ĐẠI TỲ-LÔ-GIÁ-NA THÀNH PHẬT KINH SỚ

A-xà-lê Nhất Hạnh ghi chép

 

 

Phẩm 2: NHẬP MẠN-ĐỒ-LA CỤ DUYÊN CHÂN NGÔN

Nhập Mạn-đồ-la Cụ duyên Chân ngôn phẩm thứ hai: Phẩm trên đã tóm tắt các thứ tâm tướng, trả lời, phân tích tất cả trí tâm rồi, nhưng quả mầu nhiệm này do phương tiện nào mà có thể được đến?

Vì thế phẩm này, kế là nói thực hành phương pháp nhập Mạn-đồla, đầy đủ chi phần các duyên và Chân ngôn quan trọng, đều nói rộng ở trong đây. Ví như đã biết sữa có tánh đề hồ, liền bảo lấy đủ các đồ chứa phương tiện thu nhặt lại, vì từ duyên khởi, phải biết không khác mười câu Duyên sinh.

Lại nữa, trong kinh Thanh văn, lấy Tỳ-ni làm bí tạng, muốn lựa chọn người nhiều đức hạnh mới trao, nếu chưa phát sinh luật nghi thì không giúp người nghe tu tập; trong Đại thừa cũng lấy trì minh làm bí tạng, người chưa nhập Mạn-đồ-la thì không được đọc tụng thọ trì, đồng với trộm nghe bố tát lại vời lấy tội nặng. Vì sao? Vì như người đời thương yêu nuôi dưỡng trẻ em, tuy tâm không lẫn tiếc, nhưng không trao cho chức tướng hay sao? Vì không biết vận dụng phương tiện nên chắc chắn làm tổn thương thể kia, nay pháp môn này cũng giống như vậy.

Tức tâm thành Phật chỉ thú khó biết, sợ chúng sinh đời vị lại xem thường pháp, không thể thưa hỏi Thiện tri thức, chưa được Tam mật gia trì, mà tâm mình bắt chước chấp văn, liền tự tu học, dụng nhiều công lực không thành tựu được gì, trở lại chê bai kinh này cho là không phải Phật dạy. Lại văn kinh này, có hai cách giải thích cạn lược và sâu xa. Ở trong giải thích sâu xa lại có cạn, sâu, họ liền mở văn xét tìm, vì không hiểu mật hiệu nên cho là nhân duyên sự tướng, tâm sinh kiêu mạn tự nói ta tu hành đạo chân chánh cần gì việc chú thuật? Do các nhân duyên như thế, nên chiêu cảm pháp nghiệp, trong vô lượng kiếp đọa vào đường ác; vì thế người tu học Chân ngôn, cần phải trước nhập Mạn-đồ-la, danh nghĩa Mạn-đồ-la ở dưới sẽ giải thích.

Kinh chép: Bấy giờ, Chấp kim cang Bí Mật Chủ bạch Đức Phật rằng: Thật hiếm có! Bạch Thế-tôn! Nói các Đúc Phật này tự chứng Tam-bồ-đề, pháp giới không nghĩa bàn vượt ngoài tâm địa, cho đến tất cả chi phần, thảy đều hiện ra ở thân Như lai, khắp cả mười phương, trở lại an trụ trong bản vị.

Kim Cang Thủ liền nương thần lực Đức Phật hiểu rõ văn trên, truớc hết khen ngợi Đức Thế-tôn rất mầu nhiệm lạ lùng, do đầy đủ nhiều phương tiện mới có thể nói các Đức Phật này tự chứng Tam-bồđề, cái gọi là tâm mình tự biết pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận, vượt ngoài tất cả tâm địa, rõ ràng không có chỗ nương như người đời giở chân cất bước đều nương vào đất, Bồ-tát cũng giống như vậy, nương vào tâm tinh tấn tu hành, do đó gọi tâm này là đất, vì tâm còn có chỗ nương, nên chưa gọi là Chánh Biến tri.

Như lai đã vượt qua sự nhỏ nhiệm, nói rộng, tiến tới đều dứt, vì thế gọi là vượt lên tâm địa. Tuy rốt ráo vắng lặng không thể dùng lời để tỏ bày nhưng có thể dùng các đạo phương tiện, vì các loài chúng sinh, như bản tánh tin hiểu mà giảng nói pháp, tức là dấu vết hiểu rõ tất cả trí tâm vô tận trang nghiêm. Pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận tức là dụ cho đài hoa sen, các đạo phương tiện dụ cho cánh hoa sen. Hiểu rõ văn này tuy giản lược, nhưng nêu lên diệu chỉ cả tông không đâu không khắp.

Thứ đến liền thỉnh Đức Phật, chỉ xin Đức Thế-tôn nói đến tu Chân ngôn, thực hành Đại bi thai tạng, sinh Đại Mạn-đồ-la vương. Nay tạm đem Thai Tạng làm dụ. Hành giả bắt đầu phát tất cả trí tâm, như cha mẹ hòa hợp nhân duyên, hạt giống thức gá vào trong thai, bấy giờ dần dần thêm lớn, vì thói quen khéo léo của hạnh nghiệp đã thành hình tượng, cho đến khi mới bắt đầu sinh ra, các căn trăm thể thảy đều đầy đủ, bắt đầu ở trong giòng họ cha mẹ sinh ra, giống như nương vào môn Chân ngôn, học đại Bi muôn hạnh tâm thanh tịnh hiện bày.

Lại đứa trẻ này dần dần đủ nhân, pháp, học các kỹ nghệ, kỹ nghệ đã thông đạt thì thực hành sự nghiệp, như ở trong tâm thanh tịnh, phát khởi phương tiện sửa sang đất tâm mình, tùy duyên lợi ích chúng sanh, cứu giúp chúng sanh do đó gọi là Đại bi thai tạng sinh.

Lại nữa, mới nhập vào Tịnh tâm Bồ-đề môn, thấy pháp rõ đạo, như hạt giống thức Ca-la-la, từ thất địa trở xuống ở trước, làm chỗ nuôi dưỡng đại Bi muôn hạnh, như trong thai tạng không có công dụng để dần dần học theo phương tiện của Như lai, như trẻ em đã sinh học tập các kỹ nghệ, đến tất cả trí địa của Như lai.

Như kỹ nghệ đã thành thì ra nghề, cho nên gọi là Đại bi thai tạng sinh, cũng là một lớp bí mật Mạn-đồ-la. Nay ví dụ hoa sen với nghĩa Mạn-đồ-la này, như sen ở trong lớp vỏ chắc, nhưng tánh của cành, lá, hoa đã rõ ràng đầy đủ, giống như hạt giống tâm của thế gian, từ đây dần dần thêm lớn, cho đến khi bắt đầu sinh chồi hoa thì đài sen quả thật ẩn kín ở trong lá, như tâm xuất thế gian còn ở trong uẩn, lại do tạng cây này bao bọc, không bị các duyên như gió lạnh làm tổn hại, nhị tua sắc sáng ngày đêm lớn tốt, giống như Đại bi thai tạng đã thành tựu rồi, ở dưới ánh sáng mặt trời chiếu rõ nở tròn, như phương tiện đầy đủ. Nay trong đây, nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa Mạn-đồ-la, Tỳ-lô-giá-na.

Bản Địa thường tâm, tức là Đài hoa đầy đủ thể, quả đức đề hồ của Tứ Phật, Tứ Bồ-tát, như các báu đều thành, Kim cang mật tuệ, trí ấn khác nhau, nhiều như số cát bụi trong mười thế giới, giống như tua hoa sen, đại Bi muôn hạnh, Ba-la-mật môn nhiều như số cát bụi trong mười thế giới, giống như hoa ẩn núp, Vô lượng ứng thuận trong ba thừa, sáu nẻo, giống như gốc cành, nhành lá xen nhau phát huy, do đó các đức tròn đầy đủ khắp, nên gọi là Mạn-đồ-la. Nhưng do Như lai gia trì, nhờ đức của Phật tự chứng Bồ-đề, hiện tám cánh trong thai tạng thân, từ Kim cang Mật ấn, hiện tầng thứ nhất Kim Cang Thủ… Các đại quyến thuộc từ đại Bi muôn hạnh, hiện tầng thứ hai Ma-ha Tát-đỏa và các địa quyến thuộc; từ Phổ môn phương tiện hiện tầng thứ ba. Thân tất cả chúng sinh ưa thấy tùy theo loài: Nếu dùng Luân vương quán đảnh phương thì tầng thứ ba như quan lớn trong nước, tầng thứ hai như quan tể tướng trong triều đình, tầng thứ nhất như các quan nhỏ giúp đỡ bên trong.

Thai như cúi xuống chấp tay làm lễ vua, cho nên đài hoa thường trí, làm Đại Mạn-đồ-là vương, nếu từ bản mà có ra tích thì từ trong thai mỗi môn, đều chẳng ra các môn lớp thứ nhất, từ mỗi môn lớp thứ nhất, đều chảy xa các môn lớp thứ hai, từ mỗi môn lớp thứ hai đều lưu xuất ra các môn của tầng thứ ba. Nếu thực hành từ nhân đến quả thì chỗ dẫn nhiếp thành tựu của tầng thứ ba, có thể thông suốt tầng thứ hai thì chỗ dẫn nhiếp thành tựu tầng thứ hai, có thể thông suốt tầng thứ nhất thì chỗ dẫn nhiếp thành tựu tầng thứ nhất, có thể thấy trong Thai tạng, nói theo đây thì các loài chúng sinh bản tánh tin hiểu, tuy là vô lượng, vô biên, nhưng pháp môn Mạn-đồ-la này, nghĩa lợi đã làm, cũng lại không có gì cả, cho nên nói vì đầy đủ cho vô lượng chúng sinh các đời vị lai kia nên thực hành làm cứu giúp an vui.

Kinh chép: Bấy giờ, Đức Phật Tỳ-lô-giá-na, ở trong chúng hội, quán sát khắp rồi, bảo Chấp kim cang Bí Mật Thủ rằng: Này Kim Cang Thủ! Hãy nghe kỹ, nay nói tu hành hạnh Mạn-đồ-la, đầy đủ pháp môn trí Nhất thiết trí trong đại hội này, tức là pháp giới Mạn-đồ-la thu nhiếp chúng sinh đáng độ, nay Đức Phật muốn nói hạnh sâu sắc bí mật, vì khiến không sai lầm đạo cơ nên dùng tuệ nhãn quán sát, tức là tuệ nhãn này đã gia trì, nên mầm lành đời trước đều khai phát giống như ruộng tốt đã gieo giống lành thì sẽ chịu được mưa đúng thời.

Tu hành: tiếng Phạm Na-da, tức nghĩa là Thừa, nghĩa Đạo, nghĩa là từ một niệm gốc lành cho đến thành Phật, ở trong khoảng thời gian đó, mỗi địa đã nương pháp để thực hành Đạo, nên có tên chung là Nada. Các Thiện tri thức trong Mạn-đồ-la, như tạo thừa sửa đạo và dắt dẫn người, chúng sinh nương vào tu hành, gọi là tu hạnh Mạn-đồ-la.

Hạnh này, tiếng Phạm là Thiết-lợi-da. Lại như văn dưới nói: Trước làm đệ tử sửa sang đất bằng, nếu luận việc ngoài thì tự như giải thích bình thường, nếu làm phàm phu chấp ngã điên đảo, chọn được một niệm hạt giống giữ trai, sửa tâm cho ngay thẳng, cũng gọi là trị địa, cho đến làm Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, dứt bỏ các cấu nhỏ nhặt và cha mẹ vô minh, cũng gọi là trị địa, nói theo đây thì văn kinh dưới mỗi lời về nghĩa trì địa, gồm có bao nhiêu lớp ví dụ như Mười câu duyên sanh, đều dần chuyển sâu không thể cùng tận. Chấp kim cang khởi thỉnh Phật như thế, Đức Phật trở lại dùng ấn này để lại dấu vết, sau mới giảng nói, vì thế nói đầy đủ pháp môn trí Nhất thiết trí, nếu địa này không đủ thì không thể khắp vì tất cả chúng sinh thực hành cứu giúp an vui.

Bấy giờ, Đức Thế-tôn Tỳ-lô-giá-na, xưa vốn thệ nguyện thành tựu Vô tận pháp giới, độ thoát cõi chúng sinh không sót, tất cả Như lai đều cùng nhóm họp, dần dần chứng nhập đại Bi tạng phát sinh Tamma-địa, do Như lai khi xưa hành đạo Bồ-tát, lập thệ nguyện như vầy: Ta sẽ thành tựu tất cả pháp giới các Đức Phật, thảy đều độ thoát cõi chúng sinh không bỏ sót, nay điều nguyện đã tròn đầy, nhưng chúng sinh đáng độ không cùng tận, do chúng sinh không cùng tận, tức là pháp giới cũng không cùng tận.

Giới có ba thứ: Có chỗ nói pháp giới, tâm giới và chúng sinh giới; lìa pháp giới không có chúng sinh giới riêng, chúng sinh giới tức là pháp giới. Lìa tâm giới không có pháp giới riêng, pháp giới tức là tâm giới, phải biết ba thứ này không ba không khác, vì muốn chuyển giải thích nghĩa pháp giới, nên lại nói không bỏ sót chúng sinh giới, chúng sinh giới chưa được giải thoát tất cả, tức là pháp giới chưa được thành tựu đầy khắp, vì thế Như lai khuyên tu sự nghiệp, không có dừng nghỉ, tức là do nhân duyên bản nguyện này, nên tất cả Như lai đều cùng nhóm họp, như trong chúng Tăng có đại sự nhân duyên, đại khái như kiết giới, thuyết giới thì chúng Tăng cùng nhóm họp đều cùng ấn, trì, vì một giới, một kiến, không nên riêng chúng. Nay sẽ nói đầy đủ pháp môn trí Nhất thiết trí cũng là đại sự nhân duyên của các Đức Phật, do đồng một bản thể, đồng một pháp giới cho nên thảy đều nhóm họp, cùng dùng thần lực che chở.

Dần dần chứng nhập: Như khi Vô úy đầu tiên, dùng chữ thanh quán tu hạnh Mạn-đồ-la. Thứ hai Vô úy, đối với hữu tướng quán tu hạnh Mạn-đồ-la; Vô úy thứ ba, đối với tâm chỉ có uẩn không có ngã mà tu hạnh Mạn-đồ-la. Vô úy thứ tư, đối với pháp duyên tâm tu hạnh Mạnđồ-la, Vô úy thứ năm, đối với tâm vô duyên tu hạnh Mạn-đồ-la, Vô úy thứ sáu, đối với tâm bình đẳng tu hạnh Mạn-đồ-la. Ly cấu địa trở lên, đều đối với tự địa quán tâm tu hạnh Mạn-đồ-la, lược đem hạnh vị chia ra, đã thực hành mười sáu lớp sâu cạn khác nhau, mỗi vị này tự có hạt giống tâm Bồ-đề, có nhân duyên Đại bi thai tạng thêm lớn, có nghiệp thọ dụng quả tuệ phương tiện như trước đã nói, từ mỗi môn đều lưu xuất ra các môn như thế, từ nhân đến quả thì ba mật phương tiện lần lượt khác nhau, dung mạo đến cùng như biển lớn tâm vương, mỗi vị không khác. Nay các Đức Phật trong mười phương đây vốn khi hành đạo Bồtát, đều nương vào một pháp môn, đến chỗ Nhất thiết trí địa, để nói lý do phát khởi các hạnh Phổ môn, đồng vào Đại bi thai tạng Tam-muội này, từ gốc để tu hành đạo, dần dần chứng nhập tất cả quán. Như khi Bồ-tát tu thiền đến định thứ chín, thuận nghịch, xuất nhập, định tán đều vượt khỏi, hăng hái dạo chơi tự tại, các Đức Như lai như vậy, lần lượt chứng nhập đại Bi Tạng phát sinh Tam-ma-địa, cũng giống như vậy, hoặc quán tất cả pháp giới, đem tất cả tâm làm một tâm, đem tất cả môn là một môn, nếu đem mười sáu lớp huyễn nghĩa này thì dọc ngang nhiếp chung mười hai bộ kinh, sẽ xoay vần vô tận.

Kinh chép: Tất cả chi phần của Đức Thế-tôn, đều xuất hiện trên thân thể Như lai. Trước khi hiện ra trang nghiêm tạng, mỗi thân trong Phổ môn đều trùm khắp mười phương, tùy theo nhân duyên mà ứng vật; nay muốn nói viên vị của Mạn-đồ-la thì phải y theo thể thượng, trung, hạ của thân Phật, từ rốn trở xuống hiện ra thân Đức sinh Thích-ca hiện đời thị hiện đồng với nhân và pháp, khác với hàng Nhị thừa và vô số chúng sinh trong sáu đường về sắc tượng, uy nghi, tiếng nói, tọa đàn và quyến thuộc của kia xoay vần khác nhau, khắp ở tám phương, như bản vị của các thứ Mạn-đồ-la thứ lớp mà trụ.

Từ rốn trở lên cho đến cổ họng thì sinh ra vô lượng chư Bồ-tát Thập Trụ, mỗi vị đều giữ thân Tam mật, cùng vô lượng quyến thuộc ở khắp tám phương, như bản vị của các thứ Mạn-đồ-la thứ lớp mà trụ. Nhưng trong đó tự có hai lớp: Từ tim trở xuống thì trì đại Bi vạn hạnh thập Phật sát vi trần chư đại quyến thuộc. Từ tim trở lên, là trì Kim cang Mật Tuệ Thập Phật sát vi trần nội quyến thuộc, hai loại trên đây gọi chung là Đại tâm chúng. Từ cổ họng trở lên cho đến đảnh tướng Như lai thì xuất hiện tứ trí, tứ Tam-muội, quả đức thân Phật, tức tám thân này ở trong tất cả thế giới, đồ chúng, cõi nước, danh hiệu, thân nghiệp, các việc thọ dụng thảy đều khác nhau, cũng trong tám phương, đến như bản vị của Mạn-đồ-la thứ lớp mà trụ.

Kinh chép: Vì kia từ khi mới phát tâm cho đến các Bồ-tát Thập địa: Nghĩa là khi vừa phát tâm Bồ-đề thanh tịnh, thấy Mạn-đồ-la này đã trùm khắp pháp giới, lên trụ ở tầng thứ hai, lại càng rộng càng sâu thực hành Thập chuyển để khai sáng, cho đến Địa thứ mười một sau đó chỗ thấy rất đầy đủ, như vậy an bày phần vị đã xong tức đều đến khắp mười phương, đối với tự pháp giới môn, thực hành chân ngôn sự nghiệp, thị hiện thứ lớp tiến tu, dạy truyền chúng chủ, tướng này hiện ra rõ ràng không ngăn ngại, văn dưới sẽ nói, chỉ mở ra tâm này thì làm cho danh tự lưu thông. Lại khiến khắp hiện thân tùy loại mà nói đều hiện thân Như lai, nói bản tích đều không thể suy nghĩ bàn luận, gia trì không hai, đâu muốn khiến riêng một pháp giới mà làm các thứ thân hình? Khi hành giả hiểu như vậy, quán Đức Phật Tỳ-lô-giá-na và ngạ quỷ, súc sinh, tâm kia bình đẳng không có suy nghĩ hơn thua, liền từ một môn mà nhập đều thấy tâm vương, vì thế đã làm Phật sự rồi.

Kinh chép: Đi khắp mười phương, trở lại nhập vào bản vị thân Phật, trụ trong bản vị mà trở lại nhập, ý nói tất cả phương tiện rốt ráo đều quy về một chỗ.

Kinh chép: Bấy giờ, Đức Thế-tôn lại bảo Chấp kim cang Bí Mật Chủ rằng: Này Kim Cang Chủ! Hãy lắng nghe! Mạn-đồ-la vị, sơ A-xàlê: từ đây về sau đến quán đảnh là dạy bảo xong. Kim Cang Thủ hỏi được bao nhiêu phước đức nhóm họp, mà bạch Phật rằng: Từ nay về sau con phải cúng dường cho thiện nam, tín nữ. Vì sao? Vì thiện nam, tín nữ kia, đồng thấy Phật, Thế-tôn. Đây nói nhập Mạn-đồ-la rất nhiều chi phần; lại từ đại lực Minh Phi đến cuối phẩm thứ hai, nói về chân ngôn quan trọng hành sự của duyên đàn. Trong đó rất nhiều chi phần; trước hết nói về chi phần A-xà-lê. Vì sao? Vì Phật dạy kinh này cần phải theo thầy lãnh thọ, không được nghe liền tu hành, nếu không có bậc minh sư thì chỗ truyền không có nơi gởi gắm.

Nhưng do hiểu hai thứ nghĩa, nên được gọi là A-xà-lê, nghĩa là chia ra cạn lược và sâu kín, nếu người quán trước, căn cơ chưa hiểu sâu thì thuận theo văn bình thường để giải thích; nếu đã thành tựu lợi căn trí tuệ thì nên giảng nói đầy đủ sâu kín mà dạy trao. Nay trở lại lấy hai phần này giải thích nghĩa A-xà-lê, nếu đối với các chi phần của Mạnđồ-la này, cho đến tất cả chư tôn Chân ngôn thủ ấn quán hành Tất-địa, thảy đều thông đạt được truyền dạy quán đảnh đó gọi là A-xà-lê. Nếu vượt qua trái thuận tám tâm, chứng cảnh giới tịch nhiên đó gọi là A-xàlê. Nếu tâm vương đã tự tại, hiểu tự tâm vốn bất sinh thì gọi là A-xà-lê. Nếu sinh Cực Vô Tự Tánh Tâm, được vào hải hội Mạn-đồ-la như trên thì gọi là A-xà-lê.

Từ đây lại có hạnh sâu mười lớp, cho đến hiểu Tam mật trong người, rất sinh thệ nguyện quyết định, một bề chí cầu trí Nhất thiết trí, chắc chắn sẽ độ khắp chúng sinh trong pháp giới, tâm này giống như cây cờ, đó là người dẫn đầu cho người người làm theo; giống như hạt mầm là gốc rễ của muôn đức, nếu không phát tâm này, cũng như chưa gá vào Ca-la-la thì Đại bi thai tạng làm sao nuôi dưỡng, tự không thể kiến lập gốc lành, huống chi làm thầy người ư? Phải tóm tắt tất cả địa tự giải thích sâu kín, cho đến Tỳ-lô-giá-na, mới gọi là phát tâm rốt ráo vô tận pháp giới.

Kinh chép: Diệu Tuệ từ bi: Bát-nhã có hai thứ: Có cùng với sáu Ba-la-mật hòa hợp Bát-nhã. Trong đây ý nói câu đầu, tuệ này giống như gió mạnh, tâm có thể noi theo (bậc thầy) Ca-la-la, tâm khiến bách thể thành tựu. Hành giả vẫn có tuệ, cho nên sẽ khéo biết thông bít, phán quyết đúng, sai, đối với tất cả sự nghiệp Mạn-đồ-la động hợp khuôn phép, tâm không nghi ngờ, mới có thể làm A-xà-lê, tóm lại, nếu trí nghiệp tròn đầy đồng với Tỳ-lô-giá-na thì gọi là thâm hạnh A-xà-lê.

Từ bi, nghĩa là tâm thương xót đến tận xương tủy, các việc đã làm đều vì gầy dựng cho chúng sinh, đều khiến cho thành tựu điều vui trong pháp giới vô tận, độ thoát khổ não trong chúng sinh giới không bỏ sót, nếu không có tâm này thì như thai tạng không thành, thì làm sao có chỗ nuôi dưỡng. Cho đến Tỳ-lô-giá-na vì bản nguyện nên trụ ở thế giới gia trì, hiện khắp bi sinh Mạn-đồ-la, đó gọi là Thâm bí A-xà-lê. Kiêm chung các nghề: nghĩa là các thứ tài nghệ tinh xảo khéo léo ở thế gian. Thanh Luận Nhân Luận chép: Mười tám Minh Xứ, sáu mươi bốn năng, các thứ toán số, phương dược, quán tướng công xảo, duyên Mạn-đồ-la quan trọng đều không nhờ người, sẽ bắt đầu lần lượt vượt qua và thực hành không thiếu sót, sau đó mới có thể làm A-xà-lê.

Lại nữa, thực hành đúng pháp như thế, thảy đều không trái nghịch với tướng thật, gọi là các tài năng tinh xảo khéo léo. Lại nữa đối với tất cả đạo phẩm như tổng tri, Tam-muội môn, các Độ, bốn biện, bốn nhập, lực, vô úy… đều được khéo léo thì có thể làm thành bí mật Mạn-đồ-la, gọi là các tài nghệ khéo léo.

Khéo léo tu hành Bát-nhã ba-la-mật: Tức là tu sâu quán sát mười câu duyên sanh, thấy Trung đạo sâu xa, soi thấy không chẳng thật có,

việc ấy như trong Đại Bát-nhã có nói rộng. Nếu hành giả đối với văn tự quán tâm, khéo được thông đạt, xa lìa kiến chấp, mới đúng là người làm A-xà-lê ở thế gian.

Lại nữa, trí tuệ ở kiếp sơ vẫn cùng thực hành với hàng Nhị thừa, chẳng phải thâm Bát-nhã. Trí tuệ kiếp thứ hai vẫn cùng nghe với hàng Nhị thừa, cũng chẳng phải Bát-nhã sâu xa. Kiếp thứ ba trí tuệ Vô biên tâm sánh bằng hư không, tất cả hàng Nhị thừa không thể suy nghĩ bàn luận, mới gọi là Bát-nhã sâu xa, có khả năng thực hành bí mật hạnh A-xà-lê. Từ trong bí mật lại dần dần chuyển sâu, cho đến Đức Phật nói cho hàng Thập địa Bát-nhã thì cảnh giới kia không phải của Địa thứ chín, chỉ có Đại Tỳ-lô-giá-na được gọi là rốt ráo A-xà-lê.

Thông đạt ba thừa: Nghĩa là đối với ba tạng giáo Đại thừa, Tiểu thừa, giỏi về văn nghĩa kia, có khả năng hỏi đáp, có khả năng làm thầy thành tựu ba học, nhổ hết gốc ác tà kiến cho đệ tự, mới được làm A-xàlê, nếu không như vậy, hoặc bị những luận sư khác bàn luận phá dẹp thì sự truyền pháp không có năng lực, sinh lòng bất tín cho người.

Lại tông của kinh này, rộng bao gồm tất cả giáo pháp của Phật, như nói chỉ có uẩn không có ngã, tâm xuất thế gian trụ ở trong uẩn, tức là nhiếp các bộ Trung thừa, Tiểu thừa ba tạng, như nói quán uẩn A-lạida biết tự tâm vốn không sinh, tức là nhiếp các kinh nghĩa, tám thức, ba vô tánh, như nói Cực Vô Tự Tánh Tâm, mười câu duyên sanh, tức là nhiếp Hoa Nghiêm, Bát-nhã, các cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận đều nhập vào trong đó; như nói như thật biết tự tâm gọi là Nhất thiết chủng trí thì Phật tánh nhất thừa kho bí mật của Như lai đều vào trong đó. Tất cả lời Phật dạy, đều gồm nhiếp chỗ tinh yếu, nếu có thể giữ gìn tâm ấn này, rộng mở tất cả pháp môn, đó gọi là thông đạt ba thừa.

Lại nữa, môn Chân ngôn, ba thừa mật ấn đến ba Địa bình đẳng của Đức Phật, gọi là thông đạt ba thừa, cạn, sâu, số lớp như trước đã nói. Người khéo hiểu thật nghĩa chân ngôn, như môn Chân ngôn có các thứ chân ngôn, các thứ thân ấn, nhiều vị Bản Tôn cho đến đầy đủ nhân duyên, vật cúng, tất cả chi phần, thanh tự hình sắc, các tướng khác nhau, tùy theo việc mà phân biệt để hiểu tánh loại của kia, biết pháp như thế sử dụng để dứt các tai hại, sử dụng pháp như thế thì tăng thêm sự lợi ích, sử dụng pháp sẽ hàng phục được, như Trì Minh Tạng, Tô-tất-địa phân biệt nói rộng, đây là thông đạt thật nghĩa Chân ngôn. Vì sao? Vì tất cả Chân ngôn, đều là lời nói rất mầu nhiệm của Như lai. Như trong chân ngôn có chữ Chất-đa giải thích cạn chỉ gọi là tâm, nếu giải thích sâu thì Chất: nghĩa là chữ ngăn, mang âm thanh Tam-muội.

Già: Nghĩa là không thay đổi, không thay đổi tức là Phật tánh. Phật tánh cũng gọi là Bát-nhã ba-la-mật cũng gọi là Thủ-lăng-nghiêm Tam-muội, thế nên định tuệ đầy đủ, chữ đa, nghĩa là tất cả pháp như như giải thoát không thật có, nếu nói tâm như vậy, mới gọi là lời nói rất nhiệm mầu.

Lại nữa, như thân ấn, tay trái nghĩa là Tam-muội, tay phải nghĩa là Bát-nhã, mười ngón tay nghĩa là Thập Ba-la-mật đầy đủ, cũng là nghĩa Nhất thiết trí, dụ cho năm luân như hình Bản tôn, nữ là Thiền định, nam là trí tuệ, màu vàng là thân Kim cang, mà trắng là từ bi, màu đỏ là Đại bi, màu xanh là Đại không, cho đến trong tất cả duyên, đều có nghĩa mé thật bậc nhất, đâu thể như văn sinh hiểu biết, nếu thông đạt nghĩa chân thật như thế, mới nên làm A-xà-lê, cũng y theo ba kiếp, mười Địa để nói về hạnh sâu.

Biết tâm chúng sinh: Do A-xà-lê khéo biết sử dụng thượng, trung, hạ của ba bộ, các thứ tánh khác nhau, và trụ Du-già, dùng phương tiện gia trì, có thể rõ biết tâm hành của chúng sinh. Nếu có người đến cầu pháp, sư nên nói rằng, ông hãy tạm ngồi chỗ nào đó, ta sẽ suy nghĩ, khi đó trì danh tự kia, vào trong nhà yên lặng như pháp trì tụng, quán nhân duyên kia, nhờ bổn tôn che chở, sẽ thấy tướng mạo. Nếu là ngoại đạo muốn đến trộm pháp, hoặc rình tìm dịp thuận tiện mà đến giả vờ làm người thân, bấy giờ bổn tôn hoặc hiện hình ngoại đạo… quán kỹ hình loại tự nhiên có thể biết, nên tìm cách đuổi đi nói rằng: Này thiện nam! Hễ là người cầu pháp, trước phải dứt bỏ tất cả tâm ác kiến giả dối.

Lại các Bồ-tát vì độ chúng sinh, có thực hành làm các khổ hạnh khó thực hành, ông nay đâu thể làm những việc khó làm này, lại tùy theo bản duyên mà làm lợi ích, nếu trong cảnh giới thấy bản tôn ở Mạnđồ-la, thì dẫn đệ tử làm việc quán đảnh, hoặc nắm lấy trao cho, các tướng tốt như vậy thì nên thu nhiếp, trao truyền.

Lại nữa, nếu Bổn Tôn bỏ tượng màu gốc mà làm màu đỏ thì người đó tánh thường tức giận, màu đen thì nhiều si, màu vàng thì nhiều tham, màu trắng thì nhiều điều lành, màu tổng hợp thì nhiều vô ký, và ở trong Mạn-đồ-la, quán sát hoa đến chỗ nào, loại thượng, trung, hạ các tướng nhỏ nhặt, cũng có thể biết cơ tâm kia là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, nhưng đối với tướng ấy không nên chấp trước, cũng dùng mười câu duyên sanh mà quán sát, đối với việc như thế hiểu rõ tất cả, mới có khả năng gánh vác địa vị Thầy.

Lại nữa, giải thích sâu kín: Biết tâm chúng sinh tức là biết tâm mình như thật, có thể biết tự tâm thì có thể biết rõ tâm người khác, như trong nhà có kho báu thì khéo xem xét kho báu của người khác, cho đến nhân duyên gốc ngọn của các căn tánh dục, chỗ động tác, nói rộng của tâm đều đều thông đạt rõ ràng, ấy gọi là thâm hạnh A-xà-lê. Người tin Phật Bồ-tát, A-xà-lê nói, tất cả pháp lành lấy Tín làm đầu, nên nói trước tiên, nay thuận theo Phạm Văn để tiện nói năng, gồm chung ở vị sau, không thứ tự mà nói. Nghĩa là tông này, khi bắt đầu vào pháp môn, ý rất cạn cợt khó hiểu, hơn nữa tướng thật ba thừa, đều xa lìa văn tự, nhưng chân ngôn thì cần phải miệng tụng văn Phạm, tâm cũng quán sát, hoặc chia chi tiết của thân phần cong thẳng giống như đùa giỡn, hoặc dùng nước quán đảnh, hoặc làm thành đàn lửa. Nếu muốn dùng tâm thức đo lường thì dấu vết gia trì lại không thể thấy, tự mình không có tin sâu thì làm sao không nghi ngờ được?

Lại hành giả này, đối với các duyên, sự tướng này, đều cho là đáng thực nên tin làm, nếu siêng năng cầu khổ nhiều như thế mà hiện đời chưa được lợi ích, bấy giờ liền tự suy nghĩ: do ta công hạnh chưa đến, hoặc do ba độc cấu nhiễm, hoặc chướng sâu dày, như giặt áo, tìm lửa, chỉ cần chớ nên bỏ giữa chừng thì tự sẽ thuần tịnh, mắt thấy ánh sáng mà thôi, Lại phải suy nghĩ huyễn dụ, như các vị thuốc hòa hợp mà được bay lên hư không, tuổi thọ rất lâu, hạng trí tuệ lợi căn cũng không thể suy nghĩ biết được, chỉ cần khéo hiểu thuật kia thì không có gì không thành tựu. Do tâm tin sâu sắc thanh tịnh, xa lìa nghi ngờ, nên dần dần được pháp nghiệm hiện tiền, lại do pháp nghiệm hiện tiền, nên tín giải chuyển tăng không thể làm trở hoại; nếu không như thế thì giống như người không có tay, tuy vào trong kho báu nhưng không lấy được gì, huống ở địa vị A-xà-lê ư?

Lại nữa, chúng sinh trong một niệm tâm, có thân Như lai tuổi thọ dài lâu hào quang vắng lặng nhóm họp như biển, cho đến các Bồ-tát không lui sụt, lại cũng không thể biết, phải biết pháp này lại rất khó tin, vì thế trong Pháp Hoa, Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ ba phen thỉnh Như lai bốn lần răn dạy, sau đó mới giảng nói. Nay kinh này có phương tiện tu nhập, cho đến một đời có thể thành, nếu xét kỹ lãnh thọ không nghi, đến nơi đất tín, hoặc vượt qua tín giải mới gọi là thâm hạnh A-xà-lê, được truyền giáo quán đảnh khéo hiểu bức họa Mạn-đồ-la.

Quán đảnh có hai thứ: Nghĩa là đệ tự đối với pháp được quán đảnh rồi, tiến tu dần dần, cho đến thành tựu các đức A-xà-lê, bấy giờ được A-xà-lê vui mừng, lại vì tạo lập Mạn-đồ-la, thực hành truyền dạy quán đảnh, đúng như pháp khuyến dụ rằng: Này Phật tử! Đối với Bí mật tạng, ông đã thuận theo tu học, hiểu rõ ràng đầy đủ, có thể dạy bảo người khác, nay ông đã được thiện lợi, cho đến các Bậc Thánh Hiền cũng đều khen ngợi. Nay đã thực hành quán đảnh rồi, ông phải đem tâm chân tịnh giúp đỡ lưu truyền, khiến cho Bí mật tạng (kho tàng bí mật) của Như lai, không bao giờ diệt mất, như thế theo chỗ thích hợp với kia dùng mọi cách khuyến dụ rồi, liền nên vì người làm Mạn-đồ-la A-xà-lê.

Lại nữa, hành giả đối với Du-già, thành tựu các đức A-xà-lê, bấy giờ thâm hạnh A-xà-lê được khởi tâm Mạn-đồ-la, khi ấy đệ tử hiểu rõ, thấy được Đại Tỳ-lô-giá-na, lấy nước đại bi làm tâm quán đảnh, việc ấy ở dưới sẽ nói lại, cho đến khi đầy đủ địa Ba-la-mật, các Đức Phật trong mười phương hiện tiền quán đảnh trao cho chức vị Phật, đều gọi là được truyền giáo quán đảnh. Đã được truyền giáo quán đảnh, không nên là người cuối cùng làm mất hạt giống, phải nối tiếp sự nghiệp của thầy ở đời trước mà độ các đệ tử đây là phương tiện đầu tiên, phải hiểu hình vẽ bản đồ Mạn-đồ-la, cho nên kế là nói, nghĩa là mỗi phương vị, tướng mạo đưa ra các màu tô vẽ trang nghiêm đều nên tự làm việc kia, không nên nhìn người khác, mới có thể làm A-xà-lê.

Lại nữa, trong tâm Bồ-đề thanh tịnh, dùng tuệ phương tiện, vẽ thành vô tận trang nghiêm Đại Mạn-đồ-la vương mới gọi là thâm hạnh A-xà-lê, tánh kia hòa dịu, xa lìa ngã chấp. Ngã chấp này, Bản Phạm nói là chữ quán đảnh, A-xà-lê tương truyền rằng, nghĩa chữ này không tương ưng, phải nói lìa ngã chấp.

Tánh ấy điều hòa nhu thuận: Tức là an trụ trong oai nghi truyền giáo, trụ trong nhẫn nhục địa, nhu hòa khéo thuận mà không bạo ngược. Tuy giòng họ, sắc tướng, đa văn trí tuệ, đều vượt hơn mọi người, cũng không sinh tâm kiêu mạn, hay dùng tâm từ bi giúp đỡ khuyên dạy người mới học, cho đến giòng họ thấp hèn… cũng không có ý tưởng hèn hạ, tâm ganh tỵ chỉ một lòng dùng pháp tự điều hòa và nương vào pháp mà an trụ, điều hòa mềm mỏng như thế, tức là xa lìa ngã chấp, tức là xoay vần buông xả tướng.

Lại nữa, điều nhu là như nhiều lần nấu luyện toàn muốn để điều hòa, tùy người khéo léo không có gì không làm, nay hành giả rửa sạch tâm này, tất cả cặn bã đều hết, tùy theo người trí tuệ sáng suốt không gì không làm, do đó có thể trụ trong nhẫn nhục địa, tùy duyên ứng vật, lại pháp môn nhập đạo của các Đức Phật, Bồ-tát, giống như giòng họ cao sang. Pháp môn nhập đạo của các trời, rồng, quỷ, giống như giòng họ thấp hèn. Liền đem thân này làm Như lai Đại Nhật tướng hải tôn quý đặc biệt, như dung mạo bậc nhất, người ước mong không thể làm được, dù chỉ bằng vết dơ rất nhỏ trong chiếc áo. Ở trong nhất tâm đều nghe các Đức Phật nói pháp, phân biệt không sai, gọi là học rộng, đối với người sáu căn tối tăm, lấp bít, gọi là nghe ít. Vô lượng trí tuệ tự nhiên khai mở, gọi là trí tuệ, vô minh ba độc gọi là ngu si. Vì các pháp cùng rốt ráo như thế, cho nên không được có tâm cao thấp, thế nên gọi là điều nhu, chỉ có một mình Đức Phật, mới được gọi là điều nhu, khéo trụ trong pháp A-xà-lê. Ở hạnh Chân ngôn khéo được quyết định.

Tìm xét trong các thứ phương tiện tạo lập Mạn-đồ-la, tâm được quyết định, xé rách các lưới nghi. Cái gọi là giữ thân như thế, kiết giới như thế, mời đón như thế, các phẩm vật đầy đủ cúng dường để dâng cúng như thế, do bắt ấn chân ngôn gia trì như thế cho đến trì tụng tâm tu, đến khi thành Tất-địa, cũng có thứ lớp vô lượng pháp, như thế đầy đủ ở văn dưới và trong thứ lớp cúng dường, không thể nói kỹ. Nếu khi hành sự mà cùng người khác chọn lựa trái ngược, mới trở lại để tâm quán sát, hoặc dùng gốc tìm kiếm, không gọi là khéo làm A-xà-lê.

Lại nữa, A-xà-lê đối với Du-già được quyết định, tùy theo việc làm, đều với tương ưng Tam-muội, như khi dâng cúng hoa thì tương ưng với hoa Tam-muội, trong đây bản tôn hiện ra rõ ràng, nếu khi dâng cúng hương, đèn, hương xoa, nước át-già… cũng tương ưng với hương Tam-muội cho đến hương nước Tam-muội, mỗi vị bổn tôn cũng tùy theo việc hiện ra, như thế trong mỗi duyên, đều là nhập pháp giới môn, đều là thấy Thiện tri thức, xoay vần vận dụng đều tương ưng với lý, không còn gặp việc lưu lại mới bắt đầu thực hành quán, phải biết người ấy có khả năng làm A-xà-lê.

Nghiên cứu tu tập Du-già: nghĩa là đối với các việc của ba bộ Chân ngôn thượng, trung, hạ đều thành tựu, thông đạt tất cả, đều tương ưng với chánh lý, gọi là khéo tu Du-già. Lại đối với pháp dứt trừ tai họa thì có thể dùng phương tiện này hàng phục để tăng thêm sự lợi ích, hoặc trong pháp tăng ích thì có thể đem phương tiện này để hàng phục diệt trừ tai hại, đối với pháp hàng phục thì có thể dùng phương tiện này dứt trừ tai hại, tăng thêm sự lợi ích, tùy theo pháp kia mà có tương ứng, đều có thể khéo phân biệt, gọi là khéo tu Du-già. Lại ở trong Mạn-đồ-la, các vị bản tôn, Tam-muội, hình sắc, tự, ấn, tánh loại, oai nghi, và cúng dường thành tựu, khi vận tâm quán sát, phương tiện, đều đã tu tập tương ưng; chướng ngại và tướng Tất-địa trong đây cũng khéo hiểu biết, đó là có thể truyền pháp.

Lại nữa, Đại bi thai tạng phát sinh Tam-muội, có các thứ pháp giới môn, các bậc Thiện tri thức, như Đồng tử Thiện Tài lần lượt thưa hỏi, hoặc pháp môn ấy đã khéo tu hành, nhưng các môn khác chưa thể tra xét học tập, nếu khi nhập Phổ môn pháp giới thì có thể ở trong nhất tâm tương ưng đầy đủ, ấy gọi là thâm hành A-xà-lê.

Trụ tâm Bồ-đề mạnh mẽ: Mạnh mẽ là suy nghĩ mạnh mẽ không hèn nhát. Sở dĩ cần tâm này, là vì hành giả Chân ngôn chưa thấy chân đế, đến nay sẽ có cảnh giới trái thuận, hoặc hiện ra các thứ hình sắc đáng sợ, hoặc làm phát ra những âm thanh lạ, cho đến rúng động mặt đất, hoặc có đại lực Tỳ-na-dã-ca hiện ra làm trở ngại, bấy giờ tâm bình yên không lay động, không có lui sụt, nương giáo pháp để trừ sạch, như hành giả thấy tâm Bồ-đề thanh tịnh này có ý nghĩa lợi ích lớn, nếu vào sinh ra tử tự nhiên không có ý tưởng sợ hãi thì các việc ma kia không thể làm chướng ngại.

Lại khi chưa thấy tâm Bồ-đề, đối với Du-già thường có các tướng hiện. Khi đã chứng tâm Bồ-đề, thì biết ngày xưa vào thời gian nào đó có tướng như vậy, lại trong thời gian nào đó có sự tướng như vậy, đều là nhân duyên như thế, đều xem trước hình tướng kia mà biết được ngọn nguồn.

Lại nữa, khi hành giả chiếu soi thấy tâm sáng đạo thì trong vô tận đại nguyện được năng lực vững chắc, cho đến Tỳ-lô-giá-na, Kim sí điểu đầu đàn, quán sát pháp giới đại hải như nhìn trong gương sáng, tung cánh chỉ, quán để bắt lấy trời, người, rồng, đó là tâm Bồ-đề mạnh mẽ.

Này Bí Mật Chủ! Pháp tắc A-xà-lê như thế, các Đức Phật, Bồ-tát đã khen ngợi, vì các đức đầy đủ, tức có khả năng lưu truyền Mật giáo không làm mất hạt giống Phật, ấy gọi là đệ tử chân chánh của Đức Phật, từ thực hành chân ngôn mà sinh ra, thường được chúng sinh khen ngợi. Nếu khi đệ tử tu hạnh Du-già có thể được trời, người, rồng, tám bộ như trên cung kính cúng dường, hoặc thấy các Đức Phật mười phương xưng danh hiệu kia khuyến phát nhiều người, như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, bảo Bồ-tát Tát-đà-ba-luân cầu pháp nhân duyên.

Kinh chép: Lại nữa, này Bí Mật Chủ! Nếu A-xà-lê kia thấy chúng sinh, có khả năng làm pháp khí xa lìa các cấu, có tín giải lớn, tín sâu hết sức mạnh mẽ, thường nghĩ đến lợi người, tức là trong chi phần A-xà-lê, nói về nghi thức nhiếp thọ đệ tử. Trong đây, chúng sinh có hai loại: hoặc đã phát tâm Bồ-đề, đã đến Thiện tri thức cầu thỉnh pháp Chân ngôn để tu hành, hoặc chưa phát tâm Bồ-đề, nhưng Thầy tự phân biệt xem xét, biết kia có khả năng làm pháp khí, có thể giữ gìn pháp ấy: hoặc đối với Du-già thấy căn duyên của kia; hoặc các Đức Phật, Bồ-tát dặn dò thêm, khiến thực hành quán đảnh mà trao dạy cho, hoặc tự thân thấy các bậc Thánh vì kia làm pháp quán đảnh, sau đó phó chúc cho kia dạy bảo trao truyền, có tướng như thế mới có thể truyền pháp, như thức ăn dơ ở xóm nghèo, không thể đặt trong vật báu, thuốc quý của Luân vương thì người phước mỏng không thể uống được, vì không tiêu, hoặc có thể bị chết, phải tương xứng như nắp và hộp thì trao và nhận đều được thích đáng.

Lại như chiếc áo rách rất dơ bẩn thì không thể nhanh chóng nhuộm thêm màu sắc, trước phải dạy đem giặt, sau đó có thể dùng công vẽ thuốc năm màu. Chúng sinh cũng như vậy, nếu trước thói quen nhiễm cấu thì không thể nhuộm màu sắc pháp giới, do đó phải xa lìa các cấu.

Có tín giải lớn: Tín giải ở đây, tiếng Phạm là A-tỳ-mục-để nghĩa là hiểu biết đúng lý tâm không nghi ngờ, lo nghĩ, giống như đào giếng đã dần đến bùn, tuy chưa thấy nước nhưng chắc chắn biết đã gần nước, vì thế gọi là Tín giải.

Ở dưới nói tin sâu: tin này tiếng Phạm là Xả-la-đà, đó là tin nương việc, nương người, như nghe lời bậc trưởng giả, hoặc, bày ra việc thường tình, nhưng vì người ấy chưa từng lừa dối nên liền xem xét nương theo thực hành, cũng gọi là tin, cùng tin các Đức Phật và các Bồ-tát ở văn trên nghĩa đồng, bản chữ Phạm thì hai danh từ. Tiếng nhà Đường không phân biệt, đồng nói một danh từ là tín. Nếu người nghe nói pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận như trên, do gieo trồng gốc lành đời trước nên tinh thần sáng suốt, liền có thể thọ nhận lời kia, biết trong tâm chúng sinh chắc chắn có lý này, gọi là tín giải.

Lại đời trước đã có gần gũi Thiện tri thức, đối với Tam bảo có duyên sâu sắc, tuy chỗ không thể so sánh suy lường, nhưng có thể tin xa, vì thế gọi là thâm tín. Siêng năng mạnh mẽ là tên khác của Tinh tấn. Thích Luận chép: Ví như đào giếng đã thấy bùn ướt càng thêm tinh tấn chắc chắn được nước.

Lại như tìm lửa đã được thấy khói, lại thêm gắng sức thì chắn chắn sẽ được lửa, vì thế sau tín giải lại nói siêng năng mạnh mẽ. Vì sao? Vì nay trí tuệ tự nhiên này, cần nương vào Du-già, nhưng Du-già này, cần phải có năng lực tinh tấn rất lớn, do đó Thích Luận chép: Thiền định, trí, tuệ, không thể dùng phước để cầu xin, cũng không phải quán qua loa mà có thể được cần phải thân tâm tinh tấn, siêng năng khẩn thiết không biếng nhác mới có thể thành tựu. Như Đức Phật đã dạy, máu, thịt, mỡ, tủy đều hết sạch, chỉ còn da, xương, gân vẫn không bỏ tinh tấn, như thế mới được định tuệ, được hai việc ấy thì các việc đều thành tựu, vì thế phải có tinh tấn, mới được truyền trao.

Lại nữa, tinh tấn là nguồn gốc của tất cả pháp lành, có thể phát

động phước đức đời trước, như mưa thấm vào hạt giống mới khiến nó sống được, nếu không có tâm siêng năng mạnh mẽ thì dù có nghiệp đời trước đã trồng, cũng không do đâu phát khởi, cho đến đời nay lợi lạc còn không thể được huống chi đạo Bồ-đề? Thế nên do nhân duyên phát khởi thực hành liền được tín sâu, nhờ tâm tin sâu ấy mới có thể chí cầu pháp cao siêu để gánh vác chúng sinh, phải nuôi dưỡng Đại bi thai tạng cho được rộng lớn thêm, cho nên nói người có tánh thường nhớ nghĩ lợi người mới được truyền trao.

Lại nữa, A-xà-lê, đối với Du-già thấy các Đức Phật, Bồ-tát khen kia đủ đức như đây, hoặc thấy ở trước Thánh chúng tha thiết chí thành cầu xin đạo lý quan trọng, trải qua thời gian lâu dài mới không biếng nhác lui sụt, thế là làm việc lợi người, cứu giúp che chở chúng sinh, bổn tôn thương xót giữ lại để dạy truyền, so sánh các việc như thế, có thể dùng ý hiểu biết.

Lại thâm hạnh A-xà-lê sáu căn thanh tịnh, thấy nhân duyên chướng đạo, thành đạo từ vô lượng kiếp đến nay của kia, không có sai lầm; lại đối với chỗ Phổ môn Mạn-đồ-la căn duyên nhiếp hóa nhau, cũng đều biết rõ, mới gọi là khéo quán sát đệ tử.

Kinh dạy: nếu đệ tử đầy đủ tướng mạo như thế A-xà-lê phải tự đến khuyến khích nói lời dạy bảo thế này: Đây có hai nghĩa:

1. Dứt tâm nghi cho đệ tử, chỉ vì sợ kia thiếu trí, nghi hối thì bị mất hẳn, nhưng không vọng trao cho người, chắc chắn phải phù hợp mới truyền, tự phải tìm mà trao cho, không đợi kia đến cầu thỉnh.

2. Dứt tâm hẹp hòi của A-xà-lê, cho đến trong lửa lớn không xen hở, có thể lưu thông, cũng phải đi đến, huống chi gặp duyên tốt cầu xin mà không ban ân sao?

Tiếp theo có năm bài kệ, nói về khuyến phát phương tiện kia. Bài kệ thứ nhất chép:

Phật tử Đại thừa này

Hành đạo pháp Chân ngôn

Nay ta chính mở nói

Vì căn khí Đại thừa.

Ý nói: Phật tử! Ông nên biết! Nay đạo lý phép tắc khuôn mẫu của Đại thừa này đã nương Chân ngôn thực hành, vì ông là Đại thừa độ lượng, có khả năng tín thọ, nay ta sẽ chân chính nói.

Kệ thứ hai chép:

Đẳng Chánh Giác quá khứ

Cho đến đời vị lai

Các Thế-tôn hiện tại

Trụ lợi ích chúng sinh.

Chư vị Thánh Hiền như thế hiểu diệu pháp Chân ngôn siêng năng mạnh mẽ đạt được chủng trí, ngồi Bồ-đề vô tướng, tức là mở bày tất cả phương tiện môn của các Đức Phật trong ba đời mười phương, chỉ do một Đạo thành Phật, không còn Đạo nào khác, vì Phật Phật đạo đồng, nay lại dẫn các Đức Phật chứng minh, việc ấy như trong kinh Pháp Hoa có nói rộng.

Lại nói trụ nhiêu ích: nghĩa là rất nhiều lợi ích an vui chúng sinh, tức là chỗ Như lai trụ. Các vị Hiền: tức là Như lai, do Phổ Hiền hạnh nguyện đều dùng hết năng lực tròn đầy cho nên dùng để xưng gọi, đều do hiểu diệu pháp Chân ngôn này được siêng năng mạnh mẽ lớn rộng thành Nhất thiết trí, y theo kệ tụng tóm tắt văn, nói về chủng trí: Ngồi ở các pháp vắng lặng, tức là Bồ-đề, không phải đã thành, đang thành, sẽ thành, không có pháp đáng quán không từ người mà được, phải có tướng nào ư? Bồ-đề này không thể nói hoặc đem chỉ bày cho người, vì thế sau kệ lại dùng dấu vết bên ngoài để nói. Kệ chép:

Thế Chân ngôn không sánh

Phá được lực lớn kia

Rất tức giận ma quân

Thích Sư Tử cứu đời.

Ý nói, tuy không có tướng chắc chắn mà đầy đủ tất cả oai lực, có khả năng hàng phục ma quân, chống lại các ngoại đạo, mở cửa cam lồ, Chuyển xe pháp lớn, tất cả trời người thấy dấu vết như vậy, do đó hiệu là Thích-ca Như lai cứu giúp cõi đời, như thấy khói biết lửa, vì thế phải tin nhận. Bài kệ tiếp theo nói:

Cho nên Phật tử ngươi

Nên dùng tuệ như thế

Phương tiện làm thành tựu

Sẽ được Nhất thiết trí.

Đó là khuyến khích hành giả khiến phát tâm cầu quả kia, nay ông may mắn, tự có tâm nào không chứng, chỉ cần đem diệu tuệ này để làm thành tựu, không bao lâu tự sẽ thành Nhất thiết trí. Văn trên, Kim cang Chủ hỏi thẳng Đức Phật Tỳ-lô-giá-na, làm thế nào để chứng được trí Nhất thiết trí? Đức Phật cũng đáp thẳng: Như thật hiểu tự tâm, ấy gọi là trí Nhất thiết trí, nay trong đây, nghĩa dạy bảo truyền trao cũng đồng, nhưng vịn trực tiếp vào Bồ-đề vô tướng thì tiện khuyến khích tu chứng, lại không có hạnh vị khác nhau, có thể yên ổn ở trong đó, tuy phẩm trước nói rộng các tướng, đặt ra các thứ tên gọi trang nghiêm, nhưng nói về tâm, xứ thì ý đều như thế.

Kệ kinh chép:

Hành giả bi niệm tâm

Phát khởi khiến rộng lớn

Kia thọ giáo vững trụ

Phải vì chọn đất bằng.

Nói A-xà-lê đã được đệ tử, sau là nói về chi phần trị địa. Trong đây nói chữ hành giả, bản Phạm nói Chân ngôn giải, vì trong kệ không thể có sáu chữ, lấy ý lược bỏ văn. Văn hành giả Chân ngôn thường dùng pháp lành như thế để phát khởi tâm kia, liền giúp kia ý muốn dần được rộng lớn, biết kia trụ trong lời dạy bảo vững bền, không còn thay đổi, mới vì kia làm Mạn-đồ-la, hoặc ở trong Du-già thấy căn duyên của kia đã vững chắc, sau đó mới chọn lựa Địa. Đại bản Kim cang Đỉnh và kinh Tô-tất-địa… nói rộng về tướng Địa, nhưng đại ý kia thì nay ở thế giới này, tự không giống như các cõi nước thản nhiên bằng phẳng, tùy theo văn dưới sẽ nói trong các chỗ tốt đẹp, chọn lấy chỗ bằng phẳng trang nghiêm có thể làm đàn tròn, liền tiện cho sự tu hành không có gì chướng ngại, có thể đầy đủ sự việc.

Lại nữa, nay làm các đàn ở chỗ nào đều được như Phật Tỳ-lô-giána tâm địa khắp mọi nơi đều ngay thẳng, mới làm đại Bi Mạn-đồ-la, chỉ tùy theo đã nói trong chỗ tốt đẹp, có một phần nhỏ bằng phẳng có thể làm chỗ thanh tịnh, liền ở trong đó mở ra Mạn-đồ-la muôn đức, tầng số sâu cạn Y theo trước giải thích rộng. Kệ chép:

Núi rừng nhiều hoa, trái

Vui ý các suối trong

Các Đức Phật đã khen ngợi

Làm sự nghiệp đàn tròn.

Trong các chỗ tốt đẹp, núi rừng là hơn hết, tuy nhiều núi chập chồng uy thế trang nghiêm sâu lớn vắng lặng, nếu không có hoa quả, suối chảy thì người không thích cho nên các duyên thiếu nhiều, cũng không thể dùng, vì thế phải có các thứ hoa đẹp quả ngon, gồm có cả suối ao trong sạch chỗ lòng người yêu thích, đó là chỗ Đức Phật khen ngợi, có thể làm sự nghiệp Mạn-đồ-la, hoặc hành giả ở trong Tam-muội thấy chỗ tốt đẹp như vậy, nếu nghe chỗ Thánh tôn khen nói, dạy làm ở chỗ kia, văn dưới lệ theo đó.

Lại nữa núi ấy, tiếng Phạm là Noa-già, nghĩa là bất động, nghĩa là trong A-xà-lê Du-già quán hành nhân này, trụ trong pháp Tứ tánh

đối với việc tốt tâm vững chắc không lay động, nói là cung kính thờ phụng bậc sư trưởng, hiếu thảo nuôi nấng cha mẹ… tùy theo có tám tâm hoa quả nẩy mầm, có thể sinh ra pháp xứ thanh tịnh thì có thể kiến lập Mạn-đồ-la.

Lại nữa, tâm Bồ-đề thanh tịnh, an trụ lý chắc thật vững bền không lay động, gió lớn khắp tám phương không thể chuyển động, hoa quả đại bi phương tiện đầy khắp mọi nơi, thường tuôn ra tịnh pháp, lợi lạc chúng sinh, rất được các Đức Phật khen ngợi, là chỗ tốt để làm Mạn-đồ-la. Kệ tiếp theo chép:

Hoặc ở nơi giòng sông

Các nhạn ngỗng trang nghiêm

Kia nên làm tuệ giải

Bi sinh Mạn-đồ-la.

Nếu không có danh sơn thì suối nước là kế đó, nghĩa là các chỗ giòng sông thường không dứt hẳn, chim đẹp tiếng hay bay lượn ca hót, trang nghiêm trong sạch xa lìa chỗ ồn ào náo nhiệt thì có thể làm đàn. Nhạn không phải phiên dịch đúng. Bản Phạm nói là chim Bà-la-bà, hình dáng như chim Uyên ương nhưng lớn hơn, tiếng loài chim này rất thanh nhã, ở Trung Quốc không có, cho nên hội ý mà nói, tuy Thế đế Mạn-đồ-la nhưng cũng phải có tuệ giải, người trì Chân ngôn bèn có thể kiến lập, vì thế nói nên dùng tuệ giải để làm bi sinh Mạn-đồ-la.

Lại nữa, nước nghĩa là trôi chảy không dừng, tâm kia không ngưng đọng, thường hay tiến lên tốt đẹp, gọi là nước, sông phước không dứt gọi là Thủy. Do trước có thể an tâm đế lý, người tự không thể được nhiều, chỉ khiến từ gốc tịnh chảy ra, đến ngay trong đó, liền có thể vận dụng trí tuệ vô ngại, sẽ kiến lập bi sinh Mạn-đồ-la. Âm thanh vi diệu của các loài chim nghĩa là có thể tuyên dương pháp lành, cũng là thường nhớ nghĩ lợi người nên là chỗ chúng sinh quay về, đều được vui mừng, khen ngợi ân đức của kia rất có tiếng tăm. Kệ chép:

Chánh giác nhờ thấy dắt

Bậc Thánh, chúng Thanh văn

Sẽ đến địa phận này

Phật thường hay khen ngợi.

Nếu núi suối đất phước các bậc Thánh đã từng dạo qua, tự thuộc về điều trên, nay trong đây ý nói, tuy không phải chỗ tốt đẹp như trên, nhưng đó là chỗ các Đức Phật, Duyên giác, và đệ tử Thanh văn… đắc đạo Niết-bàn, hoặc ở lâu trong đó, lại là kế đó. Như ở phương Tây, tám tháp và di tích Thánh chúng ba thừa rất nhiều, đều là những bậc đại oai đức, chư Thiên thường đến che chở, chiêm ngưỡng, lễ bái giống như chỗ hiện còn kinh Bát-nhã, các bọn quỷ nhỏ không dám ở lại, cho nên pháp hiệu nghiệm dễ thành. Phật đã ca tụng, nghĩa là như các vị Tiên ở núi, Thế-tôn huyền ký rằng, loài ở trong đó dễ được đạo.

Lại nữa, nếu người đã phát tâm Bồ-đề tức là chỗ đất các Đức Phật sinh ra, cũng là chỗ đắc đạo, Xoay bánh xe pháp, nhập Niết-bàn, cũng phải ở lâu trong đó, dùng bốn oai nghi rộng lợi ích chúng sinh, tuy chưa nghe bí tạng, nhưng được chỗ ba thừa cùng đi, cũng gọi là cát tường, nghĩa là quán sát tánh không, vô tướng vô tác, không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, đây là chỗ Nhị thừa thành đạo, nhập Niếtbàn, cũng là các chỗ trong kinh bản sinh, chỗ Bồ-tát xả bỏ thân mạng học Ba-la-mật, trong đó đều có thể làm Mạn-đồ-la.

Lại nữa, tự nói đã đắc Niết-bàn, sinh ý tưởng diệt độ, là chỗ của Thanh văn, Bích-chi-Phật dạo chơi, nếu người không được một bề cầu Bồ-đề thì phải bình trị trong đó và làm bi sinh Mạn-đồ-la. Kệ nói:

Và các nơi chốn khác

Tăng phường, A-luyện-nhã

Ngoại trừ các Thánh tích

Chỉ theo phương, cõi nước

Các bậc phạm hạnh ở.

Tăng phường, Tiếng Phạm là Tỳ-ha-la, Hán dịch là Chỗ ở, tức là chỗ ở nhiều phước. Bạch y vì những bậc có nhiều phước đức, vì các Tỳkheo mà xây dựng phòng nhà, giúp những vị giữ giới, tham thiền, học tuệ, để ngăn che các thứ không lợi ích như: gió, lạnh, mưa, nắng, để an tâm hành đạo, khiến bố thí phước đức cho đàn việt thọ dụng, ngày đêm thường chảy không có ngừng dứt, do đó gọi là trụ xứ.

A-luyện-nhã là chỗ ý ưa thích, để gọi nơi không-tịch mà hành giả ưa thích, hoặc chỉ một mình không có bạn, hoặc hai ba người, hoặc ở trong phòng nhỏ có hạn lượng bên ngoài chùa, do thí chủ xây cho, hoặc ở nơi đất trống dưới gốc cây, đều đúng.

Lại nữa, như lìa tâm Bồ-đề mà tu tất cả pháp lành, có chỗ nói, rộng làm đàn cúng thí, thọ vô lượng luật nghi, tu các thứ Thiền định, thọ trì mười hai phần giáo, suy nghĩ nghĩa lý, từ bi tinh tấn, hóa độ chúng sinh, đem các hạnh Vô mà dẫn dắt nên đều gọi là Vô Thánh tích. Tăng phường cũng giống như vậy, phàm, Thánh đồng ở, là chỗ sinh phước, cũng là kế đó. Trừ cộng Nhị thừa Bát-nhã, ngoài ra từ Thanh văn, Duyên giác, tất cả pháp môn, do đại Bi xa lìa mà tự tìm ra khỏi ràng buộc, đều gọi là Vô Thánh tích. A-lan-nhã xứ cũng có thể ở ngay trong đó, chọn sửa đất bằng, họa làm Mạn-đồ-la. Kệ chép:

Phòng đẹp lầu gác cao

Các ao, vườn tốt đẹp

Nếu không được như trên

Đất phước không khiến dừng.

Phải chọn lấy nơi tốt đẹp ở thế gian, nếu trang nghiêm thanh tịnh thì có thể tác pháp. Phòng là từ thời thượng cổ đến nay chúng sinh lấy đó làm hổ thẹn, không muốn khiến nếp gấp trong lòng hiện rõ, cũng có thể dùng che chở thân kia, giúp đỡ mình và người khác.

Lầu gác: là nhà lầu nhiều tầng rất cao ở phương Tây.

Ao: là cái ao trong sạch, có nhiều nước mọc các hoa, người và hàng phi nhân đều rất ưa thích.

Uyển: nghĩa là vườn rừng, nhiều danh hương dịu nhẹ, cỏ thơm, cây tươi tốt, vắng vẻ yên tĩnh, có thể ngăn cản sự ồn ào có thể để tâm rỗng rang nghe nhận khát ngưỡng không nhàm chán.

Viên: là chỗ nhiều người vui chơi, nghĩa là người này tánh thường thương xót, thích làm việc từ cứu giúp, đều quy ngưỡng nương nhờ kia che chở, đây đều là chủng tánh Đại thừa, cũng có thể thành bậc thầy.

 

**********

Kệ nói:

Tháp Phật, miếu thần lửa

Chuồng trâu, giữa sông đầm,

Miếu các trời, nhà trống

Chỗ vị Tiên đắc đạo.

Dù không phải Thánh tích và chỗ chúng Tăng ở nhưng tùy theo phần đất chỗ có xây tháp Phật, ở bốn bên Tháp đều được làm Mạn-đồla.

Thần lửa: là nơi thờ lửa của Phạm Chí tịnh hạnh, rất trong sạch do đó có thể lập đàn.

Ngưu Lan: là ở phương Tây làng xóm và chuồng nuôi trâu bò cùng ở một chỗ, cách thôn xóm hoặc mười dặm, năm dặm, đã dồn chứa nhiều năm, phân và nước tiểu bò khắp trên mặt đất chồng chất nhiều lớp, phong tục Ấn-độ cũng cho là sạch, tuy nhiên, phải dời bò đi. Nếu người chăn trâu thấy thì cũng không được làm trong đó.

Hà than: dịch đúng phải là chỗ các dòng gặp nhau, nghĩa là có hai giòng nước hoặc nhiều giòng nước, ở chỗ này hợp chúng lại, nghiêng một bên hay ở giữa dòng, chảy liên tục, rửa sạch không có các vật dơ uế.

Thiên Miếu: là nhà thờ cúng tổ tiên ở cõi trời, hoặc nhà thanh trai, an nhàn, nhưng nếu có các ngoại đạo tà kiến không tin thì không nên làm đàn ở chỗ này.

Thất trống: là nhà do người đời làm ra, sau đó bỏ đi, do không có các việc lộn xộn cho nên có thể tác pháp. Nơi vị Tiên đắc đạo: là chỗ người đời cầu năm Thần thông, dừng ở lâu ngày được thành tựu, chắc chắn không có chỗ nào tốt hơn, cũng có thể ở trong đó làm Mạn-đồ-la.

Lại nữa, chế để: là chỗ xây dựng tốt đẹp, nghĩa là người này thường kiến lập bạch pháp, chí không rối loạn, tuy nay chưa tu Chánh giác, phải biết trong cây phước đời trước đã có gốc lành, cho nên gọi là Tháp.

Lại, lửa có công năng thiêu đốt, sự nhơ bẩn, nghĩa là thân, miệng, ý người này, dù chưa được thanh tịnh đạt đến xuất ly (sinh tử) nhưng bên trong có tuệ tánh, ưa làm tịnh nghiệp, có lỗi thì sửa đổi, do đó gọi là đền thờ lửa.

Ngưu: nghĩa là hành.

Lan: nghĩa là đề phòng, nghĩa là tánh chất người này ôn hòa dịu dàng, dễ điều khiển thuần thục, năm căn đều ham muốn dục, có thể tự ngăn lại không đến nỗi buông lung, vì thế gọi là Ngưu Lan.

Toàn lưu: nghĩa là đối với ba thừa tâm kia còn do dự, không biết quyết định đi đến đường nào.

A-xà-lê cũng nên dùng pháp khuyến dụ rằng, các phương tiện này đều là Phật dạy, nhưng tùy theo sự ưa thích nhất của ông mà một bề học tập, chỗ đến sẽ đồng, không nên nghi ngờ lo sợ. Nếu tin cả tà lẫn chánh thì phải dứt trừ bến mê, chỉ bày đường chính, để họ có thể gồm tin, tức là đời trước đã từng dùng nước pháp gội rửa tâm kia, cũng gọi là sông đầm. Đền thờ trời, nghĩa là không cầu ba thừa mà chí nguyện cái vui cõi trời, vì muốn truyền thọ khiến xa lìa ba đường ác, sinh chánh kiến trong cõi trời cho nên phải nhiếp thọ, ấy gọi đền thờ trời.

Thất trống: Nghĩa là người này tuy ở trần tục, nhưng tánh ưa vắng lặng nhàm chán ồn ào, tạp nhạp ở đời, đó là tướng gốc lành sắp thành thục, như người nữ mang thai dần dần thành tựu thì dục ý tự nhẹ nhàng, vì thế có thể giáo hóa, nếu chí cầu sinh lên các tầng trời Vô sắc cũng gọi là thất trống chỗ vị Tiên đắc đạo: Nghĩa là chỉ phát tâm cầu năm Thần thông, trì minh tiên đạo hoặc nguyện sống lâu thành tựu các thứ Tất-địa thế gian, cũng có thể tùy theo căn cơ kia mà khuyến dụ, dắt dẫn.

Lại nữa, có các học thuyết khác, rất ưa thích pháp thờ thần lửa Vi-đà, nguyện sinh về cõi Phạm Thế. Nghe trong Bí Tàng cửa Đức Phật cũng có Hỏa Thiên thực hành pháp Chân ngôn, tông chỉ và ý nghĩa rất sâu liền từ môn này mà nhập vào chánh pháp.

Lại có kẻ thờ phụng Tự Tại, Tỳ-nữu, Na-la-diên, quý trọng mặt trăng, mặt trời… các thứ trời thế gian, nếu nghe trong diệu pháp của các Đức Phật, cũng có Chư thiên Chân ngôn hành pháp như kia, cho đến thân Đại ngã của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na thì lập tức tin nhận mà nhập vào chánh pháp, hoặc người có chí nguyện cầu sinh lên các tầng trời trong ba cõi, nghe trong kho diệu pháp của các Đức Phật có hành pháp thiên thừa Chân ngôn, có thể khiến cho trong vô lượng đời sinh về cõi trời kia, không đọa lạc trở lại, cuối cùng tự nhiên trở thành Đệ nhất nghĩa, do tâm nguyện sâu xa này nguyện được vào chánh pháp, hoặc có người học tập Ngũ thông tiên pháp ở thế gian, nghe trong kho diệu pháp của các Đức Phật có các thứ Chân ngôn của Ca-diếp, Cù-đàm, Đại Tiên có thể giúp đạt được thần thông không thể suy nghĩ bàn luận, cho đến tuổi thọ dài lâu như Tỳ-lô-giá-na, họ liền hớn hở, chí cầu được vào chánh pháp, do những pháp môn như thế, nên Đức Phật nói các chỗ như thần lửa… đều có thể tạo dựng Mạn-đồ-la. Kệ nói:

Như ở trên đã nói

Hoặc chỗ ý ưa thích

Do lợi ích đệ tử

Phải vẽ Mạn-đồ-la.

Cho đến tìm các chỗ đất tốt đều không thể được thì cũng không thể để cho Mật giáo này không được lưu truyền, chỉ tùy theo điều mà tâm A-xà-lê ưa thích, nghĩa là chỗ đất có lợi ích, liền có thể dựng lập Mạn-đồ-la, nếu giải thích sâu, chỉ cần xem người kia có phần nhỏ gốc lành chân thật mong cầu, đều có thể chọn tâm địa của kia sửa sang cho bằng phẳng, để tạo dựng đại bi Mạn-đồ-la, lại chúng sinh này, cho đến ưa thích thuật nhỏ ở thế gian của Già Văn Đồ, Đồ Cát Nhĩ, cũng ở trong pháp môn này mà che chở dẫn dắt họ, khi có thể thấy được bản tôn này, thì tự nhiên được thấy vô lượng Thánh chúng.

Hỏi rằng, ở trên nói chọn trong hàng đệ tử, vị nào đầy đủ các đức, có khả năng làm pháp khí mới được chỉ dạy trao truyền, mà nay trong nghĩa chọn đất cho đến một chút điều lành nhỏ đều được trao truyền là vì sao?

Đáp: Trong đây, đệ tử có hai hạng: Nếu là đệ tử cầu truyền pháp xứng đáng nối tiếp địa vị A-xà-lê, nếu không có người kia thì hành đạo không có đạo lý; nếu đệ tử kết duyên thì điều lành giơ tay, cúi đầu đều được thu nhiếp; lại A-xà-lê hạnh sâu xa đã thấy rõ căn duyên, hoặc có người căn cơ đạo pháp đời trước đã chín muồi có khả năng làm pháp khí, nhưng ở trong đời này, chìm trong bùn đục, mà còn một ít gốc lành, do đó A-xà-lê liền chọn một phần nhỏ đất bằng trong đây, mở ra kho bí mật Mạn-đồ-la, cần gì đời người yên tâm rõ lý, mới làm Phật sự, vì thế không trái với trước đã nói.

Kinh dạy: Này Bí Mật Chủ! Chọn lựa đất kia, phải loại bỏ, đá, sỏi, các vật dụng bị vỡ, đầu lâu người chết, lông, tóc, bả, cặn, vỏ trấu, tro, than, xương nhọn, gỗ mục… và sâu, kiến, bọ hung, loài có nọc độc như rắn, rết, ong… kế là nói chi phần sửa đất. Nghĩa là trong chỗ đất đã chọn ở trước, lựa lấy chỗ đặt đàn, đào một khủy tay trở lại, ở trong đất kia, mỗi mỗi chọn kỹ, có các vật không dùng được và các loài trùng, đều phải loại bỏ, nếu có những thứ này thì hay sinh các nạn, đối với pháp có chướng ngại, chỗ kia đá, cát, sỏi, ít thì có thể chọn lấy nhưng phải chọn lựa bỏ đi, nếu cát, đá quá nhiều, chỗ này chứa nhóm chỗ kia lại có, không thể lựa bỏ cho sạch sẽ được thì phải bỏ để tìm chỗ khác.

Những tảng đá lớn bằng phẳng, có lời Phật dạy thì có thể ở trên đó lập Mạn-đồ-la, nhưng xen lẫn trong đất thì nên loại bỏ. Phong tục ở Phương tây là thường đựng thức ăn trong vật làm bằng đất nung, ăn xong thì bỏ, nghĩa là chạm đến dơ bẩn thì không chịu dùng nữa, như thế so sánh với các đồ vật làm cho hư hỏng khác, và đầu lâu, xương lẫn lộn, các thứ: móng tay, tóc, da, lông, cặn bã, vỏ trấu, cỏ hôi, đến các loại tro, than, gỗ mục. Tóm lại, tất cả những vật như thế đều không được dùng, vốn không phải đất sạch, đều lựa bỏ ra, nếu nhiều không thể lựa hết, cũng nên bỏ đi để tìm chỗ khác, vì thế nói là vân vân.

Trùng kiến, tiếng Phạm là Ngật-lật-nhị, đây là lời bao gồm tất cả, đều là loài trùng rất nhỏ, đều lựa bỏ đi. Khương Lang là loài trùng lớn, còn có nghĩa Khưu dẫn (con giun)… Căn cứ theo đây có thể biết. Độc trùng: nghĩa là loài rắn, rít, con sâu cuốn chiếu, đều phải làm phương tiện xua đuổi đi, nếu nhiều không thể đuổi hết, tức là nạn xứ có chướng ngại, phải nên bỏ.

Kinh chép: Lìa các lỗi như thế, trường hợp này rất nhiều, người đắc ý gặp việc tự phải soi xét phân biệt, nghĩa là đất hoặc nghiêng ngã, hoặc cao thấp không bằng phẳng, hoặc sắc vị không đúng lời Phật dạy, trong màu sắc kia dùng màu vàng, màu trắng là tốt, nếu toàn màu đen thì không nên chọn lấy. Lại nếm vị ngọt, lạt thì tốt, cay đắng, mặn chát… thì không nên dùng, nếu đào thì phải lấp lại. Lại trong một khu vực thì phương Nam là đất xấu, nhưng có thể làm A-tỳ-già-lỗ-ca.

Lại nữa, A-xà-lê, đã biết tâm địa đệ tử, được có thể ở trong đó dựng lập đại Bi Mạn-đồ-la, tức phải trụ trong định sâu, xét kỹ phân biệt quán sát, dùng tuệ phân biệt lựa chọn, loại bỏ các dơ bẩn xen lẫn không nên dùng được, sau đó sửa lại cho chắc chắn, thật trang nghiêm, không như thế thì thói quen và nghiệp đời trước còn lại làm sinh ra chướng ngại.

