ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TẬP GIẢI

Pháp sư Bảo Lượng, đời Lương soạn.
Hoàng Đế Vì Pháp sư Thích Bảo Lượng Chùa Linh Vị soạn lời tựa Nghĩa Sớ.

 

Phẩm 16: BỒ-TÁT

Phần 1

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như ánh sáng mặt trời, mặt trăng” cho đến “Vì cho nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: “Dù chưa phát tâm, nhưng vẫn được làm nhân của Bồ-đề, không khác với quyền Đại thừa. Nếu nghe nói Phật pháp tin, hiểu, thì là tâm Bồ-đề phát sanh, tức làm nhân, nếu sanh chê bai thì đâu được làm nhân ư?”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chúng sinh thọ lãnh đạo pháp, tức phải do niềm tin bên trong. Tin tưởng nhỏ nhoi không vượt qua bốn tội nặng, năm tội nghịch. Gốc lành không dứt, do như sợi lông, cọng tóc, nhờ vào chút điều lành nhỏ nhoi này, mà cảm được ánh sáng Niết-bàn, thành nhân Bồ-đề, được gọi là Bồ-tát, không sợ đại chúng, như vàng ròng kia không có dấu vết nào để nói.

Làm duyên Bồ-đề, nghĩa là Bồ-tát dùng việc phát tâm làm nhân, trụ ba mươi tâm trước là nhân của sơ phát tâm, tức ngày xưa có tâm này nhưng đã bị điều xấu ác che lấp. Nhờ năng lực của kinh, nên được làm Bồ-tát.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước kia đã nói có công năng diệt các điều ác. Nay ở đây nói sinh các điều lành, là phát tâm Bồ-đề rồi!”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Gốc lành chưa dứt, tất nhiên có ngần ấy chân tơ, kẽ tóc. Nhờ có năng lực của duyên phát, có thể làm cho cảm tỏ ngộ, hối cải sâu xa.

Trên cầu tuệ Phật, dưới hóa độ chúng sinh, sao cho khi chưa phát tâm mà đã thành Bồ-tát!

Vào lỗ chân lông: Sẽ nói về năng lực của kinh này năng diệt trừ bóng tối, gọi là ánh sáng khéo do cảm giáo, giáo khéo giúp đỡ nhau. Nghĩa như “Vào”. Đối tượng lợi ích chưa sâu, gọi là lỗ chân lông.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Làm sao dứt tất cả phiền não?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Có ba chướng, tức là không lãnh thọ đạo. Nếu nghe đều làm nhân Bồ-đề thì thiện ác không khác nhau! Vì sao Đức Như lai lại nói nghĩa bốn y? Hễ nghe qua tai, thì do nhĩ thức này mà được, đã làm nhân Bồ-đề rồi, thì vì sao giáo xưa lại nói rằng y theo trí không y theo thức?

Làm sao dứt tất cả phiền não? Bồ-tát không lui sụt, phải hàng phục, dứt trừ phiền não. Nếu không hiểu nghĩa thì làm sao hàng phục được kiết ư?

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai câu hỏi đều có hai quan hệ, cho nên thành bốn. Quan hệ đầu, một đã qua, không phải là chỉ thú nay. Nếu ba loại người tội nghe kinh thì sẽ làm nhân Bồ-đề, giữa hai người giữ giới, phá giới đâu có gì khác nhau? Quan hệ thứ hai, tức lấy phẩm bốn y để kết thúc câu hỏi, nghĩa là người trì giới, nghe kinh cũng thành Bồ-tát, kẻ phá giới cũng vậy, thì đâu dùng bốn y xuất thế để đối trị người phá giới? Lại Như Phật nói: “Câu hỏi thứ hai cũng có hai quan điểm: Quan điểm đầu, tức dẫn phẩm Điểu Dụ ở trên rằng: “Nếu người quy y nhất thể Tam bảo, thì dù có phiền não cũng như không có. Nếu quả thật một phen nghe qua kinh này mà tin chắc chắn, thì sẽ làm cho gốc phiền não này bị hư. Nghĩa là trong phẩm Bốn y, Đức Phật tự nói rằng sa Phật đã phát tâm, nghe kinh còn không hiểu nghĩa, thì làm sao chỉ nghe của tai, tức là dứt trừ phiền não?

Quan điểm thứ hai, tức dùng lý để tra gạn, kết thành câu hỏi. Nghĩa là “Giải” (hiểu rõ), “Hoặc” (mê lầm) trái nhau. Đối với người đã chứa nhóm công đức kia, vẫn còn chưa hiểu, mà chỉ nghe qua một lần, làm sao dứt trừ được “hoặc”?

Pháp sư Trí Tú nói: “Có hai câu hỏi”.

  1. “Nếu ba loại người tội, tâm họ không ưa hướng tới, mà vì năng lực của kinh, nên đã phát tâm một cách gượng gạo, thì đâu cần phải nương người Bốn y phải không?”
  2. Nếu quả thật đã phát tâm, thì liền được hợp lý, tức cũng có thể dứt trừ “Hoặc”, thì sao kinh kia lại nói ở chỗ Ba Hằng hà sa Phật mà phát tâm, cũng chưa hiểu nghĩa?” Hai thuyết đây, kia chưa thể hiểu được.

Phật nói: “Này người thiện nam! Trừ Nhất-xiển-đề” cho đến “Vì nghĩa này nên gọi là việc lớn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trừ Nhất-xiển-đề, vì có đủ cả chướng. Thế nào là đủ? Đó là không nhận thấy nhân quả, là chướng phiền não. Nói không có nghiệp chướng nhân quả, đới đời chứa nhóm việc ác. Nay, thành xiển-đề là báo chướng. Ngoài ra chúng sinh nghe kinh này, là bốn tội nặng năm tội nghịch, dù có nghiệp ác, nhưng được nghe kinh, sinh niềm tin, tất nhiên do gieo trồng nhiều công đức đã lâu, chứ chẳng phải không có nhân.

Phàm phu thấp kém, không được nghe là không được nghe qua tai, thì cho dù có nghe, cũng không sinh niềm tin.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người chưa phát tâm được nhân Bồ-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Là hai người này đều đã có nghiệp chướng, lẽ ra phải trở ngại cho việc phát tâm mới đúng, sao lại phát tâm được ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hai câu hỏi đã được thông qua, nay sẽ nói rộng về lý do là nhờ năng lực của kinh, mà phát tâm:

“Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Nếu có người nghe kinh Đại Niếtbàn này” cho đến “Diệu điển Đại thừa, thật sự là do Phật chân thật nói ra.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người mộng thấy hình tượng La-

sát, vì bị chướng nên dù có nghe kinh, cũng không phát tâm ngay. Do kinh phát ra mộng, mộng thấy nghiệp quả, vì sợ khổ, nên phát tâm sau khi thức giấc, đó là nhờ năng lực của kinh.

