CHÚ ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG GIÀ KINH

Sa-môn Bảo Thần ở Đông Đô soạn.

 

 

 Phẩm 18: KỆ TỤNG

1. Đức Phật nói kệ:

“Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa rộng trong kinh mà nói kệ rằng: Các pháp không bền chắc, đều do phân biệt sinh, do phân biệt tức không, sở phân biệt chẳng có”. Nói tất cả pháp đều chẳng bền vững chân thật, nghĩa là từ phân biệt luống dối mà sinh. Nếu liễu ngộ phân biệt thức không thì biết các pháp xưa nay vắng lặng. Hoặc sinh hoặc diệt đều do phân biệt: Nếu quên phân biệt thì pháp chẳng sinh diệt. Kinh Kim cương Tam-muội cũng chép: Pháp từ phân biệt sinh, lại từ phân biệt diệt, diệt các pháp phân biệt, pháp này chẳng sinh diệt.

“Do luống dối phân biệt, cho nên có thức sinh, thức tám, chín, các thứ như sóng mòi của biển”: Ở đây lại nói thức thứ chín tức kinh Mật Nghiêm cho thức thứ chín là thuần tịnh thức. Trong các kinh luận lại cho chân như là thức thứ chín, đều là tên khác mà thể đồng, nghĩa là chân tục hợp lại mà nói. Nhưng chân như ở đây tức là thật tánh của thức, chẳng phải nương nơi khác mà có tự thể riêng, cũng chẳng phải thể loại mà có thức thứ chín riêng, chỉ do A-lại-da thứ tám phân làm hai vì phần hữu lậu là nhiễm, phần vô lậu là tịnh, chung bảy chuyển thức cho nên nói chín thức. Như bài kệ dưới nói: “Nêu bày A-lại-da, tàng thức rất sâu xa, lìa năng thủ sở thủ (lìa phần nhiễm), ta nói là chân như (phần tịnh). Đây là khai, tức là văn xuôi thì hợp kệ thì lìa trong nghĩa năm cặp của bài tụng.

2. Dùng bốn câu để giải thích duyên khởi các thức:

Lại nữa đây là duyên khởi các thức nên dùng bốn câu để giải thích: 1. Vì thật tánh của thức (ở đây gọi là thức thứ chín cũng gọi là chân như) chỉ có không sinh diệt, như tánh ướt của nước. 2. Bảy chuyển thức đều sinh diệt, như các sóng mòi. 3. Thức A-lại-da thứ tám vừa sinh diệt, vừa không sinh diệt, như biển gồm chứa động tịnh. Cho nên bài kệ trước nói: A-lại-da như biển, chuyển thức đồng sóng mòi. . Vô minh điên đảo chấp chẳng sinh diệt, chẳng phải không sinh diệt, như gió mạnh dậy sóng, chẳng phải nước chẳng phải sóng. Cho nên bài kệ trước nói: Thí như sóng biển lớn, đều do gió mạnh dậy.

Nay phẩm kinh này gồm có sáu trăm sáu mươi sáu bài kệ, lặp lại các nghĩa rộng trong kinh. Như bài kệ dưới nói: Niết-bàn có sáu, các sắc có tám, các uẩn và Phật đều có hai mươi bốn, loại danh số này rất nhiều. Trong các phẩm trước đều không có văn.

Trong năm cặp nghĩa văn xuôi không có kệ thì có, thấy kinh luận và chương sớ giải thích, nên không dám nói theo ý mình, đợi đến các bậc hiền triết phê phán, còn lại trong bốn cặp chưa giải thích cũng như vậy.

3. Chuyển phiền não được Niết-bàn, chuyển chướng sở tri chứng Vô thượng giác:

“Thói quen thường thêm lớn, bàn căn nương vững chắc… cho đến chuyển y tức giải thoát”. Nghĩa chuyển y trước đã giải thích sơ lược. Thức luận lại chép: Bồ-tát khi chưa thấy đạo trở đi, vì dứt các nghiệp chướng, lại thường tu tập trí vô phân biệt… cho đến xả bỏ hai chướng thô nặng kia (hạt giống của hai chướng gọi là hai thô nặng), liền có thể chứng được chuyển y rộng lớn. Y, nghĩa là y tha, tức là y tha khởi, cùng pháp nhiễm tịnh làm chỗ nương. Nhiễm, nghĩa là biến kế sở chấp luống dối. Tịnh, là viên thành thật tánh chân thật. Chuyển, là hai phần chuyển xả chuyển đắc. Do thường tu tập trí vô phân biệt dứt hai thứ thô nặng chướng trong bản thức, cho nên có thể chuyển xả biến kế sở chấp trong y tha khởi, và năng chuyển được trong y tha khởi. Do chuyển phiền não được Đại Niết-bàn, chuyển sở tri chướng chứng Vô thượng giác. Hoặc y tức là duy thức chân như, là chỗ nương của sinh tử, Niết-bàn. Kẻ ngu điên đảo quên chân như đây, cho nên từ vô thỉ đến nay chịu khổ sinh tử, bậc Thánh lìa điên đảo mà chứng ngộ. Chân như này liền được Niếtbàn rốt ráo an vui, nghĩa là thường tu tập trí vô phân biệt, dứt trừ hai chướng thô nặng trong bản thức, cho nên năng chuyển diệt y như sinh tử và năng chuyển chứng y như Niết-bàn, cho nên nói lìa trí sở tri chuyển y tức giải thoát.

4. Các kinh nói có ba tánh:

“Được như huyễn tam-muội, vượt qua Thập địa… cho đến chỗ các bậc Thánh tu hành”: Là hỏi đã chỉ có một tánh không hai, vì sao kinh này và các kinh nói có ba tánh, gồm nhiếp tất cả?

Đáp: Nên biết ba tánh tuy tùy theo tướng phần nhưng mỗi tánh đều có hai nghĩa, tướng bổn mạt gồm thâu chỉ có một tánh. Vọng chấp hai nghĩa: 1. Tình hữu. 2. Lý vô. Duyên khởi có hai nghĩa: 1. Dường như hữu. 2. Vô tánh. Viên thành có hai nghĩa: 1. Bất biến. 2. Tùy duyên. Do bất biến trong viên thành, duyên khởi vô tánh, vọng chấp lý vô. Do ba nghĩa này, ba tánh một tế không có khác nhau. Cho nên kinh nói: Tất cả chúng sinh tức Niết-bàn không còn diệt nữa, đây thì không hoại ngọn mà thường là gốc. Do tùy duyên trong viên thành, duyên khởi dường như có, vọng chấp hữu tình. Do ba nghĩa này cũng không khác. Cho nên Kinh chép: Pháp thân trôi lăn trong năm đường gọi là chúng sinh, cho nên gốc bất động mà thường là ngọn. Cho nên chân bao gồm ngọn vọng, vọng suốt nguồn chân, tánh tướng dung thông không hai. Cho nên kệ nói: “Ta chỉ nói một tánh, tự tánh không có hai”.

5. Hỏi đáp về tự tánh:

Hỏi: Đã không hoại ba tánh mà nói một tánh, thì tại sao kinh này và các kinh lại nói tất cả pháp đều không có tự tánh?

Đáp: Nên biết vì mật ý Như lai nói, cho nên Duy thức chép: Tức nương ba tánh này, lập ba vô tánh kia, nên Phật mật ý nói, tất cả pháp vô tánh, một là tướng vô tánh (nghĩa là vọng chấp thể tánh tướng đều không), kế vô tự nhiên tánh (y tha duyên khởi chẳng phải tự nhiên), sau do xa lìa trước, sở chấp ngã pháp tánh (là viên thành tánh). Đây là nói ba tánh ba vô tánh, không phải y viên thể cũng không, chỉ không chấp đắm vọng tình, cho nên đều nói vô tự tánh, vậy nên biết rốt ráo chỉ là một thật tánh.

Cho nên kế là kệ nói nghĩa của các pháp tánh này cũng tức là chân như, vì thường như tánh kia, tức thật tánh duy thức. Luận Trí Độ chép: Trừ thật tướng các pháp, ngoài ra đều là việc ma (có thể hiểu rõ ba tánh ba vô tánh này, tức là đối với kinh này và các kinh, nói tất cả pháp tánh phi tánh, lý như chẻ tre).

