LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA BẢO KINH CHÚ GIẢI
Tam Tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, đời Tống vâng chiếu dịch.
Tỳ-kheo Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới đời Đại Minh,
Thích Như Dĩ trụ trì Diễn Phước Giảng tự vâng chiếu đồng chú giải.

 

KÍNH GHI

Ngày mồng mười, tháng bảy, niên hiệu Hồng Vũ năm thứ mười một, Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới, Như Dĩ trụ trì Diễn Phước Giáo tự, vâng chiếu soạn Tân Chú kinh Lăng-già, quan Giám lệnh. Đồng Khảo Công là Lý Vĩnh, dâng lên vua ở lầu Tây Hoa. Nhà vua xem ngay và ra chiếu chỉ đón rước kinh một cách long trọng; Kinh được chú giải đầy đủ, Vua ra lệnh khắc bản cho ấn hành, ban lệnh cho tăng chúng khắp trong nước giảng dạy và học tập theo. Cung Kính.

BÀI TỰA DÂNG TÂN CHÚ KINH LĂNG GIÀ

Thần nghe pháp mà tinh thần phấn khởi, tuy nói rằng do người, nhưng chắc cũng do thời, có người mà không có thời, có thời mà không có người thì dù muốn hưng khởi cũng không thể được ư! Cho nên, có vị vua thông minh Thánh trí thì khắp đất nước sẽ được an hưởng thái bình. Còn bộ Kinh Lăng-già do bậc Đại Giác Thế tôn nói vào hai ngàn năm trước, mà nay hai ngàn năm sau Hoàng Đế cho ban hành, đâu chẳng phải có người mà không có thời ư! Nếu không như vậy thì sao bộ kinh này từ Đông Độ truyền đến Trung Quốc hơn ngàn năm nay, các bậc

Đế vương trước chưa hề có như ta. Thiên tử là bậc Thánh để tâm chú ý nghiên cứu chỉ thú bộ kinh và ban sắc cho tăng chúng nương vào bộ kinh mà tu tập, nên có sự hưng thịnh như thế. Song, Đức Phật của chúng ta sở dĩ nói kinh này vì muốn dứt sạch vọng tâm cho chúng sinh, giúp họ trở về đạo chân chánh giải thoát; mà tâm của Hoàng thượng muốn thiên hạ đời sau đều dứt vọng về chân, bỏ ác làm lành, bước vào bờ cõi của những người có đạo đức nhân hậu, như vậy mới khế hợp với tâm Phật. Vả lại, điểm quan trọng của kinh này không ngoài năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, bao gồm cả chân vọng, tu tánh, nhân quả, Thánh phàm, đều không ngoài nhất tâm. Nếu suy xét được tâm này thì sợ ác mà sửa đổi thành thiện, bỏ vọng mà trở về chân, sẽ đạt đến địa vị tự chứng Thánh trí. Còn nếu không thể cứu xét tâm này thì tha hồ buông lung, theo dòng đời mà quên trở lại, đến nỗi đánh mất sự trung hiếu, làm bại hoại phong tục, làm rối loạn luân thường đạo lý, cam tâm dẫm đạp lên phép tắc của quần chúng, như đi trên lửa nước. Do đó nên Phật sinh tâm đại bi cứu giúp chúng sinh, cũng nhờ lòng nhân từ của Đế vương nuôi dưỡng lê dân bá tánh, bảo bọc như con đỏ. Thần Thích Tông Lặc, Như Dĩ ghi chép.

Vâng theo Thánh dụ dùng ba kinh: Tâm Kinh, Kim Cương và Lăng-già làm pháp môn đối trị tâm, bỏ tình lìa chấp đầy đủ như vậy, chúng ta sao không cố gắng ư! Chúng thần từ khi nhận lệnh đến nay sớm tối canh cánh trong lòng lo sợ, sợ không xứng đáng việc nhà vua giao phó, vì vậy nên hết lòng suy nghĩ, chú thích hai kinh: Tâm Kinh và Kim Cương vào ngày hai mươi tám tháng Giêng niên hiệu Hồng Vũ năm thứ mười một, tâu vua xin cho truyền bá ở đời. Nhưng bộ Lăng-già này đến ngày mười hai tháng bảy mới chú giải xong, kính cẩn huân xông chép ra cúi đầu lễ bái, dâng lên Hoàng Đế. Nhiều lần suy nghĩ chúng thần tài hèn sức mọn, học lực yếu kém, cố nhiên không dám cho mình là người chú thích kinh, nhưng nhờ thấm nhuần ân mưa móc, nương ánh sáng trong suốt của mặt trời mặt trăng, truyền bá kinh này cho đời sau, ngõ hầu giúp ích trong muôn một, để khỏi cô phụ Thánh ân.

Tháng bảy niên hiệu Hồng Vũ năm thứ mười một.

Kính ghi lời tựa.