Đá, sỏi: Nếu không tin chánh pháp, chấp chặt sự hiểu biết ngã phần, bác không nhân quả… vì khó có thể điều phục và thấm nhuần dần dần nên cuối cùng không thể sinh mầm lành, ra công hun đúc cũng không được gì; chấp chặt nhỏ nhiệm rất nhiều không dung thọ lẫn nhau, do đó dụ cho cát, ngói. Ngói vụn, đồ dùng bị vỡ: Như gây năm tội nghịch, phạm bốn giới cấm nặng, chê bai kinh điển Đại thừa… do tâm khí bại hoại cho nên không làm được gì, bày thêm pháp vị cũng không dừng trụ, bị các điều lành làm thương tổn, trước phải dùng Trí tuệ phương tiện cao mới lựa bỏ được các chướng như thế.

Đầu Lâu: Như phá hoại, chướng ngại tâm Bồ-đề, thuở xưa đã đầy đủ nhân, pháp, ở trong các chi phần rất cao lớn, do mạng căn dứt, nên trăm thể hư hoại không làm được gì, duyên thói quen xấu này, giả sử khiến phát tâm Bồ-đề lại, cũng lại thành chướng ngại cho lòng tự vui, khiến lui sụt, vì thế càng phải gội trừ khiến hết các thói quen còn thừa.

Lông tóc: Nghĩa là sáu mươi tâm… cùng mầm lành tám tâm cùng thể mà sinh, cho đến xét rõ thì phải dứt bỏ, chưa được tâm xuất thế gian đến nay, xen khởi rối rắm khó được một mối, do đó gọi là lông, tóc.

Cám vỏ: Như Vô minh vọng tưởng, lại chấp chặt nói rộng nên chỉ được danh tướng bên ngoài (vỏ) mất đi tướng thật hạt gạo, do đó lấy làm dụ.

Tro than: nghĩa là ưa thích pháp nhỏ, khởi tâm Nhị thừa, nếu căn lành bị đốt cháy ở đây thì trở về với than, tro, không mọc được cành, lá, hoa, quả đại bi, vì thế dùng làm ví dụ.

Khắc xương: nghĩa là từng đối với chúng sinh làm các việc không lợi ích, hoặc phạm các luật nghi lặt vặt, đây là nghiệp chướng còn thừa, oán đối đời trước của sinh tử trong quá khứ, do đó gọi là Cốt.

Gỗ mục: nghĩa là loại không muốn biếng nhác, không thể gầy dựng tài năng để thành bậc Thầy. Lại Văn phạm gồm có nghĩa gốc cây trụi, nghĩa là từ xa xưa đến nay, đối với các phiền não đã từng gây ra, các loại cỏ (phiền não, hoặc nghiệp) sâu chắc khó có thể nhổ bỏ, do các nghiệp quá khứ như thế, chứa đựng trong tâm địa, khi nhất tâm hành đạo việc ma dễ nổi lên, cho nên phải chọn lựa chuẩn bị sẵn, nếu nhiều không thể chọn lựa thì nên bỏ đất này riêng đi tìm chỗ tốt đẹp khác. Các loại trùng độc, sâu, kiến, bọ hung: dụ cho các thứ phiền não hiện hành. Sâu kiến dụ cho Si, bọ hung dụ cho Tham; trùng độc dụ cho Sân; loài này rất nhiều dụ cho tùy phiền não, những loài trùng nhỏ dụ cho vô lượng sự hiểu biết sai lầm, Quán những loài này đều có Phật tánh, càng phải giữ gìn chớ làm dứt mạng sống của chúng, chỉ nên tìm cách đuổi đi, không để cho cản trở sự hành đạo, không làm ô ế Mạn-đồ-la mà thôi, nếu muốn cho Đạo tràng rất thanh tịnh, một trăm sáu mươi thứ cấu nhỏ thượng trung hạ đều phải chọn lựa không còn, cho đến quán đảnh trong đất không tốt sạch thì đều phải lựa bỏ đi, mới gọi là rốt ráo sạch.

Kinh chép: Gặp ngày tốt, ngày định thì phân ra chấp túc trực, thảy đều tương ưng, trước giờ ăn gặp việc tốt lành: cát tường tướng: nhân việc chọn đất thuận tiện nói chọn chi phần “thời”. Hễ chỗ làm pháp sự đều phải khế hiệp với nghĩa “thời”, nay sắp chọn sửa đất này, cho nên vào ngày tốt thì kính báo Thần đất, các pháp sự khác lệ theo đây có thể biết.

Ngày tốt: Nghĩa là tác pháp thường dùng phần trăng sáng, trong đó các ngày mồng một, mồng ba, mồng năm, mồng bảy, mười ba đều là ngày tốt có thể làm Mạn-đồ-la. Lại trong tháng, ngày mùng tám, ngày mười bốn, ngày mười lăm rất tốt, vào các ngày này thường tụng niệm, cũng nên gia công.

Ngày định: Lịch pháp ở phương Tây tính chung tháng thiếu hiệp với ngày nào, nếu tháng thiếu ở trong phần sáng trăng thì tháng kia ngày mười lăm tức là thuộc về phần tối trăng, không thể dùng. Lại lịch pháp tính chung mức độ đi song song nhau của mặt trời, mặt trăng, thường làm ngày mồng một, đều hiệp một tháng thiếu, một tháng đủ.

Nhân vì mặt trăng, mặt trời khi đi song song nhau lại còn có nhanh chậm, thỉnh thoảng vượt qua sự song song có khi không kịp song song, vì thế quyết định đầu tháng hoặc tiến, lùi một ngày, định nửa tháng hoặc ở ngày mười bốn hoặc ngày mười lăm, tóm lại, trăng rằm chính là khi tròn đầy, trăng nửa vầng chính là khi như cây cung, cũng là ngày tám, chỉ cần lấy đây làm điểm quan trọng để y theo, liền quyết định được ngày. Thời phần: lịch pháp phương Tây ngày đêm đều có ba mươi thời, mỗi thời đều có tên gọi riêng, như ban ngày thì tính lượng bóng dài, ngắn, thời nào làm việc thì tốt, thời nào thì xấu, thời nào làm việc quân bình, mỗi mỗi thời đều có loại hình. Túc trực, nghĩa là hai mươi bảy đêm.

Chia khắp một ngày làm mười hai phòng, giống như mười hai lần ở trong đây, mỗi lần đều có chín chân, vòng quanh một ngày có một trăm lẻ tám chân, mỗi đêm đều được bốn chân, tức là mặt trăng đi được một ngày, trải qua hai mươi bảy ngày, tức là mặt trăng đi được một vòng nương vào lịch để tính, trăng ban đêm, tức là đêm thẳng đến ngày. Đêm có thượng, trung, hạ, tánh có cương, nhu, động, tịnh khác nhau, pháp sự làm ra cũng phải thuận nhau. Các chấp: Chấp có chín thứ tức là bảy sao: nhật, nguyệt, thủy, hỏa, mộc, kim, thổ và La-hầu, Kế Đô, cộng thành chín chấp. La-hầu là thần nhật thực, nguyệt thực giao hội. Kế Đô dịch đúng là kỳ tinh, nghĩa là sao chổi, trừ hai chấp này ra, bảy sao kia cùng lần lượt thẳng đến ngày. Tánh kia cũng có thiện ác; như trong lịch Ấnđộ nói. Thực tiền: Ngày, đêm đều có ba thời, tiền thực (buổi sáng) có công năng làm tiêu trừ tai họa, thời gian buổi chiều (mộ gian) có công năng tăng ích, ban đêm có thể làm việc hàng phục; nhập Mạn-đồ-la quán đảnh tương ưng với tiêu trừ tai họa, cho nên nói tiền thực.

Ngộ thiện cảnh giới ý: nghĩa là khi tác pháp hoặc khi ở trên đất; hoặc giữa hư không, có các tướng kỳ lạ như sắc, thanh… Trên đất: nghĩa là hoặc gặp đồng nữ, cầm năm thứ bình ngưu vị, hoặc bình nước thơm, hoặc cầm vật đồng loại với luân ấn… hoặc là vật trong thế gian tôn kính trên hết, hoặc vật đựng đầy gạo trắng… sạch sẽ đầy đủ, hoặc mặc y phục trang nghiêm tốt đẹp, hoặc nói các lời tốt lành tương ứng, đều là tướng thành tựu. Hư Không: nghĩa là bỗng nhiên thấy mây làm khí tốt, mây năm sắc, khí trời đất hòa hợp, hoặc có cầu vồng sáng đẹp thường ở giữa hư không, chẳng phải thời mà thấy, hoặc có hình màu đỏ bay đi như hộ-ma thành tựu, hoặc bên mặt trời thấy có năm màu, hoặc làm hình người như an trụ trong vắng lặng hoặc ở giữa hư không có âm thanh hay, hay ho kỳ diệu, như bạch hạc, chim công, uyên ương, hồng nhạn (nông, két), tiếng hót véo von êm tai, mọi người đều muốn nghe, các tướng như thế đều thành tựu.

Vì sao phải thuận theo thế đế? Vì nghĩa thù thắng Mạn-đồ-la nhiệm mầu vắng lặng, người tâm trong sáng hoàn toàn còn khó tin nhận, huống chi người có tâm hoài nghi lo sợ ư? Cho nên người cứu độ, từng học tập bốn bộ sách Vi-đà biết các kỹ nghệ, nếu thấy tạo Mạnđồ-la mà thời phần sai lầm, thì có thể thuận theo sự nghiệp thế gian mà làm phương tiện gia trì, đem A-xà-lê khéo chọn thời tốt lành, cùng tương quan với Chân ngôn bản thệ pháp nhĩ, để làm gia trì được xa lìa các chướng.

Lại nữa, các môn thế đế đều là ngọn cờ của pháp giới. Cái gọi là lương nhật thần: ý, là vào buổi sáng sớm, tâm Bồ-đề gặp điều tốt đẹp, A-xà-lê hạnh sâu xa trụ trong Du-già, quán sát người muốn độ, vốn khi bắt đầu trồng gốc lành, vừa lâu vừa xa, nhân duyên thuộc về ai? Từ đâu khởi việc? Như hành giả khi mới phát tâm, hoặc nhân thấy Phật nói pháp, hoặc thấy thần biến, hoặc thấy các việc khổ đáng thương, hoặc đối với Thanh văn, duyên giác, Bồ-tát mà phát Đạo tâm, các căn cơ giác ngộ khác nhau, hoặc trong thời như vậy tâm Bồ-đề có năng lực vắng lặng, hoặc thời như vậy có năng lực tiến lên, hoặc thời như vậy có năng lực mạnh mẽ, thuận theo các thứ Tất-đàn phương tiện mà kiến lập thì công phu không huống mất và không sinh ra các chướng ngại.

Định Nhật: nhật (ngày) dụ cho thân bổn tôn; nguyệt: dụ cho tu tập hạnh Du-già, do trăng định tâm của hành giả, hoặc lúc sáng lên, hoặc lúc tối lại, hoặc phát đi quá nhanh, hoặc phát đi quá chậm, hoặc vượt qua con đường trung, hoặc không kịp trung đạo, đến nỗi khiến các căn cơ giác ngộ cũng có thừa, thiếu, như chiếu theo lý thường thì định có thể đến duyên nào, trong thời nào phải nên kiến lập? Nhưng duyên cảnh có sự thay đổi, hoặc chưa đến thời, xứ lại thuần thục, hoặc quá thời, xứ này mới thuần thục, như thế tùy thời gian mà thay đổi, đều phải khéo biết, vì thế gọi là định nhật.

Thời phần: y theo mỗi Địa của hành giả, tự có mười tâm, mỗi tâm này đều có nhân, gốc quả, hiệp thành ba mươi tâm. Trong ba mươi mâu-hô-lật-đa này, cũng nên xem xét kỹ càng, phân biệt chọn lựa, thời nào có thể chiết phục được phiền não, thời nào có thể làm cho công đức thêm lớn, lợi ích, thời nào phải thuận theo trung đạo tâm yên lặng mà trụ, đó gọi là hiểu đúng tướng của “thời” vô cùng tỉ mỉ.

Túc trực: là người tu hành trăng Du-già đã có liên quan với duyên, cảnh, ở trong tất cả duyên cảnh, đều thấy tâm tánh, như ban đêm bày ra hình tượng của các loại, tuy khác nhau nhưng đều sáng tỏ, giống như trăng đi qua hai mươi bảy đêm, do đêm đã trải qua tốt xấu khác nhau nên khiến người ngắm trăng cũng lại khác theo, như sao Ky ưa gió, trăng đi vào sao Ky thì gió nổi, sao Tất ưa mưa, trăng đi vào sao Tất thì mưa xuống. Hạnh Bồ-đề hạnh cũng giống như vậy, gặp duyên đối cảnh thế lực khác nhau, khiến chiết phục, nhiếp thọ đến hạnh vắng lặng hay thực hành tùy theo phương tiện xoay chuyển, nếu A-xà-lê có thể quán sát sâu xa căn duyên hiểu biết việc đó, gọi là khéo quán túc trực.

Chín Chấp: Tiếng phạm là Phiếu-hà, nghĩa là chấp trì (cầm nắm), A-xà-lê phải quán sát lực tay của tâm kia, có thể nắm giữ việc gì thì mật ấn truyền trao không đến nỗi luống uổng. Như Kim cang tuệ ấn của các Đức Phật, chỉ có tâm Kim cang của Bồ-tát mới có thể giữ gìn được, nếu trao cho người ở Địa thấp thì danh từ chín Chấp, Bảy sao không tương ưng. Căn cứ trong cửu chấp: Nhật là dụ gốc tâm Bồ-đề thanh tịnh, tức là tự thể của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na.

Nguyệt: là dụ cho hạnh Bồ-đề, ngày mười lăm trăng sáng các hạnh đều tròn đầy, dụ cho Bồ-đề thành tựu, ngày mười lăm trăng tối các hạnh đều cùng tận, dụ cho Bát Niết-bàn, khoảng giữa và khi lên xuống, dụ cho năng lực phương tiện, phải biết đã nhiếp vào Bách tự minh môn. Sao Thổ giữ trong thai tạng, Thủy diệu giữ phía hữu, liên hoa quyến thuộc, sao Kim giữ bên trái Kim cang quyến thuộc. Mộc giữ phương tiện trên quả đức Như lai, sao Hỏa, giữ phương dưới là các Minh đại lực.

Lại nữa, năm chấp như thế, tức là giữ năm mầu Tô-đa-la. Thổ: là tín; Mộc: là Tấn; Kim là Niệm: Thủy là định; Hỏa là Tuệ. Còn hai chấp kia, La-hầu đứng đầu về ngăn che, sao Tuệ đứng đầu về thấy không tốt, cho nên không thẳng đến ngày.

Phần đầu ngày như tâm thanh tinh hiện ra rõ ràng, phần giữa ngày như các hạnh phát khởi, phần cuối ngày như muôn đức đã đầy, công hạnh dần dứt; phần đầu đêm như tự chứng Địa trụ Đại Niết-bàn, phần cuối đêm như nhớ nghĩ thệ nguyện xưa khởi năng lực gia trì, đến cuối thì trở lại đầu, xoay vần không cùng tận. Thể mặt trời thì một mà thời phần bốn Châu đều khác. Nay ý Mạn-đồ-la này, muốn khai phát mặt trời tâm Bồ-đề, cho nên lấy thời tiền thực. Gặp cảnh giới lành là tâm vô tướng, vô cảnh giới, không phải hữu vi, vô vi, Phật dùng năm nhãn quán sát kỹ càng, cũng không thể thấy tướng mạo của kia, nhưng cũng có tướng các thứ gốc lành phát sinh, có thể biết được, nếu A-xà-lê thấy chân đế này thì hiện tại tự sẽ thông đạt, nếu chưa thấy đế thì phải ở trong Tam-muội quán sát cảnh giới kia, hoặc khi thấy kia tu hạnh sáu Độ, các thứ sáu Tế không thể gây khó khăn, cản trở, hoặc được các bậc

Thánh khen ngợi cho đến thọ ký Bồ-đề, hoặc như trước các tướng trong Tam-muội hiện ra rõ ràng kỳ lạ có khác với bình thường, y theo nhân quả có thể dùng ý mà đắc, cho đến chỗ Phổ môn nhiếp nhau, cũng đều có thể biết.

Kinh chép: Trước phải đảnh lễ tất cả Như lai, dùng kệ này kính phát địa thần: A-xà-lê sắp muốn kính phát Địa thần, trước vận tâm tư duy, thân Tỳ-lô-giá-na Vô tận trang nghiêm khắp cả pháp giới, tất cả Như lai trong ba đời mười phương, cũng giống như vậy, mỗi thân vô tận trang nghiêm trùm khắp pháp giới, từ địa vị Thập trụ cho đến Bồtát Sơ địa, phần chứng thân trang nghiêm, vô lượng, vô biên đầy khắp pháp giới không có kẻ hở, như dầu trong hạt mè. Phải quán thân này đến trước khắp tất cả Thánh chúng, đem ba nghiệp thanh tịnh, chí thành đảnh lễ, do nhân duyên này được vô lượng phước, liền phải đem tâm Vô đảo thí cho đệ tử kia, nguyện không có chướng mạn, sớm thành Vô thượng Bồ-đề, kế đó phải nói kệ kính phát Địa thần.

Như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, khi mới ngồi Đạo tràng, nói với Ma vương rằng, ông nhờ đời trước thực hành Nhất vô tận thí, nay được thân Tự tại thiên chủ, nhưng ta từ vô lượng kiếp đến nay, tu đại Bố thí như thế không thể đếm xiết, cho đến thân, thịt, tay, chân cũng không hối tiếc, làm sao so sánh sự hơn kém với ta được?

Ma nói: Việc ta làm phước ông đã làm chứng, còn nghiệp phước ông làm người nào sẽ chứng minh? Nếu không có người chứng minh tức là rơi vào chỗ thua. Bấy giờ, Bồ-tát duỗi thẳng tay phải hướng xuống đất nói lời chân thật: Xưa ta ở trên đất này hành đạo Bồ-tát, làm các việc khổ hạnh khó làm có Thần đất chứng biết, phải biết ngón tay này chính là thân mật ấn. Bấy giờ, vô lượng thần đất từ dưới đất hiện lên, bày nửa thân mình để làm chứng minh, Ma vương, quân chúng do đó mà lui tan.

Nay, A-xà-lê muốn giúp đệ tử không lâu nối tiếp địa vị Như lai, cũng dùng ấn này để kính phát Thần đất. Lúc ấy, Thần đắt vui mừng nghĩ rằng, nay đệ tử này mới có thể kiến lập việc nhân duyên lớn, để đem giúp đỡ chúng ta khiến không có phiền não tổn hại, mà được cảnh giác. Ta nên phương tiện giữ gìn, cũng giúp cho lìa các nghiệp ma, nhờ năng lực các duyên này, liền khiến đất này đồng với Kim cang. Kệ Alợi-sa đã nói gọi là Tự nhiên thành tựu Chân ngôn.

Nếu khi tác pháp, phải tụng bản Phạm, nay ghi chép đầy đủ; tụng bảy biến, tay phải năm luân ấn xuống đất.

Đát văn đệ vi sa ngật tỷ bộ đa tứ, dịch là trời đích thân giúp đỡ ông.

Tát ma bột đà nẵng dĩ nan, dịch là, các Đức Phật làm vị thầy dẫn dắt.

Triết ly dạ noa dã vĩ thế sát số: dịch là, tu hành hạnh thù thắng.

Bộ di ba la mật đa tố giả: dịch là Tịnh địa Ba-la-mật.

Ma la tắc niên dã tha hào nạn, dịch là, như phá các ma quân.

Xá ngật dã tăng hệ noa đá dĩ na: dịch là Thích Sư Tử cứu thế.

Đát tha ngân ma la nhược duyên ngật phiếu đỏa, dịch là ta cũng hàng phục ma.

Mạn đồ la lệ khư miệu ngân: dịch là Ta vẽ Mạn-đồ-la.

Ý kệ trước báo với thần đất rằng: Thiên nữ đích thân giúp đỡ ông và mặt đất này, đã từng cúng dường gần gũi các Đức Phật, vị Thầy dẫn dắt (cho hàng trời người) tu hành hạnh thù thắng, các đất đều sửa sang sạch sẽ, các độ đầy đủ thanh tịnh, và các thứ công đức khác, như trong Ma-ha Bát-nhã nói rộng phương pháp rõ ràng, vì thế nói là vân vân.

Ở đây giải thích bài kệ mỗi câu năm chữ vì Cú không thể còn đủ, nhưng trong Địa Ba-la-mật, cũng đã chứa đựng các đức này. Tiếp đến là kệ trình bày lý do, ý nói lời thành thật để khởi báo. Như ngày xưa, Đức Thế-tôn ở tại Bồ-đề Mạn-đồ-la, khi hàng phục các bọn Thiên ma thì ông ở trong Đại hội hiện làm chứng minh, do vậy Thế-tôn hiệu là Thích-ca Sư Tử, có thể đi trong thế gian một mình để giúp người không lo sợ. Nay ta cũng muốn theo việc làm của Đức Phật, nối tiếp sự nghiệp Như lai, vì thế cho nên vẽ Mạn-đồ-la này. Ta tuy chưa được tất cả đồng với Như lai, nhưng nhờ ba mật được Đức Phật Tỳ-lô-giá-na gia trì, nên cũng có thể hiện làm thân Phật, nhóm họp khắp tất cả đại hội Mạn-đồla, vì thế nay ông cũng phải hiện ra làm chứng minh, khiến các chúng ma quân không phá hoại.

Lại nữa, Địa thần là Thiên nữ, Nữ nghĩa là Tam-ma-địa, tức là Thế-tôn Đại Nhật, giữ gìn tâm địa Tam-muội của tất cả chúng sinh, như tướng thật Thế-tôn, ngày xưa ở tại Bồ-đề Mạn-đồ-la khi hàng phục Vô minh trụ địa, Ma vương và đại chúng nhiều như số cát, bụi, dùng tay Bát-nhã ba-la-mật thường duỗi năm lực, xét tâm địa của tất cả chúng sinh, khi ấy dùng Tam-muội hiện ra làm chứng minh, thế nên vô lượng chúng sinh và bốn thứ ma quân đáng độ, do đây lùi tan, vì thế hiệu là Tịch Nghiệp Sư Tử, có khả năng dùng thần thông tự tại cứu giúp thế gian. Nay ta cũng muốn làm cho tâm địa đệ tử ngay thẳng, vẽ thành đại Bi Mạn-đồ-la, ông cũng phải làm chứng minh, giúp hàng phục bọn Tứ ma.

Lại nữa, dùng tự môn giải thích A-lợi-sa này thì có vô lượng nghĩa, nhưng điểm quan trọng nhất của Tông kia, chính là trong chữ Tha. Tiếng Phạm Đạt-đa nghĩa là như, chữ đa kéo dài ở giữa tức là mang thanh A, vì tất cả pháp vốn bất sinh, giống như trong tướng thật không thêm không bớt, liền dùng nghĩa này khởi báo tất cả địa thần. Khi người ấy tụng kệ nên hai gối sát đất, quỳ thẳng dùng tay trí tuệ duỗi năm luân kia, bàn tay bằng phẳng đặt trên đất, mới tụng kệ A-lợi-sa này, bảy lần ấn gia trì bảy biến.

Đây gọi là chân ngôn ấn tương ưng. A-xà-lê nói: khi muốn tu pháp này, trước dùng Tam-muội-da tự tánh pháp giới Kim cang để gia trì tự thân, đều như trong pháp cúng dường đã nói, dùng Tự môn La, tự thanh tịnh tâm địa và đất trong đạo tràng này rồi, ở trong Du-già, trước khởi Phong luân bán nguyệt, dùng ha tự gia trì, kế đến khởi Thủy luân phược tự gia trì, tiếp theo khởi Kim cang địa luân, dùng A tự gia trì, xét kỹ tất cả tên rõ ràng tương ưng, khó điều hòa tâm và hơi thở, một hơi tụng tự môn A nối nhau không dứt quãng, hết hơi thở lại rồi lại tụng tiếp, hoặc một hơi, hoặc ba hơi, cho đến khiến có sự xúc chạm, do tất cả duyên, phương tiện như thế liền nhập Tam-muội, đợi đến khi thấy Đại hội các Đức Phật, Bồ-tát bí mật trang nghiêm, hoặc thấy các tội lỗi ở trong ngoài, giữa địa.

Kinh chép: Dùng hương, hoa… cúng dường: không những cảnh phát mà thôi, lại phải dùng các thứ hương, hoa, đèn cúng… cúng dường các Đức Phật khắp mười phương và thần đất, nhưng trong đất này có ba thứ: nghĩa là dùng Tự môn La, trừ sạch tâm địa mình, tâm địa đệ tử và đất đạo tràng, đều dùng tự môn A giữ gìn khiến thành Kim cang, nếu căn cứ vào bí mật mà giải thích về nghĩa cúng dường thì nghĩa cũng giống như vậy. A-xà-lê dùng tâm Bồ-đề thanh tịnh và các thứ công đức, hồi hướng tri ân Nhất thiết trí, tức là cúng dường tất cả các Đức Phật và vị giữ đất trong pháp giới, bố thí công đức này cho đệ tử, giúp đỡ thành tựu nhân duyên Phật, tức là tâm đệ tử cúng dường tất cả các Đức Phật và vị giữ đất trong pháp giới, nếu phải trang nghiêm đạo tràng Kim cang này thì liền đem pháp cúng dường tất cả các Đức Phật trong mười phương pháp giới, cúng dường xong, lại nên quy mạng tất cả Như lai, so sánh có thể biết.

Kinh chép: Sau đó sửa sang đất, như kia sẽ lần lượt đầy đủ các đức, nghĩa là hễ muốn tạo Mạn-đồ-la thì trước phải tác pháp như vậy, mới đào đất chọn sửa, đất cũng gồm ba thứ nghĩa: Giải thích cạn lược, sâu kín và cả cạn lẫn sâu, cho đến lần lượt đủ các chi phần như kinh đã nói do đó nói phải đầy đủ các công đức.

Bấy giờ, Kim cang thủ vì muốn phát minh ý chỉ sâu kín của Như lai, để dứt trừ tâm nghi ngờ của đệ tử đời tương lai, đầu mặt lạy dưới chân Thế-tôn, mà nói kệ rằng: Phật pháp lìa các tướng, cho đến không thuận pháp đúng đạo: nghĩa là ta đích thân theo Phật nghe tướng thật các pháp xa lìa tất cả các tướng, pháp Phật an trụ trụ ở pháp vị, hoặc Như lai ra đời, hoặc không ra đời, thường trụ vắng lặng không thể suy nghĩ bàn luận, không phải suy lường phân biệt mà có thể hiểu, cũng không thể dùng pháp đong lường, thí dụ mà hiển bày được. Nếu pháp tướng thường như vậy thì không phải do các Đức Phật làm ra, huống chi các tướng hữu vi có thể nhóm họp mà thành ư? Vì sao bậc Đại tinh tấn là trời trong các trời, nay mới nói sự tướng hữu vi như chọn đất tạo đàn… này? Cho đến lần lượt hành pháp chân ngôn, khiến người tu hành, sắm các vật cúng dường như hương, hoa… miệng theo sự giác quán nói rằng, thân bắt chước oai nghi tay bắt ấn, tâm duyên sắc mặt, hình dáng, địa vị của bổn tôn, đã là hữu vi hữu tướng, đâu thể chân chánh thuận theo đạo của pháp nhĩ vô vi vô tướng. Cúi mong Đức Thế-tôn khai phát lý thú sâu xa trong đó, để dứt trừ lời nói vọng chấp và lòng nghi ngờ chê bai của thế gian.

Bấy giờ, Bạc-già-phạm trở xuống, Thế-tôn dùng kệ đáp rằng: Trước hết nói người khéo nghe tướng của pháp: vì tướng thật các pháp nghĩa sâu sắc khó hiểu, vì thế dạy bảo khéo nghe. Pháp thường vô tánh từ các duyên sinh, tức là tướng ba tâm vượt các lời nói rộng, ông lại muốn ở chỗ nào mà tìm cầu pháp vô tướng vô vi? Do đó câu tiếp theo nói: Pháp lìa phân biệt và tất cả vọng tưởng… Nếu hiểu rõ các pháp vốn không có tướng như thế thì soi thấy tướng thật của tâm, từ bắt nguồn đến nay thường tự bất sinh, bấy giờ tất cả nghiệp thân, miệng, ý đều như hư không không thể cùng tận, vì thế nói ta thành Tối chánh giác, rốt ráo như hư không, nhưng tất cả ngu đồng, phàm phu, vì không biết như thật, tà kiến điên đảo, vọng chấp các cảnh giới.

Cái gọi là thời phần, các tướng mạo… tham muốn vô minh che lấp, thường bị nước ái thấm nhuần, vô minh che lấp. Nếu ta xả bỏ phương tiện, thẳng vì chúng sinh nói pháp tự thể như thế, họ làm sao hiểu ngộ mà có thể gắng sức tiến lên, do đó ý bài kệ tiếp theo là nói về ý lập giáo, rằng vì độ họ, nên tùy theo phương tiện mà nói. Ý Đức Phật dạy: Vì pháp tướng sâu xa của ta không thể giảng nói ngay được, nên dùng năng lực phương tiện, phó thác cho Mạn-đồ-la đầy đủ duyên chi phần này, khiến người nghiệp nhẹ, gá tâm hữu Địa, chỗ làm bất không, đây chính là nhờ Phật gia trì, gồm được quán sát mười Duyên Sinh Cú, có khả năng bất động tướng thật mà thần thông dạo chơi. Quán khắp tất cả Thiện tri thức, trang nghiêm tất cả cõi nước của các Đức Phật, không muốn cho những người tu hành buông bỏ các hạnh, trụ trong vô minh, lại không để cho chấp trước các hạnh, trú trong hữu tướng, vì thế nói, tuy nói thời phương tạo ra nghiệp, mà thật sự không có thời, phương, không tạo không tác, tất cả các pháp kia, chỉ trụ trong tướng thật. Nếu tất cả pháp hữu vi thảy đều trụ trong tướng thật, há được như người ngu kia, hoặc muốn chạy trốn hư không, hoặc muốn tham đắm hư không hay sao?

Lại nữa, A-xà-lê, trong đây nói rộng về ví dụ ba xe trong kinh Pháp Hoa, như các con của trưởng giả thơ bé thiếu hiểu biết, dù dùng các lời khéo léo khuyên bảo, muốn cho chúng ra khỏi nạn lửa, nhưng cuối cùng không thể được. Bấy giờ trưởng giả quán thân tâm của chúng chỉ tham muốn vui chơi, liền phương tiện bảo rằng: Nay ở ngoài cửa này có ba thứ xe đẹp, các con hãy ra lấy để tự vui chơi.

Lúc đó, các người con vì nghe nói dạo chơi, hợp với ước muốn của họ, lòng đều mạnh mẽ tranh nhau mà ra, và những người ấy được xe báu trang nghiêm bậc nhất, mới không phải chỗ của họ mưu tính trụ tâm. Pháp môn Mạn-đồ-la này cũng giống như vậy.

Như lai đem nhân duyên sự tướng thế gian, ví dụ so sánh với khuôn mẫu pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận, để cúi xuống theo bắt các căn cơ của chúng sinh, nếu có thể chịu nắm giữ, liền có thể tín giải Phổ môn tinh tấn mạnh mẽ tu hành cho đến khi được Tam mật che chở, khi tự thấy tâm rõ đạo, mới biết các thứ danh ngôn đều là mật hiệu của Như lai, cũng không phải cái mà người thường mưu tính.

Như nói ba tháng trì tụng, mới là tánh tịnh tròn sáng trong ba chuyển phương tiện, đâu thể làm chín câu để hiểu ư? Lại như Đức Phật Bảo Tràng ở phương Đông, chính là nghĩa bắt đầu phát tâm Bồ-đề thanh tịnh, đâu được chỉ làm bốn phương để hiểu. Lấy đây để so sánh thì các pháp môn khác, đều thể dùng ý hiểu rõ, do đó mới thật không có thời phương, cho dến chỉ trụ trong tướng thật.

Lại nữa, lòng từ bi lớn lao vô hạn của Thế-tôn, thương xót các chúng sinh đời vị lai căn độn chướng nặng, không thể liền vào pháp giới. Ở trong kho bí mật này, dùng phương tiện xoay chuyển tổng trì còn cả phương tiện cạn, lược, nếu ở trong sự tướng tư duy tu tập, cũng thành Tất-địa thế gian, công đức không luống uổng, ba mật thầm giúp cuối cùng thành quả Phật; cho nên bài kệ sau nói.

Lại nữa, này Bí Mật Chủ! khi đến đời đương lai, các chúng sinh trí tuệ thấp kém, do si ái tự che lấp, chỉ nương vào hữu tướng, thường ưa thích đoạn, thường, thời, phương tạo thành nghiệp, các tướng thiện, bất thiện, mù tối mong cầu quả vị, không biết đạo này vì độ họ, nên thuận theo phương tiện mà nói. Vì thế nên người truyền pháp, phải khéo biết căn duyên, lại biết phân chia pháp môn, nên tùy bệnh cho thuốc chớ để sai lệch căn cơ, nếu người chấp tướng, mà liền vì họ nói nghĩa “không” sâu xa, thì khiến họ sợ hãi, nghi ngờ tăng thêm sự bất tín. Nếu người lợi căn trí sâu, mà trao cho pháp môn cạn lược thì họ cho là không thuận với Chánh đạo vô vi, mà sinh khinh lờn ngạo mạn. Đối với người đã không có lợi ích, thì mình cũng phạm Tam-muội-da vì thế cho nên trước an trụ trong Du-già quán sát ngọn, gốc nhân duyên kia. Khéo hiểu biết rồi, phải quán xét ý tạo quyền bày thật trong câu vấn đáp này, phân tán nhập vào tất cả các pháp môn phương tiện để dạy bảo truyền trao thì có thể lợi ích rất nhiều, cho nên không sinh chướng nạn.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Trong nơi chốn đã nói ấy, tùy theo trong mỗi địa sửa sang cho vững chắc, lấy Cù-ma-di và Cù-mô-đát-la chưa rơi đến đất, trộn nhau bôi lên, sau dùng hương hoa chân ngôn sái tịnh; như trong “giáo” đã nói. Hễ tạo Mạn-đồ-la, trong bảy ngày phải xong. Ngày đầu tiên, A-xà-lê phải trụ trong tự tánh Đại nhật Như lai, sau đó khởi báo thần đất, phương tiện nghiêm thân đều như trong thứ tự cúng dường đã nói. Khởi báo rồi, liền dùng Bất động tôn chân ngôn giúp thêm. Sau đó, đào đất đúng như pháp chọn sửa, kia trước nên đào trong lòng chừng một khuỷu tay. Chọn xong lại lấp trở lại, nếu lấp đầy còn dư là bậc Thượng, như cũ là bậc trung, không đầy là bậc hạ, như thế lần lượt trừ các lỗi rồi. Sửa sơ chỗ đất đào, lấp lại qua loa, dùng nước tiểu bò tưới lên cho bền chắc, bằng phẳng giống như bàn tay.

Sau dùng Cù-ma-di, Cù-mô-đát-la hòa hợp lấp chỗ hở, nếu giải thích cạn cợt qua loa thì đây là phân và nước tiểu bò, vì bắt chước theo phong tục ở phương này cho là trong sạch. Theo giải thích sâu thì cù:

nghĩa là hành, do nhập tự môn A là các pháp vô hình.

Ma: nghĩa là Ngã; Di nghĩa là Thừa. Vì sao các pháp vô hành? Vì tất cả pháp ngã không thật có, nếu không có ngã thì không có chỗ nương và người nương, ấy mới gọi là Đại thừa, Cù-mô nghĩa giống như trước đã giải thích. Đát-la nghĩa là như như, xa lìa bụi nhơ, tức là thực tướng của tâm. Nếu hành giả có khả năng sửa sang tâm thanh tịnh như thế thì có thể thanh tịnh rốt ráo lìa các chướng ngại; hễ chọn đất sửa sang thì phải biết phương phần của nó, tức xuyên qua trong lòng Mạnđồ-la sâu khoảng một khuỷu tay, để thành xong các việc chân ngôn, gia trì ngũ bảo, năm thứ hạt và ngũ được.

An trí trong đó, trừ bỏ dơ bẩn… như trong pháp cúng dường nói. Nếu giải thích sâu xa tức là an lập báu ngũ trí trong tâm Bồ-đề, có thể khởi sinh năm thứ mầm lành, dứt trừ năm thứ tội lỗi, cho nên nói năm thứ hạt, ngũ dược. An trí như vậy xong, lại còn xoa vật sạch cho thật ngay thẳng, phải lấy bình muốn quán đảnh, đem đựng nước sạch, chớ cho quá đầy, xen vào các hoa quả, đặt giữa ngũ bảo, cốc, dược, chôn đặt ở chỗ quý. Từ ngày thứ ba sau khí đặt bình, mỗi ngày phải ba thời, tụng biện sự chân ngôn một trăm lẻ tám biến gia trì vào bình này, sau đó làm các việc khác.

Cho đến tối ngày thứ tư, sau dùng hương thủy chân ngôn gia trì nước hoa, hoặc một trăm lẻ tám biến cho đến ngàn biến, sau đó mới sái tịnh. Chân ngôn ấy là: Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm ha bát la đế mê già già na tam mê tam ma đa nô yết đế bát la (ra) ngật lật (phiếu) để vi du (thâu) đệ dạt ma đà đỗ vi thú đạt nhĩ tóa ha.

Câu đầu quy mạng khắp các Đức Phật, như ba thân Đức Phật Tỳlô-giá-na trùm khắp tất cả mọi nơi, tất cả Như lai trong mười phương ba đời, cũng giống như vậy, đều cũng đem tâm trùm khắp, tất cả quy mạng xong, sau đó nói chân ngôn này, muốn khiến cho các Đức Thế-tôn này không vượt qua bản thệ, cùng gia trì mà làm chứng minh. Các chân ngôn dưới so sánh như vậy, không giải thích rộng nữa.

Trong câu thứ hai, ban đầu lấy thể tự môn A làm thể của chân ngôn, cái gọi là chữ hạt giống. Các tự môn khác, đều để trang nghiêm chữ này. Vì tự môn này chính là nguồn gốc tâm Bồ-đề, nay đã làm đại bi tạng Mạn-đồ-la chúa, trước dùng nước thơm sái tịnh, đều là sửa tâm địa như thế, khiến xa lìa các sự dơ bẩn. Nếu nói về cảnh bên ngoài, cũng là giữ gìn tâm địa kim cang, thế nên các chữ khác đều làm thành tựu “tự” môn này.

A tự nghĩa là tất cả pháp vốn bất sinh; kế nói chữ Ba-la, Ba là Đệ nhất nghĩa đế; La là trần, dùng tất cả chữ đều nhập tự môn A, tức là bụi nhơ xưa nay bất sinh. Bụi nhơ xưa nay bất sinh, chính là Đệ nhất nghĩa đế có chỗ nói là Tâm Bồ-đề thanh tịnh, kế là chữ Để, chính thể là tự môn Đa, do mang âm thanh Tam-muội nên chuyển làm Để.

Để nghĩa là tâm, cũng là nghĩa như như, như như trong tướng như thật của tự tâm, tức là tâm Bồ-đề thanh tịnh, tâm Bồ-đề thanh tịnh đối với các pháp đều không đắm nhiễm thì gọi là Tam-muội Liên hoa. Người trụ trong Tam-muội đó, cho đến tướng không của các pháp cũng không thật có, cái gọi là đại không của các Đức Phật.

Tiếp đến nói chữ Sa, chữ ma, do định, tuệ bằng nhau, đầy đủ âm thanh Tam-muội, cho nên nói là Tam mê. Trong đây chỉ căn cứ tự môn để giải thích, như các kinh luận Đại thừa, căn cứ vào bốn Tất-đàn, bốn Bất Sinh… dùng các thứ nhân duyên ví dụ giảng nói rộng tự môn A thì có vô lượng nghĩa cú.

Lại vì trong tất cả nói năng đều mang âm thanh A, mỗi tự môn đều có tất cả tự môn, nếu người đắc ý sẽ tự tại chuyển xoay mà nói, dưới đây, không thể nói đầy đủ.

Lại nữa, trong chân ngôn, có nghĩa tự, có nghĩa cú. Nghĩa tự như trước đã nói, còn nghĩa cú thì A-bát-la-để-ta-mê này nghĩa là vô đẳng vô đối, nghĩa là tâm địa Mạn-đồ-la vương này, vượt qua tất cả lời nói ví dụ, cho đến không có một pháp nào so sánh được, do đó nói là vô đẳng. Vì sao? Vì bao gồm đầy đủ ý nghĩa đã nói như trên.

Nghĩa câu thứ ba nói sánh đồng hư không. Nói tâm địa này, rốt ráo thanh tịnh không phân biệt, không bờ bến, sánh đồng hư không.

Lại nữa, tự Già môn nghĩa là hành. Na: là Đại không, đối với pháp nghĩa được tự tại, đem tự môn Già nhập vào tự môn A. Tất cả pháp từ xưa đến nay đều không chỗ làm. Như lai đối với pháp này đến nơi Thật tế.

Lại nữa, không chỗ làm, do không làm, tức là trụ trong Đại không đối với pháp tự tại, vì tâm địa ta cùng Đại không này tốt ráo giống nhau. Phải biết tâm địa đệ tử và đất đạo tràng, cũng giống như vậy, vì thế nói sánh đồng hư không.

Câu thứ tư nghĩa nói: Đẳng tùy. Đem Kim cang địa sánh đồng hư không thì có thể đồng khắp tất cả chúng sinh giới, khắp hiện thân tùy loại, cho nên có thể vẽ làm Mạn-đồ-la.

Lại nữa, Bà nghĩa là lậu, Ma nghĩa là Ngã, nghĩa là ý, các chúng sinh giới này vốn bất sinh cho nên thảy đều như như, cho nên pháp giới, chúng sinh giới rốt ráo đồng nhau. Nỗ: là Đại không Tam-muội, Như lai trụ trong Tam-muội Đại không này, không đi không đến, cũng không qua lại, nhưng có thể biết tâm lượng của kia tùy duyên ứng hiện, vì thế nói là Đẳng tùy.

Câu thứ năm nghĩa nói: Bổn tánh tịnh ấy, trở lại giải thích tự môn A tâm Bồ-đề thanh tịnh, và nghĩa nước thơm. Như lai dùng hương đẳng chí pháp giới, hòa hợp Tam-muội với đại Bi, có thể rửa khắp tâm địa tất cả chúng sinh, trừ bỏ những dơ bẩn kia. Vì sao? Vì Bản tánh kia vốn trong sạch, như tánh nước vốn sạch nên có thể rửa sạch các chất dơ bẩn nước thơm của Như lai cũng giống như vậy, do vốn trong sạch, có thể làm sạch tâm cho tất cả chúng sinh.

Tiếp theo, nói nghĩa câu thứ sáu là trừ sạch pháp giới, giống như nước thơm rảy trên đất để trừ chất dơ. Như lai cũng giống như vậy, dùng nước hương tánh tịnh hòa hợp với nước bi tánh tịnh, tưới khắp vào tâm địa tánh tịnh của chúng sinh trong pháp giới, để khiến tất cả nói rộng đều trừ sạch, cũng phải đem các tự môn mà nói rộng, vì tất cả Như lai đồng nói thệ lớn như vậy, cho nên gọi là “Chân ngôn”.

Lại nữa, pháp giới, tức là chúng sinh giới, chúng sinh giới tức là tâm giới, tâm giới tức là bản tánh thanh tịnh. Bản tánh thanh tịnh tức là đến khắp tất cả, giống như hư không. Giống như hư không tức là Vô Đẳng, Vô đẳng tự môn A như hư không không có bờ mé (giới hạn), do đó phải biết tự môn A cũng vô biên, như hư không vô nhiễm, không biến đổi, không động, vì thế nên biết tự môn A cũng không nhiễm, không thay đổi, không lay động, như hư không xa lìa tất cả tướng mà bao gồm muôn hình (loại), xa lìa tất cả tạo tác mà thành tựu nghiệp nhân các việc ở thế gian. tự môn A cũng giống như vậy, vô tướng vô tác mà đầy đủ vô lượng trang nghiêm, thành tựu nghiệp phổ môn không thể suy nghĩ bàn luận, như thế phải đem các môn tự tại để nói, nhưng lại có vô lượng, vô biên pháp chưa từng có, không phải hư không kia có thể ví dụ được, vì thế cho nên tự môn A là hạt giống chân ngôn, vượt qua các thứ ví dụ.

Câu cuối, nói: Tóa ha, nghĩa là cảnh giác, vì tất cả Như lai khi còn hành đạo Bồ-tát, đồng thấy nghĩa như vậy, chắc chắn Sư tử hống phát lời thành thật: Ta cần phải đem tự môn A này làm sạch khắp vô tận chúng sinh giới, nếu thệ này của ta không luống dối, thì có tất cả chúng sinh đọc tụng lời thành thật của ta không thiếu pháp tắc thì sẽ đầy đủ như sở nguyện của họ, nay ta tùy theo Tam-muội-da của Như lai dạy nói chân ngôn này, chỉ xin không trái với Bản thệ khiến đạo tràng ta đầy đủ trang nghiêm thanh tịnh, do đó nói “tóa ha”.

Dưới đây các chân ngôn nói Tóa ha, nghĩa kia đại khái giống nhau. Hễ khi nào là nội ngũ bảo, thì phải kính lễ các Đức Phật trong mười phương, mà thỉnh bạch rằng, con ngày mai thực hành thỉnh pháp, từ đây đến ngày thứ ba về sau, dần phải chắc chắn phương vị Mạn-đà-la lớn hoặc nhỏ, hoặc bốn khủy tay hoặc mười hai khủy tay… Cho đến chỗ ngôi vị của các bậc Thánh, trời, đều dùng bạch-đàn tô điểm ghi nhớ, nếu A-xà-lê không thể nhớ đầy đủ, cho đến vẽ hình tướng của kia, hoặc ghi chữ để nhớ, mỗi thứ phải cho rõ ràng, và dùng nước thơm sái tịnh xong, phải dùng bạch đàn bôi làm đàn tròn, chừng mười hai ngón tay, trước hết đặt thai tạng Đại nhật Thế-tôn ở giữa, kế ở phương Đông chỗ rất mạnh mẽ đặt ngôi thứ tất cả Như lai. Góc Đông Nam là chỗ Chân-đà ma-ni, đặt ngôi thứ tất cả Bồ-tát. Tiếp đến góc Đông Bắc chỗ hư không nhãn, đặt ngôi vị Phật mẫu.

Lại nữa, ở bên phải Phật Đại Nhật đặt ngôi thứ Liên Hoa Thủ, ở bên trái Đức Phật Đại Nhật, đặt ngôi thứ Kim Cang Thủ, tiếp theo ở góc Tây Nam đặt ngôi thứ bậc Thánh bất động, góc Tây Bắc đặt ngôi vị hàng Tam Thế, phía Tây là chỗ cửa thông suốt, đó là chỗ ở của A-xà-lê, chỗ tu cúng dường Du-già.

Kinh chép: Trước, thân ta thứ nhất, tức là ngôi thứ Tỳ-lô-giá-na, lại năm Đức Phật phải cùng đặt một đàn, thứ hai là các vị Cứu thế, tức là các Đức Phật, Bồ-tát, cũng chia làm hai ngôi thứ; thứ ba kia đồng nhau, tức là Phật mẫu. Như lai gọi là “Vô Đẳng”, nhưng Bát-nhã bala-mật cho là Vô đẳng đẳng, cho nên nói kia đồng nhau. Thứ tư là Liên hoa thủ. Thứ năm Kim cang bộ chủ. Thứ sáu nói Bất động tôn thì hàng tam thế có thể biết. Đây tức đều là thành biện các việc trì minh. Phải biết nêu sáu ngôi thứ này thì nhiếp tất cả chư tôn.

Làm như thế xong, phải sắp bày đầy đủ hoa, hương cúng dường,

chiếu theo đồng với nghi thức thứ lớp cúng dường, sau đó quán thành đài hoa sen báu, cung điện quý báu, trong đó trải tòa, trên tòa đặt đài hoa sen trắng, đem tự môn A chuyển làm thân Như lai Đại Nhật, màu vàng tím như vàng cõi Diêm-phù-đàn, như tượng Bồ-tát, đầu đội búi tóc như cái mũ, thân hình đều phát ra các thứ màu sắc sáng rực mặc áo lụa tốt, đây là cờ nêu thành Tối chánh giác Thủ-đà-hội thiên của các chúng Thánh cõi kia, y phục cõi trời nhẹ nhàng tốt đẹp, cho đến không có thù lượng bản chất nghiêm sạch, lại không giả gối trang sức bên ngoài, cho nên Thế-tôn đồng tượng kia.

Nếu người thực hành thâm bí thích thì tướng Như lai trang nghiêm tinh diệu, pháp nhĩ vô giảm, không tạo tác để thành, cho nên không dùng các vật báu bên ngoài để trang sức, cho đến các Bồ-tát Thập trụ, còn do nương vào thần lực Đức Phật được thấy thân gia trì, các vị ấy đối với thể thường tịnh, như tại lụa tốt, do đó lấy làm so sánh. Vàng cõi Diêm-phù, cũng là tánh sạch tự nhiên, màu lại rất đậm, nói trí tuệ Kim cang Đức Phật rất sâu sắc mầu nhiệm, toàn thân phát ra các thứ ánh sáng, tức là Phổ môn mở bày Đại tuệ rõ ràng.

Kế là ở trên bốn phương tám lá, quán sát các Đức Phật bốn phương. Phương Đông quán Bảo Tràng Như lai, như mặt trời bắt đầu hiện ra màu đỏ sáng, Bảo Tràng nghĩa là phát tâm Bồ-đề, ví như vị tướng quân thống trị mọi người, cần được cây cờ, sau đó chia ra từng bộ đều nhau, có thể phá nước thù địch thành công danh lớn. Muôn hạnh Như lai cũng giống như vậy, đem Nhất thiết trí nguyện làm lá cờ, ở dưới gốc Bồ-đề hàng phục các quân Tứ ma, cho nên lấy làm tên, màu sắc như mặt trời buổi sáng cũng tương ưng với nghĩa kia.

Phương Nam quán cây Ta-la chúa hoa nở bày Phật, thân tướng màu vàng, phát ra ánh sáng cùng khắp như trụ trong tướng nêu của Tam-muội Ly cấu, bắt đầu từ hạt giống (hạt giống) tâm Bồ-đề, nuôi lớn đại Bi muôn hạnh, nay thành giác khắp muôn đức mở bày, vì thế lấy làm tên. Lìa cấu tức nghĩa là Đại không, khi chứng Đại không này, giống như vàng thật trải qua trăm lần nấu các dơ bẩn đều hết; thân tướng Phật cũng giống như vậy. Đây là vàng tốt nhất ở thế gian, nếu so sánh với vàng ở Diêm-phù-đề thì màu nhạt lại đục, không được tự nhiên trong sáng soi suốt như kia. Vì Phật trên hoa là từ tâm lượng nhân duyên sinh ra nên có sự hàng phục khác nhau.

Tiếp đến phương Bắc quán Phật Bất Động, thực hành xa lìa sự nóng bức được hoặc mát mẻ, trụ tướng vắng lặng. Đây là trí Niết-bàn Như lai, cho nên gọi nghĩa là bất động, không phải tên gốc của Ngài.

Tên gốc phải nói là Cổ Âm Như lai, như trống trời đều không có hình tướng, cũng không chỗ an trụ, nhưng có thể giảng nói pháp âm đem đến sự giác ngộ cho chúng sinh. Đại bát Niết-bàn cũng giống như vậy, không giống như Đại thừa vắng lặng hoàn toàn đều không có diệu dụng, cho nên lấy làm dụ.

Kế đến ở phương Tây quán Đức Phật Vô Lượng Thọ, đây là Như lai phương tiện trí, do chúng sinh giới vô tận nên phương tiện Đại bi của các Đức Phật cũng không cùng tận, vì thế gọi là Vô lượng thọ. Tiếng Phạm nhĩ nhĩ, nghĩa là Nhân giả, lại vì hàng phục bốn ma nên gọi là Thắng giả (người chiến thắng) cho nên kệ dịch đủ nghĩa ấy, nghĩa là người có lòng nhân thù thắng. Hai Đức Phật này cũng làm màu vàng ròng, hơi nhắm mắt nhìn xuống, có hình Tam-muội tịch diệt, các Đức Phật cũng lệ theo như thế. Bốn góc đài hoa có bốn Bồ-tát, như văn sau nói.

Tất cả ngôi vị Như lai, chỉ quán một Đức Phật ở trong đàn vàng thì giống như tất cả thân Phật, ngoài ra hình tượng ngôi thứ khác nhau đều nương vào kinh, đều phải chuyển tự thành thân, khiến mỗi thứ được rõ ràng. Phàm phương pháp Mạn-đồ-la chuyển Tự thì tất cả Chư tôn đều dùng hạt giống tự gốc, hoặc dùng các Tự bộ khác thường dùng, như ba bộ A, Bà, Phạ… Nếu sợ thiển hạnh A-xà-lê, không thể nhanh chóng xoay chuyển như thế, chỉ quán tự môn A sinh vô lượng ánh sáng, ánh sáng đến chỗ nào, liền hiện thân của Tôn vị kia, đến đêm pháp sự, cũng đều phát ra như đây.

Hễ khi tu quán hạnh, trước phải lấy Ngã tự giữ gìn thân, giống như trong pháp cúng dường nói, liền quán tự tâm thành tám cánh hoa sen. Axà-lê nói: người tâm trạng run sợ, vẩn đục, giống như hình dáng hoa sen búp chưa nở, có gân, xương đại khái làm thành tám phần, nam tử xoay lên, nữ nhân xoay xuống, trước quán hoa sen nở tròn, thành tòa hoa sen trắng tám cánh, trên đài này phải quán chữ A có màu Kim cang, trước hết ở giữa đặt bách quang biến chiếu vương, lại dùng mắt vô cấu quán sát, dùng đây tự gia trì, liền thành thân Tỳ-lô-giá-na. Dùng phương tiện này quán thân Tỳ-lô-giá-na, khiến không hai không khác với thân ta, lại trong Nhị minh vương gọi là trụ ở nhà Phật.

Đến khi vẽ Mạn-đồ-la xong, A-xà-lê rời tòa ngồi ra ngoài cửa, phải ở trong giai vị nhà Phật này, ý muốn đặt tôn thân hoặc kinh Bátnhã chỗ nào thì đem vàng quý đựng đầy mâm tô điểm trang nghiêm cúng dường, hoặc đặt ở chỗ xâu chuỗi hoặc chày Kim cang hoặc mõ kim cang. Lại hễ khi muốn chọn sửa đất thì phải tự quán tâm trên hoa sen, ngọc quý như ý trong ngoài sáng suốt, khi người ấy quán sát kỹ, thì tất cả tướng thiện ác đều hiện trong đó. A-xà-lê phải dùng tuệ phương tiện mà chọn lọc sửa sang, cho được chắc chắn ngay thẳng, quán tâm đệ tử cũng giống như vậy, ý thú sâu kín trong đây có thể dùng ý mà được. Hành giả trụ trong nhà Phật, như trên người nào quán Thánh tôn xong, phải chuyển a thành phạ, Kim cang Tát-đỏa gia trì tự thân, dâng hiến hương hoa… đúng như pháp cúng dường, đều giống như trong pháp thứ lớp nói rộng, sau đó khởi tâm đại bi chí thành sâu xa tụng thỉnh kệ A-lỵ-sa, như văn kinh.

Nay có tiếng Phạm như dưới đây:

Tam mạn phạ ha lan đỗ mê tát ra bính nhĩ. Ca lô (lư) noa đát mảng ca bộ mê bát lý để duệ.

Ý kệ này nói, các Đức Phật từ bi thương xót người chỉ xin nhớ nghĩ chúng con, con nay xin thưa: Sẽ làm phương pháp thọ trì đất, và các đệ tử Phật, sáng ngày mai cùng giáng lâm để chứng minh. Tiếng Phạm ở trong âm thanh “tồn niệm”, tức là có ý thỉnh đến. Tất cả Bồ-tát, Kim cang thủ, Thánh bất động tôn. Tất cả Phật vị, năm Như lai vị, A-xà-lê vị. Đây là ngôi thứ Bạch đàn Mạn-đồ-la.

Phật mẫu hư không nhãn, Liên hoa thủ, hàng Tam Thế-tôn.

Đến tối ngày thứ năm, lại phải thứ lớp đầy đủ phép tắc, muốn tự nghiêm thân, quán nhập ngôi vị Mạn-đồ-la, phụng thỉnh nhóm họp giúp đỡ… tất cả đủ khắp xong, phải tụng Bất động minh vương, hoặc hàng Tam Thế-tôn, tương ưng với mật ấn, đủ một trăm lẻ tám biến gia trì vào đất này, A-xà-lê nói: Từ ngày thứ ba về sau, mỗi ngày ba thời luôn tụng niệm, đều tụng Bất động chân ngôn một trăm lẻ tám biến để gia trì vào đất này, không nên riêng một thứ này mà phải sử dụng tất cả.

Lại từ ngày đầu, đến ngày thứ ba tới nay, nếu có các nạn làm chướng ngại, liền phải thu nhiếp dừng lại, nếu đã xoa bạch đàn ở ngôi thứ xong, nếu có các việc ma, hai bên không hòa hợp, thì phải siêng năng gia trì phương tiện, sẽ được thành tựu, ngoài ra như trong Cù-hê chép: Đêm thứ năm tụng Bất động chân ngôn xong, kế đó phải y theo thân Như lai Đại Nhật liền tụng chân ngôn trì địa và bắt ấn Tam-muộida, nói chân ngôn kia rằng:

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm tát bà đát tha yết đa địa sắt xá na địa sát chỉ đế a giả lệ, vi ma lệ bà ma la nãi bát la ngật phiếu (lật) để bát lý thâu (du) di tóa ha.

Câu đầu quy mạng tất cả các Đức Phật, nghĩa câu hai, câu ba nói:

dùng năng lực gia trì của tất cả Như lai để gia trì. Ý này nói: Như đạo tràng kim cang kia, thần lực tất cả Như lai cùng chung gia trì, nay khiến đất này cũng giống như vậy.

Lại nữa, ta đã sửa cho tâm địa đệ tử ngay thẳng thanh tịnh xong, đây là tâm vương của Như lai, chỗ bức họa Đại bi tạng Mạn-đồ-la, nay ta nói lời thành thật rằng, nhờ thần lực tất cả Như lai che chở, giúp được bền vững bất động.

Câu thứ tư nói: A-giả-lệ nghĩa là bất động.

Câu thứ năm nói Vi-ma-lệ, nghĩa là vô cấu. Ý này nói: do thần lực của tất cả Như lai chân chánh gia trì khiến được yên ổn vững chắc bất động, không chỉ bất động mà thôi, lại giúp cho xa lìa tất cả cấu nhiễm, chính là lấy chữ A đầu trang câu thứ tư làm thể chân ngôn. Như lai dùng pháp nào gia trì, có thể khiến rốt ráo, không nghiêng ngả lay động? Nghĩa là lấy tự môn A này nên có lực dụng như vậy. Câu thứ sáu là nghĩa nhớ nghĩ giữ gìn, giống như Tỳ-kheo làm pháp yết-ma, khiến chúng tăng một lòng hòa hợp cùng thọ trì. Nay chân ngôn này cũng giống như vậy, dùng chữ A gia trì xong, xin tất cả Như lai nhớ nghĩ thệ xưa nên cùng thọ trì.

Câu thứ bảy nghĩa là bản tánh thanh tịnh, đây là chuyển giải thích câu trước, vì sao các Đức Phật đồng tâm nhớ nghĩ gia trì? Do bản tánh thanh tịnh. Nếu pháp nhập tự môn A, tức là từ xưa đến nay không lay động, không cấu nhiễm, các Đức Phật trong mười phương ba đời do nghĩa này nên đều đồng một Giới một kiến, vì thế đồng cùng gia trì. Câu cuối cùng nói Tóa-ha: như Tăng yết-ma xong, lại thêm Nhẫn có thể ấn thành Cú, như ta đã phát lời thành thật chắc chắn không sai lầm, cúi mong các Đức Phật không quên Tam-muội-da, giúp việc làm viên mãn. Trong đây, tất cả nghĩa của chữ tự cũng phải phân biệt nói rộng.

Bấy giờ, A-xà-lê kia phải đến phương Đông, ngoài đàn vị tất cả Như lai, xoay về hướng đông trì tụng chân ngôn hoặc ba biến hoặc bảy biến, có thể nhiều lợi ích, sau đến phương Nam, tiếp theo đến phương Tây, kế đến đến phương Bắc đều dựa lưng vào Bạch đàn mà tụng, trì như vậy một vòng đã xong. Sau đến ngôi vị hư không nhãn, phải mặt hướng về Đông bắc lưng dựa vào bạch đàn vị mà tụng. Sau đó đến phía Đông nam, tiếp theo đến phía Tây nam. Kế đó đến phía Tây bắc, lại phải chí thành làm lễ, cúng dường các thứ, căn cứ vào chỗ ngồi A-xà-lê, ngồi xoay mặt về hướng Đông, tụng chân ngôn vốn thọ trì, trụ trong bổn tôn Tam-muội, đều như trong cúng dường thứ lớp có nói.

Lại lần lượt trì chân ngôn các Tôn vị trong bạch đàn vị, và kết ấn kia. A-xà-lê nói: trước trì chân ngôn của Đại nhật bộ chủ một trăm lẻ tám biến, ngoài ra tám vị, quán chân ngôn kia lớn nhỏ để trì, nếu có thể tụng và trì bốn vị Bồ-tát ở viện thứ hai; chư tôn thượng thủ như Đức Thích-ca… ở viện thứ ba, cho đến đều tụng các vị cũng được. Bạch đàn vị kia chỉ xoa bùn khô, rưới nước thơm xong thì được làm. Cũng không chắc chắn trong ngày thứ tư, tự đặt xong, đều phải nương vào đây trì tụng, đến đêm pháp sự, cũng theo đây có thể biết. Đêm thọ trì đất, Axà-lê như pháp trì tụng xong, cho đến dùng Kim cang ngâm vịnh, khen ngợi khắp. các Đức Phật, Bồ-tát, ngồi yên mệt mỏi, thì ở chỗ đặt đàn này như pháp hộ thân, liền nằm xoay mặt về hướng Đông, phải đối với đệ tử được sinh tâm đại Bi thương xót.

Nếu cù-hê-thả-thảm-la, thọ trì đất xong, lại có pháp danh hiệu Kiết-tô-đa-la đệ tử thọ trì. Khi kia an nghỉ, phải tư duy tất cả các pháp mtự môn A trong tâm đài hoa sen, vì ta không thể đắc tức là vô chướng ngại tâm Bồ-đề. Cũng lại là hạt châu như ý. Lại nói ngọc như ý này, chỉ là tự môn A mà thôi. A-xà-lê kia, phải ở trong mộng, hoặc thấy vô lượng các Đức Phật, Bồ-tát, các bậc có tiếng tăm lớn thị hiện làm các sự nghiệp, nghĩa là tùy theo các loại chúng sinh đáng độ, dùng ba luân dẫn dắt giáo hóa, hoặc tự thân an bày kiến lập Bi sinh Mạn-đồ-la, hoặc dùng âm thanh vi diệu, khuyến khích, dặn dò rằng, nay ông thương xót chúng sinh, làm thành Mạn-đồ-la này, lành thay! Ma-ha Tát-đỏa, ông đã vẽ rất mầu nhiệm, các cảnh giới như vậy. A-xà-lê phải đêm tâm tự khéo quyết định chọn lựa, phải biết Thánh chúng cùng gia trì đất ấy, có thể tùy ý tác pháp. Nếu có người ngăn cản thì nên làm phương tiện hộma tương ưng trừ sạch, phải phát tâm thật siêng năng, mạnh mẽ khiến cho việc làm thanh tịnh.

Lại nữa, nếu A-xà-lê là bậc thầy chân đế thì trong hạt châu như ý của tâm Bồ-đề thanh tịnh Tam-muội Liên hoa, tự nhiên thấy rõ, có chướng, không chướng, nhân duyên rõ ràng vô ngại, tâm Phật hiện bày dặn dò trao truyền để khai mở chỗ nghi. Như kia hiểu biết việc Ma, phải dùng trí tuệ rộng lớn, lần lượt làm pháp Hộ-ma, cần giữ gìn tâm không để lay động, không lui sụt, có thể kiến lập pháp giới Mạn-đồ-la, sau đó mới dừng lại.

Lại nữa, A-xà-lê từ khi bắt đầu khởi báo thần đất đến nay thì không nên lìa đất đạo tràng ấy, luôn ở trong đó gia trì, nên quán sát kỹ càng, tùy theo có chỗ nào chưa bằng phẳng liền phải sửa sang. Lại suy nghĩ các duyên, chi phần đều phải làm cho thường đủ, không được để việc thiếu thốn mà sinh nghi ngờ, tự thọ trì đất xong, liền phải theo khuôn mẫu vẽ giới hạn chia ra, quy định phương vị, đến đêm quán đảnh mới tạo các tôn, nếu không thể chóng thành tựu thì sau khi trì địa dần dần tu cũng không có lỗi.

Kinh dạy: Lại nữa, vào những ngày khác, nhiếp thọ người đáng độ, trở xuống cho đến trao nước thơm bảo uống, tâm kia thanh tịnh là nói nhiếp thọ kiến lập che chở chi phần của đệ tử, thọ trì đất xong, kế là nói đêm làm pháp đệ tử, cho nên nói là ngày khác. Sau đây phân biệt rộng tướng của đệ tử đáng độ. Kệ nói: nếu đệ tử có tín tâm: nghĩa là A-xà-lê quán căn tánh hiện tại hoặc nguyên nhân xa xưa của đệ tử, đối với duyên khởi không thể suy nghĩ bàn luận, ba thứ bí mật trong các phương tiện, tin thẳng không nghi, không hề sợ hãi, mới xứng đáng nhiếp thọ, ngoài ra như trong Sư đức nói kệ rằng, sinh chủng tánh thanh tịnh: nghĩa là sinh trong bốn dòng lớn như Bà-la-môn… Nếu là dòng Chiên-đà-la… thì do tiếp nối phép trị nhà tập quán làm việc không trong sạch, nên tánh nhiều xấu ác, nếu làm pháp quán đảnh cho họ khiến lưu thông pháp lớn thì họ sinh khinh lờn hoặc trở thành nhân duyên thiếu pháp.

Giống như Tỳ-kheo thọ giới cụ túc cũng phải chọn bỏ những người dòng họ thấp hèn hủy nhục chúng tăng, nếu chỉ là thọ pháp kết duyên thì không nói làm gì.

Lại nữa, nếu từ lâu xa đến nay, đã có nhân duyên phát tâm Bồ-đề, tức là sinh trong giòng họ Như lai, giòng họ rất cao quý. Kệ nói: Cung kính Tam bảo: nghĩa là đối với Phật, pháp và chúng tăng khởi tâm thật thà, mộc mạc, kính nhường, thường muốn gần gũi tôn trọng, cúng dường khen ngợi, phải biết vị ấy đời trước có nhân duyên hành đạo, cho đến như Bồ-tát Thường Bất Khinh, ấy gọi là thâm kính tất cả chúng sinh, tin Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).

Dùng trí tuệ sâu xa để trang nghiêm thân: Vô biên pháp Phật bằng với hư không như thế người tâm khí, trí tuệ thấp kém không thể làm được, vì thế đối với người có trí tánh lợi ích sâu xa để tự trang nghiêm, mới nói cho nghe.

Kham nhẫn không biến nhác: đây nghĩa là có khả năng làm được, không gì lui sụt. Âm Phạm và nhẫn nhục khác nhau, nghĩa là nhân duyên cầu pháp, dù các việc gian nan khổ sở thảy đều làm được. Giả sử một lần không thành, lại trở lại bắt đầu tu hành, như thệ tát cạn biển lớn cho đến cạn hết mới thôi. Nếu người chí tánh như thế thì có thể truyền pháp.

Thi-la Thanh tịnh không thiếu: Nghĩa là đối với luật nghi của người tại gia xuất gia, cho đến đối với bản tánh thọ các giới cấm, tùy theo chỗ phụng trì thì thâm tâm phòng giữ không có thiếu sót, nếu người đầy đủ tánh như thế, dù nhập Tam-muội-da, thệ lớn bình đẳng, cũng sẽ kính thuận không trái ngược, do đó có thể truyền pháp.

Nhẫn nhục không bỏn sẻn: Trong đây chia làm hai câu. Nhẫn nhục: nghĩa là đối với tám thứ gió lớn của cảnh giới trong, ngoài, trái thuận, tâm kia nhẫn nhục an ổn không gì làm nghiêng động, như trong Trí độ Thi ba-la-mật có nói rộng, phải biết người ấy chắc chắn không phạm điều cấm nặng trì minh, làm việc không lợi chúng sinh, do đó có thể truyền.

Không bỏn sẻn: nghĩa là đối với tất cả tài, pháp thường nghĩ đem cho người, nếu có người đến xin thì tâm không keo tiếc, như trong Trí độ Đàn ba-la-mật, phải biết người ấy chắc chắn không phạm vào điều cấm nặng bỏn sẻn chánh pháp, do đó có thể truyền trao.

Mạnh mẽ giữ vững hạnh nguyện: Cũng chia làm hai câu. Mạnh mẽ tức là trong đức của A-xà-lê, chủng tánh tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Trong khi hành đạo, dù gặp các thứ thanh, sắc đáng sợ, tâm không hèn nhát cho đến vào sinh ra tử, không có ý tưởng lo sợ, chân chánh thuận theo việc làm của bậc Đại nhân Bồ-đề Tát-đỏa, cho nên truyền trao.

Giữ vững hạnh nguyện: Đây là nguyện quan trọng của tâm, nghĩa cầu nguyện và âm Phạm khác nhau. Như tự mình lập chí, mỗi ngày ba thời tụng niệm thì cuối cùng một ngày nào đó, dù trải qua các duyên khác nhưng vẫn như ban đầu không xen hở, như thế, việc có đầu có cuối, nếu khi hành đạo Bồ-tát cũng không thiếu bổn thệ, cho nên có thể truyền trao. Nhưng đây đã nói mười đức đệ tử, nếu người nào đầy đủ thì phải biết người ấy rất ít có, chỉ cần có sở trường riêng thì có thể trở thành bậc thầy, liền nên nhiếp thọ.

Lại như Thanh văn khi thọ giới Cụ túc, quán sát các thứ già nạn, có chỗ nói quá trẻ hoặc quá già dung mạo xấu xí, các bệnh hoạn… sợ cư sĩ chê trách cho nên lựa bỏ. Nay Đại thừa đây thì không giống như vậy, chỉ cần đạo có thể cứu giúp, dù có các tội lỗi khác, đều không đáng kể. Trong kệ nói hoặc mười, hoặc tám, bảy hoặc năm, hai, một, bốn người thì trong một kỳ đạo tràng là số đã hạn định làm A-xà-lê quán đảnh, trong đây vượt quá số hạn chế mà lấy, nghĩa là từ một đến hai, từ hai vượt đến bốn, từ bốn đến năm, từ năm vượt đến bảy, từ bảy đến tám, từ tám vượt đến mười người, vì thế nên trong một Mạn-đà-la không được đồng thời làm quán đảnh cho ba người, sáu người, chín người, bởi vì ý sâu của Như lai, A-xà-lê không giải thích lý do, lại đồng với kinh Đại

Phương Đẳng Đà-la-ni, không được quá mười người trở lên, vượt quá đây thì sợ tâm lượng A-xà-lê có chỗ không khắp, phải đợi duyên sau làm pháp riêng. Lại mười người trở xuống này: nghĩa là đồng thời phát tâm, mỗi người đều xả bỏ tất cả trong ngoài, cúng dường Tam bảo, cùng nhau thành tựu Mạn-đà-la, cho nên được đồng thời tác pháp. Nếu người nhờ gặp đạo tràng bèn nói pháp duyên khó gặp, xin cứu độ thì chưa hợp thời làm A-xà-lê quán đảnh. Nếu lại vượt qua số này, hoặc người chỉ cầu kết duyên ở trong pháp nhất môn Bản tôn thọ chân ngôn ấn thì không theo như vậy mà phân chia giới hạn. A-xà-lê cũng phải phát khởi đại Bi tùy theo người có thể khởi một phần nhỏ tâm lành, đều lập tức làm phát sinh hạt giống Bồ-đề, do đó nói hoặc lại vượt qua số này.

Kinh nói: Bấy giờ, Kim cang thủ Bí Mật Chủ lại bạch Phật rằng: Bạch Thế-tôn! Phải gọi tên Mạn-đồ-la này là gì? Mạn-đồ-la này nghĩa như thế nào? Nhân đây Như lai chọn lựa người giới hạn chúng, để giúp cho những người chưa ngộ được hiểu, chuyển sinh nghi vấn. Kim cang thủ thưa hỏi Đức Thế-tôn, nói cảnh giới gia trì này, giảng nói đại Bi tạng sinh Đại Mạn-đà-la vương thì đó là đại bi bình đẳng, lại không có giới hạn. Nhưng nay Thế-tôn đã dạy dù người có đức đáng truyền trao, nhưng không quá mười người, dường như là tùy chuyển “Nhất Minh” kia, không phải cụ thể, cho nên hỏi phải làm thế nào để gọi tên Mạnđồ-la này?

Lại Mạn-đồ-la nghĩa là vòng tròn, nay đã hạn cuộc số lượng, dường như đối với lý chưa tròn đầy, do đó trong đây hỏi Mạn-đồ-la nghĩa như thế nào? Gồm có hai câu hỏi, Đức Thế-tôn sẽ đáp. Ban đầu trả lời Danh (tên) sau trả lời nghĩa. Căn cứ trong phần trả lời Danh, trở lại làm sáng tỏ ý chỉ gốc rằng: Mạn-đồ-la là nghĩa phát sinh, nay gọi là phát sinh các Đức Phật Mạn-đồ-la. Lúc hạt giống tâm Bồ-đề trong đất tâm Nhất thiết trí, lấy nước đại bi soi lấy mặt trời trí tuệ lớn lao, hăng hái dùng phương tiện gió lớn không ngăn ngại cho đau không là không, có thể khiến mầm pháp tánh không thể suy nghĩ bàn luận lần lượt tươi lớn, cho đến đầy khắp pháp giới thành cây Phật, do đó gọi là phát sinh.

Sấm mưa nuôi lớn mầm, mầm từ đất nảy sinh, không thể cho tánh phần cây cỏ tươi lớn không giống nhau, bèn khiến bố thí phân chia bình đẳng cũng trở thành giới hạn. Sau trả lời đúng vào nghĩa. Tiếng Phạm Mạn-đồ-la nghĩa là chứa nhóm sữa thành tô. Mạn-đồ-la là ở trong Tô.

Cực tinh tinh thuần ấy: nghĩa là nhóm lại nổi ở trên, giống như tinh ròng không còn thay đổi. Lại gọi là Kiên, vị thanh tịnh, mầu nhiệm hòa hợp với nhau, các vật khác không thể xen lẫn, do đó có nghĩa nhóm họp, vì thế nên Đức Phật nói. Vị cùng cực không có vị nào sánh bằng, không có vị nào hơn được, do đó gọi là Mạn-đồ-la. Dùng ba thứ bí mật phương tiện, chứa nhóm sữa Phật tánh của chúng sinh, cho đến trải qua năm vị trở thành diệu giác, đề hồ, thuần sạch hòa mầu không còn tăng thêm, tất cả Kim cang trí ấn cùng chung nhóm họp, đối với vị cam lộ chân thường không thay đổi là bậc nhất, ấy nghĩa là Mạn-đồ-la.

Kinh chép: Bí Mật Chủ trở xuống, giải thích rộng nghĩa Mạnđồ-la và dứt sự nghi ngờ. Lại chia làm ba: trước hết nói pháp giới Đàn tròn Phổ môn không giới hạn. Sau nói lý do giới hạn người và chọn lựa chúng sinh. Câu cuối cùng là khuyến khích dặn dò A-xà-lê khiến khởi nguyện bình đẳng Từ bi. Căn cứ câu đầu trong văn là thương xót “chúng sinh giới”, Đại bi thai tạng này sinh Mạn-đồ-la nghĩa rộng. Nếu người tu hành khi tự thấy trong thai tạng thì biết tất cả chúng sinh đều có nhân duyên thành Phật, đại Bi Mạn-đồ-la do họ làm ra cùng khắp pháp giới.

