KINH BỒ-TÁT ANH LẠC

Hán dịch: Đời Dao Tần, Sa-môn Trúc Phật Niệm, người Lương Châu.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 17: NÓI VỀ VÔ LƯỢNG

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Đại Bồ-tát có thể nhận biết tường tận về giáo pháp được nêu giảng của chư Phật có Định, hữu lượng và vô lượng. Này các vị Tộc tánh tử! Đại Bồ-tát nhập pháp Tam-muội ấy của chư Phật Thế Tôn thì sẽ biết rõ về nẻo giáo pháp được nêu giảng của chư Phật là Hữu lượng, Vô lượng, có thể nhận biết đầy đủ về sự thuyết giảng của chư Phật đối với khẩu hành, thân hành và ý hành. Hoặc lại thị hiện du hóa đến khắp mười phương thế giới, hóa độ ở phương Đông với vô lượng thế giới, hóa độ khắp chốn, khắp cõi, không làm mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật ở phương Đông. Hóa độ vô lượng thế giới ở phương Nam, hóa độ khắp chốn khắp cõi, không làm mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật đối với phương Nam. Hóa độ vô lượng thế giới ở phương Tây, hóa độ khắp chốn khắp cõi, không làm mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật đối với phương Tây. Cũng hóa độ vô lượng thế giới nơi phương Bắc, hóa độ khắp chốn, khắp cõi, cũng không làm mất các giáo pháp được nêu giảng ở phương Bắc của chư Phật. Lại hóa độ vô lượng thế giới ở phương Đông bắc, hóa độ khắp chốn khắp cõi, cũng không làm mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật ở phương này. Lại hóa độ vô lượng thế giới phương Đông nam, hóa độ khắp chốn khắp cõi cũng không làm mất các giáo pháp được nêu giảng ở phương ấy của chư Phật. Lại hóa độ vô lượng thế giới ở phương Tây nam, hóa độ khắp chốn khắp nẻo nhưng không làm mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật đối với phương đó. Cũng hóa độ vô lượng thế giới ở phương Tây bắc, hóa độ khắp chốn, khắp cõi, cũng không để mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật ở phương ấy. Lại đi đến vô lượng thế giới ở phương trên, hóa độ khắp chốn, khắp cõi, không làm mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật ở phương này. Lại đến phương dưới với vô lượng thế giới nhằm hóa độ khắp chốn, khắp cõi, cũng không làm mất các giáo pháp được nêu giảng của chư Phật ở phương đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền hiện tướng lưỡi rộng dài, từ đấy phóng ra ánh hào quang lớn tỏ chiếu khắp vô số thế giới trong mười phương, thảy khiến cho toàn chúng hội được nghe Đức Như Lai Vô Thượng Chánh Giác thuyết giảng các giáo pháp được nêu bày hết sức thâm diệu nhằm hóa độ khắp chốn, khắp cõi.

Này các vị Tộc tánh tử! Tộc tánh nữ! Nếu đạt được mười tám pháp ánh sáng trí tuệ ấy thì liền có thể có được đầy đủ mọi giáo pháp được nêu giảng của Như Lai. Có thể khiến cho có cõi mà chẳng phải tưởng về cõi ấy, có thể khiến cho chẳng phải cõi mà có tưởng về cõi đó. Ở nơi thế giới ấy thuyết giảng một pháp quán. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ thành tựu được một pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Có thể tham dự thấu

rõ về vô số việc thế gian ở đời vị lai cùng biết được quá khứ, hiện tại Phật chẳng phải là Phật, Bồ-tát chẳng phải là Bồ-tát. Đó gọi là Bồ-tát ở nơi mười tám pháp ánh sáng trí tuệ thành tựu được hai pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Đối với vô lượng quá khứ không thấy duyên, không có số lượng. Đối với tận chẳng thấy có tận, đối với khởi chẳng thấy có dấy khởi. Đó gọi là Bồ-tát ở nơi mười tám pháp ánh sáng trí tuệ thành tựu được ba pháp.

Lại nữa, này vị thiện nam, thiện nữ! Phân biệt rõ trong ngoài đối với bốn hành khác thường, ở trong đó tự quan sát về hành thân một cách đầy đủ. Đó gọi là Bồ-tát ở nơi mười tám pháp ánh sáng trí tuệ thành tựu được bốn pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Cảnh giới của Phật là vô lượng chẳng thể nghĩ bàn, nên liền có thể phân biệt rõ về hai việc của chư Phật đối với si ái thảy đều thấy rõ tánh Không. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở nơi mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được năm pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Như có thể mỗi mỗi quan sát về trong ngoài đều là không, ta chẳng phải là sở hữu của kẻ kia, kẻ kia chẳng phải là sở hữu của ta, mỗi mỗi đều thấu đạt lẽ không tịch và là không thực có. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được sáu pháp.

Lại nữa, này các vị Tộc tánh tử! Hư không là vô tướng, chẳng có thể dùng từ hư không ấy để tạo ra các tướng. Ở trong đó tự nhận rõ thân cũng như hư không kia. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được bảy pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Đối với các loài hữu hình hoặc vô hình, có thanh hay không thanh, ở trong ấy nhận rõ thảy là không chốn có. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được tám pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Nhận biết rõ bảy pháp quán về chốn sinh của bốn pháp Thánh đế, các pháp Tổng trì và mười tám hành Không. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được chín pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Biết rõ về các pháp vô hình, tánh của chúng cũng ở nơi hữu sinh, cũng ở tại vô sinh. Ở trong ấy phân biệt nhận ra thảy là không chốn có. Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được mười pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! quan sát về vô lượng thế giới để nhận rõ tính chất có sinh có diệt, cũng như nhà ảo thuật nhìn xem hình bóng nơi gương. Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được mười một pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Lại nên biết về gốc rễ của bảy sự khổ. Những gì là bảy sự khổ ấy?

