SỐ 261
KINH ĐẠI THỪA LÝ THÚ LỤC BA-LA-MẬT-ĐA
Dịch Phạn ra Hán: Tam tạng Bát-nhã, người nước Kế Tân.
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 9-10

Phẩm 10: BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn đang ngồi nơi tòa Sư tử được trang nghiêm bằng nhiều loại ma-ni quý báu, hiện đủ loại tướng và chung quanh Ngài toàn là chúng Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát Từ Thị rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, quỳ gối chắp tay cung kính thưa:

–Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Thế Tôn đã làm lợi ích an lạc cho các Bồ-tát nên nói Thiền định ba-la-mật-đa. Bây giờ con cúi xin Ngài vì các Bồ-tát mà nói Bát-nhã ba-la-mật-đa. Bát-nhã ba-la-mậtđa này có bao nhiêu loại? Tu như thế nào để đạt được? Cúi xin Ngài hãy phân biệt giải nói.

Đức Thế Tôn dạy:

–Này thiện nam! Ông hãy nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói. Bồ-tát tu hành Bố thí ba-la-mật-đa cho đến Thiền định ba-la-mật-đa đều từ nơi Trí tuệ ba-la-mật-đa. Vì nó là căn bản, là mẹ sinh ra các Ba-la-mật. Ví như năm Căn: mắt… nắm lấy năm trần, phát sinh ra thức, tất cả đều có chỗ dụng của nó. Như vậy, mỗi mỗi đều do tâm thức làm căn bản. Nếu lìa tâm ấy thì không thể làm được gì cả. Đại Bồ-tát tu năm pháp Ba-la-mật-đa trước luôn lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm mẹ, nếu xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thì không đạt được gì cả. Cũng như thân hữu tình có mạng căn mới hoạt động được, nếu mạng căn chết thì không làm gì được nữa. Tu hành các độ cũng vậy, nếu không có trí tuệ thì cũng giống như vậy. Ví như trong đất nước không có vị quan trí tuệ thì thiên hạ đảo lộn, nhân dân không an lạc. Cũng vậy, trong cõi vua của pháp, nếu không có vua trí tuệ thì tu hành Bố thí cho đến Thiền định ba-la-mậtđa đều không thành tựu, không bao giờ đạt được Niết-bàn giải thoát. Cũng như chủ buôn vào biển nhặt châu báu, cốt yếu là tìm được người chèo thuyền mới đến chỗ châu báu mà tùy ý lấy. Bồ-tát cũng vậy, trong biển sinh tử lấy năm pháp Ba-la-mật-đa làm thuyền chở châu báu công đức, chủ yếu là nhờ thuyền trưởng Vô thượng Bátnhã ba-la-mật-đa mới đến được bờ bên kia.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ:

Trí tuệ là cội gốc
Sinh trưởng mầm pháp lành
Quả Phật đại Bồ-đề
Do trí tuệ phát sinh.
Như người gặp khổ nạn
Người trí luôn cứu giúp
Người tu tạo điều ác
Như đá ném biển sâu.
Không có chân trí tuệ
Đa văn vọng phân biệt
Người này không hiểu nghĩa
Như chén sao biết mùi!
Gọi là bậc Trưởng lão
Không phải do tuổi già
Tuy nhỏ, có trí tuệ
Đó chính là Trưởng lão.
Ở đời, người có đức
Chân chánh không tà vạy,
Không phân biệt tà chánh,
Sao biết lý đúng, sai?
Chánh trí nghe pháp mầu
Trí tương ưng với lý
Tùy thuận nơi Đại thừa
Đó là người chánh trí.
Không vướng mắc được, mất
Buồn vui không lay động,
An trú như Tu-di
Đó là người chánh trí.
Được cung kính không mừng
Bị khinh chê không giận,
Trí tuệ như biển lớn
Đó là người chánh trí.
Không nói lỗi người khác
Không khen đức của mình,
Trí chiếu không mình, người
Được mọi người khen ngợi,
Dũng mãnh luôn tinh tấn
Tránh xa tất cả tướng
Diệt trừ tâm ngã mạn
Đó là người chánh trí.
Luôn quán sát chân chánh
Không thấy lỗi người khác,
Tin sâu quả thiện, ác
Đó là người chánh trí.
Người trí ở trong chúng
Không nói công đức mình
Nếu được người khen ngợi
Xấu hổ không nhận lấy.
Thành tựu các công đức
Khiêm tốn không thấy có
Như cây trái chín nhiều
Cành lá tự rũ xuống.
Phước trí sinh giàu sang
Tuy giàu không kiêu mạn
Người ngu tự kiêu căng
Người trí nên quán sát
Trí tuệ là bạn lành
Tránh xa bạn xấu ác
Đoạn diệt các phiền não
Tự nhiên được giải thoát.
Ai gần gũi người ác
Cũng nên phải tránh xa
Tôn kính bậc Hiền thiện
Đó là người chánh trí.
Bồ-tát nhiều trí bi
Bị hại, vẫn thương xót
Như chiên−đàn bị chặt
Mùi hương tỏa thơm ngát.
Không nhớ lỗi người khác
Luôn nghĩ những việc lành,
Trí tuệ không phân biệt
Là đệ nhất loài người.
Người trí luôn tịch tĩnh
Bị chê không phiền muộn,
Các ác không thể đốt
Như hơi ấm biển lớn.
Đại Bi không phân biệt
Gặp ác luôn thương xót
Như mặt trời tỏa sáng
Không bỏ Chiên-trà-xá.
Người trí tuy lỗi nhỏ
Vì lợi ích ở chung
Như vào rừng Chiêm−bặc
Tự nhiên được xông ướp.
Chánh trí không phân biệt
Như mặt trời chiếu khắp
Cũng như trăng trong sáng
Xua tan các mây che.
Người trí nhiều Từ bi
Thường cứu kẻ khổ nghèo.
Thấy người xin không khinh
Nên sinh lòng hoan hỷ
Như cây mới sinh trưởng
Đêm ngày không dừng nghỉ
Người trí thích tu hành
Tăng trưởng cũng như vậy.
Người trí gặp kẻ thù
Giữ Từ bi không bỏ
Như bẻ gãy cọng sen
Tơ sen vẫn không đứt.
Sinh tử như cây độc
Giác ngộ quả Pháp thân
Sinh tử là Niết-bàn
Bản tánh đều bình đẳng.
Tịnh tuệ hạnh Hiền thánh
Đại Bi ích vạn loài
Không chọn thù hay thân
Không bao giờ phân biệt
Tuổi già nhiều trí tuệ
Tịnh giới đều tròn đầy
Gần gũi người như vậy
Hạnh an lạc mau thành.
Người trí tuệ không cấu
Ba nghiệp luôn thanh tịnh
Nên gần gũi người ấy
Tôn kính hơn cha me.
Đừng gần gũi người ngu
Vì hoại tâm người lành
Như lửa đốt cây khô
Phải nên lánh người ấy.
Dung dưỡng người xấu ác
Muốn lợi nhưng bị hại
Như cho thú dữ ăn
Không ai không bị hại.
Cúng dường người trí tuệ
Tuy ít, được phước nhiều
Như người uống cam lồ
Luôn được vui an ổn.

Đức Phật dạy Đại Bồ-tát Từ Thị:

–Bát-nhã ba-la-mật-đa này đều nhờ bạn lành khai mở Chánh pháp. Kẻ tà kiến là kẻ thù của trí tuệ. Các ông nên gần gũi bạn lành, lánh xa bạn xấu ác. Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng phải chỉ phát sinh ra tất cả pháp lành mà chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều từ đây sinh ra. Nên biết, kinh này là mẹ của tất cả chư Phật.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát khi hành bố thí có hai loại trí, đó là trí nhỏ và trí lớn. Người trí nhỏ bố thí thì cầu sinh làm trời, người và quả giải thoát Nhị thừa. Bố thí như vậy chỉ được gọi là bố thí, không được gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Người trí lớn, bố thí với tâm không sở đắc, vì không sở đắc nên thành Phật Bồ-đề. Bố thí như vậy gọi là Bố thí ba-la-mật-đa. Vì thế nên biết, Bố thí ba-la-mật-đa là từ trí tuệ sinh ra.

Trì giới ba-la-mật-đa cũng có hai loại: trí nhỏ và trí lớn. Người trí nhỏ trì giới vì sợ ba đường ác nên cầu sinh vào trời, người và quả giải thoát Nhị thừa. Trì giới như vậy tâm không thanh tịnh, không được gọi là Trì giới ba-la-mật-đa. Người trí lớn trì giới vì làm lợi ích an lạc khắp các hữu tình, không trụ vào tướng mà vô sở đắc, hướng đến Bồ-đề. Trì giới như vậy gọi là Trì giới ba-la-mật-đa. Cho nên phải biết Trì giới ba-la-mật-đa là từ trí tuệ sinh ra.

Nhẫn nhục ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Tất cả bản trí của hữu tình như mặt trời bị vô minh che lấp, làm cho ánh sáng nhẫn nhục không hiện ra được. Người tu nhẫn nhục, đoạn trừ vô minh, Thánh trí hiện tiền, mặt trời Phật do đây mà chiếu sáng.