Hơn nữa chúng Bồ-tát, Chấp kim cang… nhiều như số cát bụi trong mười thế giới, tùy theo dùng một môn làm Mạn-đồ-la chủ, các môn khác làm quyến thuộc, sẽ thành một loại Mạn-đồ-la, như thế xoay vần đến không cùng tận, không có toán số, ví dụ nào có thể tính kịp, huống chi trong đó mỗi thứ đều dùng vô lượng môn trang nghiêm. Các thứ phương tiện dẫn dắt thâu nhiếp chúng sinh, lại có thể hơn nguồn gốc sao? Nếu hành giả đối với pháp môn nhất tự này, có khả năng thu rộng làm lược, mở lược thành rộng, sinh ra pháp tài, bố thí khắp tất cả, thường không hết sạch, mới gọi là khéo hiểu rộng nghĩa Mạn-đồ-la.

Ở sau nói: Này Bí Mật Chủ! Như lai trong vô lượng kiếp chứa nhóm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề để gia trì, thế nên đầy đủ vô lượng đức. Phải biết như thế ấy. Đây là giải thích rộng nghĩa nguyên nhân. Như trong kinh Hoa Nghiêm, các vị Thiện tri thức nhập pháp giới, mỗi vị ở trong một môn, đã thông đạt “pháp” sâu rộng không giới hạn, nhưng cũng không biết nhau. Ngày xưa khi Như lai hành đạo Bồ-tát, Phổ môn gần gũi các Thiện tri thức nhiều như số cát bụi của các cõi Phật như thế, đối với mỗi kho công đức kia, đều đạt đến vị cuối cùng không gì sánh bằng, không có vị nào cao hơn, do đức nội chướng vô lượng, vô biên như thế, nên họ đã gia trì hiện làm pháp môn quyến thuộc, cũng lại vô lượng, vô biên. Hành giả môn Chân ngôn kia, phải am hiểu tâm kia, hiểu biết như thế.

Đã biết đức bên trong không giới hạn, kế là nói bổn địa Mạn-đồla, độ người vô hạn. Vì sao? Vì phù hợp với nguyện đại bi. Cho nên văn

kinh tiếp theo nói: Bí Mật Chủ không vì một chúng sinh, cho nên Như lai thành Đẳng chánh giác, cũng chẳng phải nhị phi, thường vì thương xót các chúng sinh vô dư ký và hữu dư ký còn nhớ, cho nên Như lai thành Đẳng chánh giác, dùng nguyện lực đại bi đối với vô lượng chúng sinh giới, như bản tánh của họ mà nói pháp, ý nghĩa của phát tâm Bồ-đề trong đây giống như phẩm Nhập Pháp Giới, và trong Trí Độ Ma-ha-tát Luận nghị có nói rộng.

Vô dư ký: Như Đức Phật hiện tiền thọ ký, chúng sinh nào đó ở trong kiếp nào đó thành Phật hiệu Như lai nào đó, có cõi nước quyến thuộc như thế, thứ thọ ký rõ ràng, gọi là Vô dư ký. Hữu dư ký: Như bảo chúng sinh rằng, ông ở đời vị lai, thời Đức Phật ấy sẽ hết tội. Đức Phật nào đó sẽ thọ ký cho ông.

Lại nữa, như Thế-tôn dạy: hoặc ta tại thế hoặc sau khi diệt độ, có các chúng sinh nghe kinh Pháp Hoa dù chỉ một câu hay một bài kệ, Ta đều thọ ký Vô thượng Bồ-đề cho họ, ấy gọi là Vô dư ký. Nếu nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, họ sinh gốc lành nối nhau không dứt, sẽ đến Vô thượng Bồ-đề thì gọi là hữu dư ký. Xưa ta vì những chúng sinh này mà thành chánh giác, huống chi nay chỗ nguyện đã tròn đầy, mở tự tâm quý báu của chúng sinh, như bản tánh của họ mà ban cho, đâu có hạn lượng gì? Hơn nữa, căn cứ vào dấu vết cạn thấp của việc mở mang kinh điển ở cõi đời xấu ác, vì thế mà nói một ngày nào đó pháp sự nhiều đến mười người. Từ đây trở xuống câu thứ hai, là giải thích nguyên nhân hạn lượng người và lựa chọn chúng.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Đời trước không tu tập Đại thừa, chưa từng suy nghĩ nối nhau hạnh chân ngôn thì không thể có phần nhỏ thấy, nghe, hoan hỷ, tin nhận.

Lại, Kim cang Tát-đỏa, nếu hữu tình kia, xưa đối với Đại thừa chân ngôn, nương đạo vô lượng môn mà tiến lên, do từng tu hành, nên vì những người kia mà lập ra hạn lượng danh số này. Ý đây nói: Nếu các chúng sinh, thời quá khứ chưa từng đối với vô lượng các Đức Phật gieo trồng gốc lành, đối với bí mật thừa này chưa hề tu tập thì sau đến nghe cũng không thể tin nhận. Nếu người truyền thọ, luống dùng gốc lành, sai căn cơ mà nói, họ sẽ tăng thêm sự chê bai làm mất gốc lành kia.

Vì thế kinh Pháp Hoa chép: Người không trí tuệ nghi ngờ, hối tiếc thì bị mất hẳn gốc lành. Các chúng sinh trong các thế giới ở mười phương, ít có người chí cầu Thanh văn, người cầu duyên giác ít hơn, người cầu Đại thừa là ít nhất, nhưng người cầu Đại thừa hình như còn dễ, người tin pháp này mới là rất khó, do đó dùng “phổ nhãn” quán, người thọ được pháp ấy, giống như phải làm đầy biển lớn bằng những giọt nước nhỏ như bụi. Khi ý đã muốn che chở người kia liền nói: Vô lượng môn tấn thú: tức là giải thích cả danh nghĩa của Mạn-đồ-la, luận rằng, Mạn-đồ-la: nghĩa là chứa nhóm. Nay chứa nhóm công đức chân thật của Như lai lại một chỗ, cho đến chứa nhóm bánh xe trí ấn khác nhau nhiều như số cát bụi trong mười thế giới, giúp đỡ tâm vương Đại Nhật, khiến tất cả chúng sinh tiến lên “Phổ môn”.

Vì thế nói là Mạn-đồ-la. Cái gọi là sơ lược tạo lập danh số này: như dùng A tự “ngũ chuyển”, nhiếp chung vô biên nội đức của Như lai, dùng tự luân trăm ánh sáng thu nhiếp pháp môn phổ nhãn của Như lai, đây gọi là lược, dùng phương tiện vô số cõi nước liền mở đàn tám cánh, dùng đại bi không cùng tận để đặt ra hạn lượng mười người, đây là số sơ lược.

Nhưng người học kia, thuận theo một pháp “Minh đạo” mà được ngộ nhập thì nhập khắp tất cả các môn tổng trì, như từ một cửa thấy vua tức là vào khắp ngàn cửa muôn nhà. Nếu không thể như thuyết tu hành thì dù dùng các thứ văn từ rộng vì chỉ bày cũng không lợi ích gì, cho nên là câu thứ ba. Kế là nói danh số qua loa, tự không bị cản trở bởi sự rộng lớn, vì thế kinh dạy: A-xà-lê kia cũng phải dùng tâm đại bi, lập thệ nguyện như vậy, để độ chúng sinh giới không còn thừa. Phải nên nhiếp thọ vô lượng chúng sinh, làm nhân duyên hạt giống Bồ-đề.

Nghĩa là tạo lập Mạn-đồ-la, là tùy theo thấy, nghe, chạm, biết, cho đến giơ tay, cúi đầu, một niệm vui theo, đều chắc chắn thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, do đó A-xà-lê tuy không được sai căn cơ lầm trao thực hành câu-chi quán đảnh. Nhưng duyên buộc châu, trống độc, há đã làm sao? Vì thế phải vận dụng tâm đại bi mục đích là làm cho rộng hòa hợp.

Lại nữa, như mọi người có vật báu bí mật, sợ bị giặc cướp nhìn trộm cho nên lấy áo che lại, nay pháp môn Mạn-đồ-la này, cũng giống như vậy. Vì kho bí mật không thể giảng nói ngay, nên xoay vần trở lại dùng phương tiện có tướng, nay nói giới hạn mười người, chính là Mạnđồ-la thế độ. Nhưng A-xà-lê tự phải sửa sang ngay thẳng đất tâm, vẽ làm đại bi Mạn-đồ-la, phổ nhãn độ người, càng nhiều càng tốt, không được như lời nói mà hiểu.

 

***********

Kệ chép: Hành giả trì chân ngôn: Là nói về sự che chở kiến lập trong chi phần của đệ tử, đến đêm thứ sáu, thầy và đệ tử đều tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới, giặt, cầm các vật cúng dường, đến chỗ như trước, tạo lập bạch đàn Mạn-đồ-la, phải đúng như pháp gia trì tự thân, đạo tràng và đệ tử, thầy phải phương tiện giữ gìn đệ tử, như Văn dưới khi nhập quán đảnh sẽ nói.

Bấy giờ, A-xà-lê như “thứ lớp pháp tắc cúng dường” tu hành đầy đủ, quán các tôn vị trong Bạch đàn, tương ưng với mật ấn, trì chân ngôn kia. Cù-hê chép: Tay đè lên Trung thai Mạn-đồ-la tụng chân ngôn một biến, cứ như vậy một lần tụng đè một cái, cho đến bảy biến, các vị khác cũng giống như vậy, sau đó vì các đệ tử, thuận theo nói pháp, dẫn dắt khai phát tâm kia, dạy cho kia ba tự quy y, sám hối tội trước, đã sám hối rồi thân tâm thanh tịnh, giống như ngọc sáng, có thể phát tâm chân chánh, cho nên sau mới khiến phát tâm Bồ-đề, đều như trong pháp cúng dường đã nói, sau sẽ trao cho hương xoa, hoa… dạy bảo vận tâm cúng dường chư Tôn, sau đó mới thọ Trì giới ba đời không chướng ngại, đó là thọ giới pháp của Bồ-tát, có hành nghi riêng. Bồ-tát sở dĩ phát tâm nhiếp thọ học xứ phương tiện, đều vì thành tựu trí tuệ thanh tịnh của Như lai, ở trong một niệm hiểu rõ các pháp trong ba đời, không có quái ngại, kia có trụ ở giới này, cho đến khi mới thấy tâm liền rõ đạo, liền có phần thế lực không thể suy nghĩ bàn luận như thế, nhờ giới này tự thân có thể phát sinh Phật tuệ, lại đối với luật nghi Nhị thừa có hạn lượng, nên dùng trí vô chướng ngại trong ba đời để làm tên.

Sau nên trao cho nhành dương bảo các đệ tử xỉa răng. Nhân đó quán người ấy là thành khí hay không thành khí, vì thế người được pháp này, cũng là thuận theo tục đế của phương kia, do dùng phương tiện bí mật để làm gia trì. Người Ấn-độ, hễ thỉnh tăng thọ thực cho đến người đời, trước đều cùng tặng cho họ nhành dương chà răng, dùng các thứ hương hoa tô điểm trang nghiêm trao cho, phải biết ngày hôm sau thỉnh họ thọ thực. Vì sao? Vì biết tâm kính mến, sợ họ trước bị bệnh đàm ấm nhân duyên ăn thức ăn cách đêm. Nếu kia thọ nhận sự cúng dường của ta, hoặc khiến cho phát động không an, cho nên trước đem thiện ý muốn giúp đỡ mà cảnh báo, khiến họ trước tắm gội thân thể, hoặc uống ha-lê-lặc… thì sáng hôm sau tùy ý ăn uống, không gì xúc phạm thân tâm an vui.

Nay A-xà-lê cũng giống như vậy, khi trao cho đệ tử nhành dương chà răng thì phải nhờ phương tiện này để nói pháp sâu xa, ta mới trao cho người Phật tánh đề-hồ để cứu giúp, không có vị nào hơn, đã dạy ông phát tâm Bồ-đề trừ sạch ba nghiệp làm chướng ngại đời trước, dùng răng trí điều phục trí vô ngại ba đời, cắn các phiền não xong, muốn trở lại đem bí mật này để gia trì, dứt trừ tội lỗi của thân tâm, ông phải thanh tịnh lỗi của miệng, đi đến chỗ nào chớ vọng tuyên truyền, ngày hôm sau sẽ tặng ông cam lồ bất tử, đều khiến đầy đủ, kia phải lấy cây Ưuđàm Bát-la hoặc cây A-thuyết-tha ngay thẳng tốt đẹp, không lớn không nhỏ cắt dài chừng mười hai ngón tay, tất cả phải đúng pháp lượng, đều dùng tiết lượng của ngón tay cái, nghiêng thì cùng vê lại cho thẳng, đó là đúng số.

Hai cây này, là cây Bồ-đề thời quá khứ của Đức Phật, nếu không có, phải xin cây có mủ, như cây dâu, cốc… Ghi riêng phần trên, phần dưới của cây, đều lấy cành ngọn là phần trên, gốc rễ là phần dưới, dùng nước thơm để rửa, lại dùng cỏ thơm mà xoa, ở phần dưới ngọn kia, dùng chỉ trắng quấn quanh hoa để làm trang nghiêm, cũng làm dấu mốc, khiến trên, dưới dễ nhớ, phải dùng tay đè thì thêm chân ngôn bất động, hoặc trăm biến hoặc ngàn biến, thường khiến trang nghiêm đầy đủ. Đã thọ giới rồi, vị thầy phải dâng một nhành dương lên chư tôn, ngoài ra chia cho đệ tử khiến ra ngoài đoàn, xoay về phương Đông hoặc phương Bắc, ngồi xổm (ngồi chồm hổm) mà xỉa, xỉa rồi, bảo xoay về phía trước mặt để xem xét tướng kia, mà ném cho đúng, nếu cây xỉa răng hướng ra ngoài đó là người không thành Tất-địa, người hướng vào thân thì Tất-địa thành tựu.

Nếu ném xa mà lùi lại gần thân thì đó là tướng không bao lâu sẽ thành tựu, nếu đầu đứng thẳng hướng lên thì càng mau thành tựu, nếu đầu hướng xuống thì người ấy sẽ vào Tu-la, long cung, nếu ném giữa hư không, phải biết người này trước đã thành tựu. Lại hướng về phương Đông, phương Bắc là thành tựu trước, hướng đến phương Tây là đang thành tựu, hướng đến phương Nam là thành tựu sau, tuy như vậy, nếu người trước hết hướng về phương Đông mà ném, lại chỗ xỉa răng là hướng Đông, tức là mặt sau của thân, cũng không được thành tựu, các việc khác y theo phương này mà biết.

Ngoài ra, như trong Cù-hê nói. Lại phải làm pháp kim cang tuyến (chỉ). Hễ làm dây, trước phải chọn sợi tơ đầy đủ tốt mịn, dùng nước thơm rửa cho thật sạch, bảo đồng nữ trong sạch giúp se lại, se sợi tơ năm màu, phải dùng chân ngôn của năm Đức Như lai, mỗi vị Phật gia trì một màu, sau khi đã thành tựu các việc chân ngôn gia trì, tạo dây Mạn-đà-la cũng giống như vậy. Màu của năm đức: nghĩa là Đức Phật Đại Nhật gia trì màu trắng, Đức Phật Bảo Tràng gia trì màu đỏ, Phật Hoa Khai Phu trì màu vàng, Phật Vô Lượng Thọ trì màu lục, Đức Phật Cổ Âm trì màu đen.

A-xà-lê trước tự lấy dây thắt làm ba gút, làm Kim cang kết, buộc vào tay trái để che chở thân mình, sau vì mỗi đệ tử buộc vào tay, nhiếp thọ đệ tử như vậy, sẽ nhập Mạn-đà-la, lìa các chướng nạn. Pháp kết kim cang kia, không thể nói từ sợi tơ, mà phải từ phía A-xà-lê dung nạp.

Lại nữa, sợi năm màu, tức là ngũ trí Như lai, gia trì năm mầm gốc lành trong tâm Bồ-đề của đệ tử, cũng là năm pháp tín, tấn, niệm, định, tuệ, đem năm pháp này thâu nhiếp tất cả giáo môn, do đó gọi là Tu-đala. Xưa dịch là Diên kinh. Nếu A-xà-lê đã thấy chân đế, có khả năng dùng ngũ trí Như lai, gia trì năm thứ gốc lành trong tâm Bồ-đề của đệ tử, thâu nhiếp muôn hạnh buộc giữ ở tay Du-già, khiến trải qua sinh tử thường không hoại mất, hoặc có thể nhiếp thọ đệ tử như vậy, cho đến khéo làm gút kim cương.

A-xà-lê nói: Muốn vào đêm này tác pháp cho đệ tử, thì vật cúng dường nên bớt phân nửa của đêm thứ bảy, lại phải quán xét tâm của kia, khen ngợi “Mật giáo” phát sinh tâm vui mừng vững chắc, và phải phân biệt mười loại “học xứ”, nhưng trí giới ba đời không ngăn ngại này, hễ người nào kết duyên thì đều cho dự nghe. Bốn thứ căn bản kia và Tammuội-da lại một bài kệ, thì kề tai nói giới, người đầy đủ chi phần quán đảnh, thì nên nghe. Hai bài kệ mà kia đã dạy bảo, cũng là A-lợi-sa, có thể tụng bản Phạm đầy đủ rất lợi ích, được nêu bày ở sau đây:

A nễ dã, dữu sáp ma, tỷ la đỗ la, la bà, lạp đà ma ha, tỷ duệ nẵng, tát bà nhĩ nại, dụ diên, bà bổ đát, lý ha sắc bà nê dã, tát la nai, bả lý nghi rý hệ đá tát tha, xa da ma tương ma hố nại da, đế tương dụ dân, ma ha, dạ nê thấp phụ, nhược đá ê bà vĩ tỷ dã tha.

Ý kệ nói: Từ nay về sau ông đạt được lợi ích vô đẳng (không gì sánh bằng) địa vị ngang bằng đại ngã. Đại ngã: nghĩa là Như lai thành tựu tám ngã tự tại, đối với pháp được tự tại, và các Ma-ha Tát-đỏa.

Kế là nói tất cả các Như lai và chúng Ma-ha-tát trong giáo này, tất cả đều đã nhiếp thọ ở ông. Giáo này: nghĩa là trong Đại thừa bí giáo này, chúng Bồ-tát, kim cang… trong mười cõi Phật. Sau nói thành tựu đại sự: tức là có thể thành tựu đại sự, và có khả năng thành tựu đại sự nhân duyên, đó là “khai, thị, ngộ, nhập” tri kiến Như lai, vì thế trong kinh ngầm hiểu ý nói: Các ông vào ngày mai được sinh trong Đại thừa, nghĩa là nhập đại bi Mạn-đà-la, được quán đảnh rồi, sinh trong dòng họ của tất cả Như lai.

Lại nữa, lìa duyên, nghiệp sinh được Đại không sinh, nên gọi là sinh Đại thừa. Bấy giờ, A-xà-lê dạy bảo ấn trì như thế xong, trở lại khiến lần lượt ở ngoài Mạn-đà-la ngồi hướng về phương Đông, A-xàlê lại phải cúng dường, cho đến thành tâm kính thỉnh chư tôn rằng: Con vào ngày mai, vì thương xót đệ tử nên cúng dường chư Thánh tôn, để kiến lập Đại bi thai tạng Mạn-đà-la, tùy khả năng cúng dường, cúi mong từ bi thương nghĩ, vào ngày mai, tất cả đều xuống hội họp Mạnđà-la mà làm gia trì. Ý từ quan trọng như đây.

Ngoài ra như trong Cù-hê nói. Kia chí thành thỉnh ba phen rồi, phải nói kệ Kim cang khen ngợi chư tôn, sau đó đúng như pháp sai khiến, lại vì đệ tử nói rộng pháp yếu, dạy phải buộc niệm tư duy, lót cỏ cát tường, ngủ nghỉ mặt hướng về phía Tây, kia (đệ tử) ở trong mộng, nếu thấy được các cảnh giới, sáng sớm đều phải bạch thầy, sẽ biết tướng người tu hành Tất-địa thành hay không. Nếu vị A-xà-lê thấy chân đế này tự mình trụ sâu trong Du-già sẽ thấy rõ căn duyên, gốc ngọn, không có lầm lẫn, nếu không làm sự tướng như thế, và thuận theo thế đế mà làm, tất cả đều không có lỗi, nếu thầy chưa thấy chân đế thì phải cung kính nương theo phép tắc chớ để có lỗi.

Kinh chép: Trong mộng thấy trụ xứ của tăng: nghĩa là chỗ thấy thanh tịnh nhiệm mầu, các thứ tốt đẹp tô điểm trang nghiêm, thân vào trong đó nhiễu quanh quỳ lạy, gặp các việc vui, tốt.

Vườn rừng: nghĩa là thấy chỗ tốt đẹp đặc biệt, hoa quả xanh tươi, hoặc tự thân hái lấy, hoặc dẫm lên trên cây với lấy hư không mà đi.

Đường nhà: nghĩa là các thứ phòng đẹp trang sức rực rỡ, ở trong đó thọ dụng tự tại, thân tâm vui vẻ thích hợp.

Lầu quán: nghĩa là lầu cao nhiều tầng hiện rõ, xa thấy Tây phương, thấy các cảnh tốt đẹp, tâm hồn thông suốt trong sáng. Phàm so sánh như thế đều là tốt lành, pháp môn trình bày trong đó, cũng như trong phần chọn đất đã nói. Nếu trái với đây, như thấy chùa tháp bị đốt phá, loại cỏ rậm mọc hoang thì không phải mộng tốt.

Cờ: nghĩa là ngọn cờ quý báu, rất cao đẹp ngay thẳng hiện ra trước người kia, hoặc dùng cờ chỉ huy dẫn dắt mọi người đều vâng theo mệnh lệnh, như hình tượng xây dựng tâm Bồ-đề phép tắc thành muôn hạnh.

Lọng: nghĩa là đuôi chim Khổng tước năm màu xen lẫn nhau, hoặc nó che mát giữa hư không mà, hoặc người trao cho cầm lấy dạo chơi, đó là hình tượng đại bi che khắp.

Châu Ma-ni, cũng có nghĩa là tròn sáng chiếu khắp, hoặc có công năng sinh ra các vật đem cho mọi người, đó là hình tượng tâm thanh tịnh giác báu bốn nhiếp làm lợi ích cho người.

Dao: nghĩa là ngọc thạch trang sức phải mài đục bỏ bớt chỉ còn thuần túy chất cứng sắc nhọn, hoặc người trao cho, hoặc tự mình giữ lấy, đó là hiện tượng thành tựu tuệ tánh.

Hoa Duyệt ý: nghĩa là các thứ nước, đất sinh hoa, tùy theo tánh loại mà có thượng, trung, hạ, như màu sắc thì lấy sáng đẹp làm trên hết. Vị thì dùng toàn vị ngọt là hơn hết, đều khai phát hình tượng mầm tốt, nên dùng ý phân biệt. Người nữ là hình tượng Tam-muội, người nam là hình tượng trí tuệ, cũng lấy hạng người oai đức khôi ngô, mọi người đều thương yêu cung kính.

Mật thân: nghĩa là cha, mẹ…

Bạn lành: nghĩa là bậc Thiện tri thức trao truyền pháp của bậc thượng nhân (hơn người)… hoặc thấy đàn bò cái vị sữa đầy đủ, hoặc thấy người vắt, hoặc tự mình uống, đều là hình tượng đề hồ thượng vị đại bi Mạn-đà-la, hoặc thấy trong kinh sáng sạch không dơ, ngay thẳng trang nghiêm sắc chữ rõ ràng, ghi chép, giảng nói các việc thù thắng thì là tướng tốt.

Nếu kinh sách hư hoại, dơ bẩn chữ nghĩa thiếu mất thì phải biết đó là tướng không tốt. Hoặc thấy các Đức Phật đích thân làm Ma đảnh, hiện tiền thọ ký, dùng âm thanh vi diệu mà an ủi, hoặc thấy Thanh văn, Bích-chi-Phật… cho đến trụ giữa hư không thị hiện vô lượng thần biến, đều phải tùy theo việc xét chọn, biết được nhân duyên làm ra. Các quả: nghĩa là diệu quả cao quý ít có ở thế gian, hoặc có người trao cho, hoặc từ trên không rơi xuống… đều là hình tượng Tất-địa, hoặc vượt qua sông, hồ, biển lớn, cho đến mộng thấy trong chốc lát tự uống hết, đều là tốt lành.

Nếu là loại chìm, nổi lênh đênh không ai cứu giúp, phải biết đó là không tốt. Hoặc nghe giữa hư không có các âm thanh hay ca ngâm lời pháp, tấu các kỹ nhạc, hoặc xưng dương công đức Tam bảo, tâm đã vui vẻ khi nghe được, hoặc nói lời tốt lành, hoặc kết quả của lời nói phải nên làm vui ý ông. Những thứ như thế đều là mộng tốt, phải y theo loại thượng, trung, hạ mà phân chia từng loại. Giống như chùa viện thì có sự riêng khác về nương vào đất hoặc ở hư không, chỗ kia thấy cũng có nam, nữ, Thánh, phàm khác nhau.

Do đó kinh nói: phải nên phân biệt kỹ, hoặc trái với tướng tốt ở trước; hoặc mộng thấy thân kia bị voi điên đuổi theo nguy cấp sợ hãi, hoặc cỡi lạc đà, lừa, hoặc thấy người đáng ghét, xấu ác, ăn mặc dơ bẩn rách nát, hoặc tự thấy thân nằm dưới bùn lầy dơ bẩn, hoặc các thứ bất tịnh từ hư không rơi xuống, đều là những tướng trái nhau. Nếu là bậc thâm hạnh A-xà-lê thì tự phải ở trong Du-già, đều biết việc trong mộng và nhân duyên làm ra. Khi đệ tử sáng sớm thức dậy bạch thầy, phải tùy theo căn cơ khuyến phát để dứt lưới nghi cho đệ tử. Nếu quán người kia không có đạo lý để thành tựu thì không nên truyền pháp đầy đủ, sợ kia chờ đợi không có kết quả hoặc sinh nghi ngờ chê bai, hoặc như trong Cù-hê đã nói thì làm Hộ-ma cho họ để vắng lặng tai nạn, được xa lìa các chướng ngại, sau mới gọi vào. Nếu thấy các ảnh giới tốt đẹp, nên dùng lời pháp an ủi cho được hoan hỷ. Cái gọi là nói khéo trụ giới: Tiếng Phạm nói: To phạ la đa là tiếng tôn xưng tốt đẹp của đệ tử, giống như nói hàng Phật tử. Trong kinh nói kệ cũng là “A lợi sa”, tụng cả bản Phạm càng tốt, cũng có đầy đủ ở dưới đây:

Ế sa ma lạt già phạ la la, thất lý ma ha dạ mang ma hộ nại dã nẵng sấu diên nghiễm di lộc, đỗ ba phí thiết tha đát tha yết đá tát diệm bộ vô, ma ha noa già tát ma lỗ yết tả chế để da, a tất để, na tất để, vĩ dã, để yết lan đa ma ca xà di phạ trở, để làm nghiêm tỵ lan tát bà, đạt mê tỷ lạp bát ra bán chỉ đơn tát bà ngật rị, da tỵ la đỗ lan, đát để giả nại phạ dã dã xam, ma thiết la diêm y năng đán nhĩ dạ nang mạt lan thất lệ sắt trá, la tỹ thiết tha nại duệ tát thể đá.

Nửa bài kệ đầu là khen ngợi đạo lý bí mật thừa. Nguyện thù thắng: chính là tất cả trí nguyện. Nếu vào pháp môn Bồ-đề thanh tịnh này thì soi thấy tâm pháp rõ đạo lý, điều này người ta nói là Đại Bồ-đề đạo của Cổ Phật. Đại tâm: nghĩa như trong Ma-ha Tát-đỏa nói ở trước. Các chúng đại tâm trong quá khứ, hiện tại và vị lai, đều nương thừa quý báu này mà thẳng đến đạo tràng, vì thế nói đại tâm của Đại thừa. Một bài kệ tiếp theo khen ngợi công đức người tu hành phát tâm Bồ-đề, liền dùng pháp ấn tất định của tất cả Như lai, để thọ ký đại Bồ-đề, do đó nói ngươi nay chí cầu, sẽ thành tựu tự nhiên trí đại long của Như lai, thế gian kính trọng như tháp.

Tự nhiên trí: đó là trí Như lai tự giác tự chướng là pháp mà xưa chưa nghe chưa biết, tự nhiên hiện ra rõ ràng, không gì ngăn ngại được, vì thế lấy làm tên. Ma-ha na-già là biệt hiệu của Như lai, đem so sánh đại dụng không thể suy nghĩ bàn luận thì không có phương hướng.

Chế-để: Hán dịch là phước tụ, nghĩa là công đức của tất cả Như lai đều nhóm họp ở trong đó, vì thế cho nên người đời, vì cầu phước nên thảy đều cung kính cúng dường. Nay ông phát tâm Bồ-đề cũng có thể nhiếp thọ vô biên nhóm phước của tất cả Như lai, thế nên người đời, phải cung kính cũng như tưởng nhớ Tháp. Tiếp đến có một bài rưỡi kệ chỉ bày tướng ấn như thật của tâm Bồ-đề thanh tịnh, tức là mở bày tri kiến Phật khiến cho được thanh tịnh.

Hữu, vô đều vượt qua: tức là từ Trung đạo các duyên sinh khởi không thể suy nghĩ bàn luận, vượt ngoài đoạn, thường, phi hữu, phi vô, tất cả tâm lượng đều không đạt đến chỗ đó, do đó gọi là Vô cấu hư không kim cang trí ấn.

Các pháp sâu xa kín mật: do tâm tánh sâu xa, nên phải biết ấm, nhập, giới cho đến Nhất thiết chủng trí cũng đều rất sâu xa. Vì tất cả pháp không ra ngoài tướng thật của tâm, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết được, suy lường, phân biệt mà không thể đạt đến, vì thế nói sâu xa kín mật.

Trí thế gian không thể biết rõ: nói tâm tánh này tất cả người thông minh lợi căn trong thế gian không thể suy nghĩ luận bàn. Dù cho các bậc đại luận sư như Trường Trảo Phạm Chí… dùng các thứ nhân duyên thí dụ, trang nghiêm so sánh đo lường, cuối cùng cũng không rõ cảnh giới kia, hết lòng tư duy tìm cầu chỉ khiến phát cuồng. Chỉ có người sức “tín” bền vững, nương vào phương tiện Bí mật này mới vào được mà thôi.

Không chứa để: Có chỗ nói người khó có thể hiểu biết, chính tại như thế không có chỗ ẩn giấu, dùng hiểu biết đúng như thật, uẩn A-lạida vốn không sinh, không có chấp thọ, cũng không chứa để. Bấy giờ, tất cả vọng tưởng nói rộng của tâm, ý, thức thảy đều thanh tịnh, pháp giới soi sáng như trăng mùa thu giữa bầu trời, cho nên câu sau nói lìa tất cả vọng tưởng.

Bản Phạm nói xa lìa tất cả vọng tưởng nói rộng. Nay theo trong kệ nói lược, lại ý nghĩa không khác cho nên không có đủ. Câu kế nói nói rộng vốn không, nếu có đủ bản Phạm thì nên nói: nói rộng không nói rộng. Vì tất cả nói rộng, thảy đều từ các duyên sinh ra không có tự tánh, vì không có tự tánh tức là từ xưa đến nay không sinh, đó là giải thích theo câu trước. Nói: Chính nói rộng này tự không nói rộng. Nay lại hội ý mà nói, vì thế nói vốn không. Sau có hai câu, nói về phương tiện rốt ráo tâm Bồ-đề thanh tịnh này, do vượt qua tất cả vọng nghiệp thì có thể thành tựu trí nghiệp Như lai, Phổ môn dẫn dắt lợi ích, đều là đại sự nhân duyên, vì thế cho nên tất cả việc làm, đều không ai sánh bằng, do đó nói tất cả nghiệp không ai sánh bằng.

Kế là chuyển sang giải thích câu trước, luận chung về đại cương của quyền và thật, do đó nói thường nương vào Nhị đế, cho nên luận chép: Các Đức Phật nói pháp thường nương vào Nhị đế. Nhưng tông của kinh này, làm đầy đủ các phần phương tiện đều tùy theo thế đế, do nhân duyên này đắc tất cả trí ấn, Nhất thiết trí tức là Chân như. Thế nên, thế đế là nhân chân đế là quả, nhân như bốn vị thảy đều Vô thường, quả như đề hồ thì đó là thường, nói là nương vào nguyện thù thắng ông sẽ trụ ở con đường này, cũng là nói lại ý thọ ký.

Bấy giờ, Chấp Kim Long trụ trong Vô hý luận, bạch Đức Phật rằng, cúi xin Đức Phật giảng nói Trí Giới ba đời không chướng ngại; không có Bồ-tát trụ ở đây, khiến cho các Đức Phật Bồ-tát hoan hỷ: Văn trên chỉ nói Thọ giới ba đời không chướng ngại, nhưng chưa hiển bày tướng, vì thế nên trụ trong Vô hý luận kim cang thừa, khai mở câu hỏi.

Lại nữa, Thế-tôn sở dĩ đợi hỏi mới nói, cũng vì quyến thuộc pháp môn cùng phát minh. Nay tịnh giới này, chính đem trụ Vô hý luận Kim Cang trí ấn làm thể và sở dĩ đặc biệt thưa hỏi Đức Thế-tôn đây là muốn khiến cho nhân, pháp tương ưng, lưu truyền có gửi gắm.

A-xà-lê lại nói: Giới tướng này cũng là gia trì “Cú”, nếu khi truyền trao, trước phải trì tụng bản Phạm, sau đó mới khéo dùng lời giải thích đầy đủ. Nay trình bày đầy đủ ở dưới đây:

Thất lý cự la bổ đát la đát thảm mạt lan duệ đát ra, cự la bổ đát la ca da pha ngập mãng, noa sa mê yết đát la nhĩ ngật sa bố na bà a ngật ly tà tát la ma đạt ma xá ca đá ma giả bà, dã a đát mãng bà phạ, bát lý đát dã ngung bột đà bồ đề tát đá phệ, chờ yết sa ma, dì đỗ lý sấu hệ a đát ma bà bát lý để dã, nhược để noa phạ tát bồ đát lý diên, bát lý đẻ dã yết đơn phạ đễ yết đá mãng thất giả, phạ đát tốt đổ đát la diên dã nổ đá ca tà phạ ngập mãng noa y để, đát ta nẫm chớ lý hệ, cu la bổ đát la ca tà phạ ngập mãng noa tam phạ la tam vật phiếu (lật) đế na, bồ đề tát đát phệ noa bà vĩ đát vật diễm, đát yết Sa ma thê đỗ phiếu nẳng ca, tà phạ ngập mãng noa san bát lý để dã nhĩ dã thích xoa khất la ha xá cự mạn để, bồ đề đát đỏa, ma ha tát đỏa y để.

Câu đầu nói Phật tử hãy nghe kỹ, tiếng Phạm Cự-la nghĩa là tộc, nghĩa là bộ. Bồ-đát-la nghĩa là người nam. Nếu giải thích theo thế đế thì sinh vào trong bốn họ đều gọi là Đại tộc, do đó gọi là con của giòng họ; Nay được sinh trong nhà Như lai, là giòng họ tốt, cao quý nhất trong các giòng họ, vì thế nói là tộc tánh tử (người sinh trong dòng họ).

A-xà-lê nói: Nên hội ý nói là Phật tử, đối với nghĩa là sai. Kinh chép: Nếu tộc tánh tử trụ ở giới này thì phải đem thân, miệng, ý hợp lại thành một. Giới này tiếng Phạm là Tam-phạ-la, nghĩa là cộng duyên cùng thành giới này, có chỗ nói do tuệ phương tiện… nhóm họp mà thành. Nếu Thi-la thì chỉ nghĩa là thanh tịnh; lại Tam-phạ-la nghĩa là bình đẳng. Phật dạy đem thân, miệng, ý, hợp lại thành một: tức là trụ pháp môn ba bình đẳng. Vì thế được gọi là Giới ba đời không chướng ngại.

Như Đức Phật và Thanh văn lược nói lời răn dạy thì nói ba nghiệp đạo thanh tịnh này là đạo của bậc Đại tiên, từ năm thứ mười hai về sau, giảng nói nghĩa ấy thành các luật nghi, nay Trì Minh ở đây sơ lược nghĩa của Giới cũng giống như vậy. Nếu người tu hành ba nghiệp phương tiện, thảy đều chân chính thuận theo ba bình đẳng xứ, phải biết chính là đầy đủ tất cả luật nghi của các Đức Phật.

Lại nữa, xé rách các lưới vọng tưởng, đó nghĩa là Tam-phạ-la, nghĩa là lưới nói rộng các kiến chấp: Ngang dọc thành nhau, nhiều lớp xen nhau, nay hành giả quán thân nghiệp, khẩu nghiệp tự không có thể riêng, toàn bộ ngọn ngành trở về nguồn gốc chỉ là một tâm, mà tướng thật của tâm này thường là pháp giới bình đẳng, thế nên khi trụ ở giới này, các thứ nghiệp thân, miệng, ý đều đồng một tướng, vô lượng lưới kiến chấp thảy đều trừ sạch, cho nên được gọi là trụ vô hý luận Kim cang ấn.

Kinh chép: Không làm tất cả các pháp: Các thứ năm ấn nương vào phiền não, phiền não nương nơi nghiệp, các nghiệp này đều từ thân, miệng, ý sinh ra, như cứ thân, miệng, ý chia làm mười nghiệp Đạo thiện ác, nghiên cứu đầu mối của nó thì vô lượng, vô biên, thế nên hễ đã tu hành ba nghiệp thì có hạnh tiến lên, mất sự tiến lên thì là đảo tưởng (vọng tưởng điên đảo) do đảo tưởng nên có vô lượng tướng sinh ra, vì bị các tướng này ngăn cản nên không được trí vô ngại như Đức Phật; nay hành giả quán sát sâu xa Mười câu duyên sanh, hiểu rõ ba nghiệp rốt ráo không sinh, pháp tánh tự như thế thường không lay động, tạo tác, đó gọi là trụ Vô vi giới. Như thế, tịnh giới này còn không phải Như lai tạo tác, huống chi tín ở giới này mà tạo tác các pháp sao?

Kinh chép: Thế nào gọi là giới? Có chỗ nói quán sát xả bỏ tự thân, dâng hiến các Đức Phật, Bồ-tát. Vì sao? Nếu xả tự thân thì sẽ xả bỏ ba việc kia, ba việc ấy là thân, miệng, ý sau nói giữ Vô tác giới đầy đủ tuệ phương tiện. Hành giả quán sát thân trong thật tế không thật có tức là giải thoát của Như lai, vì thế cho nên xả bỏ hết thân này, để cúng dường tất cả Như lai, từ đây về sau, trong mọi hành động, có làm việc gì đều vì giải thoát Như lai, không vì bản thân mình, dù các rõ ràng muôn hạnh hoặc trang nghiêm cõi Phật thành thục chúng sinh, pháp tánh tự như vậy không do tạo tác, người tu hành được như thế, gọi là Vô biên nhóm phước, gọi là sông phước không cùng, tùy theo tạo chút ít căn lành, đem hòa vào trong biển pháp giới, cho đến chúng sinh giới cũng không cùng tận.

A-xà-lê nói: Trong bản Phạm có bài kệ nói:

Nếu có người giải thoát

Trì pháp giải thoát này

Cúng dường người giải thoát

Phước này lớn hơn hết.

Nếu người tu hành chân ngôn, không hiểu “giới” thanh tịnh như thế thì tuy miệng tụng chân ngôn, thân trì mật ấn, tâm trụ trong bản tôn Tam-muội, tu đầy đủ theo thứ lớp nghi thức cúng dường chư Tôn, cũng vẫn gọi là tạo tác các pháp, chưa xa lìa lưới nhân ngã, làm sao được gọi là Bồ-đề Tát-đỏa ư? Do đó kinh nói tiếp: Thế nên tộc tánh tử, do thọ giới thân, ngữ, ý, được gọi là Bồ-tát. Vì sao? Vì xa lìa thân, ngữ, ý. Đại Bồ-tát nên học như vậy; nên học trong đây, xưa dịch là Thức-xoa Ca-lani, giống như giới trong Thiên thứ năm, thâu nhiếp tất cả Tỳ-ni, kiền độ, oai nghi, hành pháp, học giả Đại thừa cũng giống như vậy, phải hành trì giới phương tiện này, khắp vào trong tất cả hạnh chân ngôn. Nếu giới có thiếu sót mà hạnh Bồ-tát được thành tựu thì đó là việc không bao giờ có.

Kinh chép: Đến sáng hôm sau, dùng Kim Cang Tát-đỏa gia trì tự thân, vì Thế-tôn Tỳ-lô-giá-na đảnh lễ, chính là ngày mai thọ giới, nghĩa là tối ngày thứ bảy. Khi làm các việc để tạo Mạn-đồ-la, đều phải dùng Kim Cang Tát-đỏa gia trì tự thân, phương tiện trong đây, như phẩm sau ở văn kinh và trong thứ lớp cúng dường có nói. Nếu A-xà-lê đã thấy chân đế thì trụ trong tâm Kim Cang Tát-đỏa, đó là Vô đẳng đẳng Bồđề tâm. Do Bí mật đây gia trì, nên các việc đã làm không thể trở ngại, hư hoại, tiếp đến phải vận tâm như trước, làm lẽ Đại Nhật Như lai, sau đó trì tụng Chân ngôn Hàng tam thế, gia trì vào bình sạch, đây cũng là thành tựu các việc Chân ngôn, trước phải lấy bình sạch như pháp múc nước trong sạch, rót lọc đúng pháp, bên trong để năm thứ hạt và năm thứ báu, lại lấy các thứ cây, hoa, quả, nhánh tốt đẹp thơm cắm vào trong đó, các thứ trang nghiêm, dùng các thứ tơ lụa sạch buộc ở cổ, đều phải nương theo pháp thứ lớp cúng dường, loại bỏ các vật dơ, sau đó dùng pháp giới tâm để tự gia trì.

Tóm lược cả Chân Ngôn số biến không có số lượng chắc chắn, phải dùng tự mà đếm, như trong Tô-tất-địa nói. Lại trong đó, tùy theo làm ba bộ Mạn-đề-la, đều dùng bộ tâm hoặc bộ mẫu chân ngôn gia trì; nay trong kinh này, thông dụng Chân ngôn gia trì, biện sự Chân ngôn kia lại gồm cả rộng và lược nên không nói đầy đủ số biến, phải dùng ý để lường, Nếu người quá lớn thì tụng đến một trăm biến, sau đó năm trăm biến, người nhỏ khiến đến một ngàn biến, đã gia trì xong, phải để tại bạch đàn, trước đã quy hoạch ở ngoài cửa đàn, người muốn vào Mạn-đồ-la, trước phải dùng nước này mà rảy giúp cho người ấy nghiệp chướng đời trước tiêu sạch, mới được thấy Mạn-đồ-la.

Lại trong bình khác điều hòa nước thơm dùng các thứ hương thơm như: Uất-kim, Long não, Chiên-đàn… cũng dùng Chân ngôn gia trì, trao cho khiến uống một ít, đây gọi là Kim Cang thủy. Dùng mật ấn gia trì, vì thế nên tội chướng sâu nặng trong địa ngục thảy đều trừ hết, trong ngoài đều sạch, có thể làm pháp thí. A-xà-lê nói đây chính là nước thệ nguyện, cũng thuận theo thế đế, giống như pháp tuyên thệ, khiến ở trước tất cả Thánh Chúng, nuốt nước thơm này tâm kia tự thệ, muốn giúp nguyện Đại Bồ-đề không lui sụt.

Lại nữa, dùng giới hương không chướng, với nước tâm trong sạch, như tự môn Hạ, người các cõi khác uống vào chắc chắn đều thành tựu Vô thượng Bồ-đề, tâm kia thanh tịnh như thế, thì sẽ nhập Bí Mật Mạnđồ-la. Bấy giờ, Kim Cang Bí Mật chử dùng kệ hỏi Đức Phật rằng: Nói tạo lập chi phần Mạn-đồ-la, trong kệ trước khen ngợi Đức Phật, cúi mong đấng Nhất Thiết Trí, là đấng bậc nhất trong các pháp, nói về thời phần. Thời phần này: tức là từ khi bắt đầu vẽ Mạn-đồ-la đến nay, chia ra giới hạn thời phần; kế nói đại chúng ở thời gian nào nhóm họp các điều lành. Nghĩa là tất cả Phổ Môn tùy theo loại thân trong Đại bi thai tạng vào thời gian nào khắp nhóm họp hiện ra trước Đại tràng, gia trì thần lực hiện ra tôn nghiêm. Nếu đệ tử các căn thanh tịnh bén nhạy, phải vượt qua căn cơ sâu xa, có khi vào thời gian này, sẽ đích thân thấy Vô biên Thánh Chúng, như người ngồi trong hội Linh Sơn, đồng thấy các Đức Phật phân thân trong ba lần biến đổi Tịnh độ, không khác nhau.

Phải biết lúc bấy giờ, chính là A-xà-lê Mạn-đồ-la, khi truyền trì lời chân thật, thực hành việc Như lai, do đó nói là ân cần trì Chân ngôn.

Nói kệ này rồi, bấy giờ, Đức Thế-tôn bảo Trì Kim Cang Tuệ rằng: Thường phải ngay trong đêm này, mà làm Mạn-đồ-la. Nghĩa là trong đêm thứ bảy này, khiến pháp sự đều xong, trong đó từ sau khi mặt trời lặn, đến khi mặt trời mọc trở đi, đều gọi là đêm, bắt đầu vào phần đêm thì phải vẽ bản đồ các tôn vị, an trí đầy đủ các vật cúng dường, trước khi mặt trời chưa mọc phải phát khiển cho xong, nếu trái với pháp này thì sinh chướng ngại, cho đến khiến chỗ đã nương ở cũng không được an lành, nhưng trong Bí Mật giải thích, chính lấy đạo cơ hỷ hội làm thời, hoặc đem phương tiện gia trì, rút ngắn trăm kiếp thành một đêm, hoặc kéo dài một đêm thành trăm kiếp, dài ngắn do duyên, không có giới hạn chắc chắn.

Nếu A-xà-lê thiển hạnh thì phải nương vào pháp tắc đầy đủ, ở trong phần ban ngày, liền phải trụ tính giới hạn, dùng bạch đàn… định sơ về phần đoạn hình vị của chư tôn, đến mặt trời sắp lặn, sắp sẵn trước hương, hoa, đèn, đuốc… đều phải cho xong. Cù-hê chép: Ở một chỗ phương Bắc của Mạn-đồ-la, dùng màu trắng mà vẽ chân ngôn biện sự để dứt trừ các nạn, đặt các vật cúng.

A-xà-lê nói: Nếu không thể trong một đêm mà vẽ đầy đủ các tôn vị thì từ ngày thứ năm thọ trì đất về sau, dần dần theo thứ lớp mà làm, đối với lý không ngăn ngại, lại riêng có ba thứ phương tiện ấn tự tôn hình, như văn dưới sẽ nói. Kinh nói: A-xà-lê truyền pháp đã biết thời phần thì hiểu khuôn mẫu để tạo lập, đến ngày vào, A-xà-lê và đệ tử trợ giúp đúng như pháp tắm gội xong, mặc áo mới sạch khởi tâm đại bi, đem những vật hiến cúng đến chỗ Mạn-đồ-la, trước phải mỗi thứ đầy đủ pháp gia trì, như trong thứ lớp cúng dường đã nói, sau phải đúng như pháp giữ gìn tự thân, gọi đệ tử sở độ, rảy dùm nước thơm điều khiến theo lớp mà ngồi một chỗ, sau đó A-xà-lê đến trước cửa đạo tràng, vận tâm khắp cả, cúi đầu đảnh lễ tất cả như Phật trong mười phương, cũng như trên đã nói, sau đó giữ chỉ năm màu, hướng đến Mạn-đồ-la đứng trên ngôi thứ mà đội trên đầu, tiếp theo quán thân mình là Tỳ-lô-giá-na, kinh cho rằng Đại Tỳ-lô-giá-na tự làm gia trì. Vì sao? Vì Đại Nhật Như lai là Đại bi thai tạng A-xà-lê này, vì thế nên nếu khi hành giả làm việc A-xà-lê thì phải dùng tự thân làm Tỳ-lô-giá-na. Nếu khi làm các công việc duyên Mạn-đồ-la thì đem tự thân làm Kim Cang Tát-đỏa, phương tiện gia trì này như văn dưới và trong pháp cúng dường có nói rõ.

Lại nữa, hành giả nên biết tám vị hộ phương, hễ có làm Mạn-đồ-

la thì theo đây mà chuyển, phương Đông Nhân-đà-la thứ lớp tùy chuyển đến, phương Nam Diệm-ma-la, phương Tây Phạ-lỗ-noa, phương Bắc Tỳ-sa-môn, phương Đông Bắc Y-xá-ni, Đông nam là Hộ-ma, Tây nam Niết-lý-để, Tây bắc là Phạ-sưu, phương trên là chư Tôn, thường ở bên phải trời Đế-thích, phương dưới chư Tôn thường ở bên trái Long Tôn. Thượng nghĩa là ở trên hư không, hạ nghĩa là ở dưới mặt đất. Lại vây quanh trong thai tạng, ba lớp giới thành, đều đã làm mốc trước, khiến phương, góc đều nhau, định trước ngôi thứ, muốn khiến ngôi thứ Đại Nhật Như lai, phải ở trung tâm do năm thứ báu nhóm họp, đến khi các tướng của bản đồ này, A-xà-lê trước đến phía Nhân-đà-la đúng như pháp làm lễ, sau ở hỏa phương đứng hướng về phương Bắc, các đệ tử giúp đỡ ở tại Y-xá-ni (phương Bắc), hướng vào giữ gìn Tu-đa-la chắc chắn ở ngoài giới, đệ tử kế đó phải nhiễu quanh bên phải đến Niết-lýđể (góc Tây Nam).

Sư cũng quay vòng bên phải đến phía Tây mà hướng vào giữ gìn (Tu-đa-la). A-xà-lê sau lại nhiễu quanh bên phải đến phương Phạ-sưu (Tây bắc), đệ tử cũng quay vòng bên phải đến phương Bắc mà đối trì, đệ tử lại nhiễu quanh đến Y-xá-ni (Đông bắc), thầy cũng quay vòng bên phải hướng về phía Đông mà đối trì, hễ xong một vòng, đều phải cùng nhau ở giữa hư không ngay thẳng ngang nhau. Đến vòng thứ hai cũng xoay về bên phải như trước, lần lượt gom lại để làm ranh giới phương hướng, sau lại chuyển định bốn duy. A-xà-lê lại phải đi nhiễu theo chiều bên phải để đến Niết-lý-để, đệ tử trước ở Y-xá-ni, quay bên phải cùng hướng vào nhau mà trì, đệ tử sau đó lại đi nhiễu theo chiều bên phải đến phương Phạ-sưu, thầy liền quay về bên phải đến phương Hộ-ma, đệ tử cũng quay về bên phải, hướng vào nhau giữ gìn, đều khiến phải cùng nhau ở giữa hư không, quyết định ngôi thứ, đệ tử sau lại đi nhiễu theo chiều bên phải đến Niết-lý-để, thầy liền xoay bên phải đến Y-xá-ni, đối lập nhau mà gom lại, đệ tử kế lại đi nhiễu theo chiều bên phải đến phương Hộ-ma, thầy liền quay bên phải đến phương Phạsưu cũng đối lập nhau. A-xà-lê nói: Kia là bốn phương, mười chữ ranh giới phương hướng. Kinh tuy không nói nhưng lý chắc chắn có, cũng phải xoay bên phải đối nhau gom lại mà định. Như thế đã định giới bên ngoài và tướng tám phương xong.

Kế đến phải vào trong, trước định giới bên ngoài trong thai, cũng như trước lần lượt gom lại làm tướng bốn phương, tướng tám phương kia đã định, không phải làm lại, sau đó định lớp giới bên ngoài thứ nhất, tiếp theo định lớp giới bên ngoài thứ hai, cũng giống như phép tắc trong Thai, lượng rộng hẹp của kia đều phải xoay vần phân nửa, giả sử trong Thai tạng mỗi bề rộng tám thước, lớp thứ nhất phải rộng bốn thước, lớp thứ hai phải rộng hai thước, lớp thứ ba phải rộng một thước, A-xà-lê nói: Gốc pháp như thế, nếu sợ lớn nhỏ cách xa nhau, phải đem ý hòa nhau, đối với lý không lỗi, chia như vậy xong, lại ở mỗi lớp chia làm ba phần.

Một phần gần phía trong hơn hết của kia, là đường người đi khắp cả, do đó nói chỗ Phật tử hành đạo, sau một phần là chỗ an trí các vật cúng dường, tiếp đến một phần ở ngoài là an trí chỗ ngồi của các tôn vị, vì thế hai phần này đều là chỗ an trí ngôi thứ của Thánh, Tiên. Kế tiếp ở ngoài đây lại làm ranh giới vòng tròn, ở trong vị trí hư không, phải vận dụng tâm quán sát tùy theo phương hướng kia, chia ngôi thứ các tôn vị phù hợp với nhau đều thỉnh cúng dường, vì sao? Vì A-xà-lê gặp việc có sự quên lầm, an trí các tôn vị hoặc không đủ khắp cả, các ngài đáng thỉnh mời mà không có ngôi bậc, đều phải vận dụng tâm ở trong đây cúng dường.

Về pháp chia ba phần ngôi thứ này: Trước ở trong giới bên ngoài lớp thứ nhất, tùy ý lấy một phần nhỏ làm ranh giới, lượng rộng hẹp của kia, phải dùng ý mà chia, mới được thông suốt chỗ ngồi, trong ranh giới này, phải chia đều làm ba phần, trước phải quy định chỗ ngồi chư tôn, chia nội giới xong, sau mới chia giới hạn ở giữa để hành đạo cúng dường, lớp thứ nhất như thế đã xong. Kế là lớp thứ hai, cũng từ phải khéo thông đạt ngoài hướng vào trong, dần dần theo thứ lớp mà chia. Kế là lớp thứ ba cũng như văn trên đã nói, từ vốn Đại Nhật Như lai, v.v… trở xuống là ánh sáng, đây là vị của lớp thứ ba, từ rốn trở lên cho đến cổ họng phát ra ánh sáng, là vị của lớp thứ hai, từ cổ họng trở lên cho đến ánh sáng của tướng Đảnh, là vị của lớp thứ nhất. Trong đó thai tạng tức là tám cánh hoa trong tự tâm của Tỳ-lô-giá-na, càng kiến lập đệ tử trong mạn đồ-la Kim cang. Phải khéo thông đạt Chân Ngôn, xấp sỉ với thầy thì có thể cùng giúp đỡ không bị sót, mất, nếu người không được như thế, chỉ nhận rồi liền như pháp quán đảnh, gặp việc chỉ trao, thực hành.

Nếu lại không có người này thì phải đặt cái cọc mà làm, trước ở hỏa phương dưới ngôi thứ của thầy đặt cái cọc, sau ở phương Y-xá-ni cũng đặt cọc để kéo chỉ, lúc ấy thầy trước hết tâm nhớ cái cọc ở hỏa phương này là ngôi thứ của Sư, sau đó từ Y-xá-ni dẫn kéo chỉ đến Niếtlý-để, các phương khác y theo đây mà làm có thể biết. A-xà-lê lại nói: Muốn cùng kéo chỉ, trước phải chọn lấy đệ tử nào muốn quán đảnh, trước dùng nước thơm gia trì cho những người cùng làm việc. Đàn vị đã vẽ, hãy lấy vật che lại chớ để cho thấy. Phương… có bốn cửa: Nghĩa là mỗi tầng của viện đều đặt bốn cửa, khiến cho bên trong đều nhau, mở hướng Tây một cửa để thông ra vào, các cửa khác lấy chỉ làm ranh giới cắt ngang.

Cù-hê chép: Hễ các phương mở cửa, đều tùy theo phương góc kia rộng hay hẹp, Y theo làm chín phần, lấy một phần làm cửa, tám phần còn lại thì ở hai bên phải trái của cửa đều được bốn phần, chỗ cửa ra vào khiến làm hơi rộng, còn các cửa khác, dùng bột màu trắng vẽ làm cửa đóng.

A-xà-lê nói: Dùng chỉ Kim Cang làm ranh giới cắt ngang xong, giống như Kim Cang không được vượt qua, nếu vượt qua phạm Tammuội-da. Lại, văn kinh cửa chung ở hướng Tây, nếu có nhân duyên đến các phương khác, đối với lý không có lỗi. Ngoài ra như văn dưới sẽ nói. Thành tâm tha thiết, vận dụng khắp các Thánh chúng Tôn giả: Nghĩa là trước khi vẽ bản đồ phải trụ trong Du-già, quán mỗi mỗi hình sắc, tướng mạo, oai nghi, tánh hoại, tòa ngồi, các ấn của đại chúng hội Mạn-đồ-la này, thảy đều hiện ra đầy đủ rõ ràng, sau đó dùng vô lượng tâm ân cần cung kính, mà vẽ, cho đến lượng lớn nhỏ, thưa dầy cũng phải làm cho ổn thỏa tương xứng, cho nên nói tạo các tướng như thế, đều khéo phân biệt. Sen trắng mầu nhiệm trong tâm ấy: Đây là bản tâm của chúng sinh, là cờ nêu bí mật pháp mầu hoa Phân-đà-ly, đài hoa tám cánh, tròn đầy đều đặn, giống như hình dáng tròn đầy thích đáng, đài hoa sen này là tướng thật trí tuệ tự nhiên, cánh hoa sen là Đại Bi phương tiện, chính là cho tạng này là thể của Đại bi thai tạng Mạn-đồ-la, ba lớp khác của kia là theo đây tự chứng công đức mà lưu xuất ra các Thiện tri thức nhập pháp giới môn. Bốn cách ở phương chính là bốn trí của Như lai, bốn cánh ở góc là bốn hạnh của Như lai, căn cứ vào đây hiện tám thứ Thiện tri thức, mỗi vị giữ Kim Cang tuệ ấn, do đó nói khắp các khe mọc ra các cánh.

Mười sáu pháp như thế, mỗi pháp đều sánh bằng pháp giới, cho đến không có chỗ nào không bằng nhau, dù chỉ một phần nhỏ, cho nên tiêu tướng kia cũng cùng phù hợp sâu sắc, lược nhiếp muôn Đức Như lai, dùng làm mười sáu ngón tay, kéo dài ra thì vô lượng, vô biên, do đó Mạn-đồ-la này, lượng rất nhỏ chừng mười sáu ngón tay, lớn thì không giới hạn. Tua nhị là tất cả Đà-la-ni môn, Tam-muội Môn, sáu Độ, mười tám Không… như đã nói trong kinh Đại Bát-nhã, từ mỗi tua bông sen này dùng thần lực che chở nên hiện ra một loại quyến thuộc trang nghiêm trong ba lớp Mạn-đồ-la, đây là pháp bí truyền của Như lai, không thể hiển bày bằng giấy mực, cho nên gởi gắm trong đồ tượng để chỉ bày cho người tu hành, nếu người được ý sâu sắc, tự sẽ im lặng hiểu biết.

Từ trong đài hoa này sẽ rõ tướng Đại Nhật Như lai gia trì, nghĩa ấy như trước đã giải thích. Còn lại bí mật bát ấn hạ phẩm và bản đồ sẽ nói. Kế là nội viện ở phương Đông, đứng trên Đại Nhật Như lai, vẽ làm ấn Nhất thiết biến tri thành hình tam giác sắc nhọn hướng xuống dưới toàn màu trắng, có vầng lửa bao quanh, ở trên hoa sen trắng, tức là ấn rất mạnh mẽ của tất cả Như lai trong ba đời mười phương, cũng gọi là tâm ấn các Đức Phật.

Tam giác: nghĩa là hàng phục và trừ chướng, tức là Đức Phật ngồi ở Bồ-đề Đạo Tràng dùng thế lực mạnh mẽ, hàng phục bốn ma được thành chánh giác.

Trắng sáng: Là màu sắc Đại Từ Bi. Như lai có sức sư tử mạnh mẽ, đại tinh tấn, chính là nhân duyên việc này, cho đến phát ra ánh sáng Đại Bi thường trùm khắp pháp giới, do đó nói khắp tất cả.

Kế là Đại Cần Dõng ở phương Bắc, cho đến ở Bắc duy đặt hư không nhãn, tức là Phật Mẫu Tỳ-lô-giá-na, nghĩa Phật mẫu như trong phẩm Phật Mẫu của kinh Bát-nhã có nói rộng. Vàng thật là thể tướng thật như như; rốt ráo tịnh cú: là tô điểm bên ngoài của giáo Môn kia, cho nên nói lụa trắng dùng làm y phục, khi tất cả lời nói rộng dứt thì tâm mặt trời sánh sáng suốt, không chỗ nào không chiếu, giống như ánh sáng mặt trời, người nhất tâm khéo điềm tĩnh mới có thể thấy. Vì thế ngọn cờ kia, giống như hình tượng Thiên nữ trụ trong Chính thọ.

Kế là Đại Cần Dõng ở phương Nam cho đến Nam duy làm ấn Chân-đà Ma-ni của các Đức Phật, Bồ-tát, đây là chỗ nhóm họp vô biên hạnh nguyện của tâm Bồ-đề thanh tịnh, thường hay mưa khắp tất cả tài bảo cho thế gian và xuất thế gian. Đều từ tánh tịnh trong đài hoa sen hiện ra vật báu như thế, do đó nói trụ trên sen trắng.

A-xà-lê nói: Đây là chung cho tất cả ấn, cũng có thể đối với các phương hướng đều an trí. Nếu các Đức Phật, Bồ-tát, trong kinh không nói ấn tướng gia trì, cũng cầm hạt ngọc quý vô giá này, đều được. Tóm lược cả lớp thứ nhất này, phương trên là thân Phật các đức trang nghiêm, phương dưới là Phật Trì Minh sứ giả, đều gọi là Bộ Môn Như lai, hướng phải là Như lai Đại Bi Tam-muội, có công năng nuôi lớn muôn việc lành nên gọi là Liên Hoa Bộ, hướng trái là lực dụng Đại Bi của Như lai, có công năng phá trừ ba chướng, do đó gọi là Kim Cang Bộ.

Vì thế cho nên nhập tự môn A tất cả các pháp không sinh, đó nghĩa là Pháp thân, nhập tự môn A tất cả các pháp không nhiễm trước, nghĩa là hoa sen, nhập tự môn phạ tất cả các pháp lìa ngôn thuyết, đó nghĩa là Kim Cang, như trong phẩm Tự Luân ở dưới, dùng ba chữ này thu nhiếp tất cả Bách Minh, là ý ở đây. Kinh chép: Bên phải Đại Nhật đặt Đại Tịnh tấn Quán thế tự tại, tức là Bộ chủ Liên hoa. Nói Như lai quán sát rốt ráo Mười câu duyên sanh được thành Liên hoa phổ nhãn này, vì thế gọi là Quán tự tại, căn cứ vào hạnh của Như lai, cho nên gọi là Bồ-tát. Đảnh hiện vô lượng thọ: là nói quả cuối cùng của hạnh này, tức là trí phổ môn phương tiện của Như lai, hình tượng này và thân Bồ-tát, đều hiện ra dung mạo pháp lạc vui vẻ mỉm cười, thân sắc quán tự tại, giống như trăng sáng, hoặc như thương khư (loa bối) tức là vỏ ốc tốt đẹp hơn cả, hoặc như hoa Luân-na, hoa ấy mọc ở phương Tây cũng rất trắng đẹp, tổng quát ba thí dụ này như thế, nói là kia tốt sáng hơn cả và thấm suốt rõ ràng đến bên trong.

Kế là ở bên phải Quán Âm, vẽ Bồ-tát Đa-la, các Bậc Thánh mặt đều hướng về Đại Nhật Thế-tôn. Nay nói bên phải Quán Âm, tức là chỗ ngồi ở phương Tây, những vị khác đều bắt chước theo đây; đây là Tammuội Quán tự tại, cho nên có hình tượng người nữ.

Đa-la nghĩa là Nhẫn (mắt).

Hoa sen xanh: Nghĩa là trong sạch không dơ bẩn, do phổ nhãn như thế nhiếp thọ chung sinh đã không thời trước, cũng không thời sau, do đó làm hình tượng người nữ trung niên, không quá già, quá trẻ. Xanh là màu hàng phục; trắng là màu Đại Bi, hai màu sắc nhiệm mầu ở trong hai dụng, do đó khiến hai màu hòa hợp, vì nghĩa như vậy cho nên không xanh, không trắng; Tượng kia chắp tay, trong tay cầm hoa sen xanh này, tay và mặt đều hướng về Quán Âm, hình dáng như mĩm cười, khắp thân ánh sáng tròn đầy như màu vàng ròng, mặc y phục màu trắng, đầu có búi tóc làm hình tóc tự nhiên, không giống búi tóc đứng đầu của Đại Nhật. Bên trái Quán Âm đặt Bậc Thánh Tỳ-câu-chi, thân ngài có bốn tay, một tay bên phải mang tràng hạt buông xuống, một tay bắt ấn Thí nguyện; một tay bên trái cầm hoa sen, một tay cầm quân trì. Mặt có ba mắt, như tượng Ma-hê-thủ-la, đầu đội mũ tóc, như hình mũ búi tóc của Tỳ-lô-giá-na, nói Trì: Như nói đất giúp đỡ muôn vật, tức là nghĩa chịu trách nhiệm chuyên chở. Thân ngài trong sáng sạch ánh sáng tràn đầy, trong ánh sáng có đủ ba màu vàng, đỏ, trắng, không hoàn toàn trắng, hoàn toàn đỏ, hoặc vàng, vì thế nói là không chính. Vàng là màu tăng thêm lợi ích, trắng là màu trừ nạn, đỏ là màu hàng phục, vì trong ánh sáng Tam-muội này gồm đủ ba năng lực, vì thế cho nên dùng làm ngọn cờ.

Tiếp đến, gần bên phải Tỳ-câu-chi vẽ tôn vị Đắc Đại Thế-tôn, như ở đời, vị vua, đại thần, uy quyền thế lực tự tại gọi là Đại Thế. Nói vị Thánh này, cho đến được giai vị Đại Bi tự tại như thế, cho nên lấy làm tên. Sở dĩ cầm hoa sen chưa nở là vì như đài hoa thật trí Tỳ-lô-giána đã thành quả rồi, lại giữ gìn hạt giống như vậy, tan khắp trong nước tâm của tất cả chúng sinh, còn mọc hoa sen chưa nở, dấu vết của tôn vị này giống ở chỗ đó, cũng có thể che chở khắp mầm lành của tất cả chúng sinh, không để hư hoại, niệm niệm lớn thêm, tức là Liên Hoa Bộ Trì Minh Vương.

Tiếp đến ở bên trái Minh Vương, Vẽ Minh phi Da-du-đà-la, Hán dịch là Trì danh xưng giả; thân màu vàng ròng, dùng các anh lạc tô điểm trang nghiêm, như tượng Thiên nữ, tay phải cầm cành hoa tươi đẹp mầu nhiệm, quả lá xen kẽ nhau, cành lớn tươi tốt, hoa kia hoặc mới có nụ, hoặc có cái sắp nở, hoặc có cái đang nở, hoặc năm cái, hoặc mười, cho đến vài chục cái; tay trái cầm Bát dận ngộ, cũng là hoa đẹp nhất ở phương Tây, vì Đắc Đại Thế Minh Vương là chủ an lập hạt giống Bồđề của tất cả chúng sinh, lại Minh Phi này là chủ chứa đựng và sinh ra các thứ công đức trong đây, do đó cách phục sức và ngọn cờ của ngài đều cùng tương ưng với nghĩa này, bên phải Đa-la là Đặc-bán-noa-laphạ-tất-ninh, Hán dịch là Bạch xứ, vì tôn vị này thường ở trong hoa sen trắng, cho nên lấy làm tên, cũng đội mũ tóc tự nhiên, mặc áo hoàn toàn bằng lụa, tay trái cầm hoa sen nở, từ chỗ rất trắng sạch này sinh ra Phổ Nhãn, vì thế Tam-muội này gọi là Liên hoa bộ mẫu.

Tiếp theo ở dưới Bồ-tát Quán tự tại, đặt Hà-da-yết-lỵ-bà, Hán dịch là Mã đầu, thân ngài không vàng không đỏ, như màu mặt trời vừa ló dạng, dùng hoa sen trắng làm anh lạc… trang nghiêm thân, ánh sáng uy nghiêm chói lọi như bờm sư tử, móng tay dài nhọn, hai nanh mọc ra chỉa thẳng lên giống như lông cổ sư tử, có bộ dạng gầm thét rất giận dữ, đây là Liên Hoa Bộ phẫn nộ Trì Minh Vương. Giống như ngựa quý của Chuyển luân vương đi xem xét bốn Châu, đối với bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu tâm đi không dứt, năng lực tinh tấn của các Đại Bồ-tát cũng giống như vậy.

Do đó, được thế lực oai mãnh như thế, ở trong chướng nặng sinh tử không tiếc thân mạng; phần nhiều bị khuất phục, chính là tâm Đại Bi trong sạch, vì thế dùng sen trắng anh lạc để tự trang nghiêm thân thể,

đã đúng Như Pháp kiến lập các quyến thuộc Quán Âm xong, tiếp theo ở bên trái Như lai Đại Nhật, an trí Kim Cang Bộ Minh Vương, có chỗ nói Chấp Kim Cang có khả năng làm thỏa mãn tất cả nguyện, màu sắc của ngài giống như hoa Bát-dận-ngộ, đó là màu vàng nhạt, hoặc như màu lục quý báu, đó là báu lục mạt yết, giống như hư không hiện sắc, lấy màu sắc pháp giới thanh tịnh hòa hợp với Kim Cang trí thể, do đó thân kia vàng nhạt, trí thân như thế, giống như hư không không thể phá hoại, tất cả mọi người không thể hàng phục, do đó dùng hiển sắc hư không làm cờ nêu.

Ý này nói: Nếu pháp cho đến phần nhỏ giống như cực vi (rất nhỏ) nhưng mà người đắc thì đó là vô thường thay đổi, các hành thuận theo, do đó trí không rốt ráo, ở trong tánh vững chắc là bậc nhất. Mật ấn sở trì, chính là năm bộ phận Kim Cang. Năm trí Như lai đều gồm hai dạng quyền, thật, mà dùng Kim Cang Tuệ Thủ giữ gìn trong đó, cho nên nói bên trái Bạt-chiết-la, Ấn này phải dùng ánh sáng trên búi tóc vây khắp chung quanh, vì thế nói chung quanh có vầng lửa, đầu đội mũ ba ngọn núi báu hình như chữ Sơn, giữa chóp núi như hình trăng non nằm giữa, dùng các thứ tốt đẹp quý báu và tất cả anh lạc trang nghiêm thân. Ý này nói: Bát-nhã ba-la-mật đến trong tâm Quả địa, chuyển gọi Nhất thiết chủng trí, do đó nói đầu đội mũ các báu, do diệu tuệ này rộng trải qua tất cả các pháp, tự tại xoay chuyển sinh ra vô lượng pháp giới trang nghiêm, vì thế nói tô điểm trang nghiêm lẫn nhau, rộng ra số nhiều vô lượng.

Kế là bên phải Kim cang Bộ Chủ đặt Mang mãng Kê, đó là Kim cang Bộ Mẫu, cũng cầm chày Kim cang trí, dùng các anh lạc trang nghiêm thân thể, đây là sinh ra Kim cang trí lực Tam-muội, có chỗ nói Kim cang Tam-muội. Kế là bên phải bộ Mẫu đặt Đại Lực Kim cang Châm, Tố Chi dịch là Kim cang Châm, cầm một phần Bạt-chiết-la để làm cờ nêu, Bạt-chiết-la này, là tuệ một tướng một duyên cứng nhọn, dùng dây tuệ này sâu suốt các pháp không pháp nào không suốt qua, do đó gọi là Kim cang Châm, ở dưới vị này có hai sứ giả đều là hình người nữ, quỳ gối ngửa mặt lên mỉm cười, hình dáng kia nhỏ mà đầy đặn, màu sắc vàng nhạt, lấy Kim cang làm mốc, đó là Tam-muội phá hoại chướng nặng, sau đó ở bên trái Chấp kim cang đặt Kim cang Thương-yết-la, Hán dịch là Kim cang Tỏa, ấn kia giữ gìn nối liền như khóa xích, hai đầu đều làm hình Bạt-chiết-la, dưới Kim cang Tỏa cũng có hai sứ giả nữ, không khác sứ giả Kim cang Châm, đem trí ấn này nhiếp trì tất cả chúng sinh ngang bướng khó giáo hóa, khiến không lui sụt Vô thượng Bồ-đề, vì thế lấy làm tên.

Lại nữa, ở dưới chấp Kim cang đặt phẫn nộ Trì Minh, hàng phục tất cả những ai làm chướng ngại lớn trong ba đời, hiệu là Nguyệt Yểm Tôn, mặt có ba mắt, bốn răng nanh mọc chỉa ra, như màu mây khi mùa hạ bắt đầu mưa xuống, có dáng vẻ cười lớn, lấy Kim cang báu làm anh lạc, đây là người trì Kim cang, dùng thế lực uy mãnh của vô lượng môn nhiếp hộ chúng sinh sinh trong Tam-muội, vô lượng quyến thuộc tự vây quanh, thảy đều thấp hèn nhưng đầy đủ, có dáng vẻ giận dữ, cho đến một thân có trăm ngàn tay, cầm các thứ binh khí, dựng lên như rừng, nếu người không thể vẽ hết, phải làm một, hai sứ giả cho đến năm hoặc sáu, đều phải trụ trên hoa sen, ý nói trong tâm hoa sen này, pháp như thế thành tựu tất cả năng lực đại tinh tấn mạnh mẽ, không từ chỗ khác đến, đã kiến lập các quyến thuộc Kim cang Tát-đỏa xong.

Sau, đến phương Tây vẽ Trì Minh Sứ Giả của Như lai và các chúng Chấp kim cang, có các hình sắc tánh loại các thứ mật ấn, lá cờ, đều ở trong bản đồ sinh ra, đó là ánh sáng Đại Bi của mỗi tôn vị đều cùng khắp pháp giới, hiện ra thân, miệng, ý mật cũng khắp pháp giới, do đó nói khắp phát ra ánh sáng tròn đầy, vì các chúng sinh. Đối với hạ vị nương theo phương Niết-lý-để, vẽ Minh Vương Bất Động, sứ giả Như lai có hình đồng tử, bên phải cầm ấn Đại Tuệ lực, bên trái cầm dây lụa, đầu có búi tóc, tóc rũ xuống vai trái, lấp kín mắt trái, xuống đến răng cắn môi trên bên phải, tượng kia, môi dưới bên trái hơi lật ra ngoài, ngồi trên tảng đá, thân kia thấp nhưng đầy đặn mập mạp, tỏ vẻ rất giận dữ. Đó là mật ấn và tướng ngọn cờ. Tôn vị này ở đài hoa của Như lai Đại Nhật, thành Phật đã lâu, dùng Bản thệ nguyện Tam-muộida thị hiện hình tướng mới phát đại tâm nên các tướng không đầy đủ, làm người giúp việc để Như lai sai khiến làm các công việc, do đó cầm mũi nhọn và dây lụa, vâng lệnh giận dữ của Như lai đều muốn sát hại chúng sinh.

Dây lụa là tứ nhiếp phương tiện trong tâm Bồ-đề, do sự trói buộc này không hàng phục được, nên dùng đao tuệ sắc bén, chặt đứt mạng sống nghiệp thọ vô cùng của họ, khiến được sinh khởi Đại không. Nếu hạt giống nghiệp dứt trừ thì lời quen nói rộng cũng đều tiêu trừ, thế nên bịt kín miệng kia, chỉ một mắt thấy, ý nói Như lai dùng các mắt quán sát tất cả chúng sinh không thể rộng rãi sâu xa, cho nên Tôn vị này hễ sự nghiệp đã làm, chỉ vì một việc nhân duyên này; giữ gìn tảng đá chướng nặng kia, không để lay động, trờ thành tâm Bồ-đề thanh tịnh núi chúa Diệu cao, đây cũng là thành tựu các việc Chân Ngôn, vì năng lực Đại tự tại của năm trí Như lai đã rửa trừ phá diệt, thảy đều đến “quả địa” trang nghiêm, chẳng những không có chướng ngại mà còn riêng chứng “Không”, do đó trì ấn Ngũ cổ; đầu đội mũ báu mà ở trong Phong luân, tức trong kinh Pháp Hoa, tất cả việc làm đều vì khai tri kiến Phật, ý khiến được thanh tịnh.