Người nhớ lại tâm Bồ-đề: Phát tâm có mạnh yếu, mạnh thì sinh lên làm người, yếu thì đọa vào ba đường, dù chịu tội báo, nhưng tâm Bồ-đề không dứt.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Người chê bai kinh lúc sắp qua đời, tướng bóng tối hiện ra mới cảm thấy sợ sệt. Khi qua đời tâm họ rối loạn, gọi là Mộng. Tội ép ngặt con người, thật đáng sợ hãi, còn hơn La-sát.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đại Kinh giáo luận có hai thời nói về nghĩa. Kinh nói: “Dùng trí hạ hạ để dứt trừ phiền não thượng thượng, lẽ ra nên dùng kinh xưa để đối trị ba thứ tội mới phải, đằng này, giáo Niếtbàn hiện nay lại nói rằng, có công năng dứt trừ “Hoặc” này, thì về lý trái nhau, làm sao được trung? Kinh nói trí phẩm hạ hạ, dứt trừ “Hoặc” phẩm thượng thượng, đó là y cứ ở đạo chân vô lậu, dứt trừ nói chung, chỉ là lời nói. Nay đã giải thích hai kinh. Chính là nói về đạo chế phục, còn về sinh thiện và khởi “Hoặc” vốn ở trong tâm hữu lậu, hoặc tâm nặng, tâm nhẹ, thiện ác cũng đều như vậy.

Kinh xưa nói về “Lý” không viên “Giải” cũng nhỏ nhoi ít ỏi, nên dùng điều lành nhẹ để chế phục “Hoặc” nhẹ. Kinh nay nói, về lý thì đã đủ khắp, tin hiểu sâu sắc vượt hơn, cho nên dùng điều lành tăng thượng để ức chế “Hoặc” phẩm Thượng Thượng. Sở dĩ biết được như vậy, là vì như trong giới luật, nếu phạm thiên thứ hai, thì phải làm sám hối trước hai mươi mốt người, tội mới diệt. Nếu phạm từ thiên thứ ba trở đi, thì đối thú trực tiếp, tội mới dứt trừ, cho đến tội Đột-cát-la, tự trách cứ ở tâm mà dứt bỏ. Nếu nói theo đây, thì lẽ ra tội nhẹ cũng phải có nhiều người mơi diệt. Nay thì không như thế, cho nên biết kinh xưa lý sâu, sanh thiện thì kém, chỉ hàng phục được hoặc nhẹ.

Kinh nay, thì lý sâu, sinh phước tăng thượng, có công năng chế phục “Hoặc” nặng. Do đó suy ra, kinh xưa không thể làm cho con người đắc đạo đó là điều rõ ràng.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như trong hư không” cho đến “Bọn Nhất-xiển-đề, lập ra nhân Bồ-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Mụt nhọt ở tay: Xiển-đề dùng tà kiến làm tay. Hễ gặp điều lành thì phá hoại, dụ cho mụt nhọt.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như cỏ Mã xỉ” cho đến “Kín, dày như chất kim cương, vật thể bên ngoài không lọt vào được.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Mưa xuống không thấm vì quá dày chắc không thọ nhận. Xiển-đề như vậy, chẳng lẽ có lỗi của mưa pháp ư?”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Bài kệ đó có nghĩa gì?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dẫn bài kệ xưa để nói: “Làm ác không ăn năn”, để chứng minh hạng xiển-đề không thể hóa độ.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại hỏi về bài kệ xưa, phô bày nhiều việc ác trước kia, nêu các việc đáng sợ. Vì muốn giải thích rõ về nghĩa vô úy của bài kệ sau.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Dưới đây là đáp câu hỏi thứ mười lăm, nói về ba loại người tội, nghe kinh Niết-bàn, sửa đổi ăn năn tu điều thiện, có thể làm ruộng phước cho trời, người. Trước kia mình có làm điều ác, nên thường sợ sệt trước đại chúng. Nay đã sửa lỗi dĩ vãng, tu tập tương lai, thì sẽ không còn sợ sệt nữa.

Trong phần đáp này nói ba bài kệ: Một hàng kệ đầu, nói làm điều xấu ác, sẽ sợ hãi đối với chúng.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Không thấy nghĩa là” cho đến “Như con đường bằng phẳng của Vua đi, nghĩa này thế nào?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dẫn giáo xưa nói bài kệ: “Gây ra tội.”

“Gây ra tội có thể sám hối”, để chứng minh rằng bốn tội nặng có thể hóa độ. Ở trên nói phát tâm, ở đây nói dứt ác.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là đáp câu hỏi: “Đối với đại chúng được vô úy là thế nào?” Rằng theo kinh, ăn năn, sửa đổi, tu nhiều điều lành, thì các việc ác sẽ được tiêu diệt, như con đường bằng phẳng của vua đi.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Hai bài kệ này chính là nói lúc làm việc ác không sợ đại chúng, nói là trước kia mới ác. Nay y theo kinh, sửa đổi, ăn năn.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Thấy việc đã làm” cho đến “Vì sao là Chư Phật pháp nhĩ?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đến chỗ không có chỗ đến, nghĩa là không có đến, gọi vô thỉ, từ vô thỉ đến nay, đều phát lộ. Lại không có đến, gọi là Niết-bàn, vì phát lộ thì sẽ đến Niết-bàn.

“Mỡ dầu đều cạn hết”: Nói Đức Phật do hạnh mà có được tướng tốt tự nhiên, cũng đều diệt với con người mà thôi!

“Nếu có Bồ-tát”…trở xuống, không tin hai người, dùng công đức phát lộ để hồi hướng Bồ-đề, tức gọi là Bồ-tát. Dù bị xiển-đề phá hoại, nói không có nhân quả, nhưng các Bồ-tát đã không vì kẻ độc ác đó bỏ, mà không cứu.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ chỗ bờ mé sinh tử đến Niết-bàn. Nếu Bao nhiêu nghiệp ác đã làm, đều phát lộ tất cả. Phát tâm này để sám hối, thì sẽ không có tội nào không được tiêu diệt. Con vượn với lấy mặt trăng dưới đáy nước, nghĩa là dùng xiển-đề làm thí dụ. Nói về mặt trăng dưới đáy nước, sự thật chỉ là bóng của mặt trăng. Vượn dụ cho xiển-đề. Mặt trăng dụ cho Niết-bàn. Nước dụ cho thiện hữu lậu. Mặt trăng dưới đáy nước dụ cho bóng Niết-bàn. Không có nước thì không có bóng mặt trăng. Hình tượng có, Đức Phật gọi là thiện hữu lậu. Việc lành vốn là để hướng đến Niết-bàn, phần khí quan hệ với nhau. Phàm phu nhờ tu tập điều lành, nên ngăn dứt được “Hoặc” nặng, quả báo trời, người, không có khổ lớn mà vì điên đảo, nên cho là vui. Cũng như xiển-đề thấy thú vui năm dục trong sinh tử, cho là chân thật.”

“Làm ác chẳng thọ ngay

Như sữa thành bơ liền

Như tro lấp trên lửa

Người ngu xem thường đạp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Phương tiện làm ác điều ác của xiển-đề không thọ báo ngay. Vì xiển-đề là sinh báo, chứ chẳng phải hiện báo. Như sữa thành bơ ngay, nghĩa là sữa có hiện quả, nói không như ví dụ này.”

Người ngu xem thường đạp, là người ngu chỉ thấy hiện tại, không thấy vị lai, vì chẳng phải hiện báo, nên xem thường mà gây ra. Vì sắp đưa ra hành vi của xiển-đề, nên Phật nói bài kệ trước.”