Ví như trong một đất nước không có quan trí tuệ nên việc cai trị không công bằng, làm cho nhân dân ly tán, nếu có người trí tuệ, họ cũng sẽ trốn lánh. Người không có trí tuệ mà nhẫn nhục cũng như vậy. Trí tuệ này như người mắt sáng, thấy rắn độc liền tránh xa. Cũng vậy, người có mắt trí tuệ tránh xa rắn độc sân giận. Người không có mắt trí tuệ vì trong vô lượng kiếp quá khứ tu hành các điều thiện nhưng không có sức nhẫn nhục và mắt trí tuệ nên trong một niệm lửa sân thiêu đốt, tiêu diệt tất cả, không còn chút gì. Như quăng lửa vào đống cỏ khô thì cỏ khô bị thiêu đốt trụi. Người trí tuệ có sức nhẫn nhục, giả sử gặp người ác đến đánh đập mắng nhiếc, Bồ-tát nên dùng chánh trí nhẫn nhục thì có thể điều phục được họ. Ví như voi lớn đã được điều phục rồi thì ra trận xông xáo, có thể phá tan quân địch. Đại Bồ-tát cũng vậy, trụ trong nhẫn vô tướng không sân giận, dùng vô duyên đại Bi mà rộng độ tất cả. Cho nên phải biết rằng, Nhẫn nhục ba-la-mật-đa là từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Tinh tấn ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Vì sao? Vì nếu không có Bát-nhã ba-la-mật-đa thì làm việc gì cũng đều không thành tựu. Vô biên pháp môn, quả Đại Bồ-đề đều an trụ vào đại trí tuệ phương tiện tối thắng, quán sát khắp cả, chủ yếu là có sức tinh tấn mới có thể viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa. Cho nên phải biết rằng, Tinh tấn ba-la-mật-đa đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Thiền định ba-la-mật-đa cũng từ Bát-nhã ba-la-mật-đa sinh ra. Vì sao? Vì ý nghiệp rất tinh vi, khó mà lường được. Thân, khẩu nghiệp dễ diệt trừ nhưng vọng tâm khởi lên khó chế ngự được. Ví như gió thổi lửa dữ, ta vẫn có thể ngăn cản được, sóng biển ta cũng có thể làm dừng lại được, nhưng vọng tâm rất kho điều phục. Vì sao? Vì bị vô minh từ vô thỉ làm mê mờ tâm tánh. Giống như người nhiều tư tưởng thế gian, khi vọng tưởng khởi lên thì mong cầu lăng xăng, cứ theo ý nghĩ mà phát sinh mãi. Người vọng tưởng như vậy, nếu có nhập vào định thì tâm vẫn còn chấp thủ. Vì không có trí tuệ nên trải qua trăm ngàn kiếp không bao giờ đạt được Tam-muội. Cũng như người ngu vọng chấp các kiến, chấp ngã là thường còn, hoặc chấp ngã là đoạn. Những kiến chấp ấy không thanh tịnh thì làm sao Tammuội hiện tiền? Người có trí tuệ quán sát hai điều:

Một là tự quán sát thấy thân mình có nhiều tật bệnh, khổ vui là đều do đời trước vọng tưởng điên đảo tạo ra các nghiệp, nay phải chịu quả báo. Nếu không si ái thì làm gì có bệnh. Thân mình vốn nó là không, nhờ nhân duyên huyễn hóa mà có, nếu không tạo tác thì ai chịu khổ?

Hai là quán sát lại, tuy không có tướng ngã nhưng nghiệp phước đã tạo đều không mất. Nên nguyện vô lượng phước đức của tất cả hữu tình ở pháp giới đều thanh tịnh, tất cả đều thành tựu sáu pháp Ba-la-mật-đa, trang nghiêm thân bằng Giới, Định, Tuệ, cho nên biết tất cả các hạnh đều lấy Bát-nhã ba-la-mật-đa làm mẹ. Giống như đại địa đều nương vào hư không mà đứng vững, nhưng hư không đó không có chỗ nương dựa. Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng vậy, cho nên biết Trí tuệ là mẹ của Thiền định ba-la-mật-đa. Chẳng phải chỉ có năm pháp Ba-la-mật-đa từ trí tuệ sinh ra, mà tất cả phước đức, tiếng khen ở thế gian, quả báo ở cõi trời, người, cho đến căn lành vô lậu của xuất thế đều nhờ trí tuệ sinh ra. Giống như đại địa nương vào hư không mà được đứng vững. Tất cả chúng sinh vì chấp ngã, chấp tướng mà có năm sợ hãi:

  1. Sợ không đủ sinh sống, nghĩa là thường cất chứa của cải, sợ mình không có để sống.
  2. Sợ đường ác nghĩa là tạo ra nghiệp ác nên sợ mình đọa trong ba đường ác.
  3. Sợ chết nghĩa là thương tiếc thân mạng.
  4. Sợ tiếng xấu nghĩa là luôn làm việc ác để che lấp, sợ người nghe biết.
  5. Sợ oai đức đại chúng nghĩa là trong đại chúng có nói ra lời gì cũng đều sợ hãi.

Đại Bồ-tát dùng trí tuệ quán sát đầy đủ, chứng được Nhị không, có thể làm lợi ích cho mình và người thì không sợ không đủ sinh sống. Đoạn trừ tà hạnh, giữ trọn vẹn giới, chắc chắn đạt đến Niết-bàn thì không sợ đọa vào đường ác. Nhập sâu vào lý duyên khởi, hiểu rõ nó vốn không sinh thì không sợ chết.

Trụ trong lý vô tướng, thân tâm tịch tĩnh, không có tướng mình và người thì không sợ tiếng xấu.

Thành tựu bốn Biện tài vô ngại nhiệm mầu thì ở trong chúng không sợ, giống như Sư tử chúa, cho nên gọi là không sợ đại chúng.

–Này Từ Thị! Căn tánh của tất cả chúng sinh đều sai biệt. Ai xan tham thì dạy họ bố thí, người sân giận thì dạy họ Từ bi nhẫn nhục. Người ngã mạn dạy họ khiêm nhường, người ngu si được trí tuệ. Khai mở Niết-bàn, làm hiển rõ vô lượng công đức của tướng chân như. Tất cả đều từ Bát-nhã ba-la-mật-đa mà sinh ra. Tất cả chư Phật và các vị Bồ-tát, Trời, Rồng, tám bộ chúng đều khen ngợi tôn trọng, cung kính giống như cha mẹ. Ví như mẹ hiền chỉ có một đứa con, nuôi dưởng dạy dỗ nó dần dần trưởng thành, mong được nên danh; Bồ-tát cũng vậy, yêu thương hữu tình giống như con một, lấy trí tuệ cam lồ làm pháp thức ăn, lấy năm độ làm đại lương dược, lấy mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, các công đức vi diệu để trang nghiêm pháp thân, thành tựu ngôi vị Pháp vương vô thượng.

Này Từ Thị! Có mười việc làm chướng ngại đèn trí, che lấp làm cho ánh sáng không hiển hiện được, làm tăng trưởng sự tối tăm, không hiểu biết gì cả:

  1. Biếng nhác: đối với sự nghiệp ở đời đều không thành tựu, thì làm sao có thể tu hành điều thiện vi diệu của đạo xuất thế!
  2. Gần bạn ác thì tạo ra nghiệp ác, làm tăng trưởng vô minh.
  3. Chìm đắm trong ngủ nghỉ, làm cho thân tâm hôn mê, không thể tu tập Vô thượng Bồ-đề.
  4. Nghe Đại thừa liền quên mất.
  5. Thích học tập tất cả kỹ nghệ ở thế gian, không biết nó như huyễn mà lại chấp trước.
  6. Bị ngã mạn che lấp, dù gặp bạn lành nhưng không học hỏi Chánh pháp vô thượng.
  7. Không liễu ngộ giáo lý Đại thừa vi diệu nhiệm mầu, lại ngã mạn tự cao thoái lui.
  8. Xấu hổ về sự ngu muội của mình nên không gần gũi người có trí.
  9. Bắt chước dị đoan, dối trá nói là thấy biết, nếu bị luận hỏi thì bỏ chạy.
  10. Không tin thích Tối thượng thừa, giả sử có nghe thì lại hiểu bằng lăng kính tà kiến.

Do mười việc này mà làm chướng ngại Đại thừa. Do không nghe Chánh pháp nên bị đắm chìm trong sinh tử.

Mười việc này có mười pháp thù thắng để cho người ngộ nhập vào Vô thượng Bồ-đề:

  1. Tinh tấn siêng năng, thích tu tập thiền định.
  2. Gần gũi bạn lành nghe Chánh pháp.
  3. Giảm bớt ngủ nghỉ, luôn luôn tự tỉnh thức.
  4. Nghe pháp Đại thừa không bao giờ quên.
  5. Làm theo sự nghiệp ở đời nhưng luôn quán nó như huyễn, không chấp trước.
  6. Không giấu điều gì, giải nghi ngờ cho đại chúng.
  7. Không nên chê mình, phải siêng năng tu hành.
  8. Thích thiết lập đàn bố thí.
  9. Luôn khiêm nhường, không lừa gạt chúng sinh.
  10. Không nhờ thầy mà nhập sâu vào tuệ Phật.

Đại Bồ-tát nhờ mười việc này mà đầy đủ viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, thành tựu pháp thân thanh tịnh giải thoát.

Này Đại Bồ-tát Từ Thị! Bát-nhã ba-la-mật-đa này không tương ưng với mười sáu pháp:

  1. Không tương ưng với mười hai nhân duyên, nghĩa là từ vô minh cho đến Lão tử.
  2. Không tương ưng với Vô minh diệt cho đến sinh tử diệt. Vì Đại Bồ-tát lìa tâm phân biệt, không có hai tướng.
  3. Không tương ưng với thân kiến, biên kiến, cho đến sáu mươi hai kiến.
  4. Không tương ưng với tám loại gió thế gian, đó là: lợi dưỡng, khen ngợi, chê bai, khổ, vui, suy, hao, chế giễu.
  5. Không tương ưng với tùy phiền não: phẫn, hận…
  6. Không tương ưng với ngã mạn, tăng thượng mạn…
  7. Không tương ưng với căn bản phiền não: tham, sân, si…
  8. Không tương ưng với ma phiền não, ma chết…
  9. Không tương ưng với tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, người làm, người nhận, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng.
  10. Không tương ưng với vọng niệm phân biệt của thấy nghe, hay biết.
  11. Không tương ưng với bốn pháp điên đảo: vô thường cho là thường, thường cho là vô thường; không vui cho là vui, vui cho là không vui; vô ngã nói là ngã, ngã cho là vô ngã; bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh. Do vọng tưởng nên gọi là pháp điên đảo. Do tâm hành của hữu tình như thế nên dẫn đến cửa trần lao.
  12. Không tương ưng với xan tham, phạm giới, sân giận, biếng nhác, tán loạn, ngu si, và cũng không tương ưng với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ mà có tướng.
  13. Không tương ưng với các pháp bất thiện: tánh tội, già tội, hữu lậu, hữu vi, không tương ưng với sự phân biệt về pháp thiện của thế gian, xuất thế gian, vô lậu và vô vi.
  14. Không tương ưng với hai mươi hai căn, đó là: Không tương ưng với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Không tương ưng với khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Không ương ưng với nam căn, nữ căn, ý căn, mạng căn. Không ương ưng với tín… năm Căn, và không tương ưng với ba căn vô lậu.
  15. Không tương ưng với mỗi loại hữu tình trong năm thú ba cõi. Cũng không tương ưng với sự phân biệt Đại thừa, Tiểu thừa của Phật, Pháp, Tăng bảo.
  16. Không tương ưng với sự phân biệt của tâm ý, như: không phân biệt chân đế, tục đế; hữu vi, vô vi, hữu trí, vô trí; có thức, không thức; tác ý, không tác ý; tánh hữu thể, tánh vô thể; hữu tướng, vô tướng.

Từ Thị nên biết! Bát-nhã ba-la-mật-đa không nhiễm, không vướng mắc, không có các phân biệt; nó bình đẳng, thanh tịnh, là một tướng, một vị, không tương ưng với tất cả pháp sai biệt như vậy.