  1. Biết tâm ấy chẳng từ nơi kia xuất, tâm kia cũng chẳng ở nơi ấy.
  2. Tâm khổ kia là không ta, không người. Tâm khổ ấy cũng là không ta, không người.
  3. Thế giới của chư Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác có thể hóa độ tận cùng số lượng ấy.
  4. Các hàng thiện nam, thiện nữ luôn tự tư duy về các pháp khổ, không, phi ngã. Chẳng thấy có thân, như hình bóng phản chiếu trong gương.
  5. Như ngã thọ thân hình tướng, dứt pháp mười thân thì cũng chẳng thấy gốc của mười thân từ ngã mà có.
  6. Dùng pháp vô úy để khỏi làm nhiễu loạn sự thọ nhận kia. Mọi sự thọ nhận giáo pháp ấy, ý không hề thay đổi.
  7. Quán các hành là không hành, hành gốc hành của ngã, hành vị lai là chẳng phải có, chẳng phải chẳng có, chẳng phải không, chẳng phải chẳng không, đó gọi là bảy hành khổ.

Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng đã thành tựu được mười hai pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Quán tưởng về vô lượng không, ở nơi vô lượng tưởng về không ấy chẳng tự sinh niệm, cũng chẳng thấy có niệm kia. Vì sao? Vì đã xem vô lượng thế giới là không, vô tướng. Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được mười ba pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Lại nên quán về bốn khổ vô lượng. Những gì là bốn khổ? Ở nơi cõi Diêm-phù-lợi quan sát về cội nguồn các nỗi khổ của vô lượng chúng sinh.

  1. Sinh khổ, biết rõ về gốc ngọn luôn nhớ nghĩ tới những nguy ách từ lúc còn trong thai.
  2. Già khổ với hình khác sắc đổi, ý chí mạnh mẽ không còn.
  3. Bệnh khổ, một đại tăng thêm là một bệnh tăng lên. Bốn đại tăng thì bốn bệnh tăng. Một đại diệt tức một bệnh diệt. Bốn đại diệt tức bốn bệnh diệt. Này các vị Tộc tánh tử! Bệnh là sinh diệt, cũng là chẳng sinh diệt.

Bấy giờ, có một vị Bồ-tát tên là Bản Diệt, liền đến trước Đức Phật cung kính thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Bốn đại gốc là diệt chứ chẳng phải là sinh diệt.

Đức Phật nói:

–Này các vị Tộc tánh tử! Thế nào gọi là bốn đại gốc là diệt, chẳng phải là sinh diệt?

Bồ-tát Bản Diệt thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Gốc không có bốn đại, nay sinh nên chẳng có từ gốc. Vì vậy mà gọi là gốc diệt chứ chẳng phải là sinh diệt.

Đức Phật nói:

–Này vị Tộc tánh tử! Thế nào là gốc diệt? Thế nào là khởi diệt? Bồ-tát Bản Diệt thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Gốc không có hình tướng, gốc không có sinh khởi, không thấy khổ cũng không thấy chẳng phải khổ, đó gọi là gốc diệt. Còn chỗ gọi là khởi diệt ấy chỉ là do tâm ta nơi hiện tại, có thể khiến cho tâm ấy ẩn lặng không dấy khởi, đó gọi là khởi diệt.

Đức Phật nói:

–Này vị Tộc tánh tử! Thế nào là tâm quá khứ, tâm hiện tại? Tâm quá khứ chẳng phải là tâm hiện tại, tâm hiện tại chẳng phải là tâm quá khứ. Vậy thì thế nào là gốc diệt, khởi diệt?

Bồ-tát Bản Diệt thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Gốc ấy là không có sinh diệt nên gọi là không diệt.

Đức Phật nói:

–Này vị Tộc tánh tử! Gốc diệt và khởi diệt là do đâu mà sinh?

Bồ-tát Bản Diệt thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Từ vô sinh mà sinh ra.

Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ-tát Bản Diệt rằng:

–Lành thay! Lành thay! Này vị Tộc tánh tử! Đã có thể ở trước Như Lai nêu bày ứng đáp thích đáng, linh hoạt. Chỗ gọi là Tử khổ tức lúc sắp sửa lìa bỏ cuộc sống, bỏ thân này, thọ nhận thân khác với khoảng giữa còn dừng lại ấy, chưa biết được nẻo hướng tới, cả ba đời vị lai, hiện tại, quá khứ, nên vào lúc đó thần thức luôn dấy nỗi sợ hãi. Ấy chính là Tử khổ. Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được mười bốn pháp.

Lại nữa, này các vị Tộc tánh tử! Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ nhận rõ về các pháp vô ngã, khổ, không, phi thân, gồm đủ bốn hành ấy thì liền có thể thọ nhận được giáo nghĩa của Như Lai, những gì là bốn?

Này các vị Tộc tánh tử! Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ, suy xét về ngã không thấy có ngã, chẳng phải có sắc cũng chẳng phải không sắc, thấu tỏ thực là không chốn có, đó gọi là vô ngã.

Lại như các hàng thiện nam, thiện nữ tư duy về sự khổ trong pháp giới là không có cội rễ, nêu bày là chẳng phải có khổ, cũng chẳng có sinh diệt. Đó gọi là phân biệt khổ và không khổ. Như mọi chúng sinh với vô lượng tưởng đầy khắp cả cõi hư không, biết rõ hết thảy các tưởng ấy là chốn sinh gốc của thức đều tận cùng nơi hư không. Đó gọi là không. Còn thế nào là phi thân? Chỗ gọi là phi thân tức là những gì ngã đạt được, phân biệt về ngã là không ngã, thấy cái không thấy, nghe cái không nghe, chẳng phải có thấy, chẳng phải có nghe. Đó gọi là phi thân. Đấy chính là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được mười lăm pháp.

Lại nữa, này các vị Tộc tánh tử! Như ngã, như các pháp của

chư Phật, như cùng với các pháp của chư Phật, như chẳng khác, chẳng có Phật pháp, chẳng có như, cũng lại chẳng khác. Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được mười sáu pháp.

Lại nữa, này các vị Tộc tánh tử! Như các hàng thiện nam, thiện nữ đối với Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nơi hạnh nguyện gốc biết rõ về các phần chúng sinh bị cấu nhiễm ba độc nhiều hay ít, chẳng thấy ba độc cùng ba pháp thanh tịnh. Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu được mười bảy pháp.

Lại nữa, này các vị Tộc tánh tử! Như các hàng thiện nam, thiện nữ tự nhớ nghĩ về vô số hằng sa kiếp thời quá khứ, lại biết rõ về vô số hằng sa kiếp thời hiện tại, lại cũng biết rõ về vô số hằng sa kiếp ở vị lai, ở trong ấy mỗi mỗi đều phân biệt nhận ra thảy là không chốn có. Đó gọi là Bồ-tát đối với mười tám pháp ánh sáng trí tuệ đã thành tựu gồm đủ mười tám pháp ấy.

