ĐẠI TỲ-LÔ-GIÁ-NA THÀNH PHẬT KINH SỚ

A-xà-lê Nhất Hạnh ghi chép

 

 

Phẩm 18: BỒ-TÁT GIỚI PHẨM THỌ PHƯƠNG TIỆN HỌC XỨ PHẨM

Ở đầu kinh Kim Cang Thủ đã hỏi Phật ý nghĩa giới Bồ-tát. Phật trước nói khi vào Mạn-đồ-la vì đệ tử trao giới tức là hợp nói giới pháp yếu này. Trước thọ giới này xong, trụ vào chỗ học này. Sau mới được nghe Hạnh Bí Mật của Như Lai. Giới này trước khi tạo Mạn-đồ-la thì nên nói cho nghe. Phật trước nói khi vào Mạn-đồ-la, vì chánh nói phương tiện nhập vào Mạn-đồ-la, mà chưa kịp nói. Cho nên Kim Cang Thủ lại lên hỏi trước.

Nên kinh nói: Bấy giờ, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: Cúi mong Đức Thế Tôn nói câu các Bồ-tát đại hữu tình, là nghĩa Cụ tích, nghĩa Trụ xứ tức chỗ học, tu học câu đủ phương tiện trí tuệ, nghĩa là các đức quy thú, người này đủ giới này. Nghĩa là các phương tiện… được ở thân này, là nghĩa đến khắp. Tuệ phương tiện… khắp đến thân. Đây là chánh giải thích. Lìa nghi hoặc tức là hai ý, như ở trước ngả rẽ không biết đi đường nào. Ác ý mà nghi lo khiến sinh tử trôi lăn chẳng dứt. Từ trước đây đều là văn kinh nghĩa là Bồ-tát trụ chỗ học này, khiến cho chẳng bỏ đại bi lìa ác ý. Ác ý tức là nghi ngờ. Tức dùng giới này ở trong sinh tử trôi lăn mà chẳng thể hoại. Chẳng hoại tức là thường trụ không thể hại, ý hỏi rằng: Vì sao ở trong sinh tử trôi lăn mà được giới này thường chẳng hủy hoại, không thể phá hoại?

Lúc đó, Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na đối với tất cả dùng Phật nhãn quán tất cả pháp giới, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: Hãy lắng nghe Kim Cang Thủ, Pháp Giới Phật Nhãn Quán Kim Cang Bí Mật Chủ bảo hãy lắng nghe Phật, vì Đại sĩ thỉnh nói tất cả hạnh căn bản của Bồ-tát, Phật sắp đáp, cho nên trước dùng Như Lai nhãn mà khắp quán đại hội, tức là quán khắp pháp giới. Trong đây nói các pháp giới, tức là quán Phật giới, pháp giới, chúng sinh giới, quán ba pháp giới này nên gọi là các pháp giới. Quán pháp giới tức là tất cả cảnh giới Như Lai. Đã quán khắp rồi thì biết có khả năng nhận nghe giới hạnh sâu xa này, cho nên đáp Kim Cang Thủ. Kế bảo lắng nghe Kim Cang Thủ. Nay nói khéo léo tu hành đạo. Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát trụ ở đây, tức là đối với Đại thừa được thông suốt đạo tu hành khéo nói. Nếu ở đây mà trụ Bồ-tát, Đại Hữu Tình được thông suốt Đại thừa, tu hành đạo này tức là giới Bồ-tát. Chư Phật ba đời đều do đạo này mà đến Bồ-đề cho nên gọi là tu hành đạo. Trụ đạo tu hành này của chư Phật, nên các Bồ-tát được thông suốt Đại thừa. Vì sao? Nay giới này tức là giới bản nguyện tự tánh của tất cả chúng sinh. Nếu trụ giới Tánh Tịnh Kim Cang này tự nhiên đối với tất cả pháp được thông suốt. Trì giới chẳng sát sinh là việc chẳng nên làm, nghĩa là phải giữ giới chẳng giết sinh mạng. Nghĩa là thêm chữ sinh mạng, chẳng cắt đứt mạng sống.

Kế là Phật bảo tướng giới ấy, nghĩa là chẳng giết sinh mạng, chẳng được chẳng cho mà lấy, chẳng dục tà hạnh, nói dối, nói ác khẩu, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, và tham sân, tà kiến, tức là giới Bồ-tát. Trong đây nói Bất-sát, nghĩa đối với tất cả loài có mạng sống, cho đến chẳng sinh một niệm tâm giết. Vì không có tâm giết nên gọi giới Bất sát. Các thứ khác đều nói theo đây. Trước khi trao giới này, A-xà-lê trước phải trao cho ba quy y. Ba quy y tức là Tam bảo thường trụ Bí mật, chẳng phải là pháp tăng riêng trụ đồng với Hữu Dư Bất Liễu Nghĩa kinh, như trong Niết-bàn Ương-quật… phải dẫn nói rộng. Lại như trong văn trên thầy trao cho pháp ba quy y. Đã trao ba quy y rồi, A-xà-lê kế phải khuyên phát tâm ấy, khiến sinh Đại thệ quyết định, nhận mười Vô Tận tạng này, lại ba lần trao khắp. Đã nhận rồi khiến người ấy tự bạch rằng: Con tên là… nay y chư Phật mười phương và ở bên A-xà-lê nhận được giới này xong. Hôm nay giờ này con là… được gọi là Bồ-tát, giới này không có thời tiết cho đến khi chết và hết đời vị lai không hề bỏ. Nếu giới như trên nói, trong một tháng một năm khi vào đạo tràng, thì thực hành phương tiện này, việc xong liền thôi thì có thời hạn. Nhưng nói theo nghĩa sâu thì cũng là chí kiến chân phương tức.

Giới Bồ-tát có hai thứ:

  1. Tại gia.
  2. Xuất gia.

Trong hai chúng này lại có hai thứ giới: Một là tự tánh tu hành, hai là chế giới. Nay mười giới này là giới tu hành của Bồ-tát, đó là Thiện tánh, tất cả Bồ-tát phải thực hành Niết-bàn là tánh tự năng trì giới, hoặc gọi là tự tánh giới. Sở dĩ gọi là trì, vì sinh chê bai phải hộ ý ấy. Lại thuận theo ý ấy nên lại phải trì. Sở dĩ như thế vì tất cả thế gian các Thiên luân vương cũng có mười pháp lành, tất cả ngoại đạo cũng có mười giới lành, tất cả Nhị thừa cũng có mười giới lành. Nếu Bồ-tát chẳng trì như thế thì họ liền sinh tâm khinh mạn chê bai. Chúng ta đều có pháp lành như thế. Nay người này tự nói Đại sĩ thực hành hạnh tôn diệu mà không có tịnh giới, phải biết là chỗ học chẳng chân, vì nó sinh tâm nghi ngờ bất thiện. Tức là người trước làm vô nghĩa lợi, chẳng phải là Thiện tri thức. Cho nên phải trì giới này; Hai là giới Phật chế tức là tự đủ phương tiện, như trong pháp Thanh văn vì muốn tu phạm hạnh, dứt hết nguồn khổ. Phật lập phương tiện này để ngăn ngừa, vì thế mau được thành quả. Nay trong Đại thừa cũng có chế giới, đó gọi là đủ phương tiện trí khéo léo. Vì có phương tiện khéo léo nên nay mười điều lành này thành giới bất cộng, chẳng chung với Thanh văn, ngoại đạo. Cho nên kinh nói khéo tu hành. Kinh Đại Bản này có mười vạn bài kệ, có trao giới này và các phương tiện, nay chưa đến Trung Quốc. Nhưng trong đảnh Kim cang tự có trao pháp không khác với nó nên phải nêu ra mà thôi. Như Thanh văn có bốn giới trọng ở đây chính là Thâu-langià, không phải trọng cấm. Vì sao? Vì giới mười điều lành này là thuận theo với Nhị thừa, ngoại đạo, cho nên khéo léo phương tiện mà giữ đủ. Bồ-tát tự có giới trọng căn bản, trong đây gọi là Sát Đạo Dâm Vọng chỉ là Thâu-lan, không phải là Bồ-tát cực nặng. Như trước ba đời trong giới không chướng ngại, trước khiến chẳng bỏ Tam bảo, lại khiến chẳng bỏ tâm Bồ-đề, đây thật là bốn giới trọng của Bồ-tát. Nếu Bồ-tát có tâm lìa bỏ Phật như thế thì gọi là phá giới trọng. Sở dĩ như thế, vì Như Lai là chỗ sinh ra tất cả pháp lành. Bồ-tát tự quy y Phật thì mới có tất cả địa Ba-la-mật muôn hạnh thành tựu, cũng như nhân hạt giống (hạt giống) mới được sinh quả. Nếu bỏ chữ A trí bổn tự nhiên thì tất cả điều lành không được sinh. Cho nên bỏ Phật tức là dứt tất cả mạng sống của Bồtát mà dứt hết cội gốc thành Phật. Nếu phạm dâm đạo sát vọng thì chỉ chứng ngại đối với Đạo, không phải dứt hết cội gốc thành Phật. Cho nên chỉ thành thâu-lan. Vì Phật chẳng thể bỏ, pháp tăng cũng thế. Như kinh Thanh văn còn nói bỏ một quyển kinh giới là bỏ một người bảy chúng sinh, tức là nghĩa hòa hợp đoạn dứt, chẳng thành cụ giới, huống chi là tất cả Bồ-tát đồng nương một đường mà đến đạo tràng. Phật Phật đều không khác, cho nên phải biết tùy chỗ bỏ tức cắt đứt mạng sống tất cả pháp. Tâm Bồ-đề cũng như thế, là gốc của tất cả các hạnh. Nếu lìa tâm Bồ-đề thì không có tất cả pháp Bồ-tát. Cho nên bỏ cũng là phạm tội trọng. Như kinh Thanh văn phạm trọng rồi thì không phải Sa-môn, không phải Thích Tử, không nằm trong số chúng. Nay trong đây nếu bỏ Phật, Pháp, Tăng và tâm Bồ-đề tức là chẳng nằm trong số chúng, như Nhị thừa phá hủy bốn giới trọng. Nhưng người tu tự biết phạm giới, lại tự rửa tâm mà thọ lại, thì lại được giới, chẳng đồng với giới Nhị thừa, chẻ đá, đứt đầu rồi lại được.

Lại nữa, Bồ-tát tự có mười giới trọng, như trước Bất sát… chẳng nằm trong số ấy, chỉ là thâu-lan. Thế nào là mười? Là bốn như trước nói, lại có sáu trong nữa là mười.

Giới trọng thứ năm, nghĩa là chẳng hủy bỏ tất cả kinh pháp ba thừa, nếu chê bai tức là chê bỏ Phật, Pháp, Tăng và tâm đại Bồ-đề, cho nên phạm trọng. Vì trong bí mật tạng tất cả phương tiện đều là phương tiện Phật. Cho nên hủy bỏ một pháp tức là hủy bỏ tất cả pháp. Cho đến nghề nghiệp nuôi sống, thế gian nghệ thuật… hễ có chánh lý thuận nhau là lời Phật nói, còn chẳng được chê bai huống chi là pháp ba thừa.

Thứ sáu là đối với tất cả pháp không nên keo tiếc, nếu phạm tội hủy giới trọng. Vì Bồ-tát nhóm hợp tất cả pháp vốn vì tất cả chúng sinh, nếu ngầm tiếc tức là bỏ Bồ-đề, nên phạm giới trọng.