6. Các pháp là bất sanh bất diệt, rốt ráo thường trụ:

“Như bốn đại không điều, thay đổi thấy huỳnh quang… cho đến không sinh cũng không diệt”. Kẻ ngu chấp tùy vọng duyên cho rằng có sinh diệt. Cho nên kinh Viên Giác chép: Tất cả chúng sinh đối với vô sinh vọng thấy sinh diệt, như thật quán là rõ vọng tức chân bất sinh bất diệt. Cho nên kinh trước nói: Tức nói vọng danh này là chân như. Nhưng nghĩa không sinh diệt, ba tánh khác nhau, nghĩa là vọng chấp tánh, không có thể tánh để sinh để diệt, y tha khởi tánh tức sinh bất sinh, tức diệt bất diệt, viên thành thật tánh tự thể vốn có, không đợi mới sinh, tận mé vị lai rốt ráo thường trú, không bao giờ dứt diệt. Nếu dùng ba tánh đối nhau thì mỗi tánh y theo tự tướng mà luận, tức là pháp vọng chấp vọng sinh vọng vọng diệt, viên thành chân tâm bất sinh bất diệt. Y tha có hai, nghĩa là tướng đồng vọng chấp tợ sinh tợ diệt, tánh đồng viên thành bất sinh bất diệt. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả pháp không sinh, tất cả pháp không diệt, do y tha duyên khởi, không có tự tánh riêng, hoàn toàn đồng viên thành, mới ngộ được ý này. Các kinh Đại Thừa nói tất cả pháp bất sinh bất diệt, rốt ráo thường trú v.v… đều không có các uẩn khác.

7. Nói về tám thức:

“Thường hành vô phân biệt, xa lìa tâm tâm pháp… cho đến cho nên gọi là thức”. Tiếng Phạm A-lại-da, Hán dịch là tạng thức, nghĩa là thức căn bản thứ tám có khả năng chứa đựng gom nhóm hạt giống của tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, cho nên nói tàng thức gọi là tâm. Nhưng thức này có năng tàng, sở tàng. Nghĩa chấp tàng, nghĩa là xen lẫn với tạp nhiễm làm duyên. Hữu tình chấp làm ngã bên trong của mình, do ba nghĩa này được gọi tên là tàng thức, nếu Bồ-tát này đến địa thứ tám, và bậc hai thừa vô học chỉ có năng tàng sở tàng, vì không có ngã ái chấp tàng, nên thức này gồm có ba vị và bảy thứ tên, như ở chương khác nói. Tiếng Phạm là Mạt-na, Hán dịch nhiễm ô ý, nghĩa là truyền tống thức thứ bảy đi chung với bốn hoặc, thường xét nét so lường gọi là ý, cho nên nói tư lương dùng làm ý. Lại nêu tên ý làm giảm tâm (thứ tám). Thức (sáu thức trước) chứa nhóm biết rõ các thức yếu kém khác. Nêu tên tâm thức nên biết cũng như vậy. Sáu chuyển thức trước, tùy sáu căn cảnh, vì chủng loại khác gọi là nhãn thức… cho đến ý thức (tùy căn mà đặt tên), hoặc gọi sắc thức cho đến pháp thức (tùy căn mà đặt tên). Nghĩa là đối với sáu cảnh rõ biết gọi là Thức. Nhưng ở đây tùy cảnh lập tên đại thức gọi là y ngũ sắc căn chưa tự tại nói. Nếu được tự tại các căn hỗ dụng. Một căn phát thức thì liễu tất cả cảnh, chỉ có thể tùy căn lập tên mà không có xen lạm nhau, cũng gọi là nghĩa tâm chứa nhóm nghĩa ý tư lương. Nghĩa thức rõ biết, đều chia làm hai thứ, chứa nhóm có hai: 1. Chứa nhóm hành tướng. 2. Chứa nhóm hạt giống. Trước nêu chung các thức, sau chỉ có thức thứ tám. Tư lương có hai: 1. Vô gián ý. 2. Hiện tư tương. Ban đầu nêu chung các thức, sau chỉ thức thứ bảy. Rõ biết có hai: 1. Tế. 2. Thô. Tế thì có khắp các thức, thô chỉ cho sáu thức trước. Cho nên kinh Hoa Nghiêm dạy: Các nghiệp luống dối chứa nhóm gọi là tâm, Mạt-na tư lương, ý thức phân biệt, năm thức như nhãn thức… liễu cảnh khác nhau. Phàm phu ngu si không thể giác biết, nếu theo giáo lý Tiểu thừa thì chỉ nói có thức thứ sáu, nghĩa chia ra tâm ý thức, đối với A-lại-da chỉ được tên gọi. Nếu Đại thừa quyền giáo đối với A-lại-da chỉ được một phần nghĩa sinh diệt, mà đối với chân tánh chưa thể dung thông, tức nói chân như bất động, không tạo các pháp. Kinh này như thật nói, nghĩa là nương Như lai Tạng cho nên có sinh tử, nương Như lai Tạng cho nên có Niết-bàn. Luận nói rằng tự tánh thanh tịnh, tâm bị vô minh làm nhiễm có nhiễm tâm. Tuy có nhiễm tâm mà thường bất biến, đó gọi là chân vọng hòa hợp, chẳng đồng chẳng khác, có thể thành pháp môn một tâm hai đế, không rơi vào kiến chấp đoạn thường, hữu vô.

8. Ác tập luân vào tâm, hiện ra các tướng:

“Tâm thường là vô thuyết, ý có hai thứ hành… cho đến mê hoặc chấp mao luân”: Ở đây nói ác tập huân vào tâm, hiển hiện các tướng. Lại nói vô minh huân vào tâm, hiện ra các chúng sinh, cho nên biết hữu tình chúng sinh, vô tình khí giới đều do vô minh huân tập ma ẵcó. Cho nên Trí Giác nói rằng: Nơi một viên trạm tách ra căn trần, chứa nhóm bốn đại bên trong làm thân, chia bốn đại bên ngoài làm cảnh. Nếu lìa duyên huân tập, chắc chắn không có pháp nào để đắc. Nói huân tập gồm có hai thứ: 1. Tập huân: nghĩa là huân tâm thể thành nhiễm tịnh thức v.v… 2. Tư huân: nghĩa là hiện hành tâm cảnh và các hoặc giúp nhau… cho nên luận Khởi Tín chép: Có bốn nghĩa pháp huân tập, pháp nhiễm pháp tịnh sinh khởi không dứt. Bón nghĩa ấy là: 1. Tịnh pháp gọi là chân như; 2, Tất cả nhân nhiễm gọi là vô minh; 3. Vọng tâm gọi là nghiệp thức; . Vọng cảnh, chính là sáu trần. Nghĩa huân tập, như y phục ở đời, ban đầu chẳng có thơm hôi, tùy theo vật huân mà có mùi đó. Ở đây cũng vậy pháp thanh tịnh chân thật không ô nhiễm, chỉ do vô minh huân tập mà có nhiễm tướng, pháp nhiễm vô minh thật chẳng có nghiệp thanh tịnh, chỉ vì chân như mà huân tập cho nên có công dụng thanh tịnh. Tại sao huân tập khởi nhiễm pháp không dứt trừ. Có chỗ nói do có pháp chân như nên có vô minh, do có pháp nhiễm vô minh tức huân tập chân như, do huân tập cho nên có vọng tâm, do có vọng tâm tức huân tập vô minh, không hiểu pháp chân như, bất giác khởi niệm hiện cảnh giới vọng. Vì có cảnh giới pháp vọng duyên nhiễm, tức huân tập vọng tâm, khiến niệm kia chấp đắm tạo ra các nghiệp, nên cả thân tâm đều phải chịu khổ. Vì sao huân tập khởi pháp thanh tịnh thông dứt? Nghĩa là do có pháp chân như, có công năng huân tập vô minh, vì năng lực nhân duyên huân tập nên khiến vọng tâm nhàm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, vì vọng tâm này có nhân duyên chán cầu, tức huân tập chân như, tự tin tánh mình, biết tâm vọng động chấp đắm cảnh giới, phải tu pháp xa lìa, để biết như thật về cảnh giới ấy mà phương tiện khởi hạnh thuận theo, không chấp lấy không nhớ nghĩ, cho đến nhờ năng lực huân tập đã lâu thì vô minh liền diệt. Do vô minh diệt nên tâm không sinh khởi, vì tâm không sinh khởi nên cảnh giới do đó mà diệt, vì nhân duyên đều diệt nên tâm tướng đều dứt, gọi là đắc Niết-bàn, thành nghiệp tự nhiên…, cho đến nói rộng.