Này Từ Thị! Với phương tiện thiện xảo, Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì phải trụ vào Chỉ và Quán, thân trụ trong tịch tĩnh, hiểu rõ nhân duyên các pháp như huyễn như hóa, thuận theo thắng nghĩa đế, lìa hữu, lìa vô, không thường, không đoạn, đều tùy thuận với nhân quả, không có tướng ngã, tướng nhân, là chân thật bất động, không mất oai nghi. Trụ vào ba cửa giải thoát nhưng không chấp đã chứng, không động không tịnh, đó là thiền của Như Lai. An trú thần thông, thâm nhập sâu vào thực tế, không ở mãi trong sinh tử, không nhập vào Niết-bàn, không chấm dứt hữu vi, không trụ trong vô vi. Mặc dù quán vô tướng nhưng không xả bỏ đại Bi. Mặc dù ở trong ba cõi nhưng luôn xuất ly. Tuy biết đúng về vô nhiễm nhưng không tu chứng. Tuy xa lìa các hý luận nhưng thích bàn luận về Chánh pháp.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên gần gũi bạn lành, nghe Chánh pháp, đầy đủ tám mươi bốn loại tâm tối thượng thì mới có thể phát sinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thù thắng vi diệu. Nghĩa là trụ vào tướng chân thật, tướng rất vi diệu, tướng tương ưng với Bát-nhã, tướng bạn lành, tướng lìa kiêu mạn, tướng cung kính, tướng đi nhiễu bên phải, tướng vô lượng, tướng lời nói hoàn hảo, tướng chí thành, tướng tác ý hoàn hảo, tướng không loạn, tướng vô định, tướng tốt đẹp quý báu, tướng thuốc hay, tướng trừ bệnh, tướng pháp khí, tướng chỉ dẫn, tướng nhập trí tuệ, tướng nghe pháp, tướng không chán, tướng tăng trưởng xả, tướng khéo điều phục voi ngựa, tướng kính thờ bậc đa văn, tướng thích nghe pháp vi diệu, tướng quán thân tịch diệt, tướng thanh tịnh vui thích, tướng nghe pháp không mệt mỏi, tướng nghe nghĩa, tướng nghe pháp, tướng lời nói đi đôi với việc làm, tướng nói pháp cho người, tướng nghe những điều chưa nghe, tướng nghe thần thông, tướng không tìm cầu thừa khác, tướng thích nghe Bát-nhã, tướng thích nghe Bồtát tạng, tướng thích nghe phương tiện quyền xảo, tướng bốn Nhiếp pháp, tướng nghe phạm hạnh, tướng niệm chánh định, tướng hay sinh thiện xảo vô sinh, tướng tâm đại Từ bi, tướng duyên khởi, tướng vô thường, tướng khổ, tướng không, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng tịch tĩnh, tướng Không, tướng Vô tướng, tướng Vô nguyện, tướng không có hạnh bất thiện, tướng thắng nghĩa đế, tướng không hư hoại, tướng tự tại, tướng hộ tâm mình, tướng không bỏ tinh tấn, tướng tư duy pháp vi diệu, tướng đối trị phiền não, tướng tôn trọng Chánh pháp, tướng đối trị tà kiến, tướng đạt được Thánh tài, tướng trừ bỏ nghĩa khổ, tướng người trí khen ngợi, tướng người trí rất vui, tướng những điều người trí ưa thích, tướng tôn trọng bậc hiền thiện, tướng thấy bốn Đế, tướng quán lỗi lầm của uẩn, tướng tai hoạn của hữu vi, tướng căn cứ vào pháp, tướng căn cứ vào nghĩa, tướng căn cứ vào trí, tướng căn cứ vào kinh liễu nghĩa, tướng căn cứ vào kinh bất liễu nghĩa, tướng không tạo các điều ác, tướng tự mình làm lợi ích, tướng làm lợi ích cho người, tướng tạo thiện tốt đẹp, tướng không phiền não, tướng thắng hạnh, tướng đạt tất cả pháp môn của chư Phật.

Từ Thị nên biết! Người nghe pháp đầy đủ tâm thù thắng như vậy thì có thể nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, biết tất cả pháp không có ngã, không có người, xưa nay thanh tịnh. Sinh tử và Niếtbàn đều bình đẳng không hai.

Lại nữa, Đại Bồ-tát quán năm Căn: mắt,… các thọ khổ, vui… ý căn, mạng căn hay khởi lên phiền não làm căn bản cho sinh tử. Tín,… năm Căn và ba căn vô lậu hay xả bỏ phiền não. Đó là nhân Niết-bàn. Biết tánh phiền não từ xưa đến nay không sinh không diệt, tánh tướng thường trụ. Người nào tu tập như vậy gọi là Bátnhã ba-la-mật-đa.

Này Từ Thị! Đại Bồ-tát đã tu thắng hạnh tương ứng và không tương ứng với trí tuệ, không có phân biệt, hai trí đều bình đẳng, không xả bỏ chúng sinh mà luôn có lòng Từ bi, che chở tất cả được thanh tịnh bất động. Ai tu tập như vậy gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Đức Phật dạy Từ Thị:

–Câu nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghĩ bàn. Đó là câu tương ưng, câu như lý, câu như lượng, câu lời Phật, câu hiểu rõ nhân duyên, câu không chướng ngại, câu không diệt, câu đại xả, câu bất động, câu tất cả bất động, câu không y chỉ, câu bình đẳng, câu không khó, câu không cao thấp, câu thật tế, câu không biến đổi, câu không chấp trước, câu không trụ, câu không chỗ trụ, câu đối trị, câu tịch tĩnh, câu rất tịch tĩnh, câu khắp nơi tịch tĩnh, câu không hý luận, câu vô khởi, câu tức chân, câu không khiếm khuyết, câu không thừa, câu không giới hạn, câu không đối trị, câu tối thắng, câu chân thật, câu như như, câu tuyệt ngôn, câu không phân biệt, câu không bỉ thử, câu ba đời bình đẳng, câu không ba đời, câu không trụ vào năm uẩn, câu không trụ vào sáu giới, câu không trụ vào mười hai xứ, câu không trụ vào mười tám giới, câu căn cứ vào pháp, câu căn cứ vào nghĩa, câu căn cứ vào trí, câu căn cứ vào liễu nghĩa.

Với câu nghĩa như vậy tức là Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-lamật-đa không thể nghĩ bàn. Vì lìa ngôn thuyết, vì chân thắng nghĩa, vì không thể nghĩ bàn, vì không ví dụ, không so sánh, vì vô thượng, vì tự lợi và lợi tha, vì rất hy hữu, chỉ có Phật với Phật mới có thể chứng tri, ngoài ra không ai biết được. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mậtđa không có tánh, không có tướng, không so sánh, không ví dụ, chỉ có Phật Như Lai mới có thể biết tận.

Này Từ Thị! Bát-nhã ba-la-mật-đa này chẳng phải uẩn xứ giới, không chỗ nương tựa, không sinh không diệt, không trong không ngoài, không ở chặng giữa, cho nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể nghĩ bàn.

Nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa này, Bồ-tát Từ Thị rất vui mừng, sung sướng nói kệ khen:

Thế Tôn Đại Hùng trí Vô thượng
Mười Lực, Vô úy, Chân giải thoát
Quảng đại thần thông không giới hạn
Nào ai có thể so lường được.
Quá khứ gần gũi vô lượng Phật
Đạt được trí vi diệu sâu xa
Vô số kiếp tu hạnh khó hành
Do đó thành Bậc Điều Ngự Sư.
Phật chứng tự nhiên Nhất thiết trí
Trụ trong tịch tĩnh khó nghĩ lường
Chỉ Phật Như Lai tự chứng biết
Hiện trong vô số cảnh giới Phật.
Tánh pháp chân thường lìa hai bên
Vô vi tịch tĩnh thoát ba cõi
Khổ nghiệp phiền não đều diệt trừ,
Pháp thân thanh tịnh chân giải thoát
Đạo tràng Bồ-đề thành Chánh giác
Chỉ có chư Phật mới chứng tri.
Thanh tịnh y nhiên, không đi, đến
Không tướng, không làm, không nói năng
Niết-bàn không sánh, không ví dụ
Phàm phu Nhị thừa không thể lường,
Đẳng giác Bồ-tát không thể biết,
Riêng Phật Thế Tôn mới hiểu rõ.
Các chúng Thanh văn trong hội Phật
Chứng đắc tự lợi, Như Lai khen,
Hết sinh hữu lậu, thân sau cùng
Họ cũng không biết cảnh giới Phật.
Tất cả Bích-chi-phật lợi trí
Nhiều khắp mười phương như lúa mè
Cùng tư duy trăm ngàn vạn kiếp
Không sao biết được trí tuệ Phật.

*********

Đức Phật dạy Từ Thị:

–Đại Bồ-tát có bảy việc để đạt pháp môn vô tận không thể nghĩ bàn. Đó là:

  1. Nhân vô tận.
  2. Hữu tình vô tận
  3. Giới vô tận.
  4. Đại Bi vô tận
  5. Diệu dụng vô tận.
  6. Pháp môn vô tận
  7. Phá hoại ma sinh tử nên có trí vô tận.

Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa không hành, không tướng, không sinh cũng không diệt. Bồ-tát ở trong tất cả pháp phải biết như vậy.

Khi Đức Phật nói Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, trong hội có ngoại đạo tên Vi-mạt-để rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Ngài nói tất cả pháp xưa nay không sinh, tự tánh thanh tịnh, nghĩa này không đúng. Tự tại thiên là thường, là cha mẹ của tất cả vạn vật sinh ra các pháp, có thể tạo tác, xếp đặt thế gian. Lại nói rằng, thần ngã có thể sinh ra tất cả các pháp, nhưng ngã này trụ trong tâm lớn giống như ngón tay cái. Ngài đã nói rằng, tất cả pháp do hòa hợp sinh ra, vì sao nay nói là không sinh?

Đức Thế Tôn dạy Vi-mạt-để:

–Ta sẽ theo ý ông mà trả lời những câu hỏi trên để đoạn trừ sự nghi ngờ của ông. Ông hãy lắng nghe cho kỹ. Như ông đã nói: Tự tại thiên là thường, có thể sinh ra tất cả. Như vậy, thì tất cả vạn vật được sinh phải đồng một tánh là thường. Nếu nói đã sinh thì trước sau biến đổi không thường trụ, theo lý thì không đúng. Vì sao? Vì dụng không lìa thể nên là thường trụ, thể không lìa dụng thì chẳng phải thường. Tự tại thiên là thường có thể sinh thì phải thường sinh, vì sao có lúc sinh, có lúc không sinh? Đã không thường sinh thì sao gọi là thường? Vì nghĩa này cho nên đồng với chỗ sinh kia nhất định là vô thường. Cái sinh ra đã nhiều tức không phải là một. Nếu là một thì không có gì sai khác, nhưng muôn loài có từng loại riêng biệt, như vậy sao gọi là một?

