Ví như đất đai, thuyền bè, chuỗi ngọc, biển cả, nước tro, nhà cửa, đao kiếm, cầu kiều, lương y, diệu dược, a-dà-đà dược, ngọc báu như ý, chân cẳng, mắt, cha mẹ, bóng mát v.v… không thể trộm cướp, chẳng thể nhiễu hại, lửa chẳng thể đốt cháy, nước chẳng thể làm trôi, là bậc thang lên núi cao, cờ đẹp bằng diệu bảo của chư Phật, Bồ-tát. Nếu trụ ở giới này thì được quả Tu-đà-hoàn, ta cũng có phần nhưng ta chẳng mong cầu. Vì sao? Vì nếu ta được quả Tu-đà-hoàn này thì chẳng thể độ tất cả chúng sinh. Nếu trụ ở giới này thì chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ta cũng có phần, là điều ưa thích của ta. Vì sao? Vì nếu được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì ta sẽ vì chúng sinh nói diệu pháp mà tạo tác sự cứu hộ. Đó gọi là Đại Bồ-tát niệm Giới.

Sao gọi là niệm Thí? Đại Bồ-tát quan sát sâu xa việc bố thí này mới là cái nhân của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chư Phật, Bồtát thân cận, tu tập bố thí như vậy thì ta cũng thân cận, tu tập như vậy. Nếu chẳng bố thí thì chẳng thể trang nghiêm bốn bộ chúng. Bố thí tuy chẳng thể đoạn trừ rốt ráo kiết sử nhưng có thể phá trừ phiền não hiện tại. Do nhân duyên bố thí nên thường được sự khen ngợi của chúng sinh ở vô lượng vô biên thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương. Đại Bồ-tát bố thí cho chúng sinh ăn tức là bố thí mạng sống cho họ. Do quả báo này nên khi thành Phật thường trụ chẳng biến đổi. Do sự bố thí an vui nên khi Bồ-tát thành Phật được an lạc. Khi Bồ-tát bố thí đúng như pháp cầu tài thì chan g xâm phạm của người kia mà cho người này. Vậy nên khi thành Phật được Niết-bàn thanh tịnh. Khi Bồtát bố thí khiến cho chúng sinh chẳng cầu mà được, nên khi thành Phật được tự tại. Do nhân duyên bố thí khiến cho người khác được sức lực, nên khi thành Phật đạt được Mười lực. Do nhân duyên bố thí khiến cho người khác nói được, nên khi thành Phật được bốn vô ngại. Chư Phật, Bồ-tát tu tập sự bố thí này làm nhân Niết-bàn, ta cũng tu tập bố thí như vậy để làm nhân Niết-bàn. Rộng nói như trong kinh Tạp Hoa.

Sao gọi là niệm Thiên? Có cõi Tứ thiên vương cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Nếu có lòng tin thì được cõi Tứ thiên vương, ta cũng có phần. Nếu giữ giới, đa văn, bố thí, trí tuệ thì được cõi Tứ thiên vương cho đến được cõi Phi tưởng phi phi tưởng, ta cũng có phần. Nhưng chẳng phải là điều ưa muốn của ta. Vì sao? Vì cõi Tứ thiên vương cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng đều là vô thường. Do vô thường nên sinh, già, bệnh, chết. Do nghĩa này nên chẳng phải là điều ưa muốn của ta. Ví như sự huyễn hóa dối gạt được người ngu, người trí tuệ thì chẳng mê hoặc họ được. Như huyễn hóa tức là cõi Tứ thiên vương cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Người ngu tức là tất cả phàm phu. Ta thì chẳng đồng với phàm phu ngu si. Ta từng nghe có đệ nhất nghĩa thiên là chỉ cho chư Phật, Bồ-tát thường trụ chẳng biến đổi. Do thường trụ nên chẳng sinh, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết. Ta vì chúng sinh tinh cần cầu đệ nhất nghĩa thiên. Vì sao? Vì đệ nhất nghĩa thiên có thể khiến cho chúng sinh đoạn trừ phiền não giống như cây Như ý. Nếu ta có tín cho đến có tuệ thì có thể được đệ nhất nghĩa thiên này. Ta sẽ vì chúng sinh rộng phân biệt, giảng nói đệ nhất nghĩa thiên. Đó gọi là Đại Bồ-tát niệm Thiên.

Này thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát chẳng phải thế gian. Đó là thế gian chẳng biết, thấy, hiểu mà là sự biết, thấy, hiểu của Bồ-tát. Này thiện nam! Nếu đệ tử của ta cho là thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói Mười hai bộ loại kinh điển và việc thọ trì, đọc tụng, ghi chép, phô diễn, giảng nói kinh Đại Niết-bàn là ngang bằng, không sai biệt thì nghĩa này chẳng vậy. Vì sao? Này thiện nam! Vì kinh Đại Niết-bàn tức là tạng bí mật sâu xa vi diệu của chư Phật Thế Tôn, cho nên tạng bí mật sâu xa vi diệu của chư Phật là hơn hết. Này thiện nam! Do nghĩa này nên kinh Đại Niết-bàn rất kỳ lạ, rất đặc biệt, chẳng thể nghĩ bàn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con cũng biết kinh Đại Niết-bàn này rất kỳ lạ, rất đặc biệt, chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng chẳng thể nghĩ bàn. Bồ-tát, Bồ-đề, kinh Đại Niết-bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn. Thưa Thế Tôn! Do nghĩa gì mà lại nói, Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn?

–Này thiện nam! Đại Bồ-tát không có người dạy mà có thể tự phát tâm Bồ-đề. Đã phát tâm rồi thì Bồ-tát siêng tu tinh tấn. Giả sử lửa lớn thiêu đốt thân, đầu, Bồ-tát nhất định chẳng cầu cứu, hay xả bỏ tâm niệm Pháp. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát thường tự suy nghĩ: Ta ở trong vô lượng vô số kiếp, hoặc ở tại địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, trong loài người, trên cõi trời bị sự thiêu đốt của ngọn lửa các kiết sử, nhưng chưa từng được một pháp quyết định. Pháp quyết định tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhất định chẳng giữ gìn tiếc nuối thân, tâm cùng mạng sống. Ta vì Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà giả sử thân nát vụn giống như vi trần nhất định chẳng buông bỏ siêng năng tinh tấn. Vì sao? Vì lòng siêng tinh tấn tức là cái nhân của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này thiện nam! Như vậy Bồ-tát chưa thấy Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà có thể chẳng tiếc mạng thân như vậy, huống lại là đã thấy rồi. Vậy nên Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, chẳng thể nghĩ bàn là Đại Bồ-tát thấy vô lượng tội ác của sinh tử, chẳng phải hàng Thanh văn, Duyên giác sánh kịp. Tuy Bồ-tát biết vô lượng lỗi ác của sinh tử nhưng vì chúng sinh nên ở trong đó chịu khổ chẳng sinh chán nản xa lìa. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Đại Bồ-tát vì chúng sinh nên tuy ở tại địa ngục chịu các khổ não nhưng giống như niềm vui Tam thiền. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Ví như nhà ông trưởng giả bị hỏa hoạn. Ông trưởng giả thấy rồi chạy ra khỏi nhà, các con ông ở sau chưa thoát được nạn lửa. Bấy giờ, ông trưởng giả nhất định biết sự tai hại của lửa, nhưng vì các con nên quay trở lại xông vào cứu giúp, chẳng đoái hoài gì đến hiểm nạn ấy. Đại Bồtát cũng như vậy, tuy biết sinh tử có nhiều lỗi ác nhưng vì chúng sinh nên ở lại đó chẳng chán. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề, thấy trong sinh tử có nhiều tội lỗi, lòng liền thoái mất nên hoặc làm Thanh văn, hoặc làm Duyên giác. Nếu có Bồ-tát nghe kinh này thì nhất định chẳng thoái mất tâm Bồ-đề mà làm Thanh văn, Phật-bích-chi. Như vậy Bồ-tát tuy chưa vào bậc sơ địa Bất động mà tâm kiên cố không có thoái mất. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Nếu có người nói, ta có thể bơi qua biển cả. Lời nói như vậy có thể nghĩ bàn chăng?

–Bạch Thế Tôn! Lời nói như vậy, hoặc có thể nghĩ bàn, hoặc chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì nếu người qua được thì chẳng thể nghĩ bàn. A-tu-la qua được thì có thể nghĩ bàn.

–Này thiện nam! Ta cũng chẳng nói A-tu-la mà chính là nói người vậy.

–Bạch Thế Tôn! Trong loài người cũng có người có thể nghĩ bàn, có người chẳng thể nghĩ bàn. Thưa Thế Tôn! Người cũng có hai hạng, một là Thánh nhân, hai là phàm phu. Người phàm phu thì chẳng thể nghĩ bàn. Người Thánh nhân thì có thể nghĩ bàn.

–Này thiện nam! Ta nói phàm phu, chẳng nói Thánh nhân.

–Thưa Thế Tôn! Nếu là phàm phu thì quả thật chẳng thể nghĩ bàn.

–Này thiện nam! Người phàm phu thật chẳng thể qua được nước biển cả. Như vậy Bồ-tát thật có thể qua khỏi biển cả sinh tử. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Nếu có người có thể dùng tơ của ngó sen để treo núi Tu-di lên thì có thể nghĩ bàn chăng?

–Bạch Thế Tôn! Chẳng thể nghĩ bàn.

–Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong khoảng một niệm có thể tính kể hết tất cả sinh tử. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Đại Bồ-tát đã ở vô lượng vô số kiếp thường quan sát sinh tử, vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh nhưng vì chúng sinh mà phân biệt diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh, tuy nói như vậy nhưng chẳng phải là tà kiến. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Như người vào trong nước mà nước chẳng thể nhận chìm, vào trong lửa cháy mà lửa chẳng thể thiêu đốt. Việc như vậy chẳng thể nghĩ bàn. Đại Bồ-tát cũng như vậy, tuy ở trong sinh tử nhưng chẳng bị sự não hại của sinh tử. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Con người có ba hạng là thượng, trung, hạ. Người hạ phẩm khi mới vào thai thì khởi ý nghĩ: “Ta nay ở nơi nhà xí, chỗ mọi dơ bẩn tụ về, vùng bỏ tử thi, trong chỗ nhiều gai nhọn, chỗ rất đen tối”. Khi ra khỏi thai thì họ lại nghĩ rằng: “Ta nay ra khỏi nhà xí, ra khỏi chỗ mọi dơ bẩn cho đến ra khỏi chỗ rất đen tối”. Người trung phẩm khi vào thai thì nghĩ rằng: “Ta nay vào trong rừng cây, trong dòng sông trong sạch, phòng ốc nhà cửa”. Khi ra cũng vậy. Người thượng phẩm khi vào thai thì nghĩ rằng: “Ta thăng lên điện đường, ở tại vùng rừng hoa, cỡi ngựa, cỡi voi đi lên núi cao”. Khi ra cũng vậy. Đại Bồ-tát khi mới vào thai tự biết vào, khi trụ biết trụ, khi ra biết ra nhất định chẳng sinh ra lòng tham, sân nhưng chưa được bậc trụ địa đầu tiên. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác quả thật chẳng thể dùng thí dụ để so sánh. Này thiện nam! Tâm cũng chẳng thể dùng phương tiện thí dụ để so sánh mà đều có thể nói. Đại Bồ-tát không có thầy để thưa hỏi, thọ học mà có thể được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Được pháp này rồi lòng không keo kiệt, Bồ-tát thường vì chúng sinh mà diễn nói. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam! Đại Bồ-tát có viện thân xa lìa chẳng phải là miệng, có việc miệng xa lìa chẳng phải là thân, có việc chẳng phải thân miệng mà cũng xa lìa. Việc thân xa lìa là xa lìa sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Đó gọi là thân xa lìa chẳng phải là miệng. Việc miệng xa lìa là xa lìa nói dối, hai lưỡi, nói ác, nói vô nghĩa. Đó gọi là miệng xa lìa chẳng phải là thân. Việc chẳng phải thân chẳng phải miệng xa lìa là sự xa lìa tham dục, sân hận, tà kiến. Này thiện nam! Đó gọi là việc chẳng phải thân, chẳng phải miệng mà cũng là xa lìa. Này thiện nam! Đại Bồ-tát chẳng thấy một pháp nào là thân, là nghiệp và cùng chủ xa lìa mà cũng có xa lìa. Vậy nên gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Miệng cũng như vậy. Này thiện nam! Từ thân xa lìa thân, từ miệng xa lìa miệng, từ tuệ xa lìa chẳng phải thân, chẳng phải miệng. Này thiện nam! Thật có tuệ này nhưng chẳng thể khiến cho Bồ-tát xa lìa. Vì sao? Này thiện nam! Không có một pháp có thể hủy hoại, có thể tạo tác. Pháp tánh hữu vi sinh khác, diệt khác. Vậy nên tuệ này chẳng thể xa lìa. Này thiện nam! Tuệ này chẳng thể phá, lửa chẳng thể đốt, nước chẳng thể làm thối rữa, gió chẳng thể lay động, đất chẳng thể trì giữ, sinh chẳng thể sinh, già chẳng thể già, trụ chẳng thể trụ, hoại chẳng thể hoại, tham chẳng thể tham, sân chẳng thể sân, si chẳng thể si. Do tánh hữu vi sinh khác, diệt khác nên Đại Bồ-tát nhất định chẳng phát sinh ý niệm: “Ta dùng tuệ này phá các phiền não”. Mà tự nói: “Ta phá phiền não”. Bồ-tát tuy nói lời này nhưng chẳng phải là hư dối. Vậy nên gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nay mới biết Đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng, kinh Đại Niết-bàn và người thọ trì, Bồ-đề Niếtbàn chẳng thể nghĩ bàn. Thưa Thế Tôn! Pháp Phật vô thượng sẽ trụ thế thời gian bao lâu mới diệt?

–Này thiện nam! Như kinh Đại Niết-bàn cho đến có năm hạnh này là hạnh Thánh, hạnh phạm, hạnh thiên, hạnh bệnh, hạnh anh nhi mà nếu đệ tử của Ta có thể thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói nghĩa của những điều ấy và được sự cung kính, tôn trọng, khen ngợi cúng dường đủ thứ của các chúng sinh thì ông nên biết bấy giờ pháp Phật chưa diệt. Này thiện nam! Nếu kinh Đại Niết-bàn lưu hành đầy đủ, đang lúc ấy mà các đệ tử của Ta phạm giới cấm nhiều, tạo tác mọi điều ác, chẳng thể kính tín kinh điển như vậy, do chẳng tin nên chẳng thể thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giảng nói nghĩa ấy, chẳng được sự cung kính cho đến cúng dường của mọi người, thấy người thọ trì thì khinh chê, bài báng rằng: “Ông chính là hạng lục sư, chẳng phải đệ tử của Phật”, thì phải biết là pháp Phật sắp diệt, chẳng còn bao lâu.