Pháp sư Tăng Tông nói: Lại “Giải thích kẻ làm điều ác cho nên gây ra tội lỗi, vì họ không thấy có đời sau cho nên như thế. Nếu làm cho niệm trước gây ra điều ác, niệm sau cảm thọ quả báo ngay thì họ sẽ không dám làm điều ác. Không thấy có đời sau, như không thấy lửa bị tro phủ, người ngu liền đạp lên, bất giác bị phỏng chân.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Không có mắt là chỉ thấy việc hiện tại, mà không thấy việc mai sau, không thấy đạo La-hán, là La-han có khả năng dứt bỏ đời sống ở vị lai, mà người xiển-đề này không thấy.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ví như sứ giả vua giả dạng là La-hán trông giống như xiển-đề, một bề bác bỏ, kinh điển Đại thừa trước kinh Pháp Hoa . Người phàm phu nhìn thấy người ấy đều cho là A-la-hán thật. Chỉ có Bồ-tát thật mới phân biệt được La-hán thật, giả: Xiển-đề giả dạng La-hán này tin chắc Đại thừa hoàn toàn bác bỏ kinh Pháp Hoa, cho là: Chẳng phải thật, mà là phương tiện dĩ nhiên, lời nói này là của xiển-đề. Sứ giả vua, dụ cho Bồ-tát giỏi biện luận, là nói về bốn biện tài của Bồ-tát. Vâng lệnh vua đến nước khác, là Bồ-tát bỏ địa pháp thân, ứng với sinh tử. Thà hy sinh thân mạng, quyết không giấu lệnh vua truyền, dù có thể bị ngoại đạo bưng bít, nhưng quyết định không bao giờ nói Phật là vô thường. Ví như hoa sen dụ cho người tu hành.

Đã hợp với niềm tin gây ra tội. Nếu là người thấy mặt trời Niếtbàn, thì lòng tin của họ sẽ càng thêm sáng suốt!

“Lại nữa, này người thiện nam! Ví như hoa Ưu-bát-la” cho đến “Vì sao chẳng phải pháp khí?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Thế nào là ở đời vẩn đục mà không nhiểm ô, như hoa sen?” Với hai người làm thí dụ, dù có tội nặng, nhưng nếu không gây trở ngại cho phát tâm thì sẽ không bị tội, thực hành pháp nhiễm ô.”

Pháp sư Tăng Dao nói: “Nói về Bồ-tát có khả năng không sợ sệt đối với chúng, thì là phải quên thân mạng, để giảng nói rộng khắp về thường trụ, mà ở đời ác, tà kiến chê bai thuyết Đại thừa kia, rồi chấp rằng sự hiểu biết không từ đâu, không sửa đổi điểm yếu kém của mình. Đây là ở trong đời vẩn đục mà không nhiễm ô như hoa sen.

Nói về người có khả năng không theo tà ngoại là đều do chính mình, bên trong có công năng chế phục các thứ phiền não buộc ràng, không bị phiền não làm ô nhiễm tâm mình, nên ở trong phiền não mà phiền não không thể nhiễm.

Bốn thứ hoa sen mọc ở trong bùn mà vẫn không hề bị bùn làm nhiễm ô, là đáp: ở trong đời không ô nhiễm. Kế là, câu dưới nói: “Dù có phiền não, nhưng không bao giờ bị nhiễm ô bởi phiền não, vì nhận biết được năng lực tánh tướng của Như lai, còn ví dụ thầy thuốc, là đáp: Phiền não không làm ô nhiễm.”

 

 

Phần 2

  • Nêu rộng mười hai thí dụ về thầy thuốc để nói về năng lực của kinh.
  • Giải thích ví dụ thuyền trưởng.
  • Giải thích ví dụ rắn lột da. Giải thích Tiên Đà một tên mà bốn nghĩa.
  • Nói về: Sửa đổi nghĩa chỉ của văn kinh.
  • Giải thích ví dụ bán sữa pha thêm nước.

“Lại nữa, này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Chỉ trừ hạng Nhất-xiển-đề chắc chắn là chết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Thế nào là ở trong phiền não, mà phiền não không thể nhiễm? Như thầy thuốc chữa lành các chứng bệnh, mà không bị bệnh làm nhiễm. Từ đây trở xuống lấy kinh làm thí dụ.

Tám phương pháp trị bệnh:

  1. Điều trị thân.
  2. Điều trị mắt.
  3. Điều trị mọt nhọt.
  4. Trị bệnh trẻ em.
  5. Trị tà.
  6. Chữa độc.
  7. Trị thai.
  8. Đoán xem tinh tú, biết rõ thuộc về chứng bệnh nào trị được không trị được .

Một phương thuốc có hai ngàn bài kệ. Bệnh A-tát-xà không thể chữa trị, nghĩa là dụ cho hai tội nặng. Chứng bệnh bất trị đối với Khế kinh xưa, nói Niết-bàn có khả năng trị được bệnh khó trị, chỉ không thể

chữa được người bệnh chắc chắn chết. Vì không thể chữa trị, chứ chẳng phải khó trị.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Khế kinh khác ví như người thầy thuốc giỏi. Kinh có tám thứ thuốc là: Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã, Bất tịnh, Từ tâm, Nhân duyên và quán Phật. Chữa trị tám thứ bệnh: Bốn đảo, ba độc và đẳng phần.

Sau đây có mười thí dụ, đều nói về kinh có năng lực cao quý, có khả năng cứu vớt tội nặng. Tám thứ thuốc là tám chánh đạo. Vượt qua tám thứ thuốc, nghĩa là lý của kinh này là viên, vì uy lực của công đức vượt hơn nên nói là “Quá”.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là Đức Phật đáp câu hỏi thứ mười bảy. Đây là ví dụ thứ nhất: Kinh giáo trước Pháp Hoa xưa, đến sau này gồm là mười hai ví dụ (xem văn tự trình bày).

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc” cho đến

“Tất cả các thứ thuốc hoặc thuốc viên, hoặc thuốc tán bột.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Tám thứ thuốc dụ cho diệt trừ chứng bệnh tám đảo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Mửa ra: là nói về tướng tội báo. Thoa thân là chỉ quán của thân ý. Thuốc nhỏ mũi là pháp quán hơi thở, thuốc xông hơ cho thân là huân tu thiền. Thuốc để tắm gội là quán Bất tịnh, thuốc viên tròn là quán chung. Thuốc tán là phương pháp quán riêng.

“Mà người ngu nghèo không muốn uống.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Tội nặng đã nặng, làm che lấp phát tâm, nên không chịu uống.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trước nói về người Nhị thừa đã dứt tám “Đảo”, sinh tám “Giải”. Nay ở đây nói về phàm phu và kẻ phạm tội nặng không tin.”

“Vị thầy thuốc thương xót, vội đưa người này về nhà mình” cho đến “Ép uống thuốc, bệnh được qua khỏi”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Địa ngục là chỗ trở về của người tội kia, ví dụ nhà cửa, sợ khổ, nên phát tâm, ví dụ ép uống thuốc, nên che lấp không che lấp, ví dụ bệnh được qua khỏi.