Lại nữa, Tự tại thiên hay sinh ra tất cả mà không có lòng Từ bi. Nếu có lòng Từ bi thì nên làm cho hữu tình đều sinh lên cõi trời, người để hưởng sung sướng, tại sao làm cho các hữu tình chịu tám khổ, sinh trong ba đường ác chịu đủ các khổ? Nếu có lòng Từ bi tại sao tự sinh, tự sắp xếp, tự hại hữu tình? Nếu Tự tại thiên là một, là thường thì sinh ra tất cả không bị biến đổi, tại sao các loài khác sinh diệt vô thường, trong năm cảnh giới chịu sự bất tịnh riêng biệt? Ví như thấy quả thì biết ngay nhân của nó. Nên biết Tự tại thiên không thường, không phải một. Nếu tốt đẹp là do Tự tại thiên, còn thô ác bất thiện là do quỷ Tất-xá-giá làm ra, nói như vậy thì không đúng lý. Nếu thiện là do Tự tại thiên, còn ác là do quỷ Xá-giá, thiện ác trái nhau, sao gọi là tự tại?

Lại nữa, hữu tình tạo ác thì nhiều, người tu thiện thì ít, tức là quỷ Tất-xá-giá thắng vượt trời Tự tại. Hữu tình tạo các điều lành là phần của Tự tại thiên, tạo các điều ác là do quỷ Xá-giá dạy bảo. Đệ tử của các ông luôn nói như vầy: “Làm lành sinh lên trời, làm ác đọa địa ngục”. Nếu nói sinh lên trời, đọa địa ngục là do tạo thiện ác, thì tại sao nói do Tự tại thiên tạo nên? Giống như vua ra lệnh ban cho quan tước, của cải, nhưng chỉ nói vua ban cho, chứ không nói là người tuyên mệnh lệnh. Lại như vua sai người giết, nhưng chỉ nói vua giết chứ không nói đồ tể. Nếu làm lành thì quy về Tự tại thiên, còn tạo ác thì quy về quỷ Tất-xá-giá, vậy thì vì sao hữu tình chịu khổ vui? Do đó nên biết, Tự tại thiên nhất định không thể tạo ra tất cả.

Nếu nói một thì vì sao hữu tình sinh ra vô lượng tâm thiện ác? Cho nên biết rằng không phải một.

Nếu nói tất cả do Tự tại thiên tạo ra thì phải thuần thiện, sao lại có ác? Giống như có người, có khi ở chỗ đông người tạo ra nhiều việc ác thì đó là người ác. Nếu chúng sinh làm ác do Tự tại thiên thì cả thế gian này đều nói là tội nhân địa ngục, vì tự tạo nghiệp ác. Vì sao riêng ông đả kích Tự tại thiên? Như có người chê người khác tạo ác thì mắc vô số tội, nay ngươi chê bai Tự tại thiên, bị mắc tội cũng vậy.

Này Vi-mạt-để! Tự tại thiên tạo tội như trên, còn tội lỗi của thần ngã nhiều gấp bội. Nếu ngã là thường có thể tạo tác thì thân này đi đứng phải được tự do, không ai hại được, vì sao phải khóc lóc sợ chết? Nếu ngã là thường thì phải nhớ nghĩ quá khứ đã tạo nghiệp, bây giờ phải chịu khổ báo, cho nên đời này không tạo nghiệp ác nữa. Nếu ngã là thường thì phải tự tại, không già yếu mà phải luôn luôn trẻ khỏe, giống như cởi áo cũ mặc áo mới. Vậy tại sao có già, bệnh, chết? Do đây nên biết, ngã không thể tạo tác.

Này Vi-mạt-để! Ta quán các pháp cũng chẳng phải do nhân duyên hòa hợp sinh ra. Vì sao? Vì nhân là vô sinh, nếu nhân có sinh thì không cần đợi duyên. Tánh vô sinh của duyên lại cũng như vậy. Nếu nói do nhân duyên hòa hợp với ngã thì cũng không đúng. Giống như hai người mù đứng riêng ra thì không thể thấy màu sắc mà nếu đứng chung một chỗ cũng không thấy. Nên biết, nhân duyên hòa hợp với thần ngã cũng không thể sinh ra các pháp; nếu có thể sinh thì đó là vô thường, vì có tác dụng. Như vậy, những gì được sinh ra nhất định là vô thường, cho nên biết rằng lìa sở sinh ra thì không có cái năng sinh nào riêng khác. Có người nói năm đại cực vi là thường có thể sinh ra các pháp, như vậy cũng không đúng. Giống như nước hòa hợp với gạo thành rượu, uống vào thì say. Như vậy năng lực làm say không phải do bên ngoài, chẳng phải do bên trong của nước sinh ra, cũng chẳng phải phát sinh từ gạo, mà do nước và gạo hòa hợp mà biến thành rượu. Như vậy, tất cả các pháp không có tác giả, cũng không có ngã để làm nhân duyên. Vì sao? Vì đại địa, hư không, thủy, hỏa, phong giới cũng như vậy, có lẽ nào vật vô tình sinh ra hữu tình hay sao? Tất cả các pháp giả thì có mà pháp thật thì không, chẳng phải Tự tại thiên, chẳng phải thần ngã, chẳng phải nhân duyên hòa hợp, chẳng phải năm đại mà sinh ra. Cho nên biết rằng, bản tánh của tất cả các pháp không sinh, chỉ do duyên huyễn chuyển hóa mà có, không đến, không đi, không đoạn, không thường, thanh tịnh tròn đầy, là chân bình đẳng.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ: 

Tất cả pháp hữu vi
Như thành Càn−thát−bà
Tâm chúng sinh vọng chấp
Tuy hiện chẳng thật có.
Các pháp không nhân sinh
Cũng chẳng phải không nhân
Có là do vọng tưởng
Cho nên nói duy tâm.
Vô minh mà vọng thấy
Là nhân của sắc tướng
Tàng thức làm chỗ dựa
Tùy duyên hiện các hình,
Như người mắt bị bệnh
Thấy hoa đốm trên không
Tập khí quấy đục tâm
Theo ba cõi mà hiện.
Nhãn thức nương Lại−da
Hiện ra đủ thứ sắc
Như bóng ở trong gương
Phân biệt không ở ngoài.
Thấy biết đều do tâm
Không thường cũng không đoạn
Do thức Lại−da biến
Mà hiện ở thế gian.
Pháp tánh đều bình đẳng
Chỗ dựa của các pháp
Tàng thức hằng không đoạn
Mạt−na chấp làm ngã.
Tập khởi nói là tâm
Tánh suy lường là ý
Nghĩa phân biệt là thức
Cho nên nói duy tâm.
Các cảnh giới ngoài tâm
Vọng thấy như hoa đốm
Chấp thật có đều không
Đều do tâm thức biến.
Sắc và công năng sắc
Đều nương thức Lại−da
Phàm phu vọng phân biệt
Cho là chân thật có.
Thùy miên và hôn mê
Đi, đứng và ngồi, nằm
Tạo nghiệp và quả báo
Đều do tàng thức sinh.
Hữu tình và vô tình
Chẳng phải Tự tại sinh
Chẳng phải thần ngã tạo
Chẳng phải tánh vi trần.
Như tánh lửa trong cây
Dù có nhưng không cháy
Nhờ dùi mới có lửa Do đó trừ tối tăm.
Xoay vần làm nhân duyên
Lại−da làm chỗ dựa
Các thức theo đó sinh
Khởi lên lậu, vô lậu.
Như biển gặp duyên gió
Nổi lên các sóng dữ
Hiện tiền luôn chuyển biến
Không bao giờ gián đoạn.
Biển tàng thức cũng vậy
Gió cảnh giới làm động
Luôn khởi các sóng Thức
Không bao giờ gián đoạn.
Như bơ chưa khuấy động
Không ai thấy được lạc,
Ra công không gián đoạn
Mới có được đề hồ.
Lại−gia vọng huân tập
Che lấp Như Lai tạng
Khi tu tập thuần thục
Chánh trí mới sáng tỏ.
Các thức chuyển theo duyên
Không thấy tâm bản giác
Trí tự giác hiện tiền
Chân tánh luôn bất động.
Giống như vàng trong quặng
Dính đá không thể dùng
Nấu lọc được vàng ròng
Làm các đồ trang sức.
Tánh Lại−da thanh tịnh
Bị vọng thức huân tập
Viên cảnh trí tương ưng
Như mặt trời thoát mây.
Ai tu tập về không
Theo không chấp giữ không
Quán không khác với sắc
Không gọi người chân quán.
Quán sắc tức là không
Sắc, không chẳng thể đắc
Đây là Thắng nghĩa không
Là người chân giải thoát.
Khách trần không tự tánh
Vô minh vọng phân biệt
Thật tướng không hữu, vô
Do chúng sinh vọng thấy.
Như ánh sáng nhật nguyệt
Tỏa sáng khắp mọi nơi
Như Lai thanh tịnh tạng
Đầy đủ các công đức.
Chân, vọng hòa lẫn nhau
Như hai voi thi đấu
Con yếu bỏ chạy luôn
Vọng hết, không sinh lại.
Tánh hoa sen không nhiễm
Khỏi nước lìa bùn dơ
Đến khi hoa sen nở
Ai thấy đều ưa thích.
Như Lai, Vô cấu tạng
Xa lìa các tập khí
Trí thanh tịnh tròn sáng
Chỗ Hiền thánh quay về.
Như châu bảo tối thắng
Không có chút tỳ vết
Luân vương làm mũ báu
Thường đội trên đỉnh đầu.
Như Lai thanh tịnh tạng
Không có các phân biệt
Thể đủ hằng sa đức
Pháp thân của chư Phật
Trụ vào cảnh vô lậu
Thanh tịnh giải thoát thân
Tịch diệt như hư không
Tánh pháp không đi, đến
Phật hiện trong ba cõi
Không sinh cũng không diệt
Cõi này và phương kia
Y nhiên, luôn bất động.
Bình đẳng chân pháp giới
Phật cũng như chúng sinh
Không đoạn, cũng không thường
Đại Bi không cùng tận.
Thân pháp tánh chư Phật
Trí bản giác tự nhiên
Chính là Thắng nghĩa đế
Chỉ Phật mới chứng tri.
Thể tự tánh vô sinh
Mâu−ni vốn tịch tĩnh
Lưu chuyển trong ba cõi
Chỗ quy y rốt ráo.
Pháp không tướng đến, đi
Ba đời luôn tịch tĩnh
Trụ trong chân Tam-muội
Thấy thân pháp giới kia
Thanh tịnh không thể bàn
Đủ hằng sa công đức
Đây là cõi vô lậu
Chỗ nương tựa chư Phật.
Chư Phật đủ ba thân
Thể, tướng, dụng bình đẳng
Tánh sâu xa rộng lớn
Thắng nghĩa không sai khác.
Vô lậu không biến đổi
Xa lìa tất cả tướng
Phiền não và sở tri
Bản tánh luôn thanh tịnh.
Không cấu, không nhiễm trước
Là Thầy chân điều ngự
Tánh tịnh là Niết-bàn
Cũng là Pháp thân Phật.
Thể đủ hằng sa đức
Vô cấu không nghĩ bàn
Luôn viên mãn sáu Độ
Đây là Nhất thiết trí.
Rộng lớn không giới hạn
Không còn các tư tưởng
Đoạn tập, chứng Bồ-đề
Đủ hằng sa công đức.
Với các pháp tự tại
Hiện đủ các sắc tượng
Quả đại Bi thanh tịnh
Làm lợi ích chúng sinh.
Vô lậu không phân biệt
Nguyện lực đều viên mãn
Giống như châu ma-ni
Hiện theo các màu sắc.
Giống như người thợ vẽ
Vẽ đủ các hình tượng
Hiện ra các cảnh giới
Đều do tâm thức biến.
Chúng sinh nhiều tánh dục
Như Lai đều biết rõ
Pháp thân luôn bất động
Nguyện lực hiện theo duyên
Thị hiện trời Đâu-suất
Thần thông cỡi voi trắng
Sinh ra ở cung vua
Xuất gia tu khổ hạnh
Đi đến gốc Bồ-đề
Chiến thắng các quân ma
Thành Phật chuyển pháp luân
Hoặc hiện tướng Niết-bàn.
Thị hiện có sinh diệt
Chân thân không lay động
Độn căn thích pháp nhỏ
Phương tiện nói Niết-bàn.
Trong pháp giới chân như
Không có tướng Niết-bàn
Đại Bi thích làm lợi
Dẫn đường cho chúng sinh.
Giống như người chủ buôn
Dẫn dụ các người ngu
Tâm Bồ-tát rộng lớn
Khiến chúng nhập Niết-bàn.