Đã an lập chu Tôn thượng thủ ở Mạn-đồ-la thứ nhất xong. Kế là đến Viện thứ hai vẽ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. A-xà-lê nói: Trong viện thứ hai này là ẩn Mật Ngữ, nếu từ trong đến ngoài thì phải lấy quyến thuộc của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni làm viện thứ ba. Nay thì lấy Tỳ-lô-giá-na và quyến thuộc trong pháp môn làm thứ nhất, quyến thuộc sinh thân Thích-ca Mâu-ni là thứ hai, các Bồ-tát đối với Bi, trí trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sinh cho nên làm viện thứ ba. Sỡ dĩ văn giúp nhau như thế vì đây là kho bí mật của Như lai, để ngăn ngừa những người khinh lờn pháp không theo thầy, người thọ làm rối loạn văn kinh, cho nên phải cùng truyền cho nhau bằng miệng.

Trong cửa đầu ở phương Đông, trước đặt tượng Phật Thích-ca Mâu-ni, thân màu vàng ròng, và đầy đủ ánh sáng, ba mươi hai tướng tốt, đắp ca-sa có màu Càn-bà, ngồi trên tòa làm bằng hoa sen để nói pháp, lấy tay trái cầm vạt ca-sa, giống như tượng vua A-dục ngày nay, tay phải dựng đứng các ngón, dùng không thủy luân giữ nhau, đó là cờ nêu của kia. Hoa sen trắng này tức đài tịnh pháp giới tạng trong đây, Thế-tôn vì khiến giáo pháp này truyền bá rộng rãi, nên đem ngọn cờ sinh thân này mà giảng nói, nhưng cùng bổn thân pháp giới không hai không khác, vì thế nói ở kia mà nói pháp.

Lại ở phía Bắc Thế-tôn, an trí Phật nhãn, cũng là Phật mẫu, Thíchca Mâu-ni, Hán dịch là Năng tịch Mẫu. Phải làm cho thế gian ưa thích nhìn thấy thân trang nghiêm không gì sánh bằng, khắp thân đều có ánh sáng tròn đầy, vui vẻ mỉm cười, đây là Như lai, sinh ra Tam-muội tùy loại sinh hình, Tam-muội này chính là lấy Đại Bi phổ Nhãn làm thể, quán sát chúng sinh đáng độ để dẫn dắt làm lợi ích, ánh sáng của mắt từ không chỗ nào không khắp, do đó nói thể ánh sáng thanh tịnh tròn đầy khắp cả.

Kế đến ở phía Bắc của Phật mẫu vẻ tướng ấn sợi lông trắng của Như lai, trụ trong hoa sen có màu thương khư (vỏ ốc) thân đầy ánh sáng, tay cầm hoa sen, như hình dáng mỉm cười, trong có ngọc quý Như ý, đây là do vô biên phước nghiệp mà Như lai nhóm họp mà thành, như Kinh Quán Phật Tam-muội… nói rộng, có thể đầy đủ nguyện của tất cả chúng sinh.

Lại ở phía Nam Đức Phật Thích-ca đặt ngũ đảnh Như lai.

  1. Bạch tán Phật đảnh.
  2. Thệ-da dịch là Thắng đảnh.
  3. Vi-thệ-da, ở đây dùng nhiều tên gọi, dịch là tối thắng đảnh.
  4. Đế-thù-la-thí, dịch là hỏa tụ đảnh, kinh nói Chúng đức, dịch đúng phải là Đại phần, đó nghĩa là đầy đủ đức lớn.
  5. Vi-cát-la-noa, dịch là Xả trừ đảnh, nghĩa là Xả bỏ tất cả phiền não, cũng là nghĩa phá vỡ, đây là năm trí cao nhất của Như lai Thích-ca, ở trong tất cả công đức, giống như Luân vương có thế lực lớn.

Hình dáng kia đều là thân Chuyển luân Thánh vương. Nghĩa là trên đảnh có hình nhục kế, trên đó lại có búi tóc, tức là búi tóc chồng lên, các tướng mạo khác đều giống như Bồ-tát, khiến rất trang nghiêm hoan hỷ, mật ấn sở trì như đồ tượng.

Kế là phương Đông, rất gần phương Bắc, sắp bày chúng Ngũ Tịnh Cư:

  1. Tự tại Thiên tử.
  2. Phổ hoa Thiên tử.
  3. Quang man Thiên tử.
  4. Ý sinh Thiên tử.
  5. Danh xưng viễn văn Thiên tử.

Phải theo thứ lớp mà sắp bày, ấn tướng kia đầy đủ như trong đồ tượng nói. A-xà-lê nói: Đây là ngũ Na-hàm Thiên tử, quá đây trở lên có chỗ Bồ-tát thọ chức vị Phật, cũng gọi là Tịnh Cư thiên, đa số là Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, đó thuộc về Viện thứ hai.

Không phải chỗ trong đây nói. Cõi trời này ở bên phải hào tướng ở phương Nam, lại vẽ tam Phật đảnh, thứ nhất tên là Quảng Đại Phật đảnh, thứ hai tên là Cực Quảng Đại Phật đảnh, thứ ba tên là Vô biên Âm Thanh Phật đảnh, hình tướng kia đều đồng với ngũ đảnh, là đứng đầu trong các đức ba bộ của Như lai.

Năm thứ đảnh Như lai kia, có năm màu sắc, đó là màu vàng ròng, màu càng nghệ, màu vàng nhạt, màu trắng tinh và màu trắng đục, trong đó màu vàng ròng và màu vàng nghệ giống nhau, nhưng màu vàng ròng sáng trong, còn màu vàng nghệ sáng trong hơi thẩm. Tam Phật đảnh thì có ba màu, đó là màu trắng, màu vàng và màu đỏ, đây là màu sắc gồm đủ Tiêu tai, Tăng ích và Hàng phục; tám Phật đảnh này đều có ánh sáng khắp thân, ánh sáng rất dày rộng, dùng các anh lạc trang nghiêm thân thể, do lực nguyện thệ xưa của Như lai, nên tất cả nguyện đều được đầy đủ.

Góc Đông Nam sắp bày các Chúng Hỏa Thiên trong ngọn lửa (Sơn), cổ và hai cánh tay đều có vẽ ba màu xám, tức là Bà-la-môn dùng ba ngón tay lấy xám, tự xoa vào thân tượng. Tất cả màu đỏ đậm, đương tâm có ấn tam giác, ở trong vòng tròn ngọn lửa, tay trái cầm tràng hạt tay phải cầm bình rửa, đây là một thân phổ Môn, vì dẫn dắt thu nhiếp nhà thờ thần lửa của Vi-đà Phạm Chí, phương tiện khai thi Vi Đà trong pháp Phật, cho nên chỉ bày đàn hỏa Đại tuệ này, ngọn cờ để tịnh tu phạm hạnh.

Sau đó, ở phương Nam bên phải Đại Nhật, vẽ Diệm-ma pháp vương, tay cầm ấn đàn-noa, tướng ấn, giống như hình cây gậy trên có đầu người, có hình dáng rất giận dữ, dùng trâu nước làm tòa, thân màu đen huyền, A-xà-lê nói: Khi nhỏ từng bị bệnh nặng rất mệt mỏi không còn thần thức, đi đến Minh Ty thấy pháp vương này, cùng nói năng với hoàng hậu, dung mạo rất từ nhẫn, nhưng ấn đàn-noa này, dùng hình tướng giận dữ ra sức tìm kiếm chúng sinh đời sau phạm tội, miệng phun ra hỏa quang rất khẩn thiết, và xem xét công nghiệp sau khi xuất gia, như thế im lặng không nói nữa, Diệm-ma vương và Hoàng hậu liền tìm lời lành dần dần khen ngợi, rất ân cần cung kính xin thọ giới quy y, nhân buông bỏ bèn trở lại, đến lúc gần chết, hai tay kia chỗ dây trói giữ còn vết bị thương, đủ tháng mới lành, phía Tây Diêm-ma làm sau khi Diêmma và sau khi chết, cũng làm hoàng hậu Diêm-ma.

Phía Đông làm Hắc dạ thần và Thất-ma-đạt-lý, Hán dịch là Thất mẫu, đều là quỹ dữ. Hình kia thảy đều màu đen, tiếp đến ở góc Tây nam vẽ Quỷ vương Niết-lý, hình cầm đao đáng sợ, đó là hộ phương Lasát vương, Phạ-lỗ-noa là phương Tây hộ phương Long vương, cầm dây lụa làm ấn, ở phương Đông phía Nam ngũ đảnh phải vẽ Nhân-đà-la chủ của Thích Thiên, ngồi ở núi Tu-di, Thiên chúng vây quanh, đầu đội mũ báu, thân mang các thứ anh lạc, trì Phạt-chiết-la và các quyến thuộc khác, nghĩa là phu nhân Xá-chi và sáu tầng trời cõi Dục… đầy đủ như trong bản đồ chỉ bày.

Ở phương Nam của quyến thuộc Thích Thiên, đặt chúng Nhật thiên, ở trong xe tám ngựa kéo và hai bà vợ ở hai bên của vị ấy, có chỗ nói Thệ-da-vi. Thệ-da, Hán dịch là hơn hết không có gì hơn nữa. Quyến thuộc thiên nhật sắp bày nắm giữ các ánh sáng mặt trời, Ánh-già ở phương Tây, Du-già ở phương Đông, Bột-đà ở phương Nam, Vật-lạctát-bát-để ở phương Bắc, Một-nhĩ-một-già ở góc Đông nam, La-hầu tại Tây nam, Kiếm-ba ở Tây bắc, Kế đô ở Đông bắc; lại ở phía Nam của Nam vĩ đặt Niết-già-đa, nghĩa là Thiên Cẩu.

Phía Bắc của Bắc vĩ, đặt Ốt-ca-ba-đa nghĩa là lưu hỏa. Phía bắc của quyến thuộc Thích Thiên ở gần trời Tịnh Cư, đặt Đại-phạm-vương, đội mũ búi tóc, ngồi trong xe do bảy con ngỗng kéo, có bốn mặt bốn tay, một tay cầm hoa sen, một tay nắm tràng hạt, trở lên là tay phải; một tay cầm quân trì, một tay nắm Úm tự ấn, trên đây là tay trái, ấn phải hơi cong ngón tay đầu, các ngón khác ngay thẳng, nghiên tay bấm vào mà làm hình dạng đang nói, đó gọi là người thanh tịnh bắt ấn cát Tường, ngoài ra các vị trời Tứ thiền đều sắp đặt bên trái của kia, ngũ Tịnh Cư thiên như Vô nhiệt… đều đặt ở bên phải vị ấy. Tỳ-ni nghĩa là quán sát nghi thức đắp mặc của trời Tịnh Cư mà chế ra mặc ba y cho ngay ngắn, nội y chính là giới. Gần cửa phía Tây đặt chúng địa thần (Các thần đất). Tiếp đến, ở phương Bắc đặt Tát-phạ-cát-phạt-để, Hán dịch là trời Diệu-âm-nhạc, hoặc gọi là Biện tài thiên, kế là phương Bắc đặt vợ của vị ấy.

Lại tiếp theo đó đặt Vi-sắt-nữu, xưa dịch là Tỳ-nữu, đây là trời Na-la-diên, và đặt trời Thương-yết-la, đây là Ma-hê-thủ-la, ở trong tất cả cõi có thế lực lớn, không phải chủ của tam thiên đại thiên thế giới. Văn dưới trong kinh lại có Lỗ-nại-la, tức là thân của Thương-yết-la phẫn nộ, đó là từ việc mà đặt tên.

Lại đặt trời Tắc-kiện-na, tức là vị trời Đồng tử, đều đặt vợ của vị ấy ở một bên. A-xà-lê nói: Đây là Thiên chúng phải ở hai bên Thích Phạm Vương thứ tự sắp bày. Trên đỉnh góc Tây Bắc đặt quyến thuộc của trời Hộ phương phong, phía Nam của cửa Tây, đối lại với Nhật thiên đặt Nguyệt Thiên, cỡi xe ngỗng trắng, ở hai bên vị ấy đặt hai mươi bảy ngôi sao và mười hai cung thần… lấy đó làm quyến thuộc, sau ở cửa Bắc nên đặt Tỳ-sa-môn Thiên vương, ở hai bên của vị ấy đặt tám đại tướng Dạ-xoa: Vị thứ nhất tên là Na-ni-bạt-đà-la, Hán dịch là Bảo Hiền. Vị thứ hai tên là Bố-lỗ-na-bạt-đà-la, Hán dịch là Mãn Hiền, thứ ba tên là Bán-chỉ-ca, xưa dịch là Tán Chi, thứ tư tên là Sa-đa-ký-lý, thứ năm tên là Hê-ma-pha-đa, tức là người ở núi tuyết, thứ sáu tên là Tỳ-sái-ca, thứ bảy tên A-tra-phạ-ca, thứ tám tên là Bán-già-la và Ha-lật-để-mẫu công đức Thiên nữ, văn kinh thiếu. A-xà-lê nói: Công đức Thiên theo Tỳ Samôn hiệp ở phương Bắc, nếu bản vị thì cũng có thể đặt ở phương Tây. Các những vị Đại Thiên thần này đều là các bậc Thiện tri thức, chúng sinh ở thế gian đều tùy theo nhân duyên tánh dục, tôn thờ cúng dường.

Tỳ-lô-giá-na vì muốn Phổ Môn thu nhiếp chúng sinh, nên khắp mọi nơi thị hiện đồng với thân của chúng sinh ở nơi đó, tức là lấy cờ nêu thế gian cùng biết, làm lá cờ bí mật của xuất thế gian, giống như hình tượng Đế-thích an trụ ở núi Chúa diệu cao. Nhân-đà-la Tam-muội của Như lai cũng lại không dời đổi nơi này, khai phát ra tâm Bồ-đề thanh tịnh núi Chúa diệu cao, các pháp môn khác so sánh đều như thế, không thể nói rõ. Nhưng hành giả tùy theo trong mỗi thừa kia, công đức thành tựu tự sẽ hiểu rõ.

Lại dưới tòa Phật Thích-ca Mâu-ni, phải làm phẫn nộ Trì Minh, bên phải hiệu là Vô Năng Thắng, bên trái hiệu là Vô Năng Thắng Minh Phi, và bạch sắc giữ đao ấn, quán Phật mà ngồi trong đó; nói Thần đất: Chính là Thần đất trong cửa Tây đã nói ở trước, phải ôm giữ bình quý, cung kính quỳ thẳng, trong bình ấy đặt các thứ: nước, đất và các hoa, ngoài ra như đồ tượng nói. Ở lớp thứ hai trong hai chái cung đặt hai vị Long vương, bên phải là Nan-đà, bên trái là Bạt-nan-đà, trên đầu đều có bảy đầu rồng, tay phải cầm đao, tay trái cầm dây lụa, nương mây mà an trụ, đây đều là điểm quan trọng trong Mạn-đồ-la, do đó nói hành giả Chân Ngôn, phải đem tâm không mê hoặc, nương theo thứ lớp mà làm.

Kinh chép: Các tôn vị thuộc họ Thích còn lại, chân ngôn và ấn đàn, tất cả pháp đã nói, thầy phải chỉ bày đầy đủ như: Phật, Bát, tích trượng, ấn… trong Thích-ca Bộ, các loại ấy rất nhiều, kinh không nêu đủ, nhưng theo phương này thì chỗ thiếu sót, xét chọn chỗ kinh khác nói liền theo đó để an trụ, dù có thiếu sót cũng không mắc lỗi. Nhưng trong kinh đã nêu ra các Tôn vị Thượng thủ… Chắc chắn mỗi tôn vị phải đúng như pháp mà vẽ, không được sai sót, Chư Tôn ở Kim Cang Bộ, Liên Hoa Bộ tại các phương, cũng so sánh với đây có thể biết. Trong kinh lại nói quyến thuộc Bồ-tát ở viện thứ ba, phải ngay trong cửa phía Đông của Đức Phật Thích-ca, vẽ Văn-thù-sư-lợi, thân màu vàng nghệ, đỉnh (đầu) có năm búi tóc thành hình đồng tử, tay trái cầm Nê-lô-bát-la, đó là cành hoa sen xanh nhỏ, trên hoa có ấn Kim Cang mỉm cười rất vui vẻ, ngồi trên đài hoa sen trắng, đây là cờ nêu bí mật của vị ấy.

A-xà-lê nói: Uất-kim chính là màu vàng sáng dùng để tiêu biểu cho Kim Cang trí tuệ sâu sắc, đầu có năm búi tóc: Là tiêu biểu cho năm trí Như lai thành tựu đã lâu, do bản nguyện nhân duyên, thị hiện làm thân đồng Chân Pháp vương tử. Sen xanh: Là các pháp Tam-muội không đắm nhiễm, do tâm “vô sở trụ” nên liền thấy tướng thật. Kim Cang trí ấn, hay đem ánh sáng thường tịch soi khắp pháp giới. Sở dĩ ngồi sen trắng là ý nói không khác trong thai tạng. Văn-thù ở phương Bắc phải vẽ Đồng tử Bồ-tát ánh sáng như mắt lưới, thân màu vàng ròng, tay cầm lưới báu, dùng các thứ anh lạc để trang nghiêm, ngồi trong hoa sen báu.

Văn-thù giữ diệu tuệ vô tướng, và lưới ánh sáng giữ muôn đức trang nghiêm, như trong luận Trí Độ đã nói: Dùng muối điều hòa các thức ăn, tăng thêm vị kia chứ không thể ăn lạt, do đó người xuất gia mất “phương tiện Bát-nhã”, riêng tu “Không tuệ” thì rơi vào đoạn diệt, thuần tu phước đức thì rơi vào có sở đắc, vì thế quán trưởng tử của Phật, là ý ở đây. Sau đó, làm năm sứ giả của Văn-thù, vị thứ nhất tên là Kếthiết-ni, thứ hai tên Ưu-ba-kế Thiết-ni, thứ ba tên Chất-đa-la, thứ tư tên là Địa Tuệ, thứ năm tên là Thỉnh Triệu, thứ lớp sắp bày ở hai bên Vănthù, vì mỗi vị đều giữ một trí Văn-thù.

Kế-thiết-ni nghĩa là tóc trang nghiêm. Ô-ba là người xấu ác. Vănthù dùng năm búi tóc biểu trưng cho năm trí, do đó vị Sứ giả này cũng lấy mỹ phát (tóc đẹp) làm tên.

Chất-đa-la nghĩa là Tạp sắc (nhiều màu sắc xen lẫn), dưới năm vị sứ giả kia, đều làm một vị theo thầy tu học, đều hướng đến vị Sứ giả kia, có dáng vẻ như đang vâng thọ lời dạy bảo, đều là Văn-thù Tammuội, vì thế kinh nói: Hầu hạ bảo vệ bậc Vô thắng trí, đến lớp thứ hai, ở phương trái Đại Nhật Như lai, vẽ Bồ-tát Trừ Cái Chướng. Theo phong tục ở phương Tây, hướng Đông để sửa trị, lấy hướng Đông làm phương bắt đầu, hướng Nam làm phương bên phải, Tây là phương sau, Bắc là phương hơn hẳn, nay đàn Mạn-đồ-la này, cửa ở hướng Tây cho nên Đại Nhật phải ở phương trái. Trong đồ tượng Bồ-tát Trừ Cái Chướng tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen đặt ngọc quý Ma-ni, tay phải bắt ấn thí Vô úy.

Bồ-tát này và các quyến thuộc, đều là đại Từ bi nhổ khổ trừ chướng môn, chính là lấy ngọc quý như ý trong tâm Bồ-đề này, thí cho tất cả chúng sinh không sợ, đầy đủ sở nguyện của họ.

Kinh chép: Xả bỏ hai phần vị, nên vẽ tám vị Bồ-tát: nghĩa là bên cạch Trừ Cái Chướng phải làm hai sứ giả, sau đó như thứ lớp của vị ấy đặt tám Bồ-tát, hễ sắp đặt các quyến thuộc đều khiến vị đầu tiên ở bên phải, vị thứ hai ở bên trái, vị thứ ba ở bên phải, vị thứ tư lại ở bên trái, cứ như thế một vị bên phải, một vị bên trái, theo thứ lớp mà đặt; nay trong tám vị Bồ-tát này trước đem trừ Nghi Quái đặt ở bên phải Trừ Cái Chướng, Thí Nhất Thiết Bố Úy ở bên trái.

Lại nữa, đặt Trừ Nhất Thiết Ác Thú ở bên phải Trừ Nghi Quái, đặt Cứu Ý Tuệ ở bên trái Thí Vô Úy.

Lại nữa, đặt Bồ-tát Bi Niệm ở bên phải Trừ Ác Thú, đặt Bồ-tát Từ Khởi ở bên trái Cứu Ý Tuệ.

Lại nữa, đặt Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não ở bên phải Bi Niệm, Bất Khả Tư Nghì Tuệ ở bên trái Từ Khởi.

Các vị khác sắp bày, đều mô phỏng theo đây.

Lại ở các phương Bắc vẽ Bồ-tát Địa Tạng, đối với các vật báu xen nhau tô điểm trang nghiêm, trên đất, dùng bốn thứ báu: vàng, bạc, Phả-chi, thủy tinh làm tòa hoa sen, cũng khiến rất khéo léo tốt đẹp, Bồ-tát ấy ở trên tòa hoa, ánh sáng chiếu khắp thân ngài như trong Thai Tạng, cho nên nói: Ở trong bào thai ánh sáng, vị Thánh này, chủ trì bảo Vương tâm địa trong tánh khởi vô biên kho báu công đức. Do đó cờ nêu của Ngài, dùng tất cả ngọc lạ và nhiều thứ vật báu tốt đẹp xen kẽ trang nghiêm, Bồ-tát quyến thuộc còn lại của ngài, nghĩa cũng giống nhau. Ở bên phải Địa Tạng đặt Bồ-tát Bảo Xứ, bên trái Địa Tạng đặt Bồ-tát Bảo Chưởng, tiếp đến, ở bên phải Bảo Xứ đặt Bồ-tát Trì Địa, bên trái Bảo Chưởng đặt Bồ-tát Bảo Ân Thủ, bên phải Trì Địa lại đặt Bồ-tát Kiên Cố Ý, các Tôn vị Thượng thủ như thế.

Lại ở hai bên mỗi vị đều, vẽ các quyến thuộc tự theo vây quanh.

Tiếp đến, ở phương Tây vẽ Bồ-tát Hư Không Tạng, đắp y trắng sáng, ở trong rốt ráo “Không” sinh ra dụng tự tại không thể suy nghĩ bàn luận, không có cùng tận, như trong Kinh Đại Tập Hư Không Tạng có nói rộng, cho nên gọi là Hư không tạng. Pháp môn quyến thuộc trong đây gọi là: Bồ-tát Hư Không Vô Cấu, Bồ-tát Hư Không Tuệ, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ, Bồ-tát Hạnh Tuệ, Bồ-tát An Tuệ, cũng như trước theo thứ lớp sắp ở hai bên phải trái, do đó đều nói là vân vân. Nói Chư Tôn thượng thủ ở đây, lại mỗi vị có vô biên quyến thuộc, hình tướng các ngài như trong đồ tượng đã nói, phần cuối kệ này nói: Lược nói Đại Bi Tạng, giai vị Mạn-đồ-la xong, hai câu này là để kết thúc ý nghĩa truyền độ người, không phải bản văn trong kinh.

Như trên đã nói: Tâm Bồ-đề làm nhân, Đại Bi làm gốc, phương tiện làm rốt ráo tức là tướng thật đài hoa Đại bi thai tạng của tâm mở bày, dùng Đại Bi phương tiện hiện làm ba thứ phổ Môn quyến thuộc, do nghĩa ấy nên gọi là Đại bi thai tạng Mạn-đồ-la, như ở trong một thế giới khắp hiện sáu đường, thân tùy theo loại, trong tất cả thế giới, cũng giống như vậy, ở trong các chúng đồng phần kia, cũng là thượng thủ, pháp họ đã nói, cũng vi diệu bậc nhất trong các pháp kia, lại do nghĩa này có thể nhiếp thọ khắp vô tận chúng sinh, nên Tỳ-lô-giá-na gọi là vua pháp giới.

Nay các Tôn vị thượng thủ này, đều cùng nhóm họp giữ gìn ấn pháp như vậy, cho nên tất cả đồng loại chúng sinh kia, mỗi vị sinh tâm ít có nói: Đức Tôn vị của Ta không ai so sánh được, lại cũng ở trong chúng này, phải biết pháp này rất là ít có, do sinh tâm ít có, nên thuận với tất cả pháp giới môn mà gieo trồng gốc lành, cho đến người trong đêm dài sinh khởi gốc chẳng lành muốn phá hoại chánh pháp, đã đến đạo tràng, thấy chỗ tôn thờ Đại Thiên kia, lại trong mong bố thí pháp thực không thể suy nghĩ bàn luận, ác tâm hiền diệt, việc ma dứt trừ, hoặc sinh tâm nhất niệm vui theo, do sinh tâm nhất niệm thanh tịnh, liền có thể ở trong đó khai phát ra Đại bi thai tạng Mạn-đồ-la.

Lại nữa, các thứ pháp môn Mạn-đồ-la này, tuy đồng một pháp giới, nhưng công dụng kia sâu cạn mỗi mỗi có khác nhau, như sự nuôi sống của một khu đất, sự thấm nhuần của một trận mưa, nhưng các cây cỏ thuốc tánh chia ra khác nhau, nếu thầy thuốc xem xét thì biết cỏ thuốc như thế, đối với kia đối trị không hợp bệnh nhưng đối với bệnh nào đó thì thế lực rất có hiệu quả. Như ở trong các Phổ Môn phương tiện này, mỗi phổ môn phân biệt không sai lầm, mới có thể làm A-xà-lê. Mười bài kệ trong Đại Bản, các bậc Thánh ấy, đều tự giảng nói, tự đã thông đạt pháp giới Môn và các pháp phương tiện khác. Nay bản lược này, chỉ nêu lên những pháp chính yếu chung cho phần đông hướng đến Đạo mà thôi. Nếu khi hành giả đúng như pháp tu hành không thiếu phép tắc, mong sự che chở không thể suy nghĩ bàn luận thì tự mình làm ra phương tiện chỉ bày không gì không thông suốt.

A-xà-lê nói: Hễ người tu hành không trụ Du-già thì không phù hợp làm người kiến lập Mạn-đồ-la. Trước khi muốn vẽ, phải dùng tự môn chuyển làm các Tôn vị, tòa ngồi, hình sắc, tánh loại mỗi thứ đều tương ưng, liền quán Đại bi thai tạng như thế, tức là thân ta, mới khởi tay vẽ, A-xà-lê có hạnh sâu như thế, thì bất cứ lúc nào cũng, thường không xa lìa Phật hội như thế; khi vẽ song làm pháp sự thì đúng như pháp lần lượt khởi Kim Cang Địa, quán Cung điện Bảo Vương này, ở trên đảnh núi Tu-di, tất cả mỗi mỗi đều trang nghiêm, đều như trong phẩm sau sẽ nói, hiểu rõ như vậy rồi, mới có thể mời thỉnh.

 

**********

Đồ vị Mạn-đồ-la do A-xà-lê truyền nêu đầy đủ như dưới đây:

Phương trên

Phía bên phải.

Báu Như Ý của Như lai

Hay trao tất cả Tôn.

Giáp trụ của Như lai

Liên hoa Bộ nữ vâng lời dạy.

Sợi dây của Như lai

Liên hoa Bộ vâng lời dạy.

Việc làm cho ma sợ của

Như lai Hoa sen kích tam cổ.

Rốn của Như lai Kích Hoa sen.

Mã tàng của Như lai Liên Hoa Tôn.

Môi của Như lai Sen Kim Cang.

Mười lực của Như lai Bánh xe Hoa sen.

Răng của Như lai Đao Hoa sen.

Đại Hộ của Như lai Bồ-tát Liên Hoa Đức.

Vô Sở Úy Đại Hộ Giả Đại Thủy Cát tường.

Như lai Vô Sở Úy Đại Cát Tường.

Linh Đạc của Như lai Tăng Cát Tường.

Như lai Thương Khư Phật Cát tường.

Như lai Tam-muội-da Kim Cang Bồ-tát kim Sắc.

Như lai Chánh Cần Bồ-tát Danh Xưng Tuệ.

Như lai Tam-muội da Bồ-tát Bạch Sắc.

Lưỡi Như lai

Người đại che chở, phá hoại các sợ hãi.

Sợi lông trắng của Như lai Bồ-tát Đại Thế Chí.

Tòa của tất cả Như lai Bồ-tát Tỳ-câu-chi.

Như lai Đại Cần Dũng

Bồ-tát Quán Thế Âm Phía bên trái

Phương dưới.

Diệu Kim Cang

Hàng Tam Thế-tôn.

Thanh Kim Cang.

Sen Kim Cang

Kim Cang Đạc (Cái chuông kim cang).

Tịch tĩnh Kim Cang.

Đại phấn Lợi Kim Cang.

Kim Cang quyên tác.

Răng Kim Cang Dao Kim Cang.

Na-nhị-đồ Kim Cang.

Xích Thể Kim Cang.

Người vâng lời Phật Dạy

Việt vô lượng hư không. Nguyệt yểm tôn

Nan hàng đại hộ giả (hình người nữ) Kim Cang Bộ sinh.

Kim Cang Liên Tỏa

Không thể vượt hộ môn giả.

Chấp kim cang Phương trên

Phía bên phải.

Mắt Như lai Đa lợi Tôn.

Tâm Như lai Quán Âm Mẫu.

Như lai Thước Để.

Bồ-tát Đại Bạch.

Như lai Vô Kham Nhẫn Bồ-tát Tư Tài Chủ.

Thủy tự tại Tôn Bồ-tát Biến Quán.

Như lai niệm xứ Bồ-tát Cát Tường.

Dao Như lai

Bồ-tát Đới Tháp Đức.

Bánh xe Như lai

Bồ-tát Bảo Đức.

Hoa sen Như lai Hình Y da nai.

Đảnh Như lai

Quân trì (bình) hình hoa sen.

Như lai kiết giới.

Tóc mai hình hoa sen Như lai thí nguyện.

Búa hình hoa sen Như lai giảng nói bình đẳng.

Dây tơ hoa sen Miệng Như lai.

Mõ hình hoa sen Eo của Như lai Loa ốc hình hoa sen.

Ánh lửa của Như lai Sứ giả Bộ Liên Hoa.

Như lai móc câu

(Sứ giả Liên Hoa Bộ, Quán thế âm đầu ngựa).

Hư không Nhãn Gậy hoa sen.

Trên đây Lớp thứ nhất đã xong.

Đồng tử Vô Cấu Quang Bồ-tát Hiền Kiếp.

Phía bên trái

Phương dưới.

Kim Cang Mẫu.

Kim Cang Châm.

Kim Cang Câu

Tương hướng thủ hộ Môn giả.

Kim Cang Vô Thắng Đại Hộ Giả Sứ giả Như lai.

Quân-đồ-lợi Kim Cang Kim Cang Quyền.

Đại lực Kim Cang Vô hý luận Kim Cang.

Hư Không Vô Cấu Kim Cang Kim Cang phủ Sách-đa-la Kim Cang.

Đại thân Kim Cang Bánh xe Kim Cang.

Đại Thắng Kim Cang Gậy Kim Cang.

Quảng Nhãn Kim Cang.

Bạt-chiết-la Kim Cang

Thánh Bất Động Tôn

Bồ-tát Đại Tuệ Bồ-tát Hiền Kiếp.

Phương trên

Phía bên phải.

Đồng tử Quang Võng.

Người Nam vâng giáo Bồ-tát Hạnh Tuệ.

Người Nam trông giữ bảo vệ Bồ-tát Thắng Diệu Thiên.

Sứ giả Nam

Sứ giả Nữ Bồ-tát Bảo Nghiêm.

Lục Diện Tôn.

Bồ-tát Bảo Ấn Thủ.

Hàng Diêm-ma Bồ-tát.

Đồng tử Địa Tuệ.

Bồ-tát Bảo Chướng.

Ưu-ba-kế Thiết-ni.

Văn-thù-sư-lợi

Bồ-tát Địa Tạng.

Kế-thiết-ni.

Chất-đa-la

Bồ-tát Bảo-tác.

Người Mời thỉnh.

Bồ-tát Trì Địa.

Nữ sứ giả.

Nam sứ giả

Bồ-tát Hiền Ý.

Người nữ trông giữ bảo vệ Bồ-tát Bảo Quang.

Người nữ vâng giáo

Bồ-tát Phát tâm tức Xoay bánh xe pháp.

Phía bên trái

Phương dưới.

Bồ-tát Tịch Tuệ Bồ-tát Kim Quang.

Bồ-tát Vô Cấu Tuệ Bồ-tát Kim Sắc.

Bồ-tát Bảo Thủ.

Bồ-tát Vô Tận Ý

Bồ-tát Hiền Đức.

Bồ-tát Hoa Tràng.

Bồ-tát Bất Tư Nghì Tuệ Bồ-tát Kế Đô.

Bồ-tát Đại Bi Khởi

Bồ-tát Vô Cấu Quang.

Bồ-tát Vô Tượng.

Bồ-tát Cứu Ý Tuệ

Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ.

Bồ-tát Thí Nhất Thiết Vô Úy Bồ-tát Hư Không Tuệ. Bồ-tát Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ-tát Hư Không Tạng.

Bồ-tát Hư Không Vô Cấu.

Bồ-tát Trừ Nghi Quái Bồ-tát Pháp Tuệ.

Bồ-tát Trừ Nhất Thiết Ác Thú Bồ-tát Tuệ Bộ.

Bồ-tát Bi Niệm

Bồ-tát Thích-nị-nhị.

Bồ-tát Nê-nhị.

Bồ-tát Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não Bồ-tát Bảo Phan.

Bồ-tát Hải Tuệ

Bồ-tát Kim Quang, Quang Minh.

Phương trên

Phía bên phải.

Đồng tử Bảo Quang.

Bồ-tát Thiện Trụ Ý.

Đồng tử Nguyệt Quang.

Đồng tử Thiện Tài Bồ-tát Hiền Kiếp.

Trên đây là lớp thứ hai xong.

***********

Thần Hỏa Thiên Hộ Phương Thần Y-xá-na Hộ Phương.

Hỏa Thiên Quyến thuộc chúng Cưu-bàn-trà.

Hỏa Thiên Hậu A-danh-yết-noa.

Bà-tư-sắt-tra Đại tiên A-thấp-phạ-yết-noa.

Kiệt-già Đại tiên Thú-bà-yết-noa.

Vị-kiến-đồ Đại tiên Thần Tạp Bảo Tạng.

Cù-đàm Đại tiên Đồ-cát-ni, Đồ-ca.

Ca-diếp Đại tiên Bồ-tát Đồng tử.

Các thần chấp diệu,… Chúng Tỳ-kheo.

Vợ Tỳ-thệ-da

Bồ-tát Ly Trần Dũng Mãnh.

Nhật Thiên tử

Phật Định Thắng Thủ Đức ở phương Đông Bắc.

Vợ Thệ-da Chúng Bồ-tát. Phía bên trái

Phương dưới.

Bồ-tát Diệu Tuệ Bồ-tát Diệu Tràng.

Bồ-tát Vô Biên Tràng.

Bồ-tát Hiền Kiếp Bồ-tát Hiền Kiếp.

Thần Niết-lý-để Hộ Phương Thần Phong Thiên Hộ Phương.

Nữ La-sát Vợ Phong thần.

Chúng La-sát Ca-lâu-la Nữ.

Bồ-tát Hiền Kiếp Ca-lâu-la.

Bồ-tát Đồng nam Chúng Tỳ-kheo.

Quyến thuộc phi nhân

Quyến thuộc của tất cả mọi người.

Bồ-tát Nhật Quang.

Phật Nhật Luân Biến Chiếu Thắng Đức Ở phía Tây nam

Bồ-tát Đồng Nam.

Chúng Tỳ-kheo.

Chúng Bồ-tát Bồ-tát Bảo Tràng.

Chúng Tỳ-kheo

Phật Nhật Bảo Cái ở phía Tây Bắc.

Phương trên

Phía bên phải. Na-la-diên và quyến thuộc Chúng Tỳ-kheo.

Ma Thiên Tha Hóa Tự Tại thiên Bồ-tát Đồng Nữ.

Trời Hóa lạc Phần Nhiều Là Nữ Bộ.

Trời Đâu-suất-đà Đa Số Bộ Loại Dược-xoa.

Trời Diệm-ma

Tướng Dược-xoa ở núi Tuyết.

Đề-đầu-lại-tra

Thiên vương và chúng Kiền-thác-bà Ở phương Đông.

Tướng Sa-đa-kỳ-lý Dược-xoa.

Xá-chi Phu nhân

Tướng Bán-già-la Dược-xoa.

Đế-thích cõi trời Tam thập tam Tướng Tỳ-sái-ca Dạ-xoa.

Bồ-tát Đồng Tử

Tướng A-tra-phạ-ca Dược-xoa.

Chúng Tỳ-kheo

Tướng Tỳ-sa-môn Tử Dược-xoa.

Bồ-tát Hoan Tỷ.

Bồ-tát Phương Tiện Hoa Hỷ Đức Thần Na-di-bạt-đà-la.

Chúng Bồ-tát Vợ Thần Hộ Phương.

Bồ-tát Đồng Nữ

Câu Phệ La Hộ Phương Thần Tỳ-sa-môn.

Trời Cát Tường Công Đức

A-nan-đà

Tướng Mãn Hiền Dược-xoa.

Xá-lợi Tử.

Đại Mục-liên Đại Tướng Tán-chi.

Đại Ca-diếp Bồ-tát Đồng Nam.

Phía bên trái

Phương dưới.

Bồ-tát Đồng Tử

Chúng Tỳ-kheo. Bí-lăng-nghị Lật-tri Chúng Đồng Nữ.

Các Tỳ-na-da-ca

Bồ-tát Hiền Kiếp.

Ma-ha Ca-la

Long vương Tiểu Ngật-lật-sắt-noa Ngật-tây-sắt-noa nhị Long vương.

Long vương Ưu-bà-lộ-hệ-đa Nhị Long vương.

Mười quyến thuộc Tỳ-lô-già Lộ-hệ-đa-nhị Long vương.

Ưu-bà-tý-đa nhị Long vương.

Mười quyến thuộc Tỳ-xá-chi.

Hai Long vương Ưu-bà-thúc-ngật-lao.

Hai Long vương Thúc-ngạt-lao.

Long vương Sa-già-la.

Địa ngục Nóng lạnh Long vương A-na-bà-đạt-đa.

Địa ngục Nhiệt não

Long vương Hắc-xoa-ca-la.

Long vương Ma-ca-tư.

Vua Tỳ-lâu-bác-xoa Long vương Cự-lợi-ca.

Long vương Yết-câu-tra-ca.

Vợ Diêm-ma Một-lật-để Long vương Hòa-tu-cát.

Vợ Diêm-ma

Long vương A-nan-đà.

Diêm-ma Đản-đồ

Long vương Đại Liên Hoa.

Long vương Ba-đầu-ma.

Phương Trên

Phía bên Phải.

Vô lượng âm thanh Phật Đảnh Chúng Tỳ-kheo.

Quảng Đại Phật Đảnh Bồ-tát Thắng Thọ.

Hỏa Tụ Phật Đảnh

Phật Thắng Đức ở phương Bắc.

Thắng Phật Đảnh Chúng Bồ-tát.

Gậy Như lai Chúng Tỳ-kheo.

Bát của Như lai Bồ-tát Đồng Nữ.

Răng Như lai

Bồ-tát Hiền Kiếp.

Sợi lông trắng

Thấn đứng đầu Ruộng Nương.

Vô Năng thắng Tôn

Thấn đứng đầu chuồng voi, ngựa.

Phật Thích-ca Mâu-ni.

Vợ của Vô Năng Thắng Chủ Vua Kho Tàng.

Phật Mẫu

Thấn đứng đầu Ngoại Đạo Xứ Phước.

Như lai Thước-để-ấn Thấn đứng đầu Hang Kín.

Bồ-tát Đồng Nam

Thấn đứng đầu các kho tàng ẩn kín trong lòng đất.

Tỳ-kheo Tăng

Thấn đứng đầu sa mạc.

Bồ-tát Phổ Quang

Thấn đứng đầu Rừng thây chết.

Phật Bảo Tánh ở phương Đông Thấn đứng đầu Ao hồ.

Chúng Bồ-tát

Thấn đứng đầu Chúng Rồng.

Tỳ-kheo Tăng

Thấn đứng đầu các giếng.

Bồ-tát Đồng Nữ

Thấn đứng đầu Cung điện đẹp đẽ giữa hư không.

Phía bên Trái Phương Dưới.

Pháp Vương Diệm-ma-la Long vương Thương-khư.

Người hỏi ngục Chất-đán-la-cấp-đa Vợ của Phược-lỗ-noa.

Long vương Phạ-lỗ-noa.

Trời ban đêm

Thiên vương Lỳ-lâu-lặc-xoa Hộ Phương.

Trời Biện Tài.

Bồ-tát Đồng Nam

Người Giữ Cửa Ưu-bà-tốn-na.

Chúng Tỳ-kheo Cửa chung.

Bồ-tát Ly-ưu

Người Giữ Cửa Tốn-na.

Phật Vô Ưu Đức ở phương Nam Thần Đất.

Chúng Bồ-tát

Long vương và vợ, quyến thuộc.

Chúng Tỳ-kheo Bồ-tát Đồng Nam.

Bồ-tát Đồng Nữ Chúng Tỳ-kheo.

Các Địa ngục khác nhau Bồ-tát Hạnh Tuệ.

Bồ-tát Hiền Kiếp

Phật Bảo Diệm ở phương Tây.

Già-muộn-noa

Chúng Bồ-tát, chúng Tỳ-kheo.

Kiều-phệ-lỵ Bồ-tát Đồng Nữ.

Vị-phệ-sắt-noa

Thấn đứng đầu thường lấn chiếm.

Thấn đứng đầu Lịch.

Kiều lỵ

Thấn đứng đầu về Thời gian.

Hy-nại-lỵ

Thấn đứng đầu tạo nghiệp.

Ta-nại-lỵ

Thấn đứng đầu về Sao.

Phương Trên

Phía bên phải.

Ca-sa Phật

Thấn đứng đầu cung điện.

Bình Quân Trì Của Phật Thấn đứng đầu Biển.

Bạch Tán Phật Đảnh

Thấn đứng đầu Nhà Cửa, Thấn đứng đầu ngõ hẻm.

Tối thắng Phật Đảnh

Thấn đứng đầu Phương hướng.

Tồi Toái Phật Đảnh

Thấn đứng đầu Đường Lối.

Thấn đứng đầu Sông.

Tối Cao Phật Đảnh Thấn đứng đầu Đường đi.

Bích-chi-Phật

Thấn đứng đầu chỗ hoang vắng.

Thấn đứng đầu ngoại ô.

Đại Phạm Và Minh Phi Quyến Thuộc Thấn đứng đầu chỗ Bán Hàng Hóa.

Trời Tứ Thiền

Thấn đứng đầu thành.

Trời Vô sắc.

Thiên tử Tịnh Cư Tự Tại Thấn đứng đầu Thôn xóm.

Thiên tử Phổ Hoa Thấn đứng đầu các Châu.

Thiên tử Quang Man

Thấn đứng đầu về Chim.

Thấn đứng đầu Núi.

Thiên tử Ý Sinh

Thấn đứng đầu Tất-địa Vật.

Thiên tử Danh Xưng Viễn Văn Thấn đứng đầu Tất-địa.

Vợ của Đại Tự Tại và quyến thuộc Thấn đứng đầu Thuốc Tiên.

Trời Đại tự tại và quyến thuộc Thấn đứng đầu đếm thuốc.

Phía bên Trái Phương dưới.

Vị La Nhị

Thấn đứng đầu túc đối.

Vợ của Khẩn-na-la Thấn đứng đầu đêm.

Khẩu-na-la, Bồ-tát Đồng Nam

Thấn đứng đầu mặt trời, mặt trăng.

Chúng Tỳ-kheo

Thấn đứng đầu sáu thời.

Bồ-tát Liên Hoa Thủ Thấn đứng đầu ngay thẳng.

Phật Liên Hoa thắng Đức ở phương Đông nam Thấn đứng đầu hai mươi tám ngôi sao.

Thấn đứng đầu mười hai cung điện.

Chúng Bồ-tát

Nguyệt Hậu Tên Xích Sắc.

Chúng Tỳ-kheo

Nguyệt Hậu Tên Nguyệt Tường.

Bồ-tát Đồng Nữ Thiên tử mặt trăng.

Mộ-ha-nẵng

Nguyệt Hậu Tên Nguyệt Tướng.

Thần Lửa Diệm danh Bồ-tát Đồng Nam.

Kiếp Vi Chúng Tỳ-kheo. Mãng-nẵng-sa

Bồ-tát Liên Hoa Thắng. Ngật-sái-dã

Phương Dưới, Phật Liên Hoa Đức ở phương dưới.

Xã-tra-la Chúng Bồ-tát.

Câu-lộ-đản-nang Chúng Tỳ-kheo.

Một-lật-noa

Bồ-tát Đồng Nữ, Bồ-tát Hiền Kiếp.

Lộ-hệ-đa

A-tu-la nữ quyến thuộc.

Mang-lỗ-đa

A-tu-la quyến thuộc.

Phương trên

Phía bên phải.

Con và vợ của Ma-hê Thủ-la Thấn đứng đầu Thuốc.

Vợ của Trì Minh

Vợ của Tất-địa Trì Minh.

Tiên Trì Minh

Tiên Tất-địa Trì Minh Phía bên trái Phương dưới.

Nại-lỗ-ca.

Sa-ma Hê-nại-la

Ma-hầu-la-già nữ. Các Hỏa Tiên,…

Ma-hầu-la-già

( Trên đây là lớp thứ ba đã xong)

A-xà-lê nói: Viện thứ nhất ở phương Đông, từ Như lai Câu cho đến Như lai giáp… Đều là Tam-muội Tỳ-lô-giá-na, mỗi vị có hình Thiên nữ, giống như Mạn-đồ-la chu vi để phân biệt màu sắc của kia, ngồi trên đài sen trắng, trong tay lại cầm hoa sen, trên hoa đều dùng vật tượng để làm cờ nêu, như lưỡi câu, đao, linh chuông, dây tơ lụa, áo giáp, mũ trụ… của Thương Khư, nếu nương theo ảnh gốc mà vẽ thì đảnh tướng, sợi lông trắng, miệng, lưỡi, răng, môi… lệ theo đây có thể biết. Rốn Như lai ở trong sen trên đồ tượng Vẽ nối liền nhau tròn đẹp, lưng Như lai cũng hơi xoay cong như hình xâu chuỗi, Như lai tạng hình giống như tướng Mã Bảo của Luân vương không hiện, Như lai thí nguyện sẽ làm nguyện thủ, Pháp Như lai và các biện thuyết… hoặc giữ Kinh tạng, hoặc làm tay nói pháp, niệm, xứ, mười Lực… đều là pháp tương ưng với chỉ quán, làm Chánh tịnh vắng lặng, Tam-muội-da phải làm tướng đảnh Phật, tướng đảnh Như lai nhiếp đủ tất cả công đức, hễ trong tay không có vật để làm cờ nêu thì đều nên sắp đặt. Nếu Mạn-đồ-la không làm tôn hình, chỉ nêu ấn bí mật , ở trên tòa Kim Cang làm đài hoa sen, trên đài như trước vẽ làm cờ nêu.

Kia làm Tự Mạn-đồ-la: Trong kinh có hạt giống tự, phải đúng như pháp an trí, nếu trong kinh không chép thì phải lấy chữ ban đầu trong tiếng Phạm làm hạt giống, hoặc có thể dùng chung chữ A. Các tôn vị trong Liên Hoa bộ ở phương Bắc, nếu trong kinh không nói hình tướng thì thông thường làm hoa sen màu hồng, hoặc màu trắng tinh, hoặc màu vàng ròng của chư tôn… thì nương vào tên mà phân biệt ấn tướng cầm, cũng như trong Phật Bộ nói, nhưng dùng hoa sen làm cờ nêu. Như hình bánh xe hoa sen, phải dùng bốn cành hoa sen như hình chữ thập để làm căm, phía bên ngoài căm làm mũi nhọn chung quanh, đao hoa sen phải ở trên hoa sen mà đặt đao, trên mũi nhọn của đao lại dùng hoa sen để làm tướng nêu, chày kích Kim Cang… đều cũng giống như vậy.

Liên Hoa quyên tác là dùng hoa sen làm hai mầm non, mõ thì dùng hoa sen để buộc, vòng hoa thì xỏ hoa sen để trang nghiêm thân, hoặc đặt trên hoa đang cầm, đội tháp Cát tường, trên búi tóc đặt tháp, hoặc trên hoa cầm, Liên Hoa Tôn thì trên hoa lại đặt hoa sen, trên hoa sen Bảo Đức Tôn có vật báu, có thể trao tất cả nguyện Minh Vương, làm thỏa mãn tất cả nguyện ít có, dáng mạo kia không phải như Quán Thế Âm tay cầm hoa sen, trên hoa sen hoặc đặt ngọc như ý, thuận theo pháp tức tai, tăng ích và hàng phục, trong đàn tương ưng kia, hai tay Đại Cát Tường mỗi tay đều cầm hoa sen, nước Cát tường hoặc trong hoa sen chảy ra, hoặc duỗi tay nước chảy ra, tôn vị mặc da nai phải lấy da nai trang nghiêm thân, như tượng Phạm Thiên kia phù hợp với ấn Mạn-đồ-la so sánh giống như trước đã nói, thông thường dùng chữ Sa làm hạt giống.

Phương Nam các Tôn vị Kim Cang Bộ ở phương Nam cũng có thể nương vào kinh, trước hết nêu tên các ngài đều an trí đầy đủ, tùy theo làm đàn, hình vuông, hình tròn, hình tam giác, bán nguyệt… màu sắc trên thân cũng giống như vậy, hoặc giữ một phần Bạt-chiết-la, hoặc giữ ba phần, năm phần, hai mũi nhọn… trên dưới các thứ nêu tướng Kim Cang, như trong kinh nói, tùy ý mà đặt, đao, búa, lưỡi câu, cây kim… kia đều ấy Kim Cang làm cờ nêu, đao thì trang trí ở mũi nhọn và cái chuôi, đều làm hình chày Kim Cang đầu sắc nhọn, dây lụa nối liền hai đầu đều như tượng Bạt-chiết-la ba nhánh, chuyển lấy mười chữ Kim Cang làm vành nan xe nhọn sắc bao bọc chung quanh, chuông (đạc) dùng Kim Cang một nhánh làm trên, buộc chữ thập Kim Cang làm quả lắc, ngoài ra đều lệ theo có thể biết; phù hợp với Mạn-đồ-la, cũng ở trên tòa Kim Cang đặt hoa sen trắng, trên hoa các vật kia bày ra; nếu làm Tự Mạnđồ-la, Chấp kim cang và toàn bộ quyến thuộc thường dùng chữ phược, các Kim Cang khác thường dùng chữ Hâm làm hạt giống.

Viện thứ hai, các chúng Bồ-tát, nếu trong kinh chép đầy đủ hình tướng ấy thì tất cả đều như lời dạy trong đồ tượng kia mà vẽ, không có văn thì người thường dùng ấn Chân Đà-na-ni, phải cầm hoa sen, trên hoa đặt ngọc như ý, ánh sáng bao bọc chung quanh, hoặc tùy theo ý nghĩa trong tên kia để hiển bày tướng kia, như Bồ-tát Bảo Quan thì ở trên hoa đặt cái mũ, Bồ-tát Bảo Võng thì ở trên hoa đặt cái lưới, Bồ-tát Bảo Chưởng thì đặt trong tay vật báu; trong tay phát tâm Xoay bánh xe pháp ấn thì cầm bánh xe, tất cả các tôn vị thiếu sót, đều đặt Bồ-tát Hiền Kiếp, các sứ giả vâng theo lời dạy của Bồ-tát, đều làm hình dáng nhỏ thấp, Sứ giả kia cầm đao gậy ở của Như lai ngăn giữ, người vâng theo lời dạy hoặc tay cầm ấn giơ lên; hoặc chiêm ngưỡng vị tôn quý, nếu nhận mệnh lệnh sai khiến thì người trông giữ có đều thưa hỏi rõ ràng, đều tùy theo loại.

Hàng Diêm-ma Tôn là quyến thuộc của Văn-thù đầy đủ oai thế lớn lao, thân kia có sáu mặt, sáu tay và sáu chân, trâu là tòa ngồi, có ba mắt, màu sắc như mây đen tím, có hình dáng rất giận dữ, phải tìm bản Phạm Văn-thù mới đầy đủ, các Tôn vị này, nếu trong Kinh khác nói hình tướng Các ngài đầy đủ, cũng có thể trong thời gian nương theo bản đồ kia vẽ nhập Mạn-đồ-la. Các Tôn vị này, kinh Tỳ-lô-giá-na không chép Chân Ngôn thủ ấn, tức riêng nêu kinh khác thì phải nương vào kinh kia trao cho Chân ngôn thủ ấn, giúp nương theo phương pháp thực hành thứ lớp cúng dường của kinh này.

Các Đức Phật trong mười phương… ở Viện thứ ba đều nương vào tướng bình thường trong đồ tượng, nếu làm ấn khế, phải lấy đỉnh tướng Như lai, hạt giống thì lấy chữ A, Thanh văn, Duyên giác đều giống nghi thức Tỳ-kheo, trong đó, Duyên giác có khác một ít: nghĩa là hoặc có tướng Nhục kế… của Đại Nhân, nếu khế hiệp nên dùng Bát, ca-sa, tích trượng… chữ hạt giống kia như chân ngôn trong kinh đã nói. Trước Nhật Thiên ở phương Đông có thể đặt Thiên nữ Ma-lợi-chi, như Đà-la-ni tập có nêu. Tám vị tướng Dạ-xoa ở phương Bắc trong đồ tượng thiếu ít vị, hình các vị ấy đại khái tương tự, đều mặc áo giáp, đội mũ trụ, cầm ấn Già-đà, thân tướng ngay thẳng tròn đầy, vì chỗ mong cầu của vị ấy không thiếu nên thường an vui tự tại.

Dê, Ngựa, Voi… đều là quyến thuộc của Cưu-bàn-trà, thân kia không giống Dạ-xoa, đều rủ lông bày thân, có hình tướng phi nhân, ấy là đồng với loài súc sinh, đồ tượng cho là trì Minh Tiên, do năng lực các thứ thuốc… mà thành; Tất-địa Trì Minh Tiên: Đều là người chuyên nương vào chú thuật mà được Tất-địa. Nói thẳng rằng, các vị tiên ấy: Đều là loại Vi-đà thờ lửa, siêng tu khổ hạnh thành Tiên có năm thần thông. Lại có Dạ-xoa trì Minh, là loài Phước đức hơn cả trong các loài ấy, thuộc về đường trời, khác với Tiên ở đời. Các vị Thần ở núi, sông, ao, hồ, rừng cây, lúa, thuốc, thành, ấp, đường đi… đều lấy tên gốc làm tướng cờ nêu, thần núi ngồi ở núi, thần sông ở sông, cây, thuốc… kia hoặc tay cầm nắm hoặc nương trên nó, phải theo nghĩa từng loại để suy sét, trong kinh Hoa Nghiêm lại có hai loại thần là thần Túc Hành và thần Thân Chúng.

Đó là loại thần giữ gìn đường đi và thần giữ gìn thân, cũng có thể theo thứ lớp bày ra. Đường chẳng phải loài người ở phương Tây, phải biết trong thân Phổ môn của Tỳ-lô-giá-na, hoàn toàn là các loại quỷ thần, bàng sinh… trong đồ tượng không có danh tướng riêng của họ, phần nhiều ở trong đó. Lộ-hệ-đa là màu đỏ, tịch-đa là màu vàng, cật-lật-sắc-noa là màu đen, màu xanh của kia cũng thuộc trong đó, nếu nương vào nghĩa nói ở phương này thì mỗi màu phải chia riêng ra, cậtlao là màu trắng, đều là tất cả loài rồng chúa đều nương vào sắc này mà vẽ, hoặc Gia-ổ-ba-tự màu sắc hơi nhạt, tốn-na-ổ-ba-tốn-na cũng là rồng đầu đàn lớn giữ cửa, đều tay phải cầm đao, tay trái cầm dây lụa. Thần đứng đầu về năm, tháng, thời giờ… đều có hình tướng Thiên nữ, cầm cành hoa… để làm tướng nêu.

Nếu người đứng đầu việc tốt thì hoa kia cũng khiến sắc tướng tròn đầy, nếu người đứng đầu việc xấu thì màu sắc hoa quả… héo úa. Thần đứng đầu sáu thời kia cũng có thể cầm sáu cành hoa làm hình tượng tùy theo thời tốt hay xấu để tiêu biểu việc kia. Người đứng đầu ngày đêm cũng có thể y theo hoa nở, hoa búp để biết, những thứ khác đều mô phỏng theo đây.

Bí-lăng-ngật-lật-tri ở phương Nam, là con của Ma-hê-thủ-la, hình tướng rất khô gầy vò thường hàng phục kẻ thù, dù cho xương thịt tan hết cũng muốn được chiến thắng. Do đó mà làm hình tướng này.

Đó là luận Trí Độ đã nói: Thường tu khổ hạnh cắt thịt cúng tế lửa, cảm sinh các thần ác, vì thế trụ ở phương Nam, mười hai hỏa thiên kia trong kinh có nói sơ lược hình tượng, có một vị thần thiếu tên, chỉ nương vào hình tượng chung của các vị hỏa thiên. Các vị khác như trong đồ tượng đã chỉ bày. Kinh chép: Bấy giờ, Chấp kim cang Bí Mật Chủ, ở trong tất cả chúng hội, quán kỹ đại nhật Như lai, mắt không rời, khi ấy Đức Phật như Phổ môn Mạn-đồ-la đã thị hiện, mà giảng nói ngôi vị của các tôn vị xong. Bí Mật Chủ dùng phổ nhãn quán sát từng tôn vị này đều không thấy nguồn gốc, cũng không chỗ trụ ở, đều là thân tướng của Liên hoa đài tạng, sinh ra các phương tiện không thể cùng tận, bấy giờ, tự rất vui mừng phát tâm ít có, đối với pháp này càng sinh ý tưởng khó gặp, muốn lại hỏi nghĩa sâu xa, do đó nói kệ này.

Đầu kệ ý nói: tất cả người trí tuệ, xuất hiện ở thế gian, như hoa linh thoại kia, lâu lắm mới hiện một lần, hoa Ưu-đàm tuy là khó gặp, nhưng pháp yếu chân ngôn này lại càng khó gặp hơn. Vì sao? Vì đây là bí tạng của Như lai trong đêm dài giữ gìn không trao cho người, một cách bừa bãi, nếu không phải căn cơ đốn ngộ thì không thể hạ thủ công phu, Thế-tôn lúc còn ở đời vẫn bị nhiều kẻ oán ghét, huống chi đời mạt pháp ?

Lại nữa, kinh này, tự giải thích nhân duyên khó hiện, nếu chúng sinh một phen thấy Mạn-đồ-la thì nghiệp ác chướng nặng từ vô thỉ đến nay, đều dứt trừ không còn, chắc chắn được thọ ký đại Bồ-đề, người độn căn phước mỏng không thể được. Một lần thấy còn khó, huống chi lần lượt tu hành lại càng ít có hơn, thường được hải hội Phổ môn khen ngợi, danh tiếng vang khắp mười phương, lại đồng đại nhật Như lai lại có nhiều danh hiệu, cho nên nói Vô thượng xưng.

Kinh chép: Thực hành câu Vô thượng tức là tu hành câu Vô thượng Bồ-đề. Tự môn A này đứng đầu tất cả chân ngôn, giống như Thế-tôn là người đứng đầu tự tại đối với các pháp, do đó gọi là chân ngôn cứu đời.

Câu thứ hai nói, sự nghiệp cứu đời, việc làm có công năng giúp cho hành nhân thành tựu tánh, kim cang cắt đứt các nẻo ác, tất cả khổ không sinh. Kinh chép: nếu tu hành như thế thì trí tuệ sâu mầu bất động, nếu có gốc chân thì phải nói trí tuệ rất sâu, không lay động. Tâm như biển lớn vì rất sâu rộng, lại xa lìa hai bên, cho đến khi gió lớn nổi lên cũng không thể lay động. Nếu khi hành giả vào biển tâm lớn chân ngôn này, thì cũng giống như vậy. Vì diệu tuệ kia cũng sâu xa vô lượng lại xa lìa hai bên, tất cả các pháp không thể làm lay động, như khi long vương Ta-kiệt-la mưa xuống sáu tầng trời thì ở trong cung của họ ba nghiệp đều bất động, nếu hiểu nghĩa này thì biết các thứ phương tiện Mạn-đồ372 la, thảy đều an trụ ở mé thật.

Kinh chép: Khi nhóm họp khắp tất cả đại chúng và các trì Kim cang, dùng một âm thanh khen ngợi Kim cang thủ, các đại chúng kia, nghe Phật nói rộng giai vị Mạn-đồ-la xong, muốn hỏi cờ nêu và sự nghiệp của Kim cang trong pháp giới này, vì kính trọng Thế-tôn cho nên chưa dám mở lời.

Lại, Kim cang thủ có thể quán sát các tâm nương vào căn cơ nói kệ, ắt biết muốn xé rách lưới nghi, lợi ích khắp vô lượng chúng sinh, thế nên khen ngợi chứng minh, khuyến khích phát lời thưa hỏi. Lại các chúng nhiều như số cát bụi trong mười cõi nước Phật dùng nhất tâm nhất vị, khiến một người tụng pháp âm này, chẳng phải nói vì mọi người cùng một lúc mà nói riêng.

Kệ nói: Lành thay, lành thay! Rất mạnh mẽ, ông đã tu hành hạnh chân ngôn, có khả năng thưa hỏi tất cả nghĩa chân ngôn, chúng ta đều có ý suy nghĩ. Chân ngôn hạnh tức là pháp môn ba bình đẳng, trong những người trì tam mật thì ông là trên hết, do đó có thể hỏi Đức Thếtôn nghĩa sâu xa của Phổ môn, như nhân giả muốn hỏi nghĩa Đức Phật, chúng ta cũng đều có suy nghĩ như vậy, nay đều đồng tâm suy nghĩ muốn phải nhanh chóng nói ra.

Lại nói tất cả hiện ra là sự chứng nghiệm của ông, nương vào năng lực thực hành chân ngôn, nói chúng ta khi mới phát tâm, nhờ trụ trong câu vô thượng này, cho đến có thể ở trong biển tuệ Kim cang sâu xa mà không lay động. Vì thế cho nên chắc chắn được Sư Tử hống, đối với kệ ông đã nói ở trước hiện làm chứng minh, tất cả việc làm của chúng ta đều do trụ ở chân ngôn hạnh và nương vào thế lực chân ngôn mà cùng được thành tựu. Nếu ông muốn hỏi Như lai phương tiện bí mật, và những người cầu Đại thừa, thì phải thực hành pháp chân ngôn cho được thông đạt, do thông đạt nên không bao lâu cũng siêng tu, cũng không khác với chúng ta, do hiểu nghĩa lợi ích như vậy, nên đem một âm thanh đồng tâm khuyến giúp. Bấy giờ, Bí Mật Chủ được đại chúng khuyến phát rồi, liền nói già-tha, hỏi rộng Đức Thế-tôn, kệ thứ nhất hỏi nghĩa màu sắc có bốn câu: câu thứ nhất hỏi nghĩa thế nào là màu sắc, câu thứ hai hỏi phải dùng màu nào? Câu thứ ba hỏi làm sao xếp đặt màu sắc này? Ở chỗ nào trước? bên trong hay ngoài? Câu thứ tư chia bày màu sắc, màu nào làm trước? Đây là một loại chi phần của Mạn-đồ-la hiện nay.

Kệ tiếp theo hỏi về tướng nêu của các môn, có ba câu kệ: câu thứ nhất hỏi hình, lượng của môn cờ. Câu thứ hai hỏi hình, lượng của môn sương. Câu thứ ba hỏi cách kiến lập các môn và phương pháp đo hình, lượng, các cờ nêu bí mật như vậy, A-xà-lê đều phải khéo thông đạt, lại là một chi phần.

Kế đến có hai bài kệ, đại khái có tám câu hỏi. Câu hỏi thứ nhất: Vì sao dâng cúng thức ăn và hương hoa…? Câu hỏi thứ hai hỏi về phép tắc của bình báu, phải biết tất cả các vật cúng dường đều ở trong đó. A-xà-lê phải tùy theo sự tướng phân biệt tánh loại của kia, lại là một thứ chi phần, câu hỏi thứ ba vì sao dẫn gọi đệ tử nhập vào Mạn-đồ-la? Câu hỏi thứ tư vì sao làm pháp quán đảnh? Câu hỏi thứ năm vì sao dâng cúng các tôn vị. Nhưng trong đây lại có hai thứ: nếu người tu hành tâm ban đầu nương theo thế đế Mạn-đồ-la thì làm sao người nhập quán đảnh và dâng cúng A-xà-lê. Nếu đã tu tập Du-già bí mật quán đảnh thì làm sao A-xà-lê nhập quán đảnh và dâng cúng.

Chính khi tác pháp thì tất cả gia trì, giáo thọ phương tiện đều nhiếp vào trong đây, lại là một thứ chi phần. Câu hỏi thứ sáu là nơi chốn Hộ-ma, cũng có hai cách giải thích sâu, cạn và các phương tiện khác nhau như tức tai, Tăng ích, Hàng phục… Câu hỏi thứ bảy là bộ loại chân ngôn, tự nghĩa cú nghĩa. Câu thứ tám hỏi tướng cạn sâu khác nhau của Tam-muội môn.

Phàm A-xà-lê chưa khéo thông đạt pháp ấy thì không nên kiến lập Mạn-đồ-la. Lại trở thành ba thứ chi phần, hỏi như thế xong “Đại Tịch Pháp Vương” bảo Chấp kim cang rằng ông phải lắng lòng nghe kỹ, kế nói kệ rằng đạo chân ngôn hơn cả, sinh ra quả Đại thừa, quả Đại thừa tức là trí tuệ của Đức Phật, phải nhờ phương tiện như thế mà được sinh khởi, do công khéo nói mà thưa hỏi ta.

Nay khắp vì các Ma-ha-tát giảng nói mở bày. Bài kệ đầu trả lời nghĩa sắc rằng: Nhiễm chúng sinh giới kia cho đến vị pháp giới, cổ Phật đã giảng nói, đó gọi nghĩa là sắc, giống như nhuộm màu ở thế gian, có thể nhiễm tịnh chồng chất lên nhau, khiến đồng vị. Nhờ vị mà hiểu sắc, như nói vị ca-sa: tức là nhuộm màu ca-sa. Nay nghĩa sắc Mạn-đồ-la này cũng giống như vậy. Do sắc pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận, nhuộm tâm chúng sinh đồng một vị Bồ-đề thanh tịnh.

Lại nữa, như thế gian nhuộm áo, trước dùng tro nước giặt sạch thì dễ dàng ăn màu. Nay dùng tự môn A thiêu đốt tâm dơ của đệ tử, khiến thành tro tàn, sau đó dùng tự môn pha nước đại từ bi mà rữa, khiến hoàn toàn trong sạch, xa lìa nói suông, sau lại nhuộm thành pháp giới Mạnđồ-la, khiến các thân Phổ môn đều đồng màu tướng thật. Tiếp theo có hai bài kệ trả lời chung ba câu hỏi, trong đó nói: phải dùng màu nào?

Nay ở đây trả lời phải dùng đủ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.

Kệ rằng: trước sắp đặt màu trong, không sắp đặt màu ngoài, đó là trả lời câu hỏi sắp đặt màu sắc như thế nào, chỗ nào trước, chỗ nào sau. Trắng tinh là trước tiên, màu đỏ thứ hai, như thế vàng và xanh lần lược nêu bày, sâu kín trong tất cả, nói sắc trước sau như thế: đó là trả lời màu nào: trắng tinh là màu sắc pháp giới thanh tịnh của Tỳ-lô-giána, là nguồn gốc của tất cả chúng sinh, cho nên trước hơn cả, đỏ là màu cờ báu của Như lai đã phát tâm Bồ-đề ở trong đạo sáng. Hàng phục ma oán, diệt trừ cái chướng, cho nên thứ hai, màu vàng là màu Ta-la thọ vương, khi thành chánh giác muôn đức tròn đầy, đều đến mé thật Kim cang, do đó xếp vào thứ ba, xanh là màu Vô lượng thọ, đã đến mé thật Kim cang liền đem phương tiện gia trì, khắp hiện đại bi Mạn-đồ-la, như giữa hư không trong sạch chứa đủ muôn vật, vì thế xếp vào thứ tư. Màu đen là màu Cổ Âm Như lai, vì thế gần dấu vết Phổ môn đều để hiển bản. Bản: tức là địa tự tướng của Như lai, trụ đại Niết-bàn, nếu bỏ thần lực che chở thì tâm tất cả chúng sinh không có cảnh giới kia, vì thế màu sắc sâu lại ở sau cùng.

Lại nữa, giống như vải sạch ở thế gian, trước ăn màu nhuộm, sau cùng đen là màu nhuộm cuối cùng, vì đậm nhất cho nên không thể thêm nữa, do đó ở sau cùng, nghĩa màu sắc Mạn-đồ-la cũng giống như vậy. Trắng nghĩa là vượt một trăm sáu mươi tâm dơ, đây gọi là sắc tín cho nên trước tiên. Đỏ nghĩa là siêng năng mạnh mẽ, là màu sắc tinh tấn cho nên xếp vào thứ hai. Vàng nghĩa là khi nhất niệm tương ưng, định tuệ ngang nhau, “thất giác” khai mở, ấy gọi là sắc niệm, vì thế ở thứ ba. Xanh nghĩa là Đại không Tam-muội, đó gọi là sắc định cho nên xếp vào thứ tư. Đen nghĩa là đại Niết-bàn, tức là tuệ rốt ráo của Như lai, ấy gọi là sắc tuệ, vì thế ở thứ năm. Hoặc có thuyết nói rằng, màu trắng đầu tiên, màu vàng thứ hai, đỏ xếp vào thứ ba, xanh ở thứ tư và đen xếp vào thứ năm, đây là y theo sự dung nạp sâu cạn mà có chứa nghĩa hữu thượng.

Lại trắng nghĩa là tín cho nên trước hết, vàng giống như Kim cang không thể phá hoại cho nên nghĩa tấn, do đó xếp vào thứ hai. Đỏ nghĩa là chướng tâm trừ sạch, hòa quang chiếu bày, đó nghĩa là niệm, vì thế thứ ba, ngoài ra như trên đã giải thích, pháp môn nêu bày đều khác nhau.

Lại nữa, trắng là màu sắc vắng lặng tai nạn, nghĩa Như lai Bộ, do đó đứng đầu tiên. Vàng là màu tăng ích, nghĩa Liên Hoa bộ, vì thế xếp vào thứ hai. Đỏ là màu hàng phục nghĩa Kim cang bộ cho nên ở thứ ba.

Xanh là thành tựu các việc, cũng sinh ra hình dáng tùy loài, cho nên xếp vào thứ tư. Đen nghĩa là thâu nhiếp kêu gọi, tức là các vị vâng lời chỉ dạy đã làm các việc như phẩn nộ… do đó xếp vào thứ năm.

Lại nữa, như ở thế gian màu sắc vẽ không ngoài năm màu, nhưng còn có các màu liên quan với nhau đậm nhạt khác nhau. Người trí tuệ khéo léo, giỏi chia bày, sinh thành muôn hình tượng không có cùng tận, màu pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận cũng giống như vậy. Nói tóm lại không quá năm tự môn, nhưng cũng lại cùng nhau phát huy thành các thứ trí ấn khác nhau. Như lai dùng Phổ môn khéo léo vẽ bản đồ bi sinh Mạn-đồ-la cho đến sinh ra các hình tùy theo loại nhiều như số cát bụi trong thế giới còn không cùng tận, hoặc người tu Du-già hoặc người được ý trong đây, phải xúc chạm với nhiều loại tự tại để làm, trong vắng lặng chân như sẽ ở thứ mấy? Như trong kệ đã nói: hãy nêu tất cả pháp môn và đưa ra cương lãnh ấy.

Kinh chép: trước đặt bày màu bên trong không đặt bày màu bên ngoài. Về phương pháp vẽ đồ tượng, trước phải kiến lập trong tâm Bí Mật Liên Hoa tạng xong, kế đến lập lớp thứ nhất ba điểm chữ y và các quyến thuộc bên trong. Tiếp theo làm lớp thứ hai bốn Bồ-tát… và các đại quyến thuộc. Cho đến lớp quyến thuộc thứ ba là cõi trời và cõi người. Lại các đường ranh giới, ở giữa đến lớp thứ nhất phải đủ năm màu.

Trước hết, lấy màu trắng làm ranh giới chung quanh xong, sau ở ngoài màu trắng rào ranh giới màu đỏ, ngoài màu đỏ rào màu vàng, lại ngoài màu vàng rào màu xanh, lớp ngoài cuối cùng lại rào màu đen. Lớp thứ hai kia, cũng như trên thứ lớp mà rào ba màu trắng, đỏ, vàng. Lớp thứ ba ranh giới chung quanh chỉ rào toàn một màu trắng, đều cho thật đều nhau và ngay thẳng, lần lượt xoay theo chiều bên phải mà rào, những đường ven ở ngoài chỗ cúng dường và đường đi kia, tùy theo làm ranh giới hoàn toàn một màu. Cù-hê (hê) nói chỉ dùng màu trắng. Sở dĩ trước dùng màu trắng, từ trong đến ngoài là vì ở đây nói năm thứ căn lực của tâm Bồ-đề dần dần rộng lớn, cho đến trụ trong Đại Bát-niết-bàn thì khắp mọi nơi không có chỗ nào không trụ, màu đen ở đường ngoài cũng vậy. Nếu từ cạn đến sâu theo dấu vết trở về nguồn gốc thì Thếtôn trở xuống đồng sáu đường làm quyến thuộc sơ tâm, khai phát tâm Bồ-đề thanh tịnh.

Nếu khi chúng sinh nhập minh môn này, vượt qua một trăm sáu mươi tâm thì đã vượt khỏi địa vị Bồ-tát ở thế gian. Vì thế, lớp thứ ba

Mạn-đồ-la chỉ lấy màu trắng làm ranh giới. Lớp thứ hai Mạn-đồ-la ở trên màu trắng lại thêm màu đỏ, màu vàng; màu đỏ là hết sức mạnh mẽ trong tâm Bồ-đề tiến tu muôn hạnh, màu vàng là nhớ nghĩ Như lai muôn đức mở bày.

Bấy giờ, liền nhập cửa màu nhiệm nhiều lớp ở cõi Tịnh quang cho đến gần bổ xứ vì còn không biết một người. Do đó, ở lớp thứ hai chỉ dùng ba màu làm ranh giới. Lớp thứ nhất Mạn-đồ-la, ở trên ba màu lại thêm màu xanh và màu đen. Xanh là Đại không Tam-muội, có chỗ nói thân, miệng, ý mật Như lai gia trì không cùng tận nên làm màu đại hư không. Hắc nghĩa là thân Như lai tuổi thọ thường trụ, thân nhiệm mầu như thế rốt ráo vô hình tượng, cho nên có màu đen đậm.

Hai câu này là bí mật của Như lai, không khắp vì tất cả chúng sinh cho nên nói là môn quyến thuộc. Lại khi nhập màu sắc đen đậm tức là Thai hoa tạng trong tự chứng của Như lai.

Bấy giờ, thấy màu năm trí đều giống màu sắc cả pháp giới, làm gì có đậm nhạt khác nhau mà chúng sinh có người chậm nhập vào, có người vượt lên, có người đốn nhập. Như thế chỗ kia cuối cùng đồng trở về, do đó nói tất cả đều đen đậm.

Kinh chép: Kiến lập Tiêu xí Môn, lượng đồng với trong Thai tạng, sương vệ cũng giống như vậy, đài hoa mười sáu cánh, ở hai cửa Mạnđồ-la, đều dựng ngọn cờ để làm cờ nêu gọi là Tiêu Xí Môn, hai cây cách nhau chừng một thước, phải dựng cho ngay thẳng đều nhau ở trong Thai. Trên đặt cây nằm ngang, chiều rộng cũng giống như vậy, trên cột cờ đều đặt mặt trăng nằm ngửa, dưới mặt trăng đặt hình tượng lá cờ. Dùng vải lụa cắt ra thành miếng vuông, có thể ở góc lấy xé ra làm hai lá, mỗi lá treo ở ngoài cột cờ, trên nhọn rũ xuống. Bốn góc bên cũng đặt cột cờ và mặt trăng nằm ngửa, cờ nêu kia đặt ở hai hướng, trong cửa đại dõng mãnh trên mặt trăng nằm ngửa đều đặt ngọc như ý, cửa Kim cang thủ trên mặt trăng đều đặt Thương Khư, trên bốn góc kia đều đặt vật báu, chỗ cửa giáp sương vệ như hình chữ á.