Thứ bảy là chẳng được tà kiến, nghĩa là các tà kiến như: Chê bai không có nhân quả, không có Phật, không có người thấy đạo… Nếu sinh tà kiến thì tự nhiên bỏ Phật, Pháp, Tăng và Bồ-đề, cho nên phạm giới trọng, mà Thanh văn chỉ được Thâu-lan, cho nên phải biết phương tiện chẳng đầy đủ chỉ là theo một đường mà nói.

Thứ tám là người phát đại tâm, từ trước khuyên phát tâm ấy chẳng để lui mất. Nếu thấy biếng lười mà chẳng khuyên phát hoặc ngăn cản tâm ấy, nếu khiến lìa đạo Vô thượng Bồ-đề tức là trái nghịch tất cả việc nên làm của Như Lai, cho nên phạm tội trọng.

Thứ chín là đối với người Tiểu thừa trước chẳng quán căn cơ mà nói Đại pháp cho nghe, hoặc đối với người Đại căn chẳng quán căn mà nói hạnh tiểu pháp thì phạm tội trọng. Đây tức là phương tiện chẳng đủ, vì trái nghịch với phương tiện Như Lai. Sai cơ nói pháp là kẻ oán của trời, người, cho nên Phạm tội trọng.

Thứ mười là Bồ-tát thường thực hành hạnh bố thí, nhưng chẳng được bố thí cho người dụng cụ để giết hại chúng sinh, như thí rượu, thuốc độc, dao gậy, tất cả đồ vật chẳng lợi ích cho người thì phạm tội trọng. Vì Bồ-tát thường thực hành hạnh lợi người, nay làm ngược lại nên phạm tội trọng. Phải biết trước chẳng giết… là vì thuận ý người, lại người mới vào pháp thì phải giữ giới.

Nay kế là nói mười việc, cho đến tất cả giới chánh hạnh của Bồtát. Nếu Bồ-tát vì thuận theo mười giới sau thì cho dù làm mười việc trước cũng chẳng phạm.

Kế Phật nói Bí Mật Chủ tu học như thế. Nếu Bồ-tát tùy chỗ có tu học tức đồng hành với chư Phật, Bồ-tát. Phải tu học như thế. Thanh văn vì gần giới Phật ấy nên gọi là cận đồng. Nay đồng đẳng tu học với Phật. Bồ-tát tùy chỗ tu học mà đồng sự với chư Phật Thế Tôn và Bồ-tát. Phải tu học tức là thân ba, miệng, bốn, ý ba, tức là tất cả câu tu học của Bồtát, là tất cả chỗ học của Bồ-tát. Đây tức là tất cả giới Bồ-tát thuận theo chúng sinh. Thuận theo tức là đồng sự (cùng làm việc). Lại tất cả Phật, Bồ-tát đều làm như thế, vì tất cả pháp nhĩ của Bồ-tát phải làm, nay ta cũng làm như thế. Tức là cùng tất cả Phật, Bồ-tát đồng sự nghiệp. Đây là giới Bổn tánh tự nhiên phải làm. Cho nên kinh Niết-bàn nói giới tánh tự năng trì.

Kế Kim Cang Thủ ý hỏi: Bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Ở thừa Thanh văn cũng nói mười nghiệp đạo lành này. Thế Tôn! Người thế gian và các ngoại đạo cũng đối với mười nghiệp đạo lành này mà thường nguyện tu học. Thường nguyện là tâm yếu luôn giữ, là tên khác của thọ giới. Chuyển cụ, Cụ tức là đủ giới này, chuyển là đầy đủ hạnh. Thành tựu kia có khác gì? Thế nào là các thứ khác nhau. Thanh văn, Duyên giác cũng có mười giới lành, cũng gọi là ngăn ngừa sự chê bai của thế gian và giữ gìn tánh thiện chân như.

Tất cả ngoại đạo, thế thiên cũng có mười giới lành. Nay Phật lại nói giới Bồ-tát chỉ là mười điều lành, song có khác nhau chăng. Cho nên Phật kế là phân biệt, khen rằng: Lành thay, lành thay! Bí Mật Chủ. Lại lành thay, các ông hỏi được Như Lai nghĩa như thế. Phải nên lắng nghe, nay ta sẽ phân biệt. Phân biệt có vô lượng nay hợp thành một, nay nói pháp môn này. Hay hỏi Như Lai nghĩa như thế, nay kế sẽ đáp.

Lắng nghe sẽ phân biệt đạo, một đạo nói pháp môn. Nghĩa là tất cả pháp chẳng ngoài tự môn A, tức là một đạo. Đạo là nương pháp này mà có chỗ đến. Một đạo tức là tất cả mọi người không có trở ngại, cùng ra khỏi sinh tử, thẳng đến đạo tràng. Nói một, tức là đạo như như, riêng một pháp giới, cho nên nói một. Đối với một đạo này mà phân biệt các thứ khác nhau. Cũng như vô lượng ngã rẽ đều đến đảo châu báu, khác đường mà đồng về. Lại như dùng môn một chữ A mà phân biệt tất cả chữ. Phải biết tuy có khác nhau mà chẳng khác tự môn A. Nay đây mười điều lành cũng thế. Tùy trí thượng trung hạ mà quán tự thành các thứ. Không phải giới bổn nguyên của tất cả chúng sinh có khác nhau. Nhưng Phật vì phá nghi của đại chúng mà đáp lời hỏi của Kim Cang Thủ, cũng đối với một đạo mà phân biệt đáp tướng khác nhau. Ý phân biệt này như thế nào. Phật nói đồng một như ta đã nói. Chỗ học Thanh văn lìa tuệ phương tiện, dạy khiến thành tựu khai mở biến trí, chẳng phải mười nghiệp đạo lành có khác nhau.

Cho nên kế là nói: Như học xứ của thừa Thanh văn, ta nói phương tiện giáo lệnh ấy mà thành tựu biên trí khai phát, không phải mười các hạnh như mười nghiệp đạo lành… đây là đáp có khác với Đại thừa. Mười điều lành của Thanh văn kia chỉ là giáo lịnh thành tựu. Cũng như Quốc vương có các ước sắc, từ nay nếu làm việc như thế thì sẽ bị tội như thế. Người ấy vì sợ tội nên thuận theo chẳng dám trái nghịch. Thanh văn cũng như thế. Vì Phật đã chế giáo mệnh oai đức Ba-la-đề-mộc-xoa, vì tôn trọng luật do Pháp vương chế ra mà chẳng dám hủy phạm. Không phải là đầy đủ phương tiện tự tánh năng trì, lại chỉ là tự trì, không phải là khắp thuận tất cả chúng sinh. Cho nên chỉ là trí một biên, không phải là giới trung đạo thật tướng. Đó là chỗ khác nhau. Các ngoại đạo chẳng còn đắm nhân khác.

Lại nữa, thế gian lìa chấp đắm ngã cho nên bị chuyển. Kế là nói khác với ngoại đạo. Tông ấy chấp thần ngã mà sinh ra tất cả. Nay thân ta chẳng phải là ta, là đại ngã sinh ra. Nếu là ngã sinh ra thì thiện ác nhân quả đều từ nó ra. Nay đây thân tâm là tự vô ngã, thì quả trì giới vì ai mà chuyển tu, ai được quả báo ấy. Phải biết nghĩa nhân quả chẳng thành, cho nên cũng như hoa quả không có hạt giống và ngói đá hay dùng hoa đốm làm tràng, thì bất luận có nói đủ. Lại có chấp chặt đối với đoạn thường mà thực hành pháp mười điều lành. Nếu thường thì không có quả báo, nay trì mười điều lành này nương vào đâu mà trụ? Còn đoạn thì cũng không có quả báo vậy nương vào đâu? Cho nên mười điều lành tên đồng, như sâu ăn gỗ tình cờ đục thành chữ, chẳng thể so sánh.

Kế nói tướng khác nhau của mười điều lành Đại thừa. Như giới Bồ-tát dùng trí phương tiện nhiếp tất cả pháp bình đẳng vào khuyên tu tập, nói giới này nhập vào tất cả pháp bình đẳng. Lìa tự tha mà tịnh khắp tự tha, tự mở tri kiến của tất cả Như Lai cũng như thế. Tất cả bình đẳng với ta. Vì nhập vào tất cả pháp giới bình đẳng mà tu giới này nên bất cộng với tất cả. Kế Phật lại muốn nói tướng mười giới lành của Bồ-tát. Khiến hạnh của Chân Ngôn Bồ-tát không có nghi ngờ, cho nên dùng mắt đại từ đại bi mà quán sát thế giới chúng sinh, bảo Kim Cang Thủ rằng: Mắt Phạm Âm này có hai tên nay còn đủ.

Vì Từ nhãn, Bi nhãn nên nói có hai tên. Trước nói tướng chẳng giết, nghĩa là dứt mạng sống, bỏ tất cả dạo gậy, pháp giết, duyên giết, nhân giết, nghiệp giết, hễ tương ưng với hại mạng thì đều phải xa lìa, quán tất cả chúng sinh có tâm nội oán đều xem đồng như mình, cho đến loại có hình đều không có ý giết hại, nhưng chẳng phải chỉ không giết hại mà thành giữ giới, mà còn phải có phương tiện tuệ, nghĩa là quán người này sẽ gây ra các duyên chê bai chánh pháp, năm tội vô gián… làm tăng chướng nặng, không do đâu mà thoát khỏi, thì dùng tâm Đại bi mà so tính, nếu hại kẻ ấy mà lợi ích cho nhiều người, hoặc khiến kẻ ấy có nhân duyên xuất ly, thì thà ta tự vào đường ác mà cứu hộ kẻ ấy. Dùng tâm đại Bi mà giết hại, đây là phương tiện không chung với Nhị thừa. Kế là giới trộm cũng như thế. Tuy tất cả dù cho lá cỏ cũng chẳng lấy, cũng vì phá nhân duyên thiếu thốn, quán chỗ chứa nhóm kia không chán. Do đó mà tự tổn hại, thành nghiệp chướng lớn. Cho đến phương tiện mà lấy, vì tu các thứ công đức, sau khiến họ tùy hỷ. Như thế các thứ phương tiện chỉ thuận theo hạnh sâu thực hành mười giới, dùng tâm

Đại Bồ-đề mà dẫn dắt tất cả đều không phạm. Đây là tướng trì phạm. Trước đã nói lược giới sát, kế lại nói đủ. Bí Mật Chủ Bồ-tát suốt đời giữ giới bất sát, phải bỏ dao gậy, lìa ý giết hại, giữ mạng nó như giữ mạng mình. Các thứ kia nói có phương tiện khác, tức là các phương tiện khác. Tùy loại chúng sinh, tùy sự nghiệp mà làm nó khởi lên, cho nên nói tùy sự nghiệp mà hết lòng siêng tu, khiến nó khỏi báo ứng lìa ý oán hại. Thành loại là nghĩa đông. Như loại ấy tạo ra sự cực ác, nghiệp cực nặng. Muốn tránh khỏi cho họ thì dù cho dùng dao gậy… cũng không lỗi. Giới Thanh văn cũng có đối với tội nhỏ mà trừ tội lớn, dùng nhẹ đổi nặng, nên nay cũng thế, như cứu người nữ té xuống nước… rất dễ hiểu. Giới Bồ-tát cũng y theo đây có thể biết. Suốt đời giữ giới bất sát là phải bỏ dao gậy giết hại, như mình đồng với người khác mà giữ sinh mạng. Các chúng sinh khác như loài vật, thoát khỏi hình loại của chúng, phải lìa ý oán thù, đây là giới tướng thứ nhất. Suốt đời không phải là một thời gian mà thôi. Nếu Bồ-tát từ khi mới phát tâm cho đến thành Bồ-đề, tất cả loài có mạng sống còn chẳng được sinh một niệm giết hại huống chi là khởi thân miệng? Nếu có dụng cụ tùy duyên giết hại thì như trong giới bất sát có nói rộng các thứ. Cũng cho đến một niệm chẳng chứa để dụng cụ giết hại, huống chi là bày ra phương tiện giết hại.