Nghe Đức Phật nói xong, Vi-mạt-để thân tâm vui mừng khôn xiết, liền rời chỗ ngồi, sửa y phục, quỳ gối chắp tay cung kính nói kệ khen ngợi Đức Phật:

Rơi vào sông sinh tử
Bị tà kiến trói buộc
Ca-tỳ-vi-dã-bà
Tiên Ca-na ngoại đạo.
Phàm phu bị hôn mê
Do đó sinh tà kiến
Mười Lực Đấng Thiện Thệ
Tuệ Phật chiếu sáng rỡ.
Hoặc nghe Na-la-diên
Trời Tự tại… chỉ dạy
Càng tăng trưởng tham dục
Làm tâm phát điên cuồng.
Chánh kiến phá tối tăm
Chính lời Như Lai dạy
Con nay lắng lòng nghe
Quy y Bậc Đại Thánh.
Đại Phạm có bốn mặt
Bốn tay đầy hoa sen
Diễn nói bốn Vệ−đà
Làm tăng trưởng tà kiến.
Chỉ có Phật Thế Tôn
Đại Thánh mặt trời trí
Phá nghi ngờ cho con
Chỗ quy y chân chánh.
Khen ngợi Đức Phật xong,

Vi-mạt-để bạch Phật:

–Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Hôm nay con được hoàn toàn lợi ích là nhờ ánh sáng trí tuệ chân chánh của Ngài làm cho tâm nghi tà kiến của con đều được tiêu trừ. Con nay xin quy y Đại Thánh Thế Tôn. Thưa Thế Tôn, sở dĩ con tên Vi-mạt-để vì con cầu đạo phi pháp nên tâm luôn nghi ngờ. Nay ở trước Phật con được Chánh pháp nhãn, diệt trừ tâm nghi hoặc nên nay con tên là Tô-mạt-để. Xin Ngài cho con làm đệ tử quy y Phật, Pháp, Tăng để tu hành Đại thừa, nguyện không bao giờ thoái lui, đạt được lợi ích tốt đẹp, con sẽ đem công đức này hồi hướng cho hữu tình đều thành Phật đạo.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp cho Vi-mạt-để, trong hội có vô lượng chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sáu mươi hai na-do-tha Đại Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn.

Đức Phật dạy:

–Này Từ Thị! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa nên tu tập tám pháp:

  1. Thiện xảo về uẩn.
  2. Thiện xảo về xứ.
  3. Thiện xảo về giới.
  4. Thiện xảo về đế.
  5. Thiện xảo về duyên khởi.
  6. Thiện xảo về ba đời.
  7. Thiện xảo về tất cả thừa.
  8. Thiện xảo về tất cả pháp.

Thế nào là Thiện xảo về uẩn?

Nghĩa là quán sắc uẩn giống như bọt trên nước, người ngu thấy vậy cho đó là tấm thảm trắng, liền xuống nước để lấy thì bọt trên nước tan mất, không thể nào nắm bắt được. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh sắc là không, giống như bọt trên nước, vì vậy nên gọi là Chánh tri kiến.

Quán thọ uẩn như bong bóng trên nước, vừa nổi lên thì mất ngay, sinh diệt trong từng sát-na, không đứng yên. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh của thọ là không, giống như bong bóng trên nước, do đó gọi là Chánh tri kiến.

Quán tưởng uẩn như quáng nắng. Ví như trời nóng bức, có người khát nước, từ xa thấy quáng nắng, nói đó là nước và liền chạy đến tìm, nhưng đến gần thì không có. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghĩa, hiểu rõ tánh của tưởng là không, do đó gọi là Chánh tri kiến.

Quán hành uẩn giống như cây chuối, bên trong không có lõi. Nếu lột thân nó ra mãi thì cuối cùng không còn gì cả. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của hành là không, do đó gọi là Chánh tri kiến.

Quán thức uẩn như huyễn hóa. Như thầy ảo thuật giả làm vàng bạc, trân bảo, trân châu, anh lạc nhưng tìm thật thể của nó thì hoàn toàn không thể có. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ thấy Đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của thức là không, giống như huyễn hóa, do đó gọi là Chánh tri kiến.

Quán như vậy rồi, phát tâm đại Bi cứu vớt tất cả hữu tình. Quán sát như vậy gọi là Thiện xảo về uẩn.

Lại quán năm uẩn như huyễn hóa. Tất cả đều do tâm vọng tưởng điên đảo sinh ra, không có ngã, không có người, không có chúng sinh, không có thọ mạng. Chẳng phải tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng, không có người tạo tác, không có người nhận. Với phương tiện thiện xảo hiểu rõ tánh của uẩn là không, giống như mộng tưởng, hoàn toàn không thể đắc. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát quán uẩn như âm thanh vọng lại, không có ta, không có người, cho đến không có người tạo tác, không có người nhận. Như vậy, tánh uẩn giống như âm thanh vọng lại trong hang trống. Nó thuộc vào các nhân duyên, nếu như thật liễu tri thì đều không có hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát quán uẩn như ảnh, nó theo nghiệp duyên hiện, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Như vậy, hiểu rõ tánh của uẩn như ảnh, không thể đắc, không có hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát quán uẩn như bóng trong gương, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Hình bóng trong gương không phải ở trong, không phải ở ngoài. Hiểu rõ nó không thể đắc, không hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát quán uẩn nhờ duyên mà có nên nó như huyễn hóa, không có ta, không có người, cho đến không có người nhận. Dùng trí thiện xảo như thật liễu tri, thấy không có hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát quán uẩn là tướng biến hoại, là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, tánh vốn không tịch, không hư hoại, không phải không hư hoại. Như thật liễu tri nên gọi là trí Thiện xảo về uẩn của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là Thiện xảo về xứ?

Nghĩa là pháp nội xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không. Quán pháp ngoại xứ: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không. Dùng chánh trí tuệ quán Đệ nhất nghĩa thấy không có trong, không có ngoài nên gọi là Chánh tri kiến. Đó goi là trí Thiện xảo về xứ.

Lại có trí Thiện xảo về xứ, nghĩa là hiểu rõ các xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều không, cũng không có tướng thấy, nghe, hay biết. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp xứ.

Lại có trí pháp xứ, nghĩa là biết tự tánh của các xứ: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là không tịch, không có tướng cảnh giới của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp xứ.

Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là pháp tánh của các xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là không tịch, không có ta, không có cái của ta. Pháp tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không, không có ta, không có cái của ta, không tương ưng, không phải không tương ưng, chẳng phải pháp lành, chẳng phải pháp ác, không tăng không giảm, không có hai tướng, xưa nay vắng lặng. Đó gọi là trí Thiện xảo về xứ của Đại Bồ-tát.

Lại có trí thiện xảo về xứ, nghĩa là nhãn xứ, sắc xứ xưa nay thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc. Nhãn xứ bền chắc, tịch nhiên thường trụ. Cũng vậy, nhĩ, thanh xứ; tỷ, hương xứ; thiệt, vị xứ; thân, xúc xứ; ý, pháp xứ tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm, không vướng mắc, cho đến ý căn kiên cố tịch nhiên, thường trụ không biến đổi. Đó gọi là trí Thiện xảo về xứ của Đại Bồ-tát.

Sao gọi là thiện xảo về xứ? Nghĩa là Thánh nhân xứ, chẳng phải phàm phu xứ có thể sinh ra Thánh đạo, đó gọi là xứ. Phàm phu tà kiến sinh đường ác gọi là phi xứ. Đại Bồ-tát trụ trong tám Thánh đạo phát tâm đại Bi để đưa hữu tình nhập vào chánh định tụ. Đó gọi là trí Thiện xảo về xứ.

Thế nào là trí Thiện xảo về giới của Đại Bồ-tát?

Nghĩa là quán nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới không có ta, không có của ta; cũng chẳng phải nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới theo duyên mà khởi. Cho đến ý giới, pháp giới không có ta, không có của ta, cho đến ý thức giới không có ta, cũng chẳng phải ý thức giới theo duyên mà khởi. Như vậy, Bồ-tát dùng chánh trí tuệ quán Đệ nhất nghĩa, biết rõ tánh của mười tám giới là không, không có ta, không có người, pháp giới bình đẳng, thanh tịnh bất động. Đó gọi là trí Thiện xảo về giới của Đại Bồ-tát.

Lại có thiện xảo về giới, nghĩa là trí hiểu rõ pháp giới, biết rõ tánh của địa, thủy, hỏa, phong giới là không; cứng, ướt, nóng, động… đều không thể đắc, đồng đẳng với tánh pháp chân tế. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp giới của Đại Bồ-tát.