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con gần gũi theo Phật, nghe được nghĩa như vầy: “Pháp của Đức Phật Ca-diếp trụ thế bảy ngày sau đó diệt tận”. Thưa Thế Tôn! Đức Như Lai Ca-diếp có kinh này chăng? Như có kinh ấy thì sao nói rằng diệt? Còn như kinh ấy không có thì sao nói rằng kinh Đại Niết-bàn là tạng bí mật của các Đức Như Lai?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Ta nói ở trước rằng, chỉ có Văn-thù-sư-lợi mới giải được nghĩa này. Hôm nay Ta sẽ nói một lần nữa, ông hãy chí tâm lắng nghe. Này thiện nam! Chư Phật Thế Tôn có hai thứ pháp, một là pháp thế gian, hai là pháp đệ nhất nghĩa. Pháp thế gian có thể diệt, pháp đệ nhất nghĩa thì chẳng hoại diệt. Lại có hai thứ, một là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh; hai là thường, lạc, ngã, tịnh. Vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh thì có hoại diệt. Thường, lạc, ngã, tịnh thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là sự trì giữ của Nhị thừa, hai là sự trì giữ của Bồ-tát. Sự trì giữ của Nhị thừa thì có hoại diệt, sự trì giữ của Bồ-tát thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là ngoại, hai là nội. Pháp ngoại thì có hoại diệt, pháp nội thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là hữu vi, hai là vô vi. Pháp hữu vi thì có hoại diệt, pháp vô vi thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là có thể nắm bắt được, hai là chẳng thể nắm bắt được. Pháp có thể nắm bắt được thì có hoại diệt, pháp chẳng thể nắm bắt được thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là pháp cộng, hai là pháp bất cộng. Pháp cộng thì có hoại diệt, pháp bất cộng thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là trong người, hai là trong trời. Pháp trong người thì có hoại diệt, pháp trong trời thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là Mười một bộ loại kinh điển, hai là kinh Phương Đẳng. Mười một bộ loại kinh điển thì có hoại diệt, kinh Phương Đẳng thì không hoại diệt. Này thiện nam! Nếu đe tử của Ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giảng nói kinh điển Phương Đẳng, cung kính, tôn trọng, khen ngợi thì phải biết bấy giờ pháp Phật chẳng diệt. Này thiện nam! Vừa rồi ông hỏi Đức Như Lai Ca-diếp có kinh này chăng? Này thiện nam! Kinh Đại Niết-bàn đều là tạng bí mật của tất cả chư Phật. Vì sao? Vì các Đức Phật tuy có mười một bộ loại kinh điển nhưng chẳng nói Phật tánh, chẳng nói Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh. Chư Phật Thế Tôn vĩnh viễn chẳng rốt ráo vào Niết-bàn. Vậy nên kinh này gọi là tạng bí mật của Như Lai, điều mà chẳng nói ở Mười một bộ loại kinh điển. Vậy nên gọi là tạng. Như người có bảy báu, chẳng đem ra ngoài để dùng nên gọi đó là tạng. Này thiện nam! Người đó sở dĩ tàng chứa vật này là vì việc chưa đến. Những gì là việc chưa đến? Đó là lúa gạo khan hiếm, giặc đến xâm lấn đất nước, gặp phải vua ác dùng tiền chuộc mạng, nạn nguy cấp trên đường đi, của cải khó được thì mới phải xuất ra để dùng. Này thiện nam! Tạng bí mật của chư Phật Như Lai cũng như vậy, vì những Tỳ-kheo ác ở đời vị lai cất chứa những vật bất tịnh, vì bốn chúng nói Như Lai rốt ráo vào Niết-bàn, đọc tụng thế điển, chẳng kính Phật kinh v.v khi những việc ác như vậy hiện ở đời thì Đức Như Lai vì muốn diệt những việc ác đó, khiến cho họ được xa lìa tà mạng, lợi dưỡng thì Như Lai vì họ diễn nói kinh này. Nếu kinh điển này, tạng bí mật của Như Lai biến mất thì phải biết là bấy giờ pháp Phật diệt. Này thiện nam! Kinh điển Đại Niết-bàn thường trụ chẳng biến đổi thì sao lại hỏi, thời Đức Phật Ca-diếp có kinh này không? Này thiện nam! Chúng sinh thời Đức Phật Ca-diếp tham dục rất ít, trí tuệ nhiều, các Đại Bồ-tát điều hòa, mềm mỏng dễ giáo hóa, có uy đức lớn, tổng trì chẳng quên như đại tượng vương, thế giới Phật thì thanh tịnh. Tất cả chúng sinh của thế giới đó đều biết Như Lai chẳng bao giờ rốt ráo vào Niết-bàn, mà thường trụ, bất biến, nên tuy có kinh điển này nhưng chẳng cần diễn nói. Này thiện nam! Đời này, chúng sinh nhiều những phiền não, ngu si, hay quên, không có trí tuệ, nhiều những lưới nghi hoặc, tín căn chẳng thành lập, thế giới bất tịnh, tất cả chúng sinh đều cho là Như Lai vô thường, biến thiên, rốt ráo vào Đại Bát Niết Bàn. Vậy nên Như Lai diễn nói kinh điển này. Này thiện nam! Pháp của các Đức Phật Cadiếp thật cũng chẳng diệt. Vì sao? Vì thường trụ, bất biến. Này thiện nam! Nếu có chúng sinh mà ngã thấy vô ngã, vô ngã thấy ngã; thường thấy vô thường, vô thường thấy thường; lạc thấy vô lạc, vô lạc thấy lạc; tịnh thấy bất tịnh, bất tịnh thấy tịnh; diệt thấy bất diệt, bất diệt thấy diệt; tội thấy chẳng phải tội; chẳng phải tội thấy tội; tội nhẹ thấy nặng, tội nặng thấy nhẹ; thừa thấy chẳng phải thừa, chẳng phải thừa thấy thừa; đạo thấy chẳng phải đạo, chẳng phải đạo thấy đạo; thật là Bồ-đề thấy chẳng phải Bồ-đề, thật chẳng phải Bồ-đề thấy là Bồ-đề; khổ thấy chẳng phải khổ, tập thấy chẳng phải tập, diệt thấy chẳng phải diệt, thật thấy chẳng phải thật; thật là thế đế thấy đệ nhất nghĩa đế, đệ nhất nghĩa đế thấy là thế đế; quay về thấy chẳng phải quay về, chẳng phải quay về thấy quay về; cho lời Phật chân thật là lời nói của ma, thật là lời nói của ma cho là lời nói của Phật thì khi ấy chư Phật mới nói kinh điển Đại Niết-bàn. Này thiện nam! Thà nói muỗi hút cạn biển cả chứ chẳng thể nói pháp Như Lai diệt. Thà nói miệng thổi hoại tạn núi Tudi, chứ chẳng thể nói pháp Như Lai diệt. Thà nói dùng sợi tơ trói được gió mạnh, chứ chẳng thể nói pháp Như Lai diệt. Thà nói trong lửa Khưđà-la mọc ra hoa sen, chứ chẳng thể nói pháp Như Lai diệt. Thà nói thuốc A-dà-đà là độc dược chứ chẳng thể nói pháp Như Lai diệt. Thà nói mặt trăng có thể làm cho nóng, mặt trời có thể làm cho lạnh, chứ chẳng thể nói pháp Như Lai diệt. Thà nói bốn đại đều bỏ tánh của mình, chứ chẳng thể nói pháp Như Lai diệt. Này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, chưa có đệ tử hiểu rõ nghĩa thâm diệu mà Đức Phật Thế Tôn đó liền nhập Niếtbàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử hiểu rõ nghĩa thâm diệu thì tuy Phật Niết-bàn, nhưng phải biết là pháp đó trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, tuy có đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, nhưng không có đàn-việt bạch y dốc lòng tin kính trọng pháp Phật mà Phật liền Niết-bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, có nhiều đàn-việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng pháp Phật thì tuy Phật Niết-bàn, nhưng phải biết là pháp Phật trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, tuy có đàn-việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng pháp Phật, nhưng mà các đệ tử diễn nói kinh pháp vì tham lợi dưỡng, chẳng vì Niết-bàn, Phật lại diệt độ thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, lại có đàn-việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng pháp Phật, các đệ tử của Đức Phật đó, phàm diễn nói kinh pháp, chẳng tham lợi dưỡng vì cầu Niết-bàn thì tuy Đức Phật diệt độ nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài.

Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, tuy có đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, lại có đàn-việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng pháp Phật, mà các đệ tử dấy lên nhiều tranh cãi phải trái lẫn nhau, Phật lại Niết-bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, lại có đàn-việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng pháp Phật, các đệ tử của Đức Phật đó tu pháp hòa kính, chẳng tranh phải trái, tôn trọng lẫn nhau thì Phật tuy Niết-bàn nhưng phải biết pháp đó trụ lâu chẳng diệt. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, tuy có đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, lại có đàn-việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng pháp Phật, các đệ tử của Đức Phật ấy vì Đại Niết-bàn mà diễn nói pháp, cung kính lẫn nhau, chẳng khởi lên tranh cãi, nhưng cất chứa tất cả vật bất tịnh, lại tự khen rằng, ta được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, mà Đức Phật lại Niết-bàn thì phải biết pháp đó trụ thế chẳng lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử hiểu được nghĩa thâm diệu, lại có đàn-việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng pháp Phật, các đệ tử của Đức Phật đó vì Đại Niết-bàn diễn nói kinh pháp, khéo tu hòa kính, tôn trọng lẫn nhau, chẳng cất chứa tất cả vật bất tịnh, cũng chẳng nói rằng được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán, Đức Phật

Thế Tôn đó tuy lại diệt độ, nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử cho đến chẳng cất chứa vật bất tịnh, lại chẳng tự nói rằng được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-lahán, nhưng đều chấp sở kiến, đủ thứ dị thuyết-mà nói lên rằng: “Thưa trưởng lão! Phật đã chế ra bốn trọng pháp cho đến bảy pháp diệt tránh là vì chúng sinh nên hoặc ngăn hoặc mở, mười hai bộ loại kinh điển cũng như vậy. Vì sao? Vì Phật biết đất nước, thời tiết đều khác, chúng sinh chẳng đồng, độn căn, lợi căn sai biệt. Vậy nên Như Lai hoặc ngăn, hoặc mở, có khinh, có trọng mà nói. Này thiện nam! Ví như vị lương y vì bệnh cho uống sữa, vì bệnh ngăn uống sữa, bệnh nóng thì cho uống, bệnh lạnh thì ngăn. Như Lai cũng vậy, quan sát bệnh căn phiền não của chúng sinh nên cũng mở, cũng ngăn. Thưa trưởng lão! Tôi thân cận theo Đức Phật nghe được nghĩa như vậy. Chỉ có tôi biết nghĩa, còn ông thì chẳng thể biết. Chỉ có tôi giải được luật, còn ông thì chẳng thể giải. Tôi biết các kinh, còn ông thì chẳng thể biết”, và Đức Phật đó lại diệt độ thì phải biết pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, có các đệ tử cho đến chẳng nói ta được quả Tu-đà-hoàn cho đến quả Ala-hán, cũng chẳng nói: “Chư Phật Thế Tôn vì chúng sinh nên hoặc ngăn, hoặc mở. Thưa trưởng lão! Tôi thân cận theo Đức Phật nghe nghĩa như vậy, pháp như vậy, luật như vậy. Thưa trưởng lão! Phải nương vào Mười hai bộ loại kinh điển của Như Lai; nghĩa này như vậy thì tôi thọ trì, như chẳng phải nghĩa ấy thì tôi sẽ xả bỏ”, thì tuy Đức Phật Thế Tôn đó lại Niết-bàn, nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Này thiện nam! Khi pháp của Ta diệt, có hàng đệ tử Thanh văn, hoặc nói có thần, hoặc nói thần rỗng không, hoặc nói có ấm bên trong, hoặc nói không ấm bên trong, hoặc nói có ba đời, hoặc nói không ba đời, hoặc nói có ba thừa, hoặc nói không ba thừa, hoặc nói tất cả hữu, hoặc nói tất cả không, hoặc nói chúng sinh có thỉ có chung, hoặc nói chúng sinh vô thỉ vô chung, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp hữu vi, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp vô vi, hoặc nói Như Lai có bệnh khổ hạnh, hoặc nói Như Lai chẳng cho Tỳ-kheo ăn mười thứ thịt. Những gì là mười? Đó là thịt người, rắn, voi, ngựa, lừa, chó, sư tử, heo, chồn, khỉ đột. Những thứ còn lại ấy đều cho ăn. Hoặc nói tất cả chẳng cho ăn. Hoặc nói Tỳ-kheo chẳng làm năm việc. Những gì là năm? Là chẳng bán nô lệ, dao, rượu, cát sông, dầu mè, ngoài ra đều cho làm.

Hoặc nói chẳng cho vào năm thứ nhà. Những gì là năm? Đó là nhà giết mổ, nhà dâm nữ, nhà bán rượu, cung vua, nhà Chiên-đà-la, còn những nhà khác cho vào. Hoặc nói chẳng cho mặc áo Kiều-xa-gia, còn lại tất cả đều cho. Hoặc nói Như Lai cho các Tỳ-kheo nhận cất chứa áo quần, thức ăn, ngọa cụ mà giá trị những đồ ấy đến hàng mười vạn lượng vàng, hoặc nói chẳng cho. Hoặc nói Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Hoặc nói Niết-bàn chính là kiết sử hết, lại không có thứ pháp riêng biệt nào gọi là Niết-bàn. Ví như dệt sợi tơ gọi đó là áo mà áo đã hoại rồi thì gọi là không có áo. Thật ra không có pháp riêng biệt nào gọi là không có áo. Thể của Niết-bàn cũng như vậy. Này thiện nam! Lúc ấy, đệ tử của Ta, người nói chân chính thì ít, kẻ nói tà bậy thì nhiều, người thọ chánh pháp thì ít, kẻ thọ tà pháp thì nhiều, người thọ lời Phật thì ít, kẻ thọ lời ma thì nhiều. Này thiện nam! Bấy giờ, nước Câu-diệm-di có hai đệ tử, một là A-la-hán, hai là phá giới. Đồ chúng của người phá giới có đến năm trăm người, đồ chúng của vị A-la-hán có một trăm người. Người phá giới nói: “Đức Như Lai rốt ráo vào Niết-bàn, ta gần gũi theo Đức Phật nghe được nghĩa như vậy. Như Lai đã chế ra bốn trọng pháp mà nếu giữ gìn thì cũng có thể phạm, cũng không có tội. Ta nay cũng được quả A-la-hán, bốn trí vô ngại mà A-la-hán cũng phạm bốn trọng cấm như vậy. Bốn trọng pháp nếu thật là tội thì A-la-hán nhất định chẳng nên phạm. Đức Như Lai tại thế chế rằng, kiên trì đến khi Niếtbàn thì đều buông bỏ hết”. Vị Tỳ-kheo A-la-hán nói: “Thưa trưởng lão! Ông chẳng nên nói Như Lai rốt ráo vào Niết-bàn. Tôi biết Như Lai thường trụ chẳng biến dịch. Đức Như Lai tại thế và sau khi Niết-bàn, thì người phạm bốn trọng cấm tội không sai biệt. Nếu nói A-la-hán phạm bốn trọng cấm thì nghĩa đó chẳng đúng. Vì sao? Vì người Tu-đàhoàn chẳng phạm giới cấm, huống gì là A-la-hán. Nếu trưởng lão nói, ta là A-la-hán, thì A-la-hán nhất định chẳng sinh ra tư tưởng ta được Ala-hán. A-la-hán thì chỉ nói pháp thiện, chẳng nói pháp bất thiện. Lời nói của trưởng lão đều thuần là phi pháp. Nếu người có được thấy mười hai bộ loại kinh điển thì nhất định biết trưởng lão chẳng phải là A-lahán”. Này thiện nam! Bấy giờ, đồ chúng của Tỳ-kheo phá giới liền cùng nhau giết chết vị A-la-hán. Này thiện nam! Khi đó Ma vương nhân lòng phẩn hận của hai chúng đó nên làm hại hết sáu trăm vị Tỳkheo này. Bấy giờ, người phàm phu đều cùng nói: “Thương thay! Pháp Phật đến đây đã diệt tận”. Nhưng chánh pháp của Ta thật chẳng diệt. Bấy giờ, nước ấy có mười hai vạn vị Đại Bồ-tát giỏi hộ trì pháp của Ta thì sao nói pháp của Ta diệt? Khi ấy, trong cõi Diêm-phù-đề không có một vị Tỳ-kheo làm đệ tử của Ta. Bấy giờ, ma Ba-tuần dùng lửa lớn đốt cháy tất cả kinh điển. Trong số kinh điển ấy, nếu có cuốn còn sót lại thì các Bà-la-môn liền trộm lấy, khắp nơi nhặt nhạnh đem xếp vào kinh điển của mình. Do nghĩa này nên khi Phật chưa xuất hiện thì các tiểu Bồ-tát cùng theo tín thọ lời nói của Bà-la-môn. Các Bà-la-môn tuy nói: “Ta có trai giới”. Nhưng các ngoại đạo thật ra không có. Các ngoại đạo v.v… tuy nói rằng, có ngã, lạc, tịnh nhưng thật chẳng thể hiểu được nghĩa ngã, lạc, tịnh. Chỉ dùng một chữ, hai chữ, một câu, hai câu của pháp Phật mà nói là kinh điển của Ta có nghĩa như vậy.

Bấy giờ, trong rừng Ta-la song thọ ở thành Câu-thi-na, vô lượng vô biên vô số chúng nghe lời nói này rồi đều cùng xướng lên: “Thế gian rỗng không! Thế gian rỗng không!”.

Bồ-tát Ca-diếp bảo các đại chúng:

–Các ông chớ ưu sầu gào khóc. Thế gian chẳng rỗng không. Như Lai thường trụ, không có biến đổi. Pháp, Tăng cũng vậy.

Bấy giờ, đại chúng nghe lời này rồi không kêu khóc nữa, tất cả đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

*********

Bấy giờ, vua A-xà-thế của thành lớn Vương-xá, tánh tình hung ác, ưa giết hại, miệng đủ bốn lỗi ác, tham lam, sân giận, ngu si nung đốt tâm vua. Vua chỉ thấy hiện tại, chẳng thấy vị lai, thuần dùng người ác làm quyến thuộc, tham đắm năm dục đời hiện tại. Phụ vương không tội, vua đang tâm làm hại. Hại cha rồi, lòng sinh hối hận nóng bức, cởi bỏ chuỗi ngọc nơi thân, chẳng ngự xem kỹ nhạc. Vì lòng hối hận, nóng bức nên khắp thân thể sinh ra ghẻ lở. Ghẻ lở hôi thối, dơ bẩn, chẳng thể đến gần, vua liền tự nghĩ: “Ta hôm nay thân đã chịu họa báo, còn quả báo địa ngục rất gần chẳng xa”. Bấy giờ, mẹ vua tên là Vi-đề-hy, dùng đủ thứ thuốc thoa thì ghẻ ấy liền tăng thêm, không có giảm bớt. Vua liền thưa mẹ: “Như vậy ghẻ lở từ lòng mà sinh ra chẳng phải do bốn đại khởi lên. Nếu nói rằng, chúng sinh có thể trị được thì đó là điều không có”. Có vị đại thần tên là Nguyệt Xứng, đến chỗ nhà vua, đứng ở một bên, tâu: “Tâu đại vương! Vì sao ưu sầu, tiều tụy, dung nhan chẳng vui? Vì thân đau, hay vì lòng đau?”. Nhà vua đáp lời bề tôi: “Ta nay thân tâm đều đau. Cha ta không tội mà ngang nhiên làm hại. Ta theo người trí từng nghe nghĩa này: “Đời có năm hạng người chẳng thoát được địa ngục, gọi là tội ngũ nghịch”. Ta nay đã có vô lượng vô biên vô số tội thì sao mà thân tâm chẳng bị đau. Lại không có lương y trị liệu cho thân tâm của ta”. Vị đại thần tâu: “Tâu đại vương! Đại vương chớ sầu khổ”, liền nói kệ:

Nếu thường sầu khổ
Sầu liền lớn lên
Như người ưa ngủ
Thì ngủ nhiều thêm
Tham dâm thèm rượu
Cũng lại như trên.

Như lời nhà vua nói, đời có năm hạng người chẳng thoát khỏi địa ngục, ai đến đó thấy mà về nói với vua vậy? Người nói địa ngục chính là người nhiều trí của thế gian nói. Như lời vua nói, đời không có lương y trị thân tâm thì hôm nay có vị đại lương y tên là Phú-lan-na, tất cả đều thấy biết, được định tự tại, rốt ráo tu tập phạm hạnh thanh tịnh, thường vì vô lượng vô biên chúng sinh mà diễn nói đạo Niết-bàn vô thượng. Ông vì các đệ tử nói pháp như vầy: “Không có nghiệp ác, không nghiệp báo ác, không có nghiệp thiện, không nghiệp báo thiện, không có nghiệp vừa ác vừa thiện, không nghiệp báo vừa thiện vừa ác, không có nghiệp trên và cả nghiệp dưới. Vị thầy này nay ở tại trong thành Vương-xá. Nguyện xin đại vương hạ mình, xa giá đến đó, có thể khiến cho vị thầy đó trị liệu thân tâm cho đại vương. Nhà vua đáp: “Xét nếu quả đúng như vậy, diệt trừ được tội của ta thì ta sẽ quy y”.