Như các hàng thiện nam, thiện nữ, nhận rõ được mười tám pháp ánh sáng trí tuệ thì ở nơi đại chúng sẽ dứt hết mọi nỗi lo sợ. Cũng giống như vị quốc vương dũng lực mạnh mẽ, phép tắc lãnh đạo gồm đủ, những hàng thân thuộc luôn vâng theo đúng giáo lệnh của nhà vua, không hề thiếu sót hay bỏ mất. Đại Bồ-tát lại cũng như thế, khi đạt được trí tuệ của Bậc Giác Ngộ cùng với giáo pháp và những pháp ấn được trao truyền, thì liền có thể đạt đến một cách hoàn bị vô lượng cánh cửa trí tuệ giải thoát.

Thế nào là vô lượng cánh cửa trí tuệ giải thoát?

Đó là chư Phật và các cõi của chư Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Các pháp của chư Phật cùng pháp tánh của các pháp là chẳng thể nghĩ bàn. Các hàng Tỳ-kheo Tăng, các pháp của Tăng và các cõi nước của chư Tăng đều là chẳng thể nghĩ bàn.

Lại có bốn pháp để thực hiện các pháp như thế.

Những gì là bốn pháp ấy?

Trước hết là từ gốc trải qua vô số kiếp, luôn dốc lòng vì một tâm ý không hề bị lầm lạc. Nếu có các thiện nam, thiện nữ giữ lấy gốc của một hành, từ đấy biết rõ về Hữu tận, Vô tận, về chư Phật hữu tận, vô tận, nên mới có thể có được đầy đủ các đạo hạnh bình đẳng.

Bấy giờ có một vị Bồ-tát tên là Nguyệt Quang Chiếu liền rời chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Đức Phật cung kính thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Con nay cũng xin cố gắng nhận lấy việc nêu bày về Hữu tận, Vô tận với sự thực hành các pháp môn. Thế nào gọi là Đại Bồ-tát đối với bốn pháp gốc gồm đủ năm hành thì liền có thể nhận biết tường tận về căn bản các pháp của Như Lai. Những gì là bốn pháp?

Ở đời nhận biết đầy đủ về các nẻo đi đến, phân biệt đạo pháp và thế pháp. Đó gọi là thành tựu được một pháp.

Lại dùng các pháp Định ý dứt mọi hình mạo, sắc tướng, tạo cảm ứng đến khắp các quốc độ, ở nơi các quốc độ ấy giáo hóa chúng sinh, thị hiện sự giáo hóa với các giáo pháp giải thoát. Này các vị thiện nam, thiện nữ! Đó gọi là thành tựu được hai pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Đối với các pháp của thân mình không tự thấy có thân, có thể hóa độ vô lượng chúng sinh, rốt cuộc không rời bỏ pháp giới chúng sinh. Đó gọi là thành tựu được ba pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Luôn phân biệt nhận rõ về ba pháp hành của Như Lai. Những gì là ba pháp ấy? Một là Kinh hành, chỗ có thể đến thì biết để đến, chỗ có thể lại thì biết để lại, chỗ có thể an tọa thì biết rõ để an tọa, ý luôn gắn bó với sự nhớ nghĩ sáng suốt, tâm không hề rối loạn. Hai là Tọa thiền: như muốn đi đến tòa báu để ngồi kiết già thì liền xua trừ mọi tưởng để dốc một tâm ý khiến thân không hề chuyển động, rốt ráo của thiền định ở chỗ bắt đầu không chút vọng loạn. Nếu lại dấy khởi thực hiện các công việc thiện thì chỗ tạo tác ấy nhất định là thành tựu, không có một tưởng nào khác. Đó gọi là ở trong ba pháp đã thành tựu đủ bốn pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Đối với quá khứ, hiện tại, tương lai thảy đều nhận thức tường tận về các pháp đang sinh, chưa sinh và đã sinh thì liền có thể ở trong ấy tạo nên tiếng sư tử rống, không hề làm mất các pháp của bản hạnh. Đó gọi là thành tựu được năm pháp.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Đại Bồ-tát lại nên hiểu biết rõ về ba hành của Như Lai. Thiền định của Như Lai chẳng phải là Thiền định của thế tục, cũng chẳng phải là Thiền định của các bậc A-la-hán, Bích-chi-phật, cũng chẳng phải là Thiền của các Địa thứ nhất, thứ hai, cho đến Địa thứ mười. Vì sao? Vì các loại Thiền kia đều là hữu hạn, còn Thiền của Như Lai là không có giới hạn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền bảo Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Này vị Tộc tánh tử! Thế nào gọi là Thiền của thế tục, là Thiền của các vị còn đang tu học, là Thiền của các bậc tu học đã hoàn tất, Thiền từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ mười?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Như con từng được nghe Đức Như Lai giảng dạy, trong ấy có những trường hợp nói về chúng sinh ở cõi Dục như các hàng thiện nam, thiện nữ, từ lúc mới phát tâm Bồ-đề cho đến khi thành tựu đạo quả Vô thượng, bắt đầu ở tại cõi đạo, chưa dự vào quả vị của hàng Bồ-tát, trong đó liền đạt được ba Thiền, gồm Thiền quá khứ, Thiền hiện tại, và Thiền vị lai. Những hàng thiện nam, thiện nữ ấy tuy đạt được ba Thiền đó, chính là có thể tự nhận biết thân quá khứ trong thân mình, thân vị lai trong thân mình, thân hiện tại trong thân mình, nhưng chưa có thể biết được các thân quá khứ, hiện tại và vị lai trong thân của người khác.

Này các vị thiện nam, thiện nữ! Thế nào gọi là biết được thân quá khứ trong thân mình?