Lại có trí Thiện xảo về pháp giới, nghĩa là hiểu rõ tánh của nhãn giới cho đến ý giới là không; tánh của sắc giới cho đến pháp giới là không; tánh của nhãn thức giới cho đến ý thức giới là không, không có tướng phân biệt, thấy nghe, hay biết. Đó gọi là trí Thiện xảo về pháp giới.

Thế nào là Thiện xảo về đế?

Đế là bốn Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nghĩa là quán năm uẩn này là khổ, hành khổ, hoại khổ, đây gọi là trí về Khổ Thánh đế. Biết rõ vô minh làm tăng trưởng năm uẩn, gọi là trí tập đế. Không sinh tham dục, diệt sạch các khổ gọi là trí Diệt đế. Vì diệt này mà tu tám Thánh đạo gọi là trí Đạo đế. Đây gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát.

Lại có trí Thiện xảo về đế, nghĩa là biết khổ vốn không sinh gọi là trí Khổ đế. Biết tập không khởi gọi là trí Tập đế. Biết rõ xưa không sinh, nay không diệt gọi là trí Diệt đế. Không có hai tướng, tu tập Trung đạo gọi là trí Đạo đế. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế.

Lại nữa, Đại Bồ-tát biết rõ khổ thọ vốn là không, không có tự tánh, chánh trí năng quán cũng không, đó gọi là trí Khổ trong khổ. Quán tập là do duyên khởi theo duyên huyễn hóa mà có, chánh trí năng quán cũng đều không, đó gọi là trí Tập trong tập. Biết tham ái nên diệt trừ, bản tánh vốn không, chánh trí hiện tiền, thanh tịnh bình đẳng, đó gọi là trí Diệt trong diệt. Biết rõ con đường thoát khổ không thể đắc, dùng chánh trí quán sát tự tánh đều không, đó gọi là trí Đạo trong đạo. Dùng chánh trí như vậy thì xa lìa các phân biệt, đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát.

Lại biết sự sinh ra khổ, thể nó vô sinh, gọi là chân trí trong Khổ. Biết sinh tập, khởi tập không hòa hợp, gọi là chân trí trong Tập. Biết sự sinh vốn không nên không có diệt, gọi là chân trí trong Diệt. Biết con đường thoát khổ, lìa hữu lìa vô, gọi là chân trí trong Đạo. Đại Bồ-tát như thật liễu tri như vậy gọi là Thiện xảo về đế.

Lại có thiện xảo về đế, nghĩa là ba đế: Thế tục đế, Thắng nghĩa đế, Thật tướng đế:

Thế tục đế là tất cả ngôn ngữ văn tự và sự thấy nghe hay biết của thế gian.

Thắng nghĩa đế là diệt hết sự hoạt động của tâm, không còn văn tự, xa lìa tất cả thấy nghe hay biết.

Thật tướng đế, tất cả tướng là vô tướng, vô tướng ấy là thật tướng.

Với thế tục, Đại Bồ-tát không bị ô nhiễm, quán sát chân bình đẳng không trú vào một tướng nào cả. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát.

Lại có hai đế là Thế đế và Chân đế. Thế đế là đối với tất cả pháp sắc, tâm… thấy như thật, biết như thật. Chân đế là lý Nhị không, thanh tịnh y nhiên, hoàn toàn tịch diệt, giáo hóa không biết chán, biết rõ mà không nắm bắt, không có pháp nào có thể đắc. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát.

Lại có một đế, đó là pháp giới chân như thanh tịnh, không sinh không diệt, không thường, không đoạn, xa lìa hai bên an lạc cứu cánh. Với sinh hay vô sinh, tâm không hai tướng. Đó gọi là trí Thiện xảo về đế của Đại Bồ-tát.

Thế nào là Thiện xảo về duyên khởi?

Nghĩa là Đại Bồ-tát quán duyên khởi lưu chuyển không gián đoạn: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già, bệnh, chết, lo buồn khổ não. Bồ-tát dùng chánh trí như thật liễu tri về duyên khởi không có tánh, không sinh không diệt, tánh pháp hiện tiền không có tâm, không tạo tác, không chủ tể, không lệ thuộc. Đó gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát.

Lại có nhân thiện, nhân ác, nhân động, nhân bất động, nhân sinh tử, nhân Niết-bàn. Tất cả nhân như vậy đều biết như thật. Tất cả chúng sinh lợi căn hoặc độn căn, những căn tánh như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả báo như vậy, gốc ngọn như vậy, đều biết như thật. Theo nhân duyên sinh đó mà khéo tu tập không để hao mất, đó gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, khi vọng tưởng diệt thì vô minh diệt, vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, sầu khổ, ưu bi diệt. Đại Bồ-tát dùng chánh trí tuệ biết rõ duyên khởi không sinh không diệt, không chủ, không lệ thuộc, cho nên gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát.

Này Từ Thị! Tất cả nhân duyên đều là giả hợp, không có tự tánh, không phải do ta, người, chúng sinh hay thọ mạng mà được sinh trưởng. Vì các hữu tình mà nói pháp như vậy, vô lượng, vô biên không cùng tận, biết rõ như thật gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát.

Đại Bồ-tát liễu tri tất cả pháp duyên sinh không sinh không diệt là tướng vô tận, tướng vô tận này tức là tướng Bồ-đề. Đó gọi là trí Thiện xảo về duyên khởi của Đại Bồ-tát.

Sao gọi là thiện xảo về ba đời? Nghĩa là nhớ biết tất cả pháp lành ở quá khứ mà như thật tu hành, luôn xa lìa pháp bất thiện. Biết như thật rồi hồi hướng cho tất cả hữu tình. Đây gọi là trí Thiện xảo về quá khứ của Đại Bồ-tát.

Lại nhớ biết tất cả tư lương căn lành Bồ-đề ở vị lai rồi đều hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Đây gọi là trí Thiện xảo về vị lai của Đại Bồ-tát.

Tất cả chánh niệm tương ưng với pháp lành, không sinh tà niệm tương ưng với pháp bất thiện. Đây gọi là trí Thiện xảo về hiện tại của Đại Bồ-tát.

Lại quá khứ tất cả đều không, hiện tại, vị lai cũng đều không. Ba đời bình đẳng trụ vào Đệ nhất nghĩa, là chân thật giải thoát.

Lại quán phước đức và trí tuệ của tất cả chư Phật trong ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai mà sinh tâm tùy hỷ. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát.

Quán quá khứ đã diệt, vị lai chưa sinh, hiện tại không dừng, đem thắng hạnh tu học về thiện pháp trong ba đời hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Hiện tại pháp lành trong một sát-na cũng không dừng, mà luôn phát tâm Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát.

Quá khứ đã diệt, vị lai chưa sinh, hiện tại không dừng. Mỗi niệm, mỗi niệm sinh diệt như vậy không ngừng, tâm luôn giác tỉnh. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát.

Bồ-tát có thần thông tự tại chẳng nghĩ bàn, có thể nhớ biết tất cả căn lành đã gieo trồng trong quá khứ, các pháp lành đã tu trong hiện tại và sẽ nguyện tâm giác ngộ ở vị lai được viên mãn, tất cả đều nguyện hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát.

Vì muốn các hữu tình được thành thục mà nhớ lại tất cả căn lành đời quá khứ của tất cả hữu tình, tùy theo căn cơ của từng chúng sinh đó mà được thành tựu y theo lời nguyện. Tất cả hữu tình cúng dường chư Phật vị lai cũng tùy theo căn cơ của mỗi người sẽ được thành tựu. Tất cả hữu tình đời hiện tại, Đại Bồ-tát dùng thần thông thuyết pháp giáo hóa đủ cách, tùy thuận theo căn cơ của mỗi người mà thành tựu. Làm lợi ích cho mình và người trong ba đời như vậy tròn đầy diệu hạnh Bồ-đề thù thắng. Đây gọi là trí Thiện xảo về ba đời của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là Thiện xảo ba thừa?

Nghĩa là nương vào ba thừa mà cầu pháp xuất ly.

Thế nào là trí thiện xảo về Thanh văn thừa của Đại Bồ-tát?

Nghĩa là gặp Phật ra đời, được nghe pháp Tứ đế; nhờ nghe mà ngộ lý, sinh chánh kiến, cho nên gọi là Thanh văn. Do giữ giới thanh tịnh nên viên mãn giới thân, đạt được thiền định nên viên mãn định thân. Vì thấy chân lý chắc thật nên được thân trí tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến. Đây gọi là trí Thiện xảo về Thanh văn của Đại Bồ-tát. Thiện xảo về Thanh văn thừa nghĩa là sinh tưởng nhàm chán đối với ba cõi, quán thật kỹ về pháp hữu vi là vô thường, thấy tất cả pháp đều vô ngã, vui thích hoan hỷ Niết-bàn tịch tĩnh.

Lại quán năm uẩn như giặc thù, quán các giới như rắn độc, quán mười hai xứ như làng bỏ không. Luôn nguyện cầu pháp xuất ly, ưa thích Niết-bàn và nghĩ tưởng nương tựa vào Niết-bàn. Đây gọi trí Thiện xảo về Thanh văn thừa của Đại Bồ-tát.

Thế nào gọi là trí Thiện xảo về Độc giác thừa của Đại Bồ-tát? Nghĩa là nhàm chán hữu vi, thích pháp xuất ly, ít ham muốn, biết đủ, tránh xa các hý ác luận, thích ở nơi yên tịnh, tự nhiên giác ngộ các nhân duyên, thấy các pháp vô thường, nhờ đó mà được giải thoát. Đây gọi là trí Thiện xảo về Độc giác thừa của Đại Bồ-tát.

Thế nào là trí Thiện xảo về pháp Đại thừa của Đại Bồ-tát?

Nghĩa là công đức của Đại thừa vô lượng, vô biên, làm cho hữu tình đều ngộ nhập vào Tối thượng thừa mà không bị chướng ngại, không sinh không diệt, đạt được đại trí tuệ, tích lũy tất cả phước đức căn lành, là chỗ tất cả hữu tình thọ dụng, thành tựu các Ba-la-mậtđa, điều phục hoàn toàn các tâm hành, tăng trưởng Vô thượng Đại Bồ-đề, có oai lực lớn, đến đạo tràng, ngồi dưới cây Bồ-đề. Đem lòng đại Bi quán các căn cơ chúng sinh không lìa bỏ, không bị chướng ngại, thương xót tất cả đều bình đẳng như con một. Có thể vượt qua các sợ hãi về những cảnh giới ác, làm Phật pháp đều được hiện tiền, chiến thắng ngoại đạo ma oán, dựng cờ thắng pháp Bồ-đề, đoạn trừ các kết sử, đạt trí vô ngại của Phật Như Lai, làm tăng trưởng lợi ích trân bảo Phật pháp, tùy theo căn cơ mà làm lợi sinh không có sai lầm. Nuôi dưỡng hữu tình với lòng đại Bi rộng lớn, đầy đủ mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, tướng tốt, công đức, anh lạc trang nghiêm, không có lầm lỗi. Tất cả thiện xảo như vậy gọi là trí Thiện xảo về Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Lại có một thừa của chư Phật đầy đủ bảy pháp Phật làm Đại thừa giống như vua Chuyển luân có đầy đủ bảy báu:

  1. Đại quán sát.
  2. Đại tùy thuận.
  3. Đại trí tuệ.
  4. Đại tinh tấn.
  5. Đại giác ngộ.
  6. Đại phương tiện.
  7. Đại sự nghiệp.