 

LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH CHÚ GIẢI
Tam Tạng pháp sư Cầu-na-bạt-đà-la, đời Tống vâng chiếu dịch.
Tỳ-kheo Thích Tông Lặc trụ trì Thiện Thế Thiền Tự ở Thiên giới đời Đại Minh,
Thích Như Dĩ trụ trì Diễn Phước Giảng tự vâng chiếu đồng chú giải.

 

QUYỂN MỘT
(Phần 1)

Kinh này có bốn bản dịch, nay chỉ còn lại ba bản, bản thứ nhất do ngài Cầu-na-bạt-đà-la đời Lưu Tống dịch thành bốn quyển gọi là Kinh Lăng-già A-bạt-đa-la Bảo. Bản thứ hai, ngài Bồ-đề-lưu-chi đời Nguyên Ngụy dịch gồm mười nquyển, tên là Kinh Nhập Lăng-già. Bản thứ ba do ngài Thật-xoa-nan-đà đời Đường cùng ông Phục Lễ v.v… dịch gồm bảy quyển, tên là Kinh Đại thừa Nhập Lăng-già.

Nếu nói theo văn dịch dễ khó thì bản dịch bảy quyển đời Đường văn dễ hiểu nghĩa rõ ràng, từ đầu đến cuối đầy đủ. Nay giải thích từ bản dịch bốn quyển đời Tống, truyền bá bản dịch đầu tiên này ở đời cho mọi người đọc tụng. Huống chi Đại sư Đạt-ma khi trao tâm pháp cho tổ Tuệ Khả có nói rằng: Kinh Lăng-già bốn quyển có thể dùng để ấn tâm, Trương Phương Bình có chép tuy bản này, Tô Tử xem soạn lời tựa về việc ấy. Cho nên biết qua nhiêu đời thường dùng bản này. Nhưng văn từ cô đọng khó hiểu cho đến câu văn có chỗ không đọc được, do đó dùng những đoạn văn nghĩa rõ ràng của bản dịch bảy quyển để giải thích, và chọn bản chú giải xưa để so sánh. Kinh này dùng pháp dụ để đặt tên, Đệ nhất nghĩa tâm làm thể, dứt  vọng bày tánh làm tông, phân biệt chánh tà làm dụng, Phương đẳng Đại thừa làm giáo tướng, pháp dụ làm tên: Lăng-già là tên thành, Hán dịch là Bất Khả Vãng, vì thành kia ở trên đảnh núi Ma-la thuộc bờ biển phía Nam, người nào không có thần thông thì chẳng thể lên đó được. Phật ở tại thành ấy nói pháp, tức cảnh giới Phật, dùng xứ tiêu biểu cho pháp. A-bạt-đa-la, Hán dịch là vô thượng, cũng dịch là Nhập. Bảo: Là vật báu quý giá dụ cho kinh này rất tôn quý, cho nên nói pháp dụ đặt tên. Kinh: Là thông suốt, nghĩa là thông suốt các nghĩa.

Đệ nhất nghĩa tâm làm thể: Tức là kho Như lai tự tánh thanh tịnh Đệ nhất nghĩa tâm. Tông chỉ là dứt vọng bày tánh: Nghĩa là thấu đạt vọng, hiển bày chân, lìa tánh chấp. Bác bỏ Tiểu thừa, phân biệt tà chánh làm dụng: Nghĩa là phá thiên chấp, của Tiểu thừa bẻ gãy tà kiến của ngoại đạo. Giáo tướng là Phương đẳng Đại thừa: Nghĩa là nói kinh có cả ba thừa, nghĩa thuộc viên đốn. Năm chương này đều là ý chỉ giải thích trong kinh. Nay chọn lấy giải thích đầu đề, muốn cho người học hiểu biết đại ý toàn kinh.

 

Phẩm 1: NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

1. Giải thích tên phẩm:

Phật ngữ tâm: tức tâm pháp do các Đức Phật giảng nói. Nhưng pháp môn nói trong kinh, đại khái có bốn, đó là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã. Chỉ nói về tâm: vì bốn pháp môn này là cương mục của toàn kinh, là tinh yếu để nghiên cứu tâm, như Kinh Nhập Lănggià chép: năm pháp tự tánh… là các pháp môn nhiệm mầu, là tất cả các Đức Phật, Bồ-tát nhập vào cảnh tự tâm, lìa tướng sở hành, gọi là nghĩa chân thật, là giáo tâm của các Đức Phật.

Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Phật ngự trên đảnh núi Lănggià ở bờ biển phía Nam, trang nghiêm bằng các thứ hoa báu, câu hội với các vị đại Tỳ-kheo tăng và chúng Đại Bồ-tát. Chúng Đại Bồ-tát này từ các cõi Phật khác đến, các Ngài có năng lực tự tại, vô lượng chánh định, và thần thông du hý, Đại Bồ-tát Đại Tuệ là bậc Thượng thủ. Các Ngài đã được tất cả các Đức Phật làm phép Quán đảnh và khéo hiểu nghĩa cảnh giới do tự tâm hiện, các loài chúng sinh, các thứ tâm sắc, vô lượng độ môn tùy loài hiện khắp. Đối với năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã, các Ngài đã thông đạt rốt ráo.