Lại có một vị bề tôi tên là Tạng Đức, đến chỗ nhà vua tâu: “Thưa đại vương! Vì sao diện mạo của đại vương tiều tụy, môi miệng khô nứt, âm thanh lí nhí giống như người khiếp nhược nhìn thấy oán địch lớn. Nhan sắc đại vương biến đổi thảm hại vì nỗi khổ gì đây? Vì thân đau, hay vì lòng đau?”. Nhà vua liền đáp: “Ta nay thân tâm làm sao chẳng đau? Ta đã ngu si, mù tối, không có mắt tuệ, gần gũi thân thiện với bạn ác mà tưởng là thiện, theo lời người ác Đề-bà-đạt-đa nghịch hại vị vua chánh pháp. Ta xưa từng nghe người trí nói kệ:

Đối với song thân
Phật và đệ tử
Sinh tâm bất thiện
Khởi lên nghiệp ác
Như vậy quả báo
Tại ngục A-tỳ.

Do việc này nên khiến cho lòng ta sợ, sinh khổ não lớn, lại không có lương y trị liệu cho”. Vị đại thần lại tâu: “Xin đại vương chớ buồn sợ. Pháp có hai thứ, một là xuất gia, hai là vương pháp. Vương pháp thì gọi là hại cha là vua đất nước. Tuy gọi là nghịch nhưng thật không có tội, như con trùng ca-la-la cần phải phá hoại bụng của mẹ rồi sau đó mới sinh ra. Phép sinh như vậy, tuy phá hoại thân mẹ nhưng thật cũng không có tội. Con la mang thai v.v… cũng như vậy. Phép trị nước, phương pháp nên như vậy, tuy giết hại cha, anh nhưng thật không có tội. Phép xuất gia thì thậm chí giết con muỗi, con kiến cũng có tội. Xin đại vương an tâm chớ buồn. Vì sao? Vì:

Nếu thường sầu khổ
Sầu liền lớn lên
Như người ưa ngủ
Thì ngủ nhiều thêm
Tham dâm, thèm rượu
Cũng lại như trên.

Như lời vua nói, đời không có lương y trị liệu thân tâm, thì nay có Đại sư tên là Mạt-già-lê-câu-xá-ly-tử, tất cả đều hiểu biết, thương xót chúng sinh giống như con đỏ, đã lìa khỏi phiền não, có thể nhổ ba mũi tên bén độc hại của chúng sinh. Tất cả chúng sinh đối với tất cả pháp không biết, không thấy, không hiểu, chỉ một người này độc nhất biết, thấy, hiểu. Đại sư như vậy thường vì đệ tử nói pháp như vầy: Thân của tất cả chúng sinh có bảy thành phần. Những gì là bảy? Đó là đất, nước, gió, lửa, khổ, vui, thọ mạng. Bảy pháp như vậy chẳng phải hóa, chẳng phải tạo tác, chẳng thể hủy hại như cỏ Y-sư-ca, an trụ chẳng động như núi Tu-di, chẳng xả, chẳng tác giống như kem sữa, đều chẳng tranh tụng, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc thiện, hoặc chẳng thiện, lao vào dao bén không bị tổn thương. Vì sao? Vì bảy thành phần rỗng không không có chướng ngại nên mạng cũng không hại. Vì sao? Vì không có hại và chết nên không tạo tác, không thọ nhận, không nói, không nghe, không có niệm và dạy bảo. Vị ấy thường nói pháp này có thể khiến cho chúng sinh diệt trừ tất cả vô lượng tội nặng, hiện nay ở tại đại thành Vươngxá, xin đại vương đi đến nơi ấy. Nếu vua thấy ông ấy thì mọi tội đều tiêu trừ”. Nhà vua đáp: “Xét nếu quả đúng như vậy, trừ diệt được tội của ta thì ta sẽ quy y”.

Lại có một đại thần tên là Thật Đắc, đến chỗ vua, liền nói kệ:

Vì sao đại vương
Thân cởi chuỗi ngọc
Đầu tóc rối tung
Đến nỗi như vậy?
Vì sao thân vua
Run rẩy chẳng yên
Giống như gió mạnh
Thổi động cây hoa?

Đức vua hôm nay vì sao dung nhan ưu sầu tiều tụy giống như nông phu sau khi xuống giống mà trời chẳng mưa. Đại vương sầu khổ như vậy là chính tâm đau hay là thân đau?”. Nhà vua liền đáp: “Ta hôm nay thân tâm há lại chẳng đau sao? Cha ta từ ái nhân đức, thật không lỗi lầm, nghĩ lại mà thương. Vua cha có lần đến hỏi thầy tướng, thầy tướng đáp, sinh đứa con này rồi, nhất định về sau sẽ hại cha. Tuy nghe lời nói này nhưng vua cha còn nâng niu nuôi dưỡng ta. Ta từng nghe kẻ trí nói rằng, nếu người thông dâm với mẹ và Tỳ-kheo-ni, ăn trộm đồ vật của Tăng, giết người phát tâm Bồ-đề và hại cha của mình, người như vậy nhất định sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ. Ta nay thân tâm há chẳng đau sao?”. Vị đại thần lại nói: “Xin đại vương chớ sầu khổ. Như phụ vương của vua tu giải thoát mà giết hại ông ấy thì có tội. Nếu theo pháp trị nước mà giết thì không có tội. Tâu đại vương! Chẳng phải pháp thì gọi là vô pháp mà vô pháp thì gọi là vô tội. Ví như không con thì gọi là vô tử, cũng như tử ác cũng gọi là vô tử. Tuy nói rằng, không con nhưng thật chẳng phải là không con. Như ăn không muối gọi là không muối, nếu ăn ít muối cũng gọi là không muối. Như dòng sông không nước gọi là không nước, nếu có ít nước cũng gọi là không nước. Như từng niệm từng niệm diệt gọi là vô thường, tuy trụ một kiếp cũng gọi là vô thường. Như người chịu khổ gọi là không vui, tuy hưởng ít vui cũng gọi là không vui. Như chẳng tự tại gọi là vô ngã, tuy ít tự tại cũng gọi là vô ngã. Như khi đêm tối gọi là không mặt trời, khi mây mù cũng nói rằng không mặt trời. Tâu đại vương! Tuy nói rằng ít pháp gọi là vô pháp nhưng thật chẳng phải không có pháp. Xin đức vua để lòng nghe lời nói của thần, tất cả chúng sinh đều có dư nghiệp. Do nghiệp duyên nên đôi khi thọ sinh tử. Nếu giả sử đấng tiên vương có dư nghiệp mà nay đức vua hại ngài thì có tội gì? Xin đại vương yên tâm chớ ưu sầu.

Vì sao? Vì:

Nếu thường sầu khổ
Sầu khổ lớn lên
Như người ưa ngủ
Thì ngủ nhiều thêm
Tham dâm, thích rượu
Cũng lại như trên.

Như lời vua nói, đời không có lương y trị liệu thân tâm thì hôm nay có Đại sư tên là San-xà-gia-tỳ-la-chi-tử, tất cả đều biết, thấy, hiểu, trí tuệ uyên thâm giống như biển cả, có uy đức lớn, đủ đại thần thông, có thể khiến cho chúng sinh lìa khỏi các lưới nghi, tất cả chúng sinh chẳng biết, thấy, hiểu, chỉ độc một người này là biết, thấy, hiểu. Hôm nay vị đại sư này trụ ở gần thành Vương-xá, vì các đệ tử nói pháp như vầy: Trong tất cả chúng, nếu là vương giả thì tự tại tùy ý tạo tác nghiệp ác. Tuy làm mọi ác nhưng đều không có tội. Như lửa thiêu đốt vật không phân biệt tịnh hay chẳng tịnh, vua cũng như vậy, cùng với lửa đồng tánh. Ví như đại địa, sạch, dơ đều chở hết. Tuy làm việc đó mà đất không giận hay mừng, vua cũng như vậy, cùng với đất đồng tánh. Ví như tánh của nước, sạch dơ đều tẩy rửa. Tuy làm việc đó mà nước cũng không lo hay mừng, vua cũng như vậy, cùng với nước đồng tánh. Ví như tánh của gió, sạch hay dơ đều thổi. Tuy làm việc đó mà gió cũng không lo hay mừng, vua cũng như vậy, cùng với gió đồng tánh. Như mùa thu cây trụi cành lá, mùa xuân thì trở lại sinh ra. Tuy trụi cành lá nhưng thật không có tội. Tất cả chúng sinh cũng như vậy, mạng chung chỗ này trở lại sinh ra chỗ kia. Vì sinh ra trở lại nên đâu có tội gì. Quả báo khổ vui của tất cả chúng sinh đều chẳng do nghiệp của đời hiện tại. Nhân tại quá khứ thì hiện tại thọ quả. Hiện tại mà không nhân thì vị lai không quả. Do quả báo hiện tại nên chúng sinh trì giới, siêng tu tinh tấn, ngăn chận quả ác hiện tại. Do trì giới nên được vô lậu. Được vô lậu nên hết nghiệp hữu lậu. Do hết nghiệp nên mọi khổ được hết mà mọi khổ hết nên được giải thoát. Xin đại vương hãy mau đến chỗ vị đại sư ấy, để cho ông ấy trị liệu sự thống khổ của thân tâm ngài. Đức vua nếu thấy vị đại sư ấy thì mọi tội tiêu trừ”. Nhà vua liền đáp: “Xét nếu đúng có vị đại sư này, có thể trừ được tội của ta thì ta sẽ quy y”.

Lại nữa, có một đại thần tên là Tất Tri Nghĩa đến chỗ nhà vua tâu: “Đức vua hôm nay vì sao hình dung chẳng đoan nghiêm như người mất nước, như suối khô cạn, ao không hoa sen, cây không hoa lá, như Tỳ-kheo phá giới, thân không uy đức, vì thân đau hay vì tâm đau?”. Nhà vua liền đáp: “Ta nay thân tâm há chẳng đau sao? Cha ta, đức tiên vương từ ái nhân đức, nhưng ta bất hiếu, chẳng biết báo ơn. Cha ta thường dùng sự an lạc để làm cho ta được an lạc mà ta bội ân, phản nghịch cắt đứt niềm an lạc ấy. Đức tiên vương không tội mà ta ngỗ ngược giết hại. Ta cũng từng nghe kẻ trí nói, nếu có người hại cha thì sẽ ở trong vô lượng vô số kiếp, thọ khổ não lớn. Ta nay chẳng bao lâu nữa nhất định rơi vào địa ngục mà lại không có lương y cứu tế, trị liệu tội của ta”. Vị đại thần liền tâu: “Xin đại vương buông bỏ sầu khổ. Đức vua chẳng nghe sao? Thuở xưa có một vị vua tên là La-ma hại cha mình, rồi được nối ngôi vua. Đại vương Bạt-đề, vua Tỳ-lâu-chân, vua Na-hầu-sa, vua Ca-đế-ca, vua Tỳ-xá-khư, vua Nguyệt Quang Minh, vua Nhật Quang Minh, vua Ái, vua Trì-đa-nhân v.v… những vua như vậy đều hại cha của mình để được nối ngôi, nhưng không có một vị vua nào vào địa ngục cả. Ở hiện tại vua Tỳ-lưu-ly, vua Ưu-đà-na, vua Ác Tánh, vua Thử, vua Liên Hoa v.v…, những vua như vậy đều hại cha mình mà không một vị vua nào sinh ra sầu não cả. Tuy nói rằng, trong địa ngục, ngạ quỷ, trời nhưng nào có ai thấy đâu? Tâu đại vương! Chỉ thấy có hai cõi, một là cõi người, hai là cõi súc sinh thôi. Tuy có hai cõi đó nhưng chẳng phải là nhân duyên sinh, chẳng phải là nhân duyên chết. Nếu chẳng phải do nhân duyên thì làm gì có thiện ác. Xin đại vương chớ ôm lòng buồn sợ. Vì sao? Vì:

Nếu thường sầu khổ
Sầu liền tăng lên
Như người ưa ngủ
Thì ngủ nhiều thêm
Tham dâm, thích rượu
Cũng lại như trên.

Như lời đại vương nói, đời không có lương y trị liệu thân tâm, thì nay có Đại sư tên là A-kỳ-đa-xí-xá-khâm-bà-la, tất cả đều thấy biết, quán vàng cùng đất bình đẳng không hai, kẻ cầm dao chặt vào hông phải, người trát chiên-đàn vào hông trái, đại sư ấy đối với hai người này lòng không sai khác, bình đẳng, với kẻ oán người thân lòng không phân biệt. Vị thầy này chân thật là lương y của đời, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi luôn ở tại Tam-muội, tâm không phân tán. Vị ấy bảo các đệ tử rằng, hoặc tự làm hoặc dạy người khác làm, hoặc tự chặt hoặc dạy người khác chặt, hoặc tự nướng hoặc dạy người khác nướng, hoặc tự hại hoặc dạy người khác hại, hoặc tự ăn trộm hoặc dạy người khác ăn trộm, hoặc tự dâm dục hoặc dạy người khác dâm dục, hoặc tự nói dối hoặc dạy người khác nói dối, hoặc tự uống rượu hoặc dạy người khác uống rượu, hoặc giết chết một làng, một thành, một nước, hoặc dùng bánh xe dao giết chết tất cả chúng sinh, hoặc ở phía Nam sông Hằng bố thí chúng sinh mà ở phía Bắc sông Hằng thì sát hại chúng sinh đều không có tội phước, không có thí, giới, định. Hiện nay vị đại sư ấy trụ ở gần thành Vương-xá, xin đại vương mau đến đó. Đại vương nếu thấy vị ấy thì mọi tội lỗi đều trừ diệt hết”. Nhà vua nói: “Này đại thần! Xét nếu đúng như vậy, trừ diệt được tội của ta thì ta sẽ quy y”.

Lại có vị đại thần tên là Cát Đức, đến chỗ nhà vua tâu: “Đức vua hôm nay vì sao mặt không ngời sáng? Sao như ánh đèn trong ánh sáng mặt trời? Như mặt trăng lúc ban ngày? Như vua mất nước? Như đất bỏ hoang? Tâu đại vương! Hôm nay, bốn phương thanh bình, không có những oán địch mà vì sao đức vua sầu khổ như vậy? Vì thân khổ hay vì tâm khổ? Có các vương tử thường sinh ý niệm này, ta nay khi nào được tự tại? Tâu đại vương! Hôm nay đại vương đã thỏa nguyện tự tại. Đức vua thống lãnh nước Ma-già-đà, bảo tàng của tiên vương đã được đầy đủ thì chỉ khoái ý mặc tình thọ hưởng lạc thú. Đại vương ôm mãi sầu não như vậy để làm gì?”. Nhà vua đáp: “Ta nay làm sao chẳng sầu não được? Này đại thần! Ví như người ngu chỉ tham vị ngon mà chẳng thấy lưỡi dao bén, như ăn tạp độc mà chẳng thấy cái hại của độc ấy, ta cũng như vậy. Như con hươu thấy cỏ mà chẳng thấy hố sâu, như con chuột tham ăn mà chẳng thấy mèo chồn, ta cũng như vậy. Ta thấy niềm vui hiện tại mà chẳng thấy quả khổ chẳng lành đời sau. Ta từng theo bậc trí giả nghe lời nói như vầy: “Thà trọn ngày chịu đựng ba trăm lần giáo đâm, chớ chẳng đối với cha mẹ sinh ra một ý niệm ác”. Ta nay đã gần với lửa cháy rực của địa ngục thì làm sao chẳng sầu não được?”. Vị đại thần lại tâu: “Ai đến dối gạt đức vua rằng có địa ngục? Như cây nhọn đâm vào đầu là do ai tạo ra? Chim màu khác do ai làm ra? Tánh của nước thấm nhuần, tánh của đá cứng chắc, như tánh của gió động, như tánh của lửa nóng v.v… tất cả muôn vật tự chết tự sinh, do ai tạo tác? Nói địa ngục thì chỉ là sự tạo tác văn từ của bậc trí giả. Nói địa ngục là có nghĩa gì? Địa gọi là đất, ngục gọi là phá. Phá địa ngục không có tội báo. Đó gọi là địa ngục. Lại nữa, địa là gọi người, ngục là gọi trời. Do hại cha mình nên đến với người, trời. Do nghĩa này nên tiên nhân Bà Tẩu nói: Giết dê được niềm vui người trời. Đó gọi là địa ngục. Lại nữa, địa là gọi mạng, ngục là gọi dài. Do giết sự sống nên được thọ mạng lâu dài, nên gọi là địa ngục. Tâu đại vương! Vậy đại vương phải biết thật không có địa ngục. Tâu đại vương! Như gieo lúa mì được lúa mì, gieo lúa nước được lúa nước, giết địa ngục thì trở lại được địa ngục, giết hại người nên trở lại được làm người. Tâu đại vương! Hôm nay, đại vương phải nghe lời nói của thần là thật không có sự giết hại. Nếu có ngã thì thật cũng không hại. Nếu vô ngã thì lại không có cái bị hại. Vì sao? Vì nếu có ngã thì thường trụ, chẳng biến dịch. Do thường trụ nên chẳng thể giết hại. Chẳng phá, chẳng giữ, chẳng ràng, chẳng buộc, chẳng giận, chẳng mừng giống như hư không thì sao gọi là có tội giết hại? Nếu vô ngã thì các pháp vô thường. Do vô thường nên từng niệm từng niệm hoại diệt, mà nếu từng niệm từng niệm diệt thì cái giết cái chết đều từng niệm từng niệm diệt. Nếu từng niệm từng niệm diệt thì ai phải có tội? Tâu đại vương! Như lửa đốt cây, lửa thì không tội, như búa chặt cây, búa cũng không tội, như liềm cắt cỏ, liềm thật không tội, như dao giết người, dao thật chẳng phải là người, mà dao đã không tội thì người làm sao gọi là tội? Như độc giết người, độc thật chẳng phải là người. Thuốc độc không tội thì người sao gọi là tội? Tất cả muôn vật đều cũng như vậy, thật không giết hại thì sao gọi là có tội? Xin đại vương chớ sinh sầu khổ. Vì sao? Vì:

Nếu thường sầu khổ
Sầu liền tăng lên
Như người ưa ngủ
Thì ngủ nhiều thêm
Tham dâm, thích rượu
Cũng lại như trên.

