ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI

Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn.
Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghĩa Sớ.

 

Phẩm 19: THÁNH HẠNH

Phần 1

  • Nêu phương tiện cầu giới.
  • Giải thích năm chi giới của Bồ-tát.
  • Giải thích: Giới của thế giáo, giới của chánh pháp.
  • Giải thích Giới tánh trọng, giới dứt chê bai, ngờ vực.
  • Giải thích: Chín giới như giới không chiết phục v.v…
  • Kết quả trì giới.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Nay con thỉnh Như lai, nói cac hạnh mầu nhiệm sâu xa cho các Bồ-tát nghe?” phẩm trước đã nói hạnh bệnh. Xin nói các hạnh khác, nên gọi là v.v… .”

Năm hạnh: Trên dù đã nói hạnh bệnh, đối trị phiền não, nhưng chưa đề cập hành tướng và thứ lớp của hạnh, nay sẽ nói. Vì sao? Vì tự mình phải không có sự ràng buộc, mới cởi mở cho người bị trói buộc, nên hạnh Thánh ở đầu. Nếu mở trói cho người, thì công sẽ do bốn đẳng. Nên kế là nói về phạm hạnh. Bốn đẳng với sự cứu giúp rộng khắp, việc phải có thần thông. Về đạo thần thông, thì bốn thiền là vượt hơn, nên kế là nói về hạnh trời, vì thần đạo tiếp vật, hoặc người ngu, hoặc người trí, nên kế là nói về hạnh trẻ thơ.

Bốn hạnh như vậy, nếu ở giai vị học thì đối trị phiền não, gọi là hạnh bệnh. Nếu ở địa vị Vô học thì gọi là hạnh Như lai, vì Như lai là người “Năng thuyết, năng hành” (lời nói đi đôi với việc làm).”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Cho nên kế là nói về năm hạnh, vì phàm phu, Nhị thừa trước đã phát tâm đạo vô thượng. Tâm này chẳng phải không đi xa năm hạnh, tức các hạnh mầu nhiệm… trong câu hỏi trước. Phẩm Sư Tử hống nói rộng về Phật tánh, chính là tánh yên vui trong câu hỏi trước. Tánh yên vui là chánh nhân, hạnh mầu nhiệm là duyên nhân. Nếu chẳng phải hai nhân này và phát tâm ở trước, thì do đâu mà được gần với đạo Vô thượng? Cho nên ở đây là đáp câu hỏi: “Làm thế nào để được gần đạo Vô thượng tối thắng?”

Hạnh dù vô lượng, nhưng năm thật là chung. Hạnh Thánh do tuệ soi sáng để nói về bên trong. Phạm hạnh đến khắp các vật, để nói về bên ngoài. Dùng hai hạnh này để thông suốt Thập địa.

Hạnh trẻ thơ, hạnh bệnh: Là đối tượng của phương tiện quyền trí thị hiện là đồng. Hạnh này chỉ cho Bát trụ trở lên. Lại hạnh bệnh, nghĩa là hạnh khổ, chỉ Bồ-tát mới có khả năng thực hành. Người Nhị thừa bị bệnh nên không thể thực hành, là hạnh bệnh. Về hạnh trời, vì kinh không nói, nên ở đây không nói.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đây, nói là luận về nhân, luận về quả, kết tên kinh và nói về lưu thông, đều là trước lược, sau rộng. Thể kinh đã sang suốt, lý văn tròn đủ, công dụng dứt hoặc, diệt tội vượt hơn kinh khác. Vì thế, nên “Từ chưa phát tâm” trở xuống, gồm mười chín câu hỏi, là khen ngợi rộng năng lực của kinh, cũng đầy đủ ở văn trước.

Dưới đây là nói y theo kinh để tạo ra hạnh, quả cùng cực của kỳ hạn cuối cùng, tức là đáp câu hỏi thứ ba mươi ba ở trước.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây, cuối cùng là mười công đức, đáp chung câu hỏi thứ ba mươi ba. Năm hạnh, là nói về mười công đức của thể hạnh. Vả lại, hạnh rộng là vì lý có. Hai thứ này nói về phương pháp lập hạnh. Nói về muôn hạnh dù nhiều nhưng gồm thâu trong hai môn: Tự thực hành và giáo hóa người cùng thực hành, sao cho chai ra làm năm. Căn cứ trong Thánh hạnh phát ra hạnh trời, phát ra hạnh trẻ thơ trong phạm hạnh, chỉ hạnh bệnh là không tự thể, không có sở thuộc.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Vẫn là đáp rộng Bồ-tát Ca-diếp và các vị trời… trong phẩm Hiện Bệnh, đó là nghĩa nhân quả.

Trên đã nói rộng về quả. Quả do nhân mà được, nhân phải làm rõ quả.

Từ đây trở xuống, cuối cùng là mười công đức, là nói lại ý nghĩa của nhân, tức là ý thứ hai trong nghĩa của nhân rộng. Từ nghiệp dẫn đến quả, cũng người quả mà tiếp độ giáo hóa, đều là nghĩa của hạnh. Nói năm hạnh, vì là số của một phương.”

“Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Cái gọi là kinh Đại Niết-bàn của Đại thừa.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Để nói về hạnh Thánh đầu cuối có ba giai đoạn:

  1. Từ “Xuất gia” trở xuống, là nói về tu giới.
  2. Từ “Quán bất tịnh” trở xuống, là nói về tu định.
  3. Từ “Bốn đế” trở xuống, là nói về tu tuệ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Y theo sự giải thích ý nghĩa của năm hạnh, ba hạnh trước đều có tự thể. Hai hạnh sau, y cứ vào công dụng để lập nghĩa. Nếu nói chung về năm hạnh thì tên ba hạnh đều có thể gọi là Thánh. Nếu nói riêng, thì công dụng sẽ được lấy riêng để đặt tên gọi. Nghĩa khác thì chìm mất, nên không nói. Thánh, nghĩa là chánh. Giới, định, tuệ làm thể, nghĩa là con đường ngay thẳng không có quanh co khúc khuỷu. Nói về tự thực hành và giáo hóa người, là công hạnh chung. Nay, y cứ vào giới, định, trí, tuệ, phát ra đức hóa độ người trong thể tự hành nêu ra đức hóa tha, nghĩa là người phạm hạnh của hạnh trời. Trời ý nói là tịnh, phạm cũng là tịnh, khác nhau thế nào? Hai danh từ này, là y cứ vào quả mà đặt tên. Văn dưới đây nói trời, nghĩa là trời Đệ nhất nghĩa.

Lại, kinh, luận đều nói rằng, trời đều có chỉ thú. Phạm, vì đối lập với tính chất thô nặng của cõi Dục mà được gọi tên. Trời là vì đối với nhân được tên. Kinh nói: “Phạm, gọi là Niết-bàn, là đạo muốn đến. dù từ quả được tên gọi, mà hạnh trời lấy bốn thiền làm thể, mở rộng định ở trước. Phạm hạnh dùng bốn đẳng làm thể, mở rộng tuệ trước. Công dụng của giới cạn cợt yếu kém nêu lược mà không rộng.

Do ba hạnh trên đây có công năng chữa trị bệnh, nên hạnh của bệnh chữ cho ta biết đồng với trẻ thơ, tức gọi hạnh trẻ thơ.”

“Này Ca-diếp! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Được nghe kinh Đai Niết-bàn như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại để phân tích hạnh Thánh thành sáu đoạn:

  1. Nói về Giới.
  2. Nói về định.
  3. Nói về tuệ. Ba đoạn này nói về Thể đã xong.
  4. Khen ngợi kinh.
  5. Nói về truyền bá sâu rộng.
  6. Đức Phật dẫn chứng cách tu khổ hạnh xưa.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phán quyết về hạnh Thánh có bốn đoạn:

  1. Nói về giới.
  2. Nói về định.
  3. Nói về tuệ.
  4. Khen ngợi kinh, nói về phương pháp truyền bá kinh.

Pháp sư Trí Tú nói: “Trong đại bộ phận Thánh hạnh, được chia làm hai đoạn:

  1. Đến “Vô cấu tạng vương, chính là nói về hạnh Thánh.
  2. Phẩm cuối, vì hạnh do kinh lập ra nên khen ngợi kinh.

Trước đã nêu tên năm hạnh. Sau đây sẽ giải thích về hạnh Thánh. Vì hạnh do kinh mà có, nên chỉ rõ về nghe kinh làm căn bản.”

“Nghe xong, sinh lòng tin, tin rồi thì nên suy nghĩ như vầy” cho đến “Lại có kinh điển Đại thừa phương đẳng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới, định, trí tuệ lấy tín làm đầu, nên trước phải làm sáng tỏ về tín. Tư duy nghĩa là phẩm Kim Cương, Sống lâu đã dùng nghiệp lành làm nhân, nghiệp lành đã nói, là tự trở về với Tam bảo vị lai trong thân mình.

Chư Phật, Thế tôn được gọi là bình đẳng, làm chỗ quy y cho chúng sinh gọi là “Tự quy”.

Đạo vô thượng: Kinh nói: “Biết pháp gọi là Phật, biết lìa gọi là Pháp, biết vô vi gọi là Tăng. Tăng pháp tự giác ngộ, nghĩa là Phật vô thượng, đại chánh pháp lìa phi pháp. Mọi việc lành đều nhóm họp. Thể là vô vi, vì Chư Phật đồng được, nên gọi là đại chúng chánh hạnh tăng.

Lại có phương đẳng, là trong Đại thừa nói rộng về nghĩa này.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói trong giới có tám phần:

  1. Nói về thọ giới xuất gia, tức là giới thể.
  2. Nói chẳng phải chỉ có giới xuất gia mà còn có các giới của năm chi, đủ mười điều lành,… .
  3. Nói từ đây tự dần dần tốt đẹp cho đến sẽ dừng lại ở đạo vô lậu cộng giới trên.
  4. Nói chẳng những chỉ được đạo định cộng giới mà còn giữ gìn giới tinh nghiêm không trái phạm đối với luật nghi nhỏ nhiệm. Mặc dù đã chuẩn bị chu đáo về các giới của bốn bậc trước, nhưng nếu chỉ có hạnh mà không có nguyện, thì phần nhiều dễ sinh tâm trạng chán nản, tụt lậu!
  5. Nói rộng về các nguyện, sau đây sẽ có chín lớp nguyện. Dù có hạnh nguyện, nhưng nếu không nhờ phương tiện khéo léo thì sẽ không khỏi ở lại mãi trong sinh tử!
  6. Nói về hồi hướng: Xoay việc lành của chúng ta về cho chúng sinh, để cùng thọ hướng chung về quả Phật. Đã cụ thể hóa các đức nói trên, kết hợp với công hạnh ngày càng sâu, thì sẽ được tiến lên Sơ địa.
  7. Có ba phen giải thích về từ ngữ “Bất động”.
  8. Kết thúc giải thích về lý do được gọi là Thánh hạnh.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong phần giải thích giới có sáu đoạn:

  1. Nói về phương tiện cầu giới.
  2. Chính là nói về giới thể.
  3. Nói về sự sâu cạn của giới.
  4. Phát nguyện để giữ giới.
  5. Nói về hồi hướng.
  6. Kết quả.

“Nay, ta nên vì ưa thích mong cầu” cho đến “Mà lìa bỏ vợ con, quyến thuộc, trâu, dê, gà, chó, heo…”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tìm phương tiện muốn xuất gia, dưới đây có ba tư duy, thứ nhất này y cứ vào tư duy trong văn tuệ.”

“Lại nghĩ rằng: “ở nhà thường bị thúc giục” cho đến “Cạo bỏ râu tóc, xuất gia, học đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai, là y cứ vào tư duy trong tư tuệ: nghĩ nên xuất gia.”

“Lại nghĩ rằng: “Nay ta chắc chắn sẽ” cho đến “Tâm giữ gìn giới cấm giống như kim cương.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ ba, là tư duy trong tu tuệ, quyết định xuất gia.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, chính là nói về thể của trì giới.”

“Này người thiện nam! Ví như người có mang phao nổi” cho đến “Kính trọng, giữ gìn vững chắc như nhau không khác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biển dụ cho sinh tử, phao nổi dụ cho giới. La-sát dụ cho phiền não. Văn kinh tự phối hợp.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần thứ nhất.”

“Nếu Bồ-tát giữ gìn giới luật vững chắc như vậy” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới có năm phần: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, năm giới, mười giới, hai trăm năm mươi giới, là hạnh chung của ba thừa căn bản. Bốn giới còn lại là giới Bồ-tát. Giác nghĩa là giác biết ba việc lành. Niệm là niệm vô tướng. Giới chánh pháp là vô lậu, do kiến giải bên trong không thể do thầy truyền trao.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là phần thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Năm chi giới là giới thể. Giới căn bản nghiệp: Bốn giới trọng của Tiểu thừa. Bồ-tát dù lấy tâm làm trước, nhưng cũng không bỏ sót thân, miệng. Quyến thuộc trước, sau, nghĩa là từ thiên thứ hai trở xuống, ngoài bốn giới trọng. Giác thanh tịnh, là ba độc… đều trái phạm giới Bồ-tát. Ở đây nói không khởi chánh niệm, là bốn mươi giới khinh cũng không phạm. Hồi hướng: Tức bốn giới trên.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Đại Bồ-tát lại có hai thứ” cho đến

“Bạch bốn lần Yết-ma, sau đó mới được.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ ba, nói hai giới trước cũng là hữu lậu. Ở đây phát đạo cộng giới bên tâm vô lậu.”

“Này người thiện nam! Có hai thứ giới” cho đến “Với giới tánh trọng… đều đồng nhau không khác”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giới tánh trọng là trái phạm bốn giới trọng, ví như viên đá bị chẻ, không thể ghép lại được. Lui mất Thánh chiếu, cũng gây ra sự chê bai của thế gian, chỉ có bên trong chướng nặng, nên được gọi là trọng. Giới chê bai, gièm pha cũng giống như vậy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ tư, nói cho đến không phạm giới nhỏ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn ba, nói về hoặc cạn sâu, nếu có tạo tội, là vận dụng ba độc mà khởi, đâu có tội nào chẳng phải tánh? Nếu nói người thế tục trái với pháp luật mà không có tội, thì hóa ra bậc Thánh làm người xuất gia gây ra nhân duyên tội, về lý chẳng lẽ như vậy sao? Ở đây đều là tánh.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đây gọi là đại Bồtát hộ trì giới cấm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạnh nguyện giúp nhau, thành tựu trì giới.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ năm là hạnh, cần phải có nguyện.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ tư, phát nguyện để giữ giới.”

“Đại Bồ-tát giữ giới cấm như vậy” cho đến “Đầy đủ thành tựu giới Ba-la-mật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ sáu là nói “Nếu dùng phương tiện thì sẽ không dính mắc sinh tử.” Giới thiện là khác với Ngoại đạo. Không thiếu, là không phạm giới nhỏ. Không chiết, là không phá bốn giới trọng. Người Đại thừa, là người lìa tâm tiểu. Không lui sụt, nếu được tám trụ thì đủ “Ba không lui sụt”. Giới thuận theo, là giới Bồ-đề. Rốt ráo, nghĩa là thành Phật mới được. Lại, nói rốt ráo không khởi lên tướng của tâm. Ba-la-mật, là đến bên kia bờ vô tướng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ năm là nêu các giới.

Nguyện cho chúng sinh đồng với ta, cùng tiến bước chung, không bao giờ đi riêng.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Đó gọi là Đại Bồ-tát tu tập hạnh Thánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sơ địa là nói quả của hạnh Thánh, nói về phần giới đã được, chẳng phải trực tiếp một giới mà được ngay địa này. Dưới đây nói: “Bốn ma không thể làm nghiêng động”, là nói về công năng đầu cuối của giới.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Khoa thứ bảy là kết quả. Nay, Sơ địa, thật ra là Hoan Hỷ mà gọi là Bất động nói cho đúng là không bị nỗi sợ hãi làm dao động. Không đọa, là đã lên sơ trụ rồi, không có lý trở lại phàm. Không lui sụt, là không khởi tâm Nhị thừa. Thứ hai là giải thích bất động: “Không bị giận dữ dao động bởi tham lam, thứ ba là giải thích bất động: “Không bị bốn ma khuấy động”. Suy ra về mặt lý thì không đúng, chỉ vì lúc Bồ-tát xả thọ mạng, hoàn toàn không vì khổ chết mà thay đổi ý niệm!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ sáu là kết quả. Giới, định, tuệ đều được kết quả ở Sơ địa. Nếu không tu thì thôi, nếu đã tu, thì đâu chấp nhận chỉ có giới mà không có định ư? Sở dĩ kết có trước sau là vì theo đuổi công năng của nghĩa mà thôi! Bấy giờ, tâm giới đã vững chắc, cho nên kết rằng, tâm không dao động! Định do tĩnh nhiếp thu an nhẫn, tức kết kham nhẫn. Tuệ do chiếu rõ, lìa sợ sệt, tức kết vô úy. Lại, giới là nhân của định, do định phát tuệ, vì theo thứ lớp.

“Này người thiện nam! Sao gọi là hạnh Thánh?” cho đến “Vì nghĩa này, nên phải gọi là hạnh Thánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Phần thứ tám, kết tên hạnh Thánh. Có pháp tánh nêu lên thể của pháp vô lậu. Thường thì quán “Không”, nghĩa là nêu cảnh của pháp giới, để thành nghĩa Thánh.”

 

Phần 2

  • Giải thích quán ba mươi sáu vật.
  • Giải thích bốn ý chỉ quán.
  • Kết thúc quả của định.
  • Xuất xứ từ Tiên Dự giết hại.
  • Việc Bà-la-môn.
  • Giải thích nghĩa bốn đế.
  • Giải thích nghĩa ba khổ.
  • Giải thích nghĩa hữu lậu, vô lậu của bốn đế.
  • Giải thích nghĩa tám khổ.

“Lại nữa, này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Trừ bỏ da thịt, chỉ quán xương trăng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai, là nói về môn định. Có tám đoạn:

  1. Quán chung về thân, có ba mươi sáu vật.
  2. Quán dời đổi. Quán bốn sắc, tìm “Ngã” không thật có.
  3. Quan tướng trụ về chi tiết tay, chân, càng quán càng sáng.
  4. Thấy tất cả đều là màu xanh, vì quán này mới thành.
  5. Chư Phật hiện mà lại ẩn, làm cho hành giả kia suy nghĩ mà dễ quán.
  6. Quán tâm, tức là trước quán thân, sau quán tâm, đủ cả ba. Ý chỉ có hai đã đủ thì bốn cũng đủ.
  7. Kết thúc về địa kham nhẫn.
  8. Nói đã được định tốt đẹp, thì có khả năng vì chúng sinh mà phá giới. Ở đây trước nói về thân ý chỉ. Vì mọi người thường chấp trong thân có tịnh, đây là quán thứ nhất.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Môn thứ hai có năm đoạn: Quán bốn

niệm, tức bốn, đoạn thứ năm là kêt quả. Dưới đây là quán thân vô ngã.”