Tâm não hại lược có chín thứ. Nói ghét thân ta và ghét bạn lành ta, thích oán thù ta ở quá khứ hiện tại vị lai gồm có chín. Lại có loại phi tình sinh giận. Như Phật Ca-diếp có một Tỳ-kheo đi kinh hành bị vấp cành cây rớt, bèn dùng cuốc đào lên, lấy dao chặt hết, phút chốc bị làm thân rắn lớn. Lúc đó, đệ tử đồng học mới thiêu thân rắn. Sau, rắn dữ ở chỗ đốt gặp Phật sinh tâm ác muốn hại, khi ấy Phật bèn khuyên rằng: Thân trước ngươi do giận loài phi tình (thực vật) mà tự chịu quả báo này, nay cũng vì nó mà chịu thân xấu ác. Không bao lâu sẽ có cậu bé vì rắn hại người nên giết mà đốt thân, rắn thấy thế giận dữ muốn hại nên bị đọa vào địa ngục, trong khi thân cũ bị đốt chưa xong. Quả báo sau hai thân đồng thời bị đốt. Phải biết đây là đối phi tình mà tức giận nên bị quả báo như thế. Lại như trong luật có Tỳ-kheo đi kinh hành bị lá lan đâm vào trán chảy máu, liền tức giận nói rằng: Vì sao Phật chế giới này, có lợi gì vì làm khác đi nên bị quả báo làm thân rắn lớn), tức là duyên sinh chịu khổ làm thân rắn lớn, vì cứu năm trăm người lái buôn mà đại bi giết rắn, khiến rắn khỏi tội được sinh lên cõi trời, các lái buôn đều khỏi nạn. Như Đại Luật của Hữu Bộ nói: Phi tình còn như thế huống chi là hữu tình ư? Bồ-tát xem việc này tự chẳng sinh tâm làm, cũng khuyên người khác lìa bỏ. Các thứ khác như trước đã nói.

Nhân duyên về cạy giáo bằng vàng co nói rộng: Lại như việc sư tử cứu những người đi buôn mà hại rắn, trong kinh Bảo Tạng, kinh Đại Phương Tiện có nói: Lại nữa Bồ-tát giữ giới chẳng cho thì không lấy, vật thuộc người khác thọ dụng còn chẳng khởi tâm lấy, huống chi là vật chẳng cho mà lấy. Các hữu tình khác thấy keo kiệt thì không cho. Vô phúc phải làm các thân tùy loài chúng sinh keo kiệt hại mình mà lìa bố thí. Khi cho họ, như thế là giữ giới không trộm. Như vật nó dùng mà không khởi tâm chạm lấy, huống chi là vật khác không cho mà lấy. Có các phương tiện khác, thấy các hữu tình quá keo kiệt, lo chứa nhóm chẳng bố thí, chẳng làm phước, tùy loài chúng sinh mà phá hại sự keo kiệt của họ, nên lìa tự tha, vì họ mà bố thí để được sắc thân tốt đẹp.

 

Nếu lúc đó Bồ-tát khởi tâm tham mà lấy, này Bí Mật Chủ, Bồ tát ấy có lỗi lui mất phần Bồ-đề, đối với pháp vô vi Tỳ-ni có lỗi, bố thí được sắc đẹp. Có Bồ-tát phát khởi tâm tham mà lấy là giới thứ hai. Tất cả vật của người nghĩa như Tỳ-ni nói rộng. Cho đến chẳng sinh tâm một niệm xúc chạm mà lấy. Cho đến chẳng sinh tâm muốn Bồ-đề, huống chi là làm phương tiện để xúc chạm mà lấy. Nhưng Bồ-tát có khi tìm cách xúc chạm mà lấy, nghĩa là thấy có chúng sinh chẳng tin nhân quả, chẳng thực hành bố thí (tuệ xả), đối với tất cả vật giữ khư khư chẳng bỏ, lại sinh tâm này thì chỗ nào có phước bố thí . Vì như thế, các thứ phương tiện dẫn dắt hóa độ đều chẳng thể được. Bấy giờ, Bồ-tát dùng phương tiện, tâm trộm lấy vật ấy cũng chẳng sinh tâm đem về cho mình, chỉ vì người ấy mà làm các việc phước, nhân phương tiện mời gọi khiến quán thấy, khiến phát tâm ít có. Vị Đại sĩ này đối vật chẳng tiếc mà bố thí cho người, ta tự thấy mình chẳng bằng, Bồ-tát thứ lớp như thế lại tìm cách, lại phương tiện nói lợi ích thí vật, có quả báo như thế, như thế, họ sẽ dần dần tin phục, cũng đối với của mình chẳng thể bỏ. Sau đó, Bồ-tát quán tâm họ dần dần thông thái, như pháp mà bảo rằng: Vật mà ta dùng bố thí sử dụng đều là vật của ông, vì ông chẳng tự dùng, cũng như gặt lúa mà chẳng trồng lại thì sẽ phải thiếu thốn, phước trước đã hết thì không mong cầu gì, cho nên vì ông mà dùng. Nay trước bố thí phước ông đều có, như Phật đã nói ở trước hễ bố thí thì được Diệu sắc, sức khỏe, vô ngại biện… các thứ lợi ích lớn, chớ bảo là không có phước. Vì nhân duyên ấy khiến nó ra khỏi đường ác, ngạ quỷ mà thành nhân Bồ-đề. Phải biết Bồ-tát dùng Cụ tuệ phương tiện mà làm được việc ấy. Nhị thừa, ngoại đạo thì không có. Tùy loại là có một loài chúng sinh như thế, phải dùng cách giáo hóa này. Lại kế là tùy loại, là chẳng phải chỉ có một phương tiện này, lại có phương tiện khéo léo vô ngại khác. Tóm lại là vì khiến nó khai mở tri kiến Phật mà có dẫn đầu không phải việc khác, tướng này rất nhiều chẳng thể nói hết. Phải tùy theo tình huống này, nêu một mà biết các thứ khác rất dễ hiểu.

Bồ-tát phá bỏ san tham (keo kiệt), hại nghĩa là đối trị, như nói hại dứt phiền não. Nay cũng thế, là dứt kiết san tham. Nhưng Bồ-tát này chẳng sinh tâm tham tự lấy vật. Nếu lấy tức là dứt bỏ chi phần Bồ-đề. Do tâm tham này mà dứt duyên thành Chánh giác, khiến chi phần chẳng đủ, nên nói là hại. Giới Phật chế ta chẳng dám dẫn giới hữu vi, đây là phương tiện tu hành nên nói giới hữu vi. Nhưng giới vô vi tức là bản tánh giới không phải do tu mà thành. Đối đây có làm phương tiện nên nói hữu vi song quán sâu, tức đồng giới vô vi, vì chẳng lìa tự môn A. Kế là giới bất tịnh hạnh, nói rằng Bồ-tát giữ giới bất tà hạnh. Vợ của mình chủng tộc mình thuộc người khác mà tâm tham còn chẳng phát, huống chi là dâm dục trái đạo. Bồ-tát trì giới bất tà hạnh, nếu người khác nêu tướng vợ mình, chủng tộc mình, mà chẳng phát tự tham huống chi lại trái đạo, hai thân hòa hợp. Có phương tiện và sắc loại khác thì y theo trên, hai thân hướng về nhau, các sắc loại khác. Đây là thứ ba. Thuộc về của người tức là vợ con gái và chị em của người ấy. Đúng luật mười thứ hộ trì. Song Bồ-tát có hai thứ, nếu xuất gia thì tất cả dục tâm còn chẳng được sinh thì nói gì đến vợ của người khác và phi thời. Nhưng cũng để hiểu rõ nên luật nói đủ. Nếu Bồ-tát tại gia đối với vợ mình hành dâm lúc phi thời thì gọi là tà hạnh. Như Thi Ba-la-mật trong Trí Độ luận có nói đủ. Lại phi thời và phi xứ như ở gần chùa tháp tôn minh hiện, vì trong minh tức là đối thiên thần… nên cũng như chế. Chủng tộc mình, nghĩa là đồng họ chẳng cưới gả. Lại tộc là tiếng nước sở cũng là cờ nêu. Như theo pháp phương Tây, nếu người nữ mua chuộc nữ sắc, được quan chấp thuận, đã có người trao cho bao nhiêu vật, thì lúc đó thuộc về người ấy. Nhưng nếu có người ở cửa đặt nêu để người khác biết, người khác thấy thì biết họ đã có chồng, nếu cố phạm thì đồng tà hạnh. Tự tham chẳng phát là cùng chẳng tương ưng tham nhiễm huống chi là tà dâm phi đạo, và chánh cảnh mà hòa hợp giới hạn ư? Nhưng có phương tiện khác vì thành nhân Đại Bồ-đề cho họ thì có phạm, chẳng đồng với Thanh văn. Như Đại Bản Bồ-tát giới nói. Có Bồ-tát từ mới sinh đến nay tu hạnh đồng chân chưa hề thấy mặt người nữ mà có tâm dính mắc, ở trong núi rừng mà tu đạo. Sau mười tám tuổi nhân vào xóm khất thực có cô gái thấy tướng thầy khôi ngô bèn sinh dục tâm mà bảo rằng: Tôi rất yêu thích thầy, thầy thực hành diệu hạnh chính là lợi ích tất cả. Nay nguyện tôi không trọn thì tôi sẽ chết, thì thầy trái bổn nguyện mà hại chúng sinh. Bồ-tát ấy quở trách các tội lỗi của dục tình, nhưng cô gái chẳng chịu bỏ, vì không vừa ý nên ngất xỉu.

Bấy giờ, thân thuộc cô gái nghĩ rằng: Ắt là quỷ dạ xoa hình mạo khác người, con gái ta thấy bị ngất xỉu, mà nó không ăn tinh khí ư? Rồi đem dao gậy đến bắt trói muốn giết. Cô gái tỉnh dậy thấy vậy bảo cha mẹ các việc, nói ấy là lỗi của con không phải tội của Tỳ-kheo, rồi Tỳkheo được thả, cô gái lại chạy theo mãi, Tỳ-kheo nghĩ rằng nếu cô ấy chẳng toại nguyện thì sẽ chết mà đọa đường ác, bèn theo ý cô ấy mà hòa hợp nhiều lúc. Đợi khi cô ấy ít muốn bèn nói pháp dạy khuyên, cô gái rất kính yêu bèn nghe lời mà tu phạm hạnh, thành tựu pháp lợi lớn. Nhưng Bồ-tát này chỉ vì Đại Bi phương tiện mà chịu làm việc thấp kém, không phải vì lòng dục mà làm điều phi pháp. Nếu chẳng do Đại bi chỉ vì tâm tà hạnh mà làm thì phạm giới này. Tức là có trí phương tiện nên như thế. Tùy loại tức là chỉ nghĩa ở trước. Đồng giới trộm nên chẳng nói rộng, lệ theo đây mà biết… Như kinh nói bọn cướp bắt được cô gái Khẩn-na-la đem bố thí, Bồ-tát nhận lấy, do đây mà được vô lượng tài vật, lúc đó đem bố thí. Lại như Bồ-tát Mỹ Phát đi khất thực, cô gái thấy mà ngất xỉu. Vì cứu hộ cô gái lại sợ lìa tâm Bồ-đề nên nhận cô gái làm vợ. Về sau khuyên bảo dắt dẫn cùng phát đạo tâm, quyến thuộc cũng phát đạo tâm mà sinh lên cõi trời.