Như lời vua nói, đời không có lương y trị liệu nghiệp ác thì hôm nay có vị Đại sư tên là Ca-là-cưu-đà Ca-chiên-diên, tất cả đều thấy biết, sáng tỏ ba đời, ở trong khoảng một niệm có thể thấy vô lượng vô biên thế giới và nghe tiếng cũng vậy, có thể khiến cho chúng sinh xa lìa tội ác. Ví như sông Hằng, các tội trong, hoặc ngoài đều thanh tịnh hết, vị đại lương y này cũng như vậy, có thể trừ diệt mọi tội trong ngoài của chúng sinh. Vị đại sư ấy vì các đệ tử nói pháp như vầy: Nếu người giết hại tất cả chúng sinh mà lòng không hổ thẹn thì nhất định chẳng đọa vào cõi ác, giống như hư không chẳng thọ bụi, nước. Người có hổ thẹn thì liền vào địa ngục, giống như nước lớn thấm nhuần ở đất. Tất cả chúng sinh đều là sự tạo tác của trời Tự Tại. Trời Tự Tại vui thì chúng sinh an lạc, trời Tự Tại giận thì chúng sinh khổ não. Tất cả chúng sinh hoặc tội, hoặc phước chính là việc làm của trời Tự Tại thì sao phải nói người có tội, phước? Ví như người thợ mộc làm người gỗ máy, đi, đứng, nằm, ngồi chỉ chẳng thể nói được, chúng sinh cũng vậy. Trời Tự Tại là dụ cho người thợ mộc, người gỗ là dụ cho thân chúng sinh. Tạo hóa như vậy thì ai sẽ có tội? Bậc đại sư như vậy hiện nay trụ ở gần thành Vương-xá, xin đại vương hãy mau đến đó. Như đại vương diện kiến vị ấy thì mọi tội lỗi đều tiêu diệt”. nhà vua liền đáp: “Xét quả đúng có người này, có thể diệt tội ác của ta thì ta sẽ quy y”.

Lại có một vị đại thần tên là Vô Sở Úy đi đến chỗ nhà vua tâu như vầy: “Tâu đại vương! Đời có người ngu, trong một ngày, trăm điều mừng, trăm điều buồn, trăm lần ngủ, trăm lần thức, trăm lần kinh hãi, trăm lần khóc lóc. Người có trí thì không có những việc này. Đại vương vì sao lo buồn như mất bạn bè, như rơi vào bùn sâu không người cứu vớt, như người khát chẳng được uống nước, như người đi lạc không có kẻ dẫn đường, như người bệnh khốn không thầy thuốc chữa trị, như thuyền trên biển bị vỡ không người tiếp cứu như vậy? Tâu đại vương! Hôm nay đại vương thân đau hay vì tâm đau?”. Nhà vua liền đáp: “Ta nay thân tâm há chẳng đau sao? Ta gần bạn xấu, chẳng quan sát tội lỗi của miệng. Đức tiên vương không tội mà ta đang tâm giết hại. Ta nay nhất định biết sẽ vào địa ngục, lại không có lương y để xin cứu giúp”.

Vị đại thần liền tâu: “Xin đại vương chớ sinh sầu não. Phàm Sát-lợi thì gọi là dòng vua. Nếu đại vương vì đất nước, hoặc vì Sa-môn hay Bà-lamôn, vì yêu muôn dân, tuy đại vương giết hại nhưng không có tội. Đức tiên vương tuy lại cung kính Sa-môn nhưng chẳng thể phụng sự các Bàla-môn, lòng không bình đẳng, mà không bình đẳng nên chẳng phải là Sát-lợi. Tâu đại vương! Nay đại vương vì muốn cúng dường các Bà-lamôn mà giết hại tiên vương thì đâu có tội gì! Tâu đại vương! Quả thật đại vương không giết hại. Phàm giết hại thì giết hại thọ mạng. Mạng gọi là hơi gió, mà tánh của hơi gió chẳng thể giết hại thì sao gọi là hại mạng mà phải có tội? Xin đại vương chớ sầu khổ nữa. Vì sao? Vì:

Nếu thường sầu khổ
Sầu liền tăng lên
Như người ưa ngủ
Thì ngủ nhiều thêm
Tham dâm, thích rượu
Cũng lại như trên.

Như lời đức vua nói, đời không có lương y có thể trị liệu thì nay có vị đại sư tên là Ni-càn-đà Nhã-đề-tử, tất cả đều thấy biết, thương xót chúng sinh, giỏi biết các căn lợi hay độn của chúng sinh, hiểu thấu tất cả tùy nghi phương tiện, tám pháp thế gian đã chẳng thể nhiễm ô, tịch tĩnh, tu tập phạm hạnh thanh tịnh, vì các đệ tử nói pháp như vầy: “Không thí, không thiện, không cha, không mẹ, không đời nay, đời sau, không A-la-hán, không tu, không đạo. Tất cả chúng sinh trải qua tám vạn kiếp ở trong vòng sinh tử, rồi tự nhiên được giải thoát dù có tội hay không tội đều cũng như vậy. Như bốn dòng sông lớn là Tân-đầu, Hằng Hà, Bác-xoa, Từ-đà đều chảy vào biển cả không có sai biệt, tất cả chúng sinh cũng như vậy, khi được giải thoát họ đều không sai biệt. Vị thầy này, nay ở tại thành Vương-xá, xin đại vương mau chóng đi đến chỗ vị ấy. Nếu được diện kiến vị ấy thì mọi tội của vua đều tiêu diệt”. Nhà vua liền đáp: “Xét nếu đúng có vị thầy này, có thể trừ tội của ta thì ta sẽ quy y”.

Bấy giờ, vị đại y tên Kỳ-bà đi đến chỗ nhà vua tâu: “Tâu đại vương! Đại vương được ngủ yên không?”. Nhà vua dùng kệ đáp:

Nếu có thể đoạn hẳn
Tất cả các não phiền
Chẳng tham nhiễm ba cõi
Thì mới được ngủ yên.
Đại Niết-bàn nếu được
Diễn nói nghĩa thâm diệu
Gọi Bà-la-môn thật
Thì mới được ngủ yên.
Thân không các nghiệp ác
Miệng lìa bốn lỗi lầm
Lòng không có nghi hoặc
Thì mới được ngủ yên.
Thân tâm không nóng bức
An trụ chỗ tịch tĩnh
Thu hoạch vui vô thượng
Thì mới được ngủ yên.
Lòng không có vướng bận
Các oán thù lìa tan
Thường hòa không tranh cãi
Thì mới được ngủ yên.
Nếu chẳng tạo nghiệp ác
Hổ thẹn lòng thường mang
Tin ác có quả báo
Thì mới được ngủ yên.
Cung kính dưỡng cha mẹ
Chẳng hại một chúng sinh
Chẳng trộm của người khác
Thì mới được ngủ yên.
Với các căn điều phục
Thân cận với bạn lành
Phá hoại bốn chúng ma
Thì mới được ngủ yên.
Chẳng thấy tốt, chẳng tốt
Và khổ, vui vân vân…
Vì tất cả sinh chúng
Xoay vần trong sinh tử
Nếu có thể như vậy
Thì mới được ngủ yên.
Ai được ngủ yên ổn
Đó là Phật Thế Tôn
Quán sâu Tam-muội Không
Chẳng động, yên thân tâm.
Ai được ngủ yên ổn
Đó là đấng Từ Bi
Thường tu chẳng phóng dật
Xem mọi người như con.
Chúng sinh vô minh tối
Chẳng thấy quả phiền não
Thường tạo các nghiệp ác
Chẳng được giấc ngủ yên.
Nếu vì tự thân mình
Và thân của người khác
Tạo tác mười nghiệp ác
Thì chẳng được ngủ yên.
Nếu nói rằng vì vui
Hại cha không lỗi lầm
Thuận theo ác tri thức
Thì chẳng được ngủ yên.
Nếu ăn quá tiết độ
Uống lạnh mà quá mức
Như vậy thì bệnh khổ
Chẳng được ngủ yên giấc
Nếu với vua có lỗi
Tà niệm vợ tha nhân
Và đi đường trống vắng
Thì chẳng được ngủ yên.
Trì giới chưa thành thục
Thái tử, ngôi chưa lên
Kẻ trộm chưa được của
Thì chẳng được ngủ yên.

Này Kỳ-bà! Ta nay bệnh nặng, đối với vua chánh pháp khởi ác nghịch hại. Tất cả lương y dùng diệu dược, chú thuật khéo léo xem bệnh đều chẳng thể trị liệu được. Vì sao? Vì cha ta, vị Pháp vương, đúng như pháp trị nước, thật không có tội lỗi mà ta đang tâm nghịch hại, như cá ở trên đất có gì mà vui? Như loài hươu mắc bẫy không có lòng vui, như người tự biết mạng sống chẳng còn trọn ngày, như vua mất nước chạy trốn sang đất khác, như người nghe bệnh chẳng thể trị liệu, như người phá giới nghe nói tội lỗi Ta thuở trước từng nghe bậc trí giả nói rằng, nghiệp thân, miệng, ý nếu chẳng thanh tịnh thì phải biết người này nhất định đọa vào địa ngục. Ta cũng như vậy thì làm sao được ngủ yên? Nay ta lại không có bậc đại y vô thượng diễn nói pháp dược diệt trừ bệnh khổ của ta”. Ông Kỳ-bà đáp: “Hay thay! Hay thay! Đức vua tuy gây nên tội nhưng lòng sinh hối hận vô cùng mà mang lòng hổ thẹn. Tâu đại vương! Chư Phật Thế Tôn thường nói lời này, có hai pháp thiện có thể cứu chúng sinh, một là hổ, hai là thẹn. Hổ là tự chẳng làm nên tội. Thẹn là chẳng dạy người khác làm. Hổ là bên trong tự xấu hổ. Thẹn là phát lồ hướng về người. Hổ là xấu hổ với người, thẹn là thẹn với trời. Đó gọi là hổ thẹn. Không hổ thẹn thì chẳng gọi là người mà gọi là súc sinh. Có hổ thẹn thì có thể cung kính cha mẹ, sư trưởng. Có hổ thẹn nên nói có cha mẹ, anh em, chị em. Hay thay! Tâu đại vương! Đại vương có đủ hổ thẹn. Tâu đại vương! Đại vương hãy lắng nghe. Thần có nghe Đức Phật nói, kẻ trí có hai, một là chẳng tạo cái ác, hai là đã tạo rồi mà sám hối. Người ngu cũng có hai, một là tạo tội, hai là che giấu. Tuy trước làm ác nhưng sau có thể phát lồ, hối lỗi rồi hổ thẹn chẳng dám làm nữa. Giống như nước đục, đặt vào đó viên minh châu, do uy lực của viên ngọc nên nước liền lắng trong, như khói mây tan thì trăng trong sáng, làm ác mà có thể hối hận thì cũng như vậy. Đức vua nếu sám hối, mang lòng hổ thẹn thì tội liền trừ diệt, thanh tịnh như cũ.

Tâu đại vương! Giàu có hai thứ, một là voi, ngựa đủ thứ súc sinh; hai là vàng, bạc đủ thứ châu báu. Voi, ngựa tuy nhiều nhưng chẳng địch lại một viên ngọc. Tâu đại vương! Chúng sinh cũng vậy, một là giàu ác, hai là giàu thiện. làm nhiều những ác chẳng bằng một điều thiện. Thần nghe Đức Phật nói, tu một điều thiện, lòng phá trăm thứ ác. Tâu đại vương! Như một chút kim cương có thể phá hoại núi Tu-di, cũng như chút xíu lửa có thể đốt cháy tất cả, như ít thuốc độc có thể hại chúng sinh v.v… chút ít thiện cũng vậy, có thể phá tan đại ác. Tuy gọi là chút thiện nhưng thật ra thiện ấy là lớn. Vì sao? Vì nó phá được đại ác. Tâu đại vương! Như lời Đức Phật nói, che giấu thì có sơ hở, chẳng che giấu thì không có sơ hở. Phát lồ hối lỗi vậy nên chẳng có sơ hở. Nếu làm mọi tội mà chẳng che chẳng giấu thì do chẳng che nên tội rất nhỏ, nếu còn mang lòng hổ thẹn thì tội tiêu diệt. Tâu đại vương! Như giọt nước tuy nhỏ nhưng dần dần tràn đầy đồ đựng lớn. Lòng thiện cũng vậy, mỗi một lòng thiện có thể phá tan ác lớn. Nếu che giấu tội thì tội lớn thêm, còn phát lồ, hổ thẹn thì tội tiêu diệt. Vậy nên các Đức Phật nói người có trí thì chẳng che giấu tội. Hay thay! Tâu đại vương! Đại vương có thể tin nhân quả, tin nghiệp, tin báo. Xin đại vương chớ ôm lòng sầu lo. Nếu có chúng sinh tạo tác các tội mà che giấu, chẳng sám hối, lòng không hổ thẹn, chẳng thấy nhân quả và cả nghiệp báo, chẳng thể thưa hỏi người có trí, chẳng gần bạn lành thì người như vậy, tất cả lương y dù cho đến xem bệnh cũng chẳng thể trị liệu được. Như bệnh Ca-ma-la thì thầy thuốc của đời đành bó tay, người che giấu tội cũng như vậy. Sao gọi là tội nhân? Là Nhất-xiển-đề? Nhất-xiển-đề là người chẳng tin nhân quả, không có hổ thẹn, chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy hiện tại và đời vị lai, chẳng thân cận bạn lành, chẳng theo lời dạy răn của chư Phật. Người như vậy gọi là Nhất-xiển-đề mà chư Phật Thế Tôn chẳng thể trị liệu. Vì sao? Vì như thây chết của thế gian thầy thuốc chẳng thể trị liệu. Người Nhất-xiển-đề cũng như vậy, chư Phật Thế Tôn chẳng thể trị liệu được. Tâu đại vương! Đại vương nay chẳng phải là Nhất-xiển-đề thì sao nói rằng chẳng thể cứu giúp, trị liệu?