Ở đường chung chính giữa, mỗi mé cong đều đặt que Kim cang, đầu que như một bộ phận hình Bạt-chiết-la, lưới kia nhọn sắc, một chái nhà sáu que, hai bên gồm mười hai que, bốn cửa và bốn góc gồm có hai mươi tám que. Ba lớp so sánh theo đây có thể biết, cùng đầy đủ chỉ năm màu, đều dùng chân ngôn bất động hoặc chân ngôn hàng tam thế, gia trì một trăm lẻ tám biến hoặc một ngàn lẻ tám mươi biến, A-xà-lê ngày đêm tác pháp đã vẽ Mạn-đồ-la xong.

Trước quán trong thai và viện thứ nhất biết quan hệ không ít, tức là que Kim cang dưới. Dùng que Kim cang kia vây bọc chung quanh đến chỗ cửa chung thì dừng lại không cần cắt ngang, ba lớp đều đặt như vậy. Nếu không thể như thế thì ở viện thứ ba chắc chắn phải đầy đủ pháp này, không được thiếu sót, đến chỗ cửa chung, phải đưa chỉ tùy theo cửa mà quấn, cong lại đưa lên, không để quá đầu. Đã kiết giới xong, phải theo cửa ra vào không được liền vượt qua chỗ khác, mỗi khi ra vào vẫn phải tụng chân ngôn bất động. Nếu là A-xà-lê Du-già thì cũng có thể đi chung quanh lấy chỉ quấn, nếu khi phải ra vào thì nghĩ tưởng đưa chỉ này xuống thấp mà qua, qua rồi liền trở lại như cũ. Hoặc cách xa cửa gấp cần ra vào thì phải quán thân mình là Tỳ-lô-giá-na dùng thân không quái ngại, không được nghĩ là vượt qua chỉ, tùy ý ra vào không có lỗi. Giữa sáu cây cọc chỗ quay lại đều khiến thước đo dừng lại. Vẫn phải đi con đường chung qua lại giới viện. Ở hai bên chái nhà của cửa ngoài cùng cũng bằng với trong thai, cho nên nói “sương vệ” cũng giống như vậy. Đài hoa là chỗ quán đảnh, quy chế đàn liên hoa, hoàn toàn giống như trong thai tạng tám cánh, rất nhỏ bằng mười sáu ngón tay, các nghĩa khác dưới đây sẽ nói lại. Chỉ mở một cửa, cửa ấy sao cho hướng về đàn lớn. Kệ nói: Nên biết cửa ban đầu kia, cùng trong đàn bằng nhau, nghĩa là tướng cửa lớp thứ nhất, phải y theo chín phần mà làm cho rộng hẹp ngay thẳng, khiến đường chính trong cửa ngang xứng với tim hoa tạng. Ngoài ra lớp thứ hai, thứ ba cũng lấy đây để y theo mà chia, tự nhiên dần dần rộng thêm đều được vừa chừng. Ở lớp thứ hai trong cửa chái nhà đặt hai anh em rồng đầu đàn, Nan-đà ở phía Nam, Bạt Nan-đà ở phía Bắc. Kia còn dùng các thứ báu trang nghiêm, đại khái giống như phẩm vị bí mật Mạn-đồ-la. A-xà-lê nói nếu làm bí mật thích thì bốn phương hướng cùng ngay thẳng bằng nhau, đó nghĩa là bốn Niệm xứ, bốn cửa là bốn Tịnh lự cũng là bốn Nhiếp pháp, xa cửa là bốn Phạm trụ, chái gốc là bốn Chánh cần, bốn Duy là bốn Chân đế. Cọc Kim cang tức là Tu-đa-la. Lấy đây gắn liền ba mươi bảy phẩm trợ đạo làm thành pháp môn. Vì thế, tướng nêu ngoài cửa lượng dài ngắn rộng hẹp, đều giống trong thai, là nói tất cả pháp môn của Như lai đều tương xứng với pháp giới cho đến không thêm bớt mảy may, lại hiệp với chỗ thực hành Trung đạo, ngay trung tâm đài hoa sen tướng thật, dấu vết Phổ môn kia xa lại càng rộng, cho nên nói người trí ở ngoài viện dần dần tăng thêm.

Kệ nói: Nói lược Tam-ma-địa, nhất tâm trụ ở duyên: Từ đây trở xuống là trả lời chi phần Mạn-đồ-la, nếu người chưa tu Du-già thì không được làm A-xà-lê, do liên quan chi phần cho nên pháp sự không thành. Trong kinh, trước hết giải thích lược danh nghĩa Tam-muội, sau nói sâu rộng. Ban đầu giải thích sơ lược: Nghĩa là tâm buộc duyên vào một cảnh mà không rong ruổi tán loạn, đó nghĩa là “đẳng trì”.

Do đó, kệ nói: Nói lược Tam-ma-địa, nhất tâm trụ vào duyên, hơn nữa nhờ có tướng Du-già, tự có ba thứ thượng, trung, hạ. Thượng nghĩa là quán thân Như lai Tỳ-lô-giá-na… trung nghĩa là quán thân các Bồtát như Văn-thù-sư-lợi… hạ nghĩa quán thân Nhân-đà-la… và tùy loại, tất cả đều như Mạn-đồ-la đã chỉ bày, hình sắc, oai nghi, bí mật, cách thức, hoặc ấn, hoặc tự, chỉ nhất tâm trụ vào duyên không để tán loạn, đó là môn Tam-muội của vị ấy. Tóm lại, như hải hội Tam-muội-da các vị Thiện tri thức nhiều như số cát bụi trong cõi Phật, đều nhập một thứ pháp giới Tam-muội môn. Nếu nhìn toàn bộ đại chúng Phổ môn như thế, nhất tâm trụ duyên không còn tán loạn thì đó là Phổ nhãn Tammuội môn, cũng gọi là Phổ môn thế giới Tam-muội môn.

Như một môn và tất cả môn, hoặc nhập Tam-muội môn thuộc bộ Chánh biến tri, hoặc chỉ nhập Tam-muội môn thuộc bộ Liên Hoa, hoặc chỉ nhập Tam-muội môn thuộc bộ Kim cang, hoặc do Bồ-tát Văn-thù và các quyến thuộc đều khắp nhóm họp làm thành một “Tam-muội môn”. Ba vị Bồ-tát khác cũng giống như thế, tùy theo tâm lượng tu hành của vị lớn hay nhỏ mà các thứ khác nhau. Hành giả tu tập Du-già, hoặc quán bổn tôn, hoặc quán bí mật ấn, hoặc quán chân ngôn có các cảnh giới hiện ra, không giống với bản quán thì đều là tà kiến.

Như ở trong định hoặc thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đẹp, hoặc thấy hoa sen chúa lớn đầy khắp hư không, hoặc thấy cây báu lầu gác tốt đẹp trang nghiêm, giống như cung điện cõi trời và các cõi thanh tịnh, hoặc bỗng nhiên không còn có tướng thân tâm nữa, hoặc thấy các Đức Phật, Bồ-tát vô lượng đại chúng, hoặc nghe các âm thanh kỳ lạ, hoặc thấy treo ngược ở dốc núi cao đến ngục Vô gián. Do không nương gốc sở duyên, nên đều không nên chấp lấy, chỉ cần nhất tâm ý bình thường, dù được tương ưng với cảnh giới trong định nhưng cần phải tu quán sát sâu về mười câu duyên sanh, không nên mê đắm vị ấy. Hoặc thấy cảnh giới kỳ lạ cho là tốt đẹp mà chấp trước gọi là ngã mạn định, cũng gọi là kiên chấp định, nhưng khi tương ưng với chánh quán tự nhiên được thấy vô lượng cõi Phật, Phật trong đây, nghĩa là trăm ngàn các việc, cõi là chỗ thanh tịnh. Khi tương ưng như thế, thì biết từ trước đến nay các sự tướng đều là nhân duyên, do nhân duyên như vậy cho nên có sự tướng, không do người khác ngộ mà không bị chướng ngại.

Lại nữa, thâm bí giải thích: Nghĩa là đối với mỗi thân tướng chân thật trong pháp môn của Thiện tri thức, tâm trụ vào duyên không sinh vọng tưởng nói suông, đó nghĩa là “đẳng trì”, như nhập vào tự môn A nhất niệm pháp giới, là Tam-muội Tỳ-lô-giá-na, đối với pháp Liên Hoa ấn nhất tâm bất loạn, là Tam-muội Quán tự tại, đối với Kim cang tuệ nhất tâm bất loạn là Tam-muội Bí Mật Chủ, cho đến các Tôn vị Phạm, Thích đều đối với nhất pháp giới môn mà được tự tại. Nếu đối với thân giải thoát kia, một duyên không tán loạn gọi kia là Tam-muội Tịnh Thiên Nhãn. Nếu đối với đại Bi Tạng Vân Hải được nhất tâm bất loạn, gọi là Tam-muội phổ nhãn, cũng gọi là Tam-muội Phổ hiện sắc thân, nếu Như lai trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp giảng nói nghĩa sâu rộng trong đó còn không cùng tận. Nay muốn dùng hai bài kệ thâu nhiếp, để nghiên cứu cùng tận không còn thừa.

Cho nên nói nghĩa rộng lại đặc biệt, mọi người đều nghe kỹ. Trong đây lại (có) hai: trước là nói Tam-muội ấn của Như lai, sau nói Tammuội đạo trung sai biệt ấn. Kệ nói: Phật dạy tất cả không: tức là nhập tự môn A, cho đến không có một pháp nhỏ nào thật có, cũng không có tướng “Định” gọi là Tam-muội, trụ nhất tâm pháp giới như thế, gọi là chân chính hiểu “Đẳng tri”. Vì sao? Vì nếu ra khỏi tâm tánh này, ở ngoài có cảnh giới có thể duyên thì không phải cảnh thường trụ, vì khi bốn tướng thay đổi thì tâm trụ duyên cũng phải chuyển động theo cảnh giới, làm sao gọi là định?

Vì thế cho nên chân chính hiểu biết Tam-muội là biết các pháp vốn không sinh, thì ai là người tâm tự chứng tâm, tâm tự biết tâm, từ xưa đến nay, thường như thật tế không có biến đổi, tức là do tâm tự trụ như vậy, duyên như vậy, cho nên gọi là “đẳng trì”, đây chính là Bổn Tôn Tỳ-lô-giá-na đã hiện kho vô tận trang nghiêm, cũng không xa lìa Bổn Tôn như vậy. Nếu người quán khác đều gọi là tà quán, cho nên kế là nói Tất định ấn rằng, Tam-muội chỉ chứng tâm không từ duyên khác được, nếu căn cứ vào bản Phạm nói thực thì phải nói kia càng không có đắc khác, ý nói lại không từ chỗ khác được.

Kế là nói: cảnh giới kia như thế, tất cả định Như lai: như kinh Đại Bát Niết-bàn chép: Tất cả người có tâm, thảy đều có Phật tánh, Phật tánh này tức là định Thủ-lăng-nghiêm, cũng gọi là Tam-muội Kim cang, cũng gọi là Bát-nhã ba-la-mật, đạo của các Đức Phật đồng nhau không còn đường nào khác. Nếu người tu hành khi mới phát tâm, có khả năng chánh quán tâm tánh thì cũng gọi là nhập định Như lai, đâu nhọc gì dần vượt tứ xứ, mới đến rốt ráo.

Lại nữa, người tu Du-già, nếu mong oai thần các Đức Phật che chở, cho đến ở trong Tam-muội, thấy đủ các chúng nhiều vô lượng trong mười cõi Phật và Vô lượng Thánh Tôn ba thứ mật ấn, không lẫn lộn nhau, hoặc lại nhất tâm bất loạn chuyển thành tự thân, tuy là lạ lùng đặc biệt khó suy nghĩ, do còn có tướng có duyên nên gọi là Tammuội thế gian. Nếu khi Tam-muội này hiện ra, hành giả quán sát Mười câu duyên sanh trừ hết tất cả vọng tưởng lời nói vô nghĩa, tương ứng với không tịch thì liền ngộ hải hội Mạn-đồ-la như thế, thảy đều từ các duyên sinh, như hình trong gương, trăng đáy nước, thành Càn-thát-bà… quán sát không có tánh tướng, ấy gọi là Tam-muội xuất thế gian, nhưng vì còn mắc bệnh “không” chưa không, do đó chưa được gọi là đại không, đến khi ngồi đạo tràng được tự chứng tâm tánh, thì biết những cảnh giới gia trì ấy đều là nói thật của tâm, bấy giờ, tâm không trụ tướng, cũng không nương không, lại soi thấy không và bất không, rốt ráo vô tướng mà đủ tất cả tướng, vì thế nên gọi là Tam-muội đại không. Trụ Tammuội này tức là trụ trong tuệ vô chướng ngại của Phật.

Phật dạy: người này trí Nhất thiết trí rốt ráo tròn đầy, cho nên kinh chép: Đại không đây đủ Tát-bà-nhã.

Quyển thứ hai của kinh này trước hết nói: Bấy giờ, Đức Thế-tôn Tỳ-lô-giá-na cùng tất cả các Đức Phật đồng nhóm họp, mỗi Đức Phật đều nói tất cả đạo lý Tam-muội của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát: Như lai đã nói rốt ráo tam không Tam-muội ấn, là giúp người của phổ môn tiến lên không có giữ lại. Lại nói Tam-muội đạo trung sai biệt ấn, ba lớp Mạn-đồ-la đã chỉ bày các loại hình, đều là một thứ pháp môn thân của Như lai, thế nên đều gọi là Phật, tất cả các Đức Phật này đều từ gốc mà lưu thông pháp môn, tự nói đạo lý Tam-muội kia, nếu đời nay thân ở cõi trời thì nói đạo lý Tam-muội ở cõi trời ấy.

Nếu hiện thân Thanh văn thì nói đạo lý Tam-muội của Thanh văn, nếu hiện tại thân Bích-chi-Phật thì nói đạo lý Tam-muội Bích-chiPhật, nếu hiện tại thân Bồ-tát thì nói đạo lý Tam-muội Bồ-tát. Nếu hiện tại thân Trì Kim cang thì nói Tam-muội Kim cang đạo. Phải biết kệ tụng trong đây rất nhiều như cát bụi trong cõi nước, kinh điển mà thế gian kết tập không thể ghi chép hết được, nhưng nếu khi người tu hành nhập sâu cảnh giới Tam-muội Du-già tự sẽ nghe biết rõ ràng, như khi đang nói không khác, vì thế cho nên gọi là Phật Đại Nhật gia trì.

Kinh chép: Bấy giờ, Đức Phật nhập vào Tam-muội Nhất thiết Như lai nhất thể tốc tật lực: nghĩa là khi nhập Tam-muội này thì biết thể tất cả Như lai đồng nhất pháp giới, trong một niệm có thể lần lượt quán sát Tam-muội môn giống như cát bụi trong vô lượng cảnh giới, biết bao nhiêu chúng sinh như vậy, như vậy, ở trong vô lượng Tam-muội môn kia nên được nhập đạo, biết Thiện tri thức kia, đã vì bao nhiêu chúng sinh tạo nên hạt giống nhân duyên, hoặc có chúng sinh nhập pháp môn như vậy, có thể được vượt lên thành Phật, nhập pháp môn khác, chìm đắm dài lâu không được thành Phật. Như vậy các căn tánh khác nhau, phương tiện tiến đến cũng khác theo, cho đến dạo chơi trong đó, lần lượt tu tập ra vào xuất thế gian, đối với mỗi môn đều được thành tựu vô lượng chúng sinh, do đó gọi là Tam-muội Nhất thể tốc tật lực.

Bấy giờ, Thế-tôn quán sát khắp rồi, biết rõ các thứ đạo lý Tammuội đồng trở về nhất thể, đều là Phật thừa, lại vì Chấp kim cang nói tất cả đạo lý Tam-muội thành Bồ-đề ấn, trước hết có hai bài kệ nói về dấu vết ngoài của việc thành Phật. Nghĩa là Đức Phật lúc mới ngồi ở đạo tràng dùng Tam-muội nhất thể tốc tật lực này hàng phục các chúng Thiên ma, nhưng trong đó còn có chỗ khó hàng phục, cái gọi là ma phiền não… không có hình tướng nơi chốn cũng không có dấu vết, khó có thể giác biết, ở trong một niệm cũng đều diệt hết, vì thế nói hàng phục bốn ma.

Dùng âm thanh rất mạnh mẽ: nghĩa là Đức Phật dùng lời thành thật bảo ma Ba-tuần: Ta trong vô lượng vô số kiếp vì điều phục chúng sinh nên xả bỏ thân mạng không thể kể số, mà nay đều đã thành tựu, có căn cơ nhập đạo ta sắp chứng Bồ-đề, mở bày mắt sáng cho các chúng sinh kia, thế lực của ông có thể cản trở được? Khi nói lời ngay thẳng này, tất cả chúng sinh đều dứt lo sợ, thiên ma bất tỉnh ngã xuống đất, thảy đều lùi tan. Nếu có chúng sinh thọ trì tam giác ấn như thế cho đến trừ vô lượng sợ hãi trong ngục Vô gián, huống chi là sợ Thiên ma quỷ thần hay sao? Do đó nói dùng âm thanh rất mạnh mẽ dứt, trừ sợ hãi cho chúng sinh. Bấy giờ, thần đất vui mừng xoay vần khen nói, âm thanh vang đến cõi Tịnh Cư, khi ấy, Đại phạm thiên… tám bộ chúng sinh đều thấy dấu vết hàng phục ngoại ma này, cho nên có tên hiệu là Đại Cần Dõng.

Nhưng chỗ ta thật thành Phật thì các chúng kia không thể suy lường được. Cho nên tiếp theo có hai bài kệ nói thật nghĩa Bồ-đề: Bản giác ta không sinh nghĩa là biết tự tâm xưa nay không sinh, tức là thành Phật, mà thật không giác không thành. Tất cả chúng sinh không hiểu biết thường vắng lặng như vậy. Do ý tưởng phân biệt nên quấy nói có sinh, luân hồi sáu nẻo không tự ra khỏi. Nay tuy nghe lời chánh pháp trở lại ở trong các việc hữu vi, mưu tính tìm cầu trông mong thành Phật, lý làm sao có được, vượt qua đạo lý lời nói ấy, từ đây trở xuống đều là chuyển giải thích tự môn A bản giác không sinh tức là Phật, pháp Phật tự chứng không phải suy lường phân biệt mà có thể đạt đến, cũng không thể truyền trao cho người. Luận Trí Độ chép: Lời nói hết rồi, ý không chỗ hành.

Các lỗi được giải thoát: Tất cả vọng tưởng phân biệt gọi là lỗi, tức là các lời nói vô nghĩa, sinh diệt, đoạn thường, một khác, qua lại. Vì không biết tướng thật các pháp, thảy đều đáng phá đáng chuyển. Nếu hiểu các pháp vốn không sinh thì đối với tất cả tội lỗi như thế đều được giải thoát, vì thế thân Kim cang xa lìa trăm phi.

Xa lìa các nhân duyên: nếu thể pháp giới có tướng sinh diệt thì có nhân duyên đáng được giảng nói. Nhưng nay pháp từ duyên sinh thì không có tự tánh. Nếu không có tự tánh thì đó là xưa nay không sinh, nhân duyên hòa hợp thì cũng không phát khởi, nhân duyên chia lìa thì cũng không có cùng tận, thế nên như hư không thanh tịnh, không bị biến đổi. Đại kinh cũng chép: Chỉ có Như lai lìa các nhân duyên. Biết “không” bằng với hư không: Xưa nay không sinh tức nghĩa là “không” rốt ráo. Vì tự tánh thanh tịnh không bờ mé, không phân biệt, do đó đồng với đại không, cho nên để thế gian dễ hiểu “không” nên thí dụ “không” không thể suy nghĩ bàn luận.

Sinh trí như tướng thật: Tướng thật của tâm, tức là Tỳ-lô-giá-na khắp mọi nơi chốn. Khi Phật ngồi đạo tràng như pháp tướng hiểu biết, các kiến chấp không đúng như thật thảy đều không còn. Vì thế cho nên, Tuệ Tát-bà-nhã đồng với hư không. Đã lìa tất cả tối tăm: Đối với tất cả pháp tướng không biết đúng như thật, tức là vô minh, cho nên khi giác vốn không sinh, tức là nói sinh khắp pháp giới, dùng Nhất thiết chủng quán tất cả các pháp, đều thấy, nghe, hay, biết.

Thật không dơ bậc nhất: Đây là nhất thật sự, không còn gì cao hơn, gọi là mé thật bậc nhất. Cái gọi là tự tánh thanh tịnh tâm, do lìa tất cả tối tăm, tri kiến Phật không còn dơ bẩn, đều là chuyển giải thích nghĩa vốn bất sinh.

Kế là có hai câu kết nói rằng: các đường chỉ tưởng danh Phật tướng cũng giống như vậy. Nói chúng sinh trong sáu nẻo đường cùng Đức Phật Tỳ-lô-giá-na vốn không hai thể, chỉ là tùy theo các thứ vọng tưởng của chúng sinh, mà lập các thứ tên gọi mà thôi, Phật cũng giống như vậy. Tất cả đệ tử ở thế gian, thấy dấu vết thành đạo, hàng phục ma chúng, phương tiện độ người của ta, tùy theo tâm tướng kia mà khen ngợi giảng nói, hoặc nói đại Sa-môn, hoặc nói đại cần dõng, cho đến kinh Hoa Nghiêm nói: Trong một thế giới có vô lượng tên khác nhau, chẳng nói tự chứng đối với pháp, như kia đã nói có thể chỉ bày. Kế là một bài kệ lại giải thích chung về thế đế, nói nguyên nhân khởi giáo, cho nên nói: Mé thật bậc nhất này, nhờ năng lực gia trì, vì độ các thế gian mà dùng văn tự để nói, nghĩa là dùng Phật nhãn quán sát các thứ danh ngôn ấy, lại cũng không ra ngoài mé thật bậc nhất, nhưng nhập đạo nhân duyên của các chúng sinh đều khác nhau. Nếu phải dùng lời nói văn tự mới được độ thì Như lai không động mé thật, dùng thần lực tự tại, gia trì thanh tự kia mà giảng nói. Nếu chúng sinh như pháp tu hành, khi được tương ưng với tam mật thì biết thế đế không khác Đệ nhất nghĩa đế.

Kinh chép: Bấy giờ, Chấp kim cang đầy đủ đức, được điều chưa từng có khai mở tuệ nhãn, đảnh lễ bậc Nhất thiết trí, mà nói kệ: Cụ đức nghĩa là đầy đủ tất cả công đức bí mật trang nghiêm của Như lai, giống như khi hoa sen lớn lên đầy đủ, được ánh sáng mặt trời chiếu đến, tự nhiên nở ra đẹp đẽ đáng yêu. Chấp kim cang cũng giống như vậy, tâm nhãn hoa sen gặp ánh sáng Bồ-đề ấn, nở tròn rõ ràng đầy đủ các đức, đầy đủ vẽ đẹp rỡ ràng ở bên trong và hình dáng bên ngoài, cũng có tướng mắt hoa sen xanh mở ra, mà nói già-tha hiểu rõ ý chỉ trước.

Trước hết nói: Các Đức Phật rất ít có, quyền trí không thể suy nghĩ bàn luận: vẫn còn bản Phạm nên nói tất cả các Đức Phật ít có, trí phương tiện không thể suy nghĩ bàn luận.

Trí: Nghĩa là hiểu rõ giác vốn không sinh trong bài kệ trước, phương tiện nghĩa là hiểu rõ thần lực che chở trong bài kệ trước.

Lại nữa, trí là đài hoa sen tâm đầy đủ, phương tiện nghĩa là nhụy cánh nở tròn, đầy đủ hai thứ không thể suy nghĩ bàn luận, cho nên nói ít có.

Lại nói lìa tất cả lời nói vô nghĩa, pháp Phật tự nhiên trí: đó là rộng khen ngợi trí không thể suy nghĩ bàn luận mà vì thế gian nói, đầy đủ các ước nguyện: ấy là rộng khen ngợi “phương tiện” không thể nghĩ bàn luận. Nếu pháp nương thầy mà được, từ nơi các nhân duyên sinh tức là tướng nói lời vô nghĩa sinh diệt, không phải pháp tánh, tuệ tự nhiên của Đức Phật, nếu là tuệ tự nhiên thì không phải do tu học mà có, cũng không thể trao cho người, như nội chứng vị cam lồ cõi trời, dù cho dùng mọi cách nói cho người chưa nếm nghe cũng không thể hiểu được. Nhưng Đức Phật dùng năng lực phương tiện lớn, dùng pháp thân vô tướng làm thành danh tướng gia trì, giúp các chúng sinh theo pháp nhân quả chứng được pháp chẳng phải nhân, chẳng phải quả, do đó, nói đủ hai tuệ quyền, thật không thể suy nghĩ bàn luận.

Lại nói: tướng chân ngôn như vậy thường nương vào hai đế: là kết

thành hai trí không thể suy nghĩ bàn luận, hiểu rõ ý Nhị Đế ở văn trên lập ra, do biết danh tướng tức là mé thật có thể đem thực tế (mé thật) gia trì mà làm thành danh tướng, vì biết cạn lược tức là sâu xa, có thể từ sâu xa làm thành cạn lược, tùy theo nghiệp lợi mà chúng sinh thành tựu, đều chân thật không luống dối, nếu khi hiểu được thế đế này, tự sẽ thông đạt Đệ nhất nghĩa đế, do đó nói các Đức Phật nói pháp thường nương vào Nhị đế.

Kế có một bài kệ nói: Tin, hiểu, Bồ-đề ấn của Phật được vô lượng nhóm phước, cho nên nói: nếu có các chúng sinh hiểu biết giáo pháp này, người đời nên cúng dường cung kính giống như Chế-để (tháp), chế-để là nói nương ở xá-lợi sinh thân, cho nên đó là phước thầm của các vị trời và người đời, thảy đều cúng dường. Nếu người tu hành tín nhận, nghĩa ấy thì tức là chỗ nương tựa của pháp thân xá-lợi, xứng đáng được tất cả thế gian cung kính cúng dường.

Lại nữa, tiếng Phạm Chế-để cùng Chất-đa thể giống nhau. Bí mật ở trong đây. Nghĩa là tâm là tháp Phật, như Mạn-đồ-la thứ ba, lấy tự tâm làm nền, lần lượt tăng thêm, cho đến sắc Niết-bàn trong thai, cao nhất trong đó, do đó chế-để này rất cao, lại từ tám cánh trong thai tạng lần lượt tăng thêm, cho đến tùy theo loại thân phổ môn thứ ba, không chỗ nào không khắp, vì thế chế-để này rất rộng. Đài hoa sen Đạt-mađà-bộ cái gọi là xá-lợi pháp thân. Nếu chúng sinh hiểu tâm Bồ-đề ấn này tức đồng với Tỳ-lô-giá-na, do đó nói: thế gian nên cúng dường giống như kính chế-để.

Kinh chép: khi Chấp kim cang nói kệ này rồi, nhìn kỹ Đức Phật Tỳ-lô-giá-na mắt không tạm rời, ngồi im lặng, khi Chấp kim cang đã nghe rốt ráo Tam-muội ấn, muốn hỏi ấn sai biệt trong đạo lý Tammuội, nếu đem lời nói bạch Phật thì sợ trái với chỗ chí lý, vì thế im lặng một lòng nhìn Phật mà ngồi, tức là phải phát khởi lời hỏi rất sâu.

Lại nữa, Chấp kim cang đứng im lặng là muốn chỉ bày nghĩa Như lai soi chiếu căn cơ, như bình thường giáo đã truyền nói Đức Phật ngày đêm ba thời quán chúng sinh nào đáng giáo hóa mà độ thoát, đây là tùy theo tâm lượng Thanh văn tự nói như vậy mà thôi. Nếu Phật nhãn quán rồi mới thấy, không quán thì không thấy gì cả, khi quán thì trí tuệ sinh, không quán thì trí tuệ không sinh, đó là cảnh sinh diệt, sáng tối, không được gọi là bình đẳng đại tuệ. Vì Như lai vô tướng, vô phân biệt, tuệ pháp như thế, không ngăn ngại, thường soi chiếu căn duyên pháp giới, như biển lớn thủy triều không bao giờ quá, thế nên Kim Cang Thủ thích hợp các căn cơ có thể truyền, Như lai liền giảng nói cho họ nghe, không đợi hỏi mới trả lời.

Lại nữa, kim cang thủ hiểu rõ thế đế tức là Đệ nhất nghĩa đế, chỗ đang làm không khác chỗ rốt ráo, vì thế im lặng không nói. Như lai biết rõ Đệ nhất nghĩa đế tức là “thế đế”, chỗ rốt ráo cuối cùng không khác chỗ đang làm. Do đó không phân biệt nói, vì muốn giúp chúng sinh thông đạt tướng nhị đế, lại cùng phát minh, thật đồng quy nhất trí. Y theo chỗ Như lai trả lời lược có bốn câu. Câu thứ nhất nói: Lại nữa, Bí Mật Chủ: Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, trụ Phật địa Tam-muội đạo, xa lìa sự tạo tác, biết tướng thế gian, trụ trong nghiệp địa đứng vững trong Phật địa, đây là địa vị quán đảnh bậc nhất, cho nên nói trước, như trong các kinh khác đã nói, đây là Bồ-tát Nhất sinh sở hệ, từ đây sinh lên cõi trời Đâu-suất, sau đó nối tiếp địa vị Phật, do đó gọi là Nhất sinh bổ xứ. Khi mới được tâm Bồ-đề thanh tịnh từ nhất thật địa sinh khởi vô lượng, vô biên Tam-muội Tổng trì môn như thế, trong mỗi địa lần lượt lớn lên, nên biết cũng giống như vậy, đến Địa thứ mười đầy đủ, cuối cùng đến Địa thứ mười một.

Bấy giờ, từ cảnh giới nhất thật đầy đủ sinh ra tất cả trang nghiêm chỉ thiếu một địa vị Như lai chưa chứng biết, còn có một lần pháp tánh chuyển sinh, liền bổ vào chỗ Phật, do đó gọi là Nhất sinh bổ xứ, đây là phát tâm Bồ-đề rốt ráo trong tất cả đạo lý Tam-muội.

Lìa các tạo tác: Tác nghĩa là sửa đổi nghiệp địa (đất nghiệp), cho đến trang nghiêm cõi Phật thành tựu chúng sinh. Vì có trí phân biệt tâm nên còn là tướng thế gian, nay Bồ-tát này thực hành Tam-muội Đại không, xa lìa nói rộng (lời nói vô nghĩa) vô cùng nhỏ nhiệm pháp từ duyên sinh, do đó nói xa lìa tạo tác. Như tướng thế gian: nghĩa là biết đúng như thật về mé thật thế gian, rốt ráo không khác mé Niết-bàn, lại có khả năng bất động mé thật, đều thấy nguồn gốc nhân sinh khởi thế gian, cho nên trụ trong đạo Tam-muội này, niệm niệm tiến đến địa vị Như lai, trụ trong nghiệp địa. Tiếng Phạm là Chất-ngôn phải nói là “tác địa”, tức là học sự nghiệp kim cang của Như lai, đều được khéo léo, kinh Anh Lạc cũng nói: Nhập trùng huyền môn, học oai nghi của Đức Phật. Trụ chắc Phật địa: tức là ở địa vị Như lai vững bền không lay động, gọi là trụ. Khác với nghĩa chữ Trụ ở trước. Người đói khát xin nước bỗng nhiên có ao nước trong mát, trong đó không bị chướng ngại, chỉ một lòng tiến lên không có duyên khác, gọi là Tam-muội Bổ xứ, đã đến trong ao trong mát, hy vọng đều hết, cũng là Phật địa. Vì thế, tuy đồng lên là Đại không định mà nghĩa có khác nhau.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Đạo lý Tam-muội của Bồ-tát bát

địa, không được tất cả pháp, xa lìa hữu sinh, biết tất cả như huyễn, cho nên đời gọi là Quán tự tại: như trên đã nói đạo lý Thập địa, nếu lần lượt tiến lên thì phải nói Phật địa, nếu thứ lớp trở xuống thì phải nói Địa thứ chín, vì sao nói Địa thứ tám? Vì tất cả Bồ-tát khi vượt qua Địa thứ bảy, trên không thấy các Đức Phật để cầu, dưới không thấy chúng sinh để độ, nghĩa là trụ đại Niết-bàn đối với muôn hạnh dừng nghỉ.

Bấy giờ, các Đức Phật trong mười phương từ đạo lý Tam-muội này phát khởi tâm kia, được qua vượt đất khó của tâm Bồ-đề, cho nên nói riêng. Từ đây tiến lên Địa thứ chín không nói riêng, từ đây vượt qua hoạn nạn nên không cần nói riêng chỗ thực hành ấn. Từ sơ phát tâm đến nay, quán sâu mười câu duyên sanh khi nhập tánh này vượt qua được “tánh không” ở bờ kia. Do đó nói không được tất cả các pháp, xa lìa hữu sinh, lại dùng phương tiện khéo léo, ở trong như như bất động, khởi vô biên dụng lớn mười duyên sinh, dùng Tam-muội như huyễn đến khắp các cõi Phật mười phương, gần gũi các Thiện tri thức, khắp học vô lượng pháp môn giúp đỡ người, tùy theo các chúng sinh cần những hình tượng, âm thanh, lời nói nào mà được độ thì, đều hiện ra mà nói pháp cho họ nghe, vì thế nên thế gian thấy những việc đã làm như vậy gọi là Quán thế tự tại, đó là tên khác khi mới nhập Tam-muội Liên Hoa. Tự tại trong đây, bản Phạm dịch đúng nghĩa là Phú quý, như người có thế lực rộng lớn, đầy đủ tài bảo, hễ tâm muốn gì đều được thành tựu, Bồ-tát này cũng giống như vậy, dù cho tất cả hữu tình trong các thế giới mười phương, mong cầu các thứ tư cụ thế và xuất thế gian, tùy theo sự mong muốn, các thứ khác nhau của họ, có thể dùng Tam-muội như huyễn cùng một lúc cấp cho đều được đầy đủ theo sự mong cầu của họ, nhưng chưa thể bặt dấu vết khởi dụng.

Lại nữa, trong đây nên nói sơ về pháp minh môn Tam-muội đạo, ở trong phẩm trên đã nói, nên không nói lại. Lại như trên đã nói Nhất sinh bổ xứ và Bát địa Tam-muội là y theo pháp môn giáo đạo, mà nói như thế thôi. Nhưng người bí mật thừa đối với thế đế hiện có thể thông đạt Đệ nhất nghĩa đế, từ khi mới phát tâm, liền thực hành đầy đủ Tam-muội Đại Không kia nếu nói như thế không đúng thì trong một đời không thể nhanh chóng đầy đủ các địa.

************

Lại nữa, Bí Mật Chủ! Chúng Thanh văn trụ ở địa vị hữu duyên, hiểu sinh diệt, trừ hai bên, cực quán sát trí, được nhân không thuận theo tu hành, đó gọi là đạo lý Tam-muội của Thanh văn. Như A-tỳđàm nói: chín tưởng, tám niệm, bối xả, thắng xứ, tất cả nhập tam Tammuội… đều được gọi trụ ở địa vị hữu duyên, nương vào ở Tam-muội này làm phương tiện, khiến tâm kia điềm nhiên thanh tịnh, quán sát được chân chánh, hiểu rõ pháp thế gian, xuất thế gian, thảy đều có nhân, có duyên.

Thế gian lấy Tập làm nhân, lấy Khổ làm quả. Xuất thế gian lấy Đạo làm nhân, lấy Diệt làm quả, như trong kinh A-hàm có nói rộng, trong Tỳ-ni nêu những điểm quan trọng. Cái gọi là các pháp từ duyên khởi, Như lai nói là nhân, pháp ấy nhân duyên hết, ấy đại Sa-môn nói. Do biết nhân duyên sinh diệt, diệt hữu thì không thấy xa lìa đoạn thường hai bên, được sinh trí chân đế. Vì thế gọi là Cực quán sát trí. Nhờ hết sức quán sát nên không điên đảo sai lầm, do đó gọi là Đế. Từ vô minh đến già chết, đây có cho nên kia có, đây sinh cho nên kia sinh cho đến luân hồi không bờ mé. Nếu theo đây mà trôi lăn thì gọi là thuận, đã thấy bốn chân đế rồi, ngược dòng sinh tử thực hành theo Thánh đạo, cho đến có thể tự nhớ nói, sự sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân hậu hữu, ấy gọi là không thuận theo, các hạnh không thuận theo như thế, cần Tam-muội-da làm nhân.

Cho nên được nhân không thuận theo tu hành. Tam-muội của Thanh văn, tuy các bộ khác nhiều thứ khác nhau nhưng hợp với pháp ấn như thế thì gọi là chánh hạnh, nếu không có ấn như thế thì gọi là tà hạnh.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Duyên giác quán sát nhân quả, trụ trong vô ngôn nói pháp, không chuyển vô ngôn thuyết, đối với tất cả pháp chứng cực diệt nói năng Tam-muội, đó gọi là đạo lý Tam-muội của Duyên giác, nhân quả tức là pháp mười hai Nhân duyên. Như Thanh văn cực quán sát trí, hiểu rõ chỉ là uẩn vô ngã, do tâm rất nhàm chán sợ hãi, nhanh chóng dứt trừ phiền não, tự chứng Niết-bàn, không thể phân chia tìm kiếm tướng thật mười hai Nhân duyên.

Bích-chi-Phật trí tuệ sâu sắc, có thể quán sát kỹ tướng chung, riêng, thấy tất cả pháp nhóm họp đều là pháp diệt, đây khác với Thanh văn. Kinh A-hàm chép: Pháp mười hai Nhân duyên ấy có Phật hay không có Phật thì pháp vị ấy cũng thường trụ.

Bồ-tát Long Thọ cũng nói: Pháp vị trong đây chính là tên khác của Như, đây là điều tất cả thế gian rất khó hiểu. Do đó khi Thế-tôn thành đạo không muốn nói pháp là ý ở đây. Bích-chi-Phật chỗ nhập dần sâu, vì thế nói trụ vô ngôn nói pháp. Nói Bất chuyển: Nghĩa là khi trụ ở Đệ nhất nghĩa này không có thanh tự, vì thế không thể chuyển trao cho người. Thế-tôn được tri kiến vô ngại, đối với pháp được tự tại, có thể đối với vô ngôn nói pháp làm thành danh tự chuyển trao cho chúng sinh. Bích-chi-phật trí tuệ có ngăn ngại, vì thế không thể giảng nói.

Lại nữa, Bích-chi-Phật quán tất cả pháp tập thảy đều như tướng Niết-bàn, đối với các cảnh giới hữu vi cũng đều dứt thói quen nói những lời vô nghĩa, không biết nói gì, do đó gọi là chứng cực diệt lời nói Tammuội. Người tu Du-già tương ưng với đây đó gọi là Duyên giác Tammuội. Hai thứ Tam-muội này đều là nạn xứ của tâm Bồ-đề, như thế chỉ là tu hành một thứ tâm tướng Trung đạo, chẳng phải nói tâm tánh không thể suy nghĩ bàn luận có thể có định tướng ba thừa như vậy, cho nên người hành dùng pháp ấn này tự ấn biết rồi, liền vượt thẳng qua vô ngại, nếu không có Thiện tri thức biết thì sẽ bị chướng ngại.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Nhân quả thế gian và nghiệp hoặc sinh, hoặc diệt lệ thuộc vào “tha” chủ, sinh Tam-muội không, đó gọi là đạo lý Tam-muội thế gian, nghĩa là tất cả Tam-muội thế gian. Tóm lại, cho đến chỗ rốt ráo đều là diệt hoại nhân quả và khi từ nhân biện quả đã có tạo nghiệp, nghĩa là ba việc này hoặc sinh hoặc diệt đều lệ thuộc vào tha. Tha nghĩa là thần ngã. Vì sao? Vì nếu người tu hành không hiểu nghĩa nhân duyên chân chính mà tu chứng các thiền, thì phải chấp vào tự tâm để làm nội ngã, kia thấy muôn pháp ở thế gian nhân tâm mà có thì nói do thần ngã sinh ra, nếu không nương vào nội ngã thì nương vào ngoại ngã, tức là Tự tại, Phạm thiên… nếu ở trong đây tìm cầu đến chỗ sâu xa, tự nhiên trừ diệt nghiệp nhân, chỉ còn ngã tánh, cho đến không một pháp vào tâm, mà chứng không định, là lý cùng cực nhất thế gian, cho nên gần hết ba cõi trở lại rơi vào ba đường. Tuy ở trong thiền định phát các trí thù thắng đủ năm Thần thông, nghiên cứu tông thú kia cuối cùng trở về chỗ đó. Vì thế dùng một ấn này gom chung tất cả đạo lý Tam-muội thế gian, nếu người tu hành khi nhập tâm này nên tự giác biết.

Trong kinh Phật nói nhiếp kệ, y theo năm thứ Tam-muội đạo, đại khái chia làm hai, nghĩa là bốn hạng: Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn đều gọi là xuất thế gian Tam-muội. Nếu các đường như: trời… nói giáo pháp chân ngôn đều thuộc về Tam-muội thế gian. Tam-muội xuất thế gian đều có thật ích, Tam-muội thế gian chỉ có quyền ích, do đó nói vì lợi ích chúng sinh. Như các kinh đã nói: người cầu Tiểu thừa phải thực hành quán tưởng, liền đối với giáo pháp thế gian sinh tâm nhàm chán xa lìa, người cầu Đại thừa lại đối với giáo pháp Thanh văn sinh tâm rất lo sợ, những người này vì chưa biết Bí mật tạng nên phải làm phương tiện này để nói. Căn cứ theo tông của kinh này thì năm thứ Tam-muội đều là mở cửa tướng thật của tâm, giống như hành giả bắt đầu trụ ở hữu tướng Du-già, đó là Tam-muội thế gian nhưng ở trong đây hiểu rõ chỉ là uẩn không có ngã, tức là Tam-muội của Thanh văn.

Nếu dùng mười câu duyên sanh quán các uẩn vô tánh vô sinh thì đó là Tam-muội của Bồ-đề tát, ngoài ra như trong phẩm trụ tâm nói rộng, không giống như các giáo khác do chia rõ ý nghĩa của tâm tánh cho nên năm thừa khác nhau, thường không dung hội nhau. Nếu lại làm thâm bí thích thì như ngũ vị Tam-muội trong ba lớp Mạn-đồ-la, đều là Tỳ-lô-giá-na bí mật gia trì, kia cùng tương ưng đều có thể một đời thành Phật, làm gì có cạn sâu khác nhau, nay trong kệ nói, là nói theo giáo pháp mà những vị kia đã tự lưu truyền.

Kinh dạy: Lại nữa, Thế-tôn bảo Chấp kim cang Bí Mật Chủ rằng: Này Bí Mật Chủ! Ông phải nghe kỹ các chi phần chân ngôn. Đại khái chân ngôn lược chia ra năm loại, nghĩa là Như lai nói, hoặc Bồ-tát kim cang nói, hoặc Nhị thừa nói, hoặc các vị trời nói, hoặc Địa cư thiên nói, nghĩa là các loại rồng, chim, tu-la.

Lại ba hạng trước gọi chung là chân ngôn của bậc Thánh, hạng thứ tư gọi chung là chân ngôn các tiên chúng, hạng thứ năm gọi là chân ngôn của địa cư, cũng có thể gọi chung là chân ngôn của các vị thần. Như chân ngôn của bậc Thánh cũng nói là chữ A hoặc chữ phạ… các người, trời cho đến đất quỷ thần… cư trú trên mặt đất lại cũng nói ra, tướng kia có gì khác lạ?

A-xà-lê nói: Nếu các Đức Phật, Bồ-tát nói thì ở trong một chữ có vô lượng nghĩa, hãy nói sơ lược chữ A tự có ba nghĩa, nghĩa nghĩa là bất sinh, nghĩa không, nghĩa hữu. Như bản Phạm chữ a có bản sơ thanh, nếu có bản sơ thì đó là pháp nhân duyên, cho nên gọi là hữu. Lại A ấy nghĩa là vô sinh, nếu pháp do nhân duyên mà thành thì tự không có tánh, vì thế gọi là không, lại bất sinh tức là cảnh giới Nhất thật, tức là Trung đạo, do đó Bồ-tát Long thọ nói: pháp do nhân duyên sinh vừa không, vừa giả vừa trung.

Lại Đại luận nói Tát-bà-nhã có ba tên gọi:

  1. Nhất thiết trí, giống với Nhị thừa.
  2. Đạo chủng trí, giống với Bồ-tát.
  3. Nhất thiết chủng trí, là pháp Bất cộng của Phật.

Ba trí này thật sự trong nhất tâm mà đắc, vì phân biệt giúp người dễ hiểu nên chia làm ba tên, tức nghĩa chữ a.

Lại như chữ pha cũng có ba nghĩa:

  1. Nghĩa trần.
  2. Do nhập tự môn A, tức nghĩa là vô trần.
  3. Nghĩa Ba-la-mật.

Do vì rốt ráo đến bờ bên kia tức là bản sơ không sinh, phải biết cũng đủ ba điểm, ba điểm nhiếp tất cả pháp, như chữ a, chữ phạ, nghĩa là các chữ khác đều như vậy.

Lại trong tất cả các lời nói đều mang thanh A đều đã nhiếp trong tự môn A, nếu mang thanh phạ thì đều đã nhiếp trong tự môn phạ, các tự khác cũng giống như vậy, cùng với những ngữ, những chữ, trong đại luận giải thích nghĩa cũng đồng. Văn dưới không giải thích thích rộng nữa. Hoặc các chân ngôn của Bồ-tát có chữ A, phải biết từ trong chỗ thông đạt pháp giới môn, đủ tất cả nghĩa, không phải ở trong phổ môn pháp giới đủ tất cả nghĩa, hoặc chân ngôn của Nhị thừa có chữ A. Phải biết chỉ y theo hết vô sinh trí, tịch diệt Niết-bàn, hiểu nghĩa bất sinh, nếu chân ngôn do Phạm thiên nói chữ A đó là y theo nghĩa ra khỏi năm dục, giác quán bất sinh minh, hoặc chân ngôn cứu đời của Đế-thích có chữ A là y theo thập bất thiện đạo và nghĩa tai họa bất sinh minh. Ngoài ra đều theo loại này có thể biết.

Như trên đã nói đều là theo ý và lời của người khác, nói về nghĩa cạn lược mà thôi. Nếu theo ngữ ý của mình nói sâu xa thì nhập một là đầy đủ tất cả các pháp giới môn, cho đến trời, người… đều là Tỳ-lôgiá-na có gì là sâu cạn khác nhau. Nếu hành giả có thể đối với không khác nhau mà hiểu nghĩa khác nhau, đối với khác nhau hiểu nghĩa không khác nhau, phải biết người đó thông đạt nghĩa Nhị đế, cũng biết tướng chân ngôn.

Lại nữa, trong kinh tự nói các tướng chân ngôn bài kệ đầu chép: Chân ngôn Chánh đẳng chánh giác gọi là thành lập tướng giống như “Nhân-đà-la Tông”. Các nghĩa lợi thành tựu đây là nói tướng chung chân ngôn của Như lai, ở đâ chỉ nói về Tam-muội-da chân ngôn đầu tiên. Ngôn: nghĩa là mỗi chữ, đều là một loại nhập vào pháp giới môn. Như nói a tam mê: chữ a là vô sinh môn, chữ sa là vô đế môn, chữ ma là đại không môn.

Danh nghĩa là mỗi tự môn này đều chung thành một tên. A là vô, Tam-mê là đẳng, nếu hiệp lại tức là vô đẳng, thành lập là nhờ vào cái tên này, trước sau cộng thành một nghĩa.

Như câu đầu tiên nói vô đẳng, tiếp theo nói tam đẳng, kế đến nói Tam-muội-da, tướng chung thành lập, tức là “vô đẳng tam bình đẳng Tam-muội da”.

Lại nữa, như đem nhiều tên cộng thành một câu, có chỗ nói các hành pháp là vô thường… cho đến góp nhiều câu này thành một bài kệ, sau đó nghĩa tròn đầy, tức là các hành pháp vô thường, là pháp sinh diệt, sinh diệt diệt hết, tịch diệt là vui, đều là chân ngôn đã thành lập tướng. Ngoài ra đều bắt chước đây như Nhân-đà-là tông ấy.

Nhân-đà-la là tên khác của trời Đế-thích, Đế-thích tự soạn ra thanh luận, có thể trong một lời chứa đủ các nghĩa vì thế nêu lên để làm chứng. Trí tuệ thế gian mà còn như vậy, huống chi Như lai đối với các pháp đều tự tại ư? Các nghĩa lợi thành tựu: nghĩa là chân ngôn Như lai, mỗi lời đều có khả năng thành tựu tất cả nghĩa lợi bén, trong mỗi tên cũng có khả năng thành tựu tất cả nghĩa lợi trong mỗi tướng thành lập cũng có khả năng thành tựu tất cả nghĩa lợi, thử nêu lên Tam-muội-da chân ngôn đầu tiên là chữ A, từ nghĩa vốn bất sinh liền có dụng tức tai từ vốn bất sinh, nên tất cả công đức đầy đủ không thiếu thì có tác dụng tăng ích, do vốn bất sinh nên vô lượng tội lỗi tiêu sạch không còn, liền có dụng hàng phục, lại không có một pháp ra ngoài vốn bất sinh này, tức là có dụng nhiếp triệu, như thế trong vốn bất sinh chỗ không có công thì có khả năng thành tựu tất cả các việc, giống như chữ A, mỗi chữ khác cũng giống như vậy, như mỗi chữ, mỗi danh cú và tướng thành lập đều cũng giống như vậy. Vì thế phải biết trong chân ngôn này, đầy đủ tất cả công dụng.

Đã nói tướng chung của chân ngôn xong, tiếp theo nói về tướng riêng của chân ngôn. Cho nên nói: có tăng thêm pháp cú, vốn gọi là hành tương ưng, nghĩa là hễ làm sự nghiệp chân ngôn, phải quán sát trong chân ngôn này, vốn đã lập danh và ý thú việc làm, phân xét bộ loại khác nhau kia, tùy theo tánh tướng thích hợp để dùng làm. Nếu danh nghĩa và chỗ dùng chân ngôn mà không tương ưng thì phải nương vào pháp tăng thêm ngữ cú, như trong chân ngôn. pháp giới pháp tánh, đại không là cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận, các thứ danh ngôn khác nhau. Gương ứng với chân thể mà Như lai tự chứng. Phải biết đó là Phật bộ chân ngôn, dù cho là bộ khác cũng có thể có tác dụng Phật bộ. Nếu có đại bi phổ nhãn không đắm nhiễm các danh nghĩa tương ưng, phải biết đó là dụng của Liên Hoa bộ. Nếu có các danh nghĩa tương ưng với kim cang bất hoại không nói lời vô nghĩa, phải biết đó là dụng của kim cang bộ, các nghĩa như vậy vô lượng, vô biên.

Du-già: Phải dùng ý mà suy ra không thể ghi chép tỉ mỉ. Lại nữa, trong kinh tự nói dụng của danh hành tương ưng, nghĩa là nếu trong các chân ngôn, có những chữ án, hâm, phát, trách, ca, hiệt, lị, tỉ… này, phải biết đó là danh hiệu Phật đảnh.

Nếu có yết, phiếu, lương, noa, dã (nghĩa là chấp thủ), khư-đà-da (nghĩa là ăn), bán-xà (nghĩa là phá hoại), ha-na (nghĩa là đánh), ma-ladã (nghĩa là sát), bát-tra-dã (nghĩa là giết chết), các nghĩa của những chữ như vậy, phải biết các vị phụng giáo giả chân ngôn như phẫn nộ… có khả năng hàng phục nhiếp triệu. Như nói nghĩa đạm thực: Đạm thực nghĩa là khiến các phẫn nộ… chiếm diệt tất cả các loài tỳ-na-dã-ca, nếu như đã nói, thì các Đức Phật có diệt tội cho chúng sinh, nay tông này nói nghĩa, có chỗ nói Tỳ-lô-dã-ca tức là tất cả người làm chướng ngại, chướng này từ tâm vọng tưởng sinh ra. Nếu có thể ăn nuốt các chướng nặng như thế, khiến tâm tự khai sáng thì phải biết đó là chân phẫn nộ, dùng tự môn khư này ăn nuốt “chướng” của tất cả chúng sinh thì đó là sứ giả của Như lai, làm việc Như lai. Ngoài ra suy ra có thể hiểu.

Lại nữa, nếu trong chân ngôn, có những chữ nạp-ma (nghĩa là quy nạp), ta-phược-ha (nghĩa là nhiếp thủ)… phải biết đó là tu Tam-ma-địa, vắng lặng tương ưng với chân ngôn. Hoặc có những chữ như: Phiếnđa nghĩa là yên lặng, Vi-thanh-đà nghĩa là thanh tịnh… phải biết nghĩa tương ưng với Phật bộ, ngoài ra như Tô-tất-địa… có nói tỉ mỉ.

Như trên đã nói, đều là tướng chân ngôn của các Đức Phật, Bồtát hoặc Thanh văn đã nói, sắp đặt mỗi câu, do Thanh văn nhờ người khác mà được hiểu, nhập pháp tánh chưa sâu, không thể ở trong một lời mà bao gồm đầy đủ các đức, như nói các hành pháp là vô thường một bài kệ bốn câu, phải khiến theo thứ lớp xếp đặt văn nghĩa không thiếu mới thành chân ngôn, không được đem tự môn nói nghĩa và tăng thêm danh cú. Bích-chi-Phật tuy không nói năng cũng có thể dùng năng lực Thần thông hiện ra chân ngôn, người thọ trì ở các cõi, đều được nghĩa lợi, trong đó có chút khác nhau, nghĩa là Bích-chi-Phật và Thanh văn lậu tận thì đồng nhưng Tam-muội thì có sâu, cạn khác nhau, có thể dùng thần thông làm lợi ích chúng sinh, khiến cho sở nguyện đều được thành tựu, trừ bốn vị đại đệ tử, các bậc Thanh văn khác năng lực không bằng.

Lại chân ngôn kia chỉ nói lý vắng lặng của mười hai Nhân duyên, cho nên nói nghĩa là Tam-muội chia khác, trừ sạch nghiệp sinh. Trong kinh lại nói tướng như thật của chân ngôn, cho nên nói: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Tướng chân ngôn này không phải do tất cả các Đức Phật làm ra, không bảo người làm, cũng không vui theo. Vì sao? Vì là các pháp, pháp vốn như vậy, hoặc các Đức Như lai xuất hiện, hoặc các Đức Như lai không xuất hiện, các pháp pháp vốn như thế mà trụ, nghĩa là các chân ngôn, chân ngôn pháp vốn như thế, do thân, miệng ý của Như lai rốt ráo nên tướng chân ngôn này, chữ Thanh đều là thường, thường cho nên không lưu chuyển, không có thay đổi, pháp nhĩ như thị, không do tạo tác mà thành, nếu có thể tạo thành tức là sinh pháp, nếu pháp có sinh thì có thể phá hoại, bốn tướng dời đổi, vô thường, vô ngã làm sao gọi là chân thật ngữ được?

Vì thế cho nên Đức Phật không tự làm, không bảo người làm, nếu có người làm cũng không vui theo, vì thế tướng chân ngôn này, hoặc Phật ra đời, hoặc không ra đời, hoặc đã nói, hoặc chưa nói, hoặc đang nói, pháp trụ pháp vị, tánh tướng thường trụ, do đó gọi là Tất định ấn, các Thánh đạo đồng, chính là tất cả chân ngôn đại bi Mạn-đồ-la, tướng mỗi chân ngôn đều pháp nhĩ như thị, do đó không nói lại. Nếu như vậy thì tướng các chân ngôn này rốt ráo vắng lặng, không trao cho người, vì sao có khi phát ra lớn mạnh, có khi mất đi không thấy, vì thế kinh lại giải thích nguyên nhân rằng: Bí Mật Chủ thành Chánh đẳng giác, tất cả người trí, tất cả người hiểu biết xuất hiện ở đời mà tự đem pháp này, nói các thứ đạo lý, tùy theo các thứ ưa muốn, cho đến các thứ âm thanh của các đường mà dùng gia trì, nói đạo lý chân ngôn, ý ở đây nói: Như lai tự chứng pháp thể, không phải Đức Phật tự làm, không phải các hàng trời người làm ra, pháp nhĩ thường trụ, lại nhờ thần lực che chở nên xuất hiện ở đời, làm lợi ích cho chúng sinh.

Nay chân ngôn bí mật thân, miệng, ý này tức là pháp Phật bình đẳng thân, miệng, ý nhưng cũng dùng thần lực che chở, xuất hiện ở đời làm lợi ích cho chúng sinh. Tri kiến vô ngại của Như lai đối với sự nối nhau của tất cả chúng sinh thì pháp nhĩ thành tựu không có thiếu giảm, vì đối với thể tướng của chân ngôn này không giác ngộ dúng như thật nên gọi là người trong sinh tử. Nếu khi tự biết tự thấy thì gọi là tất cả người trí, người hiểu biết, cho nên tri kiến như vậy không phải do Đức Phật tạo ra, cũng không phải do người khác truyền trao. Đức Phật ngồi trong đạo tràng chứng pháp như vậy rồi, biết rõ tất cả thế giới, từ xưa đến nay thường là pháp giới, liền sinh tâm đại bi. Vì sao chúng sinh cách Phật đạo rất gần mà không thể tự giác, vì lý do này, Như lai xuất hiện ở đời trở lại dùng pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận như vậy, chia ra các đường, mở bày các thừa, tùy theo các tâm cơ ưa muốn, dùng các văn cú của địa phương tự tại gia trì, nói đạo lý chân ngôn. Dù từ cơ duyên sinh cảm của ra nhưng không động thực tế. Dù phương tiện khéo léo không gì không làm nhưng chẳng phải do Phật làm, tuy nói phổ môn đặc biệt nhưng chỉ đem tri kiến Phật chỉ dạy cho chúng sinh hiểu ngộ. Nếu hành giả đối với chân ngôn thập dụ này, vọng thấy hữu vi sinh diệt, càng thêm tâm cấu thì không phải là bản ý của Như lai.

Lại nữa, Đức Thế-tôn vì chúng sinh căn cơ chậm lụt đời tương lai mê mờ nhị đế không biết ngay nơi tục là chân, cho nên ân cần chỉ sự. Nói Bí Mật Chủ! Thế nào là đạo lý chân ngôn của Như lai? Nghĩa là gia trì văn tự biên chép này? Vì nghĩa chân thật của lời nói văn tự thế gian, cho nên Như lai dùng thật nghĩa chân ngôn mà gia trì. Nếu ra ngoài pháp, tánh mà có văn tự thế gian riêng thì chính là vọng tâm thấy lầm, đều không phải thật thể đáng tìm cầu, mà Phật dùng thần lực che chở, đó là thuận theo sự điên đảo, không phải là chân ngôn.

Đã biết chỗ gia trì, Như lai dùng pháp nào gia trì ư? Như lai chứa nhóm sự tu hành: chân thật đế ngữ, bốn Thánh đế, bốn Niệm xứ, bốn Thần túc, mười Lực Như lai, sáu pháp Ba-la-mật, bảy Bồ-đề phần, bốn Phạm trụ (bốn Vô lượng tâm), mười tám pháp Phật bất cộng.

Bí Mật Chủ đem những điểm chính yếu để nói trí Nhất thiết trí của các Đức Như lai, từ năng lực phước trí, từ năng lực nguyện trí, năng lực gia trì của tất cả pháp giới, của tất cả Như lai đều thuận theo chúng sinh. Như chủng loại kia mở bày giáo pháp chân ngôn: nghĩa là do Như lai nhóm họp công đức trong vô lượng, vô biên A-tăng-kỳ kiếp làm làm thành phổ môn gia trì khắp mọi nơi chốn. Vì thế tùy theo mỗi danh ngôn thành lập đều như Nhân-đà-la tôn, tất cả nghĩa lợi đều thành tựu, lại mỗi công đức này, đồng với tướng chân ngôn, pháp tánh tự như thế không phải do tạo tác mà thành. Nay thử y theo một chữ a để phân biệt nghĩa kia, như hành giả khi tự chứng tâm, hiểu rõ nhân quả thế gian, xuất thế gian vốn bất sinh Khổ, Tập, Diệt, Đạo mà có nhất thật đế. Thấy nhất thật đế này rồi, chắc chắn Thế-tôn nói rộng cho chúng sinh nghe, ấy gọi là tu hành chứa nhóm chân thật đế ngữ, lại biết tám đảo vốn bất sinh trở thành niệm xứ Như lai, biết bốn Như ý túc vốn bất sinh, trở thành năng lực tự nhiên trí của Phật, biết sáu tế vốn bất sinh cho nên đạt đến sáu Độ ở bờ kia, biết bảy Bồ-đề phần vốn bất sinh thành bảy của báu giác ngộ không thầy. Biết bốn phạm trụ vốn bất sinh thành vô duyên Từ, Bi, Hỷ, Xả, biết mười tám pháp vốn bất sinh cho nên vượt qua tâm lượng không cùng chung với tất cả chúng sinh, cho đến các thứ pháp môn sẽ tự tại nói.

Lại nữa, như nghĩa trong phẩm đầu tiên của kinh này nếu hiểu rõ chỉ có uẩn không có ngã, cho đến khi chứng cảnh giới tịch nhiên, điều quan trọng là làm cho ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả vốn bất sinh nói các pháp môn, khi dùng năm dụ quán sát “tánh không” phải y theo các uẩn vốn bất sinh, do đó nói các pháp môn, quán sát uẩn A-lại-da, cho đến khi hiểu mé trước sau của tâm, không thật có, phải y theo hình bóng của tâm vốn bất sinh. Cho nên nói các pháp môn, khi Cực Vô Tự Tánh Tâm sinh khởi thì phải y theo tâm Bồ-đề thanh tịnh vốn bất sinh, cho nên nói các pháp môn, cho đến địa vị Như lai, phải y theo Đại bi thai tạng Mạn-đồ-la rốt ráo nghĩa “bất sinh” để nói các pháp môn, giống như chữ A bất sinh môn, chữ a vô tác môn… đều phải nói rộng, giống như mỗi chữ, cho đến mỗi danh, mỗi sự thành lập đều nên nói rộng.

Lại nữa, Đức Thế-tôn đối với các pháp tự tại, hoặc dùng một chữ thu nhiếp tâm Bồ-đề… các thứ một pháp môn hoặc hai chữ thu nhiếp chỉ quán… các thứ hai pháp môn, hoặc dùng ba chữ thu nhiếp ba không… các thứ ba pháp môn, hoặc dùng bốn chữ nhiếp niệm xứ… các thứ bốn pháp môn, hoặc dùng năm chữ nhiếp năm lực… các thứ năm pháp môn, hoặc dùng sáu chữ thu nhiếp sáu Độ… các thứ sáu pháp môn, hoặc dùng bảy chữ nhiếp bảy Bồ-đề phần… các thứ bảy pháp môn, hoặc dùng tám chữ thu nhiếp tám Chánh đạo… các thứ tám pháp môn, hoặc dùng chín chữ thu nhiếp chín định các thứ chín pháp môn, hoặc dùng mười chữ nhiếp mười Lực… các thứ mười pháp môn, cho đến dùng vô lượng chữ nhiếp vô lượng pháp môn; các danh cú cũng giống như vậy.

Nếu y theo tướng chung của chân ngôn như khi hành giả trì một tự môn A tùy theo cơ duyên tánh dục của chúng sanh ấy, hoặc ngộ bốn Niệm xứ hoặc ngộ bốn Thần thông… mỗi trường hợp khác nhau, nhưng khi hiểu rõ bất cứ một pháp môn nào liền đầy đủ các pháp môn còn lại, các pháp báu không cầu tự đến. Nếu Y theo tướng riêng, như khi dùng bốn chữ nhiếp bốn Niệm xứ môn, hoặc khi như pháp tu hành, dù từ xưa chưa từng chánh quán về: thân, thọ, tâm, pháp, tự nhiên ngộ niệm xứ môn. Lại nhập pháp giới các pháp môn, danh nghĩa bình thường như trong Trí Độ… nói rộng.

Lại nữa, Như lai dùng các pháp môn vì không thể nêu khắp, lại nói tóm trước hết nói trí Nhất thiết trí: tức là nêu chung tất cả kim cang trí ấn của các Đức Như lai trong ba đời mười phương, do các Như lai cùng chung gia trì thì không chỗ nào không khắp.

Lại tất cả các Như lai khi còn làm Bồ-tát đã nhóm họp vô biên phước đức, phát sinh đại nguyện không cùng tận, cho đến Tát-bà-nhã cũng rốt ráo tròn đầy, thế nên được gọi là “trí”. Nói do năng lực phước, nguyện, trí như thế và năng lực gia trì của bản tánh tất cả pháp giới thuận theo chúng sinh, như chủng loại của họ mà làm gia trì. Vì thế, đối với các thứ thân, miệng, ý của tất cả chúng sinh đều được mở bày giáo pháp chân ngôn.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Giáo pháp chân ngôn là thế nào? chính là tự môn A… đó là tướng chân ngôn, tuy tướng không khác thể, thể không khác tướng, tướng chẳng tạo tác tu thành, không thể chỉ cho người, nhưng có thể không lìa giải thoát hiện thành chữ Thanh, mỗi chữ thanh tức là nhập giải thoát môn, vì thế được gọi là giáo pháp chân ngôn. Luận về giáo pháp chân ngôn, phải khắp tất cả tùy phương các đường danh ngôn, chỉ lấy dấu vết xuất thế của Như lai bắt đầu ở Thiên Trúc, người truyền pháp y theo văn Phạm, làm một con đường sáng tỏ nghĩa.

Kinh chép: Nói tự môn A tất cả các pháp vốn bất sinh: tự môn A là nguồn gốc của tất cả giáo pháp, kế là tiếng bắt đầu mở miệng thì đều có thanh A, nếu lìa thanh A thì không có tất cả lời nói, cho nên là mẹ sanh ra các thanh. Hễ lời nói trong ba cõi thì đều nương vào danh, mà danh nương vào chữ, cho nên chữ A (Tất-đàm) cũng là mẹ sanh ra các chữ, phải biết nghĩa chân thật của tự môn A cũng giống như vậy, khắp trong tất cả pháp nghĩa. Vì sao? Vì tất cả pháp đều từ các duyên sinh, vì từ duyên sinh, nên đều có nguồn gốc. Nay quán sát duyên năng sinh này cũng lại từ các nhân duyên sinh, xoay vần từ duyên thì cái gì là gốc? Như thế khi quán sát thì biết gặp phải vốn bất sinh là gốc của muôn pháp, như khi nghe tất cả lời nói chính là nghe thanh A, như khi thấy tất cả pháp sinh chính là lúc thấy được vốn bất sinh. Nếu khi thấy vốn bất sinh tức là biết tự tâm như thật, biết tự tâm như thật chính là biết trí Nhất thiết trí. Vì thế Đức Phật Tỳ-lô-giá-na chỉ lấy một chữ này làm chân ngôn, nhưng phàm phu ở thế gian không quán nguồn gốc các pháp nên vọng thấy có sinh, cho nên trôi lăn theo dòng sinh tử, không thể tự ra khỏi.

Giống như người thợ vẽ vô trí kia tự dùng các màu sắc vẽ hình Dạ-xoa đáng sợ, lại tự mình nhìn thấy, sinh tâm sợ hãi té xỉu xuống đất. Chúng sinh cũng giống như vậy, tự vận dụng nguồn gốc các pháp vẽ thành ba cõi mà lại tự chìm đắm trong đó, đốt cháy tâm mình mà chịu đủ mọi điều khổ. Như lai là bậc thầy vẽ, có trí tuệ đã hiểu rõ mình nên có khả năng tự tại thành lập đại bi Mạn-đồ-la. Do đó lại nói, cái gọi là kho bí mật sâu xa là chúng sinh tự bí mật mà thôi, không phải Đức Phật có che dấu. tự môn Ca chép: Tất cả các pháp xa lìa tác nghiệp, tiếng Phạm Ca-lý-da là nghĩa “tác nghiệp” như các ngoại đạo chấp có người làm, sai khiến người làm… Luận sư các bộ cũng nói có làm, có người làm, có tác pháp được dùng ba việc hòa hợp cho nên có quả báo.

Nếu nhân phương tiện Bát-nhã, nói có chắc chắn thì rơi vào không nhân, nếu rơi vào không nhân thì tất cả các pháp không có nhân quả, pháp năng sinh gọi là nhân, pháp sở sinh gọi là quả, đó là hai pháp vô. Làm, người làm, pháp được dùng, tội phước quả báu và đạo lý Niếtbàn, tất cả đều vô.

Lại nữa, làm, người làm nhân nhau đợi sinh, nếu chắc chắn có pháp làm thì phải chắc chắn có người làm, đều là không khác ngoại đạo luận nghị, như trong phẩm Quán Tác tác giả của Trung luận có nói rộng. Ở đây quán sát đúng làm và người làm… đều từ các duyên sinh, liền nhập vào mé vốn bất sinh. Mé vốn bất sinh ấy, có Phật hay không có Phật thì pháp nhĩ như thị, ai là người đầu tiên làm ra. Vì thế, cho nên nếu thấy chữ Ca thì biết tất cả các pháp đều do tạo tác mà thành, gọi là tự tướng. Nếu là người làm thì phải biết rốt ráo không làm gọi nghĩa là chân thật.

Tự môn Khư, tất cả các pháp sinh đồng với hư không, không thật có, tiếng Phạm chữ Khư nghĩa là hư không. Thế gian đều chấp nhận hư không là pháp vô sinh vô tác. Nếu tất cả pháp vốn bất sinh lìa các sự tạo tác thì rốt ráo như tướng hư không, nay tướng hư không này cũng không thật có. Vì sao? Như ở thế gian chỗ không có nên sắc gọi là tướng hư không, sắc là tác pháp vô thường, nếu sắc chưa sinh, sắc chưa sinh thì không diệt, bấy giờ không có tướng hư không. Vì có sắc nên có chỗ không sắc, chỗ không sắc gọi là không, trong phẩm Quán Lục chủng của Trung luận có nói rộng, nghĩa trong đây cũng giống như vậy. Nếu sắc xưa nay bất sinh thì làm sao gọi là chỗ vô sắc, chỗ vô sắc không thể nói thì không có tướng nhất định của hư không.

Lại nữa, các pháp như tướng hư không đó là tướng Niết-bàn không luống dối, như trong kinh nói: Năm ấm diệt không còn sinh năm ấm khác đó nghĩa là Niết-bàn. Nếu năm ấm xưa nay vô sinh thì nay đâu có hoại diệt mà Niết-bàn ư? Vì thế cho nên tướng như hư không cũng không thật có, đó nghĩa là chân thật của tự môn Khư.

Tự môn Nga, tất cả các pháp, tất cả hành đều không thật có. Tiếng Phạm Nga-đá (nhị hợp) đó gọi là hành. Hành nghĩa là đến đi, tiến lùi không dừng. Nay, từ tự môn A xoay vần giải thích, vì các pháp vốn bất sinh nên không có làm, vì không làm nên không có đối đãi, có thể nói là không, không tức là chỗ bất hành, chỗ bất hành còn không thật có, huống chi chỗ hành ư?

Trong phẩm Quán Khứ Lai của Trung luận nói nghĩa hành chỉ, vì nối nhau nên gọi là hành, giống như từ hạt lúa mọc mầm, lá, thân cây và vô minh duyên các hành… do đoạn diệt nên gọi là chỉ, giống như hạt lúa chết cho nên mầm, thân đều chết. Vô minh diệt thì các hành… đều diệt, nếu pháp đã hành thì không hành, đã hành cho nên chưa hành cũng không hành vì chưa có hành pháp. Do đó khi hành cũng vô hành, không xa lìa đã hành chưa hành.

Từ các môn quán sát như thế, rốt ráo vô hành, vô hành thì không có chỗ dừng lại, do vô hành vô chỉ cho nên không có người qua lại giữa các đường, cũng không có người trụ Niết-bàn.

Lại nữa, nếu người bất động bản xứ (chỗ gốc) thì liền là chỗ đến, nên biết người này không đi không đến, cho nên nói tất cả hành không thật có.

Tự Môn Già, tất cả các pháp hiệp một không thật có. Tiếng Phạm Già-na nghĩa là bí mật hòa hợp, giống như các tướng nhỏ hiệp thành một hạt cát bụi, các uẩn hiệp nhau làm thành một thân… Trong phẩm Quán hợp của Trung Luận, các Luận sư nói: Do ba việc thấy, có thể thấy và người thấy mà có vật được thấy, phải biết có sự hòa hợp giữa nghe, âm thanh được nghe và người nghe cho đến nhiễm, có thể nhiễm và người nhiễm… các phiền não đều cũng giống như vậy. Người đáp nói rằng, các vật đều do khác nhau nên có hòa hợp, nhưng nay tướng “dị” tất cả pháp không thật có.

Vì thế không hợp, như luận ấy có nói rộng, dùng tự môn xoay vần giải thích nhau, hãy dùng nghĩa “hành” để nói: Hễ có sở hành phải biết chắc chắn có ba việc cùng hợp là hành, có thể hành và người hành. Nay tất cả các pháp vốn bất sinh cho nên sẽ không chỗ hành, nếu không chỗ hành thì làm sao hành, vật được hành và người hành hòa hợp được?

Lại nữa, nếu các pháp mỗi tướng đều khác không bao giờ có lúc hòa hợp, nếu đến mé vốn bất sinh thì không có tướng khác cũng không thể hợp, vì thế cho nên tất cả các pháp rốt ráo không hợp.

Tự Môn Già, tất cả các pháp xa lìa tất cả sự thay đổi. Tiếng Phạm già dữu để tức nghĩa là thay đổi. Lại, tiếng Phạm Già-lỵ-da nghĩa là các hành, như khi thấy chữ Già liền biết các hành thay đổi không dừng.

Trong phẩm Quán Hành của Trung Luận chép: Các hành gọi là năm ấm, vì từ các hành sinh cho đến năm ấm đều là luống dối không có tướng chắc chắn, như dung mạo khi còn nhỏ cho đến dung mạo khi tuổi già. Trong thời gian đó niệm niệm không dừng, tánh phân biệt chắc chắn không thật có, tánh danh chắc chắn có, không thể đổi khác, như vàng ròng không thể biến đổi.

Nay các pháp tuy sinh nhưng không trụ ở tự tánh, do đó nên biết là không tánh, như luận ấy nói rộng. Nếu vô tánh tức là ban đầu không sinh, ban đầu không sinh tức là thân Như lai, thường hằng an trụ không có biến đổi.

Lại nữa, nếu tất cả các pháp là do hòa hợp mà thành thì có thay đổi. Nay các pháp vô sinh, vô tác, cho đến vô sở hành, cho nên sẽ không hòa hợp, không hòa hợp cho nên xa lìa tất cả biến đổi, tất cả các tự môn đều phải thuận, nghịch xoay vần giải thích nhau, không để quái ngại, nay y theo thứ lớp truyền trao cho nhau.

Tự Môn Xa, hình bóng tất cả các pháp không thật có. Tiếng Phạm Xa-dã nghĩa là hình bóng, giống như hình bóng con người đều nương vào tự thân, muôn pháp trong ba cõi như thế chỉ là thức tâm, nhân duyên thay đổi dường như có các cảnh, việc đó giống như trong kinh Mật Nghiêm có nói rộng, cho đến người tu Du-già có các việc không thể suy nghĩ bàn luận, hoặc có thể thấy các Đức Phật trong mười phương hiện khắp sắc thân, cũng đều là hình bóng của tâm, vì tâm vốn vô sinh cho nên phải biết hình bóng cũng không có sinh. Vì không có sinh cho nên tâm không biến đổi, hình bóng cũng không thay đổi. Vì sao? Vì như hình bóng tự không có tánh chắc chắn, đi đứng tùy theo thân, hình bóng của tâm cũng giống như vậy.

Do tâm xao động, nói lời vô nghĩa, không lúc nào có một niệm dừng trụ, cho nên muôn dụng ở thế gian cũng lại bị trôi lăn, nếu rõ biết tướng như thật của tâm, tướng của bóng cũng như thật, cho nên không thật có.

Tự Môn Nhạ, tất cả các pháp sinh không thật có. Tiếng Phạm Nhạ-đá-dã, nghĩa là sinh, như nắm bùn, dây thợ gốm… hòa hợp nên có bình, dùng đất đắp nền, rường nhà, đòn tay, bùn cỏ, nhân công… do đó có sinh ra cái nhà.