Kính bạch Thế Tôn! Như vào lúc tọa thiền, liền tự quán thân mình và dấy tưởng bất định rồi tư duy: “Ôi, thân này của ta chỉ là các pháp hao mòn, hoại diệt.” Nên mỗi ý, mỗi niệm chỉ biết rõ về tính chất bất định của thân, chưa có thể biết được các nẻo hướng tới của thân ấy. Bấy giờ các vị thiện nam, thiện nữ lại tự tư duy: “Ta nay đã lìa bỏ thân này thì lại nên dốc lòng quán tưởng. Như ta nay đã biết rõ thân này là vô ngã và như thế là nhận thức về ngoại vật lại cũng như vậy, mỗi mỗi đều phân biệt và nhận rõ là không thực có.” Đó gọi là ở nơi thân hiện tại liền có thể tư duy về quá khứ, vị lai.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Tự quán tưởng về thân

mình và ngoại vật xong, thì bỏ tâm ấy và trở lại việc dốc tâm quán tưởng: “Ta nay đối với thân này thảy đều nhận rõ tính chất chẳng phải có, chẳng phải không, và những chúng sinh kia có giống như thân ta chăng?” Liền phân biệt người ngoài trong thân quá khứ, than thở về thân này chỉ là sự hao mòn, hủy diệt, không tồn tại lâu dài. Liền dấy tưởng bất tịnh xong lại sinh tiếp tưởng bất tịnh. Nhận biết về người ngoài qua thân quá khứ như thân mình không khác. Nếu các vị thiện nam, thiện nữ bỏ sự nhận biết người ngoài qua thân quá khứ xong thì lại dấy quán tưởng: “Do đâu mà người ấy có trong tâm quá khứ, là từ đâu sinh ra và do đâu mà diệt?” Lại tự tư duy: “Như đã bỏ việc quán tưởng người ngoài trong tâm quá khứ thì liền lại tư duy người ngoài trong tâm vị lai, than thở về thân ấy là từ đâu đến và do đâu mà bị diệt.” Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ đang ở trong quả vị của hàng Bồ-tát. Như vậy là liền có thể đạt được đầy đủ các hành của ba Thiền.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các bậc học dốc lòng tu tập các pháp của ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu như các hàng thiện nam, thiện nữ, ở tại Tín địa được gọi là người tu học, liền muốn tiến tới trên con đường tu tập đạo pháp, tức thì đi đến sáu chốn tịch tĩnh như bên gốc cây, nơi gò vắng vẻ cùng với hư không bao la yên tĩnh, liền có thể ngồi kiết già ngay ngắn, tâm an tịnh tư duy, tự cố gắng để có đầy đủ các pháp hành ba thiền. Những thiện nam, thiện nữ ấy bây giờ tự tư duy quán tưởng về thân quá khứ gốc từ đâu sinh, lại theo cái gì mà diệt? Lại tự tư duy để lãnh hội được thân ấy gốc là không có chốn sinh, cũng không có chốn diệt. Các hàng thiện nam, thiện nữ tức thì lìa bỏ thân ấy để trở lại dốc quán tưởng: “Ta hiện nay với thân này là từ đâu sinh và do đâu mà diệt? Đối với thân vị lai lại cũng như thế chăng?” Liền tự tư duy: “Trong thân vị lai kia là từ đâu sinh, từ đâu diệt?” Rồi bèn tự dấy niệm: “Nơi thân vị lai ấy cũng chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt.” Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở nơi cõi tu học có được đầy đủ ba thiền.

Thế nào là những người tu học quán thân mình đối với thân người khác gồm đủ ba thiền? Những vị thiện nam, thiện nữ ấy lúc này lìa bỏ thân đó xong, tự quán về thân ngoài cùng trong thân quá khứ gốc từ đâu sinh, từ đâu diệt, khiến tự tư duy: “Ôi thân quá khứ của kẻ khác ấy là từ đâu sinh ra và từ đâu bị diệt mất?” Lại tự tư duy: “Trong thân quá khứ này cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt.” Lại bỏ tư duy ấy và tiếp đến là quán tưởng: “Thân quá khứ này đã chẳng sinh trở lại, đã chẳng diệt trở lại. Thân trong vị lai ấy là từ đâu sinh, là từ đâu diệt?” Liền tự sinh niệm: “Thân trong vị lai ấy cũng chẳng có sinh diệt.” Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ đối với thân người khác trong thân quá khứ, vị lai gồm đủ ba Thiền.

Đức Phật bảo Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là những hàng thiện nam, thiện nữ đối với sự tu học đã hoàn thành có được đầy đủ ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các vị thiện nam, thiện nữ muốn hướng tới cõi lậu nhằm xác định các pháp vô lậu, liền tự tư duy trong tư thế ngồi kiết già ngay ngắn: “Thân trong quá khứ ấy là từ đâu sinh, là từ đâu diệt?” Lại tự tư duy tiếp: “Thân trong quá khứ ấy là cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt.” Bấy giờ các vị thiện nam, thiện nữ đó liền lìa bỏ sự quán tưởng ấy và trở lại tư duy: “Ta nay đã quán thân trong quá khứ, lại nên quán về ta và thân quá khứ của ta, cũng chẳng thấy có sinh, chẳng thấy có diệt, không có kiếp, không có hiện hữu, cũng không sinh tử, không có quốc độ.” Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở cõi tu hoàn tất có được đầy đủ ba Thiền.

Đức Thế Tôn lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là Bồ-tát đạt Địa thứ nhất, các hành chẳng tận, có được đầy đủ ba thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Dùng quán không thân để quán niệm về thân, lấy gốc của vô niệm để không làm mất sự diễn biến của niệm. Không lấy thanh để nhận âm hưởng. Qua khỏi Địa ban đầu của Bồtát, ba lần vượt qua Tín địa, ba lần hướng tới tất cả các pháp. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đã có được đầy đủ ba thiền.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Này các vị Tộc tánh tử! Sao không thấy Bồ-tát nói đến Địa thứ nhất của ba thiền?

Thưa:

–Chẳng thấy có cảnh giới, vì thế mà không nêu bày.

Đức Phật nói:

–Không thân chăng? Có thân chăng? Do đâu mà không nêu?

Thưa:

–Có thân.

Đức Phật lại hỏi:

–Thân ấy là Pháp thân hay là thân của bốn đại?

Thưa:

–Đó là thân của cha mẹ sinh ra.

Đức Phật nói:

–Bồ-tát nay dùng thân của cha mẹ sinh ra, làm thế nào thành tựu được ba thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa với Đức Phật:

–Như con lúc mới cầu Đức Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác an tọa nơi gốc cây Bồ-đề, tâm không hề có chút hoảng sợ, liền nhớ nghĩ cảnh lửa cháy rực trong ba cõi, tức thì tự tư duy: “Chư Phật quá khứ thảy đều nhập Bát-nê-hoàn, như vậy là đã có thể hóa độ được bao nhiêu chúng sinh thời quá khứ đạt các quả vị Tu-đàhoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật?” Lại tự tư duy đối với đời vị lai cũng như thế. Đó gọi là Bồ-tát ở Địa thứ nhất có được đầy đủ một Hành thiền.