Kế là giữ giới chẳng nói dối. Suối đời giữ giới chẳng nói dối. Nếu vì mạng sống cũng chẳng nên nói dối, tức thành dối gạt Phật Bồ-đề. Bí Mật Chủ là gọi Bồ-tát trụ ở Đại thừa cao quý nhất, nếu nói dối thì chẳng phải Phật Bồ-đề. Cho nên Bí Mật Chủ nói pháp môn này phải biết như thế, bỏ nghiệp nói dối, vì là điều chẳng nên làm, đó gọi là dối gạt Phật Bồ-đề, Bí Mật Chủ là Bồ-tát tối thượng Đại thừa, nếu nói dối là đánh mất Phật Bồ-đề. Bí Mật Chủ, pháp môn phải biết như thế. Chẳng bỏ lời nói thật. Đây là giới thứ tư. Nhân mạng sống, tức là các thứ danh lợi… Hoặc vì các thức ăn uống y phục tù đày, khổ ách… như thế mà nói dối thì thân mạng sống còn, chẳng nói thì chết, nên nói duyên vì mạng sống. Bồ-tát có nhân duyên như thế, khi ấy còn chẳng sinh một niệm dối gạt tâm người khác huống chi là khởi phương tiện. Nhưng lược nói có tám thứ chẳng phải lời bậc Thánh, có tám thứ lời của Hiền Thánh. Tức là chẳng thấy nói thấy, chẳng nghe chạm biết mà nói nghe chạm biết. Thấy nói chẳng thấy và nghe chạm biết mà nói chẳng nghe chẳng chạm chẳng biết là tám lỗi chẳng phải lời Thánh. Nghĩa là thấy nói thấy, ba thứ kia cũng như thế. Chẳng thấy nói chẳng thấy, ba thứ kia cũng như thế. Như Tỳ-ni nói Giới Đại Vọng Ngữ trong luật Ngũ phần có nói. Nếu Bồ-tát phạm như thế tức là chê bai Phật Bồ-đề. Vì sao? Bồ-đề tức là một bề thật nghĩa, mà nay lại dối gạt thì chính cùng nó trái nhau, cho nên nói là phá Bồ-đề.

Lại nữa, Như Lai vô lượng kiếp tu Đế thành, cho nên lời nói ra mọi người đều tin nhận, cho đến nói pháp không thể nghĩ bàn, không phải tâm lương kia chỗ làm khó tin khó hiểu. Vì Phật vô lượng kiếp thành thật, nên mọi người tin. Nay Bồ-tát lừa gạt chúng sinh tức là sinh nhân duyên pháp lừa gạt kia, cũng là phá Bồ-đề. Cho nên Bồ-tát trụ trong hạnh chân ngôn của Đại thừa địa tối thượng, chẳng được sinh một niệm dối gạt tâm người khác và các thứ duyên ấy, có nói đủ trong luật. Nếu trái phạm tức là vượt Phật, Bồ-tát. Đây cũng là tùy loại phương tiện mà nói. Văn không tóm lược, như Bồ-tát giới Đại Bản nói: Có một cô gái giết hại cha mẹ, gây ra nghiệp Vô gián này rồi tự nghĩ rằng ta gây ra nghiệp ác này chắc chắn đọa vào ngục Vô gián, cực ác đã thành, có pháp lành nào đến gần ta chăng? Vì nhân duyên này lại không bỏ lỗi tu thiện, chỉ đứng yên lặng khoanh tay đợi tội. Bồ-tát dùng mọi cách khuyên khiến sám hối làm lành. Cho đến bảo rằng: Trong pháp Đại thừa có phương tiện để diệt tội này, nhưng không hề tin nhận. Bồ-tát sinh tâm đại Bi, lại hóa ra người ngủ đêm với cô gái. Nhân đó tự nói ta cũng gây ra nghiệp như thế. Cô gái ấy tự nghĩ người khác cũng có làm việc này chăng, nay ta được bạn đồng ở chung rất lâu. Người ấy hóa độ người dần dần, dùng phương tiện muốn cùng sửa lỗi làm lành mà chẳng từ người ấy nói, bảo rằng: Ngươi muốn làm cứ làm, nhưng ta tự nghĩ hoàn toàn vô ích. Nó hóa ra người cùng ở với nó, bày việc làm lành dần dần được pháp lợi có thần thông lớn mà hiện thấy bảo rằng: Nay ta làm lành, tội trước đã diệt hết, nay được pháp này. Nếu tội chẳng diệt thì do đâu mà được việc như thế. Người ấy sinh tâm hiếm có bảo rằng: Tôi và chị đồng phạm, tội chị còn trừ, ta đâu chẳng làm, do đó mà cùng làm. Bồ-tát dùng phương tiện mà hóa, tội nhơ được trừ mà dần vào Phật pháp. Đây tức là Bồ-tát dùng tuệ phương tiện giữ giới như thế. Không giống với Nhị thừa và người lớn. Lại Tăng-già-tra. Kinh nói: Có một đại phu người vợ rất đẹp, rất sang trọng. Về sau qua đời, tình chẳng thể bỏ nên luôn mang vác theo.

Cho đến khô queo vẫn không bỏ. Bồ-tát giáo hóa chẳng được, do đó hóa thành, một cô gái cũng mang theo người chồng, bảo rằng: Người này tôi yêu nhất mà chết rồi, không thể dứt tình cho nên thường mang theo. Ông ấy nghĩ rằng đây là bạn ta, đồng sự với ta. Do đó cùng ở chung. Sau, Bồ-tát lén cô ấy, liền bỏ cả hai thây chết xuống sông Hằng.

Cô gái và người ấy tìm kiếm hai thây chết đều chẳng được bèn than trách rằng: Chúng ta mang theo cho đến khô queo, nay thấy bạn khác bèn thương mà bỏ. Phải biết tình ấy chẳng thể giữ mãi, chết rồi còn như thế huống chi là còn sống. Nó thấy việc đổi tâm quá nhanh chóng liền phát tâm chán dục muốn tu đạo. Bồ-tát có tuệ phương tiện này nên dối gạt như thế, nhưng không phải vì ác ý mà làm.

Kế là nói giới cấm nói lời thô ác: Bồ-tát tâm sâu kín, tin nhận nhiếp chúng sinh. Lại kế, Bí Mật Chủ trì giới chẳng mắng chửi thô ác nên phải dịu dàng mà nhiếp thọ các chúng sinh, tùy loài mà nói năng, hạnh đầu của Bồ-tát Bí Mật Chủ gọi là làm việc có ý nghĩa, lợi ích cho chúng sinh. Hoặc Bồ-tát khác trụ đường ác, nhân chúng sinh mà nói lời thô tục tùy theo hình loại, lời nói, vì sao? Vì đây là hạnh vì chúng sanh đầu tiên của Bồ tát, hoặc Bồ tát ở trong đường ác vì chúng sanh mà nói lời thô ác, đó là giới thứ năm. Thô nghĩa là có lời nói khiến cho tâm ấy chẳng thuận mà khiến sinh tâm bất thiện, hoặc lớn tiếng hiện tướng gọi là dữ dằn, đều như tướng Tỳ-ni nói: Bồ-tát đều phải nhu hòa, khéo thuận, không được dữ dẵn. Lời nói phải vui lòng người, vì nhân duyên này mà dần dần khiến họ đi vào Phật đạo, nay làm nhân xúc não, là trái với phương tiện bốn nhiếp, cho nên phạm tội. Nhưng cũng có phương tiện mà nói lời thô tục. Như trong Bồ-tát giới đại bản nói: Có một người thường nói thô tục cho là tánh thường, không ai khuyên dạy được. Bồtát bèn hóa thành một người rất dữ dằn, hung bạo gấp vô lượng lần người ấy. Người ấy thấy vậy rất vui mừng, cho rằng việc làm của người đều hơn ta, ta đã tự bảo là không ai bằng, vậy mà người này đáng bậc thầy ta, do đó xin làm đệ tử, cùng làm việc đã lâu. Bồ-tát dần chỉ bày chỗ lìa chán, khen ngợi nhu hòa, ghét sự thô bạo. Sau tự đổi để khuyên khiến sửa đổi. Nhưng cũng chưa theo, Bồ-tát sau phải bày việc xả bỏ việc ác, mới tự tu đạo mà được pháp lợi lớn, hiện bày thần thông. Người ấy cho là ít có bảo rằng người này trước làm hơn ta, còn tự sửa lỗi mà được pháp này, sao ta chẳng làm, lại vì ông ấy là thầy mà vào pháp lợi, tức là Bồ-tát dùng tuệ phương tiện mà nói lên sự thô ác.

Kế là chẳng hai lưỡi. Lại nữa Bí Mật Chủ, Bồ-tát nên trì giới hai lưỡi, lìa lời nói chia rẽ, lời nói não hại. Nếu phạm thì chẳng phải là Bồ-tát. Bồ-tát chẳng sinh tâm chia rẽ chúng sinh hoặc dùng các phương tiện khác, thấy có chúng sinh hễ thấy biết gì cũng sinh chấp đắm, tùy tương loại mà nói chia rẽ khiến nó trụ một đạo, tức trụ đạo Nhất thiết trí. Bồ-tát không nói lời chia rẽ, không nói lời não loạn, nếu phạm thì không phải hạnh Bồ-tát. Đối với các chúng sinh chẳng sinh tâm chán lìa. Hoặc hữu tình tùy chỗ thấy mà chấp chặt chúng sinh kiến. Nó tùy loại mà chia rẽ. Như khiến chúng sinh trụ một đạo, tức là trụ đạo Nhất thiết trí. Đây là giới thứ sáu, tướng hai lưỡi như trong Tỳ-ni có nói. Cho đến nhân duyên, dã can, sư tử… Nhưng Bồ-tát thường tu hạnh vô não hại, tùy loại thượng trung hạ đều khiến vui mừng hòa hợp, chẳng làm nhân duyên khác. Nhưng thấy các chúng sinh có kiến chấp lạ, đều chấp tông mình chẳng thể rời ra, vì nhân duyên này mà chịu khổ lớn.

Bấy giờ, Bồ-tát mới dẫn nó khiến bỏ ác tri thức mà nói lời chia rẽ. Như quá khứ có thầy ngoại đạo lãnh đạo hàng ngàn đồ chúng nói pháp tà đạo. Bồ-tát quán thấy nhân duyên họ được hóa độ bèn nhập vào bí pháp mà làm đệ tử, chẳng bao lâu học pháp thấu hết chỗ sâu kín, tuệ ngộ chẳng ai bằng. Thầy rất mừng bảo người này truyền pháp ta là đủ, bèn phân học trò khiến người ấy lãnh đạo. Bấy giờ, Bồ-tát dần dần dùng phương tiện nhập vào kiến ấy mà hóa độ. Lâu sau biết người ấy đã rất tin phục bèn dần dần chỉ pháp sâu xa. Bấy giờ, năm trăm đệ tử thấy tâm dần chánh mà thành tuệ tánh. Lúc đó, thầy nghe pháp lạ đến nghe xem. Bồ-tát nhân bày cho thầy các thứ nên thầy cũng giải ngộ. Lúc đó, năm trăm đệ tử cùng thầy Bồ-tát tu theo pháp mới. Cả ngàn người đều vào chánh pháp. Các loại như thế tức là phương tiện phá hòa hợp. Bồ-tát thực hành sâu rộng chẳng thể nói hết. Nêu một mà nhiều loại khác đều hiểu.