Như lời đức vua nói, không người có thể trị liệu thì đại vương nên biết là tại thành Ca-tỳ-la có vương tử của vua Tịnh Phạm, dòng họ Cùđàm tên là Tất-đạt-đa, vô sư tự ngộ mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm bản thân, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, tất cả đều thấy biết, đại từ, đại bi, thương xót tất cả như La-hầu-la, theo chúng sinh như nghé con theo trâu mẹ, biết lúc mà nói pháp, phi thời thì chẳng nói, lời vị ấy nói là lời chân thật, lời thanh tịnh, lời vi diệu, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp, lời duy nhất có thể khiến cho chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi phiền não, giỏi biết căn cơ tâm tánh của chúng sinh, tùy nghi phương tiện, không gì chẳng thông đạt. Trí của vị ấy cao như núi Tu-di, sâu thẳm mênh mông giống như biển cả. Chính là Phật Thế Tôn có trí kim cương có thể phá tất cả tội ác của chúng sinh. Nếu nói rằng vị ấy chẳng thể thì không có điều này. Hôm nay vị ấy ở cách đây hai mươi do-tuần, trong rừng Ta-la song thọ của thành Câu-thi-na, rộng vì vô lượng vô số chúng Tăng, Bồ-tát v.v… mà diễn nói đủ thứ pháp: hoặc có hay không, hoặc hữu vi hay vô vi, hoặc hữu lậu hay vô lậu, hoặc quả phiền não hay quả pháp thiện, hoặc sắc pháp hay phi sắc pháp hay phi sắc phi phi sắc pháp, hoặc ngã hay phi ngã hay phi ngã phi phi ngã, hoặc thường hay phi thường hay phi thường phi phi thường, hoặc lạc hay phi lạc hay phi lạc phi phi lạc, hoặc tưởng hay phi tưởng hay phi tưởng phi phi tưởng, hoặc đoạn hay phi đoạn hay phi đoạn phi phi đoạn, hoặc thế hay xuất thế hay phi thế phi xuất thế, hoặc thừa hay phi thừa hay phi thừa phi phi thừa, hoặc tự tác tự thọ, hoặc tự tác người khác thọ, hoặc không tác không thọ. Tâu đại vương! Nếu đại vương đang ở chỗ Đức Phật nghe vấn đề không tác không thọ thì những trọng tội của đức vua liền tiêu diệt. Đức vua hôm nay hãy lắng nghe. Có ông Thích-đề-hoànnhân nhân mạng mình sắp hết nên có năm tướng xuất hiện, một là quần áo bẩn thỉu, hai là hoa trên đầu héo úa, ba là thân thể hôi thối, bốn là dưới nách ra mồ hôi, năm là chẳng ưa tòa ngồi. Khi ấy trời Đế thích hoặc ở chỗ yên lặng nếu thấy Sa-môn hay Bà-la-môn thì liền đi đến chỗ những vị ấy mà phát sinh Phật tưởng. Bấy giờ, Sa-môn và Bàla-môn thấy Đế thích đến thì tự cho là may mắn, mừng vui vô hạn. Họ liền nói lời này: “Thưa Thiên chúa! Tôi nay xin quy y với ngài”. Đế thích nghe rồi mới biết chẳng phải Phật, lại tự nghĩ: “Những vị đó, nếu chẳng phải Phật thì chẳng thể trị liệu năm tướng suy thoái của ta”. Lúc đó có vị ngự thần tên là Bát-già-thi nói với Đế thích: “Thưa Kiều-thica! Vua Càn-thát-bà tên là Đôn-phù-lâu, có người con gái tên là Tubạt-đà. Đại vương nếu có thể đem người con gái này ban cho hạ thần thì hạ thần sẽ chỉ đức vua chỗ diệt trừ tướng suy”. Đế thích liền đáp: “Này thiện nam! Vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la có người con gái Xáchỉ là người yêu của ta. Khanh nếu nhất định có thể chỉ cho ta chỗ tiêu diệt tướng ác thì ta còn ban cho được, huống gì là Tu-bạt-đà”. Vị ngự thần thưa: “Thưa Kiều-thi-ca! Có Đức Phật Thế Tôn tự là Thích Ca Mâu Ni, nay đang ở tại đại thành Vương-xá, nếu đại vương có thể đến đó thưa hỏi điều chưa nghe thì tướng suy nhất định được tiêu trừ”. Đế thích bảo: “Này thiện nam! Nếu Đức Phật Thế Tôn xét quả có thể diệt được thì hãy quay xa giá đi đến chỗ ấy ngay”. Vị ngự thần vâng lệnh, liền quay xa giá trở lại, đi đến chỗ Đức Phật trong núi Kỳ-xà-quật ở thành Vương-xá, Đế thích đầu mặt lễ dưới chân Phật, lui về ngồi một bên, bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Trong cõi trời người, cái gì là ràng buộc?”. Đức Phật đáp: “Này Kiều-thi-ca! Keo kiệt, tham lam, ganh ghét”. Lại hỏi: “Keo kiệt, tham lam, ganh ghét nhân đâu mà sinh ra?”. Đáp: “Nhân vô minh sinh ra”. Lại hỏi: “Vô minh do nhân đâu sinh ra?”. Đáp: “Nhân phóng dật sinh ra”. Lại hỏi: “Phóng dật nhân đâu sinh ra?”. Đáp: “Nhân điên đảo sinh ra”. Lại hỏi: “Điên đảo lại do nhân đâu sinh ra?”. Đáp: “Nhân lòng nghi hoặc sinh ra”. Đế thích bạch: “Bạch Thế Tôn! Pháp điên đảo nhân nghi hoặc sinh ra, thật đúng như lời dạy của đức Thánh. Vì sao? Vì con có tâm nghi, mà do tâm nghi nên sinh ra điên đảo, đối với người chẳng phải Thế Tôn mà sinh ra tưởng Thế Tôn. Con nay thấy Đức Phật, thì lưới nghi hoặc liền trừ diệt. Lưới nghi trừ diệt nên điên đảo cũng hết. Điên đảo đã hết nên không có lòng keo kiệt, tham lam cho đến lòng ganh ghét”. Đức Phật dạy: “Ông nói không có tham lam, keo kiệt, ganh ghét thì ông hôm nay đã được A-na-hàm rồi chăng? A-na-hàm thì không có lòng tham. Nếu ông không có lòng tham thì tại sao vì mạng sống mà đi đến chỗ Ta? Như A-na-hàm thì quả thật chẳng cầu mạng sống”. Đế thích bạch: “Bạch Thế Tôn! Có điên đảo thì có cầu mạng sống, không điên đảo thì chẳng cầu mạng sống. Nhưng con hôm nay quả thật chẳng cầu mạng sống. Điều con muốn cầu là chỉ cầu pháp thân của Phật và trí tuệ của Phật”. Đức Phật dạy: “Này Kiều-thi-ca! Cầu pháp thân của Phật và trí tuệ của Phật thì đời vị lai nhất định sẽ được”. Bấy giờ, Đế thích nghe lời Phật nói rồi thì năm tướng suy mất tức thời tiêu diệt, liền đứng dậy làm lễ, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, chấp tay cung kính bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con nay dù tử, dù sinh, mất mạng hay được mạng mà lại nghe Đức Phật thọ ký sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì chính là tái sinh, lại được mạng. Bạch Thế Tôn! Tất cả hàng trời, người làm sao được tăng ích? Lại do nhân duyên gì đi đến tổn giảm?”. Đức Phật dạy: “Này Kiều-thi-ca! Do nhân duyên đấu tranh mà hàng trời, người tổn giảm. Khéo tu hòa kính thì được tăng ích”. Đế thích bạch: “Bạch Thế Tôn! Nếu do đấu tranh mà tổn giảm thì từ hôm nay con chẳng cùng với A-tu-la đánh nhau nữa”. Đức Phật dạy: “Hay thay! Hay thay! Này Kiều-thi-ca! Chư Phật Thế Tôn nói pháp nhẫn nhục chính là nhân của Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân liền lễ trước Phật rồi trở về. Tâu đại vương! Như Lai do có thể trừ các tướng ác nên xưng là Phật chẳng thể nghĩ bàn. Đức vua nếu đến đó thì trọng tội của đại vương nhất định sẽ được tiêu trừ. Đại vương hãy nghe đây: Có đứa con của vị Bà-la-môn tên là Bất Hại, do giết chết vô lượng những chúng sinh nên mang danh là Ươngquật-Ma. Ông ấy lại muốn hại mẹ, khi tâm ác dấy lên thì thân cũng động theo. Thân tâm động tức là nhân của ngũ nghịch, mà nhân là ngũ nghịch nên nhất định đọa vào địa ngục. Sau đó khi thấy Phật thì thân tâm của ông ta đều động muốn giết hại. Thân tâm động tức là nhân của ngũ nghịch, mà nhân là ngũ nghịch nên sẽ đọa vào địa ngục. Người này được gặp đấng Đại sư Như Lai tức thời được diệt nhân duyên địa ngục, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên xưng Phật là đấng thầy thuốc Vô thượng, chẳng phải là hàng lục sư. Tâu đại vương! Lại có vương tử Tu-tỳ-la. Cha ông ấy giận, chặt tay chân ông rồi xô xuống giếng sâu. Mẹ ông ấy thương xót sai người kéo lên đem đến chỗ Đức Phật, vừa thấy Đức Phật thì tay chân lành trở lại. Ông liền phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tâu đại vương! Do thấy Phật nên được quả báo hiện tiền. Vậy nên xưng Phật là thầy thuốc Vô thượng, chẳng phải là lục sư. Tâu đại vương! Như bên bờ sông Hằng có những quỷ đói, số quỷ ấy có đến năm trăm. Chúng ở đây đã vô lượng năm mà chẳng hề thấy nước, tuy có đến trên dòng sông nhưng thuần thấy lửa cháy. Sự bức bách của đói khát khiến chúng lên tiếng gào khóc. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ngồi ở bên một gốc cây ở tại rừng Uất-đàm-bát bên dòng sông ấy, các quỷ đói đi đến chỗ Đức Phật bạch: “Bạch Thế Tôn! Chúng con đói khát, mạng chẳng còn lâu”. Đức Phật dạy: “Sông Hằng nước chảy sao các ngươi chẳng uống?”. Quỷ liền đáp: “Đức Như Lai thấy nước còn chúng con thì thấy lửa”. Đức Phật dạy: “Dòng nước sông Hằng trong sạch, thật không có lửa. Do nghiệp ác nên lòng tự điên đảo mà gọi đó là lửa. Ta sẽ vì các ngươi trừ diệt điên đảo khiến cho các ngươi thấy nước”. Bấy giờ, Đức Thế Tôn rộng vì các quỷ nói về tội lỗi của tham lam keo kiệt. Các quỷ liền nói: “Chúng con nay đói khát, tuy nghe lời nói pháp nhưng đều chẳng vào lòng”. Đức Phật dạy: “Các ngươi nếu khát quá thì trước hãy vào dòng sông mặc lòng uống nước đi”. Những quỷ đó nhờ thần lực của Đức Phật nên liền được uống nước. Chúng đã uống nước rồi, Đức Như Lai lại vì chúng mà nói đủ thứ pháp. Đã nghe pháp rồi, chúng đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bỏ hình thể quỷ đói mà được thân trời. Tâu đại vương! Vậy nên xưng Phật là thầy thuốc vô thượng, chẳng phải là lục sư. Tâu đại vương! Bọn giặc ở nước Xá-bà-đề có năm trăm tên bị vua Ba-tư-nặc móc hết mắt của chúng. Chúng bị mù mà không người dẫn đường nên chẳng thể đi đến chỗ Đức Phật. Đức Phật thương xót chúng nên liền đến chỗ bọn giặc an ủi dỗ dành: “Này thiện nam! Hãy khéo hộ trì thân, miệng. Chớ lại tạo ác”. Bấy giờ, bọn giặc nghe âm thanh của Đức Như Lai vi diệu trong suốt, mắt liền được sáng trở lại. Chúng ở trước Đức Phật chấp tay lễ Phật, bạch: “Bạch Thế Tôn! Chúng con nay biết từ tâm của Đức Phật che khắp tất cả chúng sinh, chẳng phải chỉ có người, trời”. Lúc này, Đức Như Lai liền vì chúng mà nói pháp, đã nghe pháp rồi thì đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên Đức Như Lai chân thật là đấng lương y vô thượng của thế gian, chẳng phải là lục sư. Tâu đại vương! Nước Xá-bà-đề có Chiên-đà-la tên là Khí Hư, giết vô lượng người, thấy vị đại đệ tử của Đức Phật là Tôn giả Đại Mục-kiền-liên tức thời được phá nhân duyên địa ngục mà được sinh lên trời thứ Ba Mươi Ba. Do có đệ tử Thánh như vậy nên xưng Phật Như Lai là thầy thuốc vô thượng, chẳng phải là hạng lục sư. Tâu đại vương! Thành Ba-la-nại có đứa con ông trưởng giả tên A-dật-đa lén dâm với mẹ, do nhân duyên đó nên giết chết cha mình. Rồi mẹ hắn lại cùng với người ngoài thông dâm, hắn biết được liền giết chết luôn. Có vị A-la-hán là bạn của hắn, đối với người bạn này hắn lại sinh hổ thẹn nên giết luôn người đó. Giết rồi, hắn liền đến tinh xá Kỳ Hoàn cầu xin xuất gia. Khi ấy, các vị Tỳ-kheo đều biết người này có ba tội nghịch, không dám cho xuất gia. Do không cho xuất gia nên phát sinh sân giận bội phần, ngay trong đêm ấy, hắn phóng hỏa đốt cháy Tăng viện, giết chết nhiều người vô tội. Rồi sau đó hắn lại đến trong thành Vương-xá, đi tới chỗ Đức Như Lai cầu xin xuất gia. Đức Như Lai liền cho phép và vì người đó nói pháp chính yếu khiến cho tội nặng ấy dần dần nhẹ bớt đi, rồi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên xưng Phật là lương y của thế gian, chẳng phải là lục sư. Tâu đại vương! Đại vương vốn tánh bạo ác, tin theo người ác Đề-bà-đạt-đa, thả voi lớn say, muốn khiến cho nó giẫm lên Đức Phật. Voi thấy Đức Phật tức thời tỉnh ngộ, Đức Phật liền duỗi tay ra xoa trên đầu voi, lại vì nó nói pháp, khiến cho nó được phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tâu đại vương! Súc sinh thấy Phật còn được phá hoại nghiệp quả súc sinh, huống lại là người. Đại vương phải biết, nếu thấy Đức Phật thì dầu có trọng tội nhất định sẽ được diệt trừ. Tâu đại vương! Khi Đức Thế Tôn chưa được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì ma cùng vô lượng vô biên quyến thuộc đến chỗ đức Bồ-tát, bấy giờ Bồ-tát dùng sức nhẫn nhục phá hoại lòng ác của ma, khiến cho ma thọ pháp và liền phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật có lực đại công đức như vậy đó. Tâu đại vương! Có loài quỷ Khoáng Dã hại nhiều chúng sinh. Đức Như Lai bấy giờ vì ông trưởng giả Thiện Hiện nên đi đến thôn Khoáng Dã nói pháp cho loài quỷ ấy. Quỷ nghe nói pháp thì vui mừng, liền đem ông trưởng giả trao cho Đức Như Lai, rồi sau đó mới phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tâu đại vương! Thành Ba-la-nại có người đồ tể tên là Quảng Ngạch, ngày ngày giết vô lượng dê, thấy Tôn giả Xá-lợi-phất liền thọ tám giới, trải qua một ngày đêm. Do nhân duyên này nên khi mạng chung được làm con vua trời Tỳ-sa-môn ở phương Bắc. Đệ tử của Đức Như Lai còn có quả công đức lớn như vậy, huống lại là Đức Phật. Tâu đại vương! Ở Bắc Thiên Trúc có thành tên là Tế Thạch. Thành ấy có vị vua tên là Long Ấn, vì tham đất nước, trọng ngôi vị nên giết hại cha mình. Giết cha mình rồi, lòng sinh hối hận, liền bỏ quốc chính đi đến chỗ Đức Phật, khẩn cầu xin xuất gia. Đức Phật dạy: “Thiện lai!”. Ông liền thành Tỳ-kheo, trọng tội tiêu diệt, rồi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đại vương nên biết, Đức Phật có vô lượng vô biên quả công đức lớn như vậy đó. Tâu đại vương! Đức Như Lai có em là Đề-bà-đạt-đa, phá hoại chúng Tăng, làm chảy máu thân Phật, hại Tỳ-kheo-ni Liên Hoa, làm ba tội nghịch. Đức Như Lai vì ông ấy nói đủ thứ pháp chính yếu khiến cho trọng tội ấy liền được giảm nhẹ. Vậy nên Đức Như Lai là vị đại lương y, chẳng phải là hàng lục sư. Tâu đại vương! Nếu đại vương có thể tin lời nói của thần thì xin đại vương hãy mau chóng đi đến chỗ Đức Như Lai. Nếu chẳng tin thì xin đại vương suy nghĩ kỹ những điều thần nói đó. Tâu đại vương! Chư Phật Thế Tôn đại bi che khắp, chẳng giới hạn ở một người nào, chánh pháp rộng lớn không chỗ nào chẳng bao phủ, kẻ oán người thân đều bình đẳng, lòng không yêu ghét, nhất định chẳng thiên vị một người nào khiến cho được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, còn người khác thì chẳng được. Đức Như Lai chẳng phải chỉ là thầy riêng của bốn bộ chúng mà là thầy của khắp tất cả trời, người, rồng, quỷ thần, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh v.v… Tất cả chúng sinh cũng sẽ xem Đức Phật tưởng như cha mẹ. Đại vương nên biết, Đức Như Lai chẳng vì hạng người giàu sang như vua Bạt-đề-ca mà diễn nói pháp. Ngài cũng vì hạng hạ tiện như Ưu-ba-ly v.v… Đức Như Lai chẳng thiên lệch nhận bữa ăn dâng cúng của ông Tu-đạt-đa A-na-bân-để mà cũng nhận bữa ăn của người nghèo Tu-đạt-đa. Đức Như Lai chẳng vì người lợi căn như Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… nói pháp mà cũng vì kẻ độn căn như ông Châu-lợi-bàn-đặc. Đức Như Lai không chỉ cho phép người tánh không tham như Tôn giả Đại Ca-diếp xuất gia cầu đạo mà cũng cho phép kẻ đại tham như Tôn giả Nan-đà xuất gia. Đức Như Lai không chỉ cho phép người ít phiền não như Tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp v.v… xuất gia cầu đạo mà cũng cho phép kẻ phiền não sâu dày, tạo tội nặng như em vua Ba-tư-nặc là Ưu-đà-gia xuất gia cầu đạo. Đức Như Lai chẳng vì Sa Thảo cung kính cúng dường mà cứu vớt căn sân ông ấy, còn Ương-quật-ma-la lòng ác muốn hại nên bỏ mà chẳng cứu. Đức Như Lai không chỉ vì nam tử có trí mà diễn nói pháp, còn vì người nữ cực ngu, cũng như người nữ có trí nói pháp. Đức Như Lai không chỉ khiến cho người xuất gia được bốn đạo quả mà cũng khiến cho kẻ tại gia được ba đạo quả. Đức Như Lai không chỉ vì người bỏ các việc phiền hà, nhàn tịch tư duy như Phú-đa-la v.v… nói pháp chính yếu, mà Ngài cũng vì vua Tần-bà-ta-la v.v… thống lãnh việc nước, xử lý việc vua mà nói pháp chính yếu. Đức Như Lai không chỉ vì người bỏ dứt rượu mà cũng vì kẻ đam mê rượu như ông trưởng giả Úc-già say mèm nói pháp, không chỉ vì người nhập thiền định như Ly-bà-da v.v… mà cũng vì người chôn con loạn tâm như nữ Bà-la-môn Bà-tư-tra mà nói pháp. Đức Như Lai không chỉ vì đệ tử của mình mà cũng vì ngoại đạo Nikiền-tử mà nói pháp, không chỉ vì người tuổi trai tráng hai mươi lăm mà cũng vì người lão suy tám mươi nói pháp, không chỉ vì người căn thuần thục mà cũng vì người thiện căn chưa thuần thục nói pháp, không chỉ vì phu nhân Mạt-lợi mà cũng vì dâm nữ Liên Hoa nói pháp, không những chỉ thọ bữa ăn thịnh soạn ngon lành của vua Ba-tư-nặc mà cũng thọ bữa ăn tạp độc của ông Thi-lợi-cúc-đa. Đại vương nên biết, ông Thi-lợi-cúc-đa thuở trước cũng tạo tác nhân duyên tội nghịch. Rồi do gặp Đức Phật, nghe pháp nên ông liền phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tâu đại vương! Giả sử một tháng thường dùng y thực cung kính cúng dường tất cả chúng sinh chẳng bằng một phần mười sáu công đức của người niệm Phật trong một niệm. Tâu đại vương! Giả sử đúc vàng thành người, dùng xe ngựa chở đầy vật báu số đến hàng trăm thứ dùng bố thí thì chẳng bằng có người phát tâm hướng về Phật trong thời gian nhấc một bước chân. Tâu đại vương! Giả sử dùng xe voi trăm chiếc chở đủ thứ châu báu của nước Đại Tần và những nữ nhân thân đeo chuỗi ngọc mà số cũng cả trăm người, đem dùng bố thí cũng còn chẳng bằng người phát tâm hướng về Đức Phật trong thời gian nhấc một bước chân. Giả sử lại có việc này, nếu có người dùng tứ sự cúng dường cung cấp cho chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới cũng còn chẳng bằng người phát tâm hướng về Đức Phật trong thời gian nhấc một bước chân. Giả sử lại có việc này, nếu khiến cho vị đại vương cúng dường cung kính vô lượng chúng sinh nhiều như cát sông Hằng thì cũng chẳng bằng một lần đi đến chỗ Đức Như Lai tại Ta-la song thọ mà thành tâm nghe pháp”. Bấy giờ, đại vương đáp: “Này Kỳ-bà! Đức Như Lai Thế Tôn tánh đã điều nhu nên được người điều nhu làm quyến thuộc, như rừng cây chiên-đàn thì thuần dùng cây chiên-đàn mà vây quanh. Đức Như Lai thanh tịnh nên quyến thuộc của Ngài cũng thanh tịnh, giống như con rồng lớn thì thuần lấy các rồng mà làm quyến thuộc. Đức Như Lai tịch tĩnh nên quyến thuộc của Ngài cũng tịch tĩnh. Đức Như Lai không tham nên quyến thuộc của Ngài cũng không tham. Đức Như Lai không phiền não nên quyến thuộc của Ngài cũng không phiền não. Ta nay đã là người cực ác bị nghiệp ác trói buộc, thân mình hôi thối, thuộc về địa ngục thì sao đáng được đến chỗ Đức Như Lai! Giả sử ta đi đến thì sợ Ngài chẳng đoái hoài tiếp xúc nói năng. Ông tuy khuyên ta, bảo đến chỗ Đức Phật, nhưng ta hôm nay tự thấy thấp hèn rất đáng thương nên không có lòng nào để đi đến đó”. Lúc này, trên hư không liền phát ra tiếng nói: “Pháp Phật vô thượng sắp muốn suy tàn! Dòng sông pháp sâu rộng đến đây muốn cạn! Đèn sáng đại pháp sắp tắt! Chẳng bao lâu núi pháp sụp lỡ! Thuyền pháp sắp chìm! Cây cầu pháp sắp hoại! Ngôi điện pháp sắp tan! Cờ pháp sắp ngã! Cây pháp sắp gãy! Bạn lành sắp ra đi! Sự sợ hãi lớn sắp đến! Chúng sinh đói pháp sắp đến kề! Phiền não dịch bệnh sắp sửa lưu hành! Thời tối tăm đến! Thời khát pháp lại! Ma vương mừng vui cởi bỏ giáp trụ! Vầng mặt trời Phật sẽ lặn xuống núi Đại Niết-bàn! Này đại vương! Nếu Đức Phật ra đi thì trọng ác của vua không có người trị liệu. Này đại vương! Nay đại vương đã tạo nghiệp địa ngục A-tỳ rất nặng. Do nhân duyên duyên này nhất định đại vương phải chịu, chẳng nghi ngờ gì nữa. Này đại vương! Chữ A là không. Chữ Tỳ là Gián. Vô gián là không tạm vui nên gọi là vô gián. Này đại vương! Giả sử một người, một mình rơi vào địa ngục này thì thân người ấy to lớn đến tám vạn do-tuần, tràn đầy khắp trong địa ngục ấy, không có chỗ trống. Chung quanh thân người ấy chịu đủ thứ khổ. Giả sử có nhiều người thì thân họ cũng đầy khắp chẳng chướng ngại nhau. Này đại vương! Trong địa ngục lạnh tạm gặp gió nóng nên lấy đó làm vui. Trong địa ngục nóng tạm gặp gió lạnh cũng gọi là vui. Có địa ngục, người trong đó mạng chung rồi, nếu nghe tiếng “sống” thì liền sống trở lại. Địa ngục A-tỳ đều không có những việc này. Này đại vương! Địa ngục A-tỳ bốn mặt đều có cửa. Bên ngoài mỗi một cửa đều có lửa mạnh, Đông, Tây, Nam, Bắc qua lại thông suốt, tám vạn do-tuần tường sắt bao bọc chung quanh, lưới sắt che khắp bên trên, đất địa ngục ấy cũng bằng sắt, lửa bên trên cháy suốt xuống dưới, lửa bên dưới cháy suốt lên trên. Tâu đại vương! Như cá trong lò sấy mỡ bị đốt cháy, tội nhân trong địa ngục này cũng như vậy. Này đại vương! Kẻ tạo tác một tội nghịch thì liền thọ đủ một tội như vậy, nếu tạo hai tội nghịch thì liền chịu gấp đôi, người đủ năm tội nghịch cũng chịu gấp năm lần. Này đại vương! Ta nay đã biết nghiệp ác của vua nhất định chẳng được miễn. Xin đại vương mau chóng đi đến chỗ Đức Phật. Ngoài trừ Đức Phật Thế Tôn không còn ai khác có thể cứu đại vương. Ta nay thương xót đại vương nên khuyên bảo và chỉ dẫn nhau”. Bấy giờ, nhà vua nghe lời nói đó rồi, mang nỗi kinh sợ, toàn thân run rẩy, năm vóc lắc động như cây chuối, ngước lên mà đáp: “Ông là ai? Chẳng hiện ra hình dáng mà chỉ có âm thanh”. Trên không đáp: “Ta là cha ngươi, Tần-bà-ta-la đây. Nay ngươi phải nghe theo lời nói của ông Kỳ-bà. Chớ theo lời nói của sáu người bề tôi tà kiến”. Nhà vua nghe xong, ngất xỉu ngã lăn ra đất, ghẻ trên thân càng nhiều, hôi thối gấp bội hơn trước. Tuy dùng thuốc lạnh bôi lên để điều trị nhưng ghẻ bốc nhiệt độc, chỉ tăng không giảm.