Như con ở quả vị Bồ-tát trụ Địa thứ nhất, quan sát nhận thấy nơi ba cõi, gốc hành của Địa thứ nhất vượt lên trên các hàng A-la-hán, Bích-chi-phật. Đó gọi là Bồ-tát trụ Địa thứ nhất đã thành tựu được hai thiền.

Như các hàng thiện nam, thiện nữ đạt được Địa thứ nhất, phân biệt về trong ngoài thân giữ lấy ba không về thân, diễn giảng các giáo pháp không hề có sự sai lạc. Đó gọi là ở trong Địa thứ nhất thành tựu được ba Thiền.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Bồ-tát sao chẳng nói về các bậc Tư-đà-hàm, A-na-hàm thực hiện ba thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ đã ở lại Kiến địa liền tự tư duy: “Thân ta, trong thân quá khứ, thân vị lai cũng đều chẳng có thân ấy, cũng không có tưởng về Phật, về Pháp, cũng không thấy có tưởng về thân.” Đó gọi là thân trong quá khứ có được đầy đủ ba Thiền.

Thế nào gọi là thân trong vị lai có được đầy đủ ba thiền? Bấy giờ các vị Tư-đà-hàm lại tự quan sát trong ngoài để lìa bỏ các thứ phiền não cấu nhiễm, đối với cõi ba Thiền luôn gắn chặt mọi niệm không hề quên. Tuy đã tự chứng đạt được nhưng không hủy hoại tự tướng. Cũng như tự tướng của vô số pháp nối nhau, tự phân biệt về danh thân, cú thân, vị thân. Lại quán về bên ngoài với vô lượng chúng sinh không dấy tưởng về Phật nên đã thành tựu được tưởng về Phật bình đẳng bất nhị, khiến thảy đều được thanh tịnh, không còn thấy có đi đến, lui tới, cũng không còn có xa gần. Đó gọi là bậc Tưđà-hàm đối với thân trong vị lai có được đầy đủ ba Thiền.

Lại nữa, các vị thiện nam, thiện nữ, an tọa tư duy, do đạt được pháp “Không còn trở lại” nên tự phân biệt: “Ta nay đã an định nơi Địa thọ chứng, không hủy hoại hình tướng tự nhiên của các pháp, tự thẩm xét để minh chứng. Ta đã vượt qua một, hai, ba, chẳng còn qua lại nữa, sống nơi cõi sinh tử nhưng tâm ý luôn an nhiên, không gì có thể làm lay chuyển.” Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở nơi thân mình đã quán về quá khứ. Đối với vị lai thì cũng như thế.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Bậc A-na-hàm đạt được các pháp quá khứ chăng? Hay là chưa đạt được các pháp quá khứ?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Bậc A-na-hàm đã đạt được các pháp quá khứ nhưng chưa dứt sạch hết các pháp quá khứ.

Thế nào gọi là đạt được các pháp quá khứ nhưng chưa dứt sạch hết các pháp ấy?

Đó là bậc A-na-hàm thân ở nơi quá khứ còn pháp thì ở vị lai. Đó gọi là đã đạt các pháp quá khứ nhưng chưa dứt sạch hết các pháp quá khứ.

Lại nữa, bậc A-na-hàm thân ở nơi vị lai nhưng pháp đã ở quá khứ. Đấy cũng chính là đã đạt được pháp quá khứ nhưng chưa dứt sạch hết các pháp ấy.

Lại nữa, này các vị thiện nam, thiện nữ! Bậc A-na-hàm, thân chưa ở quá khứ, chưa ở hiện tại, nhưng pháp thì đã có trước nơi quá khứ và hiện tại. Đó gọi là bậc A-na-hàm đạt được các pháp quá khứ nhưng chưa dứt sạch hết các pháp ấy.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Bậc A-đà-hàm đạt được pháp quá khứ nhưng chưa dứt sạch hết các pháp quá khứ ấy chăng?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Bậc Tư-đà-hàm tuy có thân quá khứ nhưng chưa đạt được pháp quá khứ và cũng chưa thể dứt sạch hết các pháp ấy.

Đức Phật hỏi:

–Thế nào gọi là bậc Tư-đà-hàm có được thân quá khứ nhưng chưa có được pháp quá khứ và chưa dứt sạch hết các pháp quá khứ?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Bậc Tư-đà-hàm, thân quá khứ đã diệt nhưng pháp quá khứ chưa hết, tự quán các pháp vị lai xong đến các pháp quá khứ cũng là không chốn có. Như bậc A-na-hàm không có thân quá khứ nhưng có pháp quá khứ. Như bậc Tư-đà-hàm thì không được như thế. Cũng như gương sáng, nhìn xem hình bóng trong ấy, chẳng phải như mặt mặt cùng thấy. Vì thế mà bậc Tư-đà-hàm chẳng như vậy. Thức của A-nahàm như vàng đã được luyện thuần thục, còn thức của Tư-đà-hàm thì như vàng chưa được luyện. Do vậy mà có sự khác nhau.

Đức Phật lại hỏi:

–Này vị Tộc tánh tử! Như Bồ-tát vừa nói thì bậc A-na-hàm đạt được pháp quá khứ, đã dứt sạch hết các pháp quá khứ, đã đạt được các pháp vị lai và cũng dứt sạch hết các pháp vị lai, đã thành tựu được hết các pháp chưa thành tựu chăng?

Thưa:

–Chẳng phải thế! Tuy là vàng đã được luyện nhưng chưa trở lại thành vật dụng, có thể có loại vàng mang tên là chưa có hình tượng chăng?

Đức Phật lại nói:

–Lành thay! Lành thay! Này vị Tộc tánh tử! Đã khéo nêu giảng về nghĩa ấy. Như bậc A-na-hàm là không có pháp quá khứ, đã dứt sạch pháp quá khứ, không còn pháp vị lai, đã dứt sạch các pháp vị lai. Như hiện tại A-la-hán đã đạt được pháp quá khứ, dứt sạch hết các pháp quá khứ chăng? Đạt được các pháp vị lai và dứt sạch hết các pháp vị lai chăng?