Kẻ ngu cũng giống như vậy, vọng chấp các cảnh giới… cho đến không có cảnh, chỉ là tâm.

9. Hỏi đáp về nhãn thức thấy sắc và không thấy:

Hỏi: Đã không có cảnh, chỉ là tâm thì kẻ tà kiến chấp cảnh bên ngoài lẽ ra bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu đều thấy có sắc, hoặc đều không thấy, vì sao khi thời xứ có sắc, chỉ có nhãn thức thấy sắc, còn khi thời xứ không sắc thì không thấy?

Đáp: Như người trong mộng thấy các vật và cảnh giới, tuy tất cả đều không thật, chỉ do luống dối mộng tưởng tâm khởi, nhưng cũng không bằng thấy nơi có vật, thấy chỗ không vật, hoặc trước thấy sau không thấy, hoặc đầu không thấy sau thấy, chẳng phải mọi nơi đều thấy, cũng chẳng phải một thời gian dài mới thấy. Cho nên thức luận chép: Ở chỗ có sắc, nhãn thì thấy sắc, còn chỗ không có sắc thì không thấy sắc, nghĩa này không như vậy. Vì sao? Vì trong mộng kia ở chỗ không có sắc thì thấy có sắc, ở chỗ có sắc thì không thấy có sắc. Tâm thức biến khởi tất cả các pháp, không mà thấy có, cũng giống như vậy.

Hỏi: Nếu thế thì vì sao nhiều người cùng một chỗ, cung một lúc mà sao có chỗ thấy có, không chỗ thì thấy không, có thời thì thấy có, không thời thì thấy không ư?

Đáp: Thí như trăm ngàn loài ngạ quỷ, đồng nương nghiệp lực, đều ở chỗ không có máu mủ lửa dữ… cùng lúc nhìn thấy, đâu phải dòng sông nước trong thật có lửa dữ ư! Cho nên nói không có cảnh chỉ có tâm thức.

10. Bậc Thánh nội chứng, thường sống trong vô niệm:

“Như lý chánh quán sát năng thủ, sở thủ đều diệt… cho đến thường trụ ở vô niệm”. Bậc Thánh nơi chứng thường trụ vô niệm, nghĩa là chân tâm vô niệm là tông của Phật giáo. Cho nên luận Khởi Tín chép: Tất cả pháp xưa nay do tâm, thật vô niệm, mà do vọng tâm bất giác khởi niệm, thấy các cảnh giới cho nên nói vô minh. Nếu quán sát biết tâm vô niệm thì được thuận theo nhập chân như môn. Vì vậy cho nên người học tuy liễu ngộ tu hành, mong tròn đầy chủng trí chỉ lấy vô niệm làm tông. Nhưng được vô niệm thì việc tạo ác tự nhiên ít dần, bi trí tự nhiên thêm nhiều, tội nghiệp tự nhiên tiêu trừ, công hạnh tự nhiên tinh tấn, đối với giải thì thấy các tướng chẳng phải tướng, đối với hạnh thì gọi là vô tu, mà tu thì khi nghiệp chướng, thói quen hết thì sinh tử không còn sinh, diệt diệt rồi thì vắng lặng hiện ra, ứng dụng vô cùng gọi là Phật.

11. Như lai nói theo căn cơ tiểu thừa:

Tương ưng với nhân mê hoặc chấp thế gian là thật… cho đến chúng sinh nhãn thức sinh: Đoạn này là một bài kệ cuối Như lai thuận theo căn cơ Tiểu thừa mà nói. Khi nhãn thức của chúng sinh có duyên đủ năm duyên như căn, cảnh, v.v… thì từ tạng thức sinh, nhưng thức thứ tám đều nhờ duyên mới sinh. Nêu một để lệ nhiều, chỉ nói nhãn thức. Nếu y theo nghĩa Đại thừa thì nhãn thức là một trong tám thức nương nhờ vào chín duyên mà sinh: đó là không, minh, căn, cảnh, tác ý, căn bản, nhiễm tịnh, phân biệt, hạt giống. Nhĩ thức chỉ nhờ tám duyên mà khởi tức là trong chín duyên trừ minh. Ba thứ tỷ, thiệt, thân đều nhờ bảy duyên thức mới được chuyển, tức là trong tám duyên trừ không. Ý thức thứ sáu nương năm duyên sinh, tức là trong bảy duyên trừ nhiễm tịnh và phân biệt. Thức thứ bảy có bốn duyên sinh, tức là trong năm duyên trừ căn bản, hoặc ba duyên sinh, vì căn và cảnh đều thuộc thức thứ tám. Thức thứ tám có bốn duyên sinh, tức là trong năm duyên trừ căn bản, vì thức thứ bảy là căn sở y cho nên nếu thêm Đẳng vô gián duyên thì như thứ lớp mười, chín, tám, sáu, bốn, năm các duyên mà sinh. Như có bài tụng rằng: Nhãn thức chín duyên sinh, nhĩ thức chỉ có tám mũi, lưỡi, thân thì bảy, ý năm mạt-na ba, A-lại-da có bốn. Nếu thêm Đẳng vô gián thì mỗi thức ở trước đều tăng thêm một. Cho nên kệ Duy thức chép: Y chỉ căn bản thức, các thức tùy duyên hiện, hoặc câu hoặc bất câu, như sóng mòi nương nước, ý thức thường hiện khởi, trừ sinh trời Vô tưởng, và hai định vô tâm, ngủ say và chết.

12. Hỏi đáp về mười hai duyên khởi:

“Thủ: là năng thủ sở thủ, danh sự đều không có… cho đến ta nói là duy tâm”.

Hỏi: Mười hai hữu chi nhân duyên là pháp nhân quả trôi lăn trong ba đời của tất cả chúng sinh, đâu được nói không, chỉ là nhất tâm phải không?

Đáp: Xưa nay vốn không, chỉ do một niệm gió vô minh, thổi động biển chân như, thành mười hai nhân duyên khởi, là lý do trôi lăn, nếu rõ đó là Phật, sóng mòi của biển trí, tối tăm thành nước chảy quanh trong sông sinh tử. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Không hiểu Đệ nhất nghĩa gọi là vô minh, nhân mê muội không hiểu biết, thành hoặc nghiệp các khổ. Hiểu rõ thật tánh của vô minh, thành tâm mầu nhiệm Niết-bàn. Nếu mê thì là hoặc nghiệp, trở thành ba đường: 1. Ba chi: Vô minh, ái, thủ là phiền não đạo. 2. Hai chi: Hành, hữu là nghiệp đạo. 3. Bảy chi: Thức, danh, sắc, sáu nhập, xúc, thọ, sinh tử là khổ đạo. Nếu ngộ thì thành ba nhân Phật tánh: 1. Thức, danh, sắc, sáu nhập, xúc, thọ, sinh tử là chánh nhân Phật tánh. 2. Vô minh, ái, thủ là liễu nhân Phật tánh. 3. Hành, hữu là duyên nhân Phật tánh. Các nghĩa như vậy chỉ là nhất tâm, tùy duyên mê ngộ, phái thành nhiều thứ, tuy thành nhiều thứ không lìa nhất tâm (như kinh Hoa Nghiêm chép: Địa thứ sáu có mười 86 thứ thuận nghịch quán mười hai nhân duyên đều không lìa duy tâm). Cho nên kinh Đại Tập chép: Mười hai nhân duyên, một người nhất niệm thảy đều đầy đủ, chỉ tùy một cảnh nhất niệm khởi thì không có gì là không đầy đủ (chẳng riêng như thường dùng Tam thế luận). Vả lại như nhãn căn thấy sắc mà không biết rõ gọi là vô minh sinh ái ác gọi là hành, trong đây tâm ý gọi là Thức. Sắc và thức hành tức là danh sắc. Sáu xứ sinh tham gọi là sáu nhập, sắc và nhãn đối nhau gọi là xúc, lãnh nạp gọi là thọ, đối với sắc bĩ trói buộc gọi là ái, tưởng sắc tướng gọi là thủ, niệm sắc tâm khởi gọi là hữu, tâm sinh gọi là sinh, tâm diệt gọi là tử… cho đến tai nghe tiếng, ý biết pháp, ở trong một niệm mỗi mỗi như vậy. Một ngày một đêm khởi bao nhiêu niệm, bao nhiêu niệm kiết hợp mười hai nhân duyên thành sáu đường sinh tử vô cùng tận, cho nên biết sinh tử vô tự thể, hoàn toàn là Như lai Tạng tâm Đệ nhất nghĩa, mê ngộ nổi chìm hoàn toàn không thật có. Cho nên luận Khởi Tín chép: Có chỗ nói tất cả cảnh giới do tâm vọng khởi mà có, nếu tâm lìa vọng động thì cảnh giới diệt, chỉ một chân tâm chẳng có nơi nào không trùm khắp, chẳng lẽ không phải là duy nhất tâm ư!