Nói về người không tin, vì họ không màng đến vô thường, nên không sợ đối mặt với tội, do đó là mà sinh sự chê bai. Khi sắp chết, tội chê bai hiện rõ trước mặt, mới hoảng sợ mà sửa đổi, ăn năn. Bấy giờ, họ mới thôi chê bai, sinh khởi niềm tin. Đối lập với tội vô thường là ngôi nhà tư duy điều lành, làm nhà ở. Sống phải trở về, chết là trở lại. Khi bị tướng khổ ép ngặt rồi, mới bắt đầu tin, là ép cho uống thuốc.”

“Sản phụ sinh đẻ, lá nhau không ra” cho đến “Đều làm cho phát tâm, trừ hạng Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phạm tội nặng có gốc lành nhỏ nhoi, có thể phát tâm, dụ cho phụ nữ. Lúc chưa phát tâm, tội bị ràng buộc bên trong, dụ cho lá nhau của thai nhi. Quả báo địa ngục chưa dứt, dụ cho lá nhau không ra.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Nói về niềm tin nay, đều do việc lành xưa. Việc lành xưa là mẹ, niềm tin nay là con. “Giải” không biểu lộ hiện liền, cũng như lá nhau của thai nhi. Phiền não chưa dứt là không ra. Người nghe được kinh này thì chẳng có hoặc nào không dứt trừ, cũng như lá nhau của thai nhi ra ngay.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến

“Làm sao là nhân Bồ-đề được?”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kinh xưa nói người có hai tội nặng này nghe kinh, không sinh đạo quả, làm sao ngày nay lại làm nhân được, lại bày tỏ chỉ thú hướng đến Bồ-đề.”

“Phật nói: Này người thiện nam! Các chúng sinh này” cho đến “Do nhân duyên này, nên mạng mình được an toàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phạm hai tội nặng, nghe kinh được tỏ ngộ, nhân quả càng sáng tỏ, khen ngợi ân của kinh này.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Biết “Giải” của nay là nhờ chút việc lành nhỏ nhoi xưa, dụ cho ở trong thai. Do năng lực của kinh, nên sinh niềm tin, trừ bệnh không tin, cho mẹ thuốc, để mẹ được an lành, không gầy gò, cho nên con hiểu được sống, dụ cho mạng mình được an toàn.”

“Cảm thương mẹ mình chịu khổ não lớn” cho đến “Làm nhân Bồđề, trừ hạng Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bị tội ràng buộc, dụ cho lúc chịu khổ. Tội đã chồng chất lâu, dụ cho thời gian nằm trong thai mười tháng. Gốc lành không dứt mất, dụ cho mang thai. Nay được phát tâm, dụ cho sau khi sinh. Tu hành vô lậu, dụ cho tìm chỗ khô ráo. Dứt trừ “Kiết hoặc”, dụ cho bỏ chỗ ướt. Chế năm điều xấu, ác của thân, miệng, dụ cho hốt rửa phân, tiểu tiện. Thọ trì thường, lạc, dụ cho bú mớm.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Hành giả là mẹ, phương đẳng là thuốc, “Giải” thường dụ cho con. Làm cho con người thọ trì, dụ cho mẹ uống thuốc. Do năng lực kinh, cho nên có tuệ, dụ cho mạng an toàn. Tu hành mười địa, dụ cho mười tháng. Vì dứt ái, mạn dụ cho tìm chỗ khô, bỏ chỗ ướt. Ngày đắc quả, đáp lại thời kỳ xưa, dụ cho đền đáp công ơn.”

Lực, là ba mươi hai tướng, cho đến mười Lực. Bốn bộ đệ tử, như thị vệ.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc” cho đến “Chỉ trừ rồng lớn và hạng Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy thuốc, dụ cho Đức Phật. Con dụ cho Bồ-tát. Chú thuật (phương thuốc trừ độc) dụ cho Phật tánh thường. Hoặc rồng, hoặc rít dụ cho hai tội nặng. Thuốc dụ cho Danh, vị, cú, thân. Giày, dép dụ cho viết trên giấy mực. Các trùng độc chạm đến dụ cho đọc tụng. Tiêu tan chất độc dụ cho phát tâm.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Thầy thuốc dụ cho văn kinh. Con dụ cho hai chữ thường trụ. Muốn nói chỉ nghe hai chữ, là đã quyết định việc ác rồi, huống chi là nghe đủ kinh ư? Vì dứt bốn tội nặng, năm tội nghịch, nên dụ cho thoa thuốc vào giày dép, va chạm các trùng độc, chất độc sẽ tiêu tan ngay.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người” cho đến “Trừ hạng Nhất-xiển-đề không chết ngang trái.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thuốc độc dụ cho Phật tánh. Vì mới nghe, là ví dụ mới. Đại chúng dụ cho hạnh hữu vi, tiếng dụ cho đọc tụng. Chết dụ cho phiền não dứt.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Lý thường như thuốc. Văn tự như cái trống. Vì dùng thuốc độc nên khi vừa nghe tiếng trống thì chết. Vì lý ấy sâu, nên người nghe tội sẽ được tiêu diệt.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như đêm tối” cho đến “Đối với các pháp lành, mọi việc làm đều dừng nghỉ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Các thuyết mà kinh khác nói, về lý thì khác nhau, nên dụ cho bóng tối. Mặt trời dụ cho kinh này. Lại nêu mưa nghĩa là nghe kinh này như trời mưa làm tươi nhuần muôn vật sinh sôi nảy nở.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Như tám mươi vị Thanh văn trong Pháp Hoa, là lầm, vì kinh ấy nói là tám ngàn vị Thanh văn.”

Lại nữa,“Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Ngoài ra đều là bậc Đại Bồ-tát.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thầy thuốc ví như kinh này, phi nhân ví như người phạm tội nặng. Thuốc tốt dụ cho hai chữ Thường trụ. Sứ giả dụ cho người thọ trì hai chữ này. Nhanh chóng với người kia, dụ cho vì nói hai chữ này. Tự đi qua, dụ cho đầy đủ được nghe.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Trong bốn bộ, người chưa nghe thường trụ và đồ chúng phi pháp của ngoại đạo phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch, làm con của người khác.”