Thưa:

–Đạt được các pháp quá khứ nhưng chưa dứt sạch hết các pháp quá khứ. Đạt được các pháp vị lai nhưng chưa dứt sạch hết các pháp vị lai. Do đó có sự khác biệt.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là Bồ-tát ở Địa thứ hai có được đầy đủ hành ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các vị Bồ-tát ở Địa thứ hai phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng thấy trong cũng như ngoài thân, luôn gắn chặt niệm với hiện tại để tự tư duy: “Ta nay trong thân này đã có trong thân quá khứ, hay không có trong thân quá khứ? Có trong thân vị lai hay không có trong thân vị lai?” Lìa bỏ quán ấy xong thì trở lại tư duy: “Ta nay đã không có thân trong, thân ngoài. Thế thì làm sao ở nơi thân trong mong có trong thân quá khứ và trong thân vị lai?” Đó gọi là Bồ-tát ở Địa thứ hai đối với nội ngoại thân mình có đầy đủ ba Thiền.

Bấy giờ Bồ-tát ở Địa thứ hai lại suy niệm: “Ta nay đối với thân trong ngoài thảy đều nhận rõ. Vậy phải nên lần lượt quán thân trong ngoài của kẻ khác với các pháp so cùng ta có gì khác chăng? Tự chuyển biến lên thêm phía trước để quán thân nội ngoại của kẻ khác có thân quá khứ hay không có thân quá khứ? Có thân vị lai hay chẳng có thân vị lai?” Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở nơi Địa thứ hai, đối với thân quá khứ của kẻ khác đã thành tựu được ba Thiền.

Đức Thế Tôn lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đạt được Địa thứ ba và ở trong Địa thứ ba ấy đã thành tựu được ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ ở Địa thứ ba, an tọa ngay ngắn và tư duy: “Đối với bên trong, quán thân quá khứ là có thân quá khứ chăng, hay không có thân quá khứ? Lại đối với trong, quán thân vị lai là có thân vị lai hay không có thân vị lai?” Lại tự tư duy: “Ta không có Địa thứ nhất trong thân quá khứ chăng? Thân quá khứ cũng lại không có Địa thứ nhất trong thân vị lai chăng? Thân vị lai cũng lại không Địa thứ nhất trong thân quá khứ của kẻ khác chăng? Thân quá khứ cũng lại không có Địa thứ nhất trong thân vị lai của kẻ khác chăng? Thân vị lai lại quán Địa thứ hai, quán bên trong thân quá khứ là có thân quá khứ hay không có thân quá khứ? Quán bên trong thân vị lai là có thân vị lai hay không có thân vị lai?” Lại tự tư duy: “Ta không có Địa thứ hai, không có trong thân quá khứ chăng? Thân quá khứ lại cũng không có Địa thứ hai trong thân vị lai chăng? Thân vị lai cũng lại không có Địa thứ hai trong thân quá khứ của kẻ khác chăng? Thân quá khứ lại cũng không có Địa thứ hai trong thân vị lai của kẻ khác chăng? Thân vị lai, như ta hiện nay quán về ta trong Địa thứ ba là có trong thân quá khứ hay không có trong thân quá khứ? Lại tự quán là có trong thân vị lai hay không có trong thân vị lai. Tự ở nơi Địa ấy quán là có trong thân quá khứ kẻ khác hay không có trong thân quá khứ kẻ khác? Quán xem là có trong thân vị lai kẻ khác hay chẳng có trong thân chăng?” Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ ba đã có được đầy đủ ba Thiền.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ tư có được đầy đủ ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ ở Địa thứ tư, an tọa ngay ngắn và tư duy: “Ở nơi nội quán là có thân quá khứ hay không có thân quá khứ? Lại nội quán về thân vị lai là có hay không có thân vị lai?” Lại tự tư duy: “Ta đã không có Địa thứ nhất, Địa thứ hai, Địa thứ ba; không có thân quá khứ, cũng không có thân vị lai. Hà huống trong Địa thứ tư có thân quá khứ, trong Địa thứ tư không có thân quá khứ, Địa thứ tư có thân vị lai, Địa thứ tư không có thân vị lai? Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ tư thành tựu đủ ba Thiền.

Đức Thế Tôn hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ năm có được đầy đủ ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các vị thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ năm an tọa ngay ngắn và tư duy: Nội quán về thân quá khứ là có hay không có thân quá khứ? Nội quán về thân vị lai là có hay không có thân vị lai? Lại tự tư duy: “Ta nay đã lìa Địa thứ nhất, Địa thứ hai, cho đến Địa thứ tư. Ở trong Địa thứ tư đối với việc nội quán là có thân quá khứ hay không có thân quá khứ; đối với nội quán về thân vị lai là có hay không có thân vị lai? Lại bỏ sự việc ấy xong thì quán: Không có thân quá khứ trong thân quá khứ của kẻ khác, không có thân vị lai trong thân vị lai của kẻ khác. Huống chi ta nơi Địa thứ năm, đối với nội quán có thân quá khứ hay không có thân quá khứ; đối với việc quán kẻ khác là có thân vị lai hay không vị lai. Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ năm có được đầy đủ ba Thiền.

Đức Thế Tôn lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở nơi Địa thứ sáu có được đầy đủ ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ sáu, an tọa nghiêm trang và tư duy: Quán về ngã là không có thân và ở trong thân vô ngã ấy đã quán về bên trong, có hay không có thân quá khứ. Lại nội quán về thân vị lai: là có hay không có thân vị lai. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đạt Địa thứ sáu và ở trong Địa thứ sáu ấy đã thành tựu đủ ba Thiền. Các vị thiện nam, thiện nữ ở nơi Địa thứ sáu ấy lìa bỏ thân vô ngã xong, lại đối với sự quán nội về thân kẻ khác: Có hay không có thân quá khứ? Có hay không có thân vị lai? Lại tự tư duy: quán nội về kẻ khác, là có thân quá khứ hay không có thân quá khứ, lại nội quán về kẻ khác là có thân vị lai hay không có thân vị lai. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ sáu đã thành tựu ba Thiền.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đạt Địa thứ bảy và ở trong Địa thứ bảy ấy đã thành tựu đủ ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các hàng thiện nam, thiện nữ ở những nơi chốn vắng vẻ tịch tĩnh, an tọa trang nghiêm và tư duy: nội quán về thân quá khứ là có hay không có thân quá khứ? Lại nội quán về thân vị lai là có hay không có thân vị lai? Các vị thiện nam, thiện nữ ấy lại suy nghĩ: “Ta nay đã lìa bỏ Địa thứ nhất, không có thân quá khứ trong thân quá khứ, không có thân vị lai trong thân vị lai; cho tới Địa thứ sáu đều không có thân quá khứ trong thân quá khứ, không có thân vị lai trong thân vị lai. Vậy thì làm sao ở trong Địa thứ bảy lại có trong thân quá khứ hay không có trong thân quá khứ; có trong thân vị lai hay không có trong thân vị lai? Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ bảy đã thành tựu đủ ba Thiền.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ bảy nội quán về kẻ khác là có thân quá khứ hay chẳng phải thân quá khứ, thân vị lai hay chẳng phải thân vị lai?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Các vị thiện nam, thiện nữ quán về kẻ khác, trong thân quá khứ chẳng phải có trong thân quá khứ của kẻ khác. Lại quán về kẻ khác trong thân vị lai, chẳng phải có trong thân vị lai của kẻ khác.