13. Giới là nền tảng của định, tuệ:

“Nghiệp Phiền não cùng thân và quả sở đắc của nghiệp… cho đến người tu hành không ăn”: Ở trên nói tiền tài, lúa gạo và vàng bạc, ruộng vườn nhà cửa và tôi tớ trở xuống đến đây, gồm mười bốn bài kệ. Phật dạy đệ tử không cố ý lầm phạm nhiếp luật nghi giới mới có thể thành tựu nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới, sinh định phát tuệ, đầy đủ tất cả pháp Phật. Nên biết giới là nền tảng của định và tuệ, ví như nước không thể một ngày không có vua. Người xưa dùng thí dụ lầu có nhiều tầng, tầng dưới được xây dựng chắc chắn thì tầng trên mới tồn tại được.

14. Nói về hai thứ chấp:

“Hành giả quán năng tướng và sở tướng của thế gian… cho đến đâu thể dứt hai chấp”. Giác trí: nghĩa là hai trí vô ngã. Hai chấp: là ngã chấp, pháp chấp. Hai trí vô ngã để đối trị ngã chấp pháp chấp, khởi đạo năng trị như chương Nhị Vô Ngã ở trước đã nói. Nhưng sẽ nêu ra hai trí, thuốc mầu thích hợp thì đều biết nguồn gốc của hai thứ bệnh chấp. Luận Duy thức chép: Ngoại đạo hai thừa chấp ngã chấp pháp đều có hai thứ:

  1. Câu sinh.
  2. Phân biệt.

Hai chấp câu sinh, nghĩa là từ vô thỉ đến nay luống dối huân tập nhân lực bên trong, thường đi chung với thân (sinh một lượt với thân, đồng sự với tâm), không đối đãi tà giáo và tà phân biệt, nhậm vận mà chuyển cho nên gọi là câu sinh.

Ở đây lại có hai thứ:

1. Thường nối nhau, ở thức thứ bảy duyên thức thứ tám, khởi tướng tự tâm, chấp là thật pháp và thật ngã.

2. Có xen hở, ở thức thứ sáu, duyên thức thứ tám biến ra, tướng uẩngiới xứ, hoặc chung hoặc riêng, khởi tướng tự tâm, chấp là thật pháp và thật ngã. Phân biệt hai chấp, nghĩa là cũng do năng lực của ngoại duyên hiện tại, không đi chung với thân, phải đợi tà giáo và tà phân biệt, sau đó mới khởi, nên gọi là phân biệt, chỉ ở trong ý thức thứ sáu mới có.

Đây cũng có hai thứ:

1/ Duyên tà giáo, nói uẩn xứ giới, các tướng, khởi tướng tự tâm phân biệt chấp đắm, chấp làm thật pháp và thật ngã.

2/ Duyên tà giáo, nói tự tánh các pháp v.v… và tướng ngã, khởi tướng tự tâm, phân biệt so đo chấp làm thật ngã và thật pháp (văn hai thứ chấp này trong luận không nói, ở đây hợp dẫn)

Hai thứ chấp này phân biệt khởi, tức là thấy đế thì dứt, nếu câu sinh là tu thì dứt, đều do vô minh nhân duyên sinh nên như huyễn có chấp ngã, chấp pháp, vọng so lường, quyết định chẳng có. Cho nên Thế Tôn dạy: Các thức sở duyên chỉ do tâm hiện, tánh y tha khởi như việc huyễn…. Nếu hiểu rõ hai không, thì hai chấp sẽ dứt theo. Hiểu rõ hai thứ không kia, tức là hai thứ trí giác. Cho nên nói nếu không có giác trí sinh thì đâu thể dứt hai thứ chấp.

15. Do giác tự tâm nên dứt được hai thứ chấp:

“Do giác tự tâm cho nên dứt được hai thứ chấp… cho đến đều là do tâm tạo”.

Hỏi: Ba cõi là nhân ban đầu, bốn sinh là nguyên thỉ, chẳng cùng tận gốc ngọn, không phân biệt được nhân duyên đầu mối. Ý chỉ của Trang lão cho là tự nhiên. Chu Khổng gọi đó là hỗn độn. Đối với điều này, Phật dạy từ cõi Vô sắc cho đến địa ngục, y báo chánh báo đều do tâm tạo, là chỗ sinh khởi ban đầu. Vì sao chỉ nam đáp: Muốn biết đầu mối chân thật về thân và cõi của loài hữu tình thì trước phải không có tâm ngã. Như Kinh Hoa Nghiêm chép: Nên quán pháp giới tánh, tất cả do tâm tạo, lại nói rằng tâm như người thợ vẽ, vẽ ra tất cả sự vật thế gian, năm ấm đều từ đó mà sinh, không có pháp nào mà không tạo vẽ được. Cho nên nói rằng khi các Bồ-tát khi mới bước vào Trụ địa, phải khéo quán sát, tùy thân kia tu tất cả pháp môn, tùy đó mà có trí tuệ sâu rộng, tùy nhân tu tập, tùy quả chứng đắc, tùy cảnh giới kia, tùy lực dụng kia, tùy theo thị hiện, tùy theo phân biệt, tùy theo mà chứng đắc, đều phải khéo quán sát, biết tất cả pháp đều do tâm tạo, nên không chấp đắm. Kinh Lăng-nghiêm cũng chép: Mê vọng có hư không, nương không lập thế giới, tưởng lặng thành cõi nước, tri giác là chúng sinh. Đến như thế giới, chúng sinh nghiệp quả, ba thứ nối nhau, đều là giác minh, tánh biết rõ sáng suốt, nhờ biết rõ mà phát ra tướng, từ vọng chấp sinh núi sông, đất đai các tướng hữu vi, thứ lớp trôi lăn, do sự luống dối đến cuối thì trở lại ban đầu. Cho nên biết rằng khi ánh sáng chưa phát hiện thì còn không có tên gọi khi nghĩ muốn thì sinh liền phân chia hình ảnh. Nếu có biết có giác, thì cõi chúng sinh khởi. Nếu vô tưởng vô lự thì cõi nước duyên sinh. Do pháp nhiễm mà luân hồi sáu đường, tùy tâm tịnh mà có thứ bậc bốn Thánh, có thể nói rằng gốc của Thánh phàm, nguyên nhân của thân cõi, nên cho rằng hư không thế giới đều tự tâm ta. Chẳng phải chỉ nói thái cực sinh lưỡng nghi, huyền tẫn là cội gốc của trời đất mà thôi. Xét về thiện ác báo ứng đều là nghiệp của bản thân ta. Chẳng phải chỉ nói thượng đế vô thường, lưới trời lồng lộng mà thôi, chẳng lẽ là lời hư dối ư!

16. Phật nói nhiều đường nhưng thật ra là Nhất thừa:

“Các tam-muội như huyễn, và do ý thành thân… cho đến giảng ba thừa, Nhất thừa”.

Hỏi: Kinh này trước sau hoặc nói ba thừa Nhất thừa, hoặc nói năm tánh một tánh, hoặc nói vô thừa và thừa giả, cho đến các thuyết khác nhau, cuối cùng chỉ thú như thế nào?

Đáp: Phật nói nhiều đường, nhưng thật ra là nhất thừa. Nếu tùy quyền thật đều có chỗ y theo, thì dường như trái nhau. Nếu hội thông thì đều không trái nhau, nghĩa là y theo căn cơ thì có ba, y theo về pháp thì có một, tân huân có năm, bản hữu không hai. Nếu nhập vào lý cả hai đều vắng lặng, thì ba và một đều mất. Nếu y theo Phật hóa nghi thì có thể ba cũng có thể một, còn các thuyết khác, so sánh theo đây rất dễ hiểu. Vì vậy cho nên luận nói: Tranh chấp có đúng sai, người thông đạt thì không cần tranh cãi.