“Lại nghĩ rằng: “Màu xương khác nhau” cho đến “Liền được dứt

trừ tất cả sắc dục.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “dứt bỏ các dục tươi nhuần. Nhân sắc khởi dục chưa hết ba thứ như hình mạo v.v… ở dưới… đều do sắc khởi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là quán dời đổi bốn sắc, tìm kiếm “ngã” không được.”

“Lại nghĩ: “Xương như vậy” cho đến “Hai là dục nhiễm về tư thái, ba là dục nhiễm về xúc chạm mịn màng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Là quán Thứ ba.”

“Đại Bồ-tát lúc quán xương màu xanh” cho đến “Quán ánh sáng của xương màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen… .”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì quán càng rõ, cho nên thứ tư quán xương màu xanh thì tất cả đều xanh.”

“Lúc Bồ-tát quán sát như trên thì, giữa hai đầu chân mày liền phát ra ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, xám” cho đến “Chư Phật trong ánh sáng bỗng nhiên biến mất.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hoài nghi là đã lâu thấy hình tướng này bèn hỏi. Bỗng nhiên biến mất, nghĩa là đạo quán chưa rõ, không đáp mà biến mất.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ năm là Chư Phật hiện mà lại ẩn, làm cho Bồ-tát tư duy mà dễ quán.”

“Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ nhất, quán thân niệm xứ.”

“Lại nghĩ rằng: “Hoặc thức là “Ngã”” cho đến “Cũng giống như dòng nước tuôn chảy, cũng chẳng phải “ngã”.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thứ hai là quán tâm niệm xứ.”

“Lại nghĩ: “Hoặc thức chẳng phải “Ngã”” cho đến “Thì sẽ ở chỗ nào mà sinh tham dục?”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là quán pháp niệm xứ.”

“Nếu bị mắng nhiếc, hạ nhục, thì lại ở chỗ nào” cho đến “Thì sẽ đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhận lấy chỉ thú Phật không đáp, tức là quán thức tìm “Ngã”, lại không thật có quán hơi thở ra vào, hoặc “Ngã” ấy, hễ có hơi thở thì sống, không có hơi thở thì chết. Quán hơi thở, biết ngay là tánh gió, cũng lại chẳng phải hơi thở của “Ngã”, vì gió, phần nhiều gió là do bốn đại hợp thành mà là một tánh, chẳng phải do “Ngã” hòa hợp, cũng “Chẳng”. Nghĩ rằng: “Đều không có ngã”, nghĩa là được “Vô ngã không”, thấy Đệ nhất nghĩa, tức là thấy được thế đế.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hoặc hơi thở là “Ngã”, nghĩa là thứ sáu tức là chỉ, quán của tâm, ý. Chỉ thấy sinh diệt, niệm niệm thay đổi, đâu có nhất thần thường mà không diệt ư? Ở chỗ nào sẽ chịu mắng nhiếc, lăng nhục? Đây là nói về “Vô ngã”, chỉ vì nhận thấy ngã của các pháp, là tâm tự dứt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ tư là nói về quán thọ niệm xứ.”

“Bấy giờ, Bồ-tát quán như vậy rồi” cho đến “Thế, nên gọi là trụ ở địa Kham nhẫn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết quả của định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Địa Kham nhẫn là kết quả của địa thứ bảy, nghĩa là ba địa. Bồ-tát tam địa tu mười hai môn, được nhẫn độ thành tựu. Đã có khả năng an tâm nhẫn lý, nên có thể đối với sự, không khởi tâm sân.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ năm là kết quả.”

Đại “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Đại Bồ-tát có được phá tịnh giới hay chăng?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Theo ví dụ chiếc phao nổi nói trên, thì việc nhẹ, nặng đều không phạm, mà Bồ-tát hộ pháp, ứng hóa tùy duyên, hai lời nói ăn ý nhau, cần phải lãnh hội. Người chưa được địa Bất động thì nói rõ là chưa được, nếu vì nhiếp lấy chúng sinh thì được phá giới.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ tám là nói được định sâu rồi, có khả năng tùy duyên lợi ích chúng sinh thì được phá giới.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý hỏi quyết định ban đầu dựa vào địa vị con người, cho nên không đợi sau khi nói về tuệ, mà người hỏi trong đây là lấy phần vị của giới, định, vốn ở hạnh vô tướng trong năm phương tiện ở trên, là địa vị của bậc Thánh. Đầu tiên dựa vào người, dù rằng tín căn vẫn chưa lập hẳn, quan trọng là chưa được chân giải. Trong trường hợp vì đạo mà đem lại lợi ích thì được phá giới. Không hiểu lời Bồ-tát nói: “Thà đọa địa ngục, chứ không bao giờ làm cho chúng sinh bị lui sụt tâm Bồ-đề”. Do nhân duyên này thì được phá giới, không gọi là phạm.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Nếu vì duyên cớ ấy mà đọa vào địa ngục A-tỳ, thì không có việc đó.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cuối cùng thì lời nói thật, phải lấy việc để làm chứng.”

“Đức Phật khen Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Mới có vô lượng thế lực như thế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì pháp đoạn mạng, tức là hộ pháp, huống chi ngang nhiên ra vào không kỳ hạn, tâm đồng với hư không ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dẫn bổn hạnh để làm chứng. Dưới đây trong phạm hạnh, sẽ nói về ba vô lượng, sẽ lại nói rộng về việc đó.”

“Phật lại bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Có hạnh Thánh là bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói về tuệ là tuệ “Duyên” chân đế. Nói chân đế có ba thứ:

Đầu tiên nói về bốn đế, giữa là nói về hai đế, sau là nói lược về thật đế.

Dưới đây, đều có tám chữ, năm lượt nói bốn đế.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Vì tuệ sinh do cảnh, nên nhờ cảnh để tuệ. Có bốn bậc để nói về nghĩa:

  1. Nói về bốn đế.
  2. Nói về hai đế.
  3. Nói về thật đế.
  4. Khen ngợi kinh.

Căn cứ vào bốn đế có bốn lượt:

  1. Dùng năm lớp nói lược về bốn đế.
  2. Căn cứ vào môn tám khổ, nói rộng về khổ đế.
  3. Nhờ quán hạnh của Bồ-tát để xem xét lý do của khổ đế kia, là pháp đáng nhàm chán.
  4. Lược hội thông hai giáo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là môn thứ ba, nói về tuệ, có sáu đoạn:

  1. Y cứ vào bốn đế để nói về tuệ.
  2. Căn cứ vào chân tục.
  3. Căn cứ vào thật đế.
  4. Bỏ chấp.
  5. Kết quả của tuệ.
  6. Nói bước lên Sơ địa. Về sau tiến tu hai mươi lăm Tam-muội. Tiến đến bất động tự tại, tức trên đến tâm kim cương. Căn cứ vào bốn môn đế, chia làm ba chương:

Có năm lớp, đây là lớp thứ nhất, nói lược về bốn đế.

Nỗi khổ đến ép ngặt tâm, tâm sinh bực bội, là sự ép ngặt. Kiết nghiệp phiền não sinh ra khổ ở mai sau, là trạng thái sinh trưởng. Nhân sinh tử đã hết thì được sự vắng lặng. Biết quên tướng trong “Duyên” là đạo Đại thừa.”

“Này Ca-diếp! Khổ là tướng ép ngặt” cho đến “Diệt là tướng vắng lặng, đạo là tướng Đại thừa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ép ngặt chúng sinh”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ nhất do mười bốn thứ sắc là khổ cụ, tâm là tự thể của khổ. Nói “Không khởi thì thôi, khởi thì sẽ bị duyên ép ngặt, nên nói là trạng sự ép ngặt. Mười điều ác làm nhân, vô minh làm duyên, vì sinh trưởng ở vị lai, nên gọi là tập. Giáo pháp nghiêng lệch, lấy chỗ diệt của ba tâm làm “Diệt”. Viên giáo dùng thể thường trụ, dứt hẳn các tướng làm “Diệt”. Phá tan ba nhân kia, dùng nhân thường trụ của Đại thừa làm đạo.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Khổ có ba tướng” cho đến “Diệt là tướng bị trừ, Đạo là tướng năng trừ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì hiện bị phiền não ép ngặt, nên nói hiện tướng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ hai, nghĩa là pháp quả biểu hiện rõ ràng. Tập là năng lực, có sức lôi kéo con người đi cảm quả chịu khổ trong sáu đường là tướng chuyển. Thể của quả viên dứt trừ tất cả điều ác, nói là Trừ. Thể tánh vô lậu, chủ thể trừ năm phương tiện “Hoặc”. Dù là hàng phục diệt trừ, nhưng chưa phải là dứt hẳn, nên cũng theo nhau làm đạo, vì nghĩa cảm quả kia, vẫn thuộc về Tập đế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thư hai. Chấp thô rất dễ biết, vì là tướng hiện hữu. Nhân dứt thì quả khởi, chuyển nhân được quả, là tướng chuyển. Diệt, là căn cứ vào đối tượng dứt trừ để luận. Đạo là y cứ vào chủ thể dứt trừ để luận.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Khổ có ba tướng trạng” cho đến “Đạo là tu giới, định, tuệ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba tướng:

  1. Khổ thọ tánh khổ, làm khổ chúng sinh, gọi là khổ khô.
  2. Không khổ, không vui, lấy sự mong cầu cần thiết, là hành khổ.
  3. Khi lạc thọ diệt thì sinh ra khổ là hoại khổ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ ba, giải thích lại nghĩa khổ, đủ ở trong đó. Tập là hai mươi lăm cõi hữu lậu. Đây là nêu đối tượng tập hợp, để nói về chủ thể nhóm hợp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ ba, xưa hóa độ người ngu thấp hèn, Đức Phật chỉ bày môn giáo ba thọ. Kế là dùng ba khổ để điểm hoại ba thọ. Nỗi khổ chồng chất từng lớp là khổ khổ, vì quả sau là nhân hư hoại, nói rõ thể của lạc thọ, vì là khổ, nên gọi là hoại khổ, chung với hai tâm trước, hành duyên động tác nên gọi là hành khổ. Hai mươi lăm cõi hữu với nhân là Tập đế, quả là Diệt đế, tu giới định tuệ là Đạo đế.”

“Này người thiện nam! Pháp hữu lậu” cho đến “Nhân vô lậu thì gọi là đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, nói về nhân quả hữu lậu: Về nghĩa, tương ứng với Tỳ-đàm.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp chỉ cho hai mái nhà, dễ thấy.”

“Này người thiện nam! Có tám tướng gọi là khổ” cho đến “Ba niệm xứ, đại bi, đó gọi là Đạo”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ năm, nói về bốn đế. Từ mười lực cho đến Đại bi là Đạo. Tâm Kim cương là vô ngại, tâm Phật là giải thoát. Vì có nghĩa là song đạo, nên giả gọi là Đạo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ năm, nói rộng về ba khổ thành tám khổ, sinh khổ có hai, đó là khổ khổ và hoại khổ. Vì ái thấm nhuần cho sinh từ lạc thọ mà đến. Nói quả trong nhân, tức là hoại khổ. Lấy sinh của sinh ra, tức là có khổ khổ, tâm là thể của khổ. Đọa địa ngục là khổ. Oán ghét, cầu mong không được, cũng thuộc về khổ khổ. Ngoài năm khổ, còn lại thuộc về hoại khổ.”

“Này người thiện nam! Sinh là tướng sinh ra, có năm thứ” cho đến “Vì cho nên gọi là khổ năm ấm lừng lẫy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sở dĩ gồm bảy khổ, lại có thêm một tên khổ nữa: vì có người cho rằng, bảy khổ khác với ấm mà có. Nay, nói ấm là đúng.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ hai, y cứ vào môn tám khổ, nói rộng về khổ đế.”

 

Phần 3

  • Nêu thí dụ: Hai chị em: Công Đức Thiên và Hắc Ám nữ.
  • Giải thích về khổ chết.

“Này Ca-diếp! Cội gốc sinh gồm có” như thế cho đến “Quán sát sở sinh rồi, thấy là tai hại lỗi lầm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì phàm phu điên đảo nên thường ham sống mà ghét chết, để nói Bồ-tát thì không như vậy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ ba, dùng môn quán hạnh để nói về tướng của tám khổ. Trong đây có sáu thí dụ, đều nói phàm phu ham sống, Bồ-tát thì thấy lỗi, nên xả bỏ, không ưa thích.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là lỗi của quán thứ hai, có sáu thí dụ.”

“Này ca-diếp! Như có thiếu nữ vào nhà người” cho đến “Rải hoa, cúng dường cung kính lễ bái.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì Bồ-tát làm thí dụ, Bồ-tát yêu thương chúng sinh, vì tình đời bạc bẽo, nhận thấy lỗi lầm của sinh tử, nên đều nhàm chán. Sanh là gốc của lòng tham lam, vui sướng, dụ cho người nữ. Năm ấm là chỗ cư ngụ của sanh, dụ cho ngôi nhà. Do nhân được quả, dụ cho người khác. Lẽ sanh đáng ưa thích, dụ cho xinh đẹp. Trí để ngự trị thân, dụ cho chủ nhà. Danh để biểu lộ cái thật, dụ cho hỏi tên. Sinh là quả lành. Vì nhân quả của thiếu nữ kia thanh tịnh, nên dụ cho công đức. Quả chẳng phải bất tịnh, nên dụ cho trời. Tra hỏi tên để trách cứ cái thật, dụ cho hỏi việc làm, có sinh có thật dụ cho năng thí.”

“Lại ở ngoài cổng, thấy một thiếu nữ” cho đến “Nếu cô không đi tôi sẽ giết chết.” Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Xả sanh gọi là tử, dụ cho môn ngoài, trái với sanh dễ hiển bày, không cần tốn từ ngữ. Liền cầm dao bén: “Thuốc men cứu sống, ví như cầm dao bén, để ngăn ngừa cái chết.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Chết là cái mà con người căm ghét, là tình ở bên trong, dụ cho ở ngoài cổng.”

“Người thiếu nữ đáp: “Ông thật là ngu si” cho đến “Ta đều không cần, mỗi người hãy tùy ý đi đi!”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Sinh ở báo trước, dụ cho người chị, chết ở báo sau, dụ cho người em.”

“Lúc đó, hai thiếu nữ cùng dắt nhau trở về” cho đến “Vì thế, nên tôi mời cả hai cô hãy ở tại nhà tôi.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Dụ cho phàm phu không có pháp tài, nên dụ cho nghèo.”

“Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát cũng giống như vậy” cho đến “Vì thế, nên họ tham luyến hai pháp sinh tử.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Hợp cả hai thí dụ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là thứ nhất, dùng hai thiếu nữ dụ cho phàm phu đối lại với Bồ-tát.”

Lại nữa, “Này Ca-diếp! Như con của Bà-la-môn” cho đến “Như đứa trẻ kia lượm quả Am-la rồi lại bỏ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đứa trẻ thơ bé dụ cho hành nghiệp mới bắt đầu. Bồ-tát thấy khổ không sâu sắc, chưa làm cho đứa trẻ quên đi sự sống, như lượm quả rồi bỏ. Nếu trí, hạnh đều sâu sắc thì sẽ không lấy, không bỏ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát là dòng họ của hạnh cao quý, dụ cho con của Bà-la-môn. Nhiều kiếp đã bị khổ trong địa ngục, dứt hết thức ăn của trời, người. Phân, dụ cho ấm thân, quả dụ cho sự sinh. Hữu tình ham sống dụ cho muốn lượm lấy. Sự sống là lỗi lầm, lời Thánh nói, dụ cho người trì quở, biết được lỗi tham sống, dụ cho tự dưng cảm thấy hổ thẹn, vì sinh trong đời có năm thứ dục lạc, dụ cho rửa sạch, không bao giờ chấp mắc, dụ cho lại bỏ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là dụ thứ hai, dùng trẻ con dụ cho tiểu Bồ-tát đối đáp với Đại Bồ-tát.”

Lại nữa, “Này Ca-diếp! Ví như có người” cho đến “Vì phàm phu kia không thấy già, bệnh, chết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngã tư đường, dụ cho bốn vô lượng không có giới hạn của Phật. Chậu đựng, dụ cho kinh tạng, thức ăn, dụ cho thí, giới, định. Đức Phật vì người tại gia, đầu tiên, khen ngợi bố thí, trì giới, niềm vui sinh tử. Sau, nói vô thường, nhằm khen ngợi vui Niết-bàn. Pháp này từ đầu đến cuối đều do Phật nói. Phàm phu vì tham sinh, nên không thấy lỗi sau. Bậc Thánh vì nhận thấy lỗi nên không sinh tham. Đường ngã, tư dụ cho bốn biện tài. Chậu đựng, dụ cho danh, cú, vị, thân. Thức ăn, dụ cho thí, giới, định. Bán, dụ cho khuyên thực hành. Khách từ phương xa đến đói lả, dụ cho trải qua ba đường đã lâu. “Đây là vật gì?” là gọi cái mà họ mong cầu, hỏi để quyết định. Chủ bán thức ăn đáp: “Giới, Định có thể được thú vui trời, người, về sau sẽ bị chi phối bởi định luật vô thường, nghĩa là sẽ phải chết! Nghe xong, người này không vì Bồ-tát nói, mà trả giá đắt cho tôi, sinh lên cõi trời không chịu khổ bốn đường.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nói pháp ở chỗ đông người. Dụ cho ở ngã tư đường. Hóa chủ nói về nhân quả của trời, người. Lấy lợi dưỡng của con người như bán. Dù Bồ-tát nhận biết quả báo tốt đẹp trên cõi trời, nhưng vì nhận thấy có tai hại của cái chết, nên không muốn sinh, dụ cho người khách kia dù muốn mua ăn, nhưng vì bị cái ác là phải chết, cho nên liền bỏ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là dụ thứ ba, lấy người bán thức ăn để dụ cho giải thích giáo. Nói là nếu quả của sinh tử như vậy thì vì sao bậc Thánh lại nói nếu tu năm giới, mười điều lành, thì sẽ được thọ hưởng quả báo trời, người ư?” Đây là điều lành chứng thật nghĩa không thọ. Giáo nấy vốn dắt dẫn người ngu si thấp hèn. Vì nếu họ không nghe nói về thú vui trời, người thì liệu họ có bằng lòng hành đạo hay chăng?”

“Này Ca-diếp! Ví như cây độc” cho đến “Sống thấp nhất là mười tuổi, cũng đều chịu khổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hai dụ này đồng chứng minh rõ ràng hễ có sinh thì có tử. Tu và chết yểu, không có gì khác nhau!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai dụ thứ tư, thứ năm y cứ riêng về quả báo sinh tử, chỉ có khổ mà không có vui.”