Kinh là thầy thuốc, lý là thuốc hay. Văn ở chỗ truyền lý, làm sứ sai đưa thuốc. Về lý, quý trọng ở chỗ truyền bá, chủ yếu là do văn tự. Được sắc chỉ của vua sai: “Khanh hãy trao thuốc này cho người kia”. Nghe được lý kinh này thì các ma, bạn ác không thể làm hại. Cũng như người nhờ có năng lực của thuốc, quỷ thần sẽ bỏ đi xa.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Người phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch. Hễ nghe kinh liền được thấy sứ giả, tư duy về lý, là oai đức của ta. Do hai việc này, tội kia sẽ được tiêu diệt.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ví dụ thứ tám, nói về năng lực của kinh. Người kia dụ cho ngoại đạo, thầy thuốc dụ cho Đức Phật. Sứ giả dụ cho Bồ-tát, thuốc dụ cho kinh này. Vì giải thích cho người kia hiểu như đưa thuốc cho.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người điếc” cho đến “Vì sao? Vì không có nhân duyên.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thứ chín, chỉ lấy xiển-đề làm thí dụ. Nghe kinh, không thể sinh niềm tin, như người điếc không nghe.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Không thể chữa trị hạng Nhất-xiển-đề.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Người phạm giới trọng, không cắt đứt gốc lành, mới là xiển-đề, vì sự nhỏ nhoi là vượt hơn, nên dụ cho vua, phải vào địa ngục, dụ cho bệnh chắc chắn chết. Quả báo ở vị lai không biểu hiện ở nay, dụ cho ở trong bụng. Luật có công năng trị tội, dụ cho thuốc đã được uống vào bụng. Khuyên bảo hãy xem luật, mà không chịu tin, dụ cho không bằng lòng uống thuốc. Do năng lực kinh, phát ra chiêm bao, khiến cho chịu khổ địa ngục. Ngục là đường dưới, dụ cho hậu môn phồng lên. Cũng chịu quả báo súc sinh, dụ cho vi trùng máu lẫn lộn chảy ra.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Khanh không thấy việc trong tâm ta”, là không tin dứt mất gốc lành, là chịu báo địa ngục.

Nên uống thuốc, là xiển-đề đầu tiên vào địa ngục, bèn có ba ý nghĩ vì tự biết. Kinh nói lý cao siêu, như thầy thuốc tâu với vua. Khả năng chữa bệnh của thầy thuốc, là dụ cho lý thường. Chỗ ẩn dụ cho địa ngục.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thí dụ thứ mười, Chư Phật khéo nói năm thời kinh giáo.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “hạng Nhất-xiển-đề chắc chắn chết.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Thế lực của lời nói này, bắt kịp

chủ trương phi nghĩa, cho rằng, tội của xiển-đề kia đã nặng, pháp không thể cứu chữa!”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Tám thí dụ trên đây gồm, đều để so sánh với kinh, là hai dụ cho Phật, Bồ-tát này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là dụ cho thứ mười một, do lấy trừ tám đảo làm thí dụ.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thầy thuốc” cho đến “Tôn quý nhất, hơn tất cả, đứng đầu trong các kinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Giáo pháp của Như lai trước cạn, sau sâu, chỉ có Niết-bàn là rốt ráo, chẳng có “Hoặc” nào không dứt trừ.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Thí dụ thứ mười hai và các kinh trước Pháp Hoa, trừ ba độc và đẳng phần và bốn đảo, nên nói là tám phương pháp. Lại, có thể rõ thấu, sâu rộng vượt qua tám thứ, là dụ cho kinh giáo Niết-bàn có mười hai phương pháp. Sở dĩ hai dụ cho này y cứ con người làm thí dụ là vì dứt trừ nghi ngờ của chúng sinh.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như thuyến lớn” cho đến “Hóa độ chúng sinh cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi của vị thuyền sư (Thuyền trưởng). Trong biển khổ sinh tử, con người đều mong cầu được cứu độ mà kinh có công năng khuyên người tu học. Đức Phật độ thoát sinh tử. Lại không có đạo nào khác, nương Đại Niết-bàn, để cứu khổ con người.

Dưới đây là dụ hai ngọn gió: Ngọn gió đầu dụ cho tốc độ, ngọn gió sau dụ cho tự mừng vui, đều khuyên cái đẹp.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Từ bốn câu hỏi trước, đã nói về lợi ích trong nhân. Ở đây nói lợi ích trong quả, có ba ý: Đây là ý thứ nhất, trước nói Chư Phật được dộ xong, lại cứu độ chúng sinh.”

Pháp sư Trí Tú nói: “Đáp câu hỏi thứ mười tám, ba câu hỏi này đều nói về năng lực của kinh, có công năng làm duyên cho vật ngoài. Thuyền có hai thứ:

  1. Vì chúng sinh làm cảnh giới, chính là vì dùng tín, giáo, nên tức có công năng sinh điều lành.
  2. Nói Đức Phật trụ trong quả địa, trở lại cứu độ sinh tử.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người” cho đến “Đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Ý thứ hai: Là Độ thoát sinh tử, sở dĩ được nhanh chóng là nhờ năng lực của kinh.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng sinh dù có năm giới, mười điều lành, nhưng nếu muốn vượt qua biển cả, mà bám trụ vào điều lành này, thì sẽ không thoát khỏi sinh tử, nghe kinh này thì được thoát khỏi.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Các công hạnh là thuyền. Niết-bàn là gió. Tu hành muôn hạnh, phải hiểu trọn vẹn giáo thường.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như người sinh lòng tin thanh tịnh đối với kinh Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: “Đây là ý thứ ba, tự vui mừng.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Chúng sinh bị khổ ép ngặt, lúc nghĩ đến điều lành, trái với việc ác, cảm kinh tu hành, ngày càng tinh tấn, không lui sụt.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Khích lệ chúng sinh, sinh tử trôi lăn cho nên không dứt chính là vì không gặp được gió Niết-bàn, chẳng lẽ không phát tâm tăng thượng sâu sắc ư?”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như rắn lột da” cho đến “Cũng gọi là thường trụ, không có thay đổi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói kinh Niết-bàn có công năng cứu độ sinh tử, chứ chẳng phải Khế kinh khác, nên lấy ý này để giải thích. Chân thân của Phật là thật. Niết-bàn nói thật, thấy thật, tức là sinh tử dứt hết. Ứng thân chẳng phải thật, nên sinh tử không dứt.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Rắn lột da, nghĩa là chỉ nói về dấu vết song thọ mà thôi. Dù Đức Thế tôn đã thị hiện bỏ sinh tử, nhưng dấu vết không có sinh diệt, vì pháp thân thường, nhất.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là Đức Phật đáp câu hỏi thứ mười chín. Trước kia nói: “Lái thuyền Niết-bàn để cứu vớt chúng sinh, thật ra không có sinh diệt. Đừng lấy việc Đức Phật giáng sinh ở cung vua và nhập Niết-bàn ở Song thọ làm mối hoài nghi, nên dùng dụ cho quét sạch sự ngưng trệ này.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như cây am-la” cho đến “Như lai thường trụ, không có thay đổi.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Thế nào là quan Tam bảo giống như cây Thiên ý?” Trước là khuyên tu kinh này, nói phương pháp tu kinh có hai ý: Trước, giải thích về thân mật của Như lai, cũng như cây Thiên ý. Kế là, giải thích về khẩu mật, ý mật, như Tiên-đà-bà.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Thiên thọ, tùy ý mà cảm biến, còn cây của người thì dời đổi theo thời gian. Dù khác nhau về sự dời đổi, nhưng cây thật sự vẫn còn mãi. Nêu cây ở cõi người, thì có thể biết cây ở cõi trời. Vì thế, nên gần thì lấy cây thiên ý này, còn xa thì sánh với Tam bảo. Thí dụ này và vị thiền sư (thuyền trưởng), rắn lột da, nhằm nói chung về Đức Phật đã thị hiện từ đầu đến cuối của một thân.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đáp câu hỏi thứ hai mươi, trước nêu thí dụ rắn lột da, một mặt chỉ nói chẳng phải thật diệt. Nay, mượn thí dụ cây. Có sự biến chuyển của ba thời kỳ, nói rộng từ mới sinh cho đến Niết-bàn, dấu vết của một ứng thân. Dưới đây sẽ có năm lớp nói về nghĩa:

  1. Nêu thí dụ cây, dù có trạng thái đổi thay của ba mùa, nhưng thật ra thì không diệt mất.
  2. Nói về khẩu mật, có thể dùng lời nói chẳng phải thường để giải thích sâu xa về chỉ thú “thường”.
  3. Nhân nói về trạng thái hưng thịnh, suy vi của Tam bảo, vì người không thực hành, nên nói nghĩa diệt.
  4. Khuyên lập chí của bậc trượng phu, về mặt lý, đã do con người mở mang kinh cho nên ức chế được lời lẽ kia.
  5. Lại nêu ra nơi chốn, thời gian suy vi, hoại diệt của Tam bảo trong giai đoạn mạt pháp này.