“Phật có ba mươi sáu, mỗi pháp lại có mười… cho đến A-lại-da mạng căn”. Căn bản thức chủng gọi là Thọ vì có công năng duy trì thức. Chủng này có công năng giúp cho sắc tâm không đứt quãng, cùng gọi là mạng căn, tướng phần sắc pháp thân căn của thức này gọi là noãn, thức hiện hành gọi là thức.

17. Các bậc Thánh đều tu tập hai thứ quán:

“Ý và ý thức đều phân biệt khác tên… cho đến đó là điều mà bậc Thánh thực hành”: Ở đây nói các bậc Thánh đều tu hành chân như thật quán và duy tâm thức quán. Như kinh Tiến Thú Đại Thừa Phương Tiện chép: Nếu đối với cảnh giới nhất thật mà tu tín giải, lẽ ra phải học tập hai thứ quán:

  1. Duy tâm thức quán.
  2. Chân như thật quán.

Học Duy Tâm thức quán: Cái gọi là bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, tùy thân miệng ý, tất cả các nghiệp đã tạo, đều phải quán sát biết duy tâm tạo, cho đến tất cả cảnh giới hoặc nghĩ tâm đến đều phải xét biết, chớ để tâm vô ký phan duyên không tự giác biết, từng niệm phải quán sát, tùy tất cả duyên niệm của tâm, sẽ khiến tâm chạy theo niệm kia, khiến tâm tự biết, biết rồi trong tâm tự sinh tưởng niệm. Chẳng phải tất cả cảnh giới đều có niệm có phân biệt. Cái gọi là trong tâm tự sinh các kiến chấp hay dở, tốt xấu, phải trái, được mất, thịnh suy, có không… vô lượng các tưởng, mà tất cả cảnh giới không hề có tưởng, khởi lên phân biệt. Nên biết tất cả cảnh giới tự nó không có tưởng phân biệt, tức tự nó chẳng có hay dở, chẳng có tốt xấu… cho đến chẳng có chẳng phải không, lìa tất cả tướng, như vậy quán sát tất cả các pháp do tâm tưởng sinh. Nếu khiến lìa tâm, thì không có một pháp một tướng nào để tự thấy có khác nhau. Chân như thật quán, là tư duy tâm tánh không sinh không diệt, không ở trong thấy nghe hay biết, lìa hẳn tất cả tưởng phân biệt. Cho nên nói chân như và duy thức là pháp thực hành của các bậc Thánh, như trên, lý hạnh song tu, mới gọi là quán pháp. Cho nên ngài Vĩnh Gia nói: Muốn qua biển thì trước phải lên thuyền, không có thuyền thì không thể qua sông. Cũng vậy, tu tâm cần phải nhập quán, không tu quán thì không thể minh tâm, tâm còn chưa sáng thì làm sao tương ưng được. Nếu không tu tập mà đắc Bồ-đề thì các loài mèo thỏ lẽ ra cũng nên chứng đắc.

18. Bốn thứ bốn đế:

Ở đây có lời hay không có lời, kia chẳng hiểu pháp của ta… cho đến đây là nghĩa bốn đế, tông Thiên Thai y theo phẩm Thánh Hạnh kinh Niết-bàn, chia thành bốn thứ bốn đế, đó là sinh diệt, vô sinh diệt, vô lượng, vô tác. Sinh diệt: khổ tập là nhân quả thế gian, diệt đạo là nhân quả xuất gian, nghĩa bức bách ép ngặt gọi là khổ, thì ba tướng thay đổi (Tập Luận nói rằng các hữu tình sinh và chỗ chúng sinh nương tựa đều gọi là khổ đế). Thêm lớn gọi là tập, thời bốn tâm lưu động (Tập Luận nói tất cả phiền não và phiền não tăng thượng sở tạo các nghiệp, đều gọi là tập đế). Trừ họa hoạn gọi là đạo, cho nên đối trị dễ đoạt, vắng lặng gọi là diệt, cho nên diệt hữu trở về vô, tức khiến chúng sinh biết khổ dứt tập, ưa diệt tu đạo, vì thế gian, xuất thế gian đều là biến dổi, cho nên gọi là sinh diệt bốn đế (Đế có hai nghĩa: 1. Đế thật; 2. Thẩm đế). Nếu thông đạt tự đế từ duyên sinh cho nên không, thì vượt qua phương tiện ngộ được Thánh chỉ, thành tựu trí tuệ, nghĩa là giải thoát được khổ không còn khổ, gọi là khổ Thánh đế, hiểu tập vô hòa hợp gọi là tập Thánh đế; hiểu diệt là vô diệt, gọi là diệt Thánh đế; hiểu đạo là vô đạo gọi là đạo Thánh đế, cho nên gọi Vô sinh bốn đế. Kinh Đại Niết-bàn chép: Khổ có vô lượng tướng, hàng Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết dược, tập diệt đạo cũng giống như vậy, tức vô lượng bốn đế. Nếu biết rõ ấm nhập đều như, không có khổ để bỏ, vô minh phiền não tức là Bồ-đề, không có tập để dứt, sinh tử tức Niết-bàn, không có diệt để chứng, biên tà đều là trung chánh, không có đạo để tu. Vô tập vô khổ cho nên không có thế gian. Tất cả các pháp đều là thật tướng, ngoài thật tướng ra không có pháp nào khác, tức là vô tác bốn đế. Cho nên: Huyền nghĩa chép: Do mê lý, Bồ-đề thành phiền não gọi là Tập đế, Niết-bàn thành sinh tử gọi là khổ đế. Vì hiểu được phiền não tức Bồ-đề gọi là đạo đế, sinh tử tức Niết-bàn gọi là diệt đế, ngay nơi sự mà trung, không lo không nghĩ, không ai tạo tác gọi là vô tác, cũng gọi là Nhất thật đế. Sở dĩ tám ngàn, vị Thanh văn trong hội Pháp Hoa thấy tánh Như lai như mùa thu thì thâu hoạch mùa đông thì cất chứa, lại vô sở tác. Do thấu hiểu được nguồn gốc, pháp vốn như vậy. Nếu người chưa thân chứng, thì không thể khoanh tay đứng nhìn an nhiên, bắt chước vô tác vô tu như dòng nước chảy ra sông tự nhiên nhậm vận, do đó bốn đế kiên cố phù hợp với các độ, có thêm có bớt. Đồng cư có bốn, phương tiện thì ba, thật báothì hai. Tịch quang chỉ có một, lại gọi chung là Bốn đế, nói riêng mười hai nhân duyên. Khổ là bảy chi: thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, sinh tử… Tập là năm chi: vô minh, hành, ái, thủ, hữu. Đạo là phương tiện đối trị nhân duyên. Diệt là vô minh diệt, hành diệt, cho đến già chết diệt. Cho nên kinh Niết-bàn khai làm bốn thứ bốn đế, cũng khai làm bốn thứ mười hai nhân duyên. Bực hạ chí quán đắc Thanh văn Bồ-đề, bậc trung trí quán đắc Duyên giác Bồ-đề. Bậc thượng đắc Bồ-tát Bồ-đề. Bậc thượng thượng trí quán đắc các Đức Phật Bồ-đề. Cho nên Trung luận chép: Pháp do nhân duyên sinh tức là sinh diệt, ta nói tức là không, là vô sinh diệt, cũng gọi là giả danh, là vô lượng, cũng gọi nghĩa trung đạo, là vô tác. Lại nói nhân duyên tức là tập, sở sinh tức là khổ, diệt tập phương tiện là đạo, khổ tập hết là diệt…

19. Hỏi đáp về bốn đế:

Hỏi: Pháp tánh còn chẳng phải một pháp, vì sao dùng một, hai, ba, bốn suy tìm ư!

Đáp: Pháp tánh là sở mê, khổ tập là năng mê, năng mê có nặng nhẹ, sở mê có tức lìa, y theo phạm vi phân biệt trong ngoài thì có bốn thứ khổ tập, y theo căn tánh chứng lý, thì có một, hai, ba, bốn khác nhau. Nếu trong phạm vi người căn cơ thấp kém mê chân nặng thì khổ tập cũng nặng, người lợi căn mê chấp nhẹ, thì khổ tập cũng nhẹ. Bên ngoài phạm vi lợi độn nhẹ nặng cũng giống như vậy. Pháp tánh là sở giải, diệt đạo là năng giải, sở giải có tức lìa, năng giải có khéo léo vụng về, kẻ độn căn trong sở giải lìa, thì năng giải vụng về, người lợi căn sở giải thì năng giải cũng khéo, lợi độn của giới ngoại tức lìa khéo léo vụng về cũng như vậy.