*********

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở tại vùng Ta-la song thọ, thấy vua A-xàthế ngất xỉu ngã lăn ra đất, liền bảo đại chúng:

–Ta nay sẽ vì vị vua này mà trụ thế đến vô lượng kiếp, chẳng vào Niết-bàn.

Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai phải vì vô lượng chúng sinh mà chẳng vào Niết-bàn chớ vì sao chỉ vì vua A-xà-thế?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Trong đại chúng này không có một người nào cho là Ta nhất định vào Niết-bàn, còn vua A-xà-thế thì nhất định cho là Ta sẽ rốt ráo diệt mãi. Vậy nên ông ấy ngất xỉu tự lăn ra đất. Này thiện nam! Như lời Ta nói, vì vua A-xà-thế Ta chẳng vào Niết-bàn. Ý nghĩa bí mật như vậy ông chưa có thể hiểu được. Vì sao? Vì Ta nói là vì tất cả phàm phu như A-xà-thế và khắp tất cả người tạo tội ngũ nghịch. Lại nữa tức là vì tất cả chúng sinh hữu vi. Ta nhất định chẳng vì chúng sinh vô vi mà trụ ở đời. Vì sao? Vì phàm là vô vi thì chẳng phải chúng sinh. A-xà-thế tức là người đầy đủ phiền não v.v… Lại nữa, tức là vì chúng sinh chẳng thấy Phật tánh. Nếu chúng sinh thấy Phật tánh thì Ta nhất định chẳng vì họ trụ ở đời lâu dài. Vì sao? Vì người thấy Phật tánh chẳng phải là chúng sinh. A-xà-thế tức là tất cả những người chưa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại nữa, tức là vì hai chúng của A-nan và Ca-diếp. A-xà-thế tức là phi hậu ở hậu cung của vua A-xà-thế và tất cả phụ nữ của thành Vương-xá. Lại nữa, vì là Phật tánh. A-xà là bất sinh. Thế là oán. Do chẳng sinh Phật tánh nên oán phiền não sinh, mà oán phiền não sinh nên chẳng thấy Phật

tánh. Do chẳng sinh phiền não nên thấy Phật tánh, mà thấy Phật tánh thì được an trụ ở Đại Bát Niết Bàn. Đó gọi là bất sinh. Vậy nên gọi là A-xà-thế. Này thiện nam! A-xà thì gọi là bất sinh, mà bất sinh thì gọi là Niết-bàn. Thế gọi là thế pháp. Vì là bất nhiễm ô. Do việc chẳng nhiễm ô tám pháp thế gian nên vô lượng vô biên vô số kiếp chẳng vào Niết-bàn. Vậy nên Ta nói, vì A-xà-thế nên vô lượng ức kiếp chẳng vào Niết-bàn. Này thiện nam! Mật ngữ của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Pháp Phật, chúng Tăng cũng chẳng thể nghĩ bàn. Đại Bồ-tát cũng chẳng thể nghĩ bàn. Kinh điển Đại Niết-bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn, đấng Đạo sư Đại Bi, vì vua A-xà-thế vào Tam-muội Nguyệt ái, vào Tam-muội rồi, phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng thanh lương ấy đến chiếu vào thân vua thì ghẻ trên thân liền khỏi hết mùi hôi thối. Nhà vua biết ghẻ đã khỏi, thân thể thanh lương, nói với ông Kỳ-bà:

–Ta từng nghe người nói, khi kiếp sắp hết thì ba mặt trăng đồng thời hiện lên. Lúc đó thì hoạn khổ của tất cả chúng sinh đều trừ hết. Thời đó chưa đến mà ánh sáng này từ đâu đến soi vào một mình thân ta, sự khổ của ghẻ lở trừ khỏi, thân được an vui.

Ông Kỳ-đà đáp:

–Đây chẳng phải là kiếp hết, ba mặt trăng soi cùng một lúc, cũng chẳng phải là ánh sáng của lửa, mặt trời, tinh tú, thảo dược, ngọc báu.

Nhà vua lại hỏi:

–Ánh sáng này nếu chẳng phải là ánh sáng của ba mặt trăng cùng soi, của ngọc báu thì đó là ánh sáng của ai?

–Tâu đại vương! Đại vương nên biết, đó là ánh sáng của đấng Thiên Trung Thiên phóng ra. Ánh sáng này vô hạn, không có bờ cõi, chẳng phải nóng, chẳng phải lạnh, chẳng phải thường, chẳng phải diệt, chẳng phải sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng. Vì muốn độ chúng sinh nên khiến cho họ có thể thấy có tướng, có thể nói có hạn, có biên, có nóng, có lạnh, có xanh, vàng, đỏ, trắng. Tâu đại vương! Ánh sáng này tuy vậy, thật ra chẳng thể nói, chẳng thể nhìn thấy, thậm chí không có xanh, vàng, đỏ, trắng.

Nhà vua nói:

–Này Kỳ-bà! Đấng Thiên Trung Thiên đó vì nhân duyên gì mà phóng ra ánh sáng ấy?

Ông Kỳ-bà đáp:

–Tướng điềm này hôm nay là vì đại vương. Do đại vương trước nói, đời không có lương y trị liệu thân tâm, nên Đức Phật phóng ra ánh sáng này để trị thân vua trước, sau đó trị đến tâm.

Nhà vua nói:

–Này Kỳ-bà! Đức Như Lai Thế Tôn cũng thấy được ý niệm sao?

Ông Kỳ-bà đáp:

–Ví như một người mà có bảy đứa con. Một đứa trong bảy đứa con đó gặp bệnh. Lòng cha mẹ chẳng phải không bình đẳng, nhưng đối với đứa con bệnh thì lòng thiên về nhiều hơn. Tâu đại vương! Đức Như Lai cũng vậy, đối với các chúng sinh chẳng phải không bình đẳng, nhưng đối với người có tội thì lòng thiên về nhiều hơn, với người phóng dật thì từ niệm, với người chẳng phóng dật thì lòng buông bỏ. Những ai gọi là người chẳng phóng dật? Đó là Lục trụ Bồ-tát. Tâu đại vương! Chư Phật Thế Tôn đối với chúng sinh chẳng quan sát chủng tánh, già trẻ, trung niên, giàu, nghèo, thời tiết, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nghề khéo, hạ tiện, đồng bộc, nô tỳ mà chỉ quan sát chúng sinh nào có tâm thiện. Nếu họ có tâm thiện thì Đức Như Lai liền từ niệm. Đại vương phải biết, tướng điềm như vậy tức là Đức Như Lai vào Tam-muội Nguyệt ái mà phóng ra ánh sáng.

Nhà vua liền hỏi:

–Sao gọi là Tam-muội Nguyệt ái?

Ông Kỳ-bà đáp:

–Ví như ánh sáng của vầng trăng có thể khiến cho tất cả hoa Ưubát-la nở tươi thắm. Tam-muội Nguyệt ái cũng như vậy, có thể khiến cho tâm thiện của chúng sinh khai mở. Vậy nên gọi là Tam-muội Nguyệt ái. Tâu đại vương! Ví như ánh sáng của vầng trăng có thể khiến cho tất cả người đi đường lòng sinh vui mừng. Tam-muội Nguyệt ái cũng như vậy, có thể khiến cho người tu tập đạo Niết-bàn, lòng sinh hoan hỷ. Vậy nên gọi là Tam-muội Nguyệt ái. Tâu đại vương! Ví như ánh sáng của vầng trăng, từ ngày mồng một đến ngày mười lăm thì hình sắc, ánh sáng dần dần tăng trưởng. Tam-muội Nguyệt ái cũng như vậy, khiến cho người mới phát tâm, các thiện căn bản dần dần tăng trưởng… cho đến đầy đủ Đại Bát Niết Bàn. Vậy nên gọi là Tam-muội Nguyệt ái. Tâu đại vương! Ví như ánh sáng của vầng trăng, từ ngày mười sáu đến ngày ba mươi thì hình sắc ánh sáng dần dần giảm xuống. Tam-muội Nguyệt ái cũng như vậy, nơi nào ánh sáng này soi đến có thể khiến cho dần dần giảm hết phiền não. Vậy nên gọi là Tam-muội Nguyệt ái. Tâu đại vương! Ví như khi nóng lắm thì tất cả chúng sinh thường nghĩ đến ánh sáng mặt trăng, mà ánh sáng mặt trăng đã soi thì uất nhiệt liền diệt trừ. Tam-muội Nguyệt ái cũng như vậy, có thể khiến cho chúng sinh trừ diệt phiền não của tham. Tâu đại vương! Ví như vầng trăng tròn đầy là vua trong mọi tinh tú, là vị cam lồ được sự yêu thích của tất cả chúng sinh. Tam-muội Nguyệt ái cũng như vậy, là vua trong các điều thiện, là vị cam lồ được sự yêu thích của tất cả chúng sinh. Vậy nên gọi là Tam-muội Nguyệt ái.

Nhà vua nói:

–Này Kỳ-bà! Ta nghe Đức Như Lai chẳng cùng với người ác đồng dừng, đồng ngồi, đồng đứng dậy, đồng nói năng đàm luận giống như biển cả chẳng chứa thây chết, như chim uyên ương chẳng trụ ở nhà xí, như Thích-đề-hoàn-nhân chẳng cùng ở với quỷ, như chim cưu sí la chẳng đậu cây khô v.v… Đức Như Lai cũng vậy thì ta làm sao đến gặp được? Giả sử gặp được thì thân ta sẽ chẳng bị hãm vào địa ngục sao? Ta nghĩ là Đức Như Lai thà gần voi say, sư tử, cọp, sói, lửa mạnh bừng cháy chứ nhất định chẳng gần gũi với người nghiệp ác nặng nề. Ta nay suy nghĩ thế rồi thì lòng nào mà đến gặp Đức Như Lai.

Ông Kỳ-bà đáp:

–Tâu đại vương! Ví như người khát nước thì phải mau chóng đi đến dòng suối trong, người đói thì cầu xin thức ăn, người sợ thì cầu người cứu, người bệnh thì cầu lương y, nóng thì cầu bóng mát, lạnh thì cầu lửa v.v… Nhà vua nay cầu Đức Phật cũng nên như vậy. Tâu đại vương! Đức Như Lai còn vì Nhất-xiển-đề mà diễn nói pháp chính yếu, huống gì là đại vương, chẳng phải là Nhất-xiển-đề mà chẳng nhờ ơn từ bi cứu tế sao?

Nhà vua nói:

–Này Ông Kỳ-bà! Ta trước đã từng nghe, Nhất-xiển-đề chẳng tin, chẳng nghe, chẳng thể quan sát, chẳng được nghĩa lý thì vì sao Đức Như Lai vì họ nói pháp?