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Trong sự mở rộng lời Phật đáp này có ba ý:

  1. Nói về sự thịnh, suy của Tam bảo.
  2. Nói về tướng mạo của chánh pháp suy diệt!
  3. Giáo hạnh; Người thực hành giáo pháp.

Từ đây trở xuống nói về Phật bảo hiện đang diệt!

“Này người thiện nam! Mật ngữ của Như lai rất sâu, khó hiểu” cho đến “Các phàm phu trong đời này có thể tin được “.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là, giải thích rõ về khẩu mật: Như vị quan có trí kia hiểu rành về lời nói kín đáo của vua, cho nên tìm cách tu bổ kinh, dùng thí dụ Tiên-đà-bà.

Bốn thứ chẳng phải thường: Một là danh tiêu biểu cho bốn thứ thật. Tu, chính là pháp thường, nghĩa là biết có nhân thường để được quả thường”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Thứ hai là nói về khẩu mật. Trên kia dùng một tên gọi tiêu biểu cho bốn thứ thật, ở đây, dùng giáo nghiêng lệch cũng biểu thị bốn thật lý của “Ngã” thường. Người có trí nhờ chẳng phải thường mà tỏ ngộ thường, lạc. Sự đồng với ứng thân, dù có ba thời kỳ mà vẫn nhận thức pháp thân là thường còn”.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như cây Ba-la-xa” cho đến “Cho

nên chúng sinh này phước đức kém mỏng”.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Lại dùng ba thứ cây để dụ cho thời kỳ suy, diệt của kinh Niết-bàn. Vì không hiểu mật ngữ, nên cơn mưa “Thường” không rơi xuống nên không được quả thường. Muôn vật ở dưới nước, trên đất liền đều khô héo, dụ cho không có điều lành của trời, người. Tất cả các phương thuốc đều không còn công hiệu dụ cho cho Khế kinh khác”.

Pháp sư Tăng Tông nói: “Đây là ý thứ ba, nói về sự suy vi, tận diệt của Tam bảo, là nói thời mạt pháp này không thể truyền bá”.

Lại nữa, “Này người thiện nam! Lúc chánh pháp của Như lai” cho đến “Thuận theo không trái, giảng nói cho chúng sinh nghe.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trên nói sau khi Đức Phật nhập diệt. Đây là nói về thời kỳ pháp sắp diệt tận, không hiểu mật ngữ. Người thọ học kinh. Sao chép qua loa trước sau, chia thành nhiều bộ, chỉ có Bồ-tát, người duy nhất am hiểu được mật ngữ của Phật, mới không trái với chỉ thú của kinh!”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như thiếu nữ chăn bò” cho đến

“Lại pha thêm hai phần nước, rồi đem ra chợ bán.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dụ cho người thực hành kinh Niếtbàn này rất, biếng nhác, tìm cầu việc lợi dưỡng!”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Pha thêm hai phần nước, vẫn chưa thôi, thậm chí còn pha thêm tám phần nước vào thùng sữa, không còn hương vị sữa! Các Tỳ-kheo tội ác vì lợi dưỡng, nên đặt để lời lẽ bông khơi, làm cho vị lý khó hiểu.”

“Bấy giờ, có một người vì cưới vợ cho con” cho đến “Vì vị sữa là hơn hết trong các vị.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Một người dụ cho mật ngữ của Bồ-tát, sắp sai bảo đệ tử vì hóa độ chúng sinh, nối dõi dòng họ không dứt, dụ cho cưới vợ cho con. Giáo hóa thì cần có pháp, dụ cho cần mua sữa. Cầu pháp vì chúng sinh, dụ cho tiếp đãi khách. Nơi có pháp dụ cho chợ. Được của cải mới nói, dụ cho trả giá. Đọc tụng thọ trì, dụ cho dùng sữa nấu thành cháo.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Lại sữa đổi lời văn, trở nên tầm thường vô nghĩa. Giáo khác, không thể thí dụ.”

“Này người thiện nam! Sau khi ta nhập Niết-bàn, là lúc chánh pháp chưa diệt” cho đến “Có thể làm mất đi hương vị tốt đẹp của chánh pháp.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp dụ cho pha thêm nước vào sữa lần thứ nhất.”

Những người ác này dù có đọc tụng” cho đến “Trau chuốt văn vẻ với những từ ngữ rỗng tuếch vô nghĩa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp dụ cho pha thêm nước vào sữa lần thứ hai.”

“Sao phần trước để ở sau, sao phần sau đặt ở trước” cho đến “Các Tỳ-kheo tội ác này là bè đạy của ma.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với ví dụ pha thêm nước vào sữa lần thứ ba.”

“Họ nhận chứa tất cả các vật bất tịnh” cho đến “Như thiếu nữ chăn bò pha nhiều nước vào sữa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp dụ cho thêm nước vào sữa lần thứ tư.”

Pháp sư Đàm Tiên nói: “Lấy trên, sao phần trước để ở sau, là một lần thêm. Sao phần sau để ở trước, là hai lần thêm. Sao phần trước đem để ở giữa và sau, là ba lần thêm. Sao phần giữa và sau để ở trước là bốn lần thêm.

“Các Tỳ-kheo tội ác cũng giống như thế” cho đến “Vì nghĩa này, nên nói là Đại Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Trí Tú nói: “Nêu chung ví dụ hợp lược ở trên.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như loài người ai cũng mong được làm người nam” cho đến “Như con ong hút mật hoa, ông cũng như thế.”

Nhận xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn bốn, khuyên lập chí trượng phu.”

Lại nữa,“Này người thiện nam! Như nước tiểu của con muỗi không thể làm cho mặt đất thấm ướt” cho đến “Chánh pháp vô thượng sắp diệt, không còn bao lâu.”

Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: “Đoạn năm, lại nêu ra nơi chốn, thời gian Tam bảo suy vị hoại diệt trong thời đại Mạt pháp này!”

 

Phần 3

  • Giải thích: Bài kệ vốn có nay không.
  • Giải thích nghĩa nếu thế gian không có Phật, thì chẳng phải không có người Nhị thừa được hai thứ Niết-bàn.
  • Giải thích ý nghĩa Chiên-đà-la được Phật thọ ký.
  • Xuất xứ Đức Phật tự nhận cúng dường của Thuần-đà để hóa độ, Đức Phật nhận sự cúng dường của đại chúng.
  • Đức Phật nói mười ba bài kệ, cho rằng giả sử con quạ và cú tai mèo đồng ở trên một cành cây.

“Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng:” Cho đến “Lại giải thích phân biệt cho ông nghe, để ông được dứt hết nghi ngờ.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Nếu ba thừa không có tánh thì làm sao nói được?” Ở trên lại nói thể của kinh nhân quả đã đồng, thường cố gắng tu hành, nhưng vẫn chưa nói về phương pháp tu. Sắp nói về năm hạnh là căn bản của tu, lại dùng mười câu hỏi để giải thích về sự nghi ngờ của Thuần-đà và Khuyên Tin. Vì sao? Vì nhân quả của kinh, về mặt lý rất mầu nhiệm, sâu xa, mà Thuần-đà đã biết trước, còn chúng đương thời thì vẫn còn nghi ngờ. Bồ-tát Văn-thù biết đại chúng vẫn còn hoài nghi, mà không thể giải quyết, nên dùng việc để hỏi Phật. Nghi rằng: “Từ duyên được pháp, đều là vô tánh. Thành quả của ba thừa đều từ duyên mà được. Nếu Phật là thường thì người Nhị thừa cũng thường. Nhị thừa vô thường, Phật cũng vô thường, nên nói rằng không có khác nhau. Ngược lại, nếu người Nhị thừa là thường, thì vì sao lạc thật sự chưa sinh, mà gọi là thọ lạc ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Từ đây cho đến đạo vô thượng hơn hết, đều là khen ngợi rộng. Vì sự lợi ích của kinh, không ngoài nhân quả. Trong bảy câu hỏi trước, bốn câu hỏi nói về lợi ích của nhân, ba câu hỏi

nói về lợi ích của quả. Một vòng nói về nghĩa, nhân quả có hai lợi ích, hoàn toàn ở văn trước. Dưới đây Bồ-tát Văn-thù lập lại hoài nghi của Thuần-đà để khen ngợi rộng, bởi con người được hiểu là do kinh này.”

Pháp sư Bảo Lượng nói: “Điều mà Thuần-đà nghi ngờ với câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, nói về ý thì đồng mà lời lẽ thì khác nhau.”

“Phật bảo: “Này người thiện nam! Tâm nghi ngờ thế nào?” cho đến “Thanh văn, Duyên giác đều có khác nhau.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ở trên nói Tam bảo có lúc thịnh, lúc suy, dường như chẳng thường trụ, đến nỗi sinh nghi ngờ. Chính vì lẽ đó, nên Thuần-đà đã bày tỏ đồng có hoài nghi. Bồ-tát Văn-thù thuật bày để kích phát bậc đại Thánh, sẽ làm sáng tỏ Phật tánh của Ba thừa, đồng trở về một mối. Cho nên Tam bảo sẽ được hưng thạnh mà không diệt. Nếu không như vậy, thì ba thừa không có tánh làm sao đồng với vắng lặng ư?”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Nghi rằng: “Vốn không có mà nay có là pháp vô thường. Như lai là vốn không mà nay có, y cứ vào sự mà tìm cầu, lẽ ra là vô thường, vì khai sáng tông chỉ nói là thường? Vì vậy cho nên sinh nghi.

Lại, Bồ-tát Ca-diếp ở trên đã nói về ba thừa vô tánh, tức là lẽ ra không có. Nếu ba thừa kia có tánh thì lẽ ra phải thấy tác dụng. Lời nói của hai Đại sĩ dù có khác nhau, nhưng chỉ thú vẫn đồng. Dưới đây Đức Phật sẽ dẫn kệ để đáp hai nhà:

“Bấy giờ, Đức Thế tôn bèn nói kệ rằng:” cho đến “Vừa có khác nhau, vừa không khác nhau.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vốn có mà nay không: là vốn có phiền não mà không có Niết-bàn. Vốn không mà nay có, là vốn không có Bát-nhã mà có phiền não. Nếu cho rằng Phật ba đời đều có phiền não thì không có việc đó. Cho nên duyên thì đồng mà lý do thì khác. Vì có phiền não nên vô thường, vì không có phiền não nên là thường.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Đem lại lợi ích yên vui cho tất cả chúng sinh.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Bồ-tát Ca-diếp làm người đứng đầu thưa hỏi pháp, do nghĩa trên còn bí ẩn, nên phải hỏi thật sáng suốt để nhận hiểu một cách rộng hơn.”

“Phật nói: “Này người thiện nam! Hãy lắng nghe cho kỹ!” cho đến “Do nhân duyên nghiệp báo, nên làm cho sữa đồng một màu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Trưởng giả dụ cho Đức Phật trước, bò dụ cho người tu hành. Màu sữa khác dụ cho ba thừa. Một người dụ cho Đức Phật nay. Ba thừa đã thành Phật, báo đáp công ân của Phật trước, như việc cúng kiến. Được một thùng đựng Đại Niết-bàn. Màu trắng, dụ cho ngã, lạc, tịnh. Người ấy suy gẫm kỹ, đầy kinh ngạc. Vì sao mỗi con trong đàn bò đều khác màu mà sữa của chúng đều đồng một màu? Sẽ giải thích lý do, giả làm lời kinh ngạc, vì nhân khác mà quả một. Người này suy gẫm kỹ, nghĩa là nhân quả của tám muôn hạnh không khác nhau.”

“Này người thiện nam! Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát cũng như vậy” cho đến “Vì sao? Vì đồng dứt sạch hết phiền não.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với trước, mà màu sữa là một.”

“Mà các chúng sinh lại nói Chư Phật, Bồ-tát” cho đến “Tự hiểu rằng, màu sữa đồng một là do nhân duyên nghiệp báo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hợp với trước, ngạc nhiên nhưng về sau thì tỏ ngộ.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Ví như quặng vàng” cho đến “Vì đã biết dứt vô lượng ức phiền não.”

Xét: Pháp sư Pháp Dao nói: “Ví dụ trước nói nhân duyên Phật tánh đều đồng nhất. Ví dụ này nói về nhân quả Phật tánh. Nói ba thừa đồng có tánh này. Tu đạo, dứt hết kiết, rèn luyện, hun đúc mới được thành Phật. Lý này chẳng phải vốn có mà nay không, hay vốn không mà nay có.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế tôn!” cho đến “Người nói như vậy có nhiều lỗi lầm.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Sắp hỏi về sự khác nhau, ở trước thưa hỏi không có khác nhau, nghĩa là về nhân cũng “Có”, quả cũng “Có”, nghĩa “Có” không khác nhau, thì có gì khác nhau? Chúng sinh “Có” tánh, giống như mình “Có”, sinh ra lời hỏi này.”

“Nếu các chúng sinh đều có Phật tánh” cho đến “Như lai Niết-bàn mà không nhập Niết-bàn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Nếu trước đã có thì được, lẽ ra là đồng, không nên có khác.”

“Này người thiện nam! Niết-bàn mà Chư Phật, Thế tôn chứng đắc” cho đến “Đại Niết-bàn, gọi là có thiện.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Vì chỉ có Đức Phật mới được, nên chẳng phải có trước. Nếu chẳng phải có trước thì cả hai lời hỏi đều cùng giải thích, gọi là “Có”, nghĩa hữu vi bất thiện. Ba việc vô vi, gọi là “Có” thiện.”