Hỏi: Tập đã có bốn, vì sao quả khổ có hai?

Đáp: Mê hoặc tùy ở giải tập thì có bốn, giải tùy ở hoặc, nhưng chiêu cảm hai thứ tử. Chẳng hạn như Tiểu thừa hoặc tùy ở giải, thì có kiến đế, suy nghĩ. Nếu giải tùy ở hoặc thì chỉ là một phần dứt sinh tử.

Hỏi: Khổ tập có thể là pháp do nhân duyên sinh, diệt đạo vì sao như vậy?

Đáp: Khổ tập là sở phá, diệt đạo là năng phá, năng phá từ sở phá mà có tên gọi, đều là pháp do nhân duyên sinh. Cho nên Kinh Đại Niếtbàn nói rằng: Nhờ dứt bỏ vô minh nên được chứng Tam Bồ-đề rõ ràng, cũng là nhân duyên.

Hỏi: Pháp tánh là sở mê, vì sao lại có hai? Vì sao có bốn?

Đáp: Pháp tánh tùy quyền thật cho nên có hai, pháp tánh tùy cơ duyên cho nên có bốn. Nếu đạt được ý chỉ này thì thấy tướng nghe pháp v.v… chẳng hạn như soạn bốn trường hợp phân biệt thì không lầm lẫn, cho nên biết nhất tâm bốn đế, bao trùm ngang dọc, lý không chỗ nào không cùng tận, không pháp nào là không đầy đủ.

20. Mười phiền não căn bản:

“Vì phàm phu vọng phân biệt chấp ba tự tánh… cho đến dứt trừ thảy đều thanh tịnh”. Thấy người tu các phiền não, tức là thấy đạo dứt phân biệt phiền não và tu đạo dứt câu sinh phiền não. Nói cho cả ba thừa nói lược có mười thứ:

  1. Tham.
  2. Sân.
  3. Si (cũng gọi là vô minh).
  4. Mạn.
  5. Nghi.
  6. Thân kiến.
  7. Biên kiến.
  8. Tà kiến.
  9. Kiến thủ.
  10. Giới cấm thủ.

Trong mười sử phiền não chung riêng như thế thì hai chấp nghi và tà kiến có bốn thứ, chỉ phân biệt khởi, tức phiền não do thấy đếmà dứt, còn lại sáu thứ như tham… phân biệt chung câu sinh bao gồm hai sở đoạn, nghĩa là kiến sở đoạn và tu sở đoạn. Trong tám thức thì năm thức trước được khởi ba thứ đầu, cũng có cả phân biệt và câu sinh, do dụng trong ý thức, tà sư, tà giáo, và tà suy nghĩ, do ba nhân dẫn dắt nên có phân biệt khởi. Ý thức thứ sáu gồm có mười thứ, bốn chỉ là phân biệt, sáu có cả phân biệt và câu sinh, mạt-na thứ bảy chỉ có bốn câu sinh, nghĩa là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái. Thức này có tánh hữu phú vô ký. Thức thứ tám kia gồm có mười thứ không khởi, chỉ có tánh vô phú vô ký, này phân biệt câu sinh đều chung cho ba cõi, chỉ một thứ sân chỉ có ở cõi Dục. Hai cõi Sắc và cõi Vô sắc kia phiền não đều thuộc về tánh hữu phú vô ký. Trong bốn đế ở cõi Dục đều có mười sử, tức là bốn mươi, hai cõi trên đều trừ sân, mỗi đế riêng có chín, tức có bảy mươi hai sử, và cõi Dục hợp chung có một trăm mười hai. Câu sinh kia ở cõi Dục có đầy đủ sáu, hai cõi trên trừ sân mỗi cõi chỉ có năm, hợp thành mười sáu, chung cho phân biệt trước, gồm có một trăm hai mươi tám phiền não. Nếu căn cơ hai thừa dùng tám nhẫn tám trí dứt sự phiền não phân biệt của bốn đế trong ba cõi, được quả dự lưu. Kế là tu chín vô gián đạo, chín giải thoát đạo, dứt bỏ phiền não câu sinh trong ba cõi, đắc quả thứ ba, sở tri chướng và các đường kia vắng lặng, được nhập Niết-bàn vô dư, còn tất cả những thứ kia có dứt hay không dứt đều khác với pháp hai thừa, vì hai thừa chỉ dứt, phiền não chướng (đồng tâm hai thừa được hồi hướng tâm Bồ-tát, phần dứt sở tri chướng không đồng với ngu pháp của hai thừa, chỉ dứt phiền não chướng). Tiến thẳng đến Bồ-tát thì hai chướng đều dứt. Trong phiền não chướng không đồng hai thừa y theo giới phần vị (đồng tâm Bồ-tát dứt phiền não chướng, hoặc chủng loại hai thừa). Nhưng đối với hai chướng phân biệt khởi, hàng Địa tiền hàng phục hiện hành, khi hàng Sơ địa thật thấy đạo, chỉ trong một sát-na liền đốn đoạn chủng tử kia. Trong phiền não câu sinh kia, hàng Sơ địa đã đi đến tự tại năng dứt, lưu lại hạt giống cho nên không dứt. Vì sao thấm nhuần chúng sinh, thu nhiếp giáo hóa, không rơi vào người hai thừa! Vì dứt chướng sở tri, vì đắc đại Bồ-đề, phiền não của thức thứ bảy kia, tánh chẳng phải nhuận sinh, cho nên chẳng lưu lại, vì hành tướng nhỏ nhiệm. Người Thất địa trở xuống có khi tạm hiện, do quán trí có gián dứt, nên phải biết hạt giống phiền não chướng đến Kim cương vị, sở tri chướng kia hành tướng nhỏ nhiệm, chính làm chướng ngại đạo Bồ-đề, cho nên phân dứt của mỗi địa chủ yếu đến Phật địa mới hết không còn sót. Do đó nên nói hai chướng tu hoặc đều đến Phật địa. Cho nên Đối Pháp.

21. Bồ-tát chỉ tu chướng sở tri chưa dứt phiền não chướng:

Luận chép: Lại nữa, các Bồ-tát trong mười địa, chỉ tu sở tri chướng đối trị đạo, chẳng dứt phiền não chướng, khi đắc Bồ-đề liền dứt phiền não và sở tri chướng. Nếu theo thật giáo thì các vị Thanh văn đối với phiền não chướng chỉ có khả năng diết phục, huống gì là năng dứt sở tri chướng, còn hàng Bồ-tát đối với hai chướng không phân câu sinh và phân biệt, chỉ có chánh sử và thói quen, còn người Địa tiền hàng phục sử hiện, người Sơ địa dứt hạt giống sử. Bồ-tát Địa thượng dứt thói quen, Phật địa rốt ráo thanh tịnh, trong đó thói quen do dứt hạt giống chánh sử vô gián mới có thói quen còn sót. Nếu y theo thức thứ sáu, bảy, tám và hai chướng hòa hợp phân biệt thì có nghĩa trong thức thứ tám chỉ có thói quen, trong thức mạt-na chỉ có hạt giống, thức thứ sáu chỉ có hiện hành. Hoặc nói thức thứ sáu, bảy, tám đều có cả hạt giống thói quen hiện hành, nhưng hai chướng này đều có công năng làm chướng trí, gọi chung là vô minh, vì đó là hai vô minh gốc ngọn. Như luận Khởi Tín chép: Y vào bổn mạt tương y môn để nêu rõ hai chướng, do vô minh khởi sáu tâm nhiễm, là phiền não chướng ngại (tức tứ trụ địa phiền não). Có công năng sanh khởi vô minh nhiễm tâm (căn bản) gọi là trí chướng, không gọi là trụ địa, phiền não chướng ngại kia cũng gọi là vô minh chi mạt (cũng gọi sở tri chướng). Vì sao? Vì năng nhiễm cảnh nghĩa biên gọi là phiền não, vì năng chướng trí nghĩa biên cũng gọi là vô minh.