Kế là giới cấm nói lời thêu dệt. Bí Mật Chủ, Bồ-tát giữ giới không nói thêu dệt. Tùy loại thời phương ngữ hòa hợp, là phải giữ giới không nói thêu dệt. Tùy loại hình mà có điều nói thời phương lợi ích, phương ấy có lời nói này phải nói. Trái luật thì chẳng nói, tùy phương ấy tương ưng hòa hợp mà nói ra nghĩa lợi, tức là khiến cho họ được nghĩa lợi. Nói ta tức là làm nghĩa lợi này, tùy phương tùy thời mà làm, khiến tất cả chúng sinh được tâm hoan hỷ mà thanh tịnh đối với đạo, tức là nhĩ căn thanh tịnh. Vì sao? Vì Bồ-tát có lời nói lạ nghĩa là các thứ khác nhau, tùy ý người khác mà nói. Có Bồ-tát phương tiện lạ, lấy cười vui làm đầu, muốn cho chúng sinh vui vẻ ở trong Phật pháp. Vì chúng sinh tuy nói lời vô lợi nhưng ở trong sinh tử mà làm lợi ích chúng sinh, nói là đủ các thứ, ở trong sinh tử trôi lăn mà không mê đắm, hòa hợp sinh lợi khiến tất cả hữu tình các tâm vui mừng, tai đạo tịnh trừ. Vì sao? Vì lời nói lạ lùng. Có Bồ-tát dùng lời này khiến chúng sinh vui mừng, an trụ trong Phật pháp. Muốn dứt bỏ các lời vô lợi mà không nói ra, Bồ-tát như thế trôi lăn trong sinh tử.

Đây là giới thứ bảy là không nói thêu dệt, nghĩa là thế gian nói

bàn việc không lợi ích. Như trong Tỳ-ni nói các thứ Vương luận, Tặc luận, vì nghề nghiệp nuôi sống mà xuống biển, người nữ trị thân… Hoặc lời bình luận việc thế gian trong thành ấp, cõi nước. Tóm lại, tất cả pháp thuận theo thế gian không nhân duyên ra khỏi đều là đó. Nhưng Bồtát phải thời phương lợi hòa hợp mà nói. Nói thời là tuy muốn khai mở dẫn dắt người ấy, nhưng nó đều chưa có cơ tín nhập, tin ưa chưa phát mà vội nói khiến nó không tin mà khinh lờn, chê bai, cũng không giáo hóa, tức là phi thời. Trái đây gọi là Thời ngữ, hoặc đại chúng ở chỗ náo loạn nhiều người, tâm không yên tịnh mà lời nói không vào được, tâm do đó mà mất đạo duyên thì cũng là phi thời. Phương là phi xứ (không phải chỗ). Nghĩa là chính khi nó tạo ác tức là ở chỗ làm mà nói pháp, vì phương ấy đắm mê việc làm, lại sinh tâm ngỗ nghịch, do đó mà sinh tâm bất thiện. Cũng trái với đây gọi là tùy phương ngữ. Lợi, là một bề không có các bất lợi khiến tu thiện, thuận tình cờ ấy mà nói ra. Nếu Bồ-tát làm như thế thì khiến cho hữu tình vui mừng tin phục, lợi mình lợi người.

Vì họ nghe rồi được lợi, cũng chẳng uổng phí công sức. Nhưng Bồ-tát có khác lạ nghĩa là lấy cười làm đầu, như cười đùa cho đến nhảy múa, ca hát bàn luận, tức như ở trước nói, các thứ có ở thế gian Bồ-tát vì khiến người ấy vui mừng. Đã được vui mừng ưa thích rồi bèn dùng phương tiện dạy bảo khiến người ấy an trụ trong Phật tuệ. Tuy biết là vô ích mà tâm không mê đắm. Nhưng quán thời, quán phương nghĩa lợi mà không làm. Tuy làm vô lợi, song dùng vô lợi mà dứt việc vô lợi kia. Vì thời trước người ấy làm ác, trái lại càng kinh sợ chống cự. Cho nên phải phương tiện đồng sự sau mới khiến nó đi vào Phật đạo. Cho nên vô lợi này tức là nhân có lợi. Như người thầy thuốc biết chất độc làm thuốc. Nếu làm như thế chính là nhân Bồ-tát ra khỏi sinh tử trôi lăn, chẳng phải đồng với Thanh văn thường dùng phương tiện tuệ, một bề câu chấp chỉ ngăn các lỗi mà không khai thông, nên không có đủ trí tuệ. Tự mình ra khỏi trôi lăn, cũng giúp người khác ra khỏi, nên gọi là lìa trôi lăn. Như kinh Hoa Nghiêm nói khéo thấy người nữ tức là đó. Vì muốn dẫn nhiếp chúng sinh mà sinh làm dâm nữ, làm người đứng đầu năm trăm dâm nữ, xinh đẹp chẳng ai bằng, đủ các đức của người nữ, sáu mươi bốn dáng điệu khéo léo, phương tiện đều đầy đủ. Người chồng bản tánh khéo nhiếp tâm người, mà cô gái này không gì chẳng sợ, vì nhân duyên trong nhiều người. Bồ-tát trước dùng năng lực phương tiện, cùng họ gây ra các việc tà hạnh, khiến họ rất yêu mến, có nói gì người đều không trái, xét tình có nó mà tùy duyên dắt dẫn, khiến họ thấy thật tánh của dục, liền từ cửa này mà vào Phật tuệ. Lúc đó, mọi người đều tin yêu người ấy, và nghe theo lời. Vì nhân duyên ấy mà được lợi ích vô lượng. Tuy ở trong phi lợi mà thành được lợi lớn này. Tức là Bồ-tát Cụ tuệ phương tiện trì giới. Trong kinh loại này rất đông.

Lại nữa, Bí Mật chủ! Bồ-tát nên giữ giới chẳng tham, với đồ thọ dụng của người khác không sinh tâm nhiễm. Vì sao? Vì Bồ-tát thường làm, tâm không mê đắm. Nếu Bồ-tát có tâm ấy, đối với Nhất thiết trí không có sức, không có sức tức là lui mất. Do pháp này mà đối với Nhất thiết trí không có sức, không có sức thì ở một bên, tức là nghĩa chẳng đủ. Lại Bí Mật Chủ, Bồ-tát phải phát tâm vui mừng, sanh tâm như thế ở đây cũng đồng với chỗ ta đáng làm, nay tự nhiên sinh ra. Lành thay, rất khéo léo thường tu các phương tiện lạ, chẳng để các chúng sinh ấy mất mát tiền của là do giữ chẳng tham.

Lại nữa, Bí Mật Chủ giữ giới chẳng tham thì vật dụng của người khác không sinh tâm đắm nhiễm. Vì sao? Vì không có Bồ-tát nào có tâm thọ nhận, chỉ có Bồ-tát có tâm nhiễm vô lực mà ở một bên cửa Nhất thiết trí. Cũng này Bí Mật Chủ! Bồ-tát vui mừng và phát tâm này, nếu ta làm nó tự nhiên mà sinh thiện cực thiện thì thường vui mừng, chẳng để cho mất tiền của của các chúng sinh ấy. Đây là giới thứ tám, trước đã nói rõ giới của thân, miệng.

Nay kế là nói hoàn toàn là giới của tâm. Đây là từ tâm khởi tham, nếu Bồ-tát thấy người khác có việc hơn như sức khỏe, tiền của có vô lượng môn. Bồ-tát không có ý nghĩ họ có các việc ấy mà ta không có. Do nhân duyên ấy mà sinh ưa muốn, tham đắm, mong cầu đều cũng thuộc về giới này. Do nghĩa này mà sinh ra các buồn khổ vì thế chẳng nên làm. Bồ-tát chẳng nên như thế. Nếu có vô lực, ví như người có vô lượng nghề nghiệp khéo léo, đến lúc bệnh nặng thì không làm được. Bồ-tát cũng như thế, nếu vì tham ái mà bệnh tâm khiến tâm Bồ-đề có vô lượng thế lực thành vô lực. Nhất thiết trí tức là muôn đức đầy đủ không thiếu sót. Do khởi tâm này nên làm cho thể muôn đức không thiếu sót này chi phần không đủ. Cho nên đối với tất cả Trí Môn tức là vô lực. Nhưng Bồ-tát thấy người khác có các thứ hơn mình phải tự vui mừng mà nghĩ rằng: Ta vốn lập thệ nguyện lớn vì tất cả chúng sinh hành đạo Bồ-tát đều khiến muôn đức gồm đủ. Nếu các thứ này có thiếu, ta còn muốn chẳng tiếc thân mạng khó làm khổ hạnh mà lợi lạc, mà nay tự làm xong, tức là lợi lớn, thật là đáng mừng. Bồ-tát lấy đó tự an ủi tâm mình, việc ta phải làm tự nhiên đến, nên rất vui mừng. Ta vì chúng sinh muốn dùng vô số tinh tấn, cầu kiếp như hiền bình kiếp, thọ dụng tự nhiên, phá nghiệp nghèo thiếu, huống chi là nó tự đến mà lại tổn hại lợi mình. Vì ngộ tâm này chẳng còn sinh mê đắm, tức là tướng trì giới. Như trong kinh Trường A-hàm nói. Thời Phật Câu-lưu-tôn ở quá quá khứ, vua nước Ba-la-nại tên là Tư ích, thường nghĩ lợi ích cho tất cả nên lấy đó làm tên. Lúc đó, có năm trăm vị quan lớn bạch vua rằng: Nay cõi nước rất giàu có, mọi người đều không có tâm họa loạn, e chẳng thể chống với kẻ thù. Vua phải khiến tu tập chịu khổ nhọc thì khi gặp nạn mới chống trả mà bảo vệ vua nước. Bấy giờ, vua Tư Ích vì hận thù nghĩ rằng: Ta gán việc phi thời cho người, trái vớn bổn tâm ta, không có việc ấy.

Lúc đó, các quan biết vua chánh ý nên không nói nữa. Đế-thích biết, bèn nghĩ rằng: Việc làm của vua này là đạo Bồ-tát, chẳng biết có bền chắc hay không, ta hãy thử xem. Nhân đó bảo với nước lân bang là Trường Thủ đem quân đánh. Chỗ vua Trường Thủ cũng gọi là thành Ngũ chi, vì vua ấy chỉ thống nhiếp có năm thành, là một nước nhỏ. Vua ấy nghe đồng thời nói mà nghĩ rằng: Ta nghe nói đàn bà nghĩ việc không xa, nay vị vua này vì quá nhân ái thì cũng như đàn bà thôi. Nay ta đem quân binh đến đánh chắc chắn sẽ chiếm được.

Các Đại thần tâu vua Tư Ích rằng: Trước dùng trung căn khuyên bảo mà chẳng thấy nước ấy cống nạp. Nay người trong nước chẳng tập võ nghệ chuẩn bị trước, khi hoạn nạn xảy ra thì biết làm sao. Vua suy nghĩ mà đáp. Nếu nước ấy muốn cõi nước, người dân và kho lẫm của ta, ta không giao tranh với họ nên người vô hại, các khanh chớ lo. Nói đoạn bèn vào núi sâu tu phạm hạnh. Lúc ấy, vua Trường Thủ không đánh mà chiếm được nước. Trải qua thời gian lâu tìm kiếm vua Tư Ích mà chẳng được.

Lúc đó, ở phương Nam có Bà-la-môn Phạm Hạnh, vì nghiệp trước rất nghèo thiếu không thể nuôi nấng cha mẹ, sư trưởng, nghe vua Tư Ích làm việc bố thí nên dến xin trợ cấp. Khi đến rừng núi nước ấy, tới chỗ vua cũ tu đạo.

Bấy giờ, vua Tư Tích hỏi thăm mời ngồi, cho ăn uống rồi hỏi đi đâu. Phạm Chí ấy đáp đầy đủ. Khi ấy, vua cũ nghe nói thì thương xót chẳng bảo ta thường hưởng lộc nước, thế lực tự tại, hay tùy ý người mà cho. Nay thân đã mất nước, còn gì cho ông. Suy nghĩ thế rồi nhân đó hỏi Bà-la-môn: Vua Tư Ích là ta lúc ấy, nay mất nước rồi nên phải ở đây.