“Nếu thế gian không có Phật, thì chẳng phải không có người Nhị thừa” cho đến “Một Đức Phật xuất hiện ở thế gian, để khai thị ba thừa.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Chỉ Đức Phật có điều thiện. Chẳng phải Phật được, nghĩa là chẳng phải có thiện. Tức có một Đức Phật, nghĩa là có điều thiện khó thành, phải nhiều kiếp mới thành.

Khai thị ba thừa, nghĩa là ba chẳng phải thật có, chẳng phải trước rốt ráo.”

Pháp sư Pháp Dao nói: “Đây là nói người Nhị thừa không được nghĩa Niết-bàn. Nếu là Niết-bàn cùng cực, thì Bồ-tát rất gần. Đời không có Phật, còn không có huống chi người Nhị thừa ư? Mà nói rằng người Nhị thừa được Niết-bàn, đó là không thật.”

Pháp sư Tăng Tông nói: “Căn cơ có Đại, Tiểu, đều có rộng, hẹp. Đời không có chúng sinh có tâm Đại thừa, mà vì nói quả thường, để cho thành Phật, chẳng phải không quyền nói người Nhị thừa được hai diệt vì chí họ nhỏ hẹp, phải nói quyền để dắt dẫn họ, biết được quả “Không có thật” chưa cùng cực thì đâu được trách cứ khiến cho đồng với Niết-bàn của Phật ư?”

Lại giải thích: Nếu thế gian đều không có lý thành Phật thì chẳng phải không có người Nhị thừa được hai Niết-bàn. Về lý đã không như vậy thì nên biết được người Nhị thừa quyền lập ra Tiểu quả, đâu được đồng với Phật ư?”

“Vô lượng kiếp mới có một Đức Phật ra đời”, là giải thích câu trên, nghĩa là viên giải, khó bền chắc, đảo thường dể sinh, vì không có thiện cảm với Phật, nên Phật không thường xuất hiện. Vì căn cơ thiện ít có, nên ở vào thời kỳ có một Đức Phật xuất thế, trái với giáo hóa, mất căn cơ, động thì trải qua kiếp số làm sao nói là đại ư? Đến nỗi giáo pháp chỉ vì hấp dẫn ba thừa, nên biết tiểu quả chỉ là quyền lập bày, chứ chẳng phải “Thật”.

“Này người thiện nam! Như ông đã nói, Bồ-tát, Nhị thừa” cho đến

“Vì cho nên gọi là Đại Bát-niết-bàn.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã đáp chung.”

Lại, dẫn thuyết xưa để đáp riêng lời hỏi ở trước. Thuyết xưa nói ví dụ chữ Y và giải thoát là sắc, mà người Thanh văn thì chẳng phải sắc, đã nói về nghĩa của ba việc có thiện.”

“Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói nay con mới biết, cho đến vừa sao khác, vừa không sai khác.

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Xứng với hai thuyết của Phật mà nhận hiểu.

“Bồ-tát Ca-diếp bạch rằng: “Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là tánh khác nhau?” Cho đến “Các phiền não tạp nhạp cũng giống như vậy.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói Đức Phật khác với Nhị thừa, chưa nói mỗi người đều khác, nên hỏi lại. Thanh văn như sữa, nghĩa là nhân có xa gần: Thanh văn, Bồ-tát, đối với Phật cũng vậy.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch: “Trong thành Câu-thi-na” cho đến “Tôn giả Mục-kiền-liên… đã nhanh chóng thành Phật đạo.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Ở trên đã nói nhân của Thanh văn phàm phu có gần, xa mà vui mừng Chiên-đà-la trong số một ngàn vị Phật, nhưng không nói Thanh văn, đây là nhân gần mà lại xa là sao?”

“Phật nói: Này người thiện nam! Hoặc có Thanh văn” cho đến “Vì phát nguyện nhanh chóng, nên thọ ký cho mau thành Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Hạnh có trong, ngoài. Hạnh nghiêng lệch thì chậm, hạnh phổ biến thì mau chóng, mà hạnh nghiêng lệch của Thanh văn là hạnh ngoài. Vì sao? Vì trước đó có tâm tiểu, nên phải có thời gian để dứt bỏ hạnh nghiêng lệch, còn phàm phu thì không như thế, nên mau chóng hơn.”

“Lại nữa, này người thiện nam! Ví như người buôn bán” cho đến “Người giữ gìn, che chở chánh pháp thì thọ ký cho lâu thành Phật.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Dưới đây là nói phàm phu biết Thanh văn với chí hướng nhỏ, tự khinh thường hạnh của mình. Vì vậy, nếu Đức Phật thọ ký cho mau chóng, thì phải xem xét sâu xa. Dưới đây, trong phần hợp dụ, sẽ nói về việc đó. Người buôn bán dụ cho Phật. Viên chân ngọc dụ cho công hạnh được ghi nhận. Nhà buôn dụ cho lời thọ ký. Châu pha lê, dụ cho hạnh sinh tử.”

“Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Sẽ được quyến thuộc không bao giờ hư hoại.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Các Bồ-tát làm thế nào để được quyến thuộc không hư hoại?”

Vì Thanh văn ở trên, giữ gìn chánh pháp, trang nghiêm quyến thuộc. Quyến thuộc là quả ngoài của Đức Phật, chính vì quả ngoài, nên Đức Phật khuyên tin.”

Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng” cho đến “Vì nghĩa này nên gọi là nhục nhãn.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: “Đáp câu hỏi: “Vì sao mù bẩm sinh mà làm người dẫn đường cho kẻ có mắt? Kế là, vì quả bên trong nên khuyên tin. Nếu không nhận thức được quả thường thì sẽ không biết thân là nhân thường. Đối với nhân không thấy thì gọi là mù bẩm sinh, không biết chi tiết tay chân của thân mình, gọi là người không có mắt. Thường là người chưa thể thấy, là che lấp việc bên ngoài, gọi là người không có mắt.

“Này người thiện nam! Như lai thường vì” cho đến “Do nghĩa này, nên gọi là cha mẹ.”

Pháp sư Tăng Lượng nói: “Kế là đáp câu hỏi: “Thị hiện nhiều đầu là thế nào? Cúi mong Đại tiên giảng nói?” Do nói để khuyên tin, nghĩa là người giảng nói chính là Phật. Phật có Đại từ, là lời nói của cha mẹ chúng sinh nên chẳng thể không tin. “Vì sao trở xuống”. Là Phật nói bằng một âm thanh, chúng sanh, đều được nhận hiểu, chứng tỏ lòng từ.”

Lại nữa, “Này người thiện nam! Như người sinh con trai” cho đến “Mà vì chúng sinh giảng nói pháp mầu.”

Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Kế là đáp câu hỏi: “Thế nào là người nói pháp thêm lớn như trăng mới mọc”? “Đầu tiên nói pháp vô thường, về sau nói pháp Thường, giống như xem thường người, không có lòng từ với chúng sinh, chẳng phải nghĩa cha mẹ là nói không đúng, nên dùng việc cha mẹ dạy dỗ con trẻ để làm ví dụ.”