22. Vô minh có hai thứ:

Cho nên luận Du-già chép: Vô minh có hai: Nếu đi chung với tham… thì gọi là tương ưng vô minh (chi mạt), nếu đi chung với chẳng tham… thì gọi là độc hành vô minh (căn bản), lấy đó làm chính. Duy thức lại chép: Không chung với vô minh có hai: 1. Thường hành bất cộng, chỉ mạt-na có (chi mạt). 2. Độc hành bất cộng, mạt-na không có (căn bản), do đó ngài Thiên Thai dùng thể chân chỉ từ giả nhập vào không quán, tương ưng với không tuệ, tức năng phá kiến tư hoặc (tứ trụ phiền não), thành mắt tuệ nhất thiết trí, trí năng đắc thể, đắc chân thể. Dùng phương tiện tùy duyên chỉ từ không nhập vào giả quán, phân biệt thuốc bệnh, các thứ pháp môn, tức phá vô tri hoặc (chi mạt vô minh), thành pháp nhãn đạo chủng trí. Trí năng đắc thể chứng, được tục thể. Do lìa hai bên phân biệt chỉ và hai quán trên làm phương tiện, được nhập trung đạo quán. Phá vô minh căn bản thành Phật nhãn nhất thiết chủng trí, trí năng đắc thể, đắc trung đạo Đệ nhất nghĩa thể, vẫn gọi là khéo đạt thứ lớp nghĩa vậy. Nếu y theo nhất tâm viên đốn chỉ quán, nghĩa là pháp tánh vắng lặng gọi là chỉ, tịch mà thường chiếu gọi là quán. Dùng chỉ duyên ở đế, thì một đế mà ba đế, dùng đế buột nơi chỉ, thì một chỉ mà ba chỉ. Thí như ba tướng ở nơi một niệm tâm, tuy một niệm tâm mà có ba tướng, chỉ và đế cũng như thế, pháp sở chỉ tuy một mà ba, tâm năng chỉ tuy ba mà một, do quán quán ở cảnh, thì một cảnh như ba cảnh, do cảnh hiện phát khi quán, thì một quán như ba quán, như Ma-hê-thủ-la trên mặt có ba con mắt, tuy có ba mắt mà chỉ có một mặt. Quán cảnh cũng giống như vậy, quán ba tức một, phát một tức ba, không thể suy nghĩ bàn luận. Chẳng phải thế gian, xuất thế gian, không quyền, không thật, không tốt không xấu, không trước không sau, không chung không riêng, không lớn không nhỏ.

23. Nói về pháp do nhân duyên sinh:

Cho nên Trung Luận chép: Pháp do nhân duyên sinh, tức không tức giả tức trung, cho nên biết phá tất cả hoặc chẳng gì bằng không, vô giả vô trung và bất không, lập ra tất cả pháp không gì bằng giả, vô không, vô trung và bất giả. Rốt ráo tất cả tánh chẳng gì bằng trung, vô giả vô không và bất trung, đây đều là đối trị vô minh phiền não trong tâm bệnh của chúng sinh. Phương tiện lập ra như thế, ở tông Hiền Thủ vẫn thuộc nghĩa Chung giáo, vô minh phiền não bị bác bỏ ở trên. Trong kinh Viên Giác cũng gọi lý chướng và sự chướng. Nếu theo Đốn giáo, thì hoặc tánh trí tánh đều vốn thanh tịnh, cho nên không thể nói dứt hay không dứt. Dẫu cho rằng có hoặc để dứt cũng không nương vào địa vị để dứt dần. Như luận Khởi Tín chép: Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Viên giáo lại không phân biệt các sử tập hiện, nghĩa là tất cả phiền não không thể nói là thể tánh kia, cho nên toàn vọng là toàn chân chỉ là pháp giới lớp lớp vô tận, chúng sinh trong tâm các Đức Phật, các Đức Phật trong tâm chúng sinh, hòa nhập liên quan lẫn nhau. Cho nên một chướng tất cả đều chướng, một dứt là tất cả đều dứt. Nhưng người tu quán hạnh phải thông đạt năng dứt vô tánh, sở dứt vốn không, dứt mà không dứt mới gọi là chánh dứt. Nếu chấp chắc chắn là có thì rơi vào thường, không thể dứt. Nếu chấp chắc chắn là không thì rơi vào đoạn, đánh mất Thánh trí. Cho nên người xưa nói:

Phật vốn vậy mà siêng tu, hoặc vốn không mà phải dứt.

24. Phải nương Thánh giáo và chánh lý của Phật mà tu hành:

“Bản tánh thanh tịnh tâm, chúng sinh bị mê hoặc… cho đến người trí không nên nói”: Nghĩa là nương Thánh giáo năng thuyên chánh lý sở thuyên của Như lai mà như thật tu hành, dứt hoặc chứng chân thì không có thói quen luống dối. Nếu lìa bỏ điều này mà muốn dứt trừ phiền não thì đều là ma nói. Cho nên ngài Hiền Thủ dùng chánh lý Thánh giáo của Phật mà phát minh tông thú… khéo phù hợp với căn cơ, đều chia làm năm: (Thấy trong Hoa Nghiêm Giáo Chương và Khởi Tín Luận Sớ). Vả lại, Thánh giáo có năm:

1- Thánh giáo có năm theo thuyết thứ nhất:

a) Tiểu thừa giáo: vì tùy căn cơ, tùy theo lời người mà nói các pháp hoàn toàn khác nhau, để phân biệt chánh tà, biện rõ phàm Thánh, phân ra ưa thích nhàm chán, làm sáng tỏ nhân quả. Nhưng lý sở thuyết chỉ hiển bày rõ người không, chưa nói về pháp không, chỉ nương sáu thức ba độc, lập ra căn bản nhiễm tịnh, chưa tận nguồn pháp, cho nên phần nhiều tranh luận.

b) Đại thừa Thỉ giáo, cũng gọi là phần giáo: Nghĩa là hai thừa định tánh, xiển-đề vô tánh, đều không thành Phật. Đây là chưa cùng tận pháp lý Đại thừa, cho nên xếp đầu, họ không thành Phật cho nên gọi là phần. Nói rộng pháp tướng ít nói pháp tánh, pháp tánh sở thuyết tức pháp tướng số, quyết chọn rõ ràng cho nên ít tranh luận.

c) Chung giáo, cũng gọi là Thật giáo: Nói Như lai Tạng tùy duyên thành thức A-lại-da, duyên khởi vô tánh, tất cả đều như, định tánh vô tánh đều sẽ thành Phật, mới cùng tận thuyết chí cực của Đại thừa, cho nên lập thành Chung, vì xứng với thật lý nên gọi là Thật, ít nói pháp tướng, thường nói về pháp tánh, dẫu nói pháp tướng cũng qui về tánh, cho nên không tranh luận. Hai giáo trên đều nương địa vị, thứ lớp tu thành, gọi chung là Tiệm. Nhưng pháp môn này khác với trước sau, nhưng giáo có thỉ chung đốn tiệm khác nhau, pháp chẳng có hơn kém sâu cạn khác nhau.

d) Đốn giáo: Chỉ cần một niệm không sinh thì gọi là Phật, không nói theo địa vị thứ lớp, nên gọi là Đốn. Đều không luận về sự tướng, chỉ nói chân tánh, tất cả sở hữu chỉ là vọng tưởng, tất cả pháp giới chỉ là bặt lời, năm pháp, ba tự tánh đều không, tám thức, hai thứ vô ngã đều mất, khuyên bảo lìa bỏ, hủy tướng diệt tâm, sinh tâm là vọng, không sinh là Phật.

e) Nhất thừa Viên giáo: Là nói rõ một vị là tất cả vị, tất cả vị tức một vị, cho nên Thập tín mãn tâm, tức gồm thâu năm vị, thành Chánh đẳng, chánh giác, v.v… Chủ bạn đầy đủ cho nên gọi là Viên giáo, sở thuyết đều là vô tận pháp giới, biển tánh viên dung, duyên khởi vô ngại, như lưới báu của trời Đế-thích lớp lớp vô tận (Nếu trong năm giáo này hiển bày trong đây, chính là chỉ cho Đốn giáo cũng bao gồm cả Chung giáo). Nhưng giáo chương riêng trong Viên giáo mà nói nhất thừa có hai: 1. Đồng giáo Nhất thừa, vì đồng đốn đồng thật. 2. Biệt giáo Nhất thừa, chỉ viên dung đủ đức, nghĩa là Biệt giáo thì khác xa các giáo, đồng giáo tức đều gồm thâu các giáo: trước sau các Đại sư phê phán giáo nghĩa, chẳng gì hơn ở đây, chỉ vì chưa hiểu rõ ngũ giáo các thừa, cũng đều có đồng có khác, chung và không chung, cho nên ở đây tiếp tục để thành lập thuyết ấy.