Lại nữa, “Này Ca-diếp! Ví như trên bở biển hiểm yếu cheo leo, có cỏ che khuất” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn quán khổ sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho Bồ-tát đối với quả báo trên cõi trời còn không tham, huống chi lại tham quả báo cõi người này ư??”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bờ hiểm trở, dụ cho thân năm ấm. Cỏ che lấp dụ cho vô minh. Cam lộ bên mép bờ, dụ cho quả báo của thuốc hay mầu nhiệm. Hầm lớn, dụ cho khổ chết, lượm lấy quả ngay, vì ham ưa quả, là tu nhân điều lành. Trượt chân là chìm hẳn trong sinh tử.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dụ cho vì ngoại đạo mà đặt ra dụ: Bờ hiểm trở dụ cho Phi tưởng. Cỏ che khuất dụ cho quả báo của sinh tử kia, ngoại đạo không biết, chấp là Niết-bàn. Cam lộ dụ cho vui thiền định. Sống lâu một ngàn năm là tám muôn kiếp. Ăn vị Cam lộ kia, là chấp mắc thiền định. Hầm sâu là khổ sinh tử. Trợt chân, nghĩa là ngoại đạo lấy Phi tưởng làm Niết-bàn, vì mất lý nên rơi vào ba đường.”

“Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát” cho đến “Trụ trong kinh Đại Niết-bàn này để quán sát khổ già ra sao?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đều dụ cho sự suy yếu, hư hoại. Vua, dụ cho sắc mạnh khỏe. Nước thù địch, dụ cho già. Người dân nước khác, dụ cho nhớ nghĩ đến việc ít thịnh vượng.”

“Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn quán khổ bệnh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đoan chánh dụ cho sắc xinh đẹp mạnh khỏe. Phu nhân, dụ cho kiết ái. Vua, dụ cho bệnh. Bị khoét một mắt… dụ cho làm hư hoại sắc đẹp.”

“Này Ca-diếp! Đại Bồ-tát” cho đến “Trụ trong chú Đại Niết-bàn Đại thừa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ trừ Nhị thiền, thông thường khổ chết, một khi đã đến, thì đều bị não loạn, nên lấy tai biến làm thí dụ. Bồ-tát đến khi chết, tâm không tán loạn. Rắn độc Ma-la màu đen. Nếu chạm trúng áo người, hoặc áo người chạm đến chỗ nó bò qua thì đều bị chết cả, nên gọi là sự va chạm độc hại. Sao A-kiệt-đa, cứ tám tháng thì mọc một lần. Vì sao này để kết chú, có công năng tiêu trừ bốn thứ độc.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bệnh là khổ, làm lủng phao nổi thì thật là đau khổ!”

Lại nữa, “Này Ca-diếp! Ví như có người” cho đến “Kinh Đại Niếtbàn này quán khổ chết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đây đã nói về chết, mà chưa nói về khổ chết. Nay, nói về các tai nạn nguy hiểm:

Không có tư lương: Các thọ căn diệt, căn không thọ khởi, gọi là chết. Căn không thọ khởi, thì đường sống dứt bặt, dụ cho tai nạn nguy hiểm! Thọ căn không khởi, không khởi thì không có pháp. Không có pháp thì không thể nhờ cậy, dụ cho không có tư lương. Nẻo đường tư lương mênh mang vô định! Dụ cho xa diệu vợi. Năm căn đều diệt, ý thức đi một mình, dụ cho không có bạn bè. Bị gió nghiệp thổi bay mãi, tìm kiếm sự sinh không dừng lại, dụ cho thường đi. Năm đường chưa phân, dụ cho không biết được bờ mé. Gặp được sinh duyên, nhân si mê thọ sinh, dụ cho không có đèn sáng.

Trên đây, các dụ đều nói về nỗi khổ sắp thọ sinh. Từ đây trở xuống, dụ cho khổ chết. Nói tất cả khổ đều do thọ sinh. Tâm diệt, gọi là chết. Diệt không do cửa, dụ cho không có cửa. Căn không thọ khởi, dụ cho có nơi chốn. Không hay biết khổ vui, dụ cho không thể chữa trị. Các căn diệt dần, sức khỏe không chế ngự nổi, dụ cho không có ngăn cấm. Thọ căn (Cơ quan cảm nhận) đã diệt, không còn sinh lại, dụ cho không được thoát. Căn sinh diệt đã khác, tướng mạo bên ngoài không thay đổi, dụ cho không có phá hoại. Người không nhìn thấy, dụ cho chất độc của cơn ưu sầu, không thể hại người, dụ cho chẳng phải sắc xấu ác, con người rất lo sợ tai họa của cái chết kia, dụ cho sợ hãi. Căn này đều diệt, dụ cho ở thân. Diệt không thể thấy, dụ cho không thể hay biết.”

 

Phần 4

  • Nêu ra duyên khởi vua Đảnh Sinh.
  • Hội thông ý nghĩa khổ năm ấm lừng lẫy xưa nay.
  • Nêu xưa vì Thích-ma-nam nói sắc có nghĩa vui.
  • Nêu xưa nói nghĩa pháp lành được thọ vui.
  • Nêu bài kê lạc thọ mà xưa đã nói.
  • Giải thích nghĩa khổ phẩm hạ, sinh ý nghĩ là vui.
  • Giải thích nghĩa khổ của ba thọ.
  • Giải thích: Người Nhị thừa không biết nhân vui thường trụ, cho nên bị nói là lấy khổ phẩm hạ làm vui.

“Này Ca-diếp! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Khổ thương yêu mà chia lìa, cái gọi là chết?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh là gốc năm ấm, ái là cội rễ các kiết sử. Dẫn bài kệ trước để làm chứng:

“La-hán sở dĩ không có lo lắng

Không có sợ hãi về ái hết.”

Cái gọi là chết, là nói sự quan trọng của cái chết đó. Tất cả khổ nói trong đây đều do ái sinh ra.

“Này người thiện nam! Vì biệt ly làm sinh ra các khổ” cho đến “khổ thương yêu mà chia lìa ở đời hiện tại.”

Xét: Pháp sư Tuệ Lãng nói: “Phát ra duyên khởi, để nói về sự quan trọng của cái chết kia.”

“Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Đại Bátniết-bàn quán sát khổ, oán ghét mà phải gặp nhau, tức là thân phải gánh chịu, cho nên thường gặp mặt mình oán ghét.”

“Này người thiện nam!Thế nào là Bồ-tát tu hành Đại thừa” cho đến “Ca-diếp! Đây gọi là khổ đế.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về cảnh chưa đủ, chỗ không tránh khỏi, ngoại trừ Đức Phật, tất cả đều có khổ này. Năm hành ấm, không có tự thể riêng, tức chỉ cho bảy khổ.”

“Bấy giờ, Đại Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Khổ năm ấm lừng lậy, nghĩa ấy không đúng.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói năm ấm đều khổ, là trái với giáo xưa để chứng cho giáo nay.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là thứ tư, dẫn thuyết xưa để gạn thuyết nay, là hội thông hai giáo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ ba là hội thông hai giáo xưa nay. Giáo có nhân quả, xưa đã hội quả thì nay sẽ hội thông nhân. Xưa đã điểm ba thọ đều khổ, làm cho hữu tình nhàm chán mà tiến đức. Nghĩa ấy dù vậy nhưng cuối cùng không bằng nhân hoại. Nếu làm cho nhân quả gặp nhau thì chúng sinh đâu chịu làm lành để dứt ác, ở trong thân sinh tử, tu học thành Thánh, mà thể của trí nhất thiết vẫn chưa tránh khỏi vô thường, chỉ vì quả vui chưa hiển hiện, thì không được làm nhân hư hoại. Nay giáo thường trụ với nghĩa của quả vui đã rõ ràng, bắt đầu được nhân hư hoại. Ta vốn nói: “Tu điều lành, là nhân của Bồ-đề, chứ chẳng phải pháp sinh tử.”

Có chỗ giải thích rằng: “Giáo nay, do thích hợp với quả, e rằng chẳng phải ý Phật. Giáo xưa đã thích hợp thì giáo hiện nay đâu cần phải lập lại nữa. Nên biết rằng về lý thì không hợp, nhưng hiện nay, vì sắp muốn gặp nhân, nên Bồ-tát Ca-diếp, trước nắm lấy quả để tạo nên câu hỏi. Đức Phật trước đã sai khiến quả, chỉ có biết khổ, sau đó chính là nói: “Khi xưa ta làm thế nào để khéo được niềm vui? Chính là niềm vui của đạo Bồ-đề”, nhưng nghĩa này chưa được sáng rõ, nay mới hội thông.”

“Vì sao? Vì như ngày trước Phật đã bảo Thích-ma-nam” cho đến “Nếu có người cầu thì sẽ không gọi là khổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thông thường nêu ra năm y cứ, đây là y cứ thứ nhất, nêu ra duyên vui, vì có người mong cầu thì không nên không có niềm vui.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp trước nêu ra năm câu hỏi: thứ nhất, vì có vui, không nên có khổ trong năm dục của trời, người.”

“Như Phật bảo các Tỳ-kheo: “Có ba thứ thọ: thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ, không vui.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai, nêu ba thọ để nói: Nếu không có vui, thì làm sao có thọ vui ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai, vì có thọ lạc trong ba thọ, vì thế không nên khổ.”

“Như Đức Phật trước vì các Tỳ-kheo mà nói: “Nếu có người nào tu hành pháp lành, thì sẽ được thọ vui.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba, nêu nhân lành đã tu. Nhân đã lành, về lý, vì có quả vui, nên lấy nhân làm chứng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ ba, vì điều lành là nhân vui, vì thế mà biết không nên chẳng có niềm vui.”

“Lại, như Phật đã nói “Đối với đạo thiện” cho đến “Pháp tốt đẹp của ý tứ cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là câu hỏi thứ tư, trước kia, nêu nhân lành, nay nêu sáu xúc chạm tức là quả lành. Nếu dùng nhân vui mà được quả vui thì làm sao không có niềm vui ư?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Như thọ già ở trong người, vì thọ hưởng quả báo của trời, nên biết đối tượng của sáu căn đều là vui.”

“Như Phật đã nói bài kệ: “Trì giới là niềm vui” cho đến “Những việc phải làm đều đã làm xong, đây gọi là rất vui.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ năm, là nêu nhân quả, các bài kệ đều chứng minh có vui. Pháp sư Bảo Lượng nói: Thứ năm là câu hỏi nêu bài kệ thành thật xưa, làm câu hỏi.”

“Bạch Đức Thế tôn! Như trong các kinh đã nói” cho đến “Làm thế nào tương ứng với nghĩa mà Phật đã nói hôm nay?”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nêu chung việc nói trên, để mong được thông suốt thích hợp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi dù có năm, nhưng không ngoài hai đường. Câu hỏi thứ nhất, thứ hai và thứ tư đều căn cứ trên quả báo để thưa hỏi. Câu hỏi thứ ba, thứ năm, dùng nhân để gạn hỏi quả.”

“Phật bảo Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Tưởng khổ mà ta nói hôm nay không khác với tưởng khổ đã nói ngày trước.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Không có khổ, thể đã chẳng phải khổ, mà được không khổ, chúng sinh lại lấy nhẹ để thay thế nặng, rồi cho là không có khổ, đó gọi là chấp ngang trái.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là đáp câu hỏi thứ nhất, thứ hai và thứ tư, nói là niềm vui ngang trái. Nghĩa là chúng sinh cũng lấy khổ phẩm hạ để sinh tư tưởng vui một cách ngang trái, là nhờ vào giáo. Vui mà giáo xưa nói là căn cứ vào tâm tình ngang trái của phàm phu kia, là không bao giờ có vui. Nay nói đều là khổ, nên cũng không có trái.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp chung năm câu hỏi. Vì chúng sinh, không biết chân tướng nên trong khổ phẩm hạ, sinh ra ý tưởng vui một cách ngang trái. E rằng sinh khởi việc này thì phải đọa vào ba đường. Vả lại, nói trời, người là vui, làm cho chúng sinh tu mười điều lành, năm giới để quay lưng với đường ác, cái gọi là dùng việc vụn vặt để phát ra việc vụn vặt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là ba thọ trở xuống, trước đáp câu hỏi về quả thứ nhất, thứ hai, thứ tư.”

Nỗi khổ phẩm hạ: Ba ác nặng là khổ phẩm thượng. Trời, người thì nhẹ là khổ phẩm hạ. Phàm phu không giác biết khổ phẩm hạ, nên sinh ý tưởng là vui một cách ngang trái.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Như Phật đã nói” cho đến “Người sinh cõi trên, gọi là lên cõi trời.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Sinh là người sinh tham khổ, khổ này đáng ghét. Tham thì còn hơn ác, vì dữ dội nên đọa xuống cõi dưới. Từ khổ phẩm hạ của ba đường này, từ cõi trời, người này mà sinh, tức là khổ. Tương tự như nếu khổ phẩm hạ là sinh cõi dưới kia. Nên mới đặt ra câu hỏi.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiếp nối tiếng để làm câu hỏi, là hỏi với ba quan điểm: Phẩm hạ mà Phật nói, có nghĩa nhỏ nhoi là hạ. Chẳng hạn như Bồ-tát Ca-diếp nói: “Lấy rất nặng làm phẩm hạ.” Đây là quan điểm thứ nhất.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vật tình một sớm một chiều chưa ngộ, nay Bồ-tát Ca-diếp lại đặt ra hai câu hỏi. Theo ý Phật, cho trời, người là khổ phẩm hạ, trong khi Bồ-tát lại cho ba đường là khổ phẩm hạ.

“Nếu lại có người hỏi thế này” cho đến “Tưởng cho là vui thì phải trả lời thế nào?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đối với khổ phẩm hạ, sinh ý tưởng là vui một cách ngang trái, dùng làm lời hỏi.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “thứ hai, là nói về sự nhớ nghĩ để đáp ngược lại: “Vì khổ phẩm hạ nên nói là vui, biết tất cả đều khổ. Nay vì cũng lấy niềm vui thuộc phẩm hạ, nên nói là khổ. Phải biết rằng tất cả đều vui.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Câu hỏi thứ hai, đều trái với nghĩa trước của Như lai, nếu dùng ba thọ để dứt hết nỗi khổ thì nay sẽ dùng ba thọ để dứt hết vui nhưng chỉ là vui nhỏ nhặt không đáng kể. Bạch Đức Thế tôn! Hoặc hạ hoặc trung mà nghĩ là vui, cho đến dưới đây trong khổ mà nghĩ là vui.

Xét: Pháp sư Đạo Sanh nói: Ý câu hỏi không chấp nhận khổ dưới sanh ra vui, cho nên lấy đây để nêu lên.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quan điểm thứ ba, nếu quả thật đối với nỗi khổ bậc hạ nhỏ nhặt mà sinh niềm vui thì lúc bị đánh một trượng, so với một ngàn trượng, thì một ngàn trượng rất nặng, còn một trượng rất nhẹ, rồi cho là vui. Vì cho nên biết rằng, không lấy khổ nhẹ mà nghĩ là vui.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây, căn cứ vào mặt lý để giải thích: Nếu lấy khổ nhẹ của trời, người làm khổ bậc ba, thì lẽ ra phải dùng hình phạt một trượng cho khổ nhẹ là khổ bậc hạ, nếu vậy thì lẽ ra nên “Duyên” đánh một trượng này mà sinh niềm vui?” “Phật bảo Ca-diếp: “Đúng thế! Đúng thế!

Đúng như lời ông vừa nói. Do nghĩa này nên không có ý tưởng là vui.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Đáp câu hỏi sau cùng. Hai câu hỏi trước tự hiểu. Như vậy, mỗi khổ phẩm hạ, không nghĩ là vui, là đều nghiệm xét không có niềm vui.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thật ra không có niềm vui, câu án đã giải thích. Người này sẽ thọ lãnh hằng ngàn hình phạt, để khỏi phải chịu khổ khác, nên đối với bị đánh một gậy nói trên, tưởng ngang trái là vui.”

Pháp sư Đàm Ái nói: “Do đó không dùng một khổ bậc hạ làm niềm vui, vì thoát khỏi khổ nặng. Thật ra là hành khổ. Phàm phu cứ cho đó là vui. Dùng một lời đáp này đều đáp cho cả ba câu hỏi. Vì sao? Vì phạt đánh một gậy so với bị đánh một ngàn gậy đều là khổ nặng. Đã không cho khổ bậc hạ là niềm vui, thì sao lại nói đối với tận đáy khổ bậc hạ mà nghĩ là vui ư? Tức là đáp câu hỏi thứ nhất. Lại, người này “Duyên” thoát khỏi khổ nặng, mà sinh tư tưởng là vui một cách ngang trái, thì sao lại nói là đối với niềm vui bậc hạ, nghĩ là khổ ư? Tức là đáp quan điểm thứ hai.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lời đáp này trả lời cho cả ba câu hỏi. Nay, trước nên giải thích nghĩa sinh ra một cách ngang trái: Nếu một khổ bậc hạ, đâu cho là vui được, há không phải là thứ vui giả dối ư? Chẳng phải khi chịu đánh một gậy mà sinh ra niềm vui.

“Vì sao cũng như người tội kia sẽ bị phạt đánh một ngàn gậy” cho đến “Trong việc không có niềm vui, là nói ở đây.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích nghĩa theo chiều ngang.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Người tội đó không vì bị phạt đánh một gậy (khổ bậc hạ)” cho đến “Mà chính là vì được thả ra, nên nghĩ là vui.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp nói: “Thật ra không có chín trăm chín mươi chín gậy, nên “Duyên” này không có. Vì vậy, nên có vui thật.”

“Này Ca-diếp! Thế nên trước kia, ta đã nói với Thích-ma-nam rằng, có vui trong năm ấm, là thật không giả dối.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chịu sự trách cứ rằng, đã không dùng một hình phạt bậc hạ (đánh một gậy) làm niềm vui, mà là vì vui nên vui, chứ chẳng phải vui ngang trái, bởi Đức Phật nói: “Vui thật không giả dối. Vì tránh khỏi chịu sự hình phạt là vui, chẳng thể trong cái không mà nói là vui được.”

Pháp sư Đàm Ái nói: “Bồ-tát Ca-diếp hiểu rõ điều không thể thưa hỏi. Đức Phật liền nói cho thành tựu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích câu hỏi thứ ba, về nghĩa thật vui. Khổ trong ba đường, đối với trời, người thật sự không có. Chỗ không có đó nào khác gì với Phật(tức có niềm vui thật). Vì thế, nên biết chẳng phải thuyết giả dối.”

“Này người thiện nam! Có ba thọ ba khổ” cho đến “Hai thọ còn lại, là hành khổ và hoại khổ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trước kia vì lấy nghĩa nhẹ, nặng nên nói là ba thọ. Nay, vì lấy ba khổ, nên nói là tất cả khổ, vì việc đã làm khác nhau, nên không trái nhau.