Do đồ vật, nhân công, đun nấu… hòa hợp cho nên có sinh ra bơ, hạt giống, đất, nước, gió, lửa, hư không, thời tiết… hòa hợp mà có nảy sinh. Duyên sinh trong pháp cũng giống như vậy.

Vô minh, hành… mỗi thứ đều sinh nhân mà lại sinh. Thế nên nếu thấy tự môn nhạ thì biết các pháp đều từ duyên sinh, như nói kệ rằng: Pháp do các duyên sinh, tức là vô tự tánh. Nếu vô tự tánh thì làm sao có pháp ấy, vì thế sinh không thật có.

Luận sư ngoại đạo nói các tà nhân duyên, hoặc vô nhân duyên sinh ra tất cả pháp. Người trong Phật pháp cũng có sai lầm về phương tiện Bát-nhã, cho nên chấp lấy tướng nhân duyên sinh diệt, như trong luận có bác bỏ rộng.

Lại nữa, tự môn A thì các pháp bản tánh bất sinh, tự môn Nhạ lấy mười Dụ quán sát “sinh” tuy từ duyên có nhưng không thật có, nếu sinh chẳng bao giờ thật có thì không khác mé vô sinh.

Lại mười dụ là hình bóng của tâm không ra ngoài pháp giới, do đó sinh cũng không ra ngoài mé vô sinh.

Tự Môn xã, tất cả các pháp chống trái nhau không thật có. Tiếng Phạm Xã-ma-la nghĩa là chiến đấu với quân địch. Nếu thấy chữ Xã thì biết tất cả các pháp đều có chiến đấu với quân địch, như pháp lành ở thế gian, pháp chẳng lành, ngược dòng sinh tử, thuận dòng sinh tử, bố thí, san tham, giữ giới cho đến trí tuệ, vô minh… lại đối đãi nhau hơn thua vô thường, cho đến Như lai xuất hiện ở thế gian đem tất cả trí lực phá các ma quân cũng gọi là chiến.

Nhưng đối với tất cả pháp nghĩa “ngã” không thành, trí tuệ, phiền não rốt ráo thuộc về ai? Mà nói Tỳ-bà-xá-na (quán) có công năng phá phiền não? Nếu nói khi sáng sinh thì tối diệt cho nên gọi là phá thì vì đã sinh cho nên phá hay là chưa sinh mà phá ư?

Đã sinh thì không tối, còn gì để phá? Chưa sinh thì tự không có thể thì cái gì có thể phá được. Nếu khi sinh gọi là nửa đã sinh, nửa chưa sinh, do đó tối sáng rốt ráo không đuổi kịp nhau.

Lại tất cả các pháp vốn không sinh cho nên không có hình bóng, liền đồng một tướng không ra ngoài “như”. Vì sao nói cõi Phật như đánh nhau với cõi ma như? Vì thế khi Phật ngồi đạo tràng chỉ hiểu rõ tất cả các pháp không đối đãi, nhưng thế gian bàn luận tự lập ra từ ngữ chiến thắng .

Tự Môn Tra, tất cả các pháp kêu mạn không thật có. Tiếng Phạm Tra-ca-la nghĩa là mạn. Nghĩa là thấy pháp kia thấp kém, pháp này cao hơn, giống như trong ba cõi, sáu đường các thứ hơn thua khác nhau, đã khởi tâm kêu mạn khác nhau vô lượng. Nói sơ lược có bảy tướng, như trong Tỳ-đàm có nói rộng, cho đến người cầu ba thừa còn có sự nhận thức địa trên, địa dưới không bình đẳng.

Nay quán các pháp không sinh cho nên không đối đãi, thì biết A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề đối với pháp bình đẳng không có cao thấp. Thế nên Như lai cũng gọi là Bồ-tát Nhất Thiết Kim Cang, cũng gọi là bậc Thánh tứ quả, cũng gọi là phàm phu ngoại đạo, cũng gọi là chúng sinh trong các đường ác, cũng gọi là người tà kiến, năm tội nghịch, đại bi Mạn-đồ-la chính là chỉ bày nghĩa này.

Tự Môn Trá, trong tất cả các pháp nuôi lớn không thật có. Tiếng Phạm Tỳ-trá-bát-na nghĩa là nuôi lớn, như ở thế gian hạt giống và năm đại làm nhân, thời tiết làm duyên, dần dần nuôi lớn thành quả trái.

Pháp bên trong cũng giống như vậy. Đối với nghiệp nhân hạt giống thức trung hạ, vô minh che lấp, nước ái thấm nhuần, lại được nuôi lớn, như trong kinh Đạo Vu nói rộng, nay kinh này trái với thế gian nhưng thuận với tám tâm ở thế gian, nối nhau lớn lên, cũng có nhân duyên cho đến tâm Bồ-đề thanh tịnh lấy năm tự môn làm duyên sinh gốc Đại bi, cây Ta-la Phật lớn lên đầy khắp pháp giới, như thế tất cả pháp đều do năm tự môn này, vốn không sinh lìa nói năng, tự tánh thanh tịnh, không có nhân duyên, giống như tướng hư không, do đó sự nuôi lớn không thật có.

Lại nữa, từ chữ A, Ca về sau cùng xoay vần giải thích cho đến các pháp rốt ráo bình đẳng không có cao thấp, vì không cao thấp, nên biết không có nuôi lớn.

Tự Môn Noa, tất cả các pháp oán đối không thật có. Tiếng Phạm nói Noa-ma-la nghĩa là oán đối, giống như ở thế gian thù ghét lại báo đền trở lại, cho nên gọi là đối.

Lại trước nói chiến đấu với quân địch là kia đây gia hại nhau, trong đây oán đối là nghĩa tránh hận thù. Tiếng Phạm mỗi chữ tự khác nhau.

Trong Tỳ-ni Đức Phật dạy: Dùng oán, oán ấy không bao giờ dứt, chỉ có không oán trả, oán, oán mới dứt.

Lại nói người nữ là kẻ oán của người phạm hạnh, kinh vô lượng nghĩa cũng chép: Sinh tử oán địch tự nhiên tan hoại, chứng vô sinh nhẫn bằng một nửa vật báu cõi nước Phật. Vì thế cho nên hành giả khi thấy tự môn Noa thì biết tất cả các pháp đều có oán đối, gọi là biết rõ “tự” tướng.

Lại, do các pháp vốn bất sinh cho đến nuôi lớn không thật có, phải biết oán đối cũng lại xưa nay bất sinh, cho đến không có nuôi lớn, vì thế Như lai rốt ráo không hề có oán đối, gọi là nghĩa chân thật củtự môn A.

Tự Môn Đồ là tất cả các pháp nắm giữ không thật có. Tiếng Phạm Thang-ca, nghĩa là nắm giữ, do trên chữ đồ có một chấm cho nên chuyển thanh là Thang, thể của chữ ấy thì đồng.

Lại nói là Nghiệt-lý-hà: Cũng là tên khác của đây. Kinh nói bị quỷ mị dựa nhập, hoặc nói bị chẳng phải loài người nắm giữ. Luận Trí Độ chép: Trước tương, đều là do quỷ Nghiệt-lý-hà làm ra, vì mê đắm người không cùng lìa bỏ, cho nên lấy đó đặt tên. Mặt trời, mặt trăng, năm sao… kia, cũng là đầu cuối theo nhau. Tiếng Phạm gọi là Nghiệtlý-hà, Hán dịch là cửu chấp, chính là cùng nhóm họp một chỗ.

Lịch Thiên Trúc gọi là Chánh trước thời, nghĩa chấp trì này khác với Đà-la. Thấy tự môn đồ này, thì biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay bị bốn ma nắm giữ không thể xa lìa, đó gọi là tướng của chữ.

Nay dùng chữ A… các môn lần lượt quán tất cả các pháp, đều không thật có, sẽ biết tất cả các pháp không có kẻ thù, vì kẻ thù vốn bất sinh, cuối cùng không đem pháp giới bình đẳng chấp trước pháp giới bình đẳng. Do đó nói tất cả các pháp chấp giữ không thật có.

Tự Môn Da, tất cả các pháp như như không thật có. Tiếng Phạm Đá-tha-đa nghĩa là như như. Trong thế của lời nói gồm có tiếng đắc, chứng đắc như như tức là nghĩa giải thoát.

Như: nghĩa là tướng thật các pháp, các thứ lời nói vô nghĩa không hiểu như thật đều dứt trừ, bản tánh thường “như” không thể phá hoại. Nếu thấy tự môn Đa, thì biết tướng tất cả các pháp đều “như như”, đó gọi là “Tự” tướng. Nhưng có một loại ngoại đạo, chấp có tánh như như, nếu thấy biết pháp này có tên là giải thoát, dù chủ trương thuyết này thì chỉ là đối với ngã kiến chuyển thành tên khác.

Ngài Long Thọ vì trong kinh Thanh văn nói pháp trụ, cũng là nghĩa các pháp như như, sở dĩ nhập chưa sâu nên sinh ý tưởng diệt độ, cho là chứng Niết-bàn, nhưng sinh tử, Niết-bàn là pháp đối đãi.

Nếu biết sinh tử từ xưa đến nay, thường tự như tướng Niết-bàn, thì đợi người nào nói là Niết-bàn? Thế nên tất cả các pháp rốt ráo không thật không hư, không như, chẳng khác.

Trung luận cũng nói: Mé thật của Niết-bàn và mé thế gian, hai mé như vậy không khác một mảy may, do không khác nhau, cho nên tất cả các pháp không có kẻ thù, không có kẻ thù cho nên không chấp giữ, không chấp giữ cho nên cũng vô như như giải thoát.

Tự Môn Tha, chỗ ở tất cả các pháp không thật có. Tiếng Phạm Tát-tha-na là nghĩa trụ xứ, cũng là nghĩa trụ, giống như người từ trụ xứ này đến chỗ ở nào đó, chỗ nương ở kia đã nói gọi là trụ, địa vị của Hiền Thánh cũng vậy.

Căn cứ vào chỗ nương ở, chỗ dừng nghỉ của tâm những người hành đạo, nói các thứ tên, nếu khi thấy tự môn Tha, liền biết tất cả các pháp đều đợi duyên mới thành. Do đó nên biết đều có chỗ nương ở, đó là tướng tự. Nhưng các pháp xưa nay vô sinh, cho đến như như giải thoát cũng không thật có thì không đi, không đến, không hành, không trụ như thế trong tướng vắng lặng, thì đâu có thứ lớp giai vị gì?

Lại nữa, khi nhập tự môn Đa, hiểu rõ các pháp đều không, không trụ trong sinh tử tức là như như này cũng không thật có, không trụ trong Niết-bàn.

Bấy giờ, chỗ đi đều dứt, các giai vị đều hết, ấy gọi là không trụ pháp, trụ vào đại trụ của Như lai.

Tự Môn Na, tất cả các pháp thí không thật có. Tiếng Phạm Đànna nghĩa là xả thí, nếu thấy chữ Na liền biết tướng tất cả các pháp đều là tướng đáng xả. Vì sao? Vì tất cả các pháp hòa hợp ở duyên, không an trụ vững chắc, nếu đối với chấp trước sinh ái, chắc chắn bị đốt cháy, cho đến các Bồ-tát Thập địa, ở địa mình đã sinh công đức mầu nhiệm thanh tịnh, nhưng chưa xả bỏ bờ bên kia, cho nên còn có sự lui sụt không thể suy nghĩ bàn luận không gọi là chỗ an vui bậc nhất. Nay quán các pháp vô sinh, người thí, chỗ thí, và vật được thí xưa nay đều bất sinh, cho đến tất cả các pháp không chỗ trú, do không chỗ trú nên ba việc này cũng không chỗ trú, cho nên Đức Phật ngồi tại đạo tràng, đều không chỗ đắc, cũng không chỗ xả, trong Hư không tạng chẳng chứa uẩn nào, nhưng phổ môn lưu xuất ra khắp thí cho chúng sinh, ấy gọi là thấy tướng thật của đàn, cũng gọi là đầy đủ Đàn ba-la-mật; lại kho báu bí mật của Như lai đều là pháp như thế, có chỗ nói không thể trao cho người. Nếu khi thí cho người khác thì trở lại từ trong nhà tâm chúng sinh mở ra mà thôi. Vì thế, trong kinh nói: Tất cả các pháp bố thí không thật có ấy là nghĩa chân thật của tự môn A.

Tự Môn Đà, tất cả các pháp pháp giới không thật có. Tiếng Phạm Đạt-ma-đà-độ, Hán dịch là pháp giới. Giới là nghĩa thể, nghĩa phần.

Xá-lợi Phật cũng gọi là Như lai đà-độ, ý nói là thân phần của Như lai.

Nếu thấy tự môn Đà thì biết tất cả các pháp thảy đều có thể, nghĩa là lấy pháp giới làm thể. Vì sao? Vì nếu lìa tướng thật các pháp thì nghĩa “thể” tất cả các pháp không thành. Pháp giới: Chính là tâm giới, do tâm giới vốn vô sinh, nên phải biết pháp giới vốn vô sinh, cho đến tâm giới không đắc, không xả nên biết pháp giới cũng không đắc, không xả, xả còn tự không, không có pháp để xả, huống chi là đắc hay sao? Nếu pháp giới là tướng có thể đắc thì đó là từ các nhân duyên sinh. Nếu các nhân duyên sinh, phải biết tự nó không có bản thể, huống chi là các “pháp thể”, cho nên pháp giới ấy chỉ là tự chứng thường tâm, không có pháp riêng.

Lại nữa, Như lai đại thí, cái gọi là đại Bi Mạn-đồ-la pháp giới: Tức là tướng thật của Phổ môn, tướng thật như thế, không thể dùng thần lực che chở chỉ bày cho người, cho nên không có pháp nào thật có.

Tự Môn Ba, tất cả các pháp Đệ nhất nghĩa đế không thật có. Tiếng Phạm Ba-la-ma-tha, Hán dịch là Đệ nhất nghĩa, hoặc nói là thắng nghĩa, Tát-để-dã, Hán dịch là Đế, nghĩa đế ở tự môn Sa có nói: Nay tự môn Ba này chính là nói Đệ nhất nghĩa tướng.

Long Thọ nói: Đệ nhất nghĩa gọi là tướng thật các pháp, không phá, không hoại.

Lại nữa, bậc nhất trong các pháp gọi là Niết-bàn, như A-tỳ-đàm chép: pháp Vô thượng là thế nào? Nghĩa là trí duyên hết, trí duyên hết tức là Niết-bàn. Nếu thấy chữ ba thì biết tất cả các pháp không lìa Đệ nhất nghĩa, Đệ nhất nghĩa không lìa tướng thật các pháp, đó là tướng của chữ. Nếu nghĩa chân thật của tự môn thì Đệ nhất nghĩa cũng không thật có. Vì sao? Vì vô ái vô trước.

Trí luận lại chép: Do chúng sinh mê đắm âm thanh Niết-bàn, mà nói những lời vô nghĩa, hoặc có hoặc không, để phá sự chấp trước ấy cho nên nói Niết-bàn là không, đó gọi là Đệ nhất nghĩa không, không phải phá sở đắc trong tâm bậc Thánh, vì bậc Thánh đối với tất cả các pháp không chấp trước.

Lại nữa, tất cả các pháp đều nhập pháp giới bình đẳng thì không có cao thấp, há muốn cho trong pháp vô sinh có tướng hơn, thua hay sao? Vì thế cho nên Đệ nhất nghĩa không thật có.

Tự Phả Môn, tất cả các pháp không vững chắc, giống như chùm bọt nước,. Tiếng Phạm Phái-nô, Hán dịch là chùm bọt nước, như trong nước lớn sóng vỗ dữ tợn, đánh vào nhau mà thành chùm bọt nước, có các tướng sinh, cho đến kết chặt lại giữ gìn nhau nên có sự bền vững.

Nhưng quán sát tất cả từ thô đến tế, chỉ là duyên, vì từ duyên nên không thể nắm bắt, đều không có thật tánh. Đến mé gốc của nó thì nêu thể là nước đều không thật sinh.

Nay các thứ năm ấm ở thế gian cũng giống như thế; nay nhiếp ngọn trở về gốc, bỏ trượng theo thước mà quán, cho đến như mé ty, hốt chỉ hơi động đậy, đều là xoay vần theo duyên, nếu từ các duyên sinh thì không có tự tánh, nếu không có tự tánh, phải biết sinh tức là bất sinh, cho đến mé vốn bất sinh, chỉ là biển tâm tánh, nhưng tùy theo vọng tình trong sáu đường mà có thế giới.

Biển tâm tánh tức là pháp giới, pháp giới chính là Niết-bàn thắng nghĩa. Nếu khi thấy được như vậy, lại dù sóng lớn vỗ mạnh làm ra các phổ hiện sắc thân, cũng không làm hoại tánh lặng trong.

Tự Môn Ra, tất cả các pháp trói buộc không thật có. Tiếng Phạm là Mãn-đà, Hán dịch là phược, như người bị dây trói buộc không thể chuyển động, đó nghĩa là trói buộc, nếu khi dùng những phương tiện mở những thắt buộc ra thì gọi là giải thoát. Nếu lìa thân, dây, không có pháp buộc mở riêng, như trời Đế-thích dùng dây vô cùng nhỏ bé trói buộc vua A-tu-la, đặt trên tầng trời Đao-lợi, khi khởi niệm muốn trở về thì năm phược đã ở tại thân.

Nếu khi dứt niệm thì trói buộc tự mở trừ, nếu Ba-tuần giăng lưới. Lại hơn đây gấp trăm ngàn lần, huống chi những nghiệp phiền não vô vi trói buộc ư? Tóm lại, nếu lìa các nhân duyên không rơi vào các pháp số mới gọi là không trói buộc, đó nghĩa là của chữ. Trung luận chép: Lìa năm ấm có chúng sinh riêng thì phải đem năm ấm trói buộc chúng sinh, nhưng thật ra lìa năm ấm không có chúng sinh. Nếu lìa năm ấm có phiền não riêng thì lẽ ra đừng lấy phiền não trói buộc năm ấm, nhưng thật lìa năm ấm không có phiền não. Do các nhân duyên như thế phải biết không có trói buộc, không trói buộc thì không có cởi mở, không buộc mở vì thế Niết-bàn chính là sinh tử. Như trong phẩm Quán Phược Giả chép: Lại nữa, nếu các pháp xưa nay bất sinh cho đến như chùm bọt nước, trong đó ai là năng giải, ai là sở buộc, vì thế cho nên các trói buộc không thật có.

Tự Môn Bà, tất cả các pháp, tất cả hữu không thật có. Tiếng Phạm Bà Phạ, Hán dịch là hữu. Hữu: Nghĩa là ba cõi, cho đến hai mươi lăm cõi… Nếu thấy chữ Bà thì biết tất cả pháp đều có nhân duyên, các duyên hợp cho nên gọi là hữu chắc chắn không có tánh. Vì sao? Nếu pháp “Hữu” chắc chắn có hữu tướng thì cuối cùng chẳng có vô tướng, đó tức là thường, Như lai nói ba đời, trong vị lai có pháp tướng, pháp đó đến hiện tại chuyển vào quá khứ, không xa lìa tướng gốc nên rơi vào thường kiến. Nếu nói chắc chắn có “vô” thì vô này phải trước có nay không, đó là đoạn diệt kiến, do hai kiến ấy nên xa lìa Phật pháp. Như trong phần phá hữu vô của Trung luận có nói rộng: Nay quán các hữu, từ duyên tức nghĩa là vốn bất sinh.

Vì vốn bất sinh cho nên không tạo không làm, cho đến không trói, không mở, do đó tự môn Bà vì từ duyên có nên đầy đủ tất cả tự môn. Nếu đầy đủ tất cả tự môn tức là Tam-muội Vương, Tam-muội có công năng phá hai mươi lăm hữu của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, do nghĩa này nên gọi là phá hữu pháp vương.

Tự Môn Dã, tất cả các pháp, tất cả thừa không thật có. Tiếng Phạm là Diễn-na, Hán dịch là Thừa, cũng gọi là Đạo, như người cỡi xe ngựa hoặc đi thuyền thì có thể gánh vác việc nặng, rất xa có thể đến được.

Nếu thấy tự môn Dã thì biết tất cả chúng sinh do các nhân duyên, hướng đến quả báo sinh tử và hướng về Niết-bàn đều có chỗ nương, phải biết vô lượng các thừa đều là Phật thừa, gọi là tướng của chữ. Nay quán các pháp vốn bất sinh tức là không đi, không đứng, không động, không lui, trong đó cái gì là thừa và phải nương vào pháp nào?

Lại nữa, thừa ấy từ trong ba cõi mà ra đến Tát-bà-nhã, năm trăm do-tuần đều là chỗ thật, muốn đi đường nào, đi đến chỗ nào? Vì thế cho nên thừa không thật có, mới gọi là Đại thừa đạo.

Tự Môn Ra, tất cả các pháp lìa tất cả trần nhiễm. Tiếng Phạm Lathệ, nghĩa là trần nhiễm. Trần: là nơi hành xứ của vọng tình, cho nên nói sáu căn như mắt… đi trong sáu trần như sắc… nếu thấy tự môn La thì biết tất cả các pháp có thể thấy, nghe, xúc, biết đều là tướng trần, giống như áo sạch bị bụi đất làm dơ, cũng như bụi bay mù mịt, khiến bầu trời mờ đục, mặt trời, mặt trăng không sáng, đó là tướng của chữ.

Trung Quán dùng các pháp môn để cầu thấy pháp, nhưng không có người thấy, không có người thấy thì ai có thể thấy pháp phân biệt sắc bên ngoài? Thấy, có thể thấy, thấy pháp đều là không, cho nên bốn pháp: Thức, xúc, thọ và ái đều không, do không ái cho nên mười hai Nhân duyên cũng không. Vì thế khi mắt thấy sắc là tướng Niết-bàn, các trần khác so sánh cũng giống như vậy.

Lại nữa, đem tự môn A lần lượt quán sát các Trần, do kia vốn bất sinh cho nên không có tạo tác, cho đến không chỗ nương, pháp nương và người nương, phải biết pháp có thể thấy, nghe, hay, biết, đều là pháp giới thanh tịnh, há đem pháp giới thanh tịnh làm ô nhiễm sáu căn của Như lai sao? Kinh Ương-quật-ma-la, Phật dùng mắt thường đầy đủ không mất, thấy rõ thường sắc, cho đến ý pháp cũng giống như vậy. Đó nghĩa là chân thật của tự môn Ra.

Tự Môn La, tất cả các pháp, tất cả tướng không thật có. Tiếng Phạm La-ngật-sái, Hán dịch là tướng, có chỗ nói tánh, tướng không khác nhau.

Như nói tánh của lửa tức là tướng nóng, hoặc nói có khác nhau chút ít, tánh là nói thể ấy, tướng nói có thể biết, như đệ tử Phật thọ trì giới cấm, đó là tánh. Cạo đầu, nhuộm áo là tướng. Nếu thấy tự môn La thì biết tất cả các pháp đều có tướng, tướng có hai thứ:

  1. Tướng chung: Nghĩa là tướng vô thường, khổ, không, vô ngã.
  2. Tướng riêng: Nghĩa là các pháp tuy vô thường, vô ngã nhưng mỗi pháp đều có tướng.

Ví dụ như đất thì bền chắc, nước thì ướt, lửa thì nóng, gió chuyển động… xả là tướng thí, không hối không não là tướng giữ giới, tâm không đổi khác là tướng nhẫn, khởi việc siêng năng là tướng tinh tấn, nhiếp tâm là tướng thiền, không chấp đắm là tướng tuệ, thành tựu sự nghiệp là tướng phương tiện, dệt làm sinh tử là tướng thế gian, không dệt là tướng Niết-bàn… Nay quán thể tánh các pháp hữu vi, vô vi đều là không, tướng này cùng cái gì làm tướng? Như phẩm Tam Tướng trong Trung Luận và luận Thập Nhị Môn nói rộng.

Lại nữa, trong pháp giới thanh tịnh, một trăm sáu mươi tâm… các tướng vốn bất sinh thì không tạo tác, không tạo tác cho nên thậm chí rốt ráo không có trần, không trần vì thế lìa tất cả tướng, do lìa tất cả tướng nên gọi là các Đức Phật tự chứng Tam-bồ-đề.

Tự Môn Phạ, tất cả các pháp đường lời nói dứt. Tiếng Phạm Phạ-kiếp-ba, dịch là nói năng. Nếu khi thấy chữ Phạ thì biết các pháp không lìa địa vị nói năng, vì thế các pháp đều có nhân, có duyên.

Nếu pháp xưa nay bất sinh thì đó là lìa các nhân duyên, do đó đường lời nói dứt.

Nếu tướng hư không là có tướng thì có thể giảng nói, do các pháp như tướng hư không lại cũng vô tướng, vì thế cho nên đường lời nói dứt.

Nếu pháp có hành, có thay đổi, có hình bóng thì có thể giảng nói. Nếu không chuyển động, không biến đổi, không hình bóng thì đường lời nói dứt.

Cho đến các pháp đều là có tướng thì có thể giảng nói. Nay tất cả các pháp lìa tất cả tướng, do đó không thể chỉ bày, không thể truyền trao cho người, thế nên đường lời nói dứt. Lại nữa, nếu pháp là tướng làm ra thì có thể tuyên thuyết, không phải tướng làm ra thì đường nói năng dứt

Lại nữa, vô tướng cũng không có tướng chắc chắn, phải biết tất cả pháp ngay nơi tướng là vô tướng, tức chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, như ba mắt kia không thể suy nghĩ bàn luận, cho nên đường lời nói dứt. Các pháp môn khác so sánh đây có thể biết.

Tự Môn Xa, tất cả các pháp bản tánh vắng lặng. Tiếng Phạm Phiến-để, Hán dịch là Tịch. Như phàm phu ở thế gian, tâm được chút ít yên lặng, dừng nghỉ sự ồn ào náo động, cũng gọi là Tịch, cho đến hàng Nhị thừa… dứt hẳn các hành luân hồi, chứng đắc Niết-bàn cũng gọi là Tịch, nhưng không phải bản tánh thường tịch. Vì sao? Vì các pháp từ xưa đến nay tướng thường vắng lặng, ba cõi sáu đường thì cõi nào đường nào không phải Niết-bàn? Khi trí vô lậu sinh lại đâu khác gì phàm phu, mà nay riêng ở trong đó có tư tưởng diệt độ, há không điên đảo hay sao?

Lại nếu các pháp bản tánh vắng lặng thì đối với bốn mươi hai địa, địa nào không phải Như lai địa? Địa nào không phải phàm phu địa? Như Bồ-tát Di-lặc do bản tánh vắng lặng, được thọ ký một đời, tất cả các pháp chúng sinh lẽ ra cũng đều được thọ ký, nếu tất cả chúng sinh ở trong bản tánh vắng lặng thì không trở ngại người tu học việc phàm phu. Bồ-tát Di-lặc lẽ ra cũng tu học việc phàm phu mà nay có tư tưởng khác nhau, đâu không phải là nói rộng ư? Nếu khi nhập tự môn Xa thì biết đó là pháp bình đẳng, không có cao thấp, thường không hành động gì, mà không gì không làm, do đó nói trong giải thoát phần nhiều đã dung thọ, Đại Bát Niết-bàn lập lên nghĩa lớn, đều là do đây.

Tự Môn Sa, tất cả các pháp tánh độn: Nếu bản Phạm còn, phải nói tánh đồng với ngoan (dốt nát). Ngoan: Nghĩa là giống như gỗ, đá, không hiểu biết gì, nghĩa là không có xúc thọ, đã nói đồng là nói lời ví dụ, chẳng phải một bề đồng với kia.

Lại Đại Phẩm chép Bát-nhã vô tri, tự tánh đần độn, tức là hợp với nghĩtự môn A này, cho nên lời văn hay đẹp, người xưa dịch còn lại. Xét, Tự tánh độn tức là điểm cuối cùng của tâm vô phân biệt, không ngu, không trí, không tuệ, không thức, không trí, không vọng, không giác, cho đến tất cả các pháp không thể lay động, chỉ là hoàn toàn kim cang địa bền vững mà thôi. Vì sao? Vì như người thế gian do thủ xả không quên, chuộng trí tuệ mà bỏ ngu si, trọng Niết-bàn mà khinh sinh tử, nhưng nay tất cả vốn bất sinh, cho đến tất cả bản tánh vắng lặng thì người nào lợi, người nào độn? Như kim cang sắc nhọn kia, đem ứng với vật không bền, do sử dụng lệch về một bên thì gọi là sắc. Nếu khiến chỗ nhằm vào đều là kim cang, tất cả thể đều đầy đủ không thể dùng thiên lệch thì tướng sắc bén cũng trở về độn.

Tự Môn Sa, tất cả các pháp, tất cả không thật có. Tiếng Phạm Tát-dã, Hán dịch là đế. Đế: Nghĩa là như tướng chân thật của các pháp mà hiểu không điên đảo, không sai làm; như nói mặt trời có thể lạnh, măt trăng có thể nóng. Phật nói “khổ đế” không thể làm cho khác được, tập thật là nhân không còn nhân nào khác, nhân diệt thì quả diệt, con đường diệt khổ tức là con đường chân chính, không còn con đường nào khác.

Lại nữa, kinh Niết-bàn chép: Giải khổ, không còn khổ cho nên không khổ và có ba chân đế, còn lại cũng giống như vậy, cho đến phân biệt Tứ đế có vô lượng tướng và một đế chân thật, như trong phẩm Thánh Hạnh chép: Đó là tướng củtự môn A, nhưng tất cả các pháp vốn bất sinh cho nên rốt ráo vô tướng, cho nên đường lời nói dứt.

Bản tánh vắng lặng cho nên tự tánh độn, phải biết không thấy, không đoạn, không chứng, không tu, đều là pháp giới không thể suy nghĩ bàn luận, vừa không, vừa giả, vừa trung, không thật, không dối, không có tướng chắc chắn để chỉ bày, do đó nói đế không thật có, phẩm Tứ Đế trong Trung Luận cũng phân biệt rộng nghĩa ấy.

Tự Môn Ha, tất cả các pháp nhân không thật có. Tiếng Phạm Hệđát-phạ tức nghĩa là nhân. Nhân có sáu thức và trong nghĩa nhân duyên thì nhân có năm thứ, như A-tỳ-đàm có nói rộng: Nếu thấy Tự Môn Ha thì biết tất cả các pháp đều từ nhân duyên sinh, đó là tướng của chữ. Vì các pháp lần lượt đợi nhân thành tựu, phải biết cuối cùng không nương dựa, cho nên nói vô trụ là gốc các pháp. Vì sao? Vì như Trung Luận, dùng các pháp môn để quán nhân duyên các pháp, thảy đều bất sinh, phải biết muôn pháp duy tâm, tướng thật của tâm tức là Nhất thiết chủng trí, tức là pháp giới các Đức Phật, pháp giới tức là thể của các pháp này không được làm nhân.

Vì thế nói, nhân cũng là pháp giới, duyên cũng là pháp giới, pháp do nhân duyên sinh cũng là pháp giới. Trước nói tự môn A từ ngọn trở về gốc, rốt ráo đến chỗ như vậy.

Nay tự môn Ha cũng từ ngọn trở về gốc, rốt ráo đến chỗ như vậy. Chữ A từ vốn bất sinh sinh ra tất cả các pháp, nay cũng lấy vô nhân làm nhân các pháp, đầu cuối đều về thì chỉ thú ở giữa đều có thể biết.

Lại nữa, toàn Đà-la-ni Tự luân tướng: trong đây nghĩa là dùng một chữ giải thích nghĩa tất cả chữ, dùng tất cả chữ giải thích nghĩa một chữ. Dùng nghĩa một chữ thành lập tất cả chữ, dùng nghĩa tất cả chữ thành lập một chữ. Dùng nghĩa một chữ phá nghĩa tất cả chữ, dùng nghĩa tất cả chữ phá nghĩa một chữ, như một chữ tất cả chữ nghịch thuận xoay vần lệ theo đây có thể biết.

Vì sao dùng một chữ giải thích tất cả chữ? Như khi giải thích chữ Ca chỉ dùng các nhân duyên quán sát vốn bất sinh thì thấy nghĩa vô sở tác, cho đến khi giải thích chữ Ha cũng dùng các nhân duyên quán sát vốn bất sinh thì thấy nghĩa vô nhân. Vì sao dùng tất cả chữ giải thích một chữ? Như khi giải thích chữ A dùng các nhân duyên quán sát không tạo tác thì thấy nghĩa vốn bất sinh cho dến dùng các nhân duyên quán các pháp không nhân thì thấy nghĩa vốn bất sinh các chữ khác so sánh theo đây cũng vậy.

Phải nói rộng, vì sao tất cả chữ thành lập một chữ? nghĩa là tất cả pháp vốn bất sinh do không tạo tác. Giống như hư không không có tướng, không chuyển biến, không hòa hợp, cho đến không có nhân.

Vì sao nói một chữ thành lập tất cả chữ? Nghĩa là tất cả các pháp không chữ làm ra, do đó nói vốn bất sinh, cho đến tất cả các pháp không có nhân, vì vốn bất sinh.

Làm sao dùng tất cả chữ bác bỏ một chữ? Như người chấp các pháp hữu vốn có sinh, lẽ ra bác bỏ lời nói kia. Nếu các pháp lìa tạo tác mà nói có sinh, nghĩa ấy không đúng, cho đến các pháp nhân không thật có mà nói có sinh, nghĩa ấy cũng không đúng.

Thế nào là một chữ phá tất cả chữ? Giống như người chấp có tạo tác lẽ ra bác bỏ lời nói kia. Nếu các pháp, nghĩa vốn bất sinh rồi thành lập mà nói có làm ra, nghĩa ấy không đúng, cho đến chấp có nhân cũng phá lời kia. Nếu các pháp, nghĩa vốn bất sinh sau thành lập mà nói có nhân thì nghĩa ấy không đúng.

Thế nào là nghịch thuận xoay chuyển? Cái gọi là nếu pháp xưa nay bất sinh thì không tạo tác, nếu không tạo tác thì như hư không vô tướng, nếu như hư không vô tướng thì tức vô mà có hành, nếu không có hành thì không có hòa hợp, nếu không có sự hòa hiêp thì không thay đổi, cho đến nếu vô nhân thì phải biết pháp vốn bất sinh, đó gọi là thuận.

Nếu pháp không nhân thì “đế” không thật có, nếu đế không thật có thì chữ tánh chậm lụt, nếu chữ tánh chậm lụt thì phải biết bản tánh vắng lặng.

Nếu bản tánh vắng lặng thì phải biết vô tướng. Cho đến nếu vốn

bất sinh thì phải biết vô nhân, tám nghĩa môn này, tự tại xoay chuyển mà nói.

Lại nữa, nay nói tất cả pháp, đó là tướng chung. Nếu y theo kinh Ma-ha Bát-nhã thì sắc cho đến Nhất thiết chủng trí mỗi thứ đều nói riêng, nghĩa thì vô lượng.

Lại mỗi môn phải y theo tướng sâu cạn trong phẩm Chân ngôn Trụ Tâm, theo thứ lớp phân biệt, do tự môn chuyển nên nghĩa cũng khác nhau. Vì thế nghĩa ấy có công năng phát sinh ra trăm ngàn muôn ức triền Đà-la-ni.

Lại nữa, tất cả lời nói của Như lai đều là lời chân thật nên đem nghĩa chữ như thế vào khắp tất cả Tu-đa-la.

Vì thế luận Trí Độ chép: Nếu Bồ-tát nghe tất cả lời trong chữ A, thì ngay lúc ấy tùy theo nghĩa, biết cái gọi là tất cả pháp từ xưa đến nay là tướng bất sinh (A-đề, đời Tần dịch là sơ, A-nậu-ba-đà, đời Tần dịch là bất sinh).

Nếu nghe chữ La liền tùy theo nghĩa biết tất cả các pháp lìa tướng (chữ La, đời Tần dịch là cấu) nếu nghe chữ Ba thì biết tất cả các pháp nhập vào Đệ nhất nghĩa (Ba-la-mạn-đà, đời Tần dịch là Đệ nhất nghĩa).

Nếu nghe chữ Gia liền biết tất cả hành đều chẳng phải hành (Giàlợi-da, đời Tần dịch là hành).

Nếu nghe chữ Na thì biết tất cả pháp không được, không mất, không đến, không đi (Na, đời Tần dịch là bất) Như phẩm Tứ niệm xứ trong luận ấy có nói rộng.

Lại nữa, trong tất cả danh ngôn có thanh A đều nhập tự môn A, có thanh Ca đều nhập tự môn Ca, cho đến có thanh Ha đều nhập tự môn Ha, vì thế cho nên trong một tự môn đầy đủ vô lượng nghĩa, không phải từ trong tự môn Ha chỉ có nghĩa vô nhân.

Các tự môn khác phải biết so sánh theo đây. Hơn nữa, như Sa-đádã nghĩa là Đế, cho nên kinh chép: tự môn Sa tất cả các pháp đế không thật có, lại Sa-đá nghĩa là trước. Vì thế trong pháp cúng dường nói: tự môn Sa tất cả các pháp không nhiễm đắm, lại như Bà-phạ nghĩa là hữu, do đó kinh chép: tự môn Bà tất cả các pháp hữu không thật có, lại Bàphạ-na nghĩa là quán, cho nên trong pháp cúng dường nói; tự môn Bà tất cả các pháp xa lìa các quán, ngoài ra đều mô phỏng theo đây.

Vì thế kinh Đại Phẩm và phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh Hoa Nghiêm đều nói bốn mươi hai Tự môn, phẩm Văn Tự trong kinh Bátnhã, kinh Văn-thù Sở Vấn, phẩm Đà-la-ni Tự Tại Vương trong kinh Đại Tập đều giải thích Tất-đàm, tự mẫu nghĩa đồng với kinh này nói, nếu được ý này thì các kinh tự nhiên hiểu biết, không có gì ngăn ngại.

Lại nữa, mỗi tự môn đều nói không thật có, các pháp môn so sánh đều như thế, không thể nêu hết.

Kinh chép: Này Bí Mật Chủ! Ngưỡng nhưỡng ninh nẵng mãng, trong tất cả Tam-muội tự tại có thể nhanh chóng làm xong các việc, gọi là nghĩa lợi thảy đều thành tựu, đối với năm thứ thanh: Ca, già, tra, đa, ba, mỗi thanh lại có năm chữ.

Chữ thứ nhất đến chữ thứ tư đều là tuệ môn, như trước đã nói, chữ thứ năm đều là chứng môn, nay hiệp lại để nói: Sách Phạm dùng năm chữ này đều có chấm tròn.

Hơn nữa, như bốn chữ Ca, Khư, Nga, Già tăng thêm thanh thứ mười một đều ở trên đầu có một chấm. Nếu muốn bỏ chấm này, lại ở trên chữ sau cùng đính thêm chữ ngưỡng… chữ kia liền cùng có chấm không khác.

Lại trong mười hai thanh của chữ Phạm, chữ thứ nhất là bản thể thì chữ thứ hai là hành, thứ ba về sau vì các nét vẽ tăng thêm nên đều gọi là Tam-muội, trên chữ thứ mười một đặt dấu chấm là chứng, chữ thứ mười hai là ở một bên đặt hai dấu chấm là Bát-niết-bàn. Nếu chữ ngưỡng này có thể khắp trí tuệ Tam-muội thanh thì phải biết chính là nghĩa Đại không, vì thế nói riêng, không hợp lại để nói với tướng chữ trước. Kinh Niết-bàn chép: Năm chữ này nói đầy đủ nghĩa chữ. Nay tông Tỳ-lô-giá-na nương vào năm chữ này để nói về đại không, đại không là chứng xứ, không có pháp để nói, cho nên chỉ dùng dấu chấm để tiêu biểu.

Lại dấu chấm này, tuy tự thể vô môn nhưng khắp tất cả pháp môn, giống như hư không xa lìa các tướng, mà bao trùm muôn vật. Vì thế tất cả tự môn nếu thêm dấu chấm không có tác dụng tự tại, đều có thể thành tựu các việc.

Hơn nữa, như tự môn A diệu tuệ vô sinh, tất cả chúng sinh đều có, chỉ vì không tự chứng biết, giống như người nữ nghèo hèn không thể được thế lực của kho báu kia, khi phát hành như phương tiện mở mang, khi nhập chúng như kho báu hiện ra, bấy giờ tùy ý thọ dụng, chỗ mong cầu chắc chắn đạt được. Do đó nói thêm điểm không này, nghĩa lợi ba cõi đều được thành tựu.

Tiếp theo trong kệ do Đức Thế-tôn nói có chép: Chân ngôn Tammuội môn đầy đủ tất cả nguyện: Bản Phạm còn đủ nên ở dưới chân ngôn còn thêm chữ Đạo, người làm thêm một đường viền trụ trong chữ A thì gọi là A Tự Tam-muội, Tam-muội A Tự này liền khai tâm sáng Đạo môn, tất cả chữ khác cũng giống như vậy.

Nhất thiết nguyện, tiếng Phạm là Tát-phạ-xa, là nguyện do tâm này cầu nguyện, nghĩa là các chúng sinh tu Tam-muội môn này, tất cả chí mong cầu đều được viên mãn, tức là quả không thể suy nghĩ bàn luận của các Đức Như lai. Quả thường trụ, trí vô sư còn có thể ban cho chúng sinh, huống chi cầu xin Tất-địa thế gian?

Lại nữa, mỗi tướng thật thanh tự Tam-muội môn của Như lai, có Phật hay không Phật thì pháp vẫn như thế, tức là không chuyển động, tức là bản địa pháp thân của Như lai. Vì muốn đem pháp thân này khắp thí cho chúng sinh, nên lại dùng thần lực tự tại gia trì pháp nhĩ thanh tự như thế.

Vì thế thanh tự này là thân các Đức Phật gia trì, thân gia trì này liền có thể khắp làm ra thân tùy theo loại, không chỗ nào không có mặt, phải biết gia trì thanh tự cũng giống như vậy.

Cho nên hành giả chỉ nhất tâm duyên theo đạo lý quán sát chữ thanh này, tự sẽ thấy thân gia trì của Phật. Nếu thấy thân gia trì thì thấy pháp thân bản địa, nếu khi thấy pháp thân bản địa thì chính là tự thân hành giả, cho nên một chữ một môn tức là quả không thể suy nghĩ bàn luận của Như lai, không phải từ chỗ khác đến. Đầy đủ các nguyện thù thắng, chân ngôn quyết định nghĩa, bản Phạm vẫn còn, phải nói đầy đủ tất cả nguyện thù thắng đã có, nghĩa chân thật chân ngôn quyết định, thắng nguyện trong đây, tiếng Phạm là Phạ-lư, là đầy đủ các công đức cao quý, cái gọi là Tam-muội tổng trì vô úy… chỗ nguyện đã đầy, chỗ cầu đã đủ, cùng chữ nguyện trước tiếng Phạm đều khác.

Nói quyết định: lại như chữ A hoặc thanh hoặc chữ nêu thể bất sinh, nghĩa của chữ thanh thì hoàn toàn nêu thể bất sinh. Nếu khi chứng thì trở lại chứng thể bất sinh này, ở giữa đó không có xen lẫn, cũng không có đường khác. Nếu khi thấy nghĩa chân thật này, dù cho các Đức Phật trong muời phương cùng một lúc hiện ra nói các thứ tương tự Ba-la-mật, muốn làm cho thay đổi tâm người ấy nhưng cũng không sinh nghi ngờ, do đó nói là quyết định.

Lại nữa, đầy đủ các thắng nguyện, là công đức nội chứng của Như lai nhiều như số cát bụi trong mười thế giới, nhờ quyết định nên mỗi mỗi đều thành kim cang ấn, từ thân tự chứng này lại khởi thân gia trì, rằng vượt qua ba đời. Vô cấu đồng với hư không: Tức là tâm địa thanh tịnh vô cấu không thể suy nghĩ bàn luận, dùng phương tiện lớn, ở trên đất này vẽ Phổ môn Mạn-đồ-la. Vì thế kinh chép: Trụ tâm không thể

suy nghĩ bàn luận, khởi làm các sự nghiệp, bản Phạm nói đủ là tâm địa (đất tâm) vì trong kệ năm chữ thành câu, không thể viết thêm nhưng địa chính là tâm thể, do đó chỉ nói trụ tâm không thể suy nghĩ bàn luận.

Trong chân ngôn Tam-muội môn tuy có quả đức không thể suy nghĩ bàn luận như thế, có khả năng cấp khắp cho các chúng sinh một nước. Nếu các chúng sinh không sinh tưởng cúng dường tu hành thì khó gặp. Ví như nhà vua thức ăn đầy đủ trước vô tâm ăn uống thì các Đức Phật kia như thế nào? Do đó Kinh chép: Nếu đạt đến tu hành địa trao truyền quả bất tư nghì, tu hành địa này tức là tâm Bồ-đề thanh tịnh gọi là sơ pháp minh môn, chẳng hạn như Thanh văn sau khi kiến đế trở lại vào địa vị Tu đạo, Bồ-tát này ở trong “bách tự minh môn” đều thấy thế giới biển Liên Hoa Đài Tạng Mạn-đồ-la tướng trang nghiêm kia thảy đều khác nhau, tức từ trong Đại không luân tự môn đem tự môn A khởi đại phong luân, tiếp theo ở trên kia dùng tự môn Phạ khởi ra biển nước thơm.

Kế đến ở trên kia dùng tự môn A khởi đất kim cang và núi lớn kim cang, ngoài ra như trong kinh Hoa Nghiêm chép: Ở bách Liên Hoa Tạng này, mỗi thế giới Bồ-đề Mạn-đồ-la đều có các Bồ-tát kim cang… trong mười thế giới lấy làm quyến thuộc. Người tu Du-già này có thể không rời khỏi tòa, đều đến trong hội các Đức Phật như thế, cũng có thể lần lượt cầu học hỏi các Thiện tri thức.

Do đó nói Bồ-tát Sơ địa hóa đầy trăm cõi Phật, không phải chỉ khởi kiến mà thôi, cũng có thể dùng trăm Liên Hoa Tạng này chuyển thành thân mình, đến khi ở Sơ địa mầm mống là hoa… mười tâm đầy đủ trong một minh môn nở ra mười giải thoát môn, thành ngàn thế giới, đều là tùy theo phần nhận trao quả bất tư nghì, đến Địa thứ mười một, ở hư không trong mây biển minh môn mỗi Địa đều thấy thế giới trang nghiêm của Liên Hoa Tạng tánh, tướng, hình loại xoay vần khác nhau, dùng làm tự thân tự tại vô ngại, đó gọi là quả bất tư nghì đầy đủ.

Tiếp theo có hai bài kệ khuyến tín ấn thành cho nên nói là chân thật bậc nhất, các Đức Phật đã mở bày, mở bày trong đây tức là tri kiến của Phật giống với nghĩa trong kinh Pháp Hoa. Nửa bài kệ tiếp theo nói, nếu biết giáo pháp này sẽ được các Tất-địa, là dẫn ra đạo lý các Đức Phật đồng tin thế đế.

Nếu hành giả chân ngôn hiểu rõ thứ lớp phương tiện trong giáo pháp này, dùng tất định tín đúng như lời dạy tu hành thì sẽ được thành tựu tất cả Tất-địa. Nếu cho lời nói này không đúng thì các Đức Phật trong ba đời mười phương, có tội trái ngược với bản thể, dối gạt chúng sinh, một bài kệ tiếp theo khuyến tín chân đế, nhưng Tất-đàm tự mẫu này, trẻ con cũng đều trì tụng, đến như Hộ-ma cúng dường… tiên Vi-đà ở đời cũng đều cùng làm, nhưng nay môn Chân ngôn này sở dĩ thành bí mật riêng, vì nghĩa chân thật đã gia trì.

Nếu chỉ miệng tụng chân ngôn mà không suy nghĩ kia thì chỉ có thể trở thành nghĩa lợi của thế gian, đâu được thành thể tánh kim cang, vì thế kệ nói: Thanh chân thật trên hết tướng chân ngôn chân ngôn, hành giả suy nghĩ kỹ, được thành “cú” bất hoại. Thanh đây tức là môn Chân ngôn, thể của mật ngữ, giống như trong thanh A nghĩa chân thật bậc nhất, cái gọi là vốn bất sinh.

Trước hết nói chân ngôn, bản Phạm dùng nhiều thanh để gọi, tức là chỉ chung tướng bách tự môn và tự luân của thế đế. Kế là nói tướng chân ngôn: Là tướng thật của chân ngôn này. Tức là tướng thật của chân ngôn này do suy nghĩ đế, nên mỗi mỗi đều nhập đài hoa sen. Cú là chỗ dấu vết đã dứt.

Kinh chép: Bấy giờ, Chấp kim cang Bí Mật Chủ bạch Đức Phật rằng: Ít có! Thế-tôn! Đức Phật dạy đạo pháp tướng chân ngôn không thể suy nghĩ bàn luận giống như pháp Thanh văn, trong giải thoát không có văn tự. Nhưng Duy-ma-cật không lìa văn tự nói tướng giải thoát, cho nên gọi là bất tư nghì giải thoát, nay tự luân này cũng giống như vậy, liền đem vô tướng pháp thân làm các thứ chữ thanh, các thứ chữ thanh, làm pháp thân vô tướng, do đó gọi là bất khả tư nghì chân ngôn tướng.

Không cùng tất cả Thanh văn, Duyên giác, cũng không khắp vì tất cả chúng sinh, kinh này là vật báu bí mật của pháp vương, không chỉ bày cho người thấp kém một cách bừa bãi, như Đức Thích-ca Thế-tôn hơn bốn mươi mươi năm nhân Xá-lợi-phất… ba phen hết lòng cầu thỉnh, mới vì các vị ấy nói lược nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa, nay theo bản địa này, lại là chỗ Diệu Pháp Liên Hoa vắng lặng bí mật sâu xa. Cho nên phẩm Vô Lượng Thọ chép: Thường ở núi Linh Thứu và các trụ xứ khác, cho đến tịnh độ ta không bị hủy hoại mà chúng sanh thấy cháy hết chính là ý của tông Du-già này.

Lại, nhân Bồ-tát Di-lặc ba phen ân cần cầu thỉnh mới nói cho Bồtát nghe, nếu căn cứ không đốn ngộ thì không vào tay của kia, cho nên không khắp vì tất cả chúng sinh, cũng là lãnh ngộ trong bài kệ trước, đến tu hành địa mới trao quả bất tư nghì, lại nói hiểu rõ khuyên tin hợp thành hai bài kệ. Do đó nói: Nếu người tin đạo lý chân ngôn này, các pháp công đức đều sẽ đầy đủ, nếu khi đầy đủ thì đó sẽ là đầy đủ các nguyện thù thắng. Trên đã nói chi phần chân ngôn xong.

Chấp kim cang lại nương theo văn trên, thỉnh Phật nói tiếp thứ lớp cần thiết để nhập Mạn-đồ-la. Đức Thế-tôn nói kệ, trước đáp hai câu: Nhân thức ăn hương hoa… đến cùng các bình báu là tên chung chi phần cúng dường, y theo các phẩm vật cúng dường trước nói về hoa dâng cúng. Hễ đã dâng cúng đều tùy theo tánh loại các tôn vị và phương vị Mạn-đồ-la… mỗi mỗi khéo phân biệt, phải khiến sắc, hương, vị, xúc, thích hợp vui vẻ tâm người, trong thủy lục không nói các hoa chỉ có thể dùng làm chiết phục. Trong ba màu trắng, vàng, đỏ, Như lai thường dùng màu trắng, liên hoa quyến thuộc thường dùng màu vang, kim cang quyến thuộc dùng màu đỏ.

Lại nữa, phải như phương vị Mạn-đồ-la, đàn tròn dùng màu trắng, đàn vuông dùng màu vàng, đàn tam giác dùng màu đỏ.

Lại nữa, các Đức Phật dùng màu trắng, các Bồ-tát dùng màu vàng, các vị trời dùng màu đỏ. Ngoài hoa, hương… cũng phải Y theo theo ý gần đây, gồm chọn lấy lời văn sử dụng trong Tô-tất-địa và Cù-hê…không thể chép đầy đủ.

Bát-đầu-ma là hoa sen hồng, gồm các hoa sen xanh, đỏ, trắng… nước mọc các hoa đều có thể hiến cúng chung chư tôn. Long hoa Bônna-già: Bôn-na-già là hoa Long Thọ. Thế-tôn Di-lặc thành Phật dưới cây này, Long hoa là hoa mà loài rồng yêu chuộng. Tây phương có rất nhiều loại hoa ấy, như hoa Tát-la, hoa Mạt-lệ, hoa Đắc-niết-la, hoa Chiêm-bặt, hoa Vô ưu, hoa Để-la-kiếm, hoa Bát-tra-la, hoa Sa-la thọ, điều có ở Thiên Trúc, phương này không thể biết đầy đủ.

Kinh chép: Các thứ các thứ hoa tốt đẹp như thế, bản Phạm có cả hoặc thanh, nghĩa là các thứ hoa như vậy đều có thể thông dụng, do đó nêu lên để so sánh, nhưng có thể phương khác có, phương kia không, chỉ khiến lòng người ưa thích, người thế gian cho là tốt lành thì đều có thể cúng dường, lượm nhóm lại xâu thành tràng nghĩa là pha lẫn trang nghiêm, hoặc khâu, hoặc kết, do người tu hành tâm ân cần, thật thà, thanh tịnh sẽ khiến các tôn vị hoan hỷ hộ niệm.

Sau nói hương xoa, hương chiên-đàn, thanh mộc, uất-kim-đố-lộ, bà thảo, hương mục túc ở phương Tây hơi khác mục túc hương ở đây, đến các thứ hương xoa tốt khác như: Trầm thủy, cam tùng, đinh hương, quế tâm, đậu khấu, hương phụ tử… ở phương Tây giống như trong Tôtất-địa, Cù-hê có nói rộng.

Lại nói trong các thứ hương xoa kia chớ dùng thân phần của chúng sinh và khoáng sản cùng vật trùng ăn… phải lấy hương tốt sạch, dùng nước nghiền ra, nếu cúng Phật thì phải dùng uất-kim hoặc trầm hương đen, mới, tốt, đem hòa với long não.

Liên Hoa quyến thuộc phải dùng bạch đàn.

Kim cang quyến thuộc cũng phải dùng bạch đàn, ngoài ra các tôn vị tùy ý mà dùng cho phù hợp, tùy theo chỗ hợp hương đều đặt long não.

Kế là nói về đốt hương, phải dùng hương trầm thủy, hương tùng, hương phạ lan, hương long não. Hương bạch đàn ở phương Tây gọi là Ma-la-dũ, đó là tên núi, chính trong luận Trí Độ đã nói trừ Ma-lê-sơn, lại không ngoài chiên-đàn.

Bạch Giao hương là Sa-la Thọ, Thất-lợi-phạ-tắc-la hương, giống như huân lục hương ở phương này, thất-lợi nghĩa là có đức tốt lành, ý nói hương này cho đến thiên thần thảy đều ưa thích, do đó lấy làm tên, và các loại hương xông khác mùi thơm ngào ngạt, người đời khen ngợi, cũng như trên đã nói.

Cù-hê chép: Đốt hương hòa bạch đàn và trầm thủy với nhau, cúng dường Phật, nước thơm của cây ấy, cúng dường loại hoa sen, hắc trầm và an-tất cúng dường loại kim cang, hoặc nương vào phương pháp kia làm hương, hòa hợp rộng khắp để dâng cúng các tôn vị, phải nên theo pháp dạy ấy, nghĩa là dùng chân ngôn mật ấn gia trì trừ dơ… như trong cúng dường thứ lớp nói. Ngoài ra, hương xoa và hoa… lệ theo đây có thể biết.

Kế là nói y vào giáo pháp dâng cúng các thức ăn như trong kinh đại bản, các thức ăn cúng dường… đều có cách nấu, đến ý sâu kín, mỗi mỗi tương ưng với pháp môn, pháp này không đủ, chỉ nương vào Tôtất-địa… đúng như pháp làm kết hộ gia trì thì gọi là y giáo. Cháo sữa, ở phương Tây cháo có nhiều thứ, hoặc dùng nước mè đen, hoặc dùng các thứ đậu và các vị thuốc, như các văn thập tụng dược pháp… có nói rộng, nhưng cháo sữa là trên hết. Khi dâng cúng thức ăn này, lại phải thêm bơ, đường cát… khiến đầy đủ cả màu sắc lẫn mùi vị để cúng dường.

Lại ở phương Tây cơm có nhiều thứ cũng cho cơm sữa là trên hết, khi dâng cúng cơm này phải kết hơp các vị đường, muối, gừng, lại phải cúng canh, nương vào phương pháp làm thức ăn ở phương kia, hoặc tùy theo phong tục từng nước cần dùng.

Hoan hỷ hoàn, phải dùng bơ chiên các thứ bánh, trộn lẫn các vị và ba thứ tân dược… khiến các thứ trang nghiêm.

Mạn-đồ-ca là bánh tráng ở phương này, bánh lá kia là phương pháp làm bánh ở Thiên Trúc, dùng các vị đường mật hòa với bột, dùng dầu chiên rất là ngon đẹp.

Bánh đường cát: đường cát này gọi là Kiển-đồ, hình dáng như ở ích châu sinh ra, màu sắc rất trắng đẹp, đụng tới liền vỡ, hòa với nước thì tan, trước dùng bột làm bánh, thường để cho thấm, rồi sau mới ăn.

Tinh Diệu: Nghĩa là cốt phải khiến cho trắng sạch, làm cho sắc hương đầy đủ. Bố-lợi-ca, Hán dịch là Trước Lam Bỉnh, dùng các vị trên hòa hợp để noi theo mà làm. Bánh lỗ hỏng có hai loại, hoặc đâm thành lỗ hỗng, hoặc dạng như sợi tơ nhiều lớp lộn xộn hổng ở giữa, để thêm các vị.

Mạt-đồ-thất-la Bỉnh cũng theo trước mà làm, dùng đường mật phết lên.

Tỉ-nặc-ca bỉnh, bắt đầu dùng bột nói trên mà làm, lấy dầu sống mà chiên hình dáng như bọt nổi trên nước rất đáng yêu, vô ưu là quyện duyên sa đường kỉnh, Bà-bát-tra thực là các món ăn như thế, cũng nói tùy theo phương hướng, quốc gia có vị ngon và quả quý tốt gì thì tùy ý dâng cúng.

Đường trắng, đường phèn, đường cát, mật tươi lại đều để riêng. Các thứ nước uống: Ở phương Tây, cách thức chế nước rất nhiều, đều dùng xen thuốc thơm mà lành bệnh và các nước uống phi thời như nho… trong Tỳ-ni đã nói, thức ăn và sữa kia cũng dùng Tất-bát hoặc Long Não… như phương pháp y minh thực mà làm, nói chung ở phương Tây làm thức ăn, nước uống thứ tự trước sau, đa số nương vào phương pháp làm thuốc, có kỹ thuật dưỡng tánh, giữ thân, thường hết hoạn chết yểu, hễ là chỗ để thức ăn thì phải xoa hương thơm cùng khắp, để thức ăn trong viện, trải khắp lá sen hoặc lá chuối v.v… cho cùng khắp, không nên dùng lụa trắng mới sạch hoặc vải sạch, nên rưới nước sạch và thoa hương thơm, khi bày thức ăn thì phải thêm nhiều các tôn vị thượng thủ, trong thai tạng thì Phật Tỳ-lô-giá-na, viện thứ hai là Quán Âm kim cương chủ viện kế là bốn vị Bồ tát như Văn thù v.v… ngoại viện là Phật Thích ca-Mâu ni và các bản tôn được thờ v.v… Nếu các chỗ còn lại phải đặt một phần thì các tôn vị thượng thủ nên chia làm hai, hoặc các chỗ còn lại đặt hai phần thì các tôn vị thượng thủ đặt ba phần. Cù-hê chép: Vị đứng đầu mạn-đồ-la nên thêm số gấp bội, dù có thứ lớp khác nhau này nhưng trên từ chư Phật dưới đến quỷ thần thế gian đều nên cúng dường với tâm bình đẳng, mục đích là làm cho dồi dào đồng đều, v.v… cho đến không làm chỉ nên Cúng dường bộ chủ hoặc đặt thức ăn trong viện, vận dụng tâm cúng dường tất cả các tôn vị, dâng cúng hương hoa… lệ theo đây có thể biết.

Tiếp theo nói về dâng cúng đèn, dầu thơm có rất nhiều loại, đó là chiêm-bặc du hương (dầu thơm chiêm-bặc), dầu thơm hoa Tô-ma-na… về phương pháp làm dầu thơm phải dùng hoa tươi, xâu như cách xâu tràng hoa, treo dưới ánh nắng mặt trời, dùng đồ đựng dầu hứng, dùng vật lấy dầu tưới trên hoa, khiến hoa rơi trở lại trong dầu, lại lấy dầu mà tưới. Như thế vòng quanh rồi trở lại từ đầu, từ ngày ra cho đến ngày vào mới thôi, sáng ngày sau lại lấy hoa mới mà làm như trước, khiến hơi thơm dầu này, và hơi thơm hoa này đều nhau, sau đó mới thôi.

Các đồ dùng để dâng cúng thức ăn và đèn dầu… dùng các thứ báu là trên hết, nếu không thể sắm đồ dùng bằng đồng, bạc… thậm chí đồ dùng bằng ngói mới sạch cũng làm được việc, phương Tây thêu cờ lọng, nếu có tiền của và sức lực, phải đối với mỗi tôn vị, đều lập môn riêng, cũng dùng các thứ báu là hơn hết, nếu không thể sắm được thì dùng lụa màu đỏ để thêu vẽ, khi vẽ phải dùng vật sạch, không được dùng keo… Nếu không thể làm nhiều thì cho đến bốn phương mỗi phương đều đặt một cái lọng, ở cửa treo chuông lắc… đều tùy sức mà chia làm các thứ trang nghiêm, đều y theo tướng chỉ bày trong phẩm Nhập Bí Mật Mạnđồ-la.

************

Kinh chép: Hoặc dùng tâm cúng dường tất cả mọi người đều làm như Đức Thế-tôn đã dạy: Trong các thứ cúng dường tâm là cao cả, ở trước mỗi vật cúng dường, đều phải vận dụng cùng khắp pháp giới, trì chân ngôn bí mật ấn, như trong “cúng dường thứ lớp” có nói rộng. Hoặc xem Đại Bảo Thọ vương trùm khắp tất cả thế giới, như tướng Hoa Nghiêm Bồ-đề thọ vương đầy đủ trang nghiêm, tùy theo mỗi vị cần thọ dụng đều đầy đủ, đều ở trong đó phát sinh ra không có cùng tận, khắp đến trước tất cả hiền Thánh, cúng dường rộng khắp và cứu giúp tất cả chúng sinh, vận dụng tâm như vậy rồi, phải dùng hư không tạng chuyển minh phi gia trì, tự nhiên tùy ý thành tựu.

Kế là nói cách làm bình cát tường, phải dùng các thứ báu như; vàng, bạc… thậm chí người không có thì nên dùng đồ sứ hoặc ngói sạch để làm, khiến hết sức tròn đầy ngay thẳng, lại không bị rỉ nước ra ngoài, như trong Tỳ-ni tìm cách xem lọc nước sạch đựng đầy trong đó, bên trong năm thứ báu, năm thứ hạt và năm thứ thuốc, trong Cù-hê có nói, nhưng ở đây xét năm thứ thuốc xuất xứ ở ngũ thiên, Trung quốc có hay không? Có thể khắp có được như thế. Trước đã nói bột hương xoa hòa với nước, sắm cả long não, ngưu hoàng, ở miệng bình cầm lấy hoa báu, hoặc tùy theo phương hướng cõi nước. Chỉ có các hoa quý, lấy hoa, quả, cành, lá, tốt đẹp đầy đủ kia, xen kẽ nhau rải ra, cho thật trang nghiêm, lấy lụa màu buộc ở cổ và buộc ở tràng hoa, lấy các hương mà phết lên, phương tiện kết lại, giữ gìn cho sạch, cũng như trong “cúng dường thứ đệ” có nói.

Trong thai tạng phải đặt năm cái bình, ở giữa đại nhật bình đầu tiên đặt trên đài hoa, các bình khác đặt ở ngoài hoa hoặc trong nhị. Hễ khi cúng thức ăn thai tạng thì bốn Đức Phật và bốn vị Bồ-tát đều tùy theo chỗ ngồi chính trong đài hoa, dâng cúng Tỳ-lô-giá-na đặt trước đài hoa.

Nếu người có khả năng thì ở mỗi một tôn vị đều đặt một bình. Nếu không thể như vậy thì đặt theo hướng trong ngoài ở chỗ chư tôn thượng thủ , ở bốn cửa đều đặt một bình, bốn góc mỗi góc đặt một bình, cửa thông ra ngoài có một bình riêng.

Dùng Hàng tam thế chân ngôn gia trì, khi ra vào thì rưới vào thân tự hộ và khi gọi đệ tử vào cũng dùng để rưới. Chủ Hộ-ma lại đặt riêng một bình. Tóm tắt sơ lược có thể hơn trăm bình.

Kinh chép: Sáu bình ấy là số hạn rất ít, phải ở trong bốn phương của thai tạng đều đặt một bình, ngoài cửa đặt một bình chắc chắn không được thiếu.

Nếu dùng mười tám bình ấy, trong thai đặt một bình ở viện thứ hai, chỗ Đại Cần Dõng đứng đầu loại Liên Hoa Kim Cang, đến cửa đại khái bốn bình bốn vị Bồ-tát ở viện thứ hai, đó là Văn-thù… đều đặt một bình, bốn cửa bốn góc ngoài viện, và ngoài cửa người, sử dụng thích hợp, đủ để dùng cho người muốn thọ quán đảnh, nếu đông thì mỗi vị đều tùy theo số người khiến làm một bình, không được thiếu; giống như hương, nước, bình, các bình đựng át-già cũng giống như vậy, thường dùng vàng, bạc, lưu ly… làm đế.

Cho đến vỏ ốc, đồng luyện, gỗ, đá, hoặc dùng cây, lá, ngói mới, đựng các nước hoa, đặt các hoa quý, như chỗ trước đã đặt bình cũng mỗi chỗ đặt một bình.

Lại phải ở chỗ chư tôn đều dâng cúng y sạch, như trước đã nói. Chư tôn thượng thủ cũng y theo pháp dâng cúng thức ăn thêm gấp bội xong. Cho nên nói tất cả dâng cúng đều gồm cả y phục. Nếu người không thể mua sắm thì chỉ đặt ở chỗ chư tôn thượng thủ, hoặc dùng cái rương nhỏ tùy theo kia đặt ở giữa thai tạng trong viện. Vận dụng tâm cúng dường tất cả các tôn vị, hễ trong thai tạng dâng cúng đầy đủ phải đặt ngoài thai tạng một lớp trong không giới.

Nếu dâng cúng chư tôn vô danh phải đặt ba lớp giữa đường phân giới. Lại khi cúng dường, trước phải dâng cúng nước át-già, tiếp theo dâng hương xoa, kế là dâng hoa, hương đốt, đồ ăn uống, sau dâng cúng đèn. Văn kinh trước sau không thứ lớp.

Lại nữa, nếu giải thích theo thâm bí thì hương xoa nghĩa là tịnh, như hương xoa ở thế gian có thể sinh sự dơ bẩn, dứt trừ nóng bức. Nay hành giả dùng nước át-già giống như hư không rửa sạch một trăm sáu mươi thứ dơ bẩn nói lời vô ích trong tâm Bồ-đề, do trụ giới vô vi xông ướp, nhiệt não sinh tử trừ diệt, được tánh trong mát, do đó nói hương bột, có chỗ nói hoa là từ nghĩa từ bi sinh ra, tức là hạt giống tâm tịnh này ở trong Đại bi thai tạng, nở đầy muôn hạnh trang nghiêm cây Bồ-đề Phật, do đó nói là hoa. Hương đốt là nghĩa khắp đến pháp giới như khi thọ vương nở rộ, hương thơm ngược gió, thuận gió tự nhiên tỏa khắp, hương Bồ-đề cũng giống như vậy, tùy theo mỗi công đức mà làm lửa tuệ đốt cháy, gió giải thoát thổi lên theo năng lực bi nguyện, tự tại xoay vần huân xông khắp tất cả, vì thế nói là hương đốt. Ẩm thực là vị cam lồ vô thượng không sinh, không tử. Nếu khi ăn uống vị này thì quả đức thành thục không còn gì hơn, tức gọi là nhập chứng, do đó nói là thực. Cái gọi là đăng: Nghĩa là ánh sáng Như lai phá tan sự tăm tối, khi nói về quả đức thì tâm chướng đều tiêu diệt, chuyển vô tận tuệ chiếu khắp chúng sinh, do đó gọi là đăng. Nếu nói theo chiều dọc thì trong mỗi địa đều đầy đủ năm nghĩa như vậy. Nếu nói theo chiều ngang thì trong mỗi môn đều đầy đủ năm nghĩa như vậy, chẳng hạn như văn trên nói về các thức ăn, nếu hợp khẩu thì giống nhau, nhưng tùy theo bàn tay người khéo điều chế thức ăn mà có các vị ngon khác nhau.

Ngoài ra, hương hoa… phải biết so với đây mà hiểu. Nếu hành giả khéo dùng năm tự môn, làm vũ khí kim cang khắp ứng với chúng sinh, ví như hòa năm vị ngọt, chua, đắng, cay, mặn, bày năm màu (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen), vận năm âm (cung, thương, dốc, chủy, vũ) chế năm thứ thuốc, tuy tánh chia không ngoài năm thứ nhưng ngàn biến muôn hóa khéo chuyển khác nhau, phải biết người đó sẽ hiểu nghĩa Tam-muội đồ hương, cũng hiểu nghĩa Tam-muội hoa, Tam-muội thiêu hương, Tam-muội ẩm thực đăng minh, cũng hiểu nghĩa năm thứ Đà-lani này. Đem đầy đủ các pháp môn như vậy cúng dường tâm vương Như lai, có thể khiến chư tôn hoan hỷ, chỗ mong cầu chắc chắn đạt được. Nếu đem ý thú này quán trở lại hương hoa… ở thế đế, tự nhiên biết tánh phần sắc hương kia đều nên sự dụng, vô lượng phương tiện tiếp xúc chúng sinh mà sinh ra.

Kinh chép: Tu cúng dường như thế, sau dẫn người đáng độ, dưới đây nói chính khi tác pháp, gia trì thì chi phần giáo thọ và chi phần Hộma, y theo gia trì giáo thọ, hễ trả lời ba câu hỏi của kim cang thủ. Đó là Vì sao dắt dẫn đệ tử? Vì sao dạy quán đảnh? Vì sao cúng dường thầy?

Hỏi ba câu này xong rồi, mới hỏi chỗ Hộ-ma. Nay ở đây trả lời, trước nói dẫn dắt đệ tử xong, liền nói Hộ-ma, chỗ vừa trả lời còn lại hai câu, nhưng trong Hộ-ma chung cho tất cả các pháp sự, không chỉ gia trì đệ tử mà thôi. Cho nên làm riêng một loại chi phần, ở trong quyển trước đã nói đêm thứ bảy chính là thời tác pháp vẽ đồ tướng Mạn-đồ-la, trong đó nói riêng về chi phần quan trọng, đó là do thế văn bị đứt quãng.

Nay lại nương vào văn trước lần lượt nói ra, A-xà-lê đã vẽ Mạnđồ-la xong, quán sát khắp cả biết đã đầy đủ, mới ra ngoài đúng như pháp sái tịnh, như trước đã vận dụng tâm lạy khắp tất cả Như lai, sám hối quy y tự thanh tịnh ba nghiệp, sau đó y pháp cúng dường, kết Tammuội-da minh… để hộ thân kia, các vật cúng dường kia, cũng dùng chân ngôn bất động khử dơ, trừ sạch cho thanh tịnh. Đúng như pháp mà sắp sẵn trước, lại phải mặc y phục kim cang… khiến mỗi thứ đều đúng như pháp.

A-xà-lê nói: Khi làm thân Như lai, thì mặc áo Như lai, khi làm thân kim cang thì mặc áo kim cang, phải thay đổi mà dùng. Lại y theo Tô-tất-địa… Lấy các tướng ánh sáng ở nhục kế Như lai để tự trang nghiêm thân thật tốt, hoặc có thể dùng chung, hoặc thành tựu các việc chân ngôn mà làm.

Làm như thế xong, sau đó đến ngôi vị Mạn-đồ-la, tùy chỗ đáng ngồi mà ngồi, trụ trong Du-già. Trước dùng tự môn La khắp làm thanh tịnh tâm kia, sau lại làm thanh tịnh đất đạo tràng, đều trừ các tai hoạn giống như hư không. Sau đó dùng tự môn A khởi đại phong luân, ở trên phong luân dùng tự môn phạ khởi hương thủy hải, liền dùng tự môn A khởi kim cang địa và núi chúa Diệu Cao, phải biết Mạn-đồ-la này, tức là ở trên, như phương tiện trong Cúng Dường Thứ lớp, quán các thứ trang nghiêm, dùng hư không tạng giữ gìn, tiếp đến trên mỗi ngôi vị chư tôn trong Mạn-đồ-la, đều quán hạt giống chữ gốc, từ các chữ này đều chuyển thành thân bản tôn.

Nếu A-xà-lê kia, quán đạo chưa thông sợ kéo dài thời tiết, chỉ ở trong thai tạng trên đài hoa sen mà quán tự môn A. tự môn phát ra vô lượng ánh sáng chiếu khắp các chỗ ngồi chư tôn, bấy giờ, chư tôn liền hiện ra, lúc ấy dùng phương tiện chuyển quán chư tôn như thế cùng thân ta không hai, không khác, tức là chư tôn liền ở trong thân.

A-xà-lê nói: Nếu hành giả chưa trụ Du-già, làm sao có thể tạo thành đàn pháp. Như thế cho đến khi mới kiến lập đã quán ở trong thân, sau đó mới vẽ bản đồ. Nếu A-xà-lê tu hành sâu xa thì giống với chúng Thánh ở Đại bi thai tạng, cùng chứng biết đó là tâm ta, cùng mười câu duyên sanh kia rốt ráo không thật có. Quán bản tôn rồi, sau lại vận dụng tâm làm các thừa báu, dùng chân ngôn ấn bất động gia trì, đón rước các Thánh và làm sạch đường đi, sau đó mời thỉnh.

Cù-hê chép: Phải mỗi mỗi dùng bản chân ngôn phụng thỉnh hoặc dùng chân ngôn chủ Mạn-đồ-la đều thỉnh các tôn vị, hoặc nương vào bản giáo đã nói, phải theo ý rộng, lược, gồm dùng ấn triệu thỉnh chân ngôn.

Lại tông kinh này tức ở bản tòa thọ thỉnh, lại vì bất lai tướng mà đến đạo tràng này, không giống như trong phương tiện thô sơ có tướng kia đây, đại chúng nhóm họp xong, nên dùng bất động minh để dứt trừ các chướng, liền chỉ bày ba thứ Tam-muội-da để gia trì, lại phải dâng nước át-già và trải tòa ngồi, mà nói rằng. Lành thay, Đức Thế-tôn! Lành thay, Đức Thế-tôn! Vì năng lực bản nguyện mà đến, vì thương xót gia trì, nhân sự cầu thỉnh và cúng dường tinh diệu này, vì đại từ bi xin rủ lòng thương xót mà nạp thọ.

Bấy giờ, A-xà-lê muốn làm việc kim cang, lại dùng dao tuệ vô động tự cắt đứt chướng của thân, chuyển làm kim cang Tát-đỏa hàng phục nghiệp ma, vẫn dùng năng lực trí tuệ kiết giới các phương, lại bốn đại hộ, mỗi vị hộ mỗi phương, lại trì vô kham nhẫn đại hộ đều hộ khắp, A-xà-lê nói: Hễ tạo Mạn-đồ-la thì từ trước đến nay đều dùng bất động tôn, hoặc đem hàng tam Thế-tôn che chở đất đó. Trong đó mỗi khi trì tụng, liền như pháp kiết giới xong trở lại giải, đến đêm tác pháp lại cắt trong dây kim cang kiết giới đầy đủ. Chỗ đàn Hộ-ma quán đảnh kia, phải ở ngoài Mạn-đồ-la, lại dùng dây giăng chung quanh, khiến cùng thông với nội giới và đặt cửa ra vào, ở ngoài giới Mạn-đồ-la khắp dùng dây kim cang vây bọc chung quanh đến khi Hộ-ma cúng dường, cũng phải vận tâm ở cửa thông chỗ được kim cang lên, khiến chư tôn qua lại thông suốt, lại khi kiết giới chỉ nên ở bản tòa như thường mà tác pháp.

Nếu muốn đi quanh một vòng để kiết giới chung quanh cũng đều thành tựu. Nếu kiết giới rồi bỗng nhiên vọng niệm, giới bị phá hoặc các việc ma khởi liền phải nhớ nghĩ Từ vô kham nhẫn đại hộ, nếu muốn cho bất cứ lúc nào cũng không chướng ngại giới chung quanh giới kia và vật cúng dường… đều trước cần đại hộ giữ gìn, sau khi khởi chướng lại phải dùng lại.