Bấy giờ, Bà-la-môn ngất xỉu hồi lâu mà nghĩ rằng: Mình phước mỏng nên đi xa cầu mà không được, nay lại gặp đây há không phải mạng ư? Bây giờ, vua an ủi bảo ông chớ quá lo, ta có phương tiện để được. Vua kia là kẻ thù của ta thường tìm kiếm ta, bảo nếu ai được dầu ấy sẽ trọng thưởng, nay ông hãy lấy đầu ta đem đến sẽ được ban thưởng lớn.

Người ấy đáp: Ta tu tịnh hạnh sao lại giết người, không thể được. Vua bảo nếu thế thì lấy dây trói ta mà dẫn đến sẽ không có lỗi. Lúc đó, người ấy dẫn vua đến điện vua, các cựu thần trông thấy đều trách Bà-la-môn rằng: Ông tu tịnh hạnh không nên hại vua hiền mà cầu lợi riêng, rất chẳng phải đạo, là phá pháp tịnh hạnh làm gì có đạo. Tịnh hạnh nói đầy đủ chẳng phải lỗi của tôi, đây là Đại vương hành đạo Bồ-tát khiến tôi như thế. Các quan vào tâu vua, vua nghe xong kinh sợ, cho là đến cướp nước. Khi nghe xong đầu đuôi thì tâm hổ thẹn kính phục, bảo người hành đạo Bồ-tát như thế mà ta cướp nước thì sao đáng mặt người lớn mà trị vì thiên hạ? Do đó bảo vua Tư Ích trở về ngôi cũ mà tự tại làm bố thí lợi ích an vui muôn dân. Còn ta trở về nước xưa, lại đâu vào đấy, không đánh hại nhau nữa. Bấy giờ, hai nước giao hòa tốt đẹp, không oán thù nhau. Như trong kinh Bổn Sinh có nói rộng: Đó tức là do tham.

Kế là giới chẳng sân. Này Bí Mật Chủ, Bồ-tát giữ giới không sân. Lại nữa, Bồ-tát Bí Mật Chủ phải giữ giới không sân, nên đối với tất cả luôn an nhẫn, thường vui không giận, tâm thường bình đẳng. Họ như bạn thân, các oán chuyển đổi. Vì sao? Vì Bồ-tát không nghĩ nhớ ác ý. Nghĩa là công đức ở thân gọi là Tam-ma-da-phược-yết-đa. Trong luật Đại đức tồn niệm ý cũng giống như thế. Vì sao? Vì Bồ-tát vốn tánh tịnh, trên bổn tánh là tánh được giới, dưới nói tâm nghĩa là pháp từ tâm biến hiện, ở trong bổn tánh thường thanh tịnh. Cho nên Bồ-tát phải giữ giới không sân, đối với tất cả thường nhẫn, mừng giận không mê đắm, tâm thường bình đẳng, họ như bạn bình đẳng chuyển oán. Vì sao? Vì Không phải ý này đủ ác, vì thế Bồ-tát bổn tánh tâm thanh tịnh, cho nên, Bí Mật Chủ giữ giới chẳng sân. Đây là thứ chín. Sân nghĩa là đối tất cả chúng sinh khởi tâm giết hại, làm việc chẳng lợi ích từ tâm mà khởi, do đó phải giữ giới này. Nếu Bồ-tát có người đến gia hại các thứ, cho đến chặt dứt chi phần còn chẳng sinh tâm hại người ấy, huống chi là khinh thường ư? Nếu chẳng như thế thì không phải là Bồ-tát. Nên ở tất cả mọi nơi mà thực hành Đại nhẫn. Nếu người khác làm các thứ gia hại thì nên nghĩ rằng: Ta ở đời trước do vô minh mà sinh làm thân mắc các nạn này, trong vô lượng đời thường não hại nó, nên nay nghiệp chín muồi mà phải chịu quả báo ấy. Có can dự gì người trước mà oán lỗi. Các thứ chánh quán như thế, lại nghĩ thân này từ duyên mà sinh, không có tự tánh, không có ngã nhân, ai hại ai chịu. Vì quán thật tướng này, mà chẳng sinh tâm hại họ. Đó là ý niệm sân giận, tức là đầy đủ các điều ác. Vì hay như thế mà vui mừng, nên tâm thường vui vẻ, vắng lặng từ nhẫn, chẳng mê đắm nhân ngã các pháp mà thường bình đẳng. Bình đẳng này tức là oán thân chẳng hai, các loại có ích, không ích tất cả tâm nặng nhẹ đều bình đẳng không thêm bớt, chẳng gây ra các thứ ác, thường làm việc nhiêu ích lợi tha, xem cả thế gian như con một, do Bồ-tát chánh quán thật tướng như con một, do Bồ-tát chánh quán thật tướng, hiểu rõ tâm này bổn tánh thanh tịnh. Như kinh nói: Thuở quá khứ, ở phương Nam có vị vua tên là Sư tử, thành tên Gió lạc. Dùng chánh pháp cai trị đất nước, không giết hại người. Nhưng vì theo phép nước nên vua ra thành răn bắn để bày uy vũ, tuy không có ý hại người, nhưng để bảo vệ đất đai và an dân, muốn cho lân bang sợ trọng uy đức. Lúc đi săn vua thấy có con nai chạy bèn đuổi theo. Đến nơi hiểm yếu thì đuổi kịp. Vì không có tâm hại nên chỉ gõ trên sừng rồi thả. Vì sao? Vì muốn bày oai vũ với muôn người. Khi vào rừng sâu ở chỗ không người, kẻ hầu không theo kịp. Có con sư tử cái thấy vua hình dạng khác người bèn sinh dục tâm, do đó đến bức hiếp mà hiện dục tướng. Vua sợ hãi nên phải giao hợp. Thời đó là kiếp sơ, thú hiểu tiếng người, nhưng tánh con cái, nếu có trí tuệ thì khi thọ thai liền biết, nhân đó bảo vua rằng: Ta đã có thai vua con, đến lúc sinh thì làm sao. Vua bèn lấy tay ấn, bảo nếu sinh con thì đem ấn này đến trước cửa ta. Sau sinh con trai rất giống người mà tánh dữ tợn lại có cả thú tánh. Sư tử cái đúng như ước hẹn trước, ban đêm nhảy qua thành để con bên cửa vua rồi đi.

Sáng ra, người thấy rất quái lạ, thấy giống mà hơi khác bèn trình lên vua. Vua thầm nghĩ không nên bảo cho người biết, nhân đó ra sắc lịnh làm con mình, đặt tên là Sư Tử Thiên Nô. Sau vua nhường ngôi bảo Thiên nô trị nước. Vì bản tánh thích ăn thịt sống. Một hôm, đòi ăn cơm gấp, nhà bếp chưa kịp đem thịt đến, bỗng gặp đứa bé mới chết bèn đem dâng vua… Như kinh Hiền Ngu, luận Trí Độ có nói. Cho đến hằng ngày bảo tìm thịt người, ăn hết khoảng năm trăm đứa trẻ. Trong thành cùng bảo nhau rằng có quỷ Dạ-xoa vào nước. Hễ có trẻ em phải bảo vệ giữ gìn, chiều chưa đến tối đã vào nhà đóng chặt cửa nẻo mà giữ. Tìm người ăn thịt không được bèn đến nhà các Đại thần bắt trẻ nhỏ khoảng năm trăm đứa. Sau đó bắt trẻ con chết là người trên tay có đeo vòng, thấy người cầm dây thì biết là người bắt trẻ con, trẻ con mất là do người này. Người này cho rằng: Đây là lỗi vua, không phải lỗi tôi. Các quan bèn trình lên vua cha Thái tử có thú tánh, thú tánh thì không thể làm vua trị vì, xin vua trị nước, vua nói ta đã làm lễ quán đảnh giao ngôi cho thái tử làm sao lấy lại, nên không nghe lời tâu. Các quan bèn mưu giết hại. Vua con cầm dao bén đi vào rừng sâu, lúc đầu lấy thây chết đem đốt mà ăn, sau dần dần ăn người sống. Cho đến bắt hơn năm trăm vương tử đem về nuôi mà ăn dần.

Lúc đó, người trong nước lập người em lên làm vua, tên là Thiện Nô. Người này nhân từ bố thí dùng chánh pháp trị nước. Sau đó, bốn người phạm hạnh cầu pháp thượng thiện. Vua nghĩ rằng: Người này làm lợi ích cho ta chẳng ít, sau sẽ báo ân, chưa kịp cùng nó đi săn. Các quan can rằng vua thú đang ở núi gần, sẽ bị nó hại, vua chớ vào rừng. Vua nghĩ ta muốn lợi ích tất cả không tiếc thân mạng nay nếu bắt ta mà ăn thì nguyện ta đã mãn. Bèn vào rừng thì thấy vua thú, vua thú nghe người em ra liền đến bắt. Vì rất mạnh mẽ nên các thể nữ chạy tán loạn, bị nó bắt mà khóc lóc than rằng… như Trí Luận nói: Chưa báo ân người phạm hạnh, cùng ước hẹn mà thả ra. Vua nói: Lửa ông chưa hết, sẽ phải trở về. Bèn nghĩ nên làm cách nào, bèn chẳng tiếc thân mạng mà đến đây, nhân đó hỏi, nó muốn theo hạnh bất sát như pháp nói rộng. Nó tuy mạnh ác nhưng có tuệ tánh. Nghe liền biết được việc chưa từng có. Nghĩ rằng nó tức là thầy ta, muốn cầu điều gì. Vua nói: Nay ông ở trong rừng cũng như thú dữ, làm sao mãn nguyện. Đáp rằng: Tôi nghĩ ân thầy phải đáp đền thì có thể nói. Vua nói nếu có cầu nguyện thì bổn hoài của ta chỉ là chẳng giết hại mà thôi. Nó nghe rồi liền thề là chẳng hại mạng nữa, lại thả năm trăm vị Vương tử mà tu pháp lành. Thả rồi liền cùng vua trở về, vua biết nó đã làm hạnh lành, lại lập làm vua, dùng chánh pháp trị đời, rồi xuất gia. Phải biết Bồ-tát ở trong sợ sệt như thế chẳng giận mà còn làm hạnh lợi ích, huống chi là các việc khác. Như thế trong kinh Bản Sinh có nói rộng.

Thứ đến là giới chẳng tà kiến. Lại nữa, này Bí Mật Chủ, Bồ-tát phải buông bỏ tà kiến mà trụ vào chánh kiến, quán đời vị lai mà sinh sợ sệt, phải vô hại là tùy phiền não. Hỏi Đông đáp Tây, hỏi Tây đáp Đông. Hỏi xem xét thì tâm ấy không tà vạy mà ngay thẳng, đối với Phật, Pháp, Tăng thì tâm ấy quyết định. Quyết định nghĩa là cho đến quy mạng Tam bảo. Cho nên Bí Mật Chủ, tà kiến là lỗi rất lớn, cắt đứt tất cả gốc lành của Bồ-tát, là mẹ sinh ra tất cả pháp bất thiện, như tự mẫu Tất-đàn sinh ra các chữ. Cho nên Bí Mật Chủ dưới đến nhân duyên cười vui thì tâm đều chẳng khởi tà kiến.

Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ-tát lìa bỏ tà kiến, chánh kiến ấy, thế kiến khác, không hại, không cong vạy không huyễn hóa, ngay thẳng

Phật, Pháp, Tăng tâm tánh quyết định. Cho nên Bí Mật Chủ lìa các lỗi tà kiến, nó là mẹ cắt đứt các gốc lành của Bồ-tát. Như thế tất cả là các pháp bất thiện. Cho nên Bí Mật Chủ! Cho đến cười đùa xem qua cũng chẳng khởi tà kiến. Đây là tướng giới thứ mười. Kinh nói: Trì giới tà kiến, tà kiến là gốc bất thiện, tức là hại tà kiến này mà trì giới. Cho nên nói trì giới tà kiến. Chín giới trên cũng lệ theo đây mà biết, phải nói trì giới bất sát là trì giới sát, cũng y theo đây mà nói. Tà kiến nghĩa là đều ở trong Bổn pháp, tức là dùng lý bất chánh thuận với tà đạo đều là đó. Ở đây là hại gốc lành ba đời. Nghĩa là do hạnh nghiệp quá khứ mà có quả y chỉ năm ấm đời này. Lại do hạnh nghiệp đời này mà có quả báo đời vị lai. Do trước hiểu pháp nhân duyên này được nhập vào môn vô thường vô ngã, từ trí vô thường vô ngã này mà được nhập vào pháp không như thật tướng, phải biết lìa chánh nhân quả của thế gian này, ngoài ra không có chánh kiến, chánh tuệ khác. Nếu bảo không quả không nhân tức là phá hoại pháp Tứ đế của Tam bảo. Vì hoại pháp Từ đế của Tam bảo nên không có bốn quả Sa-môn tất cả Thánh pháp và pháp lành thế gian, xuất thế gian. Nay bác hết, cho là không có việc này, tức là theo tông ngoại đạo. Phải trụ vào chánh kiến nghĩa là trái với lỗi trước, quyết định tin chắc nhân quả và pháp Đế thật. Đế tức là câu Như Lai chân thật. Nếu chê bai đây tức là hại tất cả điều lành. Hại không hại, hai nghĩa là chi phần phiền não, do đây nên thấy chướng tất cả điều lành, chướng tất cả điều lành nên gọi là hại. Kế là chuyển giải thích. Thế nào là hại nghĩa là cong vạy, khúc tức là tà kiến. Cũng như rắn chưa vào ống tre thì bò cong vẹo. Kiến tâm cũng thế, nếu chưa vào các pháp Trung đạo thật tướng thì cong mà không thẳng. Kế lại chuyển giải thích. Thế nào là không cong vạy, nghĩa là đồng với huyễn… quán thật tướng tâm này từ duyên mà sinh, cũng như huyễn mà thôi. Vì đạt thật nên lìa cười đùa. Lìa cười đùa tức là không huyễn. Nếu như đây tức là trụ ở tâm ngay thẳng. Ở cảnh giới Tam bảo tâm thường quyết định, vì nhập vào đạo thật tướng ngay thẳng, tức là đối với Tam bảo thường được tánh quyết định. Cho nên khuyên các Bồ-tát, lìa các lỗi cội gốc này. Vì bất thiện là hại tất cả cội gốc pháp lành. Vì pháp lành cho nên Bồ-tát trì giới phải lìa các lỗi ác này. Chuyển tức là đổi ác làm lành, như kinh nói: Nếu vô minh chuyển tức biến thành minh. Nay tà kiến cũng thế, toàn thể tức là tuệ tánh, vì nếu chuyển cho ngay thẳng tức là chánh kiến. Chẳng đồng với Thanh văn nhàm chán các phiền não, riêng cầu Thánh pháp. Bất thiện cũng như thế. Chuyển thiện tánh này thành bất thiện. Như kết nước thành băng không có tánh khác. Mẹ… là nghĩa sinh, nói nhân tà kiến sinh ra tất cả pháp bất thiện cũng như mẹ sinh. Vĩ nghĩa ấy nên Bồ-tát cho đến cười đùa, nhìn qua cũng chẳng sinh tà kiến. Nói cốt yếu là chẳng sinh một niệm tâm phạm giới tà kiến này, huống chi là nhiều ư. Như trong kinh Thanh văn nói cười đùa… chẳng phạm vào chỗ học. Ở đây thì chẳng như thế cho đến trong cười đùa… mà làm các việc tà kiến cũng chẳng được. Huống chi là nghĩ nghiệp làm ư? Nhưng Bồtát có phương tiện tuệ, tức là đối với các kiến bất động mà tu ba mươi bảy phẩm, tức là tà tướng nhập vào chánh tướng. Vì sao? Vì chúng sinh từ vô thỉ đến nay quen nhiều với pháp này, ắt khổ thành chánh. Như thầy thuốc giỏi kia, trước cùng đồng sự nghiệp, sau đoạt quyền ấy. Như kinh Niết-bàn nói, lại như Bồ-tát Tạng trong Bản Sinh có nói: Ở quá khứ có ngôi thành tên là Ba-la-nại. Vua tên là Phạm Thí, việc này ở kiếp rất lâu xa mà nay tên thành này tức là đất xưa. Phải biết trong thế giới có nhiều lần trở lại đất xưa mà được gọi bằng tên cũ.

Lúc đó, quan Đại thần Bà-la-môn của vua ấy sinh một bé trai, khi sinh thì trên hư không ở bốn phương có mây xanh vàng đỏ trắng đều bày ra ở một phương. Cho đến khắp cõi Diêm-phù-đề mà mưa nhẹ xuống. Phàm pháp Bà-la-môn, khi sinh con thì phải thỉnh các bậc Thiên Tiên Thánh Trí trước đến xem tướng mà đặt tên. Lúc đó, Đại thần cầu được một vị Tiên khiến đến xem tướng con. Vị Tiên hỏi khi con sinh ra có điềm lành gì phải y theo đó mà đặt tên. Cha nói lại việc trước. Tiên bảo trong sách Vi-đà của ta, nếu khi sinh mà có tướng này thì sẽ thông hiểu bốn sách Vi-đà, truyền bá chánh pháp ở khắp bốn phương, nhân đó đặt tên là Khánh vân (mây lành). Nhưng Đại thần chủng tộc học bốn sáchVi-đà là Ma-nạp-bà tông cho rằng nên y vào tông này mà gọi hiệu là Ma-nạp-bà. Cậu bé này tuổi vừa lớn đã được truyền cho nghề nghiệp. Pháp bốn minh tông chỉ đều thông suốt mà nghĩ rằng không những hiểu mà còn được nghĩa lợi, phải nghĩ mà chọn làm, nghiên cứu các tông chỉ trên dưới của văn này phải nương vào pháp nào mà được ra khỏi. Vì sao? Vì cậu bé này là gốc Đức đời trước đã trồng nhiều tuệ tánh, tuy sinh vào tông Dị kiến ngoại đạo mà tự sinh tâm giác ngộ này. Thường tìm kiếm nghiên cứu kinh tông thì thấy chỉ sinh Phạm thiên mà không phải đạo xuất thế. Bèn bạch với cha rằng: Nay chỗ học chưa có đạo xuất thế, có pháp nào cao hơn chăng? Cha nói: Từ Tổ tông truyền thừa đến nay chỉ có pháp này là hay nhất, lại do Phạm vương nói ra, chỉ nên vâng làm, đâu còn cầu pháp nào hơn. Cậu bé lại nghĩ: Nay chỗ học chưa rốt ráo, làm sao biếng lười được, phải cầu thắng tuệ. Cha nói ta nghe trong núi Tuyết có vị đại tiên nhân, ngoài bốn kinh Vi-đà còn có quyết trạch nghĩa sâu gọi là Kế-ngạch-bà, tức là giáo này, nên gọi vị tiên này là Kế-ngạch-bà tiên. Nay ta sẽ đến hỏi ông ấy. Cha nói tiên này chỗ ở rất hiểm nguy mất dấu vết người làm sao đến được. Lúc đó ý con tính đi không dứt, bèn tìm cách đi.

Bấy giờ, thiên thần nghĩ cậu bé này sẽ làm lợi nhiều người bèn che chở đến chỗ tiên. Tiên thấy dung mạo khác người, hỏi thăm mời ngồi, tiên có năm ngàn vị làm Thượng thủ, thường giảng nói pháp sâu. Liền hỏi cậu bé vì sao đến đây? Cậu bé nêu rõ mọi việc, nhân đó bạch vị Tiên rằng: Con học bốn kinh e có chỗ hiểu không hợp bản chỉ, thỉnh Đại tiên nói bày và ấn khả cho con. Lúc đó bèn rộng bày sự hiểu biết. Vị Tiên khen rằng: Cậu bé này tuệ ngộ hơn người, sự hiểu biết của ta cũng không bằng. Nhưng cậu bé nói Đạo xuất thế, ta có nghe Phạm vương nói sẽ có vị Đại tiên ra đời hiệu là Nhất thiết trí kiến giả. Chỉ có người này mới có khả năng giảng nói pháp này, không ta và những người đồng chí hướng biết được. Lại tùy chỗ hiểu phân biệt ý chỉ mà trao cho. Lúc đó cậu bé vì gốc lành đời trước, nay nghe tên Nhất thiết trí mà được chưa từng có, nên nghĩ ân sâu của thầy mà muốn báo đền, nhưng pháp báo ân thầy của Phạm Chí phải dùng da nai làm áo, dùng màu vàng nhuộm chiếu ngồi và năm trăm đồng tiền vàng, nghĩ đoạn liền muốn tìm cầu. Nghe ở phương Nam có vị vua sẽ lập muốn bày oai đức chịu ngôi quán đảnh, rộng bày phạm hạnh, muốn ở đó cầu, trước phải có Phạm chí (muốn làm việc đó, có Phạm chí trước) khiến vua dự bị dê, ngựa, người đều đủ cả ngàn, giết với mục đích ra uy, để làm quán đảnh, nhờ đó mà danh tiếng đồn xa. Cậu bé sau đến lúc vua nghe tên cậu bé thì rất vui mừng. Ta sắp lên ngôi mà cảm được điềm lành người hiền này liền mời làm thượng khách, cùng định ra nghi pháp. Cậu bé mời từng vị Bà-la-môn hỏi kỹ rằng: Nay đây việc sát sinh để nối ngôi là do văn nào? Sát hạch đến lúc họ đuối lý, bèn bảo vua rằng: Pháp quán đảnh này chẳng phải chân đạo. Xin vua trong vòng một ngày hãy ở bốn cửa thành bày đủ vật cúng dường, tùy người đến mà bố thí thì có phước vô lượng, tiếng tăm cũng đồn xa. Vua đời trước cũng có gốc lành nên nghe nói liền ngộ giải, nghe theo lời dạy mà làm lễ rất hậu. Cậu bé chỉ lấy năm trăm đồng tiền vàng và dai nai mà đi thẳng, giữa đường đến thành Bảo định, vua tên là Quân Thắng, vì Phật Nhiên Đăng mới ra đời, trang nghiêm thành ấp để đón mời, dọn sạch đường sá, bày các thứ hoa hương khác với ngày thường. Cậu bé nhìn thấy bèn hỏi người khác vì sao như thế. Có phải vì ta hay có lý do nào khác. Người trong thành đáp rằng: Có Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng, nhà vua muốn đón rước.

Cậu bé nghe danh hiệu Phật thì bỗng rất vui mừng bảo: Danh hiệu này ở trong sách của ta, chẳng phải nói vị Đại tiên ấy sao? Nhân đó dùng tiền có được mua vật, rồi đến chỗ Phật cúng dường.