Khổ thọ, gọi là ba khổ, là tánh gồm thâu ba khổ. Hai thọ còn lại, chính là nghĩa khác của tánh khổ.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi thứ hai ở trước. Trước đây, Phật nói: “Ba thọ đều là khổ!”

Bồ-tát Ca-diếp hỏi rằng: “Ba thọ đều là vui”, nay Phật nêu ba thọ chỉ có khổ mà không có vui đâu được bắt bẻ rằng: “Ba thọ đều là vui ư?” đối với khổ bậc hạ, vì nhỏ nhặt không biết, sinh ra ý nghĩ ngang trái cho là vui, chính là đáp câu hỏi đầu, nói là đối với khổ phẩm hạ rất nặng, sinh ý nghĩ là vui.

Khổ thọ có ba khổ: Nếu giải thích như trước, thì xét ngay ba thọ là ba khổ, tức là: Khổ thọ là khổ khổ, lạc thọ là hoại khổ và xả thọ là hành khổ. Nay nói khổ thọ có ba khổ, về chỉ thú nghĩa có khác một ít với giáo xưa. Vì sao? Vì nếu tâm sinh ra trong “Duyên” dao, gậy, thì cũng là khổ thọ, còn tâm sinh trong “Duyên” mất, hoại thì cũng vẫn là khổ thọ. Nay lấy sinh khổ thọ trong “Duyên” dao, gậy làm khổ khổ và sinh khổ thọ trong “Duyên” mất mát, hư hoại làm hoại khổ, thì chính thể của nỗi khổ này là động tác mong cầu “Duyên hành”, tức là hành khổ, nên nói khổ thọ có ba khổ, chứ không phải là “Khổ khổ” có ba khổ. Hai thọ còn lại đều có hai khổ, nghĩa là khi lạc thọ khởi, là nói quả trong nhân, tức là hoại khổ, tức thể là động tác cầu duyên hành, nên là hành khổ, cũng được phép nói “Lạc thọ” có cả hai khổ. “Xả thọ” có hai khổ: Bốn thiền trở lên, là xả thọ. Nhưng chúng sinh ở cõi đó lúc xả mạng, cũng vẫn yêu tiếc mạng sống lâu, tức là hoại khổ. Thể của “Hoại khổ” đó chẳng lẽ không phải “Hành duyên” động tác mong cầu hay sao? Nếu vậy, thì xả thọ có cả hai khổ.”

Này người thiện nam! Do nhân duyên này mà mà trong sanh tử cho đến cho nên nói rằng tất cả đều khổ. Xét: Pháp sư tăng Lượng nói: Vì nhân duyên nhẹ nặng. Tánh khổ, vui không lìa nhau, nghĩa là giải vô lậu của Thập trụ, từ Sơ trụ đến tâm Kim cương này, phải phân chia việc dứt trừ “Hoặc”. Đối với bên không có “Hoặc”, thì thường là vui thật. Nhưng vì thể vô lậu chưa tránh khỏi thế đế, nên nêu thể là khổ và vì thế, nên nói là tánh khổ, vui không lìa nhau.”

“Này người thiện nam! Trong sanh tử thật ra không có niềm vui” cho đến “Vì thuận theo thế gian, nên nói rằng có vui!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ nói nhân vui là vui, là đáp câu hỏi thứ ba và thứ năm, nên trước nói cõi trời hữu vi không có niềm vui.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thật ra không có vui sáng sủa nào trong năm dục.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Nay Phật nói như vậy, ý nghĩa thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa trên chưa rõ, nên hỏi để hoàn thành.”

Pháp sư Đàm Tiên nói: “Nhận hiểu rõ ràng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì hai câu hỏi thứ ba, thứ năm chưa được Phật đáp, nên ở đây nêu lần nữa để xin Phật đáp.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Như trên đã nói” cho đến “Tất cả đều khổ, không có ý tưởng vui.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Cũng là nhân sinh khổ, nghĩa là nói vật ngoài, chẳng phải nhân của khổ khổ, nên nói là khổ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đáp hai câu hỏi kia, là nói trong nhân có quả thì đâu có luống dối ư?”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Mới nhận biết được tường tận về nhân khổ, nhân vui này.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người Nhị thừa không biết thường trụ, nên không biết được nhân vui.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích khổ, là giải thích về ba khổ. Không khổ, là nói khổ phẩm hạ là vui, vui thì không khổ.”

 

Phần 5

  • Giải thích rộng Tập đế, lấy Ái làm Thể.
  • Giải thích hai thứ Ái:
    1. Yêu bản thân mình.
    2. Yêu vật cần dùng.
  • – Lại giải thích hai thư Ái:
    1. Yêu điều lành.
    2. Yêu việc không lành.
  • Nêu chín việc để dụ về Ái.
  • Giải thích: Bồ-tát không có khổ, có đế. Các Thanh văn có khổ, có đế.
  • Giải thích rộng về nghĩa thấy diệt đế.
  • Giải thích rộng nghĩa Đạo đế.
  • Giải thích rộng nghĩa Đạo là một, tùy theo pháp mà khác.

“Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Phân biệt, tính toán, vô lượng, vô biên.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại yêu “Hữu”, nghĩa là ba hữu.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước đã nói lược, nay là nói rộng. Kế là hội thông. Sau, nói về quán hạnh. Nhân duyên của ấm này, là do nghiệp phiền não, được quả ấm ở vị lai.

Lại yêu “Hữu”: Xưa do nghiệp phiền não nên có thân, nay lại yêu ba cõi nên lại dẫn đến sự sinh. Nhân duyên nghiệp ái: là vì nghiệp đời trước nên khởi ái, theo tập quán. Ái nhân duyên phiền não, như người nặng về sân, thường ưa thích binh khí. Ái nhân duyên của khổ, như người bị bệnh, thích châm cứu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Kế là giải thích về Tập đế, nói về nghiệp

và phiền não cấu kết với quả báo sinh tử ở vị lai, nối tiếp sinh khởi, được gọi là Tập. Trong phần nói về Tập đế, này cũng có ba ý. Nhưng đoạn văn vừa, nhỏ từ trái sang phải, không như thứ lớp trong khổ đế:

  1. Giải thích về tướng của Tập đế.
  2. Hội thông.
  3. Quán lỗi.

Nay trong phẩm này nói về Tập đế đều căn cứ vào sử ái, làm nguyên nhân. Vì sao? Vì ái có công năng thấm nhuần nghiệp, lại còn tươi nhuần. Vì được sinh là do mình. Vì cho nên chẳng phải ái, sẽ không thành nghiệp. Cho nên y cứ ái mà gom nhóm. Sao chép cảm đến duyện của ấm cùng tận. Nhưng tánh chất của ái là ô nhiễm hệ lụy. Về sự thì chẳng có pháp nào không từ nó sinh ra, nên trong văn có nói rộng, về ái, đúng đầu các duyên.

Yêu bản thân mình, là yêu chánh báo, các nhu cầu cần thiết cho mình, được gọi là y báo, như nghiệp công xảo… Những sự nghiệp được hoàn thành, bảo hộ, vương mang, cùng mọi thứ đẹp đẽ, thỏa thich ở trong lòng, được gọi là ái của nghiệp nhân duyên. Nếu gặp phải cảnh ngang trái khởi tâm thì gọi là nuốt hận từ xưa.

Lại tu tâm này cho được tốt đẹp, lại bị nhân duyên ái của phiền não, đau khổ rồi muốn quay lưng lại. Nếu lìa “Ngã” mà hợp với tình thì sẽ không có khổ này, mà tâm lại được vui vẻ, nên nói ái là nhân duyên của khổ.”

“Này người thiện nam! Ái có hai thứ” cho đến “Người cầu pháp Đại thừa, được gọi là Thiện.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kết nhóm tám khổ, nghĩa là điên đảo nặng nề, yêu thích công đức của Phật thì xem nhẹ. Vì thế phải dứt tám khổ.”

“Này người thiện nam! Kẻ phàm phu tham ái, gọi là “Tập”“ cho đến “không vì ái mà thọ sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh này dùng trí để biết Tập, gọi là “Đế”. Phàm phu vì không biết “Tập”, nên Tập chẳng phải Đế. Bồtát thì “Đế” mà chẳng phải “Tập”. Vì sao? Là giải thích lý do vì sao là Đế mà chẳng phải Tập.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Nói về đặt tên ái, hai chỗ tên và sinh như trước đã nói, đều là ái bất thiện của phàm phu. Nếu phát tâm ưa mến chánh pháp, dùng điều tốt đẹp làm lẽ sống với tâm tình vui vẻ nguyện cầu, thì gọi là ái thiện. Tên gọi dù đồng nhưng nghĩa thì cả hai đều khác nhau. Danh là đồng, tâm thì khác: Đều tự có chỗ về. Nhưng ái thiện tuy đồng nhưng lại có chia làm hai. Nếu Bồ-tát phát tâm nhớ nghĩ quanh co, không lìa nhiễm trong duyên, thì gọi là yêu mến Đại thừa. Tiểu đạo của hàng Thanh văn dù muốn yêu điều lành, nhưng vì kiến giải không xứng với cảnh, nên trong tâm thường có chỗ sai trái về mong cầu điều tốt lành, bị rơi vào cổng ái bất thiện. Nên biết rằng người Nhị thừa làm việc đạo không xứng với đạo, không sửa đổi tâm, nên không được xuất ly. Làm sao biết được? Câu dưới đây, là gom nhóm ái của phàm phu, gọi là “Tập”. Biết được người Nhị thừa chấp tướng ở tâm, chưa khỏi sinh tử, không có dụng của đế. Bồ-tát tạo hạnh xuất gia không vì sinh tử mà vì tai hại lỗi lầm. Đã biết được lỗi lầm sinh tử, nên về tình cảm chấp mắc, bảo thủ, đối với Bồ-tát rất hời hợt, xa lạ. Vì lý do đó, nên dù Bồ-tát có yêu, cũng không gọi là “Tập”. Nếu vì chấp mắc cần phải thể hiện sự sinh để ứng hóa cứu độ chúng sinh, thì không gọi là Ái.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cho đến riêng dùng tánh ái làm nhân năm ấm. Xét: Pháp Sư Tăng Tông nói: “Đây là văn hội thông, thuyết xưa thì khác, xin giải thích về nguyên nhân đó.”

“Phật khen Bồ-tát Ca-diếp: “Lành thay! Lành thay!” cho đến “Có khả năng sinh ra tất cả mầm của nghiệp phiền não.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Mặc dù nghiệp và phiền não là nói về nhân của quả, nhưng ái là sự sinh của thọ sinh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ hai, hội thông câu hỏi. Dù nói là có chiêu cảm nhân của ấm khác nhau, nhưng nếu chẳng phải ái thì không nói, dùng ba dụ cho để làm rõ.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát trụ trong Đại Niết-bàn Đại thừa này” cho đến “Đây gọi là như trách hàng Thanh văn, Duyên giác vì còn tập khí thừa của ái, nên không chứng được đạo Vô thượng Bồ-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là môn giáo. Ở đây, chỉ nói lỗi của ái, không nói là Tập, nên không dứt bỏ. Bồ-tát không yêu mà là Tập, nên dứt bỏ.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Quán sát tai hại lỗi lầm của ái.”

“Này người thiện nam! Thế nào là Như vợ La-sát?” cho đến “Quán sát kiết ái có chín thứ như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Cứu vớt căn bản vô thượng của Tôn giả Xá-lợi-phất, tức có duyên khởi (Ghi chép từ Thích luận kia). Lại tương thừa giải thích rằng: “Bấy giờ, đã đến lục trụ, chưa được tâm thất trụ.” Có thuyết nói: “Hai mươi tâm trong ba mươi trụ tâm.”

“Này người thiện nam! Do nghĩa này nên” cho đến “Đại Bồ-tát có Đạo, có chân đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì quán sát khác nhau, mà nói là khổ, tập của giáo xưa, chỉ ở ba người. Nhân nói bốn người quán sát có khác nhau. Về thứ lớp ngôn ngữ được đề cập.

Bồ-tát có khả năng quán khổ quán, ưa thích tám tai họa vô thượng. Nhân luận quán sát về sự khác nhau của người, cho rằng điên đảo là khổ. Ba người đều điên đảo, đều có khổ. Vì thấy khổ, nên gọi là đế. Ba người đều thấy khổ, nên có đế. Dưới đây phải lướt qua. Quán cõi Dục vô thường, như bệnh, được ra khỏi cõi Sắc là phàm phu thấy khổ. Vì ba người đối với Phật có khổ điên đảo, nên đối với đế không được gọi là chân. Hiểu khổ là sinh tử, không có khổ là Niết-bàn. Đối với hai pháp này không điên đảo, nói là không có khổ mà có chân đế. Khổ thô, tập tế. Phàm phu không thấy Tập, nên không có Đế. Có Tập đế nghĩa là có điên đảo đối với Phật, cảm thọ khổ biến dịch, nên gọi là Tập. Vì biết được nhân của phần đoạn, nên có Đế.

Trên đây chỉ nói phàm phu là “Tập”, không nói khổ biến dịch.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở trên đã nói Khổ đế, Tập đế rồi. Ở đây sẽ kết thành dụng của Đế:

Không thành dụng của đế, khảo sát nhận thức của phàm phu được sự sai quấy mà lìa lỗi. Rằng phàm phu có khổ, không có đế, nghĩa là phàm phu chỉ biết thô về sự khổ ép ngặt, mà không hiểu chắc chắn về nguyên nhân của khổ, nên không có dụng của Đế.

Người Nhị thừa có khổ đế, nghĩa là có sự khổ gây ép ngặt, chẳng phải không hiểu thô, mà dứt trừ nhân khổ, cho nên được nói là có dụng của đế.

Không có chân thật, nghĩa là không biết Đức Phật không có khổ. Vì hợp với Phật tạo ra quán khổ, nên không có chân thật. Các Bồtát hiểu khổ không thật khổ, nghĩa là ngày xưa, hiểu khổ không khổ, tánh là “Không”. Ngày nay, nhận hiểu Kim cương lại có khổ, quả Phật không có khổ. Lầm nói về hai nhà cho nên có chân đế. Dưới đây ba đế còn lại, so sánh, giải thích về nghĩa có thể hiểu. Đấng Đại sĩ nói cả hai luân, vì an pháp được nơi chốn, cho nên có chân.”

“Này người thiện nam!Thế nào là Đại Bồ-tát” cho đến “Trụ trong Đại Niết-bàn để quán diệt Thánh đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là quán diệt đế, Đại Niết-bàn là diệt đế. Có đủ hai nghĩa:

  1. Chỉ dứt phiền não.
  2. Dứt tất cả tướng.

Pháp sư Pháp Dao nói: “Ba đế đều không nói là có hai kiến. Ở đây nói rằng kiến diệt, kiến đế, là sao? Vì Diệt có hai thứ:

  1. Phật địa diệt.
  2. Bồ-tát địa diệt.

Phật diệt mà chẳng phải đế, Bồ-tát diệt mà là đế. Đế, là dùng để chiếu soi cảnh. Đức Phật thì dứt chiếu sáng, bỏ xem xét, tức là Đức Phật không có Đế mà diệt. Bồ-tát có đế có diệt. Trên Phật không có đạo, cũng không có khổ đế, tập cũng vậy. Lại, kinh vì tự nói với văn như thế, nên chỉ có Diệt đế, chỉ nói là kiến diệt, kiến đế, đế còn lại thì không như vậy.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong văn diệt đế thiếu, không có hội thông, có thể có nghĩa rộng, có nghĩa quán môn.

Dứt trừ tất cả phiền não, nghĩa là diệt của giáo xưa là phần diệt. Diệt của giáo nay là dứt vô minh trụ địa trở xuống, dứt hết ở đây. Dứt thì gọi là Thường, nghĩa là vì còn có “hoặc chưa dứt trừ, tất nhiên vẫn còn lưu động, dời đổi, lùi lại. Nay hoặc đã dứt hết, công dụng chiếu sáng cùng khắp, thế nên là Thường.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ba “Giải “theo thứ lớp. Hai lý khổ, tập trong diệt đế, là pháp hữu lậu, vì bị nhiều chỗ tai hại, cho nên mở ra quán riêng. Nay, hai đế diệt, đạo đã là vô lậu, không có tánh chẳng nhiễm chẳng , trói buộc, chỉ “Giải” hội thông nhau, có thuyết của hai môn. Trong diệt đế thì không có phân biệt văn hội thông, nhưng về nghĩa, suy ra có hai. Trong văn đạo đế, về sự của đạo đế tự khác.

Nay, đầu tiên thấy diệt, thấy diệt đế. Hai câu này tạo nên chỉ thú đối nhau dưới chương môn. Tám câu sau giải thích thấy diệt, nghĩa là thấy diệt xưa là thấy diệt đế, thấy ngày nay là lý chân như thường trụ. Đây là hội thông, cũng có thể nói rằng câu trên là tướng của Diệt đế.

Nói “Dứt trừ tất cả phiền não” nghĩa là giải thích câu “Thấy diệt” ở trên. Vì phiền não diệt, nên gọi là “Thường”, nghĩa là giải thích câu “Thấy diệt đế”.

Dập tắt lửa phiền não, thì gọi là vắng lặng, nghĩa là giải thích câu thấy diệt ở trên.

“Vì dứt phiền não nên được thọ hưởng niềm vui, trước giải thích câu “Thấy diệt đế”.

“Bồ-tát vì cầu nhân duyên, nên gọi là tịnh, nghĩa là giải thích câu “Thấy diệt đế”. Vì dứt hẳn tất cả phiền não nên gọi là xuất thế, là giải thích. Vì xuất cho nên gọi là ngã, nghĩa là giải thích câu “Thấy diệt đế” dưới đây, là bỏ câu giải thích “Thấy diệt”.

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát làm thế nào” cho đến “Trụ

trong Đại Niết-bàn để quán đạo Thánh đế?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, là nói về đạo đế. Trước là quán đạo, tức là tướng xuất thế, không nhân khổ, tập, mà nhân tám Thánh.

Thấy tất cả pháp: Tám đạo cũng là Đế, đạo đế quán đạo. Diệt là quả, chỉ quán vô học. Đạo là nhân, quán chung địa học. Từ thường, vô thường, cho đến tịnh quán nhân, quả. Vô thường là nhân, thường là quả. Dưới đây sẽ y cứ vào nhân, quả để quán riêng. Về nghĩa, Đa-la-phiếu chân thật chủ. Cầu da là y, cũng là nghĩa trang nghiêm.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước nói về nghĩa rộng, gồm giải thích cả quán hạnh. Sau, nói về hội thông. Cái gọi là Thường, Vô thường, nghĩa là nêu cảnh được Đạo soi sáng, để nói về thể của quán. Thường là quả Phật. Vô thường là từ Kim cương trở xuống, là số chúng sinh. Kim cương là vật thể trong trói buộc. Quả Phật chẳng phải là vật thể bị buộc ràng.