Đức Phật nói:

–Này các vị Tộc tánh tử! Hãy nên dừng lại, chẳng phải là cảnh giới của chính Bồ-tát. Vì sao? Vì các hàng thiện nam, thiện nữ ở Địa thứ bảy, quán về kẻ khác trong thân quá khứ cũng chẳng có trong thân quá khứ của kẻ khác, chỉ là không có trong thân vị lai của kẻ khác. Bồ-tát vì sao lại cho rằng các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ bảy đã thành tựu được trong thân vị lai của kẻ khác.

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Như con quán kẻ khác trong thân vị lai chẳng phải có, chẳng phải không, vì thế nên nói là thành tựu.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các vị thiện nam, thiện nữ đạt được Địa thứ tám và ở trong Địa thứ tám ấy đã thành tựu đủ ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các vị thiện nam, thiện nữ ấy, an tọa ngay ngắn và tư duy: quán nội thân quá khứ không có trong thân quá khứ, quán nội thân vị lai không có trong thân vị lai; quán kẻ khác trong thân quá khứ không có trong thân quá khứ; quán kẻ khác trong thân vị lai không có trong thân vị lai. Hoặc có lúc các vị thiện nam, thiện nữ tự quán nội thân quá khứ lúc chẳng phải có, chẳng phải không giống như hư không chưa có thể diệt trong thân vị lai. Hoặc có khi quán lúc trong thân vị lai, chưa có thể diệt trong thân quá khứ. Hoặc có khi quán về kẻ khác lúc trong thân quá khứ chưa có thể diệt trong thân vị lai của kẻ khác. Quán về kẻ khác lúc trong thân vị lai chưa có thể diệt trong thân quá khứ của kẻ khác. Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ tám đã thành tựu đủ ba Thiền.

Đức Phật lại hỏi Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu:

–Thế nào gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đạt được Địa thứ chín và ở trong Địa thứ chín ấy đã thành tựu được ba Thiền?

Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như các vị thiện nam, thiện nữ ấy an tọa ngay ngắn và tư duy: Quán nội là có thân quá khứ chăng, hay chẳng có thân quá khứ? Tự quán nội về thân vị lai là có hay không có thân vị lai? Các vị thiện nam, thiện nữ bỏ pháp ấy xong thì lại quán về kẻ khác trong thân quá khứ là có hay không có thân quá khứ? Lại quán về kẻ khác trong thân vị lai là có trong thân vị lai hay không có trong thân vị lai. Bỏ pháp quán ấy thì lại tiếp tục tư duy như vầy: “Ta gốc là không có thân quá khứ trong thân quá khứ. Gốc là không có thân vị lai trong thân vị lai, huống chi là sẽ có: kẻ khác ngoài thân quá khứ không có thân quá khứ, kẻ khác ngoài thân vị lai không có thân vị lai?” Từ đấy giữ tâm luôn bền chắc, không rời bỏ thệ nguyện gốc của mình. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ chín đã thành tựu đủ ba Thiền.

Lại nữa, các vị thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ chín ấy lại nên tu tập ba hành của thiền cho đến khi an tọa nơi đạo tràng mà không hề bị sai trái hay mất mát. Những gì là ba hành?

1. Quán. 2. Hành.

3. Gốc.

Nếu có thể thành tựu được ba pháp ấy thì liền đạt được đầy đủ đạo quả để đến đạo tràng.

Thế nào là quán? Phân biệt pháp giới, biết rõ mọi cội rễ cùng các hình tướng trang nghiêm. Đó gọi là quán. Thế nào là hành? Đi đến nơi cây Bồ-đề, hiện thân với các sắc tướng và các lậu đã hoàn toàn dứt sạch, không còn bị các thứ phiền não bụi bặm làm cho ô nhiễm. Chư Phật Như Lai với nẻo hành hóa quen thuộc có bốn pháp phi thường. Đó gọi là hành. Thế nào là gốc? Đại Bồ-tát tự suy nghĩ: “Ta nay thệ nguyện lớn đã được đầy đủ, sẽ dốc khiến cho chúng sinh có được đầy đủ thệ nguyện lớn lao đó.” Đấy gọi là gốc. Các vị thiện nam, thiện nữ đạt đủ ba hành ấy thì liền có được đầy đủ các pháp để đến đạo tràng.

Lại nữa, các vị thiện nam, thiện nữ phải nên có đầy đủ ba pháp Thiền để đến được đạo tràng. Những gì là ba pháp?

  1. Không không.
  2. Tưởng không.
  3. Thức không.

Nếu có đầy đủ ba pháp Không đó thì liền có thể hoàn thành các pháp cần thiết để đến đạo tràng.

Thế nào gọi là Không không? Chỗ gọi là Không ấy tức là quán các pháp trong ngoài đều là không, cả đến việc quán một thế giới, hai thế giới, cho tới vô số a-tăng-kỳ thế giới cũng thế. Đó gọi là pháp Không.

Thế nào gọi là Tưởng không? Như nhập pháp Định ý, quán tưởng khắp các thế giới nhưng không hề dấy niệm là Hữu không, Vô không, Hữu ngã, Vô ngã. Đó gọi là Tưởng không.