Kế đến phải làm lễ dâng nước át-già, dùng năng lực đại bi rảy khắp các vật cúng dường, toàn dùng pháp giới tâm bất tư nghì. Nếu khi dâng cúng hương hoa thì phải trụ ở chân ngôn hương xoa mà giữ. Khi theo thứ lớp cúng dường, lại mỗi mỗi dùng thêm chân ngôn của tôn vị kia, hoặc chung, hoặc riêng, hoặc để tự giữ gìn, ngoài kia ra, các vật cúng dường đều lệ theo đây.

Lại phải tác pháp tâm cúng dường, giữ gìn hư không tạng minh, cho đến kim cang A-lợ-sa ngâm đọc, khen ngợi, sau lại ra ngoài bố thí cho quỷ thần ở chỗ hoang vắng. Căn cứ theo đồ tượng, ở ngoài cửa Đông bố thí cho Tỳ-na-dã-ca, ngoài cửa nam bố thí cho Chi-nghiệtphiếu-hà, đó là loại ma quỷ nương tựa người, ngoài cửa Tây bố thí cho Nghiệt-la, đó là loài làm tật bệnh và dịch lệ.

Ở ngoài cửa Bắc bố thí cho Đồ-cát-nhĩ, ở cửa hai bên, mỗi cửa đều đặt bốn vị. Nhưng Cù-hê chép: Đều là La-sát Tỳ-xá-giá bộ-đa, các loại ăn uống máu thịt, các loài phi nhân, hoặc ở đất, hoặc ở rừng cây, cũng đem tâm nhớ nghĩ đến, mỗi mỗi đều tùy theo nơi ở gốc mời nhóm họp mà bố thí, tất cả thức ăn cúng dường Mạn-đồ-la, thảy đều lấy hòa hợp một chỗ, cùng với các hương hoa… cũng đều trích ra phần ấy, cùng để một chỗ, A-xà-lê phải khởi tâm đại bi pháp thí không hạn lượng, ở trong Du-già, quán làm các vật thọ dụng, cũng dùng hư không tạng chuyển minh gia trì, dùng để thí khắp, các quỷ thần thọ thức ăn này, không làm chướng ngại Mạn-đồ-la. Phải bất đầu từ phương Đông, sau đến phương Nam, Tây, Bắc, như thế một vòng đã xong, lại bố thí ở phương Đông bắc, kế đến phương Đông nam, phương Tây nam, phương Tây bắc lại xong một vòng.

Lại đến phía Đông của đàn bố thí cho quỷ thần ở phương trên ăn, lại đến phía Tây của đàn bố thí cho quỷ thần của phương dưới ăn. Tất cả gồm ba lần cho thức ăn, đối với các pháp sự thì pháp này rất khó, phải tự hiện các loại hình tướng rất đáng sợ, hoặc nghe tiếng lớn sấm động, Dã can rống… các tướng kỳ lạ như thế, A-xà-lê phải tự khéo an tâm, lại khi muốn bố thí, trước lại giữ gìn thân kia khiến tất cả đúng như pháp, nếu kia ăn hết xin thêm, lại phải bố thí cho đầy đủ, làm cho chúng vui mừng. Nếu tài vật ít thì chỉ theo vật mình đã có mà thôi.

Hễ trong đàn vật dâng cúng cũng phải đem tâm bình đẳng, không được có chỗ thiếu thốn. Cù-hê chép: Nếu khi hành thực, lầm lỡ thiếu ít, liền phải bù vào vẫn xin hoan hỷ, làm loại thức ăn gì, nếu không khắp cả, nên lấy vật khác thế vào số đó. Bố thí thức ăn các phương đã xong, rửa tay sái tịnh, ở trước cửa đốt hương cúng dường, kế đến vào bên trong dâng cúng nước át-già, đốt hương, vận tâm dâng cúng y phục để làm sấn thí, sau đó ở tòa Du-già dùng ngũ luân tự giữ thân, dầu đặt bách quang biến chiếu vương, dùng vô cấu nhãn quán tưởng, đài hoa tự tâm, tự vốn bất sinh mới thực hành phổ môn trì tụng.

Trước hết ở trong trăng tâm Tỳ-lô-giá-na sáng hiện chân ngôn, sau đó tụng trì và chỉ bày mật ấn, khắp quanh trong thai tạng rồi, lại đến chư tôn ở viện thứ hai, cho đến cuối cùng xong, hoặc quán mỗi mỗi hiện ra trước mà thực hành trì tụng, hoặc tự thân làm bản tôn kia, ở trong tâm trăng ấy, hiện chữ chân ngôn để trì tụng, cho đến nhanh chóng làm thân Mạn-đồ-la, tùy theo hành giả quán sát và sức mạnh của tâm. Nếu không thể như vậy thì phải nhất tâm tụng bộ chủ chân ngôn trăm biến. Ngoài ra chư tôn thượng thủ mỗi vị đều tụng bảy biến và bắt ấn kia, đầy đủ như trong cúng dường thứ lớp có nói. Ngôi vị quán đảnh của Pháp vương tử, sinh trong dòng họ Như lai, khi làm việc hay nghỉ ngơi đều không quên các Đức Phật. Nay trong kinh này, thường muốn nói tất cả chân ngôn, liền nói khắp quy mạng tất cả các Đức Phật chính là ý này.

Nói tịnh Phật: Trong pháp Thanh văn, A-la-hán cũng gọi là Phật, các Đại thừa khác chưa rõ nghĩa kinh, cũng có nghĩa thành Phật nhưng chưa được gọi là già tinh. Nay chính nói bản tâm là thường Phật, đem chữ tịnh phân biệt, bản Phạm dịch đúng là Phật gia, phải nói là Phật bộ, là nghĩa dòng họ, bộ loại.

Khi A-xà-lê quán sát thân đệ tử làm ngũ luân, dùng ngũ tự giữ gìn, gồm trong đài hoa tâm, chữ A… khiến cho đồng thể với đại Nhật, dùng ấn nhập Phật Tam-muội-da ấn trên đỉnh kia, sau dùng ấn pháp giới sinh ấn ở tâm, lại bắt ấn xoay bánh xe pháp đè trên lỗ rốn, mỗi mỗi đều tụng chân ngôn kia ba biến, tiếp theo chuyển tự môn A trong tâm kia thành tự môn phạ, kết ấn Kim cang Tát-đỏa ấn các chi phần, có chỗ nói là năm chỗ, sở dĩ như vậy vì muốn thành sự nghiệp kim cang ấy.

Bấy giờ, A-xà-lê cũng phải dùng thêm Tam-muội-da… mà tự giữ gìn, sau lấy bạch điệp mới sạch, hoặc các lụa màu, trước dùng chân ngôn bất động đúng như pháp tác tịnh, sau dùng bản bộ chân ngôn vương, chuyển thêm ba phen, như làm Mạn-đồ-la Đại Nhật, liền được chân ngôn Tỳ-lô-giá-na, Liên Hoa Thủ, Kim Cang Thủ, cũng phải Y theo mà nói, dùng tơ lụa sạch này, che khắp mặt đệ tử, phải khởi tâm từ bi hộ niệm, nói bên tai, khiến cho kia biết Tam-muội-da giới, chớ cho người chưa nhập đàn nghe tiếng. Một bài kệ này ngay ở trong phẩm Chuyển Tự Luân Mạn-đồ-la Hạnh có nói.

Lại quán trên đỉnh kia có một chữ La, trên chữ đặt một chấm, vì thế nói dùng đại không điểm để trang nghiêm (đây là chữ Lãm). Chữ này bốn bên có ánh sáng khắp giống như tràng hoa liền nhau, không xen hở, trong tự lại khắp phát ra ánh sáng trắng, giống như ánh trăng rằm. Đem pháp giới tâm thanh tịnh này để gia trì, có thể trừ các chướng trong ngoài.

Kế là dẫn đưa đến cửa thứ nhất, chỗ hai vị Long vương là Tốn-naưu-ba và Tốn-na trông giữ, ở chỗ ngay cửa chính không được tiến lùi, trước sư nên vì kia kết làm Tam-muội-da, ấn tụng ba biến chân ngôn kia, đặt hoa trên ấn, bảo đệ tử khởi tâm chí thành hướng về đạo tràng mà rải, tùy theo hoa đến chỗ nào, phải biết tức là người tu hành ngày xưa nhân duyên pháp môn Thiện tri thức, nhân nương vào pháp môn phương tiện này mà tiến đến tu hành.

Cù-hê chép: Khi sắp vào đàn, A-xà-lê nên nói rằng, ta tên… đúng như pháp làm Mạn-đồ-la này, muốn đệ tử vào, tùy theo chủng tánh, phước đức của người ấy cho đến thành tựu được pháp thí nào, chỉ xin ở trong Mạn-đồ-la này hiện ra tướng kia. Đã rải hoa rồi, sau phải mở mặt cho nhìn thấy đạo tràng, khởi tâm hoan hỷ mà bảo rằng, ông này quán sát Mạn-đồ-la mầu nhiệm này, sinh tâm kính tin sâu xa, ông đã sinh nhà các Đức Phật, chư minh tôn… đồng cùng che chở, tất cả tốt lành cho đến Tất-địa đều hiện ra trước. Thế nên phải giữ vững Tam-muội-da giới, đối với giáo pháp chân ngôn, phải siêng năng tu tập, sau đó bảo đệ tử đem hoa hương… khắp cúng dường các Thánh Mạn-đồ-la, ngay tại đạo tràng trao cho bản chân ngôn ấn, bảo ngồi một chỗ mà tụng, tiếp đến đưa người khác vào. Hễ là A-xà-lê, phải quán sát hoa đến chỗ nào, phân biệt tánh loại của kia, như rơi trên đầu Đức Phật thành tựu Phật đảnh, đến tướng sợi lông trắng… rơi trên mặt Đức Phật thì thành thành tựu Phật nhãn, ở trong phần thân phải biết thành thành tựu các tâm. Nếu rơi vào phần dưới thì thành tựu các sứ giả…

Lại tùy theo phần thượng, trung, hạ, Liên Hoa Kim cang cũng giống như vậy, các tôn vị khác chỉ biết tướng thượng, trung, hạ. Nếu hoa rơi cách xa tôn vị kia thì lâu xa nữa mới thành tựu, nếu rơi trong viện cúng dường tùy thuộc vào tôn vị nào mà trao chân ngôn kia. Nếu rơi vào giữa hai tôn vị phải biết xa, gần kia. Nếu trước rơi vào nội viện thì dời ra ngoại viện. Người kia không có tín tâm, nếu gắng gượng trì tụng thì được thành thành tựu thấp, rơi vào các đường ranh giới và các đường đi trong viện, người kia không có tâm quyết nên không được thành tựu. Nếu kia muốn ném lại thì nên làm Hộ-ma cho họ, sau đó mới ném, ngoài ra như kia đã nói.

Kế là phải làm Hộ-ma tịch nhiên cho các đệ tử , đó là pháp phiếnđể-ca, cũng có thể dịcn là Tức tai. Sau đây là một thứ chi phần, nay được Như lai trả lời, căn cứ vào thứ lớp của việc làm. Nói gia trì dạy trao chi phần thì ở trong đây nói Hộ-ma, hoặc có thể cho pháp quán đảnh… hiệp lại một thứ chi phần mà thôi.

Kinh chép: Làm Hộ-ma tịch nhiên, Hộ-ma nương pháp trụ, trên nói Hộ-ma nghĩa là phải làm pháp Hộ-ma này, vì thế nói lập lại. Trong đây dùng pháp Du-già gia trì tự thân, cho đến kính thỉnh kiết giới… đều nương vào phương tiện tụng niệm, do đó nói phải nương vào pháp mà an trụ, bắt đầu từ trong Thai tạng đến bên ngoài của viện thứ hai, ở trong Mạn-đồ-la, khởi tâm không lo lắng, nghi ngờ. Mật ngữ ở văn trên, lấy quyến thuộc của Đức Thích-ca viện làm thứ hai, ngoài đàn lớn khiến cùng trong thai tạng tương đương A-xà-lê ở ngoài kia, mặt hướng về Mạn-đồ-la, trong hai vị ở đây mà đặt hỏa đàn. Văn tiếng Phạm có làm mật ngữ rằng: A-xà-lê trong Mạn-đồ-la làm đàn Hộ-ma, nếu không theo thầy lãnh thọ thì thường mất ý chỉ, hoặc ở trong Mạn-đồ-la viện mà tạo tác.

Nay dùng đàn quán đảnh, lại phải hướng vào chính trong thai tạng, có thể dời đàn này khiến hơi gần phương Nam, cho đến góc Tây nam, đều là ba vị nhìn nhau, đối với lý không có lỗi, không có tâm nghi ngờ lo lắng, tức là ý Tức tai. Phải làm một đường viền không lộn xộn, nếu hành giả trụ trong tự môn Xa mà quán các pháp thường vắng lặng, cầu hết nghi hối, trừ sạch cái chướng chính là ý gốc của Hộ-ma tịch nhiên.

Làm pháp Mạn-đồ-la lấy từ thân một khuỷu tay, chung quanh đặt một viền, rộng bốn lóng tay, chiều cao cũng như vậy. Hễ là đàn Hộ-ma thì vuông, tròn, tam giác tùy theo sự nghiệp mà chuyển, nhưng trong đây tác pháp phải sử dụng đàn vuông. Cù-ma-di Cù-mô đát-la-đồ, dùng nước hoa mà rảy, giữa bày ấn kim cang, nghĩa là ở trong lò phải vẽ làm Bạt-chiết-la. Vì sao? Vì Hộ-ma là lửa tuệ của Như lai, có khả năng đốt cháy tất cả tai họa do nghiệp nhân duyên sinh ra, hết sạch không còn sót. Đàn vuông gọi là đại Nhân-đà-la, đó nghĩa là tâm vương, nói về ấn lửa tuệ này, tìm xét nguồn gốc của nó, từ tánh kim cang sinh, do đó giống như kim cang không thể phá hoại. Dưới đến trong phẩm thế xuất thế Hộ-ma, Thế-tôn tự nói rộng nhân duyên. Nếu hành giả chân ngôn chỉ làm Hộ-ma thế đế, không hiểu mật ý trong đây thì cùng vi đà tế kia há không phải là quá lạm hay sao? Vì thế người dịch gồm cả danh lẫn trí, ngõ hầu khiến giải thích hai thứ sâu cạn, nêu cả nghĩa dụng.

Kinh chép: Vị trí sư ở bên phải, Hộ-ma đủ chi phần, dù cho đại Mạn-đồ-la mở cửa hướng về phía Tây thì hỏa đàn cũng phải ở phía Tây đại đàn. A-xà-lê lại ở phía Tây hỏa đàn, ngồi mặt xoay về hướng Tây, các Hộ-ma sử dụng đầy đủ duyên chi phần, phải ở phía Nam vị trí sư.

Củi hộ đàn phải dùng cây non, nghĩa là các loại dâu, lúa, hoặc dùng thân cây ngưu tất, cắt chừng mười hai ngón tay, đều phải chọn lấy củi thấm ướt, lấy củi phải thứ lớp ngay thẳng, phải nhìn trên dưới một mặt mà đặt, dùng nước thơm sái tịnh khiến gốc rễ hướng về thân, nếu khi muốn đốt phải đặt vào trong sữa, bơ, mật, ấn hai đầu kia ném, đặt trong lò, hoặc dùng hương trầm thủy dài chừng bốn lóng, lớn bằng ngón tay cái, chà hương tô hợp, làm thành một trăm lẻ tám lần để dùng càng tốt. Hãy nên trong Mạn-đồ-la dâng cúng thức ăn và hương hoa… đều dùng đó để làm biện sự để lấy chân ngôn.

Như pháp sái tịnh đặt ở tòa bên phải, bình át-già kia phải đặt bên trái, dâng cúng các thức ăn phải dùng bơ, lạc… đều hòa cùng để một bình và các loại năm thứ hạt cũng dùng dầu mè… thấm nhuần hòa hợp một chỗ, để ở bình khác đều không phân biệt. Nếu thực hành giải thích theo thâm bí thì chi phần Hộ-ma này là nghĩa các nhân duyên, do nhân duyên có thể sinh tai họa trong ba cõi. Nay lấy lửa tuệ này làm của cải, cúng dường tất cả thân phổ môn, tăng thêm thế lực lợi ích không thể suy nghĩ bàn luận.

Kinh chép: Phiền não là củi, trí tuệ là lửa, do đó nhân duyên thành cơm Niết-bàn, khiến các đệ tử thảy đều vui thích, chính là nghĩa ấy. Lại khi làm pháp cho đệ tử, ở bên phía Bắc của A-xà-lê, dùng chiếu bằng cỏ tươi bảo đệ tử ngồi chồm hổm. A-xà-lê cũng phải ngồi trên tòa cỏ, không được dùng thêm các loại gường nệm. Thọ dùng cỏ tươi lược có ba nghĩa:

  1. Tánh ấy trong sạch là chỗ muốn tiếp xúc, có công năng trừ sạch tâm hôn trầm biếng nhác, buông lung của hành giả.
  2. Đây là cỏ cát tường, Thế-tôn đã nhờ trải tòa bằng cỏ này mà chứng Bồ-đề, vì thế có công năng dứt bỏ tất cả chướng.
  3. Dùng cỏ cát tường này chỉ bày tánh tuệ.

Cỏ này hai bên đa số có mũi nhọn. Nếu người ngồi nằm, cầm nắm, không có phương tiện thì lại bị tổn thương, nếu thuận tay giúp đỡ thì không thể bị hại, tất cả các pháp cũng vậy, nếu thuận theo đế lý quán sát thì tất cả trần lao đều có dụng tánh tịnh. Nếu mất phương tiện thì sẽ tổn hại trí, thân, do đó lấy lầm pháp môn biểu tượng.

Nếu làm Mạn-đồ-la trên tảng đá lớn, hoặc ở trên lầu gác không thể đào qua, làm lò phải dùng năm màu sắc xen lẫn nhau mà vẽ, cho thật rõ ràng, nghiêm chỉnh đẹp đẽ, tiện để thế vào mà dùng, đó gọi là sơ lược chỗ Hộ-ma. Nếu trong nhà làm Mạn-đồ-la chật hẹp, phải ra ngoài đến chỗ trông thấy đạo tràng đúng như pháp làm lò, bốn mặt lò đều phải dùng cỏ tươi bao bọc chung quanh, đều xoay về phía bên phải, theo thứ lớp đều làm cho áp sát nhau, nhưng đầu kia ló ra, ngoài ra như trong phẩm Hộ-ma có nói.

Lại phải dùng vòng chung quanh dày, rộng chớ để bày đất, dùng nước thơm rải khắp, cần phải làm xong các việc gia trì, dùng chân ngôn rưới đất mà văn trên đã nói. Trong đây làm pháp Hộ-ma, A-xà-lê ban đầu ở trong Mạn-đồ-la cúng dường trì tụng xong, sau phải ra ngoài làm hỏa pháp, xoay về phía Đông ở tòa cát tường, trước hết đặt cây non và củi khô vào trong lò, dùng bơ rải lên trên mà đốt, sau đặt củi ướt dùng chân ngôn. Biện sự trừ bỏ dơ uế và sái tịnh xong, phải trụ trong Du-già, đem hạt giống hỏa thiên chuyển thành hỏa tôn. Trong Mạn-đồ-la tam giác, như dưới đây ở trong phẩm Thập Nhị Hỏa Tôn sẽ chỉ bày, tùy theo chọn một sự nghiệp vào tương ứng với kia. Đã tương ứng rồi, phải quán thân hỏa tôn không hai, không khác với thân ta, như hỏa tôn ấy, phải biết hỏa Mạn-đồ-la cũng giống như vậy. Nên quán ba chỗ đều đồng một tướng, sau đó dùng hỏa thiên chân ngôn mà phụng thỉnh.

Tô-tất-địa chép: Khi muốn phụng thỉnh trước nói lời này: Nay con trước tiên phụng thỉnh hỏa thiên, Tiên trong cõi trời phạm hạnh đáng tôn kính, chỉ xin giáng lâm ở nơi này thọ nạp Hộ-ma, sau nói chân ngôn hỏa thiên rằng:

Nam ma tam mạn đà bột đà nẫm a yết na duệ tóa ha.

Câu đầu là quy mạng các Đức Phật, nghĩa như trước đã nói, câu thứ hai là a yết na duệ nghĩa là hỏa. Trong đây trước hết lấy chữ A làm hạt giống, do tất cả các pháp vốn bất sinh cho nên đồng với kim cang trí thể. Nga nghĩa là hạnh, do các pháp vốn bất sinh nên tuy đầy đủ muôn hạnh nhưng không có hạnh nào, thế nên gọi là không thầy tự hiểu. Nếu là không thầy tự hiểu thì đồng với đại không khắp mọi nơi chốn. Do đó trong ba cõi bất động mà sinh ra cho đến Tát-bà-nhã, thế nên vô thừa và thừa đó chính là Đại thừa, sở dĩ cũng thêm Tam-muội thanh, ý nói thừa đây định tuệ bằng nhau.

Các Đức Phật khi hành đạo Bồ-tát đều đem lửa tuệ như vậy đốt cháy tất cả tâm dơ. Đốt lên ánh sáng chánh pháp là do lời nói chân thật liền thành chân ngôn. Nên khi thỉnh mời phải tăng thêm y-hệ và y-hệ tử, đến khi phát triển thêm yết-xa, yết-xa tử, ấn tướng kia như trong phẩm sau sẽ nói. Đã thỉnh rồi trước nên dùng nước thơm át-già, ba phen sái tịnh, ba phen dâng nước súc miệng, liền lấy các vật năm thứ hạt, dầu, sữa… dùng chân ngôn nói trên tụng, ba biến Hộ-ma cúng dường hỏa thiên. Hễ khi Hộ-ma thì trước dùng gáo lớn đựng đầy rau sạch mà nấu, sau sẽ đốt củi, kế là cơm Hộ-ma, kế đến các thứ lương thực, hoặc dùng cháo sữa, sau lại dùng hoa sen… tùy ý mà đốt.

Trong đó hễ bố thí đều dùng gáo nhỏ. Vì thế Kinh chép: Phải mang đầy bát dâng lên cúng dường, cúng dường rồi rửa lại nước hoa và đổ át-già, giống như người ăn rồi dùng nước tắm rửa. Lại cúng dường hương hoa… phải vận dụng tâm dâng lên hỏa thiên, để ở tòa chính, sau phải kính thỉnh các tôn vị. Trước lấy một cành hoa, dùng chân ngôn thành biện để tác tịnh trừ uế, bộ chủ chân ngôn để gia trì, hai tay hợp lại, mà khởi tâm miệng nói: Chỉ xin các tôn vị gia trì chỗ này thọ nhận sự cúng dường mầu nhiệm, sau đó phải ở cách xa lò ném đến Mạn-đồla, khi muốn ném tùy theo kia xa hay gần, trước quán hoa này đến khắp chỗ ngồi của tất cả các tôn vị.

Làm tòa tùy loại tương ưng kia, lại sử dụng các việc xong, ở trong lò tác tịnh trừ uế, mới thỉnh các tôn vị, hoặc dùng chân ngôn tôn vị kia thỉnh riêng mỗi vị, hoặc theo quyến thuộc một bộ, cho đến dùng chân ngôn vương thỉnh cùng một lúc.

Lại, hỏa lò này giống như hỏa giới, khi thỉnh chỉ quán các tôn vị không lay động chỗ ngồi cũ, mà lại giáng lâm, khi xong việc cũng dùng tướng không đi mà trở về chỗ cũ, thường là một. Tôn vị Hộ-ma, liền lấy nước thơm rải lò và nước súc miệng.

Văn dưới nói cúng dường chân ngôn tịch tai bảy biến, như thế mỗi mỗi xong, lại làm Hộ-ma một trăm lẻ tám biến, trở lại lấy bát đầy bơ đốt một lượt, cho đến nếu không có khả năng làm như vậy thì phải cúng dường chung một trăm lẻ tám biến hoặc một ngàn lẻ tám mươi biến, nghĩ rằng hễ con có vật gì, cúi xin chư tôn đồng thọ nhận sự cúng dường.

Tiếp theo xin khắp hoan hỷ, đúng như pháp cúng dường xong, mới sám hối hồi hướng và ngâm đọc kim cang, chỗ hương đốt kia không dứt hết. Lại dâng át-già, sau đó đảnh lễ các tôn vị, mời các đệ tử, như văn trên đã nói làm pháp rải hoa… cho đến lời bày tỏ đều xong, mới dẫn mỗi đệ tử đến chỗ Hộ-ma.

Ở bên trái A-xà-lê đem tâm cung kính và đứng chồm hỗm, sư dùng tay trái cầm ngón tay cái bên phải của đệ tử, mà tụng chân ngôn tịch tai, cứ tụng một lần thì bố thí hỏa thực một lần, như thế đến hai mươi mốt lần, các đệ tử cũng làm như thế. Cù-hê chép: Lại dùng hương xoa tay đặt trên ngực kia, tùy ý trì tụng mà sai đi. Ở đây lại giải thích chân ngôn Tịch Tai này.

Nam ma tam mạn đà bột đà nẫm a ma-ha phiến để nghiệt đa phiết để yết la bát la thiểm ma đạt ma trở nhược đa a bà phạ tát phạ bà phạ đạt ma tam man đa bát a bát đa tóa ha.

Chân ngôn này đầu tiên lấy A làm thể, A nghĩa là các pháp vốn bất sinh tức là thể kim cang trí hỏa, điểm thêm Tam-muội thì được vốn bất sinh, Tam-muội Kim cang tuệ hỏa, gần hai bên có hai điểm nghĩa là

Niết-bàn. Nói nhập tự môn A này, tuệ hạnh đầy đủ, có thể đốt trừ tất cả chướng, cái, được Niết-bàn vắng lặng hoàn toàn. Sở dĩ làm chân ngôn tịch tai chính là nghĩa này.

Lại nữa, khi tác pháp phải quán chữ này, chung quanh ánh sáng từ lửa mà phát ra đầy đủ ba màu, bản thể màu vàng, trắng, vẽ Tam-muội kia làm màu đỏ giống như vàng cõi Diêm-phù, hai bên chấm màu đen như lửa ở kiếp tai. Do bản tánh trắng sạch cho nên có công dụng dứt trừ tai họa, gồm màu vàng là dụng tăng ích, màu đỏ là dụng hàng phục, đốt cháy, màu đen là bẻ gãy đại chướng và thu gọi. Lại thể của chữ này là pháp môn phương tiện, tức là đồng với màu của đại không, đầy đủ các sự nghiệp.

Lại nữa, Thập Nhị hỏa trong văn dưới: chữ A là lửa trí tuệ, Tammuội cũng là lửa hạnh mãn, có nghĩa thu mời là lửa phong táo, có nghĩa hàng phục là lửa Lô-hê-đa, vàng, đỏ hòa hợp là lửa Một-lật-noa, gồm cả màu đỏ và đen là lửa phẫn nộ, gồm đủ các màu sắc là lửa Xà-trala.

Nói tóm lại, thảy đều đầy đủ mười hai thứ công dụng, nên nói rộng. Lại, các câu dưới đây đều chuyển tướng giải thích, câu đầu tiên là Ma-ha phiến-để nghĩa là vắng lặng hoàn toàn, nghiệt-đa nghĩa là thệ.

Nói Như lai dùng nghĩa một chữ này, đi đến trong bản tánh thường tịch Đại Niết-bàn. Thể chữ A là vốn vắng lặng. Do có bức vẽ Tam-muội cho nên khéo qua, dấu vết trừ hết cho nên “Niết-bàn”. Bất động là chỗ mà ngay nơi đi là đến, giống như đại không chẳng đâu không khắp, vì thế nói là đại tịch. Câu tiếp theo phiến-để-yết-la, là nghĩa tịch, nói tự môn này phương tiện đầy đủ, thường trùm khắp mười phương ba đời, khắp làm sự nghiệp phổ môn thành tựu chúng sinh, đều khiến đi đến trong vắng lặng hoàn toàn, vì thế nói là Tác tịch.

Kế đến nói: Bát ra thiểm ma đạt ma niết nhược đa: Bát-ra nghĩa là tối thắng, thiểm-ma: Là chứng tịch. Giải thích lại câu trước, do vì tác tịch cho nên đó là tịch ở trong tịch. Vì sao? Vì tịch rốt ráo không thật có cho nên thường tạo tác, hoàn toàn không thật có cho nên thường tịch, tất cả thế gian không thể suy nghĩ bàn luận, vì thế nói là tối thắng.

Đạt-ma là pháp, Niết-nhược-đa là sinh, từ đâu mà sinh? Nghĩa là từ nghiệp vắng lặng không thể suy nghĩ bàn luận này mà sinh. Vì động, tịch rốt ráo đồng nhau, từ trong câu vốn bất sinh. Sinh ra đầy đủ rễ, thân, cành, lá, hoa, quả, trở thành cây Bồ-đề chúa, giống như hỏa giới có khả năng đốt cháy, cũng có khả năng nuôi lớn, lửa trí kim cang cũng giống như vậy, do dấu vết trừ sạch nên dấu Tam-muội sinh trưởng.

Kế là nói A bà phạ tát phạ bà phạ, lại là chuyển giải thích câu trước, cho nên nói vô tự tánh, tất cả tự tánh dùng bản tánh tịch mà từ duyên khởi vì thế không có tự tánh. Từ duyên khởi không có tự tánh đều là gốc của tánh tịch, thế nên trở thành tự tánh. Tất cả pháp đều do nghĩa này, vọng tưởng bất sinh nên đại không sinh, tiếp theo nói: Đạt ma tam mạn đa bát là bát đa, lại chuyển giải thích câu trước, do nghĩa này, Như lai đối với tất cả các pháp bình đẳng, nghĩa là thành Vô thượng Bồ-đề, bát la bát đa nghĩa là đạt được, vì vô sở đắc cho nên được câu bình đẳng này, ngoài ra như trên giải thích. Hễ khi Hộ-ma phải có các thứ tướng hiện, hoặc khi đốt lửa không cháy, lửa cháy hoặc chóng tàn không quá lớn mạnh, hoặc nổi khói không có lửa, hoặc khói rất mù mịt, hoặc phát ra tiếng giống như âm thanh lừa, súc vật… người không muốn nghe hoặc nói không thành tựu… phải biết đó là tướng chướng ngại không thành, hoặc trong khói lửa làm các thứ hình kỳ diệu như bình báu, lưới báu, sư tử cỡi xe… hoặc tiếng nhạc vang lên như Chuông, linh, tù và (loa bối), hoặc phát ra lời tốt lành thành tựu, phải biết đó là tướng không chướng ngại Tất-địa, cho đến người khéo làm Hộ-ma, phải ở trong đây mong cầu ý chỉ truyền trao rõ ràng, biết đủ tướng thông bít.

Hễ Hộ-ma thì mỗi pháp tùy theo sự nghiệp thích ứng, hoặc dùng tịch tĩnh hoặc dùng hoan hỷ, hoặc dùng tâm mạnh mẽ, hoặc y phục có các màu trắng, vàng, đỏ, phải ngồi ở các hướng: Bắc, Đông, Nam, Mạnđồ-la kia cũng có vuông, tròn, tam giác khác nhau, màu sắc cũng có thể biết. Củi Hộ-ma kia, dụng Tức tai thì cành ngọn của cây, dụng “tăng ích” thì cành giữa của cây. Nếu việc chiết phục thì nên dùng rễ cây, nếu việc tức tai thì nên dùng bơ, sữa, đại mạch, mật và cháo sữa, mầm non cỏ tranh, hoa quân-na, hương bạch đàn và cây vô ưu. Nếu việc Tăng ích thì nên dùng cháo, sữa, cơm, lúa mì, mật, cháo lạc, mè, thiên mộc, hồi hương, thiên môn đông, long hoa và các loại lúa đậu… Nếu việc chiết phục thì nên dùng hạt cải đỏ, trắng, hoặc dầu hạt cải, thuốc độc, xương, tóc và các cây có gai nhọn… dù kinh không nói ra đầy đủ cũng phải tùy theo loại suy nghĩ. Lại tùy theo số lần đốt bơ, mè cũng thế.

Ngoài ra tùy ý nhiều hay ít, từ bắt đầu đến cuối cùng đều phải đầy đủ bơ để Hộ-ma, các pháp sự khác so sánh theo đây. Hễ là Hộ-ma Tức tai thì trước phải làm pháp hàng phục, nếu sử dụng chân ngôn có nghĩa hàng phục thì ngay đó nương vào bản mà tụng, nếu không có nghĩa kia thì phải y theo pháp tăng thêm, dùng hạt cải… vật tương ưng với hàng phục, làm mười bảy lần hoặc hai mươi bảy lần Hộ-ma. Tiếp theo quán nghĩa cú và các vật cúng dường kia tương ưng với tăng ích, lại thêm bảy lần, mười bốn mới là đầy đủ làm pháp Tịch Tai. Nếu làm Hộ-ma Tăng

Ích, trước phải làm pháp hàng phục, mới là đầy đủ làm pháp tăng ích.

Về Hộ-ma hàng phục, một pháp liền thành không cần lập phương tiện trước, phải biết Mạn-đồ-la này có ba thứ pháp sự. Cù-hê chép: Sau khi quán đảnh xong lại phải y pháp Hộ-ma, trước dùng chân ngôn chủ Mạn-đồ-la đốt bơ trăm lần, sau dùng chân ngôn tịch tĩnh, dùng bơ, mật, cơm trăm lần, tiếp đến dùng mè trăm lần, mới chính là rộng chỉ bày Mạn-đồ-la, đến khi xong việc sắp giải tán, thầy phải tự sái thân kia, lại dâng át-già, theo thứ lớp cúng dường tất cả các tôn vị, tiếp đến chủ Hộ-ma Mạn-đồ-la trăm lẻ tám lần, sau dùng chân ngôn tịch tĩnh trăm lần, dùng bơ bò đều Hộ-ma bảy lần, sau đó đem chân ngôn bản trì tùy ý Hộ-ma mới làm pháp giải giới phát khiển v.v… hoặc lại y theo trước làm phương tiện tướng chung cũng được.

Nay trong kinh này, ba chữ A, Bà, Phạ, giống như phẩm Tự Luân đã nói, tức là ba bộ, tâm chân ngôn. Nếu là ba thứ pháp sự thời khác, chỉ ở trong đàn trì tụng xong rồi, liền phải ra ngoài làm Hộ-ma, hoặc nếu làm Hộ-ma thành tựu thì phải năm chỗ thẳng nhau: Thứ nhất là bản tôn, thứ hai là bếp lửa, thứ ba là vật thành tựu, thứ tư là đồ đựng bơ, thứ năm là tòa ngồi của A-xà-lê, về vật thành tựu, trước tiên lấy lá sạch che đậy, mỗi một lần lấy bơ… đều dùng gáo thêm ở trên lá mới đốt.

Nếu thành tựu hữu tình thì phải ở chỗ để vật vẽ hình tượng kia, ngoài ra như trên đã nói. Nếu làm người Hộ-ma thì xưng danh từng thứ một, mới bỏ vào lửa. Nếu không làm Mạn-đồ-la, chỉ làm pháp Hộ-ma thì phải đi quanh lò làm một lớp Mạn-đồ-la đặt tòa ngồi các tôn vị, muốn thỉnh chư tôn cúng dường, rộng lớn hay sơ lược tùy ý.

Tô-tất-địa nói Hộ-ma xong rồi đều phải dùng chân ngôn gốc mà trì, nước sạch gia trì dùng tay quậy đều, rảy ở trong ba lần, lại phải thỉnh hỏa thiên nhận thêm các vật khác, cho đến nghĩ là trở lại ngồi chỗ cũ, chỗ cốc, bơ mật, sửa… còn thừa lại hòa chung một chỗ dùng chân ngôn hỏa thiên ba phen chuyển trì để làm Hộ-ma, lại làm ấn hộ thân, hộ phương… cho đến giải giới mới được phát khiển.

Cù-hê chép: Đêm thứ sáu làm pháp đệ tử xong, để trừ chướng cho nên trước phải làm Hộ-ma hàng phục, sau làm tự Tăng ích, dùng bộ tâm chân ngôn Hộ-ma, sau đó dùng chân ngôn tịch tĩnh làm Hộ-ma Tức tai, đến khi làm pháp sự. Nếu thường có điềm không lành thì phải dùng bộ mẫu chân ngôn làm Hộ-ma Tức tai, đốt bơ và củi mỗi thứ trăm lần vào ngày mai làm pháp để đầy đủ chỗ thiếu thốn, lại làm Hộ-ma Tức tai một trăm lẻ tám lần, nhưng hỏa pháp này cũng là việc khó trong chi phần. Do sắp trừ tai chướng, tăng thêm oai thế chánh pháp, cho nên các người gây ra nạn, đều ở trong đây rình tìm dịp làm hại. Nếu không các trường hợp đều hiểu rõ thì phải tự tổn thương, không thể lung lòng làm bậy.

Kinh chép: Hành giả Hộ-ma xong, nên dạy bảo bố thí. Dưới đây là trả lời câu hỏi của Bí Mật Chủ: Vì sao cúng dường thầy? Vẫn thuộc về chi phần gia trì dạy trao. Sở dĩ tự dạy đệ tử khiến kia bố thí là không phải vì tham đắm vật ấy mà cầu xin, vì kia phát sinh gốc lành thành tựu công đức quán đảnh. Nếu đệ tử có khả năng đem các thứ tài sản riêng có trong ngoài, vì cầu đại sự nhân duyên nên không bỏn sẻn, chí thành hết lòng kính trọng dâng lên báo ân người truyền pháp thì phá hoại được vô lượng “chướng” trong nhiều đời, lại tự thấy sự lợi ích của bố thí rất sinh tâm vui mừng. Nay ta xả bỏ tài sản yêu thích ở thế gian này, năm nhà chung lại có nhiều thứ tai họa, dùng mua tài vật vô thượng pháp bảo chánh pháp, thí khắp cho chúng sinh thường không cùng tận, suy nghĩ như thế rồi tâm kia hoan hỷ, vì hoan hỷ cho nên xa lìa nghi hối, vì lìa nghi ngờ hối hận cho nên được vắng lặng bên trong an vui mà trụ, sau đó dùng nước pháp mà tưới thì xa lìa hẳn bụi dơ. Nếu người có vật, cho đến xả thân cúng dường thầy, nghĩa là đem thân này thờ phụng cung cấp A-xà-lê, không sợ khổ nhọc, thường không xa lìa, tìm hỏi chánh pháp cho đến không tiếc thân mạng để cầu “Đạo”.

Bấy giờ, A-xà-lê cảm ân nặng của vị ấy, sinh tâm thương nhớ, dạy dùng phương tiện sâu kín, cho đến công hạnh chân ngôn mà mình thọ trì, đầy khắp trong đạo tràng, làm pháp trở lại dùng bố thí, dùng ít công đức được thành tựu lớn, đây là các thứ bố thí bậc trung và thượng.

Cù-hê chép: Đệ tử phải ở chỗ Hộ-ma, đem tâm chí thành đảnh lễ A-xà-lê, trước phải dâng cúng hai tráp y cắt may, sau đó xả thí các tài vật khác, lại nghi lễ kia là quán đảnh xong rộng chỉ bày tướng Mạn-đồla, chỉ dạy ấn chân ngôn chính là vâng thí, khác với kinh này, tùy ý sử dụng.

Kinh chép: Đã vì làm gia hộ, nên triệu thỉnh mà nói rằng: Nghĩa là từ khi mới triệu vào về sau, đều là phương tiện gia trì, nay để khởi phát tâm kia, trở lại dạy bảo mà nói cho kia biết rằng: Đây là ruộng phước hơn hết, tất cả các Đức Phật đã dạy. Vì muốn lợi ích rộng lớn, tất cả các hữu tình, nghĩa là Thế-tôn thấy chúng sinh… tự từ vô thỉ đến nay, thường bị thiếu thốn tài sản cả trong lẫn ngoài, việc làm trong ba cõi không được tự tại. Vì vậy cho nên rơi vào chỗ không thong thả, không thể chóng đến Vô thượng Bồ-đề. Thế nên dùng thần lực che chở, nói đây là ruộng phước không gì hơn.

Do trong đại Bi Tạng này, tất cả biển lớn Phổ môn thảy đều nhóm họp, nay ở trong đây rộng gieo trồng gốc lành không có hạn lượng, từ đời nay trở về sau cho đến cùng tận đời vị lai, thường làm thân ngọc như ý và thân hư không tạng, có khả năng giúp cho đầy đủ tất cả nguyện ít có của mình và người. Vì thế nói rộng làm lợi ích tất cả chúng sinh.

Lại nữa, đã cúng thí Đệ nhất nghĩa Tăng và người truyền pháp xong, lại phải dạy khiến cúng dường thế đế hòa hợp tăng, nếu khi cúng thí hòa hợp tăng thì chúng tăng phàm Thánh tất cả mười phương thảy đều có phần, vì thế cho nên phước này, như biển mây giữa hư không chẳng thể suy nghĩ bàn luận, sẽ đạt được quả lớn, là rốt ráo lợi ích, như ở trong cây phước này, nếu ăn kim cang thì cuối cùng không tiêu được, cần phải đến mé đất kim cang sau đó mới dừng lại. Vì thế sinh công nói: Chút ít điều lành đều đến quả Phật.

Kế là nói nguyện ít có ở thế gian, lại nói nghĩa ở thế gian, có chỗ nói của tiền lớn vô tận, đời nói thường theo sinh, đây là thế giới Tấtđàn, cho nên nói là thế gian nói, giống như Bạc-câu-la dùng một trái halê-lặc cúng tăng, nên chín mươi mốt kiếp đến nay, thường không bệnh hoạn, không chết bất đắc kỳ tử. Ngài A-na-luật đem một bữa ăn cúng dường Bích-chi-Phật cũng từ vô lượng kiếp đến nay, thường sinh chung với kho báu, như trong kinh Bản sinh có nói rộng, vì thế nói thường sinh theo.

Lại nữa, trong Tỳ-ni có nói, bốn vị đại đệ tử là: Đại Ca-diếp, Xálợi-phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, giống như chiếc bình tốt. Nếu người tịnh tâm cúng dường thì mong cầu quả báu hiện tại ở thế gian đều được như nguyện, huống chi cúng dường tất cả tăng. Phải biết các vị như thế ở trong thế giới mười phương đủ các công đức, đều ở trong đó, cho đến bậc Thánh vô học, muốn sống ở đời lâu dài, còn nhờ năng lực của chúng tăng. Vì thế cho nên vị này vì muốn thành tựu quả Tất-địa chỗ tu đàn thí phải đầy đủ không thiếu, lại phải có tâm hoan hỷ cúng dường thế đế hiện tiền Tăng, do Tăng trong mười phương không thể nhóm họp hết, nhưng ở trong giới tùy theo người hiện tiền nhóm họp mà cúng dường thì đó là cúng dường tất cả tăng.

Kinh chép: Bấy giờ, Đức Thế-tôn Tỳ-lô-giá-na lại bảo kim cang Bí Mật Chủ, dưới đây nói pháp quán đảnh, cũng thuộc chi phần gia trì thọ giáo. Nhưng quán đảnh này cũng có cả các pháp sự khác, hoặc có thể làm riêng một loại chi phần. A-xà-lê làm Mạn-đồ-la thứ hai, phải đối lại với Mạn-đồ-la bậc trung, cách Mạn-đồ-la hai khuỷu tay, thứ hai nghĩa là kém nhỏ, chính là lời đối đãi nhau. Lò lửa phải ở trong thai tạng, nếu ở chỗ bất tiện thì được tạm dời gần về phía Nam. Cho đến đối với góc Tây nam, đàn quán đảnh này lại ở phía Bắc hỏa đàn, cũng làm cho bốn phương bằng nhau, chỉ đặt một cửa, cửa xoay về chỗ mở đàn. Đàn kia ở ngoài bốn góc vẽ bốn vị chấp trì kim cang, hỏa phương là Đông nam, đặt an trụ vào chỗ không nói lời vô nghĩa, niết-ý-để phương đặt hư không vô cấu, phong phương đặt vô cấu nhãn, y-xá-ni phương đặt bị tạp sắc y. Trong đàn làm tám lá hoa sen chúa lớn, tua nhị đầy đủ, trong bốn lá đặt bốn Bồ-tát bạn lữ; phương Đế-thích là Bồ-tát tổng trì tự tại, phương Diệm-ma gọi là Bồ-tát niệm trì, phương Na-già gọi là Bồ-tát lợi ích tâm, phương Dạ-xoa là Bồ-tát bi giả. Bốn góc kia đặt bốn vị Phụng giáo: Hỏa phương tên là trước tạp sắc y, phương niết-lý-đệ tên là mãn nguyện, phong phương tên là vô ngại, phương y-xá-ni tên là giải thoát.

Kinh chép: Trung ương (chính giữa) chỉ bày pháp giới, sắc không thể suy nghĩ bàn luận ấy, tức là chữ Lam này làm toàn màu trắng, có chỗ nói ngọn cờ pháp giới không nghĩ bàn. Lại, giải thích sâu kín, phương đàn tức là tâm vương kim cang giới Đại Nhân-đà-la. Trụ vô hý luận tức là nguồn gốc tánh tịnh, giữ giới ba đời không chướng ngại, do giới này cho nên tất cả nói lời vô nghĩa đều dứt, vì nói lời vô nghĩa dứt cho nên được thành trí tuệ lớn không thầy, bụi mù đều hết, như hư không trong sạch, do đó gọi là hư không vô cấu. Như giữa hư không khi không có bụi ngăn che, nhìn khắp mười phương không gì chẳng thấy. Bát-nhã cũng giống như vậy, do lìa tất cả tướng cho nên đối với mọi thứ đều thấy, nghe, hiểu, biết, vì thế gọi là vô cấu nhãn, như người mắt sáng thì có thể tự tại làm các việc.

Nay dùng vô ngại bi quán khắp tất cả căn duyên xong, thì phải khắp hiện sắc thân mà dẫn dắt lợi ích, do đó gọi là trước tạp sắc y. Nếu bốn thứ kim cang tuệ ấn này, ở trong tất cả tâm đầy đủ không thiếu thì có thể trấn giữ tâm địa, có khả năng giúp quán đảnh thân trí tuệ, giống như dưới cây Bồ-đề, từ mé đất kim cang đến nay thảy đều chắc thật. Vì thế khi Như lai thành đạo không bị nghiêng, không bị lọt rớt. Bốn bạn lữ: Nghĩa là pháp sở hữu của tâm là bạn lữ của tâm vương, tâm vương của pháp giới thanh tịnh này thành tựu bốn pháp, có thể làm bốn việc Như lai, là có khả năng quán đảnh, thọ nhận ngôi vị pháp vương.

Đầu tiên nói: Đà-la-ni tự tại vương, tức là thông đạt tự môn A, khi thấy chân ngôn vương này, thì có thể đối với tất cả Đà-la-ni môn đều được tự tại, trở thành nhớ biết như ý Tam-muội vương của Như lai, có thể giữ muôn cõi Phật, giống như của báu bí mật ở long vương kia, có thể giữ cho biển lớn không thể đầy tràn, cũng có thể giữ khiến không cho khô cạn hết, vì thế nói là nhớ giữ. Đã được niệm báu như vậy liền nhớ bản nguyên, khắp mưa pháp tài đầy ngập pháp giới, bố thí cho tất cả chúng sinh gọi là tâm lợi ích, đã phát ra tài của vô tận bố thí nhiều không hạn lượng. Nhưng các chúng sinh căn cơ thấp kém, không có tâm thọ dụng, không chịu tìm cầu, do đó mà khởi tâm đại bi, dùng mọi cách cứu giúp người khốn khổ. Vì thế nói Bồ-tát thương người… Nói phụng giáo, tức là từ bốn cửa này, Chiết Phục Nhiếp Thọ làm việc Như lai, phải biết Trước tạp sắc y, tức là sự nghiệp Đà-la-ni mà tự tại vương đã làm, mãn nguyện là sự nghiệp nhớ giữ mà Như ý bảo vương đã làm, không có quái ngại là đã làm sự nghiệp. Đại từ bi bố thí pháp giải thoát là đã làm sự nghiệp phương tiện đại bi nhổ gốc khổ cho chúng sinh, do đó gọi là bốn vị phụng giáo.

Lại nữa, bốn thứ báu tạo thành bình, tức là bốn đức báu của Tỳ-lôgiá-na, đặt ở bốn góc trong thai tạng, như trên đã nói, dùng chân ngôn bất động gia trì xong, lại bốn Bồ-tát chân ngôn mỗi vị giữ một bình, Phổ Hiền là bậc hạnh nguyện báu vô tận, Từ thị là báu lợi ích chúng sinh vô tận, trừ các chướng là báu tri kiến thanh tịnh vô tận, trừ các đường ác là báu phương tiện đại bi không có cùng tận.

Lại nữa, Phổ Hiền là tâm Bồ-đề thanh tịnh khắp cả pháp giới, Từ Thị là tâm thanh tịnh này ở trong thai tạng phát sinh cành rễ mầm lá, Trừ cái chướng là cây chúa tịnh giác này trang nghiêm mầu nhiệm, hoa quả rõ bày. Trừ nhất thiết ác thú là sau khi đạt được quả báo này trồng vào ruộng của tất cả chúng sinh. Như thế xoay vần cùng sinh không có cùng tận. Vì thế đem bốn bình báu bình bằng này đựng đầy các thứ thuốc quý, đậu, lúa đã ngâm nước thơm tánh tịnh. Dùng rải trong đài hoa sen của pháp giới tâm không thể suy nghĩ bàn luận, do đó được gọi là Pháp đệ tử của bậc Pháp vương. Phải biết mỗi thứ bình báu lại tương ứng với một Bồ-tát, một kim cang và một sứ giả, đem pháp môn pháp vị đối chiếu thì có thể biết.

Hễ khi muốn quán đảnh, dùng chân ngôn biện sự gia trì vật ngồi an trí trên đài hoa sen. A-xà-lê lại vì đệ tử hộ thân đúng như pháp, trước dùng bất động minh vương để dứt trừ các chướng, sau dùng ba thứ Tam-muội-da gia trì vào ba chỗ, kim cang Tát-đỏa gia trì chi phần xong, nương theo pháp ngồi cát tường mà ngồi trong đó, tất cả hương xoa, hoa, đèn, nước át-già… trước đã đúng như pháp gia trì, tất cả đều giống như pháp trên.

A-xà-lê trước phải dâng nước hoa kia, sau dùng hương bột xoa

khắp thân kia, đem tràng hoa trang sức thân kia cho là anh lạc, sau dâng dốt hương xông, các đèn sáng sắp bày trước kia và dâng cúng các thức ăn. Vật cúng dường này gồm có mười ba chỗ ngồi, nghĩa là chỗ ngồi của bốn vị kim cang, bốn vị Bồ-tát, bốn vị sứ giả và đệ tử, đệ tử kia vật cúng dường thật dồi dào, giống như cúng dường bổn tôn, cũng có thể ở trong Mạn-đồ-la lớn đặt chỗ ngồi cúng dường, đến khi quán đảnh chỉ nên trì danh hiệu kia xin gia trì đệ tử. Bốn vị Bồ-tát kia, trong viện thứ nhất mỗi vị đặt ở một phương, sứ giả Như lai ở dưới hai bên hông cửa, lại đầy đủ lọng trắng mới sạch, trên treo tràng hoa và các lụa trắng, cũng trước dùng chân ngôn bất động khử trừ dơ chướng, dùng chân ngôn của đại nhật Như lai mà trì, A-xà-lê tự cầm che lên trên kia, lại bảo người khác cầm đuôi trâu quét sạch và quạt lò hương, lại ở trong tráp đặt y và các vật tốt lành, tức là các loại kim tỳ, gương sáng, bánh xe báu, loa bối và cầm bình bằng bốn thứ báu để cúng dường, đồng thời tấu âm nhạc nhiếp ý, khúc này đầy đủ trong đại bản Du-già.

Nếu khi dâng cúng hương xoa thì có hiến khúc hương xoa, hoa đèn, đồ ăn uống… cũng đều như vậy. Mỗi bài ca ngâm là một chân ngôn, mỗi điệu múa vui đều là một ấn, cho đến không có người hiểu thì A-xà-lê phải tự tấu. Nếu không thể như vậy thì không gọi là gồm tóm thâu các nghệ thanh. Nói nhiếp ý: Như người đời thấy sắc thanh hay đẹp tâm bị say đắm, tâm có chỗ trụ, không còn duyên cảnh khác. Nay kỹ nhạc kim cang này có công năng cảm động lòng người cũng giống như vậy, giống như Bồ-tát Mã Minh tự tấu khúc Lai Tra-hòa-la, năm trăm vương tử nghe cùng một lúc bỏ nhà vào đạo, chính là nghĩa ấy.

Trong Cù-hê chỉ nói, nếu phân biệt được thì nên làm âm nhạc. Kinh chép: Cát tường già tha… rất nhiều lời hay tốt. Bài tụng này gồm có ba thứ:

  1. Tên là cát khánh.
  2. Tên là cát tường.
  3. Tên là cực cát tường.

Đều là A-lợi-sa già-tha, dùng đây thì an vui tâm kia, luôn có dụng gia trì, A-xà-lê phải tự nói.

Kế là văn dưới lại nêu ra một thứ Cát khánh, ở phương này sử dụng, đã gần khắp hết. Khi nói kệ này, phải tự cầm phất trần trắng để phủi quét than kia, tán tụng xong xuôi: A-xà-lê lại phải đảnh lễ tất cả chư tôn Mạn-đồ-la, phải làm quán đảnh cho nên ý thành thưa bạch, liền cầm bình báu từ từ đi quanh Mạn-đồ-la ba vòng xong, trở lại như pháp gia trì, đệ tử đến chỗ trước dùng chữ phạ làm hỏa, thiêu đốt thân kia đều thành tro xong mới dùng bốn bình lần lượt mà rảy, rảy rồi quán trong tro này làm tự môn phạ kia, màu sắc hoàn toàn trắng, từ đây sinh ra năm chữ, đó là: A-sưu-lãm, hâm, khiếm, giữ năm tự luân kia sau nói chữ Ám ở trên đảnh kia chuyển thành giữa thai tạng, lại từ chữ này sinh ra ba lớp ánh sáng, một lớp vây quanh khắp trên cổ họng, tùy theo chỗ đã chiếu và các tôn vị hiện ra, liền thành Viện thứ nhất Mạn-đồ-la, kế đến một lớp ánh sáng vây khắp trên tim, các tôn vị tùy theo hiện ra thành lớp thứ hai Mạn-đồ-la, lại một lớp ánh sáng vây khắp trên rốn, các tôn vị tùy hiện trở thành lớp thứ ba Mạn-đồ-la.

Bấy giờ, đệ tử đều thành thân Mạn-đồ-la, nếu lại giải thích sâu hơn tức là thân phổ môn pháp giới, kế phải dẫn đến một chỗ, A-xà-lê đích thân đắp y, đầu đội mũ lụa trắng, dùng bột thơm xoa thân, dùng tràng hoa trang điểm, đốt hương, thắp đèn đúng như pháp cúng dường và buộc chữ kim cang ở bắp tay, cho đến cổ tay đeo xuyến, ngón tay mang nhẫn, phương pháp làm ra những thứ kia, như trong Tất-địa cúng dường có nói.

Lại A-xà-lê trước dùng chữ phạ gia trì Kim tỳ, chữ mãn gia trì vào gương sáng, chân ngôn pháp luân pháp loa gia trì pháp luân và vỏ ốc. Lại phải ở trước đệ tử, rồi lại dùng Kim Tỳ tốt lau chùi mắt kia để nói kệ. Phải quán tự môn phạ để sạch sự dơ chướng trong mắt kia, sau lại hiện ra trước chỉ bày gương sáng kia và để nói kệ, phải quán tự môn mạn để sạch sự dơ chướng trong tâm kia, lại đem pháp luân đặt giữa hai chân kia và trao vỏ ốc vào tay phải để nói kệ, đều dùng chân ngôn kia để trì. Vì sao? Vì nếu người tu hành kia có thể dùng tịnh nhãn hiện tại tự soi thấy tâm thì liền thành đại Bồ-đề, thành đại Bồ-đề rồi phải xoay bánh xe pháp. Xoay bánh xe pháp ấy không vì số lượng chúng sinh bao nhiêu mà làm giới hạn, mục đích là phải giác ngộ tất cả chúng sinh, vì thế gọi là thổi pháp loa lớn. Trong Bí Mật Tông đều dựa vào sự tướng nhân duyên để dụ ý chỉ sâu xa, cho nên hành truyền trao như thế.

A-xà-lê sau đó phải cầm lọng dùng che trên kia, dẫn dắt bảo đi quanh Mạn-đồ-la ba vòng, trước hết vây quanh viện thứ nhất hành đạo, kế vây quanh viện thứ hai hành đạo, cuối cùng vây quanh viện thứ ba hành đạo. Như thế, A-xà-lê phải tụng kệ cát tường, cực cát tường… hoặc có thể tụng văn chữ Phạn Cát khánh đã khắp xong rồi, lại đến cửa phía Tây chỗ hai con rồng giữ gìn, dạy đệ tử kia ân cần lễ bái, lọng kia phải tùy theo trên dưới thân để mà che, liền phải vì nói kệ Tam-muộida, đó là bốn giới trọng cấm trong Bí mật tạng, những thứ này đều là kệ A-lợi-sa, ở dưới sẽ giải thích. Cù-hê chép: Đệ tử đến cửa Tây lễ bái xong, A-xà-lê phải bạch chư tôn rằng: Con (tên gì) cùng (tên gì) quán đảnh xong, nay thuộc về chư tôn giúp trì minh tạng, khởi thưa như vậy rồi, phải nên mở lọng bảo đệ tử đứng dậy, ở trước Mạn-đồ-la vì nói giới Tam-muội-da: Nay ông đã thành tựu Mạn-đồ-la trì minh A-xà-lê xong.

Chư tôn Bồ-tát cho đến chân ngôn chủ, tất cả thiên thần đã cùng biết ông, nếu thấy chúng sinh có thể làm pháp khí, do thương xót kia, nên phải vì đệ tử kiến lập Mạn-đồ-la mà dạy bảo truyền trao, nhưng trong kinh này tự có kệ truyền pháp loa, như ở phương Tây khi người đời thọ pháp quán đảnh, lấy nước bốn biển và nước tất cả sông ở trong bờ cõi, để đủ các thuốc quý như lúa, bắp… vẽ bản đồ trong bờ cõi, bảo đồng tử này ngồi trên tòa sư tử, dùng các thứ quý báu trang nghiêm toàn bộ quyến thuộc, tùy theo lớn nhỏ sắp bày theo thứ lớp, sư vi đà phạm chí ngồi ở voi báu, người đi sau cầm nước báu này rót vào ngà voi, khiến rơi trên đầu và sau lớn tiếng báo cho mọi người biết.

Lại khen ngợi, nói pháp của bậc hiền triết xưa dạy người, làm lợi ích cho đời. Hành giả thuận theo như thế, sẽ được tuổi thọ dài lâu, gốc cành lớn mạnh, được tiếp nối chuyển luân, nếu không làm như thế thì sẽ tự mất ngôi vị kia, mất thân không có kẻ nối dòng. Như thế mỗi mỗi chỉ dạy, nay Pháp vương tử này quán đảnh thì không sắp bày như thế, cõi Phật nghiêm mật là bức tranh thế giới to lớn, ngồi trên tòa sư tử ở hoa sen diệu pháp thần thông tự tại, rảy nước trí tuệ từ bi của bản tánh thanh tịnh chứa đủ muôn đức vào tâm kia.

Bấy giờ, các chúng Bồ-tát, dưới đến tám bộ chúng sinh, đều hoan hỷ khen ngợi và sinh tôn trọng kính mến, lúc ấy, A-xà-lê đem di huấn của pháp vương mà dạy bảo, từ đây về sau sẽ được sinh trong nhà định của Như lai, nối tiếp địa vị Phật. Nếu không có trí tuệ hướng về như thế thì không biết tôn trọng chánh pháp.

Kệ cát khánh A-lợi-sa: Lạc ngật sáp nhị đạt la kiến giả nẵng bát lạt ma đà bà tất đát lý mãn la bát ra (la) hê noa một độ vi một đản mẫu xà bát đát la nên đát lô đát đổng nghiệt lam bát ra tha môn bát ra đỗ nan.

Đế nộ ba nễ sắt tra bát ra, phạ ra tất đát phạ điếu chủy dã khế đa tất đát lý lộ kế nại ra nê phạ bố nễ dã đạt ra mộ chiêm mãn phiến để yết ra bát ra xả nan lộ kế nễ vĩ để duyên du (thâu) bà đổng nghiệt lam, tát đạt lạt ma dục ngật đa thất lỗ để mông nghiệt la trì tà lăng cù đản lật nê phạ tố la nặc ngật lý nhị dã hiệt lỵ thất lỵ ngu ninh trì gia bát ra ninh nan kế đát lý để duyên du bà đỗng nghiệt đam duệ đỗng nghiệt lam đổ sử đa nê phạ vi mãng nẵng nghiệt lạt sa na từ nễ hà phạ đa la đỗ nhược nghiệt đỗ hệ đa dã tắt ấn nại lại tố lại bát lý vật lật đát tả đát đổng nghiệt bà phạ đỗ phiến để yết lam đá phạ nễ dã duệ đổng nghiệt lam bổ la phạ lê, ca tỳ la ha phạ duệ giá nễ phệ Ma-ha ty ỹ sắt mạt đá phạ nễ nễ đát tả a tứ na chấn để dã đản xá la tả đát tha nghiệt đa tả, đổng nghiệt lam bà pha đỗ phiến để yết lam, nễ dã duệ đổng nghiệt lam chỉ Sa-la du nhập phạ la bổ sáp ba na đề lam mê già cức nhị ni sinh ma hộ nê, phạ nhũ sắt, nẵng tha tả nhiên mãn nễ phạ bộ phạ bà phạ ta ca tả đát đổng nghiệt lam, bà phạ đô phiến để ca lam vĩ vĩ đà nậu khư nhưỡng thiết nẵng da đổ sắt thất dã, đát bố phạ nẵng mãn ty ỹ một la, nhược đỗ lại đà la đát lê, a tứ tố lại bá lỵ vật lật đát tả nạp mãng, tắt ngật lật đát tả đát đổng nghiệt lam, bộ nhược già la xà, nạp mãng tắt ngật lật, đát tả, nại nễ dạ, tát đà, bát lý vật lật đát tả hệ giả sái bán để dã, mãng nại bộ, đơn, mãn bộ ốt bà phạ, tô nại nẵng tả, đát đổng nghiệt lam bà phạ đỗ, phiền để ca lam, đát phạ nễ dã duệ đổng nghiệt lam bạt già phạt đổ tốt lỗ mãng la xa, mộ lê muội để lỵ mạt lệ nẵng, vi nhĩ đế mạc hồ, mang la bát ngật sô nhưỡng nhưỡng bát ra ca la mãng bà phạ, na bộ, vĩ chiêm mạt lệ giả, đát đổng nghiệt lam, bà phạ đỗ, phiến để ca lam, đát phạ, nễ dã duệ, đổng nghiệt lam, bát la, pha na đô phạ la, đã la mãng chước ngật lệ phạ nại tư tất lam đa, phụ đa, tô nghiệt đát tả, xá tốt đỗ hạt đế bộ đam bộ phí phạ bộ bà pha đa ca tả, đát điệt nghiệt lam, bà phạ đỗ phiến để ca la, đát pha nễ dã duệ, đổng nghiệt lam, hệ đa yết lam, bát la môn bả vĩ đát lam bổn nật giả ngật lý da ca la ninh mang lý dã nhược nhượng tỳ ngũ sắt ngật lật thước nhược già na bạt già phạm mâu ni ta ngật dã tăng ha đát đổng nghiệt lam bà phạ đỗ phiến để ca lam đát phạ nễ da.

Giữ các đức tốt lành

Đủ tướng Kim sơn quang

Thầy dẫn dắt ba đời

Trừ diệt ba thứ cấu.

Mở bày mắt chánh giác

Giống như nước sinh hoa

Làm lợi ích chúng sinh

Là mừng vui trên hết.

Trên đây trước nói tất cả điều tốt lành. Sở sĩ được sinh đều do Như lai ra đời, cho nên văn Phạm nói lạc-ngật-sáp-nhị, Hán dịch là điềm tốt lành hoặc nói tướng đầy đủ, cũng là nghĩa phúc lành, cũng là nghĩa điềm tốt lành, nghĩa tốt lành, nghĩa an lành, nghĩa oai đức, nghĩa tướng mạo tốt đẹp, phải biết tên này bao gồm tất cả công đức, do đó hội ý để nói. Câu tiếp theo nói khai phu cũng là nghĩa giác ngộ, thủy sinh là tên khác của hoa sen. Vì đầy đủ nghĩa như vậy, nên Như lai ra đời nhiều loài được lợi ích, vì thế nói phúc lành bậc nhất, hoặc tốt đẹp, hoặc nói mừng tốt, đại thể giống nhau.

Và điều Phật giảng nói

Pháp bất động bậc nhất

Chỉ bày trong ba cõi

Trời người nên cúng dường.

Pháp cao quý làm cho

Chúng sinh mãi vắng lặng

Cho nên là niềm vui

Thứ hai của thế gian.

Ở trên, tất cả Thế-tôn đã nói, rốt ráo đều đến mé thật bậc nhất nên gọi là pháp.

Vô động, tiếng Phạm là: Khế-đa nghĩa là giảng nói, cũng là nghĩa mở bày. Trong đây, ba cõi: Bản Phạm nói đúng là ba đời. Ý chung cho cả quá khứ, hiện tại và vị lai và đến ba cõi, do có thể khắp chỉ bày cho thế gian mé thật bậc nhất, cho nên tất cả trời người đều nên cúng dường pháp ấy, để báo đáp ân đức lớn lao. Tiếng Phạm là Phiến-để-yết-ra, Hán dịch là Tác tịch, tác này là năng tác, năng nghĩa là khiến có thể đắc; pháp này có thể giúp chúng sinh giác ngộ tất cả bản tánh thường tịch, trong ngoài các chướng rốt ráo không sinh, vì thế nói vắng lặng hẳn, ở dưới so sánh mà biết. Do Như lai xuất hiện ở đời thì hay nói pháp này, do đó nói là điều lành thứ hai.

Pháp chánh mầu tương ưng

Được niềm vui học rộng

Trời, người, tu-la thảy

Nên cúng tăng, ruộng phước.

Nhiều điềm lành, hổ thẹn

Nhiều công đức thù thắng

Cho nên là niềm vui

Thứ ba là thế gian.

Ở trên, tiếng Phạm là Tác-đạt-lạt-ma, Hán dịch là Chánh Pháp, hoặc dịch là Diệu pháp, vì đủ câu cho nên ở đây còn đầy đủ. Trong đây tương ưng, tiếng Phạm là Dục-ngật-đa, nghĩa là nên hiệp như vậy, tức nghĩa là khế hiệp Minh phủ, hơi khác với Du-già. Câu tiếp theo nói, do nghe nhiều pháp này nên hạnh và lý hiệp nhau, đó là niềm vui lớn, cho nên nói là ưa học rộng. Căn cứ theo dịch đúng phải dịch là phú văn, ở đây thuận theo cách dịch xưa.

Lại, ứng cúng này, tiếng Phạm khác với A-la-ha, ứng cúng ở đây là các trời, người… vì cầu phước cho nên nghĩa phải nên cúng dường. Đầu bài kệ thứ hai nói “Phú” giống với nghĩa phú ở văn trước, cũng là nghĩa đầy đủ không thiếu, nhiều tốt lành, nhiều hổ thẹn và nhiều công đức.

Cuối câu nói Chúng, là chỉ cho đồng, nhiều, khác với Tăng-già trong tiếng Phạm. Tăng-già có cả nghĩa hòa hợp, do khi chánh pháp hưng thịnh ở thế gian thì có người tu hành hướng đến quả, vì thế nói phúc lành thứ ba.

Như ở trời Đâu-suất-đà

Khi ở trời thì vui

Đến đều từ trời xuống

Lợi ích các chúng sinh.

Đế-thích, chúng Thiên thần

Theo sau Đức Như Khứ

Nay ông được đồng kia

Là điềm lành tác Tịch.

Chữ tàng trên đây, tiếng Phạm nói Nghiệt-lạt-bà-la ẩn ở trong tâm, trong thai tạng, cùng với Tỷ-tra-ca-câu-xá… Ý kia mỗi mỗi khác nhau.

Như Bồ-tát ở trên cõi trời và khi từ trời giáng xuống ở thế gian có vô lượng, vô biên việc tốt lành, như kinh Hoa Nghiêm… có nói rộng.

Tu-la: Tức là chúng chư Thiên, vì muốn phân biệt khác với chư Thiên nên gọi là A-tu-la.

Luận Lập Thế… nói là phi thiên.

Lại Đát-tha-yết-đa, Hán dịch là Như lai, lại gọi là Như Khứ, Nghĩa là từ Đạo Như thật đi, đến trong Niết-bàn, không còn sinh trở lại, vì thế gọi tên là Như Khứ, dùng giải thích theo thiên hạ, thời cơ đối với nghĩa được thuận tiện, cho nên văn xen nhau. Nếu tầng trời Đâu-suất có Bồ-tát bổ xứ thì hạt giống Phật ở thế gian không dứt, như người trong Bí mật tạng, cho đến trong một đời hoặc thành chánh giác, vì thế nói phúc đồng với kia.

Như ở Ca-tỳ-la

Khi cung thành vui đẹp

Các trời oai đức lớn

Khen ngợi và làm lễ.

Giống như không nghĩ bàn

Như thật mà khéo đến

Nay ông được đồng kia

Điều tốt lành tác tịch.

Trong bản Phạm, như niềm vui kia tức là bao gồm nghĩa thời. Ở dưới so sánh mà biết. Đây là khi Bồ-tát ở trong thai, tất cả thế gian có vô lượng việc tốt lành, cũng như phẩm Nhập pháp giới, ly thế gian trong kinh Hoa Nghiêm có nói rộng, cho đến chúng Đại Bồ-tát trong mười phương nhiều vô lượng đồng nhóm họp ở trong bụng, để nghe pháp, thế nên không thể suy nghĩ bàn luận, hợp với ý nghĩa Như Khứ trong bài kệ trước.

Nay cho đến giải thích thành Chánh giác, giải thích điều đó cũng hướng vào thế lực ý nghĩa cho tiện; như Bồ-tát tuy ở trong thai, tất cả các vị trời Đại oai đức đều tán dương làm lễ. Nay ông cũng ở trong hư không nhãn, Phật Mẫu tạng, mà gá Thánh thai, cho nên tám bộ rồng thần đều cùng tôn kính, vì thế nói phúc đồng kia.

Vui như ở vườn hoa

Hoa ánh sáng điểm khắp

Rừng Vi-ni vui đẹp

Vô lượng các trời ở

Đạo sư vừa đản sinh.

Thân đời sau không còn

Ông nay được đồng kia

Điều tốt lành tác tịch.

Tiếng Phạm là Chỉ-sa-la-du, trên cây trong rừng này có hoa, trên cành lá, kế nói Bổ-sáp-ba, chính là xem thể hoa, giống như loại hoa tràng, hoa rời, đều dùng tên này, vì thế câu trên đem vườn hoa để phân biệt. Khi Bồ-tát mới đản sinh, ở tất cả thế gian cũng có vô lượng điềm tốt lành, cho đến vô lượng chúng trời… vì cúng dường nên đều nhóm họp ở vườn rừng Vi-ni, lại có vô lượng Bồ-tát giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận, cũng như bóng mây và ánh trăng đồng thời sinh ra. Nay ông cũng ở trong Bí mật tạng mới được đản sinh, tất cả pháp môn quyến thuộc đều đã bắt đầu phát động. Nếu người mạnh mẽ tinh tấn tu hành thì cũng là thân mé sau sinh tử, cho nên được vui đồng với kia.

Như khi dứt các khổ

Của tại gia thì vui

Nữa đêm tâm hoan hỷ

Đi đến chỗ khổ hạnh.

Cũng như các chúng trời

Vây chung quanh kính lễ

Nay ông được đồng kia

Điều tốt lành tác tịch.

Đây là khi Bồ-tát mới xuất gia, bản Phạm chỉ nói diệt trừ các thứ khổ, chính là bao gồm nghĩa tại gia. Có chỗ nói xa lìa các thứ khổ ân ái trói buộc của người tại gia.

Khổ hạnh xứ: Tiếng Phạm dịch đúng phải là Tu Thân xứ (chỗ tu thân), như Bồ-tát khi mới vượt thành đến chỗ tu thân, tất cả thế gian có vô lượng, vô biên việc tốt lành, cũng như Hoa nghiêm… có nói rộng.

Bấy giờ, chúng trời Tịnh Cư cho đến các vị trời hộ thế đều rất hoan hỷ, biết hoa Ưu-đàm “Chánh Biến Giác” không lâu sẽ nở tròn, thảy đều vây quanh đảnh lễ, hoặc tự thân nương chân ngựa mà đem phẩm vật kính cúng, nay ông cũng ở trong Bí mật tạng, bắt đầu chia tay cha mẹ Vô Minh, đi đến chỗ tu thân Sơ Pháp Minh Đạo, phải biết trời Tịnh-Cư v.v… cũng đều hoan hỷ kính lễ, biết rằng không lâu cũng đồng như Thế-tôn, cho nên nói được vui như thế.

 

************

Lại như Long vương kia

Vui khi cung kính lễ

Các chim bay bờ sông

Bao quanh xếp thành hàng.

Theo nghĩa “Tịch” ít có

Đem dứt trừ ba cõi

Ông nay được đồng kia

Điều tốt đẹp tác tịch.

Khi ấy, Bồ-tát đã đạt đến chỗ cùng tận của khổ hạnh, biết không có ý nghĩa lợi ích, nên thọ cháo sữa của người nữ chăn bò, sau đó xuống sông tắm rửa, tướng tốt đầy đủ, lúc ấy, cách đường Phật đi gần dần, có vô lượng chim sẻ xanh báo điềm lành.

Như trong kinh Bản Hạnh có nói rộng, chim này tên đúng là Tangsa, hình dạng giống như chim sẻ xanh nhưng nhỏ hơn, phong tục ở Trung quốc người ta nói là chim Tiên Nhân, Bồ-tát tắm gội xong, nguồn tâm vắng lặng, suy nghĩ các pháp, thấy rõ con đường Đại Bồ-đề sinh tâm nương gởi, tự biết có thể dùng thế lực lớn phá hoại ba cõi, lúc ấy lại có vô lượng, vô biên điều tốt lành nổi lên ở thế gian, nay ông ở trong Bí mật tạng, lìa bỏ chín mươi lăm thứ ngoại đạo, các thứ khổ hạnh làm thần thức thân thể mệt nhọc, không có nghĩa lợi, ăn một bát cháo sữa chữ A, thêm lợi ích cho sức lực và mạng sống lâu, dùng nước Tịnh Pháp tắm gội thân kia, biết rõ đường lớn Tâm vương, sắp đến ngồi chỗ Đạo tràng của Tỳ-lô-giá-na, cho nên nói được vui giống như kia.

Giống như Bà-già-bà

Vui khi dưới cây Chúa

Nhờ dùng sức Từ tâm

Phá Vô lượng ma quân.

Theo các thứ hình loại

Khắp trời người thế gian

Nay ông được đồng kia

Điều tốt lành tác tịch.

Thế-tôn ngồi dưới cây Đạo tràng, khi hàng phục Thiên ma thành Chánh giác, tất cả thế gian, xuất thế gian, có các việc tốt lành, giống như Thiên Thọ Vương đến tháng mà Xuân nở hoa đầy đủ.

Xưa, khi hành đạo Bồ-tát, tất cả nguyện hiếm có đã được như ý, liền phổ hiện sắc thân, khắp trong thế gian khai hóa chúng sinh. Lại ở đây nói ma quân, trong bản Phạm âm đúng là Bác-ngật-sô, nghĩa là bè đảng vây cánh, nay dựa vào bản dịch xưa hội ý mà nói. Nay ông phát tâm Bồ-đề, phải biết đã được ngồi yên dưới Sa-la Thọ Vương nơi Phật giác ngộ, đem thần lực che chở của Như lai hàng phục khắp ma quân, nếu từ đây vững chắc không lay động, đến khi thấy tâm rõ đạo thì ngay khi vừa phát tâm liền thành Chánh giác, do Tam-muội Trừ cái chướng khắp hiện thân Mạn-đồ-la, vì thế nói được vui đồng với kia.

Như Thiện Thệ Đạo sư.

Trụ ở Ba-la-nại

Lúc mới chuyển vô thượng

Pháp vô thượng tốt lành.