Đà-la-phiếu: Mượn y đế, chủ đế để giải thích chánh nghĩa. Phật ở thể tông cùng cực, là Đà-la-phiếu.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chư Phật Như lai đã lìa hẳn sự nhận lầm từ lâu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không tương ứng, nghĩa là giáo nay nói Tám là đạo, còn giáo xưa thì không nói tám, nên chẳng phải đạo. Muốn nghe nói về Đạo, hoặc lược, hoặc rộng, cũng đều là đạo cả.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây là hội thông giáo xưa và nay.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phật đáp: “Các kinh đều nhập đạo đế.” Y cứ ba nhân duyên để nói về nhập:

  1. Môn nhân.
  2. Môn duyên.
  3. Thể của đạo, không ngoài ba pháp này.”

“Bấy giờ, Đức Thế tôn khen Bồ-tát Ca-diếp” cho đến “Có thể có nhiều dạng nói pháp như thế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là nói rộng về tướng đạo. Có công năng giúp đỡ Bồ-đề, là giải thích nghĩa gốc. Bồ-đề là chánh thể của trí đạo, lấy tín làm gốc. Nói tin một việc, về sau so sánh một việc khác, dễ biết.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Các kinh như thế đều nhập đạo đế: Thuyết xưa dù có thể không đủ, nhưng đều là đạo. Tùy giáo hóa mà giảng nói, nên gọi là không đồng!”

“Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc hiểu rõ mọi căn bệnh của chúng sinh” cho đến “Vâng theo lời dặn của thầy thuốc, mà bệnh được lành.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với thuốc và những thứ cấm kỵ chỉ có nước là không theo lệ cấm. Một ngọn cỏ, một viên đá đều có công dụng của nó, bỏ thêm bớt, chẳng phải đều có, mà nước thì không có ngăn ngại. Bố thí, trì giới có sự khác nhau về hành chỉ, còn đạo thì suốt qua. Vì sao? Vì như kinh nói: “Đời có năm người, không khen năm việc, đó là không bỏn sẻn, khen ngợi bố thí… .”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trong sáu ví dụ sau đây, ba ví dụ trước nói đạo là một, để tương ứng với ba ví dụ sau. Ba ví dụ sau lại tương ứng với thuyết trước, nói rõ, nói rộng về đạo là “Một”. Đại ý dụ cho này nói về đạo, dù có thể là “Một” nhưng vì căn bệnh của chúng sinh khác nhau, nên phương thuốc chữa trị cũng khác.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Các thứ thuốc là dụ cho những thời nói pháp khác nhau. Nước có một thứ, dụ cho đạo. Tánh của thuốc không đồng, dụ cho cái nơm tốt của đạo tinh tấn, của cơ nghi nhất thời, lấy tư chất cốt yếu của vô vi.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Ví như có người” cho đến “Từ tín căn đến tám Thánh đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tiểu, khác với ví dụ trên. Từ tín căn đến tám Thánh đạo, nghĩa là nói một pháp làm tín, cho đến tám đạo làm tên lẫn nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đại ý ví dụ thứ hai, nói về đạo dù là “Một”, nhưng tùy từng địa phương mà đặt tên khác nhau.”

“Này người thiện nam! Ví như người thợ kim hoàn” cho đến “Vì chúng sinh mà phân biệt nhiều cách.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đây là tùy theo từng công dụng của đồ trang sức mà cách chế biến có khác nhau làm thí dụ. Đạo của Như lai tùy căn cơ của Đại thừa, Tiểu thừa mà có rộng lược khác nhau! Từ một đến chín là thuyết lẫn lộn của ba thừa. Dưới đây nói Đại thừa chỉ có một đạo, không có hai, nghĩa là Chư Phật ba đời có đồng thấy “Có”, không đồng với thấy “Không”, là đạo Đại thừa Định, Tuệ nghĩa là do giới xa, nên không nói. Thấy trí tuệ, nghĩa là tìm tòi gọi là “Kiến”. Hiểu rõ chân, gọi là tuệ. Xét định gọi là Trí. Kiến đạo nghĩa là như đắc quả, do sơ kiến, được gọi là trọng. Lại tu tập, mong cầu tiến lên quả trên, gọi là Tu. Kiết đã dứt hết, không còn tu, gọi là vô học.

Năm thứ nhân lợi, độn được định diệt tận, gọi là sáu thứ nhân người nhân đạo.

Tam-muội niệm Phật: Chỉ có Phật niệm Phật, thật sự được tướng

Phật, có thể gọi là định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ví dụ thứ ba nói về đạo, dù là một, nhưng vì vận dụng phương tiện, khéo léo, nên có nhiều thuyết khác nhau. Một đạo, đây là nói vì từng căn duyên khác nhau của chúng sinh, nên giáo pháp của Như lai khác nhau, thích hợp với ví dụ trước.

Đạo tín hạnh, pháp hạnh: Đại ý kinh này khác với quan điểm của Số Luận. Số Luận giải thích Tín hành, Pháp hành là năm phương tiện trở xuống. Xét về ý của văn này, cho đến kiến đế Trung đạo. Tín giải thoát kiến đắc vẫn là hai thứ trước để vào tư duy, thông qua pháp chế của ba quả. Thân chứng, nghĩa là hai người Tùy tín hành, Tùy pháp hành này đều có khả năng thân chứng.

Nói mười Lực, vô úy là đạo, là không có nghĩa cầu tiến, vì lực, vô úy kia đã có nghĩa của đạo giải thoát, cũng có thể là đạo nói trong duyên. Ba ví dụ sau, nghĩa rất dễ hiểu.

“Lại nữa, này thiện nam! Ví như một thứ lửa” cho đến “Vì hóa độ chúng sinh nên có nhiều thứ phân biệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói có: “Khả năng dứt trừ là đạo, ví dụ này đồng với đối tượng dứt trừ.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như một thức” cho đến “Vì hóa độ các chúng sinh mà có nhiều thứ phân biệt.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắc tùy theo đối tượng nương tựa mà có khác nhau. Đạo tùy ở Tiểu thừa, Đại thừa mà căn cơ có khác nhau.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như một sắc” cho đến “Vô lượng chúng sinh được thoát sinh tử.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dựa vào kiến, là tên gọi.”

 

Phần 6

  • Hội thông chung nghĩa bốn đế – Giải thích nghĩa hai đế.
  • Giải hoặc đối nhau, giải thích nghĩa hai đế.
  • Hư thật đối nhau, giải thích nghĩa hai đế.
  • Hữu, vô đối nhau, giải thích nghĩa hai đế.
  • Giả, thật đối nhau, giải thích nghĩa hai đế.
  • Hữu vi, vô vi đối nhau, giải thích nghĩa hai đế.
  • Thân sơ đối lập nhau, giải thích nghĩa hai đế.
  • Giải thích nghĩa mười đế – Chân, bất chân, nói về thật đế.
  • Điên đảo, không điên đảo, nói về thật đế.
  • Luống dối, không luống dối, nói về thật đế.
  • Đại thừa, chẳng phải Đại thừa, nói về thật đế.
  • Phật nói ma nói, nói về thật đế.
  • Một đạo thanh tịnh không hai, nói về thật đế.
  • Có thường, có lạc, nói về thật đế.
  • Giải thích hư không, Phật tánh, phi đế là thật.
  • Giải thích bốn đế, đương thể là thật.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Vì sao Đức Như lai lại bảo rằng không nói?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói người Nhị thừa có đế không có thật, vì không biết thường. Nay, nói thấy khổ của ba cõi cũng có cạn sâu, chứng thành nghĩa trên.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bốn đế mà trên đây, nói, mỗi đế đều chắc thật. Sau đây, đều sẽ có cách giải thích riêng, chỉ Diệt đế thiếu văn hội thông mà thôi. Bốn đế đã nói xong. Nay hợp chung chỉ thú chung và riêng của hai giáo xưa nay”.

Phật nói: “Này người thiện nam! Dù lại nhập nhưng vẫn không gọi là nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là nói xong môn Bốn đế. Thứ ba, là hội thông chung, nói về muôn pháp mà Đức Phật đã giác ngộ rõ, như cỏ mọc trên mặt đất, mà xưa kia nói cho người Nhị thừa, như cỏ trong lòng bàn tay, nên hôm nay, Bồ-tát Ca-diếp nắm lấy việc này để nêu lên câu hỏi. Hỏi: “Phật đã giác biết rõ pháp, như cỏ trên mặt đất, là có nhập vào bốn đế hay không? Lẽ ra phải có năm đế? Đức Phật đáp: “Đều thâu nhiếp vào lý bốn đế, mà trong dĩ vãng đã lấy không ngoài bốn đế. Bốn đế được gọi là gồm thâu, thì về mặt lý há có bỏ sót ư? Chính vì cho nên nói rằng “Đều gồm thâu ở bốn đế, dù nói là đã xếp vào trong bốn đế, nhưng cũng vẫn không gọi là nói. Vì sao? Vì nếu xem xét cảnh này, cùng cực thì sinh trí, cũng thỏa mãn người Nhị thừa, chỉ biết tướng chung của các pháp, chứ chưa thấu suốt chỉ thú sâu xa uẩn khúc của các pháp, nên sinh giải thoát kém. Đối với sự nhận biết về pháp môn, cũng hạn cuộc trong cạn cợt. Nếu sự hiểu biết không như Phật, thì phải biết rằng chưa tận cùng cảnh, để nhận thấy cảnh chưa cùng khắp. Vì cho nên ở người bên này mà trông qua bên kia, thì chỉ được nói rằng gồm thu thì không hết, cho nên, dù có nói nhưng không gọi là nói.

“Này người thiện nam! Biết Thánh đế có hai thứ trí” cho đến “Trong các kinh khác, ta hoàn toàn không nói .”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sinh diệt, chứa nhóm, gọi là ấm, cũng có nghĩa là khổ. Bốn đế vốn là tướng chung của Thanh văn. Nói khổ là tướng riêng dễ biết, chẳng phải kinh kia đã nói.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu nói theo kinh Thắng Man thì có tám đế, giáo xưa chỉ nói bốn, mà là “Thánh đế vô tác”. Giáo xưa chưa nói, nay y theo kinh này, chẳng những không tạo tác, chưa nói nghĩa tạo tác, mà cũng chưa được rốt ráo. Vì sao? Vì, như nói tướng ấm, sắc thì có mười bốn thứ, tâm thì có tưởng, thọ, hành, đây là tướng chung, cảnh sở tri của trí trong phân biệt thô. Nếu giải thích theo tướng tế, thì chẳng hạn như một sắc ấm là do rất nhiều trần hình thành, rất nhiều hành nghiệp chiêu cảm. Tâm thì niệm niệm sinh diệt, rất nhiều sát-na mới tập khởi tướng? Chính là vì cảnh sở tri của tám trụ, chín trụ, nên kinh Thắng Man chưa nói.”

“Này người thiện nam! Biết các nhập, được gọi là môn” cho đến “Trong kinh ấy ta cũng không nói đến.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nhập là nghĩa xứ, biết chung là nghĩa Môn.”

“Này người thiện nam! Biết các giới gọi là phần” cho đến “Trong các kinh khác, cũng không nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Giới nghĩa là tánh, phần, khác nhau đều là tên gọi của đương vị. Về nghĩa giống như trên đã giải thích. Tâm lấy khả năng nhận biết làm tánh. Sắc lấy ngăn ngại làm tánh.”

“Này người thiện nam! Biết được tướng sắc hoại, gọi là trí bậc trung” cho đến “Trong các kinh khác, ta cũng không nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là y cứ môn bốn đế, để nói ái là tập, chủ thể sinh ra năm ấm là khổ. Từ đây trở xuống là văn về Diệt, Đạo.”

“Này người thiện nam! Biết thế đế, đó gọi là trí bậc trung” cho đến “Các nghĩa ấy trong kinh Thắng Man, ta cũng không nói.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại gồm thâu chung pháp môn thành một thế đế, là sở tri của trí bậc thượng. “Tất cả hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng, lại gồm thâu thành chân đế. Nói hành vô thường… giúp phát sinh sự hiểu biết chân thật của con người, chỉ nói lược về môn “Không”. Niết-bàn là chỗ đoạn dứt của ba tâm xưa. Vắng lặng vô sinh là Đệ nhất nghĩa đế.”

“Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Đệ nhất nghĩa đế, nghĩa ấy thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là nghĩa “Một” mà danh “Khác” hay danh nghĩa đều khác?

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên, nói bốn đế, nghĩa của bốn đế thì hẹp. Nay, nói hai đế, lý của chúng thì rộng, vì đều là cảnh của trí. Sở dĩ nói bốn đế hẹp là vì đây là trong đạo đế này được chia thành bốn. Nay, Đệ nhất nghĩa mênh mông so với bốn đế trước. Vả lại, hư không và phi số duyên diệt không thuộc trong bốn đế. Nay, do hai đế mà gồm thâu, tức là thuộc về thế đế.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Sẽ nói hai đế, trước là lập ra một câu hỏi vơi hai điều thắc mắc. Đây là câu hỏi thứ nhất về thể tướng của đế phải chăng? Bạch Đức Thế tôn! Trong nghĩa đệ nhất có thế đế, trong bất thế đế có đệ nhất nghĩa hay không?

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Về lý, không có hai sự thật, mà có hai danh, nếu tướng kia “có” thì không nên đặt ra hai. Nếu tướng kia là “Không” thì cả hai tướng này đều giả dối.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Sẽ nói về hai đế, Danh khác, mà thật đồng, nên sự thật của Đệ nhất nghĩa, tức có sự thật của thế đế. Sự thật của Thế đế tức có Đệ nhất nghĩa, là để hỏi sự thật của hai đế tướng thật hay không, chứ không hỏi về nghĩa của hai Danh thật tướng hay không.”

“Nếu là “Có” thì tức là một đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu danh, nghĩa đều khác, hữu, vô có cùng lúc, thì hai không song hợp, thường là một đế.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Như một sự thật có hai, thì hai không khác thật, nếu hai không khác thật, thì hai tức là một.”

“Nếu là không có, thì sẽ không phải là Như lai đã nói dối ư?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu là một đế mà nói có hai nghĩa thì lẽ ra một là luống dối, nên nói rằng sẽ không phải nói luống dối ư?”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Nếu tướng đế kia là “Không”, thì hai danh sẽ không có thật. Nếu không có thật mà có hai danh thì há chẳng phải luống dối ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước mở ra hai quan hệ để tìm chỉ thú của đế kia: Nếu trong chân có tục, thì tục sẽ đồng với chân. Nếu trong tục có chân, thì chân sẽ đồng với tục. Nếu vì chân đồng với tục thì chỉ một thế đế, vì tục đồng với chân thì một chân đế, không nên có thuyết của hai đế. Nếu tục không dung chân, chân không dung tục thì đây là Việt tự nhiên, nếu trong chân không hề có tục, mà Đức Như lai lại nói “Sắc” tức “Không” thì đây là thuyết luống dối!”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thế đế do luống dối nên có, tức thể chẳng khác “Không”. Nếu “Không” mà có thể khác “Không” thì đâu có “Không” để khác với “Hữu”? Vì thế, nên hữu, vô mà là một thể thì tên hai đế được thành lập. Nếu có cái hữu để “Không”, thì tức là trong Thế đế có Đệ nhất nghĩa. Cái “Không” đã “Chẳng có” chỗ, thì không vũng chẳng có cái “Không” để khác với cái có, tức là trong Đệ nhất nghĩa có Thế đế vì cả hai đã không có nhau, nên biết được hữu, vô có thể “Có”. Chẳng có cái “Không” để “Không”. Nếu có cái “Có” để “Có”, thì có cái “không” để “Không”. Đây tức là có lẫn nhau. Biết được các pháp từ trên đến đây là không, chẳng có mảy may tướng cuối cùng, thì chỉ đối với người bệnh là “Có”, đối với người am hiểu thì thường không. Bồ-tát Văn-thù đã suy tìm đến chỗ cùng cực của câu hỏi để làm rõ lý này.”

“Này người thiện nam! Thế đế chính là Đệ nhất nghĩa đế.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Hoặc (mê lầm) đều cho sự mê lầm là thật, gọi là thế đế. Dù nói là thế đế, nhưng vì sự thật thì không khác, nên là Đệ nhất nghĩa. Đệ nhất nghĩa thì không bao giờ biến thành thế đế.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Muốn nói cả hai Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế đều là luống dối. Vì sao? Vì hai sự thật thì không thể “Tức” nhau, mà đã “Tức” nhau thỉ đủ chứng tỏ rằng cả hai đều là “Không”.

Pháp sư Pháp Dao nói: “Tên gọi không có hai thật, mà chỉ một thôi. Lý một thật, về mặt lý, thì không thể gọi, đâu thể là tức, chỉ mượn “Tức” để biết rõ “Tức”, gọi là không có hai thật, chứ chẳng phải có một cái thật để “Tức”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Một lời đáp nói lên hai mối quan hệ với nhau: Đã nói “Tức” thì đâu có lỗi “Sở việt”, “Tức” lý là đồng, chẳng lẽ có lỗi nói dối hay sao? Cho nên nói “Tức” là vì chẳng phải lấy “Không” để tạo ra “Sắc”, lấy “Sắc” để tạo ra “Không”, bởi Đệ nhất nghĩa đế xưa nay vốn “Không” thật có. Nay nói Thế đế “Không thật có”, mà đã “Không thật có”, thì đâu thể phân biệt được ư? Nên nói là “Tức”.” Pháp sư Bảo Lượng nói: “Người bệnh bèn nói sinh ra mê lầm (hoặc). Nay, vì muốn giữ lấy tâm mình buộc nó phải dừng lại, cho nên nói rằng Thế đế “Tức” Đệ nhất nghĩa đế, không tìm kiếm pháp ở ngoài pháp, chỉ tìm tên gọi “Tức” vốn y cứ trong “Một”, “Khác” để giải thích mà thôi, chứ thật sự không phải là hai thuyết trái nhau.”

“Bạch Đức Thế tôn! Nếu vậy thì sẽ không có hai đế?”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Nếu Thế đế “Tức” Đệ nhất nghĩa thì chỉ có Đệ nhất nghĩa chứ không có thế đế.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lãnh hội sâu sắc về chỉ thú “Tức nhau”, để gạn lọc giáo xưa mà nói là có hai sai lầm!”

Phật nói: “Này người thiện nam! Có phương tiện khéo léo” cho đến “Một là pháp thế gian, hai là pháp xuất thế gian.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Về lý, như đã nói, chỉ “Một” không hai, phương tiện tùy tục thì nói hai!”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Pháp vốn không có danh tướng, đường ngôn ngữ dứt, chẳng lẽ có thể lấy tên hai đế để chỉ bảo cho chúng sinh biết hay sao? Phương tiện khéo léo, giả gọi chân tục, nhằm khuyến dụ người ngu hãy gần gũi với đạo mà thôi, chứ chẳng phải nói lý có hai.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nếu dùng nghĩa “Không thật có” để giải thích, thì sẽ không có hai. Nếu có cái “Có” để được mà công dụng giả thì hai danh sinh ra, tức là sự sinh của hai danh, y theo vật tình mà lập.