Ông Kỳ-bà đáp:

–Tâu đại vương! Ví như có người, thân mang bệnh nặng. Người này đêm nằm mơ thấy bay lên trên điện một cột, uống váng sữa, dầu, mỡ và dùng xoa vào thân, nằm trên tro, ăn tro, leo lên cây khô, hoặc cùng với loài vượn du hành, ngồi, nằm, chìm xuống nước, ngập trong bùn, rơi xuống từ lầu điện, núi cao, cây cối, voi ngựa, trâu dê v.v… thân mặc áo màu xanh, vàng, đỏ, đen mà vui cười, ca múa. Hoặc mơ thấy cùng bọn với quạ, chim thứu, hồ ly v.v… Mơ thấy răng, tóc rơi rụng, thân hình trần truồng, gối đầu vào chó, nằm trong phân dơ. Lại mơ cùng với người đã chết đi, đứng, nằm, ngồi, nắm tay nhau, ăn uống v.v… Mơ thấy rắn độc đầy đường và đi trên đó. Hoặc mơ cùng với người nữ bới tóc ôm nhau, lấy lá cây Đa-la làm quần áo, cỡi xe lừa hư nát, nhắm hướng Nam mà đi. Người đó mơ rồi, lòng sinh sầu não. Do sầu não nên thân bệnh càng tăng. Do bệnh tăng nên những người thân thuộc sai người đi mời thầy thuốc. Hình thể người được sai đi mời thầy thuốc khiếm khuyết, lùn, các căn chẳng đầy đủ, đầu lấm lem bụi đất, mặc áo rách rưới, xe chở cũ nát. Người đó nói với thầy thuốc: “Hãy mau mau lên xe”. Bấy giờ, vị lương y liền nghĩ: “Nay thấy người đi mời thầy, tướng mạo chẳng tốt thì phải biết người bệnh khó có thể trị liệu”. Nhưng lại nghĩ: “Người đi mời thầy tuy chẳng tốt, nhưng lại phải xem ngày, có thể trị được không? Nếu là ngày bốn, ngày sáu, ngày tám, ngày mười hai, ngày mười bốn v.v… những ngày như vậy thì bệnh cũng khó trị”. Ông lại nghĩ: “Ngày tuy chẳng tốt nhưng còn phải xem sao coi có thể trị được không? Nếu là sao Hỏa, sao Kim, sao Mão, sao Diêm la vương, sao Thấp, sao Mãn v.v… những sao như vậy thì bệnh cũng khó trị”. Ông lại nghĩ: “Sao tuy chẳng tốt nhưng lại phải xem thời tiết. Nếu là thời tiết mùa thu, thời tiết mùa đông và thời tiết khi mặt trời lặn, thời tiết nửa đêm, thời tiết khi mặt trăng lặn thì phải biết là bệnh cũng khó có thể trị”. Ông lại nghĩ: “Như vậy mọi tướng tuy chẳng tốt nhưng hoặc định hay chẳng định thì phải quan sát người bệnh. Người bệnh, nếu có phước đức thì có thể trị liệu, nếu không có phước đức thì tuy tốt nhưng nào ích gì?”. Suy nghĩ thế rồi, ông liền cùng đi với người mời thầy. Trên đường đi, ông lại nghĩ: “Nếu người bệnh kia có tướng trường thọ thì có thể trị liệu được, còn nếu tướng đoản mệnh thì chẳng thể trị liệu”. Ông liền thấy trên đường phía trước có hai đứa trẻ đang ra sức đánh nhau. Chúng nắm đầu, bức tóc, dùng ngói đá, dao, gậy v.v… ném, đánh lẫn nhau. Hoặc thấy người giữ lửa tự nhiên tắt hết. Hoặc thấy người chặt cây cối. Hoặc lại thấy người tay kéo tấm da thuộc, theo đường mà đi. Hoặc thấy trên đường đi có vật đánh rơi. Hoặc thấy có người cầm giữ đồ đựng rỗng. Hoặc thấy Sa-môn đi một mình không bạn bè. Hoặc lại thấy cọp, sói, quạ, chim thứu, chồn hoang v.v… Ông thấy những việc đó rồi lại nghĩ: “Việc người được sai đi mời thầy cho đến việc thấy các tướng trên đường đi đều là chẳng tốt thì phải biết người bệnh chắc khó trị liệu lắm”. Ông lại nghĩ: “Nếu ta chẳng đến thì chẳng phải là lương y. Còn như đến nơi ấy thì cũng chẳng thể cứu chữa”. Ông lại nghĩ: “Mọi tướng như vậy tuy lại chẳng lành, nhưng hãy bỏ hết để đi đến chỗ người bệnh”. Suy nghĩ thế rồi, ở phía trước trên đường đi ông lại nghe tiếng như vầy: “Mất, chết, táng, băng, phá hoại, chặt, lột, cởi, rơi rụng, thiêu đốt v.v… chẳng đến, chẳng thể trị liệu, chẳng thể cứu vớt”. Ông lại nghe ở phương Nam có tiếng chim, thú, như là tiếng chim quạ, chim thứu, chim xá lợi, hoặc tiếng chó, tiếng chuột, tiếng chồn hoang, heo, thỏ v.v… Nghe những tiếng đó rồi ông lại nghĩ: “Phải biết, người bệnh này khó có thể trị liệu”. Bấy giờ, ông đã vào đến nhà người bệnh, thấy người bệnh đó lúc nóng lúc lạnh, đốt xương đau đớn, mắt đỏ chảy lệ, tai không nghe tiếng, yết hầu thắt lại đau đớn, trên lưỡi rách nát, hình sắc đen sạm, đầu không cử động được, thân thể khô đét, không có mồ hôi, đại tiểu tiện bế tắc chẳng thông. Thân bỗng phì to hồng đỏ khác thường, tiếng nói chẳng đều, hoặc to hoặc nhỏ, toàn thân loang lỗ, xanh, vàng khác màu. Bụng người ấy trướng đầy, lời nói chẳng rõ. Thầy thuốc thấy thế rồi, hỏi người chăm sóc bệnh: “Người bệnh từ hôm qua đến nay ý chí ra sao?”. Đáp: “Thưa đại sư! Người ấy từ trước kính tín Tam bảo và chư Thiên, còn nay thì đổi khác, dứt lòng kính tín; xưa ưa bố thí nay thì keo kiệt, xưa ít ăn nay thì ăn quá nhiều, xưa tánh tình hòa thiện nay thì tệ ác, xưa tánh từ hiếu, cung kính cha mẹ nay đối với cha mẹ lòng không cung kính”. Thầy thuốc nghe rồi liền ngửi người bệnh, nghe được mùi hương Ưu-bát-la, hương trầm thủy tạp, hương tất-ca-đa, hương đa-dàla, hương đa-ma-la-bạt, hương uất kim, hương chiên-đàn, mùi thịt nướng, mùi rượu bồ đào, mùi gân cốt cháy, mùi cá, mùi phân. Biết được mùi rồi, thầy thuốc liền chạm vào thân, biết thân mềm mại giống như tơ lụa, hoa kiếp bối ta, hoặc cứng như đá, hoặc lạnh như băng, hoặc nóng như lửa, hoặc nhám như cát. Bấy giờ, vị lương y thấy đủ thứ tướng như vậy rồi, định biết người bệnh ắt chết, chẳng còn nghi ngờ gì. Nhưng thầy thuốc chẳng nói là người này sẽ chết, mà nói với người chăm sóc bệnh: “Tôi nay có việc vội, ngày mai sẽ lại đến. Người bệnh ấy cần gì thì cứ theo ý chớ ngăn cản”. Rồi ông liền quay về nhà. Sáng hôm sau người nhà bệnh nhân đến, ông lại nói với người đó: “Việc của ta chưa xong, lại chưa hòa thuốc”. Người trí phải biết, như vậy là người bệnh nhất định chết, chẳng gì nghi ngờ. Tâu đại vương! Đức Thế Tôn cũng vậy, đối với bọn Nhất-xiển-đề giỏi biết căn tánh của chúng mà vì chúng nói pháp. Vì sao? Vì nếu chẳng vì chúng nói thì tất cả phàm phu sẽ nói, Như Lai không đại từ bi. Người có từ bi thì gọi là Nhất thiết trí. Nếu không từ bi thì sao nói rằng người Nhất thiết trí. Vậy nên Đức Như Lai vì Nhất-xiển-đề mà diễn nói pháp. Tâu đại vương! Đức Như Lai Thế Tôn thấy những người bệnh thường ban cho pháp dược mà người bệnh chẳng uống thì chẳng phải lỗi của Đức Như Lai. Tâu đại vương! Bọn Nhất-xiển-đề phân biệt có hai hạng, một là được thiện căn hiện tại, hai là được thiện căn đời sau. Đức Như Lai biết rõ bọn Nhất-xiểnđề, người có thể ở hiện tại được thiện căn thì vì họ nói pháp, người ở đời sau được thì cũng vì họ nói pháp, hôm nay tuy không có ích nhưng tạo tác nhân duyên đời sau. Vậy nên Đức Như Lai vì Nhất-xiển-đề diễn nói pháp chính yếu. Nhất-xiển-đề lại có hai thứ, một là lợi căn, hai là trung căn. Người lợi căn ở đời hiện tại có thể được thiện căn. Người trung căn thì sẽ được ở đời sau. Chư Phật Thế Tôn chẳng nói pháp rỗng không. Tâu đại vương! Ví như người sạch sẽ bị rơi xuống hố xí, có thiện tri thức thấy thương xót mà nắm tóc kéo ra khỏi. Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy, thấy các chúng sinh rơi vào ba đường ác, dùng phương tiện cứu tế, khiến cho họ ra khỏi. Vậy nên Đức Như Lai vì Nhất-xiển-đề mà diễn nói pháp.

Nhà vua nói với Kỳ-bà:

–Nếu Đức Như Lai quả đúng như vậy thì ta phải chọn lựa ngày lành sao tốt, rồi sau đó mới đi đến.

Ông Kỳ-bà tâu vua:

–Tâu đại vương! Trong pháp của Đức Như Lai không có việc chọn lựa ngày lành, sao tốt. Tâu đại vương! Như người bệnh nặng còn chẳng xem ngày, thời tiết cát hung mà chỉ cầu thầy thuốc giỏi. Nhà vua hôm nay bệnh nặng cầu vị thầy thuốc giỏi Phật, chẳng nên chọn lựa giờ lành, ngày tốt. Tâu đại vương! Như lửa chiên-đàn và lửa y lan, cả hai đều là tướng thiêu đốt không có khác. Ngày cát, ngày hung cũng như vậy, nếu đi đến chỗ Đức Phật đều được diệt tội. Xin đại vương ngay ngày hôm nay mau đi đến đó.

Bấy giờ, nhà vua liền ra lệnh cho một bề tôi tên là Cát Tường:

–Này đại thần! Ông phải biết, ta nay muốn đi đến chỗ Đức Phật Thế Tôn. Ông hãy mau chóng chuẩn bị phẩm vật cúng dường cần thiết.

Vị đại thần tâu:

–Tâu đại vương! Hay thay! Hay thay! Phẩm vật cúng dường cần thiết tất cả đều có.

Vua A-xà-thế cùng phu nhân cho trang bị một vạn hai ngàn chiếc xe với năm vạn con voi lớn mạnh mẽ. Trên mỗi một con voi đều chở ba người, đem theo cờ phướn, lọng báu, hoa hương, kỹ nhạc đủ thứ phẩm vật cúng dường, không thiếu thứ gì. Kỵ sĩ theo dẫn đường có đến mười tám vạn người. Dân chúng của nước Ma-già-đà tháp tùng nhà vua, số ấy đầy đủ năm mươi tám vạn người. Bấy giờ, đại chúng của thành Câu-thi-na chiếm cả mười hai do-tuần, đều nhìn thấy vua A-xàthế cùng với quyến thuộc từ xa đi đến. Lúc này, Đức Phật bảo các đại chúng:

–Tất cả chúng sinh được nhân duyên gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì không gì bằng có bạn lành trước tiên. Vì sao? Vì vua Axà-thế nếu chẳng thuận theo lời nói của ông Kỳ-bà thì ngày mùng bảy tháng đến nhất định mạng chung, đọa vào địa ngục A-tỳ. Vậy nên nhân duyên gần không gì bằng bạn lành.

Vua A-xà-thế trên đường đi nghe chuyện vua Xá-bà-đề Tỳ-lưu-ly đi thuyền vào biển gặp lửa mà chết, Tỳ-kheo Cù-già-ly còn sống mà thân lún vào đất, đến địa ngục A-tỳ, Tu-na-sát-na làm đủ thứ ác mà đi đến chỗ Đức Phật thì mọi tội được diệt v.v… Nghe những lời nói này xong, nhà vua nói với Ông Kỳ-bà:

–Ta nay tuy nghe hai lời nói như vậy nhưng còn chưa thẩm định được. Này Kỳ-bà! Ông đến đây. Ta muốn cùng ông đồng đi một con voi. Giả sử ta phải vào địa ngục A-tỳ thì nhờ ông nắm lấy đừng để cho ta rơi. Vì sao? Vì ta trước đã từng nghe, người đắc đạo chẳng vào địa ngục.

Bấy giờ, Đức Phật bảo các đại chúng:

–Vua A-xà-thế còn có lòng nghi ngờ. Ta nay sẽ vì ông ấy tạo tâm quyết định.

Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên là Trì Nhất Thiết, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như trước đây Phật nói, tất cả các pháp đều không định tướng, như là sắc không định tướng cho đến Niết-bàn cũng không định tướng, thì vì sao hôm nay Như Lai nói rằng, vì vua A-xàthế tạo tâm quyết định?

Đức Phật dạy:

–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Ta nay nhất định vì vua Axà-thế tạo tâm quyết định. Vì sao? Vì tâm nghi ngờ của vua có thể phá hoại được thì phải biết là các pháp không có định tướng. Vậy nên Ta vì vua A-xà-thế tạo tâm quyết định. Ông phải biết, tâm này là không quyết định. Này thiện nam! Nếu tâm của vua đó là quyết định thì tội nghịch của vua làm sao có thể hoại. Do không định tướng nên tội ấy có thể hoại. Vậy nên Ta vì vua A-xà-thế tạo tâm quyết định.

Bấy giờ, vị đại vương đã đến rừng Ta-la song thọ, tới chỗ Đức Phật, chiêm ngưỡng Đức Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp giống như núi vàng ròng vi diệu. Lúc này, Đức Thế Tôn phát ra tám thứ tiếng, bảo:

–Này đại vương!

A-xà-thế quay nhìn bên trái, bên phải và nghĩ: “Trong đại chúng này ai là đại vương? Ta đã phạm tội nghịch, lại không có phước đức, Đức Như Lai chẳng nên xưng ta là đại vương”. Bấy giờ Đức Như Lai lại liền kêu lên:

–Này đại vương A-xà-thế!

Nhà vua nghe rồi lòng rất hoan hỷ, liền nghĩ như vầy: “Đức Như Lai hôm nay hạ cố dùng lời ái ngữ. Ta biết quả thật Đức Như Lai đối với các chúng sinh đại bi thương xót bình đẳng không sai biệt”. Vua liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lòng nghi ngờ của con hôm nay vĩnh viễn không còn nữa. Con nhất định biết Như Lai chân thật là đấng Vô thượng Đại sư của chúng sinh.

Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp nói với Bồ-tát Trì Nhất Thiết:

–Đức Như Lai đã vì vua A-xà-thế tạo tâm quyết định.

Vua A-xà-thế liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giả sử hôm nay con được cùng với Phạm vương, Thích-đề-hoàn-nhân ngồi đứng, ăn uống còn chẳng hân hoan bằng được gặp Như Lai với một lời đoái tưởng đến con, con rất lấy làm vui mừng.

Bấy giờ, vua A-xà-thế liền đem cờ phướn, lọng báu, hương hoa, kỹ nhạc đã mang theo để cúng dường, trước làm lễ dưới chân Phật, đi quanh bên phải ba vòng. Lễ kính xong rồi, lui về ngồi một bên.

Lúc này, Đức Phật bảo vua A-xà-thế:

–Này đại vương! Hôm nay Ta sẽ vì ông nói pháp chính yếu. Ông phải một lòng lắng nghe! Lắng nghe! Người phàm phu thường phải thâu giữ tâm quán thân có hai mươi việc: Một là trong thân này của ta rỗng không, không có vô lậu. Hai là không có các căn lành. Ba là sinh tử này của ta chưa được điều thuận. Bốn là rơi rớt xuống hầm sâu, không chỗ nào chẳng sợ. Năm là dùng phương tiện gì để được thấy Phật tánh. Sáu là làm sao tu định để được thấy Phật tánh. Bảy là sinh tử luôn khổ, không có thường, lạc, ngã, tịnh. Tám là về tám nạn khó được xa lìa. Chín là thường bị sự truy đuổi của oan gia. Mười là không có một pháp nào có thể ngăn chận các hữu. Mười một là đối với ba đường ác chưa được giải thoát. Mười hai là đầy đủ chủng loại những tà kiến ác. Mười ba là cũng chưa tạo lập bến bờ vượt qua khỏi ngũ nghịch. Mười bốn là sinh tử vô cùng mà chưa đến được bến bờ. Mười lăm là chẳng tạo tác các nghiệp thì chẳng bị quả báo. Mười sáu là không có việc ta làm mà người khác thọ quả. Mười bảy là chẳng tạo nhân duyên vui thì nhất định không có kết quả vui. Mười tám là nếu có tạo nghiệp thì quả nhất định chẳng mất. Mười chín là do vô minh mà sinh thì cũng do vô minh mà chết. Hai mươi là quá khứ, hiện tại, vị lai thường phóng dật.

Này thiện nam! Người phàm phu phải đối với thân này thường phát khởi hai mươi thứ quan sát như vậy. Khởi quan sát này rồi thì chẳng ưa sinh tử, mà chẳng ưa sinh tử thì được chỉ quán. Bấy giờ, theo thứ lớp quan sát tướng tâm sinh, tướng trụ, tướng diệt. Theo thứ lớp quan sát tướng tâm sinh, trụ, diệt và định, tuệ, tấn, giới cũng như vậy. Quan sát sinh, trụ, diệt rồi, biết tướng tâm cho đến tướng giới thì nhất định chẳng làm ác, không có nỗi sợ chết, nỗi sợ ba đường ác. Nếu hành giả chẳng thâu giữ tâm quan sát hai mươi việc như vậy thì lòng buông lung, không việc ác nào chẳng làm.

Vua A-xà-thế thưa:

–Như con hiểu được ý nghĩa câu nói của Phật là con từ xưa đến giờ chưa từng quan sát hai mươi việc này nên đã tạo nên mọi nghiệp ác. Đã tạo mọi nghiệp ác nên con có nỗi sợ chết, nỗi sợ ba đường ác. Bạch Thế Tôn! Tự con đã rước lấy tai ương, tạo tác tội ác nặng nề ấy, phụ vương không có tội mà con ngỗ ngược bức hại. Hai mươi việc quán này mà giả sử quán hay chẳng quán thì nhất định cũng phải đọa vào địa ngục A-tỳ.