Đại quán sát nghĩa là Đại Bồ-tát gần gũi bạn lành nghe Chánh pháp, trong một sát-na ngộ thật tướng hiện tiền của tất cả pháp.

Đại tùy thuận nghĩa là Đại Bồ-tát thành tựu đại Trí, đại Định, đại Bi, làm lợi ích cho mình và người.

Đại trí tuệ nghĩa là Đại Bồ-tát thấy tướng chân thật, ngã, pháp đều không.

Đại tinh tấn nghĩa là Đại Bồ-tát trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp luôn thành tựu đại Bi vạn hạnh.

Đại phương tiện nghĩa là Đại Bồ-tát được nhẫn bình đẳng, không trụ trong sinh tử, không chứng Niết-bàn.

Đại giác ngộ nghĩa là Đại Bồ-tát chứng mười Lực, bốn Vô sở

úy, mười tám pháp Bất cộng, được vô lượng, vô biên công đức.

Đại sự nghiệp là Đại Bồ-tát ở trong sinh tử chứng Đại Bồ-đề, thành tựu viên mãn hằng hà sa ức sự nghiệp của Phật.

Đầy đủ bảy pháp thù thắng như vậy là làm Pháp vương. Đây gọi là trí Thiện xảo về Đại thừa của Đại Bồ-tát.

Thế nào là Thiện xảo về tất cả pháp của Đại Bồ-tát? Nghĩa là với pháp hữu vi, vô vi, Đại Bồ-tát đều thông thạo rốt ráo. Thân, khẩu, ý làm việc thiện, thanh tịnh tăng trưởng, hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là trí Thiện xảo về hữu vi.

Bồ-tát không tạo thân, khẩu, ý nghiệp, đầy đủ tam vô tác thanh tịnh bình đẳng, hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là trí Thiện xảo về vô vi.

Lại có thiện xảo là đối với Bố thí, Trì giới… cho đến Thiền định. Đại Bồ-tát tu tập dũng mãnh hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát.

Lại dùng Bát-nhã ba-la-mật-đa lìa tất cả tướng, tu các Ba-lamật-đa hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát.

Lại có thiện xảo là dùng trí phương tiện hành bốn Nhiếp pháp để giáo hóa chúng sinh. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát.

Lại có thiện xảo trụ trong Đệ nhất nghĩa, tuy làm lợi ích chúng sinh nhưng không chấp thủ, hồi hướng lên Vô thượng Bồ-đề. Đây gọi là trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát.

Lại có thiện xảo: liễu tri phiền não làm tăng trưởng sinh tử, liễu tri pháp Bồ-đề phần, chấm dứt sinh tử. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát.

Lại biết ba pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện, đối với Vô thượng Bồ-đề có lòng tin kiên cố nhất định không bao giờ thoái chuyển, bình đẳng không hai không khác. Đây gọi là trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát.

Lại có thiện xảo hữu vi, nghĩa là hoạt động trong ba cõi mà không vướng mắc ba cõi. Đây gọi là trí Thiện xảo về hữu vi của Đại Bồ-tát. Liễu tri tánh ba cõi là không, như huyễn như hóa mà không chấp giữ. Đây gọi là trí Thiện xảo về vô vi của Đại Bồ-tát.

Như vậy liễu tri tánh của các pháp thanh tịnh không tướng, không tên, đầy đủ Nhất thiết trí gọi là thật trí. Vì cứu hộ tất cả chúng sinh mà phương tiện giả lập, phân biệt như vậy gọi là Quyền trí.

Đối với tám pháp này, Đại Bồ-tát dùng Nhị trí một cách tự tại gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Lại liễu tri tất cả pháp tánh gọi là trí tuệ. Quán tất cả các pháp thiện ác là phương tiện; tùy thuận giải thoát, xa lìa các phân biệt, Thánh trí được hiện tiền gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Lại có thể phân biệt một cách khéo léo về các kiến và kết sử, dùng pháp Quán và Chỉ đoạn trừ tất cả chúng gọi là phương tiện; nhưng làm viên mãn đại nguyện Vô thượng gọi là trí tuệ.

Diệt trừ các phiền não để được tươi mát giải thoát gọi là phương tiện; có thể giải tỏa các phiền não vì tánh không thể đắc, là trí tuệ.

Đoạn diệt khổ của thân tâm, được nhẹ nhàng an vui là phương tiện, dạo chơi vườn pháp được niệm Tổng trì, lý trí hiện tiền là trí tuệ.

Làm chỗ nương tựa cho các hữu tình là phương tiện; không trụ không chấp vào năng y, sở y là trí tuệ.

Đạt được ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề là phương tiện; thường ly niệm mà tương ưng với thật tướng trí tuệ, được pháp lạc lớn là trí tuệ.

Hay làm tăng trưởng năm Độ là phương tiện; tùy theo sở thích của thừa nào mà đồng đưa về Phật tuệ, tự tánh chiếu sáng là trí tuệ.

Có thể cứu tất cả chúng sinh ra khỏi dòng thác dữ sinh tử là phương tiện; thật không có chúng sinh nào diệt độ là trí tuệ.

Xây dựng chánh hạnh là phương tiện, thấy bản tánh là không, là trí tuệ.

Trừ khách phiền não là phương tiện, giác ngộ hoàn toàn về tánh trí không nhiễm là trí tuệ.

Làm mà không thấy làm là phương tiện, giác ngộ các pháp không là trí tuệ.

Không chấp trước ba cõi là phương tiện, khiến các Bồ-tát hiểu rõ Đệ nhất nghĩa là trí tuệ.

Giáo hóa chúng sinh tu hành các việc lành là phương tiện; tất cả Hiền thánh cùng một pháp giới là trí tuệ.

Tùy theo căn tánh của chúng sinh mà diệt trừ các phân biệt hư vọng là phương tiện; thấy xưa nay vốn thanh tịnh, tịch diệt, không sinh là trí tuệ.

Thường dùng mọi cách để đoạn diệt si ám là phương tiện; đi sâu vào thiền định nhưng không trụ vào thiền định là trí tuệ.

Giáo hóa dẫn dắt hàng Nhị thừa là phương tiện, đoạn trừ pháp chấp, nhập Phật tri kiến là trí tuệ.

Theo căn tánh của chúng sinh mà làm cho họ được sự thắng giải là phương tiện; hiểu rõ căn tánh đều không là trí tuệ.

Vượt qua cảnh giới hư vọng là phương tiện; khai mở thắng nghĩa đế là trí tuệ.

Quyền xảo tuyên thuyết bốn Đế là phương tiện; biết rõ những việc tu hành không thể đắc là trí tuệ.

Siêng cầu công đức với bi nguyện vô tận là phương tiện; biết rõ chân ngụy, không đến không đi, pháp giới bình đẳng là trí tuệ.

Tùy theo duyên mà giáo hóa chỉ dạy cho chúng sinh là phương tiện, hiểu rõ tánh phiền não xưa nay là giải thoát, đó là trí tuệ.

Biết kết sử do phân biệt hư vọng là phương tiện; biết rõ tâm chúng sinh xưa nay tịch tĩnh là trí tuệ.

Siêng năng tu tập đoạn trừ những tập khí tùy miên là phương tiện, tâm hành sai biệt của tất cả chúng sinh, tám vạn bốn ngàn cửa trần lao là cửa Phật tuệ, gọi là trí tuệ.

Khéo léo siêng tu Thanh văn, Duyên giác để dần dần đi vào Phật đạo là phương tiện; Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như vậy, mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Khi Đức Phật nói Bát-nhã ba-la-mật-đa này, trong hội có ba mươi hai ức Đại Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn, bảy vạn tám ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đại chúng trong hội này dùng đủ loại hoa thơm đẹp lạ, tàn lọng, cờ xí, đầy đủ các đồ trang sức hương thơm hoa Chiêm-bặc để cúng dường Bát-nhã ba-la-mậtđa, đại chúng rải cúng Như Lai, Đại Bồ-tát Từ Thị và các Bồ-tát. Trên hư không chư Thiên trổi nhạc trời ca tụng, khen ngợi Như Lai trong vô lượng kiếp thành tựu Bồ-đề, được vô lượng công đức.

Bấy giờ Đức Phật dạy Đại Bồ-tát Từ Thị cùng đại chúng:

–Các ông hỏi Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này là pháp môn công đức vô tận của Đại thừa không thể nghĩ bàn. Nghe kinh này, đại chúng trong hội kinh này cũng sẽ tròn đầy công đức như vậy. Nếu ai nghe kinh này có tâm tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói thì những người ấy được lợi ích vô lượng không thể nghĩ bàn, không thể ví dụ, không tính đếm được.

Khi ấy Đức Thế Tôn cởi y trao cho Từ Thị và nói:

–Lành thay, lành thay! Này thiện nam, ông hỏi Bát-nhã ba-lamật-đa thâm sâu như vậy đã làm cho tất cả mười phương chư Phật Như Lai trong đều tùy hỷ.

Nhận y Phật rồi, Bồ-tát Từ Thị đội lên đầu, cung kính thưa:

–Bạch Thế Tôn! Y này là chân thân bảo tháp của Như Lai. Tất cả Trời, Rồng, Nhân phi nhân đều phải làm lễ, đi nhiễu bên phải, cung kính cúng dường.

Bồ-tát Từ Thị vừa nói xong, bỗng nhiên đại chúng thấy đủ thứ hoa, vòng hoa báu, cờ xí, tàn lọng từ mười phương đến ở hư không ngay trên đỉnh đầu Đức Phật, trong chốc lát che khắp cả đại hội, Từ thị Bồ-tát và cả đại chúng. Từ trong những phẩm vật cúng dường như tàng lọng, cờ xí… phát ra âm thanh khen ngợi:

–Lành thay, lành thay! Bồ-tát Từ Thị đã hỏi nghĩa như vậy, thâm tâm chúng ta phải tùy hỷ cúng dường.