Sau đây là có sáu lớp giải thích:

  1. Vì “Giải” hoặc đối nhau.
  2. Hư, thật đối nhau.
  3. Hữu, vô đối nhau, là điều mà Bồ-tát Văn-thù hỏi.
  4. Giả thật đối nhau.
  5. Hữu vi, vô vi đối nhau.
  6. Gần xa đối nhau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Khéo léo nghĩa là có khả năng nói hữu của bất hữu, vô của bất vô đặt ra hai tên gọi để dẫn dắt chúng sinh. Tuy nhiên vì giải ngộ khác nhau, nên không mở rộng sáu lớp, lại giải thích chỉ thú đó.

Sau đây thứ nhất, là y cứ vào hai hạng phàm, Thánh để nói về hai đế. Nói về hữu là hữu của “Giả hữu”, chẳng có “Thật hữu” để được, “Không” là cái “Chẳng có” của nhân duyên, cũng chẳng có cái “Không” để đầy đủ cả hai. Xứng với hai lý này mà hiểu, thì người xuất gia gọi Đệ nhất nghĩa. Nếu thuyết mà người đời đã nói, nghĩa là hễ nói hữu thì nói rằng có tánh, nói vô, tức cho là đoạn diệt, thì là hữu, vô đều không có thật và sai lầm, vì không rõ lý, nên đối với người này, đều gọi là thế đế.”

“Này người thiện nam! Như cái mà người xuất thế biết” cho đến “Mà biết được, thì gọi là Đệ nhất nghĩa đế.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Năm ấm hòa hơp, chẳng phải “Tức”, chẳng phải “Lìa”, không có tướng nhất định. Bậc Thánh như tánh tướng của năm ấm đó mà biết, vì hơn hẳn người đời, nên gọi là Đệ nhất nghĩa.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế pháp là tám pháp thế gian, trái lại, tức là xuất thế. Cái biết của xuất thế, đó là ba giả và “Không” đều là Đệ nhất nghĩa. Cái mà người đời biết, chắc chắn có tướng, như trâu chắc chắn là trâu, không thể là ngựa, cũng được nghĩa thật, là thế đế.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ nhất, năm ấm hòa hợp, gọi là gì?: Đây là nêu cái mà phàm phu biết, để nói về “Hoặc”, hiểu được ấm là “Không”, đây là nêu cái biết của bậc Thánh, để nói về “Giải”.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Hoặc có pháp” cho đến “Khổ, tập, diệt, đạo”, gọi là Đệ nhất nghĩa đế.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Ngọn lửa nóng lấy không thật làm thật, đây là thế đế. Nhận hiểu ngọn lửa nóng kia không thật, là Đệ nhất nghĩa đế.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nghĩa thật như khổ, tập… có công năng dứt trừ “Hoặc”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên lớp thứ hai, hòa hợp với ấm để nói về “Giải”, “Hoặc”. Nay, nói cảnh có hư, thật, nghĩa là lý của bốn đế.

Khổ thật sự là khổ, không thế làm cho vui. Tập, diệt, đạo đều như thế. Thế đế lấy nghĩa luống dối nặng, không thật có. Biết “Ngã” chúng sinh, là vượt ngoài việc không thật.

Lại, nói các ấm, giới, nhập, là như Tiểu thừa không giống, vì đây mới là “Duyên” pháp thành. Nếu chấp ấm, giới nhập là thật, thì về lý, không thật có, đâu khác với ví dụ vòng bánh xe quay… .”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ hai, y cứ vào hư, thật, để nói về nghĩa, vì luống dối mà có, cho nên là thế đế, vì hợp lý nên là chân đế.”

“Này người thiện nam! Pháp thế gian có năm thứ” cho đến “Biết đúng như thật, đó gọi là Đệ nhất nghĩa.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Cái mà đời chấp mắc là thế đế. Vì nhận biết đúng như sự thật kia là Đệ nhất nghĩa.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế đế không ngoài năm thứ này: thứ nhất là giả danh. Giả danh có nhiều thứ như chúng phần giả, tương tục giả, tương trì giả, cũng có pháp giả, nói chung là tất cả thế đế. Bốn chữ dưới là các chữ riêng, hợp lại, gọi là câu. Các sắc kết hợp thành sự ràng buộc. Âm thanh bảo cho biết, sai khiến là pháp. Y phục, nêu lên tướng mạo cho mọi người thấy, là chấp mắc. Không có những thứ này là Đệ nhất nghĩa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ ba. Đối với năm pháp này, tâm không điên đảo, biết đúng như thật về thể không thật có, tức Đệ nhất nghĩa đế”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ ba là dùng “Không” “Hữu”để nói về nghĩa. Có tên, có công dụng là thế đế. Tánh “Không” là Đệ nhất nghĩa”.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Hoặc đốt, hoặc cắt đứt” cho đến “Không có chết. Không có hư hoại, đó gọi là Đệ nhất nghĩa đế”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đó là lấy tương tục giả, gọi là thế đế, vì mỗi niệm diệt. Pháp thật là Đệ nhất nghĩa”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, y cứ vào giả thật để nói về nghĩa. Như phẩm Đăng Chú trong kinh Bát-nhã nói”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích đồng nhau.

“Này người thiện nam! Có tám tướng khổ,” cho đến “Không có năm ấm lừng lẫy ấm, đây là Đệ nhất nghĩa đế”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Vì có nhiều “Hoặc” nên thuộc về thế đế. Vì không có nhiều “Giải”, nên là Đệ nhất nghĩa”.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên nói khổ là Đệ nhất nghĩa, nay nói là thế đế”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ năm, nói về Kim Cương trở xuống, chưa tránh khỏi tám khổ, là thế đế, chỉ có quả Phật là đối lập với tướng tám khổ, nên gọi là Đệ nhất nghĩa.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích đồng nhau”.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như một người” cho đến “Thật ra là một mà có nhiều tên”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói về chân, tục đều là thế đế. Tùy lợi ích của Thế đế mà có nhiều, có ít. Nhiều gọi là chân ít gọi là tục”.

“Do cha mẹ hòa hợp mà sinh, gọi là thế đế”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Phụng sự gần, xa là thế đế, được thật là Đệ nhất nghĩa”.

Mười hai nhân duyên hòa hợp mà sinh, gọi là Đệ nhất nghĩa đế”. Xét: Pháp sư đạo sanh nói: Giải thì kiến, gọi là Đệ Nhất nghĩa, người có hoặc là thế đế.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Biết từ cha, mẹ thì lợi ít gọi tục. Biết mười hai nhân duyên thì lợi nhiều gọi là chân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ sáu, y cứ vào gần, xa để đặt tên. Mười hai nhân duyên là gần, nghĩa là vì thấy ở lập quả, do vô minh, hành… trong quá khứ, khiến cho cha mẹ thành duyên ngoài, cho nên thành xa. Tìm xét chỉ thú của văn này, vốn nói về nghĩa “Không” “Hữu” của hai đế, gồm thu phép tắc rộng rãi. Nay, sáu lớp đã nói, đều y cứ vào cách đối đãi nhau trong sự, đã nói rõ ở đây. Chỗ trở về của chỉ thú ở câu thứ ba”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích đồng nhau.

“Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi” cho đến “Thật đế của Phật đã nói, ý nghĩa thế nào?

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Y theo thuyết trước nói không rõ, giống như thật đế, hoàn toàn khác với bốn đế, nên lại hỏi”.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hỏi một đế là chung cho sáu đế trên, gọi là thật đế. Vì nhị, thừa ở trên có khổ đế, tập đế mà không chân thật, dường như không thuộc về thật đế của người Nhị thừa. Vì thế, nên phải nói”.

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước đã nói thật đế của Nhị thừa, Bồ-tát có. Nay, hỏi lý do Bồ-tát có được nghĩa của thật đế?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là nói về cảnh tuệ thứ ba, nói về thật đế. Trên, hội thông bốn đế, nói là Thanh văn có khổ, có khổ đế mà không chân thật. Bồ-tát hiểu khổ không có khổ, mà có chân thật. Nếu hiểu lý mà chân thật, thì còn có cảnh nào? Vì sở tri của Thanh văn, nên mới nêu lên câu hỏi này”.

“Phật nói: “Này người thiện nam! Nói thật đế, là pháp chân thật”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Thường, lạc, ngã, tịnh, gọi là pháp chân thật. Bốn đế có, thì gọi là nghĩa thật”.

“Này người thiện nam! Nếu pháp chẳng chân, thì không gọi là thật đế” cho đến “Thì gọi là nghĩa thật đế”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Người Nhị thừa dù có bốn đế, nhưng vì không có chân thật, nên “Hoặc” trở thành “Hoặc” luống dối của tám đảo. Do đó, dù có được kiến giải đi nữa, cũng không phải là sự hiểu biết của Đại thừa. Nếu thể nhận được bốn đế chân thật thì đã không có bệnh”.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phật dùng bảy nghĩa để nói là thật:

pháp chân thật vì lấy thể thường không có biến đổi, không điên đảo, vì cảnh trí đều là thật. Không hư, vì lời nói không có luống dối. Đại thừa vì lấy rốt ráo diệt hết khổ. Đức Phật nói vì lời nói không sai lầm. Một đạo, vì không có nhân khác. Thường lạc vì vô thượng trong quả. Đây là nói lên pháp thật, chẳng có pháp nào không thật”.

Pháp sư Pháp Dao nói: “Thường, lạc, ngã, tịnh là pháp chân thật mà Bồ-tát đã thể nhận, tức là không do điên đảo, mà hiểu chúng một cách chân chánh, xác thật, không thay đổi, đáng nói là thật. Trí, chẳng có đối tượng nào không xem xét, chẳng có pháp nào không nhận thức. Nghĩa của xem xét, nhận thức, đáng nói là “Đế”. Chính vì thế, nên sự hiểu biết của Bồ-tát thật đáng được gọi là pháp chân thật, không điên đảo, không luống dối, gọi là Đại thừa, người của một đạo thanh tịnh, đủ các nghĩa này gọi là thật đế”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thật đế này, nói về lý thì thật mênh mông! Vì sao? Vì hai đế trước chính là gồm giải thích, không gồm thâu chỉ thú quên giải thích. Nay, thật đế tức thể để nói về nghĩa, quên đi chỗ giải thích, cũng lại là thật, tức là “Hoặc” Dưới “Giải” trên, còn có một lý nào không tường tận ư?

Y theo văn, dù có tám câu, nhưng về nghĩa thì không ngoài sáu. Đầu tiên, nói về người tu hành quả Phật là thật. Thứ hai, thứ ba, là hai câu điên đảo luống dối, dùng “Giải”, “Hoặc” để nói về nghĩa. Thứ tư, thứ năm, căn y theo giáo để nói về sự thật. Thứ sáu, nói về nhân thật. Thứ bảy, nói về quả thật. Nay, sáu câu đã không gồm thâu tất cả, lại dùng thật cảnh để gồm thâu. Hai câu thứ nhất, thứ bảy ở trước thì y cứ vào nhân, sau này thì y theo “Pháp”, vì lập trường này là khác!

Điên đảo luống dối: Y cứ vào chỗ nặng nề của “Hoặc” kia để nói. Luống dối, nghĩa là từ chưa tránh khỏi “Hoặc” với nhau, tâm Kim Cương trở xuống là nói theo chỗ nhẹ”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Có bảy lớp nói về sự thật.

  1. Nói về thể của quả là thật. Pháp chân thật: Nếu pháp không chân thì sẽ không gọi là thật, nên biết được Diệu thể của thần minh chẳng phải do nhân ngụy sinh ra. Về tướng lý vắng lặng, vượt ngoài lời nói, chỉ một pháp này cũng có khả năng xứng chân mà thật.
  2. Y cứ vào cảnh giới để nói về thật.
  3. Y cứ vào chánh trí là thật, tà “Giải” chẳng phải thật.
  4. Nói Đại thừa là thật, Tiểu thừa chẳng phải thật.
  5. Nói về giáo thật, điều mà giáo xưa giải thích chưa quyết định tỉ mỉ về sự thật, phải là Đức Phật nói đương thời hữu ích, cho nên là thật. Ma giáo khuấy rối chân làm cho người tu hành phải rơi vào vòng sinh tử, nên nói chẳng phải thật.
  6. Một đạo thanh tịnh, là nói về nhân thật, một đạo là một nhân, nếu có một nhân khác thì chẳng phải thật.
  7. Thường, ngã, lạc, tịnh, nói về quả thật. Vì sao khác với câu thứ nhất? Vì câu ấy nói về thể của quả, là nói khi đắc quả. Đây là nói về việc làm của đệ tử Phật, chắc chắn sẽ được bốn pháp này, nên đây là nói quả trong nhân, lấy đó làm khác”.

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Không khác với Phật tánh”.

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Trước kia nói rằng bốn đế có thật, gọi là thật đế, mà Như lai, hư không, Phật tánh đều là chân thật, tức là bốn đế chân thật, hợp thành ba. Vì ba hữu không thật, nên phải phân biệt”.

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Văn-thù cho thường là chân thật. Pháp thường có ba: Đó là quả gọi là Như lai, nhân gọi là Phật tánh, những thứ còn lại gọi là hư không. Ba pháp thường này không khác nhau, có tự thể chân thật, pháp khác chẳng phải thật.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Đã nói Bồ-tát được làm nghĩa thật đế, dường như ngang bằng với Phật, nên phát ra câu hỏi này. Sẽ chỉ rõ Như lai khác với Bồ-tát: Bồ-tát có thật, có đế, còn Như lai chỉ có thật mà không có đế. Vì sao? Vì đế có nghĩa là dụng chiếu sáng, xem đoán. Như lai thì lý cùng cực, đạo dứt, thôi chiếu, bỏ xem xét, trong lặng, mãi mãi yên ổn, vì thế, nên không có tên đế. Vì thường trụ không thay đổi, nên có tên gọi là Thật. Lại có nghĩa: Một đế là tên vật cố định. Như lai cùng cực vắng lặng, vượt ngoài danh số, vì danh chẳng quyết định được, nên dưới đây sẽ nói rộng về bốn đế, nhằm giải thích Như lai không có nghĩa Đế.

Từ đây trở xuống, chưa cùng tận lý. Nếu lý cùng, thể viên, chiếu sáng, xem xét sự vật, thì được gọi là quyết định.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Văn-thù nhận hiểu sáu câu dưới, đặt ra câu hỏi, tức là Như lai, là từ ngữ hội ba pháp để nhận hiểu. Sở dĩ có sự nhận hiểu này là vì trước đây dù nói là đồng với thật, nhưng dường như khác với quả, thể là một, nên phải phân biệt.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là phân biệt bảy môn trên. Y theo sự giải thích trong chương thứ nhất có năm lớp:

  1. Nói “Khác”.
  2. Giải thích “Khác”.
  3. Kết chân.
  4. Sai khiến đối trị.
  5. Nắm lại các khổ để kết câu.

Đại ý hỏi: “Chỉ có ba pháp như hư không… là ngoài ba pháp thật đế, không còn có thật đế khác ư?”

“Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Có khổ, có đế” cho đến “Phật tánh chẳng phải khổ, chẳng phải đế là thật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu cho rằng không thay đổi là thật thì có thường mà không thay đổi, vô thường mà không thay đổi. Thường, vô thường khác nhau, nghĩa thật không khác, tất cả đều thật.”

Chẳng phải khổ, chẳng phải đế: Là “Giải thích nghĩa thật, vì học địa tìm cầu, nên có đế không đế. Vô học không có mong cầu, nên chẳng phải đế.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Phàm phu có khổ, không có đế, Nhị thừa có khổ có đế, Bồ-tát có đế có thật, Đức Như lai có thật, không có đế.” Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây sẽ có năm lớp giải thích:

  1. Trãi qua bốn đế, nói Như lai khác nhau.
  2. Giải thích lý do khác nhau.
  3. Giải thích tâm nghi của người. Nghi rằng, có thể khác với bốn đế. Nhưng ba pháp này đâu hẳn là không có tự thể riêng? Nay nói ba pháp một thể, cho nên là thường, trở thành nghĩa khác nhau.
  4. Kết thúc chẳng phải.
  5. Tổng kết, giải thích.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là lớp thứ nhất, nói về “Khác”. Trãi khắp bốn đế, đương thể đều là thật, tuy đương thể là thật nhưng chẳng phải thật của ba pháp trên, nên dưới đây nói: “Như lai chẳng phải khổ, chẳng phải đế là thật, nghĩa là thật của quả đế cùng cực chẳng phải cái thật của bốn đế.”

“Văn-thù-sư-lợi! Nói khổ” cho đến “Hư không, Phật tánh cũng giống như vậy.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý khổ, thật như vậy, nên gọi là chắc chắn, xét là thật đế. Lại, gọi Bồ-tát, là hiểu khổ được thật, là thật đế. Về nghĩa của ba đế dưới cũng đồng. Như lai chẳng phải đế, vì như trước đã giải thích, nên không giải thích từng câu một.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ hai, giải thích lý do nói là pháp vô thường trôi chảy đoạn hoại. Pháp sư Bảo Lượng nói: Lớp thứ hai là giải thích khác. vì sao? Vì thật của Như lai chẳng phải là thật của bốn đế. Khổ là pháp có thể dứt bỏ, vì thật của Như lai không thể dứt trừ, cho nên khác nhau.”

Lại nữa, này người thiện nam! Cái gọi là Tập cho đến hư không Phật tánh cũng giống như vậy.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Tập, có công năng làm cho năm ấm ở vị lai được hòa hợp và thể của chúng là lưu động.”