Đức Phật bảo:

–Này đại vương! Tánh tướng của tất cả các pháp vô thường, không có quyết định thì sao nhà vua nói rằng, nhất định phải đọa vào địa ngục A-tỳ?

Vua A-xà-thế bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp không định tướng thì tội giết cha của con cũng nên chẳng định. Nếu tội giết định thì tất cả các pháp chẳng phải bất định.

Đức Phật dạy:

–Này đại vương! Hay thay! Hay thay! Chư Phật Thế Tôn nói rằng, tất cả các pháp đều không định tướng, nhà vua lại có thể biết giết cũng chẳng định. Vậy nên biết giết không định tướng. Này đại vương! Như lời ông nói, vua cha không tội mà ngỗ ngược bức hại, thì ai là cha? Chỉ đối với năm ấm giả danh chúng sinh mà vọng sinh ra tư tưởng cha.

Ở trong mười hai nhập, mười tám giới thì cái gì là cha? Nếu sắc là cha thì bốn ấm còn lại lẽ ra chẳng phải. Nếu bốn ấm còn lại là cha thì sắc lẽ ra cũng chẳng phải. Nếu sắc và chẳng phải sắc hợp lại là cha thì không có điều này. Vì sao? Vì sắc cùng chẳng phải sắc, tánh chúng không hợp. Này đại vương! Chúng sinh phàm phu đối với sắc ấm này vọng sinh ra tư tưởng cha. Như vậy thì sắc ấm cũng chẳng thể hại. Vì sao? Vì sắc có mười thứ mà trong mười thứ này chỉ có một thứ sắc là có thể thấy, có thể nắm, có thể quán, có thể đo lường, có thể điều khiển, có thể trói buộc. Tuy có thể thấy, có thể trói buộc nhưng tánh của sắc ấy chẳng trụ. Do tánh chẳng trụ nên chẳng thể được thấy, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể cân lường, chẳng thể điều khiển, trói buộc. Sắc tướng như vậy thì làm sao có thể giết? Nếu sắc là cha có thể giết có thể hại mà bị tội báo thì chín thứ còn lại chẳng phải. Nếu chín thứ còn lại chẳng phải thì đáng lẽ không có tội. Này đại vương! Sắc có ba thứ là sắc quá khứ, hiện tại và vị lai. Sắc quá khứ và hiện tại thì chẳng thể hại. Vì sao? Vì quá khứ qua đi, còn hiện tại thì từng niệm từng niệm diệt mất, ngăn chận vị lai nên gọi đó là giết. Như vậy một sắc, hoặc có thể giết, hoặc chẳng thể giết. Có giết hay chẳng giết thì sắc cũng là bất định. Nếu sắc bất định thì giết cũng bất định, mà giết bất định nên báo cũng bất định thì sao nói rằng, nhất định vào địa ngục? Này đại vương! Tội nghiệp của tất cả chúng sinh đã tạo thường có hai thứ, một là khinh, hai là trọng. Nếu tâm với miệng làm thì gọi là khinh. Nếu thân, miệng, tâm cùng làm thì gọi là trọng. Này đại vương! Tâm nghĩ, miệng nói mà thân chẳng làm thì bị quả báo nhẹ. Này đại vương! Ngày xưa miệng đại vương chẳng ra lệnh giết mà chỉ nói là hình phát là đủ. Này đại vương! Nếu đại vương ra lệnh cho thị thần lập đài chém đầu vua và khi đại vương ngồi xem mới chém mà còn chẳng bị tội, huống gì là vua chẳng ra lệnh thì sao gọi là tội? Nhà vua nếu bị tội thì chư Phật Thế Tôn đáng lẽ cũng bị tội. Vì sao? Vì cha đại vương, vị tiên vương Tầnbà-ta-la đã từng ở chỗ chư Phật gieo trồng các căn lành nên ngày hôm nay được ở ngôi vua. Nếu chư Phật chẳng thọ sự cúng dường của ông ấy thì ông ấy chẳng được làm vua. Nếu ông ấy chẳng làm vua thì đại vương chẳng vì muốn được nước nên sinh lòng giết hại. Vậy nếu đại vương giết cha mà có tội thì chúng tôi, chư Phật, đáng lẽ cũng có tội.

Nếu chư Phật Thế Tôn không có tội thì sao một mình đại vương có tội được? Này đại vương! Vua Tần-bà-ta-la thuở trước có tâm ác, du hành ở trong núi Tỳ-phú-la săn nai. Ông đi cùng khắp vùng hoang vắng đều không được gì mà chỉ thấy một vị Tiên nhân đầy đủ năm thần thông. Thấy rồi, ông liền sinh lòng ác sân giận nghĩ: “Ta nay đi săn, sở dĩ chẳng được gì chính là do người này, phải xua đuổi hắn đi khỏi”. Ông liền ra lệnh cho tả hữu giết người đó. Vị tiên ấy lâm chung sinh tâm ác sân giận, mất hết thần thông mà thề: “Ta thật vô tội, ngươi dùng tâm, miệng ngang nhiên giết chết ta. Vào đời vị lai, ta cũng sẽ trở lại dùng tâm, miệng mà gia hại ngươi như vậy”. Vua Tần-bà-ta-la nghe rồi liền sinh lòng hối hận, cúng dường tử thi. Vua Tần-bà-ta-la như vậy còn được khinh tội, chẳng bị đọa vào địa ngục, huống gì là đại vương chẳng vậy mà phải đọa vào địa ngục, thọ quả báo sao? Đức tiên vương đã tự tạo ra, rồi trở lại tự nhận lấy thì làm sao khiến cho đại vương bị tội giết được? Như lời đại vương đã nói, phụ vương không tội thì sao gọi rằng không? Này đại vương! Phàm người có tội thì có tội báo, người không nghiệp ác thì không tội báo. Cha của đại vương, nếu không tội thì sao có quả báo? Vua Tần-bà-ta-la ở trong hiện thế cũng được quả thiện và cả quả ác. Vậy nên tiên vương cũng lại bất định, mà do bất định nên giết cũng bất định. Giết bất định thì làm sao mà nói rằng nhất định vào địa ngục.

Này đại vương! Sự cuồng hoặc của chúng sinh phàm có bốn thứ, một là tham cuồng, hai là dược cuồng, ba là chú cuồng, bốn là bản nghiệp duyên cuồng. Này đại vương! Trong đệ tử của Ta có bốn thứ cuồng này, tuy họ làm nhiều điều ác nhưng nhất định chẳng ghi nhận là người này phạm giới. Việc làm của người đó chẳng đến ba đường ác. Nếu họ trở lại bình thường thì cũng chẳng nói rằng phạm. Nhà vua vốn tham đất nước, nghịch hại phụ vương, do tâm tham cuồng làm thì làm sao bị tội. Này đại vương! Như người say rượu, nghịch hại cha hắn, khi tỉnh dậy rồi thì lòng sinh hối hận. Ông phải biết nghiệp này cũng chẳng bị quả báo. Nhà vua hôm nay say tham, chẳng phải bản tâm làm, mà nếu chẳng phải bản tâm thì sao gọi là bị tội. Này đại vương! Ví như vị huyễn sư ở ngã tư đường, huyễn hóa làm ra đủ trai, gái, voi, ngựa, chuỗi ngọc, quần áo. Người ngu cho đó là thật. Người có trí biết đó chẳng phải thật có. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân thật. Này đại vương! Ví như tiếng vang trong núi, người ngu si cho là tiếng thật, kẻ có trí biết tiếng ấy chẳng phải chân thật. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân thật. Này đại vương! Như người có kẻ oán giả trá đến cận kề, người ngu si cho là thật thân, kẻ trí thông đạt mới biết là dối trá. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân thật. Này đại vương! Như người cầm gương soi, tự thấy dáng mặt của mình, người ngu si cho là mặt chân thật, kẻ trí rõ thông biết mặt ấy chẳng phải chân thật. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân thật. Này đại vương! Như bóng nước khi trời nắng nóng, người ngu si cho đó là nước, kẻ trí thông đạt biết đó chẳng phải là nước. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân thật. Này đại vương! Như thành của Càn-thát-bà, người ngu si cho là chân thật, kẻ trí rõ biết thành ấy chẳng phải là chân thật. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân thật. Này đại vương! Như người trong mơ hưởng thụ niềm vui năm dục, người ngu si cho đó là thật, kẻ trí rõ biết việc ấy chẳng phải là chân thật. Giết cũng như vậy, hạng phàm phu cho là thật, chư Phật Thế Tôn biết việc ấy chẳng phải chân thật. Này đại vương! Cách giết, hành động giết, người giết, quả báo giết và cả giải thoát. Ta đều biết rõ chúng nhưng không có tội thì sao nhà vua biết giết mà có tội. Này đại vương! Ví như có người giỏi biết về rượu nhưng người ấy chẳng uống thì cũng chẳng say, tuy lại biết lửa nhưng cũng chẳng đốt cháy. Nhà vua cũng như vậy, tuy biết giết nhưng sao gọi rằng có tội? Này đại vương! Có các chúng sinh vào lúc mặt trời mọc làm đủ thứ tội, vào lúc mặt trăng mọc lại đi trộm cướp; mặt trời, mặt trăng chẳng mọc thì chẳng làm nên tội. Tuy nhân mặt trời, mặt trăng khiến cho họ làm nên tội nhưng mặt trời, mặt trăng này thật chẳng đắc tội. Giết cũng như vậy, tuy lại nhân nơi vua, nhưng nhà vua thật không có tội. Này đại vương! Như trong cung vua thường lệnh bảo làm thịt dê, tâm ban đầu không sợ thì sao riêng đối với vua cha sinh ra lòng sợ. Tuy người và súc sinh sự tôn ty có khác biệt nhưng ham sống, sợ chết cả hai đều không khác thì vì sao đối với dê tâm xem nhẹ không sợ, còn đối với vua cha sinh ưu khổ nặng nề? Này đại vương! Người thế gian làm tôi tớ cho ái nên chẳng được tự tại. Vì ái sai khiến mà làm việc giết hại, giả sử có quả báo thì đó chính là tội của ái. Nhà vua chẳng tự tại thì phải tội gì? Này đại vương! Ví như Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Giết cũng như vậy, tuy chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Người hổ thẹn thì chẳng phải có, người không hổ thẹn thì chẳng phải không. Người thọ quả báo thì gọi đó là có. Người thấy rỗng không thì chẳng phải có, người thấy có thì chẳng phải rỗng không. Có người thấy có thì cũng gọi là có. Vì sao? Vì có người thấy có thì bị quả báo, người thấy không có thì không quả báo. Người thấy thường thì chẳng phải không, người thấy vô thường thì chẳng phải có. Người thường thấy thường thì chẳng gọi là không. Vì sao? Vì người thường thấy thường có quả báo của nghiệp ác. Vậy nên người thường thấy thường thì chẳng được là không. Do nghĩa này nên tuy chẳng phải có, chẳng phải không mà cũng là có. Này đại vương! Hễ là chúng sinh thì còn hơi thở ra vào, đoạn dứt hơi thở ra vào nên gọi là giết. Chư Phật Thế Tôn theo thế tục cũng nói là giết. Này đại vương! Sắc là vô thường, nhân duyên của sắc cũng là vô thường. Từ nhân duyên vô thường sinh ra sắc thì sao gọi là thường? Cho đến thức là vô thường, nhân duyên của thức cũng là vô thường. Từ nhân duyên vô thường sinh ra thức thì sao gọi là thường? Do vô thường nên khổ, do khổ nên không, do không nên vô ngã. Nếu là vô thường, khổ, không, vô ngã thì là giết cái gì? Giết vô thường thì được Niết-bàn thường, giết khổ được lạc, giết không được thật, giết vô ngã được chân ngã. Này đại vương! Nếu ông giết vô thường, khổ, không, vô ngã thì cũng như ta. Ta cũng giết vô thường, khổ, không, vô ngã mà chẳng vào địa ngục thì sao ông lại vào?

Bấy giờ, vua A-xà-thế theo đúng như lời Đức Phật nói mà quan sát sắc cho đến quan sát thức. Thực hiện sự quan sát này rồi, ông liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Hôm nay con mới biết sắc là vô thường cho đến thức là vô thường. Con trước nếu có thể biết như vậy thì đã chẳng làm nên tội. Thưa Thế Tôn! Con trước từng nghe chư Phật Thế Tôn thường vì chúng sinh mà làm cha mẹ. Tuy nghe lời nói đó nhưng còn chưa thẩm định, hôm nay thì nhất định biết. Thưa Thế Tôn! Con cũng từng nghe núi chúa Tu-di là do bốn thứ báu tạo thành, đó là vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Nếu có các con chim đậu vào thì đồng màu với núi ấy. Tuy nghe lời nói này, nhưng con cũng chẳng thẩm định. Hôm nay, con đi đến núi Tu-di Phật thì cùng đồng màu, mà cùng đồng màu thì biết các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Bạch Thế Tôn! Con thấy ở thế gian, từ hạt y lan sinh ra cây y lan, chẳng thấy hạt y lan sinh ra cây chiên-đàn. Hôm nay con mới thấy từ hạt y lan sinh ra cây chiên-đàn. Hạt y lan là thân con đó. Cây chiên-đàn tức là lòng tin vô căn của con. Vô căn là con ban đầu chẳng biết cung kính Như Lai, chẳng tin Pháp, Tăng, nên gọi là vô căn. Thưa Thế Tôn! Con nếu chẳng gặp được Như Lai Thế Tôn thì phải ở tại đại địa ngục trong vô lượng vô số kiếp chịu vô lượng khổ. Con hôm nay may mắn được gặp Phật. Do công đức được gặp Phật này mà phá hoại tất cả tâm ác phiền não của chúng sinh.

Đức Phật dạy:

–Này đại vương! Hay thay! Hay thay! Ta nay biết ông nhất định có thể phá hoại tâm ác của chúng sinh.

–Bạch Thế Tôn! Nếu con thật có thể phá hoại các tâm ác của chúng sinh thì khiến cho con luôn ở tại địa ngục A-tỳ, trong vô lượng kiếp, vì các chúng sinh chịu khổ não lớn mà chẳng lấy làm khổ.

Bấy giờ, vô lượng dân chúng của nước Ma-già-đà đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do vô lượng dân chúng phát đại tâm như vậy v.v… nên trọng tội của vua A-xà-thế liền được nhẹ bớt. Nhà vua và phu nhân, hậu cung thể nữ đều đồng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc này, vua A-xà-thế nói với Kỳ-bà:

–Ta nay chưa chết đã được thân trời, bỏ đi mạng ngắn ngủi mà được mạng dài lâu, bỏ thân vô thường mà được thân thường trụ; khiến cho những chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là thân trời; mạng dài lâu, thân thường trụ, tức là đệ tử của tất cả chư Phật.

Nói lời này xong, ông liền dùng đủ thứ cờ phướn, lọng báu, hương hoa, chuỗi ngọc, kỹ nhạc vi diệu cúng dường Phật và dùng kệ tụng khen ngợi:

Lời thật rất vi diệu
Câu nghĩa đều khéo léo
Tạng bí mật sâu xa
Vì chúng nên hiển thị
Lời quảng bác sẵn có
Vì chúng lược tuyên dương
Lời đầy đủ như vậy
Khéo trị liệu chúng sinh
Nếu có các chúng sinh
Được nghe lời này rồi
Hoặc tin hoặc chẳng tin
Biết chắc là lời Phật
Lời Phật thường êm dịu
Vì chúng mà nói lớn
Nói lớn hay dịu dàng
Đều về đệ nhất nghĩa
Nên con hôm nay nguyện
Quy y với Thế Tôn
Lời Như Lai một vị
Giống như nước biển cả
Đó gọi đệ nhất nghĩa
Không có lời vô nghĩa
Hôm nay Đức Phật nói
Vô lượng các loại pháp
Trai gái lớn nhỏ nghe
Đều đạt đệ nhất nghĩa
Không nhân cũng không quả
Không sinh cũng không diệt
Gọi là Niết-bàn lớn
Người nghe phá các kiết
Như Lai vì tất cả
Thường làm cha mẹ lành
Phải biết các chúng sinh
Đều là con Thế Tôn
Như Lai từ bi lớn
Vì chúng nên khổ hạnh
Như người bị quỷ dựa
Làm nhiều việc loạn cuồng
Con nay được gặp Phật
Có được ba nghiệp lành
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng đạo vô thượng
Phẩm vật con dâng cúng
Phật, Pháp và chúng Tăng
Nguyện đem công đức này
Cầu Tam bảo thường trụ
Con hôm nay sẽ được
Đủ thứ công đức lành
Nguyện đem công đức nầy
Phá tan bốn loại ma
Con gặp ác tri thức
Tạo tác tội ba đời
Nay sám hối trước Phật
Nguyện sau không dám làm.
Nguyện cho các chúng sinh
Đều phát tâm Bồ-đề
Thâu tâm thường nhớ nghĩ
Tất cả Phật mười phương.
Lại nguyện các chúng sinh
Phá tan hẳn phiền não
Được thấy rõ Phật tánh
Như Bồ-tát Văn Thù.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen vua A-xà-thế:

–Hay thay! Hay thay! Nếu có người có thể phát tâm Bồ-đề thì phải biết người này làm trang nghiêm đại chúng của chư Phật. Này đại vương! Ông thuở xưa đã ở chỗ Đức Phật Tỳ Bà Thi, đầu tiên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó về sau cho đến khi Ta ra đời, trong khoảng thời gian ấy, ông chưa từng đọa vào địa ngục, chịu khổ. Đại vương phải biết tâm Bồ-đề mới có quả báo không lường như vậy. Này đại vương! Từ nay về sau thường phải siêng tu tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì từ nhân duyên này sẽ tiêu diệt được vô lượng nghiệp ác.

Lúc này, vua A-xà-thế và dân chúng toàn nước Ma-già-đà đứng dậy, đi quanh Đức Phật ba vòng, rồi từ tạ lui về cung.

Phẩm Thiên Hành, như kinh Tạp Hoa đã nói.