Khi ấy Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả tàn lọng, vòng hoa, cờ xí… này từ đâu mà phát ra âm thanh khen ngợi tùy hỷ như vậy?

Đức Phật dạy:

–Này thiện nam! Trong đời quá khứ, Bồ-tát Từ Thị đã tu hành hạnh Bồ-tát, độ thoát vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh nên nay được trụ vào địa Bồ-tát không thoái chuyển. Hoặc trong Thanh văn, Độc giác, Trời, Người, do nhân duyên kiếp trước mà các chúng sinh ấy ở mười phương thế giới đều dùng đủ loại hoa, vòng hoa, tàn lọng, cờ xí cúng dường kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa và Phật Như Lai, khen ngợi công đức của Từ Thị, cho nên có âm thanh ấy.

Đức Phật nói kinh này xong, tất cả chúng hội hướng đến chỗ Bồ-tát Từ Thị trân trọng nói:

–Hôm nay chúng ta được lợi ích lớn, được gần gũi cúng dường vị ấy, được ở chỗ Đức Thế Tôn nghe kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa này.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các chúng sinh này được nghe danh hiệu Phật và Bồ-tát Từ Thị còn được vô lượng, vô biên công đức, huống gì gần gũi trước Phật, được nghe kinh này và tin hiểu, thọ trì.

Đức Thế Tôn dạy Xá-lợi-phất:

–Thiện nam, thiện nữ nào trong một kiếp đem vàng bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, trân châu, ma-ni, đầu, mắt, tủy não… để bố thí mà không tiếc nuối và giữ gìn giới cấm, nhẫn nhục, tinh tấn tu tập thiền định. Nếu người nào nghe kinh này, dù chỉ một kệ bốn câu thì công đức thành tựu Đại thừa Bát-nhã ba-la-mật-đa của người này thắng vượt công đức trên. Nếu xa lìa pháp này, không thể thành tựu các Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi-phất! Do đó mà thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh điển này mà tin hiểu, thọ trì, suy nghĩ tu tập, ta nói người ấy mau thành Vô thượng Bồ-đề. Nên biết người ấy đã được pháp ấn Bồ-đề của chư Phật Như Lai.

Xá-lợi-phất! Khi nói kinh này, nếu có Bồ-tát phát nguyện như vầy: “Nay con sẽ trì tụng kinh này và vì người khác giảng nói”, người ấy thường có tâm niệm như vậy, thì đó là viên mãn Bố thí ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì trong tất cả các sự bố thí, bố thí pháp là tối thắng. Nếu trì kinh này, giữ gìn phòng hộ pháp thân tức là viên mãn Trì giới ba-la-mật-đa. Thuận với Vô sinh nhẫn gọi là Nhẫn nhục ba-la-mật-đa. Như lý, không giải đãi là Tinh tấn ba-la-mật-đa. An trú trong tịch diệt là Thiền định ba-la-mật-đa. Tự nhiên được trí tuệ, không nhờ vào duyên sinh mà giác ngộ, gọi là Trí tuệ ba-lamật-đa.

Này Xá-lợi-phất! Nếu có người thọ trì kinh này, dù chỉ một kệ bốn câu thì mau viên mãn Vô thượng Bồ-đề. Nếu Bồ-tát thọ trì kinh này, đọc tụng, ghi chép, hoặc giữ gìn kinh này thì sinh ở đâu cũng đều gặp Phật. Nên biết người ấy đã được tất cả pháp tàng của Như Lai. Nếu người thọ trì kinh điển này, tuy hình tướng có sai khác nhưng tâm Bồ-đề không có hai tướng. Vì sao? Này Xá-lợi-phất! Vì kinh này là pháp ấn thật tướng Bồ-đề không thoái. Do đó nên biết, các Bồ-tát tùy thuận theo kinh này thì được Vô thượng Bồ-đề không thoái chuyển. Nếu Bồ-tát tùy thuận kinh này là tùy thuận với tất cả Phật pháp.

Khi ấy, Hộ thế Tứ Thiên vương cùng các Đại vương quyến thuộc đều chắp tay cung kính tôn trọng, nhất tâm giữ chánh niệm, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Tứ Thiên vương chúng con nay sẽ giữ gìn Chánh pháp của Như Lai. Nếu thiện nam, thiện nữ nào trì kinh này thì người đó là Pháp sư, con sẽ tôn thờ, cung kính cúng dường như chư Phật không khác. Vì sao? Vì tất cả chư Phật và pháp Đại thừa đều từ kinh này mà ra.

Lúc ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con tuy theo Phật, được nghe nhiều kinh nhưng chưa từng được nghe kinh thâm sâu này. Con cùng chúng trời sẽ bảo vệ kinh này. Nếu kinh này có mặt ở thành ấp, xóm làng, rừng núi, dưới gốc cây, nơi thanh vắng… mà có người thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói, thì chư Thiên chúng con sẽ làm thính chúng. Nhờ kinh này mà sắc lực của quốc vương, hoàng hậu, hoàng phi, quyến thuộc nơi đó ngày càng dồi dào, không còn lo buồn gì cả. Chúng con luôn cung cấp, ủng hộ đại thần, khanh tướng, tất cả nhân dân và người thuyết pháp, khiến cho họ không có lo âu. Chúng con làm cho thời tiết của các quốc giới được thuận lợi, có thứ tự, không trái ngược, tất cả địch thù không thể xâm lăng làm hại, lúa má được mùa nhân dân an lạc, làm tăng thêm sắc lực của Pháp sư biện tài vô ngại; lại khiến cho Pháp sư ở trong chúng được Đại vô úy, giống như Sư tử vương thuyết pháp cho mọi người.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Thiên đế:

–Lành thay, lành thay! Này Kiều-thi-ca, ông ủng hộ kinh này và Pháp sư không còn nguy nạn. Ông nên biết rằng, nếu ai ủng hộ Pháp sư thì người đó là hộ pháp. Người hộ pháp là ủng hộ đất nước và nhân dân.

Bấy giờ, các Đại phạm Thiên vương ở thế giới Tố-ha bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con và chúng trời Phạm thiên bỏ sự khoái lạc thiền định, thích theo đến chỗ có kinh điển này và Pháp sư. Con sẽ đến đó hiện ra bốn tướng để Pháp sư biết có chúng con đến:

  1. Thấy ánh sáng lớn.
  2. Nghe có mùi thơm lạ.
  3. Làm cho Pháp sư đó được biện tài vô ngại.
  4. Làm cho thính chúng nhất tâm chánh niệm.

Do bốn tướng này mà biết có con ở trong hội, con sẽ làm người hộ pháp để nghe Chánh pháp.

Khi ấy, ma vương Ba-tuần thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói kinh này làm cho cung điện của con không còn màu sắc ánh sáng, bị chấn động, không an ổn, thế lực bị suy hao.

Đức Phật nói:

–Các vị Đại Bồ-tát nghe kinh này, kinh này ở chỗ nào mà có thiện nam, thiện nữ thọ trì cho đến một kệ bốn câu, khi lọt vào tai thì tin hiểu thọ trì; nên biết người này đã được thọ ký Vô thượng Bồ-đề, sẽ kế thừa ngôi vị Phật.

Ma vương Ba-tuần thưa:

–Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ đó nhờ thọ trì kinh này mà làm cho oai đức, thế lực của quyến thuộc con bị tiêu diệt. Như vậy, nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói kinh này, dù người đó ở đâu, chúng con nguyện luôn ủng hộ, không bao giờ khởi một tâm niệm làm chướng ngại.

Đức Thế Tôn dạy Xá-lợi-phất:

–Đời vị lai ông nên thọ trì, đọc tụng, lưu bố kinh này để cho Chánh pháp được tồn tại lâu dài.

Xá-lợi-phất thưa:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì.

Phật dạy A-nan:

–Ông nên thọ trì, đọc tụng, lưu bố kinh này.

A-nan thưa:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì. Tuy nhiên, chúng con luôn phụng hành nhưng không bằng các vị Bồ-tát lưu bố rộng rãi.

Phật dạy A-nan:

–Đừng lo sợ kinh này không được lưu bố, vì vô số Đại Bồ-tát trong đại hội này đều nguyện lưu truyền.

Trong hội có sáu mươi câu-chi Đại Bồ-tát vì muốn bảo hộ, giữ gìn kinh điển này liền đứng dậy thưa:

–Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Chúng con thề sẽ lưu bố kinh này khắp cả mười phương thế giới. Thế giới Tố-ha đã có Từ Thị tuyên nói kinh này không cho gián đoạn. Sau khi Phật diệt độ năm trăm năm, có chúng sinh nào vừa mới nghe kinh này đã lọt vào tai thì biết người đó được Phật thọ ký. Ai thọ trì kinh này, dù một kệ bốn câu, nên biết những người đó đều do oai thần của Đại Bồ-tát Từ Thị kiến lập.

Đức Thế Tôn dạy chúng Bồ-tát:

–Lành thay, lành thay! Này các thiện nam tử, ở chỗ ta, các ông đã ủng hộ kinh này nên biết rằng, các ông cũng phải ủng hộ kinh này ở vô lượng hằng sa cõi nước chư Phật.

Khi đó Đại Bồ-tát Từ Thị quỳ chắp tay thưa:

–Bạch Đại Thánh Thế Tôn! Con hỏi kinh này là xúc phạm đến Như Lai. Nay trước Phật con xin chí thành sám hối, cúi xin Ngài rủ lòng Từ bi thương xót, tha thứ lỗi lầm cho con và các vị Bồ-tát đây cũng xin sám hối nhận tội như con.

Phật dạy:

–Này Từ Thị! Ông đã được Bát-nhã ba-la-mật-đa với nghĩa lý thâm sâu, với pháp Đại thừa không có nghi ngờ, với thân, khẩu, ý không lầm lỗi, tất cả chư Phật đều ấn khả cho ông. Pháp của ông nói ra cũng như pháp của ta đã nói.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Và chúng con phụng trì thế nào?

Phật dạy:

–Kinh này tên là Quá Khứ Hiện Tại Vị Lai Đại Bồ-tát Ma-hatát Đại Thừa Lý Thú, cũng là mắt của tất cả chúng sinh, cũng là mẹ của chư Phật, cho nên kinh này tên là Đại Thừa Bồ-tát Lý Thú Lục Ba-la-mật-đa Vô Lượng Vô Biên Vô Tận Nghĩa Kinh. Với danh tự như vậy, ông nên thọ trì.

Được nghe Đức Phật nói xong, Cụ thọ A-nan, tất cả đại Thanh văn, Đại Bồ-tát Từ Thị và tất cả Đại Bồ-tát, tất cả thế gian Trời, Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân, cùng Đại Bồ-tát Vô Tận Tạng ở thế giới Bất thuấn đều hoan hỷ tin thọ phụng hành.