Nương dựa chưa từng có

Thế gian, thời phần hết

Nay ông được đồng kia

Điều tốt lành tác tịch.

Thế-tôn vì mười nghĩa cho nên chuyển xe chánh pháp, như kinh Hoa Nghiêm… có nói rộng. Tiếng Phạm Bát-la-phạ-na Đỗ-phạ-la, nghĩa là nhiệm mầu hơn cả, nghĩa thù thắng, tức là bậc nhất ở thế gian, không có gì hơn nữa, do đó nói là tối vô thượng.

Lại nữa, Thế-tôn đã nói trong ba cõi, đều vì việc lớn nhân duyên, vì thế nói là tối vô thượng; tất cả thế gian xưa nay chưa từng nghe, cũng không thể chuyển, vì thế nói nương dựa chưa từng có. Bản Phạm nói đúng là kỳ hy (hiếm lạ), ở đây hội ý mà nói; tự vượt qua ba cõi, cũng giúp vô lượng chúng sinh trụ trong thân mé sau cùng, cho đến ý có sinh thô nặng, cũng khiến hết hẳn, nay ông cũng giống như thế, nếu sinh ở đây đợi được Trừ cái chướng Tam-muội nói năng Đà-la-ni, khi khởi thần thông tự tại, cũng có thể Xoay bánh xe pháp như Tỳ-lô-giá-na, vì thế nói được vui giống như kia.

Như kia làm lợi ích

Nghĩa tốt lành bậc nhất

Được phước lợi rất nhiều

Khen ngợi các Thánh chúng.

Nói khắp đấng cụ Đức

Mâu-ni Thích Sư Tử

Nay ông được đồng kia

Điều tốt lành tác tịch.

Bản Phạm nói Hệ-đa, Hán dịch là lợi ích, tiếp theo nói Ngật-lýda, Hán dịch là Lợi, Ca-la-ninh, Hán dịch là nhiêu ích, tên gốc đều khác, người truyền đạt không dùng riêng, ví như khi đầu tiên thỉ tổ dựng lên nguồn gốc, tuy đồng trở về với ban đầu nhưng có khác chút ít. Câu đầu nói làm lợi ích, cũng là nghĩa giúp lợi ích, kết thành kệ khen ngợi Phật.

Câu tiếp theo nói nghĩa tốt lành bậc nhất, là kết thành kệ khen ngợi “Pháp”. Hai câu tiếp theo nói về quả tốt đẹp thành tựu nhờ tu hành cúng dường, là tổng kết kệ khen ngợi “Tăng”. Hai câu kế đến là kết thành tổng kết bản hạnh của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong bảy bài kệ. Tóm lại, tất cả các công đức như thế, nay ông đã được đầy đủ. Thếtôn khi nhập Niết-bàn và khi thành Chánh-Giác, không hai không khác, nếu y theo thế đế thì nói chúng sinh trong ba cõi hư không phước không còn, vì thế cho nên tối tăm mà không nói. Nhưng trong đây kết hợp Tam bảo và bản hạnh Như lai, tức nghĩa là Đại Niết-bàn.

Trong mười một bài kệ này đầy đủ vô lượng nghĩa, phải phân biệt rộng các kinh để nói, sợ chướng ngại nói nghĩa Mạn-đồ-la, nay nói sơ lược lời dạy bảo mà thôi.

Kệ Kim Trù (bản Phạm)

A nhưỡng nẵng, bát tra lan, phạ ta, a bã, nễ đan nhĩ nãi, tát đạ, phạ, xá la chỉ, muội, nễ dã, la chiết tốt đô, duệ, tha lộ yết tả, muội bổ la.

Này Phật tử! Đức Phật vì ông vén bỏ màng vô trí, giống như ở đời thầy thuốc giỏi khéo dùng thẻ vàng, phương pháp trị mắt là ở phương Tây, lấy vàng làm đũa, hai đầu tròn trơn giữa nhỏ, giống như hình cái chày, có thể dài chừng bốn, năm tấc, khi dùng lấy hai đầu xoa thuốc, mỗi khi dùng một đầu cạo trong một mắt, thẻ vàng Niết-bàn cũng như vậy, tâm mắt của tất cả chúng sinh, vốn có tánh tri kiến Phật, chỉ vì màng Vô trí che lấp, cho nên tướng thật các pháp không được hiện ra rõ ràng. Nếu khiến người vụng cứu chữa màng vảy, chẳng những không có hiệu quả, mà màng vảy kia lại còn che thêm, hoặc tổn thương tròng mắt. Như lai đầy đủ phương tiện khéo dùng thẻ vàng thì không như thế, như người thợ khéo léo xoay vần cái rìu thì trừ được dơ bẩn, nhưng ở chỗ không thể tổn thương thì không để tổn thương, nếu chỉ trong một tí co duỗi không độ lượng thì sẽ phạm vào chỗ không có vảy che, không thành tri kiến vô ngại.

Lại bệnh này, tánh thấy sắc trong mắt, ở thế gian hoặc có bậc “Y Vương” hoặc không có “Y vương”, pháp cũng thành tựu như vậy, nhưng gặp nhau được chữa trị thì liền mở sáng, không phải công lo liệu thuốc nay mới sáng tạo. Kinh Pháp Hoa có ví dụ người mù, trong đây sẽ nói rộng, các môn phương tiện khác nhau của tất cả các Đức Phật, nghiên cứu ý chỉ của kia đều trở về trong ý này.

Kệ Gương sáng bằng tiếng phạm.

Bát La, để phược, ma mãng da, đạt ma, a xa, du, đà, a nhưỡng vĩ la, a nghiệt la, hệ da, nẵng, tỳ la tất dạ, thất giả, hệ đô yết ma tam mẫu ôn bà, phạ, ế văn nhưỡng, đát phạ, y ý mãn, đạt ma, niết sa pha, bà, phạ nẵng nhưỡng vi lam, cự lỗ tát đát phạ, lạt tha mãng đỗ lam, bột đà nẫm, nhưỡng đa, tất đát phạ, mạo la sa.

Các pháp không hình tướng

Trong vắt không vẩn đục

Không chấp, lìa lời nói

Chỉ theo nhân nghiệp khởi.

Biết pháp này như vậy

Tự tánh không nhiễm ô

Là lợi đời không sánh

Ông từ tâm Phật sinh.

Bản Phạm câu đầu tiên chỉ nói hình tượng, nhưng cùng với pháp vô tướng, thế văn nối liền nhau, ý nói pháp không hình tượng. Tánh vốn thanh tịnh, giống như gương sáng, lắng lặng trong sáng, không có dơ đục, lại có thể hiện khắp các hình, phải biết hình này không từ trong gương sinh, không từ chất ngoài sinh, không cùng sinh, cũng chẳng phải không nhân duyên mà có, các lời nói vô ích đều không tương ưng, lại cũng không được chấp thủ, chỉ thuộc các nhân duyên. Duyên hợp bất sinh, duyên lìa không diệt, tức nói vô thường, không đoạn, không đi, không đến, phải biết hình tượng là cảnh, chính gương là hình, nếu khi hiểu được như vậy thì thấy tướng thật các pháp, đem tâm như gương này soi gương như tâm, do đó nói tâm tự thấy tâm, tâm tự biết tâm, trí và tâm không hai không khác.

Sở dĩ quyết định cạo bỏ màng vảy ở mắt, chính vì quán sát pháp

giới như đây cho nên tự sáng. Nếu khi cùng ở đây tương ưng thì ở phổ Môn Mạn-đồ-la, đắc Tam-muội Trừ cái chướng, vì tất cả chúng sinh làm lợi ích không gì sánh bằng, hoặc nói Vô đối (không gì đối lại) hoặc nói Vô xứng (không gì sánh bằng), nghĩa là không thể đo lường; do có thể tự sinh vào nhà tâm Phật, nên gọi là con của tâm Phật, từ tâm Phật sinh, vì thế nói là ông từ tâm Phật sinh.

Kệ về pháp luân, pháp loa bằng tiếng phạm:

A nãi dã, bát ra bột lý, để, lộ yết tả, chướt yết lan mạt lỵ đa, dã đá, diễn nan, a bố lại duyên, tam mạn đa nột phạ, đạt ma, thương khư, mãng nỗ đá lam, nẵng đát ra kiến ngật sái, vĩ vị để lạt phạ, niết lạt vĩ thương kế nẵng, chế đá sa, bát ra ca, xà dã sa phạ, lộ kế tất dẫn, man đát ra, giá lỵ tà, nẵng diễn, bát lam, y phạm, ngật lật đả nhung, bột đà nẫm, ô bà ca, lý để nghỉ, dã tế hát, đế già phạ nhật ra, đà lạt, tát lạt bính lạt ngật san để đát phạ, tất ba xa.

Ông tự ở ngày nay

Chuyển bánh xe giúp đời

Âm thanh kia cùng khắp

Thổi loa pháp vô thượng.

Chớ sinh ra tuệ khác

Đem tâm không nghi lo

Mở bày cho thế gian

Hạnh chân ngôn thắng đạo.

Thường phát nguyện như thế

Nêu bày ân Đức Phật

Tất cả trì Kim Cang

Đều phải hộ niệm ông.

Giống như Tự luân xoay chuyển thành tựu lẫn nhau, cùng thành một thể. Như tự luân ấy, ấn luân thân cũng giống như vậy, vì thế cho nên khi hiểu đầy đủ nghĩa gương Mạn-đồ-la, tức là hiểu nghĩa xoay bánh xe pháp trong Bí mật tạng, khi xoay bánh xe pháp này, dùng một âm thanh, khắp cả mười phương thế giới thức tỉnh cho chúng sinh, cho nên nói thổi loa pháp lớn.

Phạm âm khắp cả trong Tự, liền có nghĩa thanh (tiếng) có nghĩa phát thổi, lại có nghĩa khiến kia nghe khắp cả địa tuệ: Là Tuệ phân biệt vọng tưởng. Vô nghi tâm: tức là nghi hối hẳn, trụ trong thật trí, do trụ trong thật trí, nên chắc chắn Sư tử rống, mở bày đạo, phát sinh chân ngôn hạnh vô thượng cho hàng trời người; nếu ông có thể phát nguyện như vậy thì đối với bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, vì báo ân lớn chánh 52 pháp, nên tuyên bày ân đức của Phật, tức là sứ giả của Như lai, làm việc Như lai, vì thế cho nên tất cả trì Kim Cang đều hộ niệm ông.

Lại nữa, tâm vương của ông, ở trong “Sơ pháp minh đạo”, khi thành Phật xoay bánh xe pháp, đã có vô lượng, vô biên Kim Cang Trí ấn, vây quanh cùng giúp đỡ che chở, huống chi thế lực của Tỳ-lô-giá-na khi tâm vương rốt ráo thành Phật, do đó phải vì pháp này phát tâm tinh tấn mạnh mẽ.

Kệ Tam-muội-da bằng tiếng phạm:

A nễ dã, bát ra, bột lý, để, đế phạ sai, a tỉ nhị vĩ đá, ca la minh đa, a bát lý, để dạ dũng hệ, tát đạt mạo, Bồ-đề chất đá, mạt đát bát ra, mãng sai lý duyên, tát bà đạt mê sổ, tát đát phạ, nẵng mang, hệ thả giả dã đa, y đế, Tam-muội-da hệ, tam bột đài, ra, khê dã, đá tát đát phạ, tô một ra, đá, duệ tha, sa phạ, nhị vĩ đơn, lạc ngật sản, đát tha lô ngật sản y mê, đát phạ dã, bát ra ni bát nễ bát nễ, ngu lô, thỉ sử, thất giả ra nô du bạc cổ để, phạ sai ra, a phiếu, bế da, tất than, đa, tát lạt nẫm, niết thất chỉ, đế, nhưỡng, thản ra, thản mãng noa.

Phật tử! Ông, từ nay

Không nên tiếc thân mạng

Không nên bỏ chánh pháp

Xa lìa tâm Bồ-đề

Bỏn xẻm tất cả pháp.

Việc không lợi chúng sinh

Phật nói Tam-muội-da

Ông khéo trụ trong giới

Như tự giữ thân mạng

Giữ giới cũng như vậy.

Nên chí thành cung kính

Đầu dưới chân Thánh Tôn

Việc làm đúng giáo hạnh

Chờ sinh tâm nghi lo.

Trước dùng lời nói đưa ra một bài kệ, giống như chư Tăng dạy cho sáu niệm, Tát-bà-đa dạy cho năm thời giáo. Do đây nghiệm xét mà biết đã thọ giới cụ túc hay chưa, nay bốn giới này nếu đã thọ giới cụ túc rồi thì lược chỉ bày giới tướng, phải biết chính là bốn pháp Ba-la-di trong Bí mật tạng, như người bị kẻ khác chặt đầu, mạng căn không còn tiếp nối thì tất cả chi phần không thể làm gì được, không lâu sẽ bị tan rã. Nay bốn giới Ba-la-di này là mạng căn của Chân ngôn thừa, cũng là mạng căn của chánh-pháp, nếu người phá hoại thì giống như thây chết ở trong Bí mật tạng, tuy tu đủ các việc công đức, nhưng không lâu cũng sẽ bị bại hoại.

Giới thứ nhất: Không nên xả chánh pháp: Vì chánh giáo của tất cả Như lai, đều phải nhiếp thọ tu hành và thọ trì đọc tụng, giống như biển lớn dung nạp trăm sông, tâm không thỏa mãn, như đối với các thừa liễu nghĩa, bất liễn nghĩa trong, tùy theo tất cả pháp môn sinh tâm xả bỏ, như trong Thanh văn thừa, nếu đối với người có khả năng tác pháp tâm sinh miệng nói, hễ xả bất cứ một pháp nào đều thành xả giới; tuy luật Cụ túc không rơi vào các số, như thế không mắc tội phạm giới. Nay bí mật đại thừa này, rốt ráo không có nghĩa xả, cho nên sẽ thành tội nặng.

Lại tất cả pháp môn này, đều là Đại Bi của Thế-tôn, đã chứa nhóm trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, vì muốn Phổ-Môn lợi ích tất cả chúng sinh cho nên giảng nói, giống như tự luận không thể bỏ một, như hàng Thanh văn thừa hễ bỏ bất cứ một việc nào mà vẫn hòa hợp như cũ thì cắt dứt nghĩa hòa hợp tan mất luật nghi, huống chi là Đại thừa?

Giới thứ hai: Không nên lìa bỏ tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề này, đối với muôn hạnh Bồ-tát giống như cây cờ của vị Đại tướng, nếu khi đại tướng tan mất cây cờ thì ba quân (toàn thể quân đội) công lao hư hoại, rơi vào chỗ thua người, vì thế phạm Ba-la-di. Có người tuy mến trọng pháp tạng ba thừa tâm không lìa bỏ, nhưng nghĩ rằng, Vô thượng Đại thừa các thứ khổ hạnh khó làm, ta không thể chịu được, hãy nên ở trong Tiểu thừa mà nhận lấy Niết-bàn, Ta phải trồng nhiều gốc lành, cúng dường Tam bảo, được nhiều phước báo trời, người, Vô thượng Bồ-đề là nói tu hành của những bậc Đại nhân như Văn-thù, Phổ Hiền… Nay ta làm sao có thể được các nhân duyên như thế, lui sụt nguyện Bồ-đề chính là tự cắt đứt mạng sống, phạm tội Ba-la-di. Lại tâm Bồ-đề này, rốt ráo không có nghĩa để lui sụt, cho nên không giống như trong pháp Thanh văn, cho đến, xả bỏ Tam quy trở lại làm người tại gia ngoại đạo, Phật cũng từ bi thương xót chấp nhận.

Giới thứ ba: là đối với tất cả các pháp không nên bỏn sẻn không chịu quán sát căn cơ mà ban cho thì cũng phạm tội Ba-la-di. Vì sao? Vì Như lai ra đời sau đó mới có Chánh Pháp, cho đến một câu, một bài kệ Thế-tôn đều tan mất thân mạng giúp việc cho người sau đó mới được, đó là tài sản cha mẹ để lại cho tất cả chúng sinh, không riêng cho một chúng sinh nào, mà nay trộm cho mình có, trong Bí mật tạng này, đồng với tội ăn trộm vật của Tam bảo.

Nói Sơ lược Pháp có bốn thứ: Nghĩa là ba Thừa và Bí Mật Thừa, tuy không nên bỏn sẻn, nhưng phải quán sát chúng sinh, so lường căn

khí của họ rồi mới trao cho, nếu nói việc sâu xa bí mật ngay khiến họ sinh nghi, chê bai cắt đứt gốc lành thì ở trong giới thứ tư phạm tội “Bala-di”. Nếu thật sự bỏn sẻn tài vật không chịu cấp cho ở trong mười thứ giới phương tiện thì kết phạm, ở phẩm sau sẽ nói.

Giới thứ tư: Chớ đối với tất cả chúng sinh làm việc không lợi ích: Đây là trái với pháp bốn Nhiếp, bốn Nhiếp là bốn y trong giới Bồ-tát và giới Cụ túc, khi mới thọ giới, trước phải nêu già nạn này, nếu người vâng làm được thì mới cho thọ, không thể vâng làm thì không phải Maha Tát-đỏa, không được cho thọ. Vì sao? Vì Bồ-tát phát tâm Nhất thiết trí, vốn vì nhiếp khắp tất cả chúng sinh, vì làm nhân duyên cho hàng Tam thừa vào Đạo, mà nay trái lại làm pháp trái với bốn Nhiếp, gây ra nhân duyên làm cho chúng sinh chướng đạo, tất cả chúng sinh cũng đồng thể với tự luân, không được lìa nhau, hễ làm tổn hại gốc lành của bất cứ một chúng sinh nào hoặc đối với họ xả bỏ việc làm lợi ích thì đều phạm tội Ba-la-di, so sánh như trong pháp Thanh văn hễ xả một người trong bảy chúng, tức nghĩa là không hòa hợp, đoạn mất luật nghi của giới Cụ túc, chỉ là tùy theo tâm buồn phiền, tạo các tội dâm, đạo, sát, vọng… Nhưng chưa tổn hại duyên lành ba thừa kia, giống như tội thâu-lan-già trong pháp Thanh văn, đó là phương tiện nhiếp vào Học xứ. Tiếp theo dưới là lời A-xà-lê dạy giới.

Phật dạy: Tam-muội-da: Bản Phạm gồm có chữ này, ý nói các Đức Phật trong mười phương ba đời, cùng nói Tam-muội-da này, đồng đi một con đường chân thật giống như nhau, không còn con đường nào khác. Nay trong Mạn-đồ-la, tất cả các Đức Phật nhóm họp hiện làm chứng thật.

Tiếng Phạm Tô-một-ra-đa, dịch là người khéo trụ giới, do kia khéo trụ Tam-muội-da cho nên cũng gọi người khéo trụ giới, chính là pháp môn khác nói là Phật tử, như giúp đỡ sinh thân do cha mẹ sinh ra, đã có thân thể, nay ưa thích pháp thân tuệ mạng này, cũng phải như vậy, nay ông đã thọ giới Cụ túc xong, phải chí thành hướng đến các Tôn vị kia đảnh lễ mà lui, từ nay về sau hễ có làm gì, phải nương giáo vào pháp Chân ngôn đầy đủ, như lời dạy mà thực hành, tất cả sự nghiệp đồng như người mới thọ giới, trước phải thưa hỏi thầy, không được tâm tự tiện chọn đàn khiến sinh ra điều tà ác, nghi hối.

Lại nữa, A-xà-lê nói hai bộ giới bổn trong Trì minh tạng, mỗi bộ đều là chân ngôn, có công năng thành tựu các việc, Như lai do đây gia trì các đệ tử, nay các kệ trong này cũng giống như vậy. Khi tác pháp, phải tụng bản Phạm, gồm đem tự môn mà giải thích rộng.

Bấy giờ, Kim Cang Thủ bạch Đức Phật, cho đến đồng thấy Phật, Thế-tôn, đó là nhân thọ giới Cụ túc xong. Nói công đức Vô tác trong môn Chân ngôn, như trong pháp Thanh văn, nếu thọ giới Cụ túc xong thì dâm, đạo, sát, vọng… là mỗi học xứ, mỗi tam thiên đại thiên thế giới mỗi chúng sinh xứ, đều được công đức vô tác, sông phước trôi chảy cho đến khi qua đời. Còn giới không uống rượu, đều sinh công đức Vô tác, giới đào đất hoại sinh, đối với tất cả cây cỏ từ mé Kim Cang đến nay, mỗi hạt cát bụi đều sinh công đức Vô tác, do nhân duyên này, tuy còn đủ các kiết sử phàm phu, cũng được cùng với các bậc Thánh Vô học, đồng ở trong số ứng cúng, cùng cầm giữ việc Thánh. Nay trong Bí mật tạng này, do giới ban đầu, đối với tất cả kho chánh pháp trong mười phương ba đời, đều sinh công đức vô tác.

Do giới thứ hai, đối với tất cả hạnh Bồ-tát trong ba đời mười phương đều sinh ra pháp công đức vô tác, do giới thứ ba, đối với tất cả pháp môn độ người trong mười phương ba đời, đều sinh ra công đức vô tác; do giới thứ tư, đối với tất cả chúng sinh và bốn nhiếp sự trong mười phương ba đời, đều sinh công đức vô tác, không riêng dùng một ngày nào đó làm hạn lượng, tam thiên là cảnh giới.

Lại tất cả luật nghi của Thanh văn, nhân duyên tạo tác chấm dứt, đến Vô dư Niết-bàn trở về với Nguội thân bặt trí, nay Luật nghi Bồ-tát này, vốn từ Nhất thiết trí sinh, cuối cùng đến biển Tát-bà-nhã (Nhất thiết chủng trí) gốc ngọn, mạt rốt ráo đều như Kim Cang.

Lại như trong pháp Thanh văn, tuy có đầy đủ phiền não, hữu học, vô học… thềm bậc khác nhau, nhưng đã phát ra Vô tác luật nghi thì không có hơn thua khác nhau. Nay luật nghi Bồ-tát này cũng giống như vậy, tuy là bắt đầu phát tâm, cho đến bốn mươi hai địa vị thềm bậc khác nhau, nhưng một khi khắp cả pháp giới phát khởi gốc lành vô tác thì cùng với Như lai không còn thêm bớt khác nhau.

Lại nữa, như khi bắt đầu phát tâm, tất cả công đức liền bằng với Như lai, từ đây về sau trải qua số kiếp không thể tính đếm, ở trong một niệm thường tiến lên, càng sâu càng rộng không thể suy nghĩ bàn luận, do nghĩa này cho nên gọi là công đức vô tác trong Bí mật tạng.

Kinh chép: Kim Cang Thủ hỏi: Thiện nam, thiện nữ này, vào Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la này, được bao nhiêu phước đức nhóm họp?

Phật dạy: Từ khi bắt đầu phát tâm cho đến thành Như lai, tất cả nhóm phước đức thì nhóm phước đức của người thiện nam, thiện nữ cũng bằng nhau, phước này tất cả chúng sinh suy lường phân biệt không thể biết được chỉ có các Đức Phật mới có thể biết, nhưng nay chỉ bày chỗ cho kia vào, muốn khiến lãnh hội ý đầy đủ, nên nói dùng pháp môn này phải biết như thế.

Ví như Thái tử Luân vương vừa ở trong Thai tạng, đã có thể giữ gìn Tứ thiên hạ, khiến phước đức không giảm, các thần, tám bộ đều tôn kính, huống chi lợi ích làm được khi nối tiếp ngôi vị quán đảnh, do đó Phật dạy, do tất cả nhóm phước đức kia bằng với Như lai, phải biết chính là từ miệng Phật sinh, là đệ tử trong tâm Phật, nguyên nhân kia chính là có Phật, làm các Phật sự, giống như trong kinh Thanh Văn, Đức Phật dạy: Hễ Xá-lợi-phất đến chỗ nào thì nơi đó không có xảy ra các việc. Tất cả chúng sinh sở dĩ gần gũi cúng dường Như lai, và có thể sinh ra phước tuệ vô tận; nay thiện nam, thiện nữ này tất cả nhóm phước đức bằng với Như lai, vì thế cho nên Thế-tôn dặn dò tất cả chúng sinh, nếu muốn cúng dường Phật, phải cúng dường thiện nam, thiện nữ này, nếu muốn thấy Đức Phật thì phải quán kia.

Khi mới nhập thế đế Mạn-đồ-la thì tất cả nhóm phước đức đã bằng với Như lai, cho đến nói rộng, hễ khi vào bất cứ một địa vị Mạnđồ-la nào thì nhóm phước đức sinh ra đều bằng với Như lai. Trong đó cũng có khác nhau, cũng không khác nhau, do thấy Kim Cang giới như thế cho nên gọi là Kim Cang Thủ, do thấy pháp giới như vậy cho nên gọi là Phổ-Hiền, do trên đầu Thánh Tôn này, cùng tất cả chúng Bồ-tát Kim Cang đều cùng đồng thanh nói: Chúng con từ nay về sau sẽ cúng dường cung kính thiện nam, thiện nữ ấy. Vì sao? Vì đồng như thấy Thếtôn, giống như phụ tá Luân vương, vì biết rõ giòng họ Luân vương, thấy sinh ra rất nhiều nghĩa lợi cho thế gian, muốn khiến bảy thứ báu thường không ẩn mất, đều đem tâm chí thành lễ kính thái tử trong thai mà giữ gìn che chở, không phải dùng lời để lừa dối.

Cù-hê chép: Như trên đã nói A-xà-lê làm Hộ-ma xong, dùng nước sạch rảy trên đầu các đệ tử, rộng chỉ bày ngôi thứ Mạn-đồ-la, dạy cho họ Đại Ấn và Minh Vương Chân Ngôn, khiến ngồi một chỗ mà trì tụng, sau dạy dùng hương hoa cúng dường Bổn tôn và các tôn vị khác xong, theo thứ lớp mà ngồi, thầy tự tụng kinh Bát-nhã khiến kia nghe, sau nói cho họ Tam-muội-da giới. Các ông từ ngày nay, thường đối với Tam bảo, các Bồ-tát, các chân ngôn tôn, cung kính cúng dường, đối với kinh đại thừa, thường sinh tín hiểu, hễ thấy tất cả người Tam-muội-da, thường sinh yêu mến, đối với bậc Tôn giả luôn khởi tâm cung kính, không nên đối với các tôn vị có tâm giận ghét, và cùng tin học kinh sách ngoại đạo.

Hễ người đến tìm, tùy theo khả năng bố thí, đối với loài hữu tình thường khởi tâm từ bi, đối với công đức tâm chuyên tu tập, thường ưa thích đại thừa, đối với chân ngôn hạnh không được biếng nháỳc, bỏ phế, tất cả pháp bí mật mà không có Tam-muội-da thì không nên nói.

Tóm tắt sơ lược như vậy, ngoài ra như trong phẩm thứ nhất Pháp cúng dường có nói rộng. Dạy bảo như vậy xong, mỗi mỗi chỉ bày kia thuộc về bộ của Bổn Tôn Chân ngôn ấn kia, đồng thời giải thích Mạnđồ-la gốc, sau đó làm Hộ-ma sau cùng, Hộ-ma xong, lại như pháp hộ thân bố thí cho chúng sinh ở các phương ăn thí xong rửa tay sái tịnh, cùng các đệ tử đem các hương, hoa… lần lượt cúng dường tất cả các tôn vị, thành tâm đảnh lễ và xin hoan hỷ, lại cầm nước át-già, tất cả đều dùng bản chân ngôn đúng như pháp phát khiển, hoặc nương bản giáo, hoặc dùng Chân ngôn chủ Mạn-đồ-la, đồng một lúc phát khiển, y theo giống như thỉnh pháp; Các thức ăn cúng dường phải bố thí cho người nghèo, không nên cho chó chim ăn, có tài vật gì, A-xà-lê nên nhận lấy tùy ý thọ dùng, nếu không thể dùng phải cúng dường Tam bảo, Lọng, Phất… cúng dường Phật, hương bột, hương xông… cúng dường pháp, những vật y, bình… cúng dường Phật và tứ phương tăng, nếu không có tăng thì phải cúng dường bảy chúng đệ tử kia cho đến một phần nhỏ cũng không được dùng, nếu dùng thì phạm Tam-muội-da, như kia có nói rộng.

Bấy giờ, Tỳ-lô-giá-na, lại quán sát tất cả hội chúng bảo Kim Cang Bí Mật Chủ… trở xuống, là nói chi phần chân ngôn cần dùng khi pháp sự Mạn-đồ-la, A-xà-lê phải nên hiểu rõ rồi, sau mới nói, muốn chỉ bày kho mật ngữ của Như lai, trở lại quán sát khắp đại chúng để gia trì, như khi sinh thân Phật sắp phát lời thành thật, hoặc hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp mặt, mà bảo người đáng độ rằng: Trong kinh sách, ông thấy người có tướng như thế mà nói ra lời luống dối không? Nếu trong Đại thừa, hoặc chỉ bày tướng lưỡi trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới.

Nay Thế-tôn sắp nói lời Như lai Bình đẳng, nói ngữ luân này ngang dọc đều khắp tất cả pháp giới, vì thế nói tướng Ngữ Luân dài rộng. Tướng chữ này, bản Phạm gọi đúng là Mạn-đồ-la, trước đã chỉ bày rõ Phổ Môn thân Mạn-đồ-la, nay lại hiện bày Phổ Môn Ngữ Mạnđồ-la, giống như ngọc Như ý vắng lặng Vô tâm cũng không có tướng chắc chắn, nhưng có thể ứng khắp tất cả, đều khiến tâm kia vui thích, do đó gọi là sắc đẹp Ma-ni đến từ thân sắc đẹp Ma-ni, phát ra lời sắc đẹp Ma-ni, chỉ bày tâm sắc đẹp Ma-ni, khắp mưa pháp tài, đầy khắp pháp giới chúng sinh các thứ nguyện ít có.

Dấu vết ứng vật như thế, thường khắp mười phương ba đời, đem vô lượng môn trồng các gốc đức, không khi nào cùng tận, trụ ở hạnh không thể hại, tức là nghĩa đối với tất cả sự nghiệp, đều không thể gây trở ngại, không thể phá hoại, do đó nói năng lực ba đời không sánh bằng câu Chân Ngôn, đây nói chung chỗ phát sinh ra các Chân Ngôn. Văn dưới sẽ nói Đại Lực, Đại Hộ… tức là từ ngọc Như Ý Luân sinh ra tác dụng thích hợp căn cơ.

Bấy giờ tất cả đại chúng, tự biết tâm khí thuần tịnh, lại nhờ Như lai gia trì không nghĩ bàn cho nên có thể lãnh thọ pháp lớn, liền dùng vô lượng môn, đều cùng đồng thanh thỉnh Phật rằng: Bạch Thế-tôn! Bây giờ đã đúng lúc. Bạch Thiện Thệ! Bây giờ đã đúng lúc: Căn cứ vào bản Phạm, thời của thời trước gọi là Ca-la là thời lớn, như một năm có ba phần v.v… Thời của thời sau gọi là Tam-ma-đa là thời trung và nhỏ, như trong ngày đêm sáu thời lại còn có phần nhỏ… Như có người nói, nay chính là lúc chuyên làm, gặp được mưa tốt, phải ngay trước mắt gieo trồng chớ để mất cơ hội kia, cho nên nói lại.

Bấy giờ, Thế-tôn đã thọ thỉnh rồi sắp nói Đại Lực đại hộ minh phi, cho nên trụ trong tất cả nguyện, xuất ra tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp tất cả cõi Phật, cờ pháp thanh tịnh, ở chóp núi cao quán sát Tam-muội. Trong đây nói xuất: Tiếng Phạm dịch đúng phải nói phát sinh, xưa dịch là hăng hái. Xuất tướng lưỡi dài rộng này, chính là Như lai hăng hái thực thi hiện năng lực đại thần thông, hội ý để nói. Tam-muội đây, ở trong tướng lưỡi dài rộng của Như lai khắp đủ phổ môn đại dụng, ma-ni sắc đẹp trong tất cả cõi Phật, rất là hơn cả, giống như lá cờ của vị Đại tướng, cho nên nói cờ pháp thanh tịnh.

Tiếng Phạm Đà-phạ-nhã, Hán dịch là “tràng” (cây cờ). Tiếng Phạm Kế-đô, Trung hoa dịch là “Kỳ” (cây cờ). Tướng nó hơi khác, Tràng chỉ dùng lụa nhiều màu để trang nghiêm cây cờ, tướng Kế-đô (Kỳ) phần lớn là giống, nhưng kỳ còn thêm kỳ (cây cờ) mật hiệu, như nhà binh vẽ làm các loại hình rùa, rồng, chim thú, dùng làm chừng mực cho ba quân, có chỗ cũng dịch là tràng, cho nên hiệp lại để nói. Nếu bản Phạm còn đủ phải nói pháp tràng kỳ thanh tịnh.

Như vị Đại tướng ở trên đỉnh núi cao dựng lập cây cờ, thấy đủ núi sông tình trạng dựa núp của kẻ địch, chỉ huy đông đến trăm, muôn, động chỉ một lời, lìa hiệp từ tâm, lại đánh nhau ắt thắng, lại công ắt thủ, nếu tướng vụng về, đối với sự thế lại mất cờ hiệu thì mọi người đều kinh hãi tâm thất bại không xoay gót chân. Tâm Bồ-đề thanh tịnh này làm cây cờ muôn hạnh cũng giống như vậy, trụ trong đạo lý Đệ nhất nghĩa đế trên, an toàn vững chắc không lay động, do thực hành Tam-muội quán khắp mười phương, đều thấy chỗ ứng dụng tài tánh hơn kém của vô lượng độ môn, và cùng nhân duyên chánh đạo, các địa thông bít, có thể được nhiếp giữ vô lượng công đức, khắp hộ tất cả chúng sinh, hễ có làm gì thì không thể cản trở, phá hoại.

Bấy giờ, Đức Thế-tôn nghĩ rằng: Ta từ khi mới phát tâm đến nay, thường dùng tâm Bồ-đề mệnh mẽ này để giữ gìn che chở chánh pháp và các chúng sinh, đối với các việc khổ hạnh khó làm, giống như Kim Cang không có lui sụt, chính vì thành tựu Tam-muội như thế, khắp hộ cõi nước các Đức Phật trong mười phương. Nay chỗ những điều nguyện của ta đều đã đầy đủ, làm việc nên làm chính là thời kia, tức thời phát khắp pháp giới của tất cả Như lai, thương xót không còn thừa âm thanh ở thế giới chúng sinh.

Nói Trì Minh Pháp Cú này, nếu lời nói ta thành thật không luống dối, kia có trì tụng tu tập thì khiến kia thế lực không khác với ta, do đó nói Đại Lực đại hộ. A-xà-lê nói: Minh nghĩa là ánh sáng của trí tuệ rộng lớn, phi, tiếng Phạm là thệ, tức là chữ vương được phát âm theo giống cái, do đó người truyền đạt dịch nghĩa là phì. Phì có nghĩa là Tam-muội, có chỗ nói Đại bi thai tạng Tam-muội, Tam-muội này là mẹ của tất cả Phật tử. Phật tử này, tức là cờ pháp tâm Bồ-đề thanh tịnh, như khi thai tạng kia bắt đầu từ Ca-la-la, dung chứa che chở giữ gìn, không để cho các duyên làm tổn hại, lớn lên dần dần cho đến sinh ra, nuôi dưỡng. Sau đó vẫn còn hết lòng giữ gìn, nuôi nấng, vì thế cho nên nói ân mẹ rất sâu, khó có thể báo đáp ân đức. Xuất Tam-muội này: Khi trụ, xuất đều là pháp giới không nghĩ bàn, không phải như thiền định của thế gian, động tịnh chướng ngại nhau, có khi lùi mất, xen hở.

Nam ma tát bà thản tha, nghiệt đế tệ, tát bà bội giả vi nghiệt khiến la ngật sa ma ha mạt lệ, tát bà đát tha nghiệt đa, bôn nê dã nễ xà đế hâm hâm đát la trách đát la trách a bát la để ha đế tóa ha.

Câu đầu là quy mạng tất cả các Đức Như lai, câu thứ hai có công năng trừ tất cả chướng ngại, sợ hãi… là khen ngợi tất cả đức đại trí, đại lực của Như lai, lại câu tiếp theo là khen ngợi vô lượng pháp môn. Tỳthấp-phạ cũng là nghĩa khéo, cái gọi là vô lượng độ môn khéo, tức là nghiệp dụng phổ môn của cây cờ pháp trên đỉnh núi cao, mà quán Tammuội. Nay muốn nói Minh Phi này cho nên trước quy kính công đức như thế của tất cả Như lai, tiếp theo nói Tá-bà-tha, là chỉ chung công đức như thế của các Đức Phật, muốn giúp cùng vào một tự môn, sau có hai chữ hàm khiếm, chính là thể của chân ngôn, các câu ở dưới đều chuyển giải thích hai tự môn này. Chữ Ha là nghĩa nhân, cái gọi là nhân đại thừa, chính là tâm Bồ-đề, do tất cả nhân vốn bất sinh cho đến lìa nhân duyên, gọi là tâm Bồ-đề thanh tịnh, đó là hạt giống thành Phật, nhân chân thật của cây cờ chánh pháp, trên thêm chấm không nghĩa là nhập chứng, vì thế chuyển âm thành Hàm. Khư là đại không, trên thêm chấm chuyển thanh là Khiếm, tức là chứng đại không này gọi là Bát-nhã Phật Mẫu, chính là nghĩa Minh Phi, ở trong hư không tạng này nuôi dưỡng hạt giống. Chân Nhân, tức là nghĩa đại hộ.

Lại nữa, tự môn Khư, giống như hư không rốt ráo thanh tịnh, không có gì, tức là ở đỉnh núi cao quán cảnh giới sở tri, chữ ha là cờ Bồ-đề cũng là năng lực tự tại, do hai chữ này tương ưng, giống như vị đại tướng có khả năng phá tan kẻ thù. Lại, tự môn Ha là tâm Bồ-đề quý báu, cùng tự môn Khư của hư không tạng hòa hợp, được thành ma-ni màu đẹp, có thể đầy đủ tất cả nguyện hiếm có. Nay trong Chân ngôn này liên quan với Khiếm Tự đây, văn dưới đầy đủ.

Câu tiếp theo nói La-khất-xoa, tức nghĩa là ủng hộ, giống như người sợ nguy hiểm khó khăn, nếu cậy nhờ người có sức mạnh, hoặc gặp thành cao hố sâu vững chắc thì thản yên không lo sợ, các oán địch kia tuy dùng các phương tiện, cũng không sao cả, người tu hành cũng giống như vậy, nương vào tâm Bồ-đề vua, lấy Bát-nhã Thai Tạng làm thành quách, giống như hư không không thể phá hoại, chính là chuyển giải thích nghĩa trước đây.

Câu tiếp theo là Ma-ha Mạt-lệ, Hán dịch là Đại Lực, chữ Ha trong tâm Bồ-đề, đầy đủ tất cả năng lực Như lai, nay hợp với chữ Khư, lìa các sự trói buộc không còn quái ngại, như gió giữa hư không xoay chuyển tự tại, vì thế gọi là Đại Lực. Lại, Lực tự tại của chữ Ha, khéo hợp với chữ Khư Vô lượng Độ Môn, giống như lực sĩ đầy đủ ngàn thứ kỹ nghệ và năng lực, thế nên mọi người không thể hơn được, do đó gọi là Đại Lực. Câu thứ bảy giải thích nguyên nhân đại lực cho nên nói công đức sanh tử tất cả Như lai, nói lực rất bền chắc này, vốn giống như chủng tánh sanh tử chư Phật Kim cang từ vô lượng kiếp đến nay thường dùng Chân nhân chữ A này tu đủ muôn đức chữ pháp, mỗi mỗi đều như Kim Cang không thể phá hoại, nay các đức đã đầy, các lực đều đủ, lại phải dùng đỉnh núi cao của cờ pháp này để quán Tam-muội, đánh dẹp hoàn toàn kẻ thù trong pháp giới, cứu khắp chúng sinh, sau đó liền nói lời thành thật, cái gọi là chữ hâm hâm. Hâm là khủng bố tiếng kia, sở dĩ nói lập lại, vì một là dẹp chướng ở bên ngoài, một mặt dẹp chướng bên trong.

Lại nữa, ngoài là phiền não chướng, trong là trí chướng. Nếu giải

thích tự môn thì Như lai dùng pháp nào để khủng bố các chướng? Bảo rằng, dùng tự môn Ha này. Dưới vẽ Tam-muội tức là tu đủ muôn hạnh, trên có chấm Đại Không tức là muôn đức đã thành tựu, chữ Ha tức là Cây cờ pháp Tam-muội, điểm không hòa hợp tức là đỉnh núi cao quán Tam-muội. Chữ Ha là hạt giống của tất cả Như lai, trên có chấm là mẹ của Minh Phi, dưới vẽ là Thai phần này ngày càng thêm lớn, do nghĩa như thế nên khi phát đúng âm thanh thì ma quân tan hoại.

Tiếp theo nói: Thản-la-tra nghĩa là quát mắng, nhiếp phục, như khi sư tử mạnh mẽ rống lớn các thú đều sợ hãi khép nép, cũng lập lại lời ấy: Là đối với phiền não căn bản và tùy phiền não, cho đến đối trị tất cả phiền não, phiền não bên trong và phiền não bên ngoài. Câu cuối cùng nói: A-bát-la để-ha-đế nghĩa là năng lực không thể đối kháng, không thể so sánh, kết giữ văn trên, do nhân duyên này nên gọi là Đại Lực Đại Hộ “Minh Phi”. Tóa-ha: Là cúi xin các Đức Phật biết để làm chứng minh, cũng là nghĩa nhớ niệm, như trước đã giải thích.

Kinh chép: Khi ấy, tất cả Như lai và chúng Phật tử nói châm ngôn này xong, lập tức khắp cả cõi Phật rúng động sáu cách, nghĩa là Như lai Đại Nhật khi phát ra âm thanh này khắp cả pháp giới, tất cả các Đức Phật, Bồ-tát, do cảnh giới không hai, thảy đều đồng thanh mà cùng nói, nay chỗ gia trì “Cú” này thế lực đầy đủ. Lại do Như lai nói lời thành thật, nên ngay lúc ấy các cõi Phật mười phương rúng động cách cách. Vì “Minh” Phật bản thệ chân thật không luống dối. Nghĩa rúng động sáu cách, kinh khác nói đủ tướng kia; nay dựa vào Bí mật thích của Tông này, sáu cách nghĩa là sáu phiền não căn bản: tham, sân, si, kiến, mạn, nghi, tâm địa tất cả chúng sinh, thường bị chướng nặng này bó buộc không thể tự thoát ra, nay nhờ sự cảm động chí thành đối với Đức Thế-tôn mà đều phá vỡ lớp vỏ, sinh mầm giống Phật, vì thế nói rúng động sáu cách.

Bấy giờ, tất cả Bồ-tát, thấy nhân duyên hai thứ động đất sơ cạn và sâu kín này, tâm mắt đều khai mở, được điều chưa từng có, dùng kệ nhiệm mầu khen ngợi Thế-tôn Đại Nhật.

Kinh chép: Ở trước các Đức Phật, nghĩa là khi Đức Phật nói “Minh” này, chư Bồ-tát mười phương thế giới… đều thấy Đức Phật kia trước cũng đều nói, vì thế đồng một âm thanh, đồng thời hiểu rõ, liền nương vào văn đây chứng thành uy lực Đại hộ, trong bài kệ lãnh giải, các Đức Phật rất đặc biệt, bản Phạm còn đủ nên nói là lành thay! Tất cả các Đức Phật nói Đại lực hộ này, chính là các Bồ-tát trong tất cả các thế giới thảy đều cùng một lúc hiểu rõ chân ngôn do tất cả các Đức Phật trong mười phương đã nói, được các Đức Phật mười phương cùng che chở giữ gìn, giống như thành Kim Cang dày, chắc, cao không thể lên được, lại bao quanh bằng ao nước sâu không thể vượt qua, vì thế cho nên tất cả các chướng không thể xâm lấn. Do kia hộ tâm trụ: Nghĩa là các vị tu hành dùng chân ngôn mật ấn này giữ gìn thân tâm mà an trụ, vì thế cho nên có khả năng làm chướng ngại, các Tỳ-na-da-ca, ác hình La-sát… tự nhiên lùi tan.

Lại chữ trụ này, nếu y theo tiếng Phạm, cũng có tên, vì giữ gìn tâm kia, nếu giải thích sâu thì nói tâm Bồ-đề thanh tịnh của người này, do thật nghĩa Minh Phi này hộ tâm mà trụ, thế nên ba thứ chướng nặng, các ác La-sát… thảy đều đuổi tan, không thể làm tổn hại gốc lành của kia, dưới đến khi sinh tâm nhớ nghĩ, cũng có thế lực như vậy, câu cuối lại kết thành.

Kinh chép: Thế-tôn gia trì pháp giới rộng lớn, liền ngay khi đó trụ trong pháp giới thai tạng Tam-muội, xuất định này dậy, nói nhập Phật Tam-muội-da trì minh. Tiếng Phạm Tỳ-phú-la nghĩa là rộng lớn, nghĩa là sâu rộng không bờ mé, không thể đo lường, như thế, tự thể các pháp, gọi là Tỳ-phú-la pháp giới, tướng thật các Đức Phật, tướng thật chân ngôn, tướng thật chúng sinh, đều là pháp giới Tỳ-phú-la, do vậy lại gia trì lẫn nhau, gọi là pháp giới che chở.

Lại nữa, như nhân duyên nam nữ giao hội, hạt giống gá vào thai tạng lại không mất mát hư hoại, tức nghĩa là gia trì lẫn nhau, như thế, các Đức Phật, quốc vương và Minh Phi hòa hợp, cùng sinh hạt giống Tỳ-phú-la, được Đại bi thai tạng giữ gìn không để mất mát hư hoại, cho nên gọi là pháp giới che chở, Thế-tôn gia trì khắp tất cả chúng sinh, đều tạo ra hạt giống xong, liền nhập vào pháp giới thai tạng Tam-muội. Quán mỗi hạt giống này, đều là Tỳ-lô-giá-na trên đài hoa sen, Phổ-môn quyến thuộc trang nghiêm vô tận, cũng không nhau với Đại Bi Mạn-đồla… nhưng các chúng sinh chưa thể tự chứng biết, cho nên nói ở trong Thánh thai đều là nhà, nếu khi ra khỏi tạng thì đó là Như lai giải thoát.

Đức Thế-tôn quán sát rõ ràng như thế rồi, liền xuất Tam-muội, nói Tam-muội-da trì minh. Tam-muội tức nghĩa là bình đẳng, nghĩa là bản thệ, nghĩa là trừ chướng, nghĩa là cảnh giác. Nói bình đẳng: nghĩa là khi Như lai hiện chứng Tam-muội này, thấy các thứ thân, miệng, ý mà tất cả chúng sinh, đều giống với Như lai, thiền định trí tuệ cùng thân tướng thật cũng rốt ráo bình đẳng, thế nên phát ra lời chắc thật để bảo với chúng sinh, nếu điều ta nói chắc chắn không luống dối, khiến tất cả chúng sinh khi phát lời chắc thật này cũng mong tam mật gia trì, trang nghiêm vô tận cùng giống với Như lai. Do nhân duyên ấy, có thể làm sự nghiệp Kim Cang, cho nên gọi là Tam-muội-da. Nói bản thệ: Như lai khi thấy, chứng Tam-muội này, thấy tất cả chúng sinh đều có nghĩa thành đạo, ngay lúc đó lập thệ nguyện lớn. Nay ta phải từ Phổ Môn dùng vô lượng phương tiện, giúp tất cả chúng sinh đều đến Vô thượng Bồ-đề, nếu thế giới chúng sinh chưa hết thì sự nghiệp của ta không bao giờ ngưng nghỉ. Nếu có chúng sinh theo bản thệ của ta khi phát lời thành thật này thì cũng khiến sự nghiệp họ đã làm, thảy đều thành tánh Kim Cang, do đó gọi là Tam-muội-da. Nói Trừ chướng: Như lai thấy tất cả chúng sinh đều có pháp thân Như lai, chỉ do một niệm Vô Minh, thường ở trước mắt mà không hiểu biết, vì thế nói lời thành thật, nay ta phải lập ra các thứ phương tiện, khắp vì tất cả chúng sinh quyết lột bỏ cái màng ở con mắt, nếu ta thệ nguyện ắt sẽ thành tựu, khiến các chúng sinh theo phương tiện của ta. Khi nói lời thành thật này cho đến ở trong một đời, được đôi mắt không nhơ “Cái, Chướng” đều hết, vì thế gọi là Tam-muội da. Nói nghĩa cảnh giác: Như lai vì tất cả chúng sinh đều ngủ trong Vô Minh, đối với công đức như vậy không tự hiểu biết, cho nên đem lời thành thật làm cho cảm động, khiến cho được tỉnh ngộ, cũng dùng lời này để cảnh giác các Bồ-tát… khiến ra khỏi hang sâu thiền định, bắt chước Sư tử luôn co duỗi, nếu có người tu chân ngôn nói Tammuội-da này thì các Đức Phật chúng ta cũng sẽ nhớ giữ bản thệ không được trái vượt, giống như vị cua tự đặt ra luật pháp rồi trở lại tự mình tôn kính làm theo. Cho nên gọi là Tam-muội-da. Trì Minh: Tiếng Phạm Đà-la-ni. Minh: Nghĩa là tổng trì tất cả minh môn, minh hạnh, cho đến cùng tận Tam-muội-da thệ nguyện đến nay, không bao giờ lọt mất, do đó gọi là nhập Tam-muội-da trì minh.

Nam ma tam mạn da bột đà nẫm a tam mê đán lý tam mê tam ma duệ sa ha.

Câu đầu tự quy mạng tất cả các Đức Phật như trên đã giải thích, câu kế nói Vô đẳng, tiếp theo nói Tam đẳng, liền với câu dưới để nói thì là Vô Đẳng Tam Bình đẳng Tam-muội-da.

Lại nữa, A nghĩa là các pháp vốn bất sinh, tức là thể tánh pháp giới. Bà nghĩa là đế. Mê: Nghĩa là Tam-muội. Ma là tự chứng Đại không, cũng là nghĩa Ngã, khi Đức Thế-tôn chứng Tam-muội này, quán sát tất cả chúng sinh tâm lực phổ Môn Mạn-đồ-la đều giống như ngài, cho nên không đối đãi, không thể thí dụ, so sánh, gọi là Vô Đẳng. Tam Đẳng là ba đời bình đẳng, ba nhân bình đẳng, ba nghiệp đạo bình đẳng và ba thừa bình đẳng, tức là chuyển giải thích câu trên, cho nên ý là Vô

Đẳng.

Đát lý: Nghĩa là tâm như tướng thật, tất cả bụi trần xưa nay bất sinh, Như lai ba đời dùng các thứ phương tiện, thảy đều vì một việc lớn Nhân duyên này, tức nghĩa là trừ chướng. Kết thúc rằng: Tam-muội-da: Chính là chắc chắn Sư Tử Hống, nói nghĩa các pháp bình đẳng, lập thệ nguyện lớn, khiến tất cả sẽ được như ngài, muốn cho khắp chúng sinh khai mở tri kiến thanh tịnh, do sự giật tỉnh chúng sinh và các Đức Phật này, cho nên Tam-muội-da này gọi là thệ kiên cố thành thực của tất cả Như lai; Nếu người nào trước không niệm trì thì không được làm tất cả pháp sự chân ngôn.

Thế-tôn đem thân, miệng, tâm nói Tam-muội-da này lần lượt ở khắp tất cả cõi Phật rồi, tất cả các chúng Phật tử đều nghe. Nghe xong, đối với tất cả pháp chân ngôn không dám trái vượt. Vì sao? Nếu Bồ-tát đối với các pháp chúng sinh, tạo ra các kiến chấp không bình đẳng thì vượt pháp Tam-muội-da, nếu đối với thệ nguyện bình đẳng này, gây ra các tâm hạn lượng cũng vượt pháp Tam-muội-da, việc làm trong ba cõi thuận theo danh lợi thế gian, không vì việc lớn nhân duyên, cũng vượt pháp Tam-muội-da, buông lung biếng nhác, không giật tỉnh tâm mình, cũng vượt pháp Tam-muội-da, do vượt Tam-muội-da cho nên có các chướng sinh ra, người và mình đều tổn hại không có ý nghĩa, lợi ích, vì thế các Bồ-tát… vâng giữ Tam-muội-da này như giữ thân mạng, không dám trái vượt.

Kinh chép: Bấy giờ, Bạc-già-phạm lại nói pháp giới sinh chân ngôn, khi Đức Thế-tôn tiến nhập vào pháp giới thai tạng Tam-muội; thì thấy tất cả chúng sinh đều có hạt giống Bồ-đề đồng với các Đức Phật, cho nên nói nhập Phật Tam-muội-da trì minh, nhờ Trì Minh này được nhập giới bình đẳng của Phật, tức nghĩa là gá vào Thánh thai.

Bấy giờ, Đức Thế-tôn lại dùng Phổ nhãn quán xét tất cả chúng sinh thảy đều đầy đủ thai tạng sinh trong nhà Phật, bấy giờ vô tận trang nghiêm cũng lại bằng với Như lai. Sau khi xuất định này rồi, liền nói pháp giới sinh chân ngôn, lại dùng Phổ nhãn quán sát thấy tất cả chung sinh này sự nghiệp Kim Cang thành tựu đầy đủ, bấy giờ Vô tận trang nghiêm cũng lại bằng với Như lai, khi xuất định này rồi, liền nói Kim Cang Tát-đỏa Chân ngôn, do đó ba thứ này đều gọi là Tam-muội-da.

Lại nữa, do nhập Phật Tam-muội-da, ở trong thai tạng không bị chết non do pháp giới sinh, khi bắt đầu ra khỏi thai lìa các chướng ngại, do Kim Cang Tát-đỏa cho nên có thể chuyển gia nghiệp đầy đủ các kỹ nghệ, lại do nhập Phật Tam-muội-da gia trì mật ấn trong thai tạng, dùng pháp giới sinh gia trì hai lớp quyến thuộc của Bồ-tát, dùng Kim Cang Tát-đỏa gia trì các hình tùy loại, nhập Phật Tam-muội-da như Hoa sen búp, Pháp Giới Sinh như hoa sen nở, Kim Cang Tát-đỏa như hoa sen thành tựu, trở lại làm hạt giống, do đó ba thứ này gọi là Tam-muội-da.

Nam mô tam mạn đa bột đà nẫm đạt ma đà đổ tát phạ bà phạ cú ngân.

Đạt-ma-đà-đỗ: nghĩa là pháp giới.

Tát-phạ-bà-phạ: Là tự tánh, cũng gọi là bản tánh.

Cú-ngân nghĩa là ngã.

Câu ấy nghĩa nói rằng ngã chính là tự tánh pháp giới, do Sư Tử Hồng Chắc chắn nói ngã (ta) và tất cả chúng sinh đều là tự tánh pháp giới, nghĩa là bình đẳng, ta sẽ lập ra các phương tiện, giúp tất cả chúng sinh thủy đều chứng biết nghĩa bản thệ này, do biết ngã là tự tánh pháp giới có công năng dứt trừ tất cả phân biệt, khai mở tri kiến thanh tịnh, đó nghĩa là trừ “Chướng”, các Đức Phật chỉ mong nhớ giữ bản nguyện, giúp thân này của Ta liền đồng tự tánh pháp giới Tỳ-lô-giá-na, đó nghĩa là giật tỉnh, phải dùng tự môn giải thích rộng.

Nam ma tam mạn đa phạt chiết la xá phật chiết la đán ma cú ngân.

Câu đầu nói Kim Cang Tát-đỏa chân ngôn, do quy mạng tất cả Kim Cang, tức là từ vô lượng môn giúp trì Kim Cang Như lai, đều khiến nhờ giữ hộ môn.

Câu sau nói Phạt-chiết-la đán-ma-cú-ngân nghĩa là thân ta liền đồng Kim Cang, Kim cang tức là tự tánh pháp giới, do năng lực thành tựu rất vững chắc không thể phá hoại, môn khác nói là Kim Cang, Như lai dùng phổ nhãn quán trí thể Kim Cang của tất cả chúng sinh cùng ngài không khác, đó nghĩa là bình đẳng, vì chúng sinh khó tự hiểu biết, từ vô lượng Kim Cang trí môn, làm vô lượng sự nghiệp Kim Cang, cần phải bỏ dẹp chướng lớn như thế, giúp đến mé thật, đó nghĩa là bản thệ, mé thật như thế gọi là Vô cấu nhẫn Kim Cang Nhãn, tức nghĩa là trừ chướng, do tiếng Sư Tử rống này rúng động cả mười phương cõi Phật, đó nghĩa là giật tỉnh, vì thế gọi là Tam-muội-da.

Lại nữa, hành giả chân ngôn, dùng Tam-muội-da đầu tiên được thân bình đẳng có thân, miệng, ý bí mật đồng với Như lai, dùng Tammuội-da thứ hai, được đồng thân Như lai gia trì pháp giới Cung tôn đặc, dùng Tam-muội-da thứ ba khiến hai thứ thân và cõi đều như Kim Cang cùng vô lượng chúng trì Kim Cang tự vây quanh.

Phật dạy: Tam-muội-da thứ hai là các Bồ-tát thành tựu thân pháp

tánh, Tam-muội-da thứ ba là nhiếp thọ, chiết phục chúng sinh tùy theo loại.

Phật dạy: Tam-muội-da thứ nhất là kiến lập Đại bi thai tạng Mạnđồ-la. Tam-muội-da thứ hai là làm sự nghiệp A-xà-lê Tỳ-lô-giá-na. Tam-muội-da thứ nhất là gia trì quyến thuộc Như lai, Tam-muội-da thứ hai là gia trì quyến thuộc Liên Hoa, Tam-muội-da thứ ba là gia trì quyến thuộc Kim Cang, vì thế Phật dạy ba Tam-muội-da.

Lại nói Kim Cang khải chân ngôn: Là trang nghiêm thân Kim Cang Tát-đỏa, người tu hành đã phát thệ nguyện Kim Cang, muốn vì tất cả chúng sinh phá diệt các chướng, do vững mạnh tinh tấn, đắp mặc áo giáp đội mũ trụ Kim Cang, hơn nữa như sáu Ba-la-mật mỗi mỗi tướng như thật, đều như Kim Cang không thể phá hoại, lại trong mỗi một cõi đều có đủ năm cõi, vì thế quanh thể dày kín không có kẻ hở. Như sáu Độ, ba mươi bảy phẩm, mười tám không, một trăm lẻ tám Tam-muội, năm trăm Đà-la-ni… đều sẽ nói rộng.

Do đắp mặc áo giáp Kim Cang của Như lai, xoay lăn trong sáu đường, ra sinh vào tử, tất cả phiền não nghiệp không không thể tổn hại, nếu y theo giải thích cạn lược thì do người tu hành đem chân ngôn này tự gia trì, tất cả các trời, rồng… thấy giống như thân Kim Cang Tát-đỏa, khắp thân đều mặc áo giáp đội mũ trụ Kim Cang, bền kín không ranh giới ánh sáng như lửa lớn, do đó tất cả sự chướng ngại đều không thể tổn thương.

Nam ma tam mạn đa phạt chiết la xá phạt chiết la ca pha già hâm.

Phát-chiết-la: là Kim Cang, Ca-la-già là Như lai dùng Kim Cang nhãn thấy khắp chúng sinh, đều mặc áo giáp đội mũ trụ Kim Cang này, vì thế đem lời thành thật mà giảng nói, trước hết lấy chữ Phạ làm thể chân ngôn, Phạ nghĩa là các pháp lìa nói năng: Nếu chỗ Hành của nói rộng, thì đều có thể phá hoại, có thể xoay chuyển, không bền chắc, do đó lấy chữ Phạ làm thể.

Chữ kế đều chuyển giải thích vì sao các pháp lìa nói năng? Do sinh không thật có. Vì sao sinh không thật có? Do tự tánh thanh tịnh, tự tánh thanh tịnh chính là thân Kim Cang Tát-đỏa.

Kế là nói nghĩa Giáp, nếu pháp do tạo tác cho nên thành tựu thì phải biết chỉ có giả danh, từ duyên dời đổi, còn không thể tự giữ, bền chắc tánh của nói, huống chi có thể ngăn che được tên nhọn sáu trần ư? Nay quán thể Kim Cang vô tận trang nghiêm, thảy đều lìa các tạo tác, bách phi không thể xâm phạm, cho nên gọi là Kim Cang giáp trụ. Sau cùng là chữ Hâm tức là âm thanh Vô sở úy, cũng là nghĩa năgn lực tự tại, nghĩa là hoan hỷ, do định tuệ đầy đủ khi chứng tự môn Ha này, tự biết sẽ phá hoại được các chướng giúp đỡ chúng sinh, do đó rất hoan hỷ.

Tiếp theo nói Chân ngôn Như lai Nhãn: Như chim Kim sí đầu đàn oai lực đầy đủ, lông cánh rắn chắc, lại được mắt rất, sáng, ở giữa không trung, nhìn biển lớn như thấy hình tượng trong gương thì tùy ý tự tại bắt được các rồng, phải biết người tu Chân ngôn cũng giống như vậy, do Tịnh Nhãn Như lai này tự gia trì, cho nên hải hội Mạn-đồ-la sẽ hiện ra trước, thấy đủ tất cả căn duyên và pháp ngăn đạo, nhờ Kim Cang sự nghiệp này tùy ý đều thành tựu, vì thế nói kế đó.

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm đát tha yết đa chướt ngật sô, vĩ dã phạ lộ ca dã tóa ha.

Trong nghĩa câu trên, Đát-tha-yết-đa-chướt-ngật-sô là Như lai Nhãn.

Kế nói Vĩ-dã-phạ-lộ-ca-dã nghĩa là quán, tức là nói dùng Như lai Nhãn quát sát.

Trước là chữ Đa làm thể, Đa nghĩa là các pháp Như như, do tất cả pháp vốn bất sinh thì như như này cũng không thật có, thế nên Như lai quán tất cả pháp rốt ráo không như, không khác, tuy không thể thấy nhưng cũng thấy rõ, như các Đức Phật quán mắt các chúng sinh cũng giống như vậy. Nếu hành giả khi nói lời chân thật này thì nhờ Phật nhãn gia trì không nghĩ bàn, dần dần được mắt thanh tịnh.

Tiếp tục có ở thứ Chân ngôn như Đồ hương… đều là chỗ cần thiết khi nhập Mạn-đồ-la tu cúng dường, sẽ nói ở trong phẩm này.

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm vi du đà kiện đỗ nạp bà phạ tóa ha.

Trong nghĩa câu trên, Vi-du-đà nghĩa là tịnh, Kiên Đỗ là hương, Nạp-bà-phạ nghĩa là phát sinh, nghĩa là tịnh hương phát sinh (Hương thơm phát sinh). Lấy chữ Vi ở đầu câu làm thể, ở trên chữ Phạ vẽ thêm chữ y, cho nên chuyển thành là Vi. Chữ Phạ nghĩa là Kim Cang, nghĩa lìa nói năng. Tam-muội nghĩa là trụ, như thế tịnh tuệ bằng nhau, tức là trụ ở trì giới Vô hý luận Chấp kim cang ba đời không chướng ngại, giới hương như thế, tánh kia không đến không đi mà thường khắp cả pháp giới, do đó gọi là Tịnh Đồ Hương, tất cả chúng sinh tuy đều cùng có, nhưng vì chưa phát tâm, cho nên hương này chưa phát, nay ta đã dùng giới hương này trùm khắp pháp thân, cho nên hương “tịnh” có thể huân khắp tất cả.

Kế là Hoa Chân Ngôn:

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm ma ha muội đán lý dã tỳ sưu nghiệt đế tóa ha.

Trong nghĩa câu trên, Ma-ha Muội-đát-lý-dã, nghĩa là Đại Từ; Tỳ-sưu-nghiệt-đế nghĩa là sinh, nghĩa là đại từ sinh, lấy chữ Muội làm thể Chân ngôn, tức là chữ Mãng vẽ thêm Tam-muội, cho nên chuyển thanh để gọi. Mãng nghĩa là tâm, nghĩa ngã, trói buộc không được lớn lên, nay tự chứng biết tướng thật của tâm, từ trong Từ Bi Tạng, tám cánh, các tua thứ lớp mở bày, vì thế nói từ Đại Bi sinh.

Lại nữa, hạt giống cây chúa tâm Bồ-đề thanh tịnh, từ trong đất Từ bi, sinh trưởng tốt tươi nở hoa muôn đức, nhờ phương tiện nên trở thành thật, do đó nói từ Đại bi sinh. Sẽ dùng Tự môn để giải thích rộng.

Kế đến là Chân ngôn thiêu hương:

Nam ma tam mạn đa bột đà đỗ nỗ nghiệt đế tóa ha.

Trong nghĩa câu trên, Đạt-ma-đà-đô nghĩa là pháp giới. Nỗ-nghiệtđế nghĩa là theo đến, cũng là nghĩa khắp đến, cũng là nghĩa ra đi nghĩa tiến lên không dừng lại, dịch là đến khắp pháp giới, lấy chữ Đạt ở câu đầu làm thể, do chúng sinh giới vốn bất sinh, cho nên tướng chắc chắn của pháp giới cũng không thật có, pháp giới như thế sâu rộng không bờ mé, không thể đo lường, thân, miệng, ý nghiệp đều trùm khắp pháp giới như thế, dù chỉ cúng dường Phật một cành hoa, cũng khắp pháp dưới như thế, chính là nghĩa thiêu hương.

Tiếp theo là Chân ngôn ẩm thực:

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm a ra la ca tội mật lân nại ra nhị mạt lân nại nê ma ha mạt lý tóa ha.

Đầu tiên nói A-ra-ra nghĩa là tiếng không thích nghe, nghĩa là tiếng không tốt, như người nói lớn tiếng ồn ào, khiến người nghe tâm không thanh tịnh.

Tiếp theo nói Ca-la-la là dừng lại tiếng lớn không tốt ở trước, đó nghĩa là tự nhiên vắng lặng sự nhọc nhằn, trong đây chính là nghĩa lấy vui pháp thiền làm thức ăn, vì thế cho nên gởi gắm vào lời này. Nếu căn cứ vào tướng tự luân, A nghĩa là bản sơ, do có bản sơ này thì có hai thứ bụi nhơ, nghĩa là phiền não, vì tri chướng, do hai thứ bụi nhơ này, nên có tiếng nói rộng ồn ào. Nay do các pháp vốn bất sinh, nên hai thứ bụi nhơ cũng vốn bất sinh, chính là mở cửa cam lộ thành cơm Niết-bàn, do đó gọi là A-la-la.

Lại nữa, nếu người siêng tu muôn hạnh, mong được pháp vị như vậy. Vì tạo tác cho nên “nhị chướng” lại sinh, không phải sắc lực sống lâu, vị cam lồ chân thật, nay lấy các pháp không tạo tác, vị nội chứng không từ người được như ăn cháo, thì không cần gì nữa, do đó nói dừng lại lời không tốt ở trước.

Mạt-lân-nại-na-nhị, thức ăn của người phương Tây, trên dâng cúng các Đức Phật, dưới đến thần quỷ gọi chúng là mạt-lễ. Lại nói Mạt-lân-nại-nê, ý này nói đã thọ thức ăn ta dâng cúng rồi, lại cho ta thức ăn ngon ngọt, như người ở thế gian đem món ăn ngon lành dâng cúng cầu ruộng phước, vì cầu đời này, đời sau thức ăn uống không thiếu thốn, vì thế nay đem thức ăn pháp vô tận, giúp thêm cho thế gian dâng cúng các tôn vị, sẽ lại cho ta ước nguyện, khiến thường đầy đủ vị bất tử bất sinh.

Tiếp theo nói: Ma-ha-mạt-lý, tức là ở trong các thức ăn thêm nhiều ngon ngọt, do đó mà giản lược câu trên, nói nay ta đã dâng cúng và đã ban cho chỗ cầu phúc đều là vị không gì sánh bằng, vị không gì hơn nữa, không phải cầu xin thức ăn có hạn lượng.

Tiếp theo là Đăng Minh Chân ngôn:

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm đát tha yết đa lỵ chỉ tát phả la minh a phạ bà sa na già già nhu đà lý đa tóa ha.

Trong nghĩa câu trên, Đát-tha-yết-đa là Như lai.

Lạt-chỉ: Là ánh sáng.

Sau nói Tát-phả-la-minh là rộng khắp.

A-phạ-bà-sa là các sự tối tăm.

Già-già-nhu-đà-lý-da là không có hạn lượng, sánh bằng hư không. Ý nói: Ánh sáng Như lai chiếu khắp các chỗ tối tăm, giống như hư không không có hạn lượng.

Chân ngôn này lấy chữ Đa ở câu đầu làm thể, như ở tướng thật của tâm, chính là trí rộng lớn, sáng suốt của Tỳ-lô-giá-na, chiếu khắp thế gian, không chỗ nào không khắp.

Nói Chư ám: tức là Vô Minh, do Vô Minh vốn bất sinh cho nên thể tức là Minh, vì thế ánh sáng Như lai chiếu khắp các chỗ tối tăm.

Nói sánh bằng hư không. Do Vô minh vốn bất sinh cho nên thể tức là Minh, cho nên ánh sáng Như lai chiếu khắp các chỗ tối tăm. Nói đồng hư không: Do Vô Minh sánh bằng hư không chẳng hạn lượng: Ánh sáng trí tuệ Như lai cũng sánh đồng hư không chẳng hạn lượng, cho đến già, chết cũng như hư không chẳng hạn lượng, ánh sáng trí tuệ của Như lai cũng giống như hư không chẳng hạn lượng, như mười hai nhân duyên, tất cả các pháp cũng giống như vậy, quyết định nghĩa như vậy, cho nên gọi là chân ngôn Đẳng Minh, dùng đẳng minh này gia trì mà cúng dường Phật, chính là pháp cúng dường cao nhất trong các thứ cúng dường.

Kế là Chân ngôn át-già.

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm già già na sa na a sa ma sa ha.

Trong nghĩa câu trên, Già-già-na: Nghĩa là hư không.

Sa-ma nghĩa là Đẳng.

A-sa-ma nghĩa là Vô đẳng, nghĩa là Đẳng hư không vô đẳng.

Pháp thân Như lai, bản tính thanh tịnh cho nên không phân biệt, không có bờ mé, sánh đồng hư không, nhưng lại có vô lượng, vô biên công đức không thể suy nghĩ bàn luận, hư không kia, chẳng thể ví dụ, cho nên nói Vô Đẳng.

Lại nữa, A-sa-na nghĩa là Bất Đẳng, Bất Đẳng: tức là Nhị thừa. Nay đã sánh đồng hư không, lại sánh với Vô Đẳng này, do đó nói Đẳng hư không Vô Đẳng.

Lại chữ Già đầu tiên làm thể chân ngôn, trong chúng sinh giới, đến đi cũng không thật có, trong pháp giới, tướng đến đi cũng không thật có, vì Như lai, Như Khứ không thật có cho nên gọi là Đại Không, đem nước đại không tánh tịnh này, để tắm gội thân Vô Cấu, đó nghĩa là Chân ngôn át-già.

Tiếp theo ở dưới có bốn Chân ngôn, cũng là tướng của A-xà-lê trang nghiêm Mạn-đồ-la, vì thế trong phẩm này có nói.

Trước tiên là chân ngôn Như lai đảnh tướng.

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm già già na a nan đa tất phát la minh thâu (du) đà đạt ma nễ xà đa sa ha.

Nghĩa trong câu Già-già-na a-nan-đa là hư không vô lượng.

Tát-phát-la-minh là rộng khắp.

Tỳ-thân-đà-la thanh tịnh.

Đạt-ma-nễ-xa-đa nghĩa là pháp giới sinh. Ở đây nói đảnh tướng Như lai, giống như hư không vượt ngoài số lượng, thanh tịnh rộng khắp, phải biết đảnh tướng như thế, từ trong pháp giới thai tạng sinh ra, không phải từ trong thai tạng của cha mẹ ở thế gian sinh ra, Chân ngôn này cũng lấy chữ Già làm thể.

Nói kế tướng Như lai, không có tướng đến đi, đồng với hư không, như tất cả chúng sinh đem tướng đến đi để quán sát, vì thế cho nên khắp trong mười phương không thể thấy được bờ mé.

Nếu hành giả dùng tâm quyết định thì tự biết đảnh tướng của ta cũng giống như vậy, đó gọi là chân ngôn Phật đảnh. A-xà-lê khi tự làm Tỳ-lô-giá-na, mở búi tóc mà buộc lại, nếu người xuất gia nên nắm tay phải lại thành quyền rồi đặt trên đảnh, sau đó nói chân ngôn này để gia trì thì tất cả các thiên thần… không thấy được đảnh tướng người ấy.

Tiếp theo là chân ngôn Như lai giáp:

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm phạt chiết ra nhập phạ la vi tát phổ ra hồng.

Trong nghĩa câu trên, Phạt-chiết-ra nhập-phạ-la: là ánh sáng Kim Cang.

Vi-tát-phổ-la: Nghĩa là rộng khắp.

Ở đây nói ánh sáng trí tuệ Kim Cang rộng khắp tất cả, có công năng xua tan ám chướng sinh tử, cũng có thể chiếu sáng vượt hơn, đó nghĩa là Như-la-già.

Chân ngôn này lấy chữ Hồng sau cùng làm thể, đầy đủ ba giải thoát môn nghĩa là trên chữ Nẵng có chấm không nghĩa là Đại không, tức là Không giải thoát môn, bản thể chữ Ha là lìa nhân duyên, tức là Vô tướng giải thoát môn, dưới có vẽ Tam-muội chữ ổ, do vốn bất sinh, nên chính là Vô Tác giải thoát Môn. Ba môn như thế, tất cả các chướng đều không thể xâm nhập, đem ánh sáng trí tuệ này trang nghiêm khắp thân, gọi là Như lai giáp. Xét Mật ấn, trong đó Kim Cang Tát-đỏa Viên quang chân ngôn, còn phải xét lại các bản Phạm khác.

Kế đến là Như lai viên quang chân ngôn:

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm nhập phạ la ma lý nễ đát tha nghiệt đa lật chỉ sa ha.

Trong nghĩa câu trên, Nhập-phạ-la nghĩa là ánh sáng. Ma-lý-nễ nghĩa là chuỗi, do ánh sáng thành vòng xoay tròn không dứt, vì thế gọi là Như lai Viên quang.

Câu tiếp theo nói: Đát-thu-nghiệt-đa-lật-chỉ: nghĩa là ánh sáng Như lai, đây là ánh sáng rõ ràng. Tiếng Phạm và ánh sáng của vòng lửa kia có tên gọi khác nhau, chính là dùng chữ lật-chỉ này làm thể chân ngôn, trên có thanh la, nghĩa là bụi nhơ, dưới thể chữ già nghĩa là dời đổi, do nhập tự môn A tức là vốn không bụi nhơ, cũng không dời đổi, tức là ánh sáng Như lai thường tịch, lại mang âm thanh Tam-muội chỗ y, nói ánh sáng thường tịch đây là định tuệ đầy đủ, vì thế cho nên tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch, A-xà-lê dùng đây gia trì thân, cho nên tất cả các thiên thần… vầng ánh sáng Như lai trùm khắp thể của họ, oai mãnh khó thấy, giống như vầng mặt trời, do đó các chướng ngại không được dịp làm hại.

Tiếp theo chân ngôn Như lai thiệt tướng.

Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm ma ha a ma ha đát tha nghiệt đa nhĩ ha pha tát để dã, đạt ma bát la để sất sĩ đa trà ha.

Trong nghĩa câu trên, Ma-ha A Ma-ha nghĩa Đại Vô Đại. Đáttha-nghiệt-đa Nhĩ-ha-phạ nghĩa là lưỡi Như lai, tướng lưỡi này dài rộng trùm khắp tất cả cõi Phật, do đó gọi là Đại. Đại này không còn gì hơn nữa, không có đối đãi, tướng “đại” cũng không thật có, gọi là vô đại.

Kế là nói Tát-đế-dã là đế, Đạt-ma là pháp.

Bát-la-để-sắt-sĩ-đa là thành tựu, dịch là thành tựu pháp chắc thật. Như lai từ vô lượng kiếp đến nay thường tu đế ngữ chân thật, đắc “ngữ luân” bình đẳng này, thành tựu phát sinh đế chân thật, đã phát lời thành thật chắc chắn không quái lạ, do đó lấy chữ Đa ở sau cùng làm thể chân ngôn.

Nói Như lai đã nói lời nào, thường như tướng thật không lừa dối, không quái lạ. A-xà-lê dùng dây gia trì thân, chuyển giáo nói pháp đều như Kim Cang, cho đến dùng một âm thanh khắp các cõi Phật. Tất cả các Chân ngôn này, đều phải dùng tự môn để giải thích rộng.