Thế nào là thức không? Lúc nhập pháp Định ý lại dấy quán tưởng này: “Ta nay chỉ dốc nhớ nghĩ đến chúng sinh chứ không có một tưởng nào khác, cũng sẽ khiến cho chúng sinh thảy được thanh tịnh như ta. Nhưng những chúng sinh ấy có tới vô lượng thức, ta nay sẽ dùng thức gì để giáo hóa họ? Ta nay sẽ dùng thức không khiến cho thế giới này thảy đều như hư không, làm cho mọi chúng sinh kia phân biệt nhận ra sự tham vướng của thức mình.” Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ chín đã thành tựu đủ ba Thiền.

Lại có ba pháp là những nẻo cần nên tu tập. Những gì là ba pháp?

  1. Phân biệt nhận rõ thế giới.
  2. Nhận rõ cõi chúng sinh.
  3. Thấu đạt diệu nghĩa bậc nhất.

Nếu dốc tu tập ba pháp ấy thì liền có thể đi đến đạo tràng mà không hề sợ hãi.

Thế nào gọi là phân biệt thế giới? Có thể quan sát tận khắp hết thảy các cõi, có những loại thanh tịnh và không thanh tịnh, tất thảy thấu đạt không chút lầm lạc, theo ý để lựa chọn nhằm tu tập giữ gìn sửa sang cõi Phật. Đó gọi là phân biệt thế giới.

Thế nào gọi là cõi chúng sinh? Lại phải quan sát tất cả chúng sinh, luôn sử dụng các phương tiện quyền xảo để giáo hóa họ, không rời thệ nguyện lớn của tâm đại Từ bi bao la, dù trải qua bao kiếp cũng không cho là khó nhọc. Đó gọi là các hàng thiện nam, thiện nữ đã thành tựu được cõi chúng sinh.

Thế nào là thành tựu được Diệu nghĩa bậc nhất? Mỗi mỗi thảy phân biệt ý nghĩa hướng tới của chúng sinh là tất cả quy về nơi không: không ngã, nhân, không thọ mạng cũng không có một, hai, cho đến tất cả các pháp cũng lại như vậy. Đó gọi là phân biệt và thấu đạt Diệu nghĩa bậc nhất.

Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ thành tựu được ba pháp ấy thì liền có được đầy đủ các pháp để đi đến đạo tràng.

Lại có ba pháp thần túc:

  1. Thần túc biết rõ về các pháp quá khứ.
  2. Thần túc biết rõ về các pháp vị lai.
  3. Thần túc biết rõ về các pháp hiện tại.

Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ đạt được ba pháp ấy thì liền có thể gồm đủ được các pháp đạt tới đạo tràng.

Thế nào gọi là Thần túc biết rõ các pháp quá khứ? Đối với các thiện nam, thiện nữ ở Địa thứ chín luôn nhận biết về các pháp quá khứ như tưởng về hư không, phân biệt chúng sinh quá khứ với những hạng tham dục, giận dữ, si mê, tâm bị cấu nhiễm, cùng hạng không tham dục, giận dữ, si mê, tâm không bị cấu nhiễm, mỗi mỗi đối tượng đều phân biệt nhận rõ mà không hề tham vướng. Đó gọi là Thần túc nhận biết các pháp quá khứ.

Thế nào gọi là thần túc nhận biết các pháp vị lai? Đối với các vị thiện nam, thiện nữ đã đạt Địa thứ chín nhận biết về chúng sinh thọ nhận hình tướng trong thời vị lai, có hạng tham dục, giận dữ, si mê, tâm bị cấu nhiễm; có hạng không tham dục, giận dữ, si mê, tâm không bị cấu nhiễm, mỗi mỗi đối tượng đều nhận rõ mà không hề tham vướng. Đó gọi là Thần túc nhận biết các pháp vị lai.

Lại nữa, các hàng thiện nam, thiện nữ đạt Địa thứ chín nhận biết về tất cả chúng sinh nơi hiện tại có tham dục, giận dữ, si mê, tâm bị cấu nhiễm, hoặc không có tham dục, sân hận, si mê, tâm không bị nhiễm ô, mỗi mỗi đối tượng thảy đều phân biệt nhận rõ mà không hề tham đắm. Đó gọi là Thần túc nhận biết về các pháp hiện tại.

Đấy gọi là bậc trụ Địa thứ chín đã thành tựu được ba pháp để tiến tới đạo tràng.

Lại nữa, các hàng thiện nam, thiện nữ ở trong Địa thứ chín lại có ba pháp để đạt đến đạo tràng:

  1. Thân thanh tịnh.
  2. Miệng thanh tịnh.
  3. Ý thanh tịnh.

Đạt được ba pháp ấy thì hoàn thành đủ các pháp đi đến đạo tràng.

Thế nào là thân thanh tịnh? Thân đã vượt qua vô lượng đức hạnh, gốc mọi hành đã dứt, lại không tạo thân hành nữa, các thân đều thông đạt không chút trở ngại. Đó gọi là Bồ-tát trụ Địa thứ chín có được thân thanh tịnh.

Thế nào là miệng thanh tịnh? Miệng phát ra vô lượng giáo pháp chưa từng bị thiếu sót, hao giảm, thể hiện kho tàng thâm diệu vô biên. Đó gọi là miệng thanh tịnh.

Thế nào là ý thanh tịnh? Tâm ý luôn dứt trừ mọi thứ cấu nhiễm tham đắm, không còn bị phiền não bụi bặm che phủ. Đó gọi là ý thanh tịnh.

Bấy giờ Bồ-tát Nguyệt Quang Chiếu liền đọc bài kệ:

Thân tịnh không bợn nhơ
Trong ngoài đều sạch nhiễm
Đức cao không gì hơn
Vĩnh viễn dứt ba độc.
Miệng tịnh diễn nói pháp
Lậu hết, lỗi lầm không
Cho đến khi diệt độ
Ngôn giáo thật không cùng.
Ý tịnh trừ tham chấp
Từ bi không giảm tăng
Trong vô lượng kiếp trải
Thức tỉnh bao kẻ mê.
Cửu địa cõi quá khứ
Chẳng có cũng chẳng không
Các vị thiện nam, nữ
Đã nhập cõi Như Lai.
Con gốc vô lượng đời
Tìm thầy bạn dốc học
Còn chưa rõ hành này
Huống bao kẻ trôi nổi.
Giữ hành không hề vướng
Dốc chí đạt quả Phật
Hành vượt khỏi ba cõi
Sư tử rống cõi người.

Đó gọi là các vị thiện nam, thiện nữ ở Địa thứ chín đã thành tựu đủ ba pháp.