Lúc đó, Thiên ma cho cậu bé có tâm lớn sẽ dẫn vô lượng chúng sinh ra khỏi cõi mình, bèn che hết các người mua vật. Lúc đó, có cô gái vì phước đời trước cùng cậu bé có nhân duyên xa, nên ma không che được. Cậu bé liền đến mua hoa, đáp rằng tôi muốn cúng dường, dầu một bông hoa là một trăm đồng tiền vàng cũng không bán. Cậu bé nói cô đã định bán một trăm đồng tiền vàng một bông hoa, bèn dùng năm trăm tiền vàng mua năm bông hoa. Cô gái nói: Nếu đời đời kiếp kiếp ông làm chồng tôi thì ông sẽ được hoa này. Cậu bé nghĩ thầm cô gái này làm chướng ngại đạo Bồ-tát, ta thà đừng mua hoa này, liền muốn bỏ đi. Cô gái nói tôi đời đời kiếp kiếp sẽ giúp ông thành chân đạo, không hề làm chướng ngại… Như kinh Luật đã nói. Khi cầm hoa đến chỗ Phật, liền tung lên cúng dường, bèn biến thành lộng trên hư không mà che Phật đi vào thành. Cậu bé được việc chưa từng có, Phật nói cho nghe pháp sâu mà được lợi ích. Lại trên đường có chỗ sình lầy muốn trải áo da nai để Phật bước lên, Ma vương năm lần ném đi mà bảo rằng: Này cậu bé! Hạnh tu của ông là chân đạo, tất cả thế gian ông là trên hết. Sao lại tự bỏ chân đạo, học pháp tà đạo của Sa-môn? Cậu bé không thèm để ý đến lời ấy. Ở trước có con đường hẹp đầy sình lầy Phật sẽ đi qua đó, bèn đứng đợi rồi trải áo và tóc trên sình để Phật bước qua. Kế các đệ tử muốn theo Phật đi qua, Phật ngăn lại chớ đi, đây là đại tâm, nếu các thầy bước qua sẽ mất hết phước lớn. Phật nhân đó xoa đảnh mà thọ ký cho cậu bé. Lúc đó bèn thấy mười phương đều như hằng sa cõi nước Phật đều xoa đảnh mà thọ ký, liền lên giai vị Cửu địa. Lúc đó, vô lượng trăm ngàn trời người đều thấy, nhân duyên Đại sĩ này xả bỏ tà kiến mà vào chánh đạo, đây là bày phương tiện tuệ của Bồ-tát, trước bày việc vào tà đạo, dùng hết tông chỉ phương tiện mà làm hồi tâm, sẽ dẫn dắt vô lượng đồng loại, nên gọi là tuệ phương tiện đầy đủ. Trong kinh có nói đủ.

Bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: Xin Đức Thế Tôn nói mười giới Thiện đạo cực đoạn căn đoạn, đoạn là như cắt cỏ thì cỏ lại mọc, nếu chặt đa-la thì không mọc, gọi là cực đoạn. Đây là nói công lực của giới. Vì sao Bồ-tát ở ngôi vua mà tự tại trong cung điện, cha mẹ thân thích vây quanh, hưởng an vui cõi trời mà không sinh ra lỗi, nói rồi như thế, Phật bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: Lành thay, lành thay Bí Mật Chủ, phải nên lắng nghe, phải rất để ý, ta sẽ giảng nói Bồ-tát Tỳ-nại-da quyết định khéo léo. Bí Mật Chủ nên biết có hai thứ Bồ-tát. Thế nào là hai? Đó là xuất gia và tại gia. Này Bí Mật Chủ, Bồ-tát tại gia thọ năm giới, ngôi vua tự tại, các thứ đạo phương tiện, nó tùy thời phương tự tại nhiếp thọ cầu Nhất thiết trí, đó gọi là đầy đủ phương tiện, thị hiện ca múa Thiên Từ Chủ… các thứ nghề, tùy các thứ phương tiện, dùng bốn nhiếp pháp mà nhiếp lấy chúng sinh, khiến họ chí cầu Vô thượng Bồ-đề, họ giữ giới chẳng giết sinh mạng, không cho mà lấy, nói dối, dục tà hạnh, tà kiến… đó gọi là năm giới tại gia. Bồ-tát khéo giữ như đã nói, Thiên giới phải khéo tu học, phải có tín tâm thuận theo chỗ học của chư Phật xa xưa, nghĩa là tùy chư Phật xưa mà học. Do trụ vào hữu vi có tuệ phương tiện, mà được Vô thượng cát tường vô vi giới huân của Như Lai. Học tức là tư học cho nên được, đã nói xong tướng mười giới.

Kim Cang Thủ bạch Phật, xin nói mười đạo giới thiện nghiệp, cực căn đoạn. Thế nào là Bồ-tát ngôi vua tự tại với cung điện, nam nữ, thân thuộc, cha mẹ vây quanh. Thọ vui diệu lạc cõi trời không sinh lỗi, ý nói trong đây lại có pháp nào hại được căn giới này khiến pháp lành chẳng sinh. Cực là hại đủ tất cả điều lành. Ý hỏi rằng: Chỗ nào trong thế pháp mà chẳng bị ô nhiễm, nhưng Bồ-tát vì chúng sinh nên thường phải ở thế gian, phải có giới phương tiện khiến chẳng hại điều lành ấy. Phật khen rồi bảo lắng nghe, liền nói Bồ-tát điều phục quyết định khéo léo. Quyết định nghĩa là tất cả ác tự tại, tất cả điều lành đều do đó sinh. Tức là tự tánh lành. Bồ-tát có hai: Tại gia và xuất gia, nếu tại gia thì thọ năm giới. Như trước ở ngôi vua tự tại chẳng chướng ngại đạo Bồ-tát. Vì năm việc các thứ phương tiện đạo này. Thời phương nhiếp tự tại cầu Nhất thiết trí, nghĩa là phương tiện đầy đủ ca múa. Thiên tử… là thị hiện các thứ nghề, tùy phương tiện chúng sinh bốn pháp nhiếp mà nhiếp lấy, là trong văn kinh.

Thời, nghĩa là quán thời và phi thời, chẳng đối đãi chẳng mất, giống như sóng biển. Phương, nghĩa là tùy theo nơi chốn, phải dùng pháp nào mà vào Đạo là thuận theo thế giới tất-đàn. Dùng phương tiện tuệ thực hành đầy đủ các thứ tự tại mà nhiếp chúng sinh, đặt ở Nhất thiết trí. Chẳng đồng với không có năm giới phương tiện, chỉ tự câu chấp, chỉ cầu tự hộ. Vì quán lợi ích nhiếp tất cả mà nhập vào các thứ đạo cho đến kia đây nhập Thiên từ, bày chỗ đồng học, học rồi dần dần dùng chánh kiến mà dẫn dắt. Vì các phương tiện vô biên như thế mà chỗ lợi ích có hạn, tức dùng bốn pháp nhiếp mà dẫn dắt vào Phật đạo. Bốn nhiếp như trong Bảo Vân Bồ-tát Tạng có nói. Nếu Bồ-tát tại gia, giữ năm giới như thế, nghĩa là chẳng tà kiến sát, đạo, dâm, vọng, trong năm thứ này dùng phương tiện mà trì, ngoài ra tất cả đều vô ngại, chỉ cốt dẫn dắt vào Phật đạo mà thôi. Vì năm giới này làm đầu mà thành được địa Nhất thiết trí Như Lai vị, cho nên nói được vô lậu tánh giới thành. Do trụ vào cụ tuệ phương tiện này ấy là chỗ học. Giới bản tánh này muôn đức đều đủ, tức là giới vô vi. Lại giải thích như trên. Bồ-tát có hai thứ là tại gia và xuất gia. Năm giới này Bồ-tát tại gia phải giữ, vì ở thế gian có các sự việc, nên phải giữ năm giới này. Do giới này mà đầy đủ Cụ tuệ phương tiện, các phiền não nghiệp ác chẳng thể hại, do nhân duyên này mà được thành Phật. Cho nên kinh nói: Thiện giới như thế khó tu học tin tưởng đầy đủ. Đây là khuyến trì. Ý khuyến trì là Phật dẫn Phật xưa làm chứng. Chữ Phật quá khứ do giữ năm giới này, nên ở trong thế gian đồng các thứ sự nghiệp của chúng sinh mà nhiếp lấy, chẳng ngại tự làm, cho nên được thành Phật muôn đức tròn đủ. Giới vô lậu tự tánh cũng do đây mà sinh. Phương tiện trí cụ. Phương tiện này tức là thân thì ấn, miệng thì chân ngôn, tâm thì quán Bổn tôn Tam-muội, vì phương tiện này lại có Diệu Tuệ. Tức quán ba việc này từ duyên mà sinh và nhập vào thật tướng. Cho nên muôn hạnh giữ gìn nhanh chóng mà được thành Phật, như kinh Thanh Văn. Người thế tục sở dĩ giữ năm giới là vì ngăn ngừa thân miệng khiến vào thấy đế. Nay ở trong đây cũng thế. Đem năm giới này làm phương tiện mà phòng hộ khiến được thành hạnh chân ngôn mà thấy đế. Không phải chỉ có Bồ-tát tại gia mà năm giới này các Bồ-tát xuất gia đều cùng giữ. Lại có bốn trọng nghiệp căn bản. Tu hạnh chân ngôn cho đến dù mất mạng cũng chẳng phạm. Những gì là bốn pháp? Nghĩa là chê bai các pháp là một, lìa bỏ tâm Bồđề là hai, keo kiệt là ba, não hại chúng sinh là bốn. Vì sao? Vì bốn tánh nhiễm này không phải là giới Bồ-tát. Trở xuống là văn kệ, không phải Bồ-tát giữ giới tánh này là nhiễm. Trở lên là văn kinh, hạnh Chân ngôn của Bồ-tát có bốn giới trọng, tức là dồng bốn tội căn bản của Thanh văn. Nếu dứt bỏ bốn giới trọng này tức là dứt bỏ nghiệp lành căn bản, tất cả công đức đều chẳng sinh. Như trong kinh Thanh văn có dụ chặt cây đa-la. Nhưng trong Đại thừa không có nghĩa chặt luôn. lại tự thọ giới mới thì liền sống lại. Nếu phạm các giới này thì không phải Bồ-tát. Cũng như Thanh văn phạm trọng thì không phải Tỳ-kheo. Như thế đã rõ, do bốn việc này đối với pháp Bồ-tát là tánh nhiễm ô, chướng ngại tất cả công đức chẳng để sinh. Cho đến nhân duyên mất mạng cũng chẳng nên hủy phạm.

Kế Phật lại dẫn chứng. Nghĩa là chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều do Cụ tuệ phương tiện tu hành giới này, mà được tu học Vô thượng Bồ-đề, được Đại Tất-địa. Đại Tất-địa tức là quả diệu hạnh, tức là thành Bồ-đề. Vô hữu lậu là tánh giới, phương tiện lìa trí học xứ, cũng nói Thanh văn là người có sức mạnh. Là văn kinh ý nói: Phật vì Thanh văn cũng nói Cụ giới và bốn trọng. Nhưng ở đây nhiếp một loại căn tánh nhỏ kia, mà quyền nói thứ này, chẳng phải rốt ráo. Thế nên giới này lìa phương tiện, phương tiện và Trí chẳng đầy đủ. Nếu thú hướng về Đại thừa, lại học diệu giới mới đủ giới Bồ-tát, Đại dũng sĩ là chỉ cho Kim Cang Thủ. Phật vì chúng sinh hữu tình thấp kém không có chí nguyện Đại thừa mà muốn vào nhà Trưởng giả, chẳng ở mãi trong nghèo nàn, cực khổ uổng công mà chẳng được gì. Pháp này thuộc về chẳng phải bổn ý ra đời của Phật. Cho nên giới này chẳng phải giới Phật tuệ vô lậu không thể suy nghĩ bàn luận. Nếu vào trí vô lậu Phật liền tự chứng biết.