“Này người thiện nam! Nói diệt, là phiền não dứt diệt” cho đến “Hư không Phật tánh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Xét danh mà nói, thì chỉ ở kiết diệt, không đề cập đến bất diệt. Kiết diệt hại trừ, về lý nên chứng biết. Ở đây gọi là đế. Đế lấy xét sự thật làm nghĩa, nên nói là thật, chứ chẳng phải cái gọi là thật đế ở trước nói.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Diệt đế, noi diệt là vì không có phiền não, chứ không có pháp nào gọi là diệt. Dưới đây, thông qua học địa có thường, vô thường, do trí chứng diệt, nên gọi là chứng pháp. Tánh của Như lai rốt ráo không gọi là chứng. Biết là do trí gọi là chẳng phải không có. Nếu dứt được phiền não thì chứng chẳng phải không có. Dứt trừ được kết, chỉ là tánh quả, không thông qua chẳng phải thường, vô thường của học địa. Trí không thể tự chứng vì chẳng phải chứng pháp.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Diệt có hai thứ: Một là kiết diệt; hai là Niết-bàn. “Thiện” cũng có danh gọi là diệt, thiện có diệt tức là Như lai. Nay, nói kiết diệt, không nói “Thiện” có diệt, cho nên cái gọi diệt, là phiền não diệt. Kiết của Nhị thừa diệt là chưa cùng cực. Cùng cực nghĩa là vì dứt kiết, nên vô thường. Kiết của Phật đều diệt, là tích cực diệt, cùng cực diệt, không có duyên cớ gì làm thay đổi được nên thuộc về thường. Dù là diệt, nhưng thể đều là diệt kiết mà thôi. Chẳng phải là thể vô phương của Như lai, nên sẽ diệt, gọi là dĩ vãng, chắc chắn nói là đế diệt. Vô sinh diệt có thể nói là thật, đây là nghĩa thật đế. Lại, y theo kiến giải của Bồ-tát là thật đế.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Người Nhị thừa diệt ba tâm, dù còn vô vi, nhưng chưa phải cùng cực và vì còn có sự cầu tiến, nên gọi là vô thường. Lĩnh vực mà Chư Phật đã dứt trừ đều đầy đủ ở đây, vì không còn tiến thêm nữa, nên thuộc về thường. Nay Đức Như lai không gọi là diệt, chẳng phải thường, vô thường, chẳng gọi là hai thứ diệt, gọi là chứng biết, không gọi là hai pháp đã chứng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Vì thể không có vật, nên thuộc về thường, tuy nhiên, vì có mãn, không mãn, nên gọi là vô thường. Tánh Như lai không gọi là diệt, là nói “Diệt” của Như lai chẳng phải là năng “Diệt” phiền não dứt sau, cũng chẳng phải cái thường của dứt vô. Lại chẳng thể chứng đắc. Thường trụ không biến đổi, đã là “Diệt” của đoạn diệt thì chẳng phải tịch của chân thường. Nói thẳng là vì tánh này không thay đổi, nên nói là thường trụ.”

“Này người thiện nam! Đạo là dứt bỏ được phiền não” cho đến “Hư không Phật tánh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Tên của đạo là ở công dụng thông suốt qua, không nói không có công dụng. Chưa cùng cực thì phải chuyển biến tinh tấn hơn lên, nên là vô thường. Đã cùng cực rồi thì là thường.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì đạo là nhân của diệt, nên gọi là năng đoạn, vô lậu vì không lui sụt nên nói là thường. Vì thể của đạo là sinh, diệt, vô thường, hữu vi, nên còn gọi là pháp tu. Như lai chẳng phải đạo, cho đến chẳng phải pháp tu. Như lai không suốt qua Học địa, vì chẳng phải là nhân diệt, nên chẳng phải đạo, tuy Như lai có khả năng dứt kiết, nhưng chẳng phải đạo hữu vi, chẳng phải thường, vô thường, cũng chẳng phải pháp tu.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Danh từ đạo, là đời đời tiến thú, dụng công trừ diệt. Đức Như lai thì hoàn toàn không có công phu này, vì cho nên chẳng phải đạo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Cũng thường, vô thường, là nói người Nhị thừa thì làm lại, cầm giữ, lại hướng về nghĩa Phật, nên gọi là vô thường. Bồ-tát vốn tự hướng về Phật, vì không có chuyện làm lại cầm giữ, nên là thường. Đức Như lai chẳng phải đạo có khả năng dứt phiền não, có khả năng vì đạo giải thoát mà chứng dứt. Chẳng phải thường, vô thường, chẳng phải hai thứ đạo.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tự bốn thời kinh giáo không có lời này. Nay, Đại thừa liễu nghĩa, thì chỉ thú của kinh giáo kia mới bắt đầu phán quyết. Được biết thần minh lấy chân, tục làm bản chất. Vô lậu, giải thoát đã nhờ sau khi phát được một trong các quả báo này, nên kiến giải kia thường còn, chỉ đối với công dụng của tục đế, tự có thể dứt. Y cứ vào chân để giải thích, thì bên dụng thường mà không hư hoại. Việc này cũng không liên quan gì đến thường của nối tiếp nhau. Kinh nói: “Vốn được không mất, vì người tốt được đặt tên. Nay tìm kiếm chỉ thú này, tất nhiên chẳng phải pháp trước sinh, sau diệt. Đoạn văn dưới đây lại nói: “Phiền não cũng thường, vô thường. Sau khi khởi phiền não, nếu chưa được đối trị về sau thì, thường gây chướng ngại cho người tu hành. Dù có lời này, nhưng vì từ đầu đến cuối, đều được sức đạo đối trị, nên cuối cùng sẽ rơi vào môn vô thường! Tuy nhiên, đạo đế từ đầu đến cuối không có một pháp nào bị cái khác đối trị nữa, nên trước sau trở thành thường. Chính vì chứa nhóm Thập địa để nói về kiến giải đã mãn, thành tựu quả cùng cực. Khi kiến giải chưa mãn thì gọi là Nhân.

Nếu mãn thì gọi là quả.”

“Này người thiện nam! Nói chân thật” cho đến “Phật tánh chính là chân thật.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, là giải thích lý do là thường. Vì ba pháp không khác nhau, nên được như vậy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ ba là kết chân.”

“Này Văn-thù-sư-lợi! Có khổ, có nhân khổ” cho đến “Hư không và Phật tánh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói bốn đế đã khắp, nên kết thúc nghĩa trên đây, đã nói rằng Như lai chẳng phải đế, là thật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thư tư, kết thúc là chẳng phải.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ tư, nói về bốn đế, vì là đối trị gọi là thật. Như lai như thật vì chẳng phải đối trị, nên là thật của chân thật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ tư, kết thúc “Không” phải?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ nói về tứ đế, vì là đối trị, nên gọi là thật. Như lai như thật vì không phải đối trị. Nên là sự thật của chân thật.”

“Khổ, là hữu vi, hữu lậu, không có niềm vui” cho đến “Yên lặng, yên vui là thật, chẳng phải đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ năm, là kết thúc việc giải thích.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lớp thứ năm, dùng khổ để kiết câu: “Nói Như lai chẳng phải hữu lậu, mà là vắng lặng, yên vui. Thế nên là thật.”

 

Phần 7

  • Giải thích rộng bảy nghĩa thật đế ở trước.
  • Rộng nêu thường, lạc, ngã, tịnh, mà ngoại đạo chấp.

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn” cho đến “Tất cả điên đảo không gọi là thật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã hỏi về chân. Kế là hỏi về bốn đảo (bốn điên đảo): Nếu không nhập bốn đế thì pháp thuộc về thật đế sẽ không cùng tận. Sau đây, cuối cùng Phật cũng nói như vậy.

“Một đạo trở xuống, không hỏi về nhiếp thâu thật chẳng cùng khắp, mà chính là nói về lời thật không lạm!”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên đây đã nói về bốn đế, đều gọi là thật đế, tương tự như điên đảo, hoặc vọng, chẳng thuộc về khổ đế, tập đế, vì lý do đó, nên mới phát câu hỏi này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ở đây giải thích vể thật cảnh thứ hai. Hỏi: “Trong bốn đế có điên đảo hay không?” nếu có, thì sao lại nói là thật? Còn nếu bốn đế không có điên đảo thì ngoài bốn đế lẽ ra còn có pháp khác nữa mới phải?”

“Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Tất cả điên đảo” cho đến “Chẳng có điều gì không phải khổ, mà đều là khổ.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Dùng tận tưởng tượng mà nói, thì đó là điên đảo. Dùng tánh để quán sát là nhập khổ đế.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Lẽ ra nói là đều nhập khổ đế, tập đế.

Nay chỉ nói nhập khổ đế, là y theo một bên!”

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói” cho đến “Vì đã dứt trừ nên gọi là thật đế.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thật trí thứ ba. Nếu cảnh sở duyên của trí không có chỗ khế hợp thì tức là luống dối.” Văn-thù- sư-lợi bạch Phật rằng: như lời Phật nói cho đến là pháp thay đổi, gọi là không thật.

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thật thừa thứ tư. Vì quên tướng trong duyên Đại thừa, nên là thật. Tiểu thừa vì chấp tướng nên không thật.”

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật đã nói” cho đến “Những điều luống dối như vậy, gọi là lời của ma.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giải thích thật giao thứ năm. Chỉ có lời Phật nói. Chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Lời ma nói sinh ràng buộc, nên chẳng phải thật.”

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói” cho đến “Họ không có đạo duy nhất thanh tịnh “Không hai”.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chẳng phải diệt mà nghĩ là, diệt, là chấp phi tưởng là quả Niết-bàn, tám thiền là nhân Niết-bàn.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích thật của một nhân thứ sáu.”

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Như lời Phật đã nói” cho đến

“Cũng đều nói các hành pháp là thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghĩa là lời nói của Phật, người thường không thấy. Ngoại đạo chấp ấm là thường, vì xem xét qua lại mà chấp, nên lẽ ra là có.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Giải thích quả thật thứ bảy. Bồ-tát Vănthù chấp sở chấp của ngoại đạo, trải qua bốn pháp này, lời nói ở dưới, gồm hai mươi ba câu.”

“Thế nào là thường vừa ý, không vừa ý” cho đến “Nếu là thường thì tức là thật đế.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dùng bảy việc để chứng minh thường.”

“Bạch Đức Thế tôn! Có các ngoại đạo lại mói rằng có lạc” cho đến “Vì có các bậc Thượng, Trung, Hạ, nên biết rằng có lạc.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dùng năm việc để chứng minh có lạc.”

“Bạch Đức Thế tôn! Các ngoại đạo lại nói có tịnh” cho đến “Do nghĩa này nên gọi là tịnh.” Xét: Pháp Sư Bảo Lượng nói: Dùng ba việc để chứng minh thanh tịnh.

“Bạch Đức Thế tôn! Các ngoai đạo lại nói có “Ngã” cho đến

“Cho các hành pháp là thường thì không đúng.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Định muốn phá chấp, đáp câu hỏi kia, trước, dùng hai mươi việc để quở trách chấp của ngoại đạo.”

“Này người thiện nam! Ta quán sát các hành pháp đều là vô thường” cho đến “Chẳng có một pháp nào không từ duyên sinh?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đã nói là hành, thì về lý, tự nó vô thường. các pháp từ duyên, là chứng minh rằng các hành pháp là vô thường, pháp từ “Duyên” khởi, xưa không, mà nay có, đó gọi là “Sinh”. Đã có rồi lại không, đó gọi là “Diệt”. Vì sao? Vì tâm lấy đối tượng duyên (sở duyên) làm gốc. Vì không thích hợp với sở duyên, nên cho rằng vốn không, mà tâm tự sinh ra ngang trái, là nay có. Cây mọc theo chiều ngang, không có rễ, mọc lên rồi tự chết. Nhân đã như thế, thì quả cũng như thế. Vì thế kinh nói: “Vì nhân vô thường, nên sắc vô thường”, đây là bằng chứng cho vô thường kia.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Sơ chấp của ngoai đạo không được tách rời ấm trong mỗi pháp đều từ duyên. Chỉ có Phật tánh không từ duyên sinh, nên chẳng thuộc ba đời.”

“Này người thiện nam! Phật tánh không có sinh, không có diệt” cho đến “được nhiếp giữ. Đó gọi là thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là tánh của chánh nhân, cũng từ duyên thấy, chẳng phải từ duyên sinh. Vì sao? Vì hành “Duyên” cầu lý, mà lý chẳng phải trước không nay có, nghĩa là bất sinh. Niệm niệm thường mong cầu, gọi là bất diệt. Đã chẳng phải sinh diệt, không có đi, không có đến, cũng không có ba đời. Vì nhân không sinh khởi theo chiều ngang, nên chẳng phải tạo tác. Vì không dùng một pháp làm nhân, nên chẳng phải danh. Nói là chánh nhân, chẳng phải không có danh. Chẳng phải danh, chẳng phải sắc, cho đến chẳng thuộc về ấm giới, chứng tỏ không có danh. Ấm, giới có hư hoại mà Phật tánh không diệt, không nhiếp thuộc, cho nên gọi là Thường. Do hai nghĩa thường: Một là Chắc chắn được quả; hai là nhân không thể diệt.”

“Này người thiện nam! Phật tánh tức là Như lai” cho đến “Đều là nói dối, không có chân đế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thấy tánh thành Phật, tức tánh là Phật. Như lai là pháp, nghĩa là pháp tức tánh không, tánh không tức pháp, pháp tức Phật tánh. Phật tánh là “Có”, tánh không là “Vô”. Phật thấy hữu, vô gọi là Giác.

Phật tức là pháp, pháp tức là thường, là chấp chung hai câu. Vì thấy thường nên Thường. Như lai tức là Tăng, thấy thường mà thường hòa hợp, hòa hợp là nghĩa Tăng. Pháp thầy là nghĩa đệ tử Tăng tức là Thường, nghĩa là vì thấy thường nên được Thường. Nếu không biết Tam bảo là Thường, mà nói là Thường, thì gọi là nói dối.”

“Các phàm phu trước đã thấy bình, y, xe cộ, nhà cửa cho đến Phải biết rằng, những vật dụng đó thật chẳng phải thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chứng minh không thấy mà nói thấy, tức là nói dối”. Tất cả hữu vi đều là vô thường: Sẽ y theo hữu vi để nói về nghĩa vô thường, vì hữu và vô đối lập nhau.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nêu câu thứ bảy trong chấp thường để nói là lời nói tương tự, trước sau nối nhau. Thể của lời nói đó niệm ý niệm sinh diệt, đâu phải là thường?”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Chấp rằng”: Trước đã thấy chiếc bình, y phục… thời gian sau, cũng biết được. Phải biết rằng đã có một thần ngã thường, nên thường mới được như thế. Dưới đây sẽ bỏ bớt chỉ còn hai câu hỏi:

1. Rằng: “Nếu tâm Ông là thường, thì nên đồng với Nhất thiết Trí của Phật. Vận dụng thường xuyên, tự không có hạt giống dời đổi. Khi nhãn thức tiếp xúc với trần, lẽ ra duyên riêng tất cả pháp, mà hiện nay thì không như thế, mỗi niệm sinh diệt, duyên đây, bỏ kia, nên biết tâm là vô thường.”

2. Rằng: “Dùng cảnh để quyết định tâm, nếu quả thật tâm từ duyên sinh mà thường, thì lẽ ra phải thường bảo thủ một pháp, không được thay tâm, đổi duyên mới phải? Vì sao? Vì tâm đã là thường thì lẽ ra thường, quán vô thường không được, lại duyên không vô ngã, mà hiện nay, vì tâm “Duyên” khắp tất cả cảnh, nên biết là vô thường.”

“Này người thiện nam! Tất cả pháp hữu vi đều là vô thường” cho đến “vô vi là thường.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sẽ y theo pháp hữu vi để nói về nghĩa vô thường, lại dùng hữu, vô đối nhau.”

“Này người thiện nam! Pháp hữu vi gồm có hai thứ” cho đến “Sắc pháp là đất, nước, lửa, gió.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Trước chỉ nói vô thường, nay phát ra pháp kia, chỉ là sắc tâm.”

“Này người thiện nam! Tâm gọi là vô thường” cho đến “Cho đến nhân duyên của ý thức cũng khác như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tâm duyên lấy cảnh mà khởi, trước sau tương ứng, rõ biết chung một duyên. Đây là nói chung, dưới đây là nói riêng:

Tánh của nhãn thức là khác, là nhãn thức duyên hiện tại, ý thức duyên quá khứ, vị lai. Tương ứng với cảnh giới sau đây cũng thế:

Nhãn thức lẽ ra duyên riêng tất cả, là nhãn thức không diệt, vận

hành trong các căn, lúc ở tai, lẽ ra cũng phải thấy sắc, vì tánh của thức không khác. Nếu vậy thì lẽ ra phải “Duyên” với tất cả pháp. Nay thì không như thế, vì phàm phu chấp điên đảo là thường.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Vì nhân duyên phá hoại các hành” cho đến “Các pháp nhớ nghĩ không nên quên mất.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nói là hạnh vô lậu khác với vô lậu ở chỗ là dứt trừ các hành, cái gọi là tâm tánh của Thanh văn khác, cho đến tâm của ngoại đạo.

Trên, là nói về phiền não khổ, vui, là nói đệ tử Phật. Ở đây là nói ngoại đạo không thể phân biệt được các sắc, chính là lấy sự biết rõ làm tâm. Hiểu rõ màu xanh không thể hiểu rõ màu vàng. Nhãn thức không thể nhận lấy sắc.”

“Này người thiện nam! Nếu tâm là thường” cho đến “Vì có khác nhau, nên phải biết tâm là vô thường.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Tử đây trở xuống là đáp ba câu hỏi thứ tư, thứ năm, thứ sáu trong chấp thường. Y cứ vào sắc, tâm để phân biệt tướng mạo, bác bỏ kiến chấp kia.”

“Này người thiện nam! Nay ta đối với pháp phi sắc này” cho đến “Trước là hỏi về việc này, ta đã đáp câu hỏi đó.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây, nói lược về tánh chất của sắc trong ngoài xưa không, mà nay có, đã có rồi nay lại không, thường mà khác với tất cả sắc bên trong.”

 

Phần 8

  • Phá nghĩa mà ngoại đạo chấp.
  • Giải thích nghĩa lại xoay bánh xe pháp.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Các hành pháp đều vô “Ngã”” cho đến “Do nghĩa này nên nhất định biết là vô “Ngã”.

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Chuyên nhớ nghĩ, là chứng minh việc thứ ba, thứ tư của người chủ trương thường. Thường thì tự tại, cho nên gồm phá.

Lại nữa, “Này người Thiện nam! Nếu các ngoại đạo” cho đến “Nhu lai có ngã chân thật như thế.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sáu việc chấp ngã. Các căn hòa hợp giả gọi là ngã. (Ngã giả danh) giả gọi chỉ gọi nhà, gọi tên.”

Lại nữa, “Người thiện nam! Nếu các ngoại đạo” cho đến “Do nghĩa này nên biết chắc chắn vô “Ngã”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đả phá chung việc thứ nhất, thứ hai. Trước dùng miệng để phá việc thứ tư.”

“Này người thiện nam! Các ngoại đạo này ngu si như trẻ con” cho đến “Có chân thật đế, chẳng phải như ngoại đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ngã” vốn ở Phật địa. Ngoại đạo vì không nhận biết được chút phần của ngã, nên chấp bừa các hành là “Ngã”, như người mù bẩm sinh không thấy sắc, chỉ lấy sự hiểu biết của mình làm màu sắc, không bao giờ biết được tướng của sắc.”

“Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Ít có thay!” cho đến “Nên phân biệt chân đế như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bốn đế, hai đế, từ trên đến đây, gồm là nói rộng, nhằm chỉ bày rõ ứng tích, giống như trái với duyên cớ sẽ được muốn hội thông.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Nghe ở trên nói rộng về nghĩa chân thật của bốn đế, khen ngợi thật đế của thuyết nay, lại xoay bánh xe pháp ở Vườn Nai xưa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ba lớp nói về tuệ, cùng tận lý tánh, hạnh Thánh đã hoàn tất. Bồ-tát Ca-diếp lấy tâm của chúng đương thời, giả làm nhân bất đạt, nhằm dứt hết hoài nghi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Phần thứ tư trong một phẩm, là bỏ chấp nói về trí tuệ. Nếu pháp thuộc về tâm rỗng không trong duyên thì sẽ thành dụng của trí tuệ. Một câu hỏi của Bồ-tát Văn-thù trở thành ba lỗi:

  1. Nói Như lai thật có Niết-bàn.
  2. Đức Phật có tâm xoay bánh xe pháp.
  3. Cho rằng lại xoay bánh xe pháp .”

Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nay ông vì sao” cho đến “Thường trụ, không thay đổi, không nhập Niết-bàn?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Xoay bánh xe pháp, nghĩa là nói pháp mà Phật đã nói, sao cho người nghe được tỏ ngộ, là chuyển. “Kiến giải” để dẹp bỏ “Hoặc” là luân. Nếu Đức Phật có nói, tất nhiên hữu vi có cùng tận, làm sao gọi là Niết-bàn? Nay, Phật không có nói mà chúng sinh tự nghe không diệt, vì con người tự diệt, nên nói là không Niết-bàn.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghi có ba ý, ở đây giải thích ý thứ nhất.”

“Này người thiện nam! Nếu có người chấp ta là Phật” cho đến “Như lai lại vừa xoay bánh xe pháp!”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây giải thích về không chuyển, có hai ý:

  1. Do không chuyển, nói chuyển.
  2. Y cứ vào dấu vết thì lẽ ra có chuyển, đây là ý thứ nhất: Không chuyển, nói chuyển.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Giải thích không chuyển, có ba lớp:

  1. Chỗ cùng cực, không có chuyển.
  2. Vì ứng nên có chuyển.
  3. Làm rạng rỡ tướng của chỗ cùng cực, như hư không.”

Này người thiện nam! Ví như do mắt “Duyên” sắc, duyên ánh sáng” cho đến “Chẳng phải cảnh sở tri của các Thanh văn, Duyên giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ hai nói về nghĩa có xoay

bánh xe pháp, “Duyên” là nguyên nhân có ứng tiếp.”

“Này người thiện nam! Cũng như vậy chẳng phải sinh, chẳng phải xuất, chẳng phải tạo tác, chẳng phải pháp hữu vi.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba, nói về địa cùng cực, không để tâm xoay bánh xe pháp, như hư không kia.”

“Này người thiện nam! Lời thuyết giáo của Chư Phật, Thế tôn có hai thứ:” cho đến “Vì các Bồ-tát nói xuất thế ngữ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lớp thứ tư, nói về tiểu giáo xưa, Đại giáo nay. Không nên nói “Lại”. Nêu vì đem lại lợi ích cho chúng sinh mà nói là “Lại” thì Bốn mươi chín năm đến nay, chưa có lúc bắt đầu nào không lợi ích. Vì thế, không phải đến ngày nay mới nói là “Lại”.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Dưới đây sẽ giải thích không có nghĩa “Lại”, có chín lớp, lớp thứ nhất nói về sự khác nhau của giáo, nghĩa là giáo xưa cạn, giáo nay thì sâu.”

“Này người thiện nam! Các đại chúng này lại có hai hạng” cho đến “Vì các Bồ-tát chuyển đại pháp luân.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ hai, nói về mục đích khác nhau của thừa: Giáo xưa nói cho người cầu Tiểu thừa còn giáo hiện nay thì nói cho người mong cầu Đại thừa.”

“Này người thiện nam! Lại có hai người” cho đến “Người hạ căn tức Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ ba nói về căn cơ khác nhau: Giáo xưa nói cho người căn cơ bậc trung, nay nói cho người căn cơ bậc thượng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Người cầu Phật đạo” cho đến “Vì xoay bánh xe đại pháp cho hạng tinh tấn bậc thượng.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là lớp thứ tư, nói về tinh tấn khác nhau: Xưa vì người tinh tấn bậc trung, còn nay thì nói cho người tinh tấn bậc thượng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ngày trước, Như lai ở thành Bala-nại” cho đến “Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác.” Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Lớp thứ năm là nói được đạo khác nhau. Xưa tám muôn vị trời, người ngộ quả Tu-đà-hoàn, nay tám mươi vạn ức người không còn lui sụt Tam-bồ-đề,

Lại nữa, “Này người thiện nam! Lúc Như lai ở thành Ba-la-nại” cho đến “Đảnh lễ Như lai xoay bánh xe đại pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ sáu là nói về chủ thỉnh:

Ngày xưa là Phạm vương, ngày nay là Bồ-tát Ca-diếp.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Ngày trước khi ở thành Ba-la-nại” cho đến “Như lai giảng nói về thường, lạc, ngã, tịnh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ bảy nói về giáo lý khác nhau: Xưa nói vô thường, nay nói pháp thường.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Ngày xưa Như lai ở thành Ba-lanại cho đến bốn duy, trên, dưới, cũng như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ tám, khi nói pháp, tiếng nói của Như lai được nghe xa gần khác nhau: Xưa, chỉ có Phạm thiên được nghe, hiện nay, thì thấu suốt tận các thế giới nhiều như như số cát sông Hằng ở khắp mười phương.”

““Lại nữa, này người thiện nam! Chư Phật, Thế tôn” cho đến “Đều gọi là xoay bánh xe pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Lớp thứ chín, nói về Như lai, từ khi ra đời đến nay, chẳng lúc nào không xoay bánh xe pháp, nay đâu “Lại” có ư?”

“Này người thiện nam! Ví như vua Chuyển Luân có Luân báu” cho đến “Kinh Đại Niết-bàn, thực hành hạnh Thánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Khen ngợi pháp luân.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Chính vì có thể vâng hành, nên gọi là hạnh Thánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên đã nói Giới, Định, Tuệ chung cho Bồ-tát, được xưng là hạnh Thánh. Vì chưa biết thật đế rốt ráo, có thông qua Học địa hay không? Nên mới hỏi.

Thánh, chỉ cho Chư Phật, Thế tôn: Nói về rốt ráo thật đế, là được xưng Hạnh Thanh, chỉ có Phật, Thế tôn.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Sau đây sẽ nói về Thánh, không nói về Hạnh:

Từ trên đến đây đã nói giới, định, tuệ, là công hạnh của bậc Thánh đã thực hành, chẳng phải nói về Thánh. Cho nên nói Phật thuyết nghĩa Thánh. Thánh nghĩa là “Chánh”. Như lai mới xứng đáng với địa vị Thánh. Nay kết hợp với Hạnh Thánh mà nói, theo y chỉ thì không ở hạnh.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Ở trên trong phần nói về giới, đã kết danh hiệu Thánh. Nay, nói về ba pháp đã xong. Lại tổng kết Hạnh Thánh.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đoạn năm là kết quả.”

“Này người thiện nam! Đại Bồ-tát này” cho đến “Cho nên địa này được gọi là Vô sở úy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ba địa trước là nhân, bốn địa sau là quả. Vì tuệ có có công năng cắt đứt nhân quả, nên nói chung là đức địa, cũng là người không sợ ba đường ác, vì dứt ác dần dần, nên nói theo thứ lớp. Vì ba đường ác này thô nên dứt trừ trước, ác có hai thứ, đây là điều ác trong điều thiện. Không sợ thọ hai mươi lăm hữu, nghĩa là không có việc ác như trên, có công năng cắt đứt hai mươi lăm cõi.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Được công hạnh giới, định, tuệ ở trên, chính là vào địa Sơ trụ này. Vì lìa năm sự sợ hãi, nên nói là địa vô úy.

Sự tham, giận dữ, bệnh, chết…, tức là sợ không chết, không sợ sống. Hạng xiển-đề…, nghĩa là lìa sợ tên ác. Không sợ ba đường ác; là một có đường ác nào phải sợ. Không sợ Sa-môn, cho đến Ba-tuần, không sợ đại chúng, Địa bất động ở trước bắt đầu vào Sơ địa.

Địa Kham Nhẫn là địa Vô úy này trong sơ địa, địa sau cùng trong sơ địa, cũng có thể là Thất trụ đã dứt hết, bắt đầu không có sợ về ba sợ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Địa Vô úy là Thất địa. Trước đây, trong quả của kiết giới có nói: “Đầu tiên là địa Bất Động”, kế là, kết về quả của định, đã nói: Địa Kham Nhẫn thứ ba. Nay, kết quả của tuệ, chỉ cho định của Thất địa. Vì sao? Vì chỉ bày công hạnh có cạn sâu, kết quả cũng khác nhau. Nói vô úy là Thất địa, đó là dựa vào thường để giải thích Thất địa là địa Viễn Hành. Nay, nói là vô úy, nghĩa là vì không sợ quả báo của ba cõi, nên gọi riêng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Quả vô úy cũng đồng là Sơ địa. Nói tuệ là tánh của giải, không có duyên mà vẫn soi sáng. Đã có đủ sự hiểu biết của vô phân biệt, nên dùng vô úy để kết thúc:

  1. Không sợ không sống, vì Bồ-tát đã biết rõ muôn pháp với tướng không, chẳng nhờ vả ở sự sống, há lại sợ không sống ư? Vì không lo sợ, nên không sinh ra ba độc, cho nên sẽ chẳng sợ mình không sống.
  2. Không sợ ba đường ác.
  3. Không sợ tên đường ác.
  4. Không sợ oai đức của đại chúng.
  5. Không sợ sinh tử.

Bậc Đại sĩ không hề sợ sinh tử của hai mươi lăm hữu.

Này người thiện nam! Đại Bồ-tát” cho đến “Tất cả công đức mà có thể nói?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trí có công năng dứt trừ kiết, nếu chẳng có định, thì không thành. Vì cho nên do định mà nói trí. Nếu muốn thổi nát núi chúa Tu-di, cho đến nghiền nát khổ của thân Địa có hai quả: Một là diệt ác; hai là thần thông. Cả hai đều nói tên đó. Vì sao? Vì trên đã nói dứt hữu (cõi), hoặc cho rằng không vào cõi vì hóa độ. Lại ra khỏi sự tự tại, để tiêu biểu cho tên đất, giải thích nghi ngờ kia.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là nói tiến dần lên, hướng về Bát địa. Hướng về Thất địa rồi, không sợ quả báo đường ác mà vẫn chưa khỏi hai mươi lăm cõi, nghĩa là y theo Thất địa, tự có báo thân dư thừa. Nay, Bát địa trở lên, vì hoàn toàn là pháp thân, nên nói hai mươi lăm cõi. Tam-muội chẳng phải tuệ, nhờ định sanh tuệ giúp thành lẫn nhau. Cho nên biết Bát địa, là vì nói đủ hai mươi lăm Tam-muội là có khả năng thể hiện nhiều thứ thần thông. Xét về dụng của thần thông, thì chẳng phải thực hành những việc gần.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là đoạn sáu. Nếu làm chung đoạn kết quả, thì cũng thuộc về đoạn văn ở trước, là đoạn thứ năm, kết quả trực tiếp. Ở Sơ địa đã phát được chánh giải vô lậu. Về sau, mới tiến tu muôn hạnh, được hai mươi lăm tam-muội, dứt hai mươi lăm cõi hữu lậu, kết được quả tự tại của Địa thứ tám trở lên. Nếu y cứ nghĩa này mà phân tích thì thành thứ sáu. Hai mươi lăm tam-muội này sẽ y theo lãnh vực tốt đẹp hơn để được đặt tên. Mỗi danh hiệu tam-muội đều gồm thu các tam-muội, nên nói là đứng đầu trong các tam-muội.”

 

Phần 9

– Giải thích: Từ Đức Phật có ra mười hai bộ kinh. Từ mười hai bộ kinh có ra Tu-đa-la, từ Tu-đa-la có ra kinh Phương đẳng. Từ kinh Phương đẳng có ra Bát-nhã. Từ Bát-nhã có ra nghĩa Niết-bàn, xuất hiện Bồ-tát ở núi Tuyết, soạn nửa bài kệ nói về lý do Xả thân.

“Bấy giờ, trong chúng, có một vị Bồ-tát” cho đến “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh này lại nói về công đức kinh, khuyên người thực hành kinh. Kinh tức là pháp, thực hành chánh pháp dù do người, nhưng dứt bỏ điều xấu ác là do pháp. Ví dụ thuốc có công dụng trị bệnh, dù rằng do người bệnh có thể uống, nhưng năng lực đẩy lùi bệnh là thuốc. Vì lẽ đó, nên kinh Pháp Hoa chép: “Nếu người mắng chửi Phật, thì người đó phạm tội nhẹ. Người chê bai kinh pháp, thì phạm tội rất nặng.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Sau đây là đoạn thứ tư, khen ngợi việc truyền bá kinh. Có bốn lượt:

  1. Vua Vô Cấu Tạng khen.
  2. Đức Phật tự khen.
  3. Bồ-tát Ca-diếp khen.
  4. Đức Phật dẫn chứng, được Bồ-tát Ca-diếp khen ngợi.Đây là thứ nhất, vua Vô Cấu khen ngợi.

Phật khen: “Lành thay! lành thay!” cho đến “Vô lượng vô biên, không thể tính kể.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giáo pháp Phật sanh khởi từ Tiểu thừa. Con bò dụ cho Đức Phật. Sữa dụ cho ba tạng, dụ cho các thuyết tạp nhạp của ba thừa. Bơ sống dụ cho Phương đẳng. Bơ chín dụ cho thuyết “Không” Bát-nhã. Đề hồ, dụ cho kinh pháp Niết-bàn. Pháp khó thấy là “Không”, “Hữu”, vì Bát-nhã nói “Không”, Niết-bàn nói “Hữu”. Đức Phật thì khó gặp. Niết-bàn là tốt đẹp hơn hết, nên đặc biệt tôn trọng khen ngợi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hạnh Thánh dở dĩ được thành công, là do năng lực kinh, sinh ra kiến giải tròn đầy. Như từ con bò sinh ra sữa. Đức Phật nói pháp luân Bốn đế cho Tiểu thừa, đây là nói trong khoảng thời gian mười hai năm sau khi thành Phật. Từ sữa có ra lạc, nghĩa là sau mười hai năm, nói Thông giáo của ba thừa, tức là kinh Đại phẩm. Lạc có ra bơ sống, như kinh Tư Ích Duy-ma, chống đối người Nhị thừa, khen ngợi, biểu dương Bồ-tát. Từ bơ sống sinh ra bơ chín, nghĩa là Đức Phật nói Pháp Hoa, đả phá không có ba nhân quả.

Nay kinh này nói về Phật tánh thường trụ, cùng tận lý tánh, như đề hồ.

Lại, có ra mười hai bộ, là mười hai bộ của Tiểu thừa. Từ mười hai bộ có ra Tu-đa-la, nghĩa là Tu-đa-la của “Không giáo”. Chỉ nói Tu-đala, vì gồm thâu mười hai bộ, nên chỉ nói gốc thôi. Có ra Phương Đẳng với lý chánh, không tà. Vì người Nhị thừa đồng học Bát-nhã, nên dùng Thông giáo làm phương tiện. Nói ra Bát-nhã, nghĩa là Bát-nhã thật Tuệ của Nhất thừa. Từ Bát-nhã sinh ra Đại Niết-bàn, tức là giáo nay.

Một cách giải thích khác: “Văn kinh này có chút lầm lẫn, chẳng hạn: Bát-nhã nên đặt ở thứ lớp thứ ba, Phương đẳng nên ở lớp thứ tư.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đức Phật dụ như con bò. Năm vị dụ cho cho năm thời giáo. Đức Phật đầu tiên ra đời, suốt trong mười hai năm, Ngài nói ba tạng Tiểu thừa, phân tích tướng để nói Pháp luân, đặt bày giáo xuất thế, bắt đầu thích ứng với danh từ mười hai bộ. Từ sau mười hai năm, nói về không, hữu trong môn không giáo, nói về hai đế chân, tục. Về lý sâu rộng, như từ sữa có ra lạc. Hai đế là chính của “Không giải”, cũng là gốc của muôn kiến giải. Sở dĩ thích ứng với danh hiệu Tuđa-la, là vì chỉ từ trước không giáo. Trực tiếp nói về nghĩa nhân, quả, không nói hai đế. Vì quên tướng, nên không xứng với gốc. Từ Tu-đa-la có ra kinh Phương đẳng, nghĩa là từ sau thuyết của thông giáo, thuật Duy-ma Tư ích, tiến đến hạnh Thanh văn. Vì làm cho họ bỏ chấp, được kiến giải, nên dùng kinh Phương đẳng. Ví như từ lạc có ra bơ sống. Từ Phương đẳng có ra Bát-nhã ba-la-mật: Bát-nhã là trí tuệ, từ sau khi nói Duy-ma, nói Pháp Hoa, giải thích một nhân, một quả, trí tuệ mở mang sáng suốt, để dụ cho Bát-nhã, dụ cho bơ chín.

Đã nói kinh Pháp Hoa rồi, giáo Niết-bàn hưng thịnh, nói lý đầy đủ, giống như đề hồ.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Bồ-tát Ca-diếp là chủ thỉnh pháp, tự nói về tướng tu hành.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trên đây, dù đã nói nhiều về công hạnh của bậc Thánh, nhưng vẫn chưa nói rõ ràng về sự cao quý của hạnh ấy. Chương này sẽ nói rộng về tấm lòng kính mến pháp sâu nặng, dám hy sinh cả thân mạng mình vì chánh pháp mà không có gì là khó. Dùng tâm xả này tu tập hạnh Thánh qua rồi mà không đủ, dùng khổ hạnh này thì đâu có dĩ vãng nào mà lui sụt. Nỗi khó khăn của Hạnh Thánh không có gì hơn đây. Thế, nên lấy công hạnh này để kết thúc hạnh Thánh.”

“Bấy giờ, Phật khen Bồ-tát Ca-diếp:” cho đến “Các hành pháp vô thường, là pháp sinh diệt.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Trước nói vô thường. Dùng hai lý thì phải đối, phải ứng, vì thuyết tròn đầy, nên nói là một nửa viên ngọc như ý.”

“Nói nửa bài kệ này xong, bèn ở trước Như lai” cho đến “Sinh diệt dứt rồi, vắng lặng là vui.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Nói về thường, vắng lặng là không có khổ. Do không có khổ, nên gọi là vui. Vì không còn có niềm vui riêng nào, nên nói là vắng lặng.

“Bấy giờ, La sát nói bài kệ này xong” cho đến “Trụ trong Đại Bát-niết-bàn để tu hạnh Thánh.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Trên đã khen hạnh Thánh là khó. Nay dẫn việc xưa để chứng minh cho công hạnh hộ trì chánh pháp không luống dối và tâm cầu pháp rất thành khẩn!