2- Thánh giáo có năm theo thuyết thứ hai:

a) Tiểu thừa giáo: Do cùng với nhân thiên thừa làm đồng giáo, vì chỉ hiển rõ bốn đế bốn quả là không chung với Biệt giáo. Cho nên Phẩm loại túc luận quyển sáu chép: Có cùng khác sinh pháp, không cùng khác sinh pháp. Thế nào là cùng? Nghĩa là có định và có sinh. Ở đây lại thế nào? Nghĩa là định như vậy, sinh như vậy. Bậc Thánh Dị sinh đều dung hợp mà có được. Thế nào là không cùng? Đó là bốn thông hạnh, bốn vô ngại giải, bốn quả Sa-môn…

b) Đại thừa Thỉ giáo: Do đồng với hai thừa hồi tâm giáo, vì không cùng hai thừa tiến thẳng giáo là khác. Đây như Trí luận nói rõ có cùng và không cùng chương Bát-nhã giáo giáo Trực tiến của hồi tâm.

c) Đại thừa Chung giáo: Do đồng với ba thừa trước. Kinh Pháp Hoa chép: Nhất Phật thừa phân biệt nói ba, các ông đều tu đạo Bồ-tát lấy bất cộng ba thừa chỉ Nhất thừa là khác. Kinh Pháp Hoa chép: Trong mười phương cõi Phật chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, chỉ một sự thật này, còn hai thì chẳng thật. Vì vậy nên biết Pháp Hoa Niết-bàn, đều đối với quyền giáo tiểu thừa để hiển nhất thừa?

d) Đại thừa đốn giáo: Do đồng với Thỉ giáo, Chung giáo, Tiểu thừa, vì không chung với ba thứ trước, chỉ có Đốn giáo là khác. Như kinh Viên Giác chép: Kinh này gọi là Đốn Giáo Đại Thừa, chúng sinh đốn cơ nhờ đây khai ngộ. Nghĩa là y theo cơ thẳng tiến của Biệt giáo. Lại nói, cũng thuộc về tiệm tu tất cả các phẩm. Đây là y theo căn cơ đồng giáo hồi tâm.

e) Nhất thừa Viên giáo: Lời văn của chương biệt giáo ở trên. Trong năm giáo này, nếu lấy Đại thừa, Tiểu thừa làm đối nhau, thì một giáo ban đầu là Tiểu, bốn giáo sau là Đại. Nếu y theo quyền thật làm đối nhau, thì hai giáo trước là quyền, ba giáo sau là thật. Nếu lấy đốn tiệm làm đối thì ba giáo trước là tiệm, hai giáo sau là đốn. Nếu lấy Thiên Viên làm đối nhau thì bốn giáo trước là Thiên, giáo sau là Viên, mà trước trước không nhiếp sau sau, sau sau phải gồm thâu trước trước. Đây là y theo thuyết của Đồng giáo: Nếu y theo Biệt giáo, thì sau sau đều phá trước trước. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp tánh chân thường lìa tâm niệm, hai thừa ở đây cũng có thể được, không do đây mà được đời tôn trọng, chỉ dùng trí vô ngại sâu xa (đây là nghĩa Viên giáo phá đốn). Kinh này chép: Sơ địa tức là Địa thứ tám, cho đến vô tướng có thứ lớp gì! (Đốn phá Chung tiệm). Kinh Pháp Hoa chép: Không hai cũng không ba (Chung giáo phá Thỉ giáo). Kinh Phạm Võng chê trách người Hai thừa là tà giáo (pháp quyền bác bỏ ngu) đều chỉ dứt bệnh kia, mà không dứt pháp kia. Nhưng trong Đồng giáo tuy đồng với trước nhưng ba giáo trung gian cũng được phân đồng như ở sau. Như kinh Viên Giác có Viên giáo pháp giới ba quán. Nhiếp luận v.v… có hành tướng của thật giáo, nhưng có chỗ giống, không có chỗ khác, có nghĩa kia mà không có giáo kia, chỉ thành nghĩa ngay trong giáo. Do các kinh lụận có các pháp môn đồng, khác, chung, không chung, ẩn hiện bất thường như thế, cho nên phương tiện lập năm giáo khác nhau.

25. Hỏi đáp về năm giáo:

Hỏi: Đã biết năm giáo mỗi giáo có đồng, có khác, xuyên suốt nhiều cách giải thích, do đó nói thời giáo trong một đời không còn các uẩn khác. Vì sao nhất tâm y theo các giáo mà có nghĩa khác nhau như vậy ư?

Đáp: Đây có hai nghĩa, cho nên nói như vậy:

– Y theo pháp gồm thâu chung, nghĩa là do sự duyên khởi sâu xa này mà nhất tâm có năm nghĩa môn, cho nên bậc Thánh dùng bất cứ một môn nào để nhiếp hóa chúng sinh: 1. Nhiếp nghĩa tùng danh môn, như thuyết của Tiểu thừa giáo. 2. Nhiếp lý tùng sự môn, như thuyết của Thỉ giáo. 3. Lý sự vô ngại môn, như thuyết của Chung giáo. . Sự tận lý hiển môn, như thuyết của Đốn giáo. . Tánh hải cụ đức môn, như thuyết của Viên giáo. Cho nên không động gốc (bổn) mà thường ngọn, không hoại ngọn mà thường gốc, năm nghĩa tướng dung hợp chỉ là nhất tâm.

– Y theo phạm vi của căn cơ đắc pháp (cơ khí khác nhau), nghĩa là có khi hoặc được danh mà không được nghĩa, như Tiểu thừa giáo, có khi được danh và được phần nghĩa, như Thỉ giáo, hoặc có khi được danh, được cả phần nghĩa, như Chung giáo, có khi được mà không được danh, như Đốn giáo, có khi danh nghĩa đều không được như Viên giáo. Cho nên biết Thánh giáo có muôn vàn khác nhau, nhưng chủ yếu chỉ là năm giáo này. Ban đầu thì rõ ràng không lẫn lộn, sau là toàn thể tướng gồm thâu, một vị dung thông, các nghi dứt hết. Tóm lại là Như lai dùng phương tiện khéo léo nhiếp hóa chúng sinh, còn các nghĩa môn khác rộng như trong giáo ấy có nói rộng.

26. Các bộ khác cho độc Tử bộ là ngoại đạo:

Trước hết nên hiểu rõ về ngã và phân tích các chấp… cho đến thứ năm không thể nói: Nói ba đời và chẳng phải đời, thứ năm không thể nói, nghĩa là Độc tử bộ ở Thiên Trúc cho rằng ngã pháp đều có, lấy đó làm tông thú, lập năm pháp tạng, đó là ba đời là ba, vô vi là bốn, tức là phi thế (chẳng phải đời), thứ năm không thể nói che giấu Ngã ở trong đó, không thể nói là hữu vi và vô vi. Cho nên bộ này, các bộ khác đều từ chối không chịu nhận, cho là ngoại đạo nương gá vào Phật pháp.

27. Bài tụng cuối phá chúc lưu thông:

“Sự hiểu biết của các Đức Phật… cho đến chớ có phân biệt”: Đây là bài tụng sau cuối, nghĩa là y theo nghĩa phó chúc lưu thông, giáo tích là tâm năng thuyên, lý bổn là tâm sở thuyên, chẳng phải bổn không do đâu có tích, chẳng phải tích thì không do đâu bày bổn. Nếu có thể tìm tích mà được bổn, thì tự nhiên bặt dấu vết qui về tông, cho nên nói giáo do lý mà thành, lý do giáo mới hiển bày. Giáo này là giáo liễu nghĩa chân thật trong Đại thừa. Lý này là duyên khởi nhất tâm sâu xa chí lý. Cho nên kiết thúc khuyên răn bốn chúng đệ tử, tin hiểu tu hành như thật chứng nhập, không dứt chủng tánh Như lai, cho nên nói phải nương giáo lý này, chớ có còn sự phân biệt nào khác.