Đây là phần tựa chung. Như vầy: là chỉ cho được nghe pháp, cũng là lời tin thuận. Tôi nghe: là ngài A-nan nghe Phật nói pháp này. Một thuở nọ: là thời gian vị Giáo chủ và đồ chúng ở trong hội. Phật: là giác, nghĩa là giác đạo đã thành, tùy theo căn cơ mà nói pháp, dẫn dắt làm lợi ích an vui chúng sinh. Trụ trên đảnh núi Lăng-già thuộc bờ biển phía Nam: là nơi chốn nói pháp. Hoa báu trang nghiêm: là chỉ sự tốt đẹp quý giá. Chúng đại Tỳ-kheo, Bồ-tát: xếp vào chúng đồng nghe. Từ các cõi Phật khác đến: là nêu xa biết gần, để hiển rõ chúng đông. Vô lượng Tam-muội… là khen ngợi đức của Bồ-tát. Từ Đại Tuệ trở xuống là khen ngợi riêng đức của ngài Đại Tuệ. Được các Đức Phật đưa tay làm phép Quán đảnh: là nói giai vị kia ở bậc Đẳng giác, sẽ được trao địa vị Phật cho nên được Phật làm phép Quán đảnh. Cảnh giới tự tâm hiện: Là tất cả cảnh giới thiện ác đều do tự tâm hiện ra. Đại Tuệ khéo hiểu nghĩa cảnh giới tự tâm hiện, trí tuệ siêu vượt cao xa. Các thứ sắc tâm chúng sinh: nghĩa là tất cả loài hữu tình năm uẩn các thứ đều khác nhau. Đại Tuệ dùng vô lượng độ môn mà ứng hiện khắp, đó chính là pháp môn sâu rộng. Năm pháp là: danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, và như như. Ba tự tánh là: vọng tưởng, duyên khởi và thành. Thức: tức là tám thức. Hai vô ngã: là người vô ngã và pháp vô ngã. Các pháp trên đây Đại Tuệ 360 đều khéo léo thông đạt rốt ráo, vì mọi người mà làm người phát khởi. Đây là Đức Phật khen ngợi sâu xa.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ và Bồ-tát Ma-đế cùng nhau đến tất cả cõi nước các Phật, nương oai thần Phật đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính dùng kệ khen ngợi Phật.

Dưới đây là phần tựa riêng. Ma-đế, Hán dịch là Tuệ, tự vén y bày vai rất cung kính là nghi thức cung kính ở Thiên Trúc.

2. Lý do khởi tâm đại bi:

“Thế gian lìa sinh diệt.
Như hoa đốm trong không.
Trí chẳng thấy có không.
Mà khởi tâm đại bi.
Tất cả pháp như huyễn.
Đều xa lìa tâm thức.
Trí chẳng thấy có không.
Mà khởi tâm đại bi.
Xa lìa chấp đoạn thường.
Thế gian thường như mộng.
Trí chẳng thấy có không.
Mà khởi tâm đại bi”.

Tất cả chúng sinh ở thế gian đều bỏ giác theo trần, trôi lăn trong vòng sinh tử mà sinh khởi tâm thức vọng tưởng, lại chấp hai thứ đoạn thường, không thể vượt ra. Như lai dùng trí tuệ nhiệm mầu quán sát thông đạt tất cả các pháp sinh diệt… Như hoa đốm trong hư không, như mộng huyễn chẳng phải có chẳng phải không, sinh khởi tâm đại bi mà độ thoát, giúp cho chúng sinh đều được xa lìa.

“Biết người pháp vô ngã.
Phiền não và nhĩ diệm
Thường thanh tịnh vô tướng.
Mà khởi tâm đại bi.”

Đây là lìa phiền não hoặc chướng của hoặc chướng, trí chướng. Nhĩ diệm là tiếng Phạm, nghĩa là trí chướng. Trí vốn phá hoặc, hoặc tức là hai thứ chấp, người và chấp pháp. Vô ngã: là không có hai thứ chấp này. Nếu đối với trí, sinh chấp đắm trí cũng thành chướng, đức Như lai hiểu rõ người, pháp, hoặc, trí vốn không, cho nên nói “Thường thanh tịnh vô tướng”. Chúng sinh do mê mà chịu khổ, cho nên khởi tâm đại bi mà cứu giúp.

3. Nói về lý bất sanh bất diệt:

“Tất cả không Niết-bàn.
Không Niết-bàn của Phật.
Không có Phật Niết-bàn.
Xa lìa giác, sở giác.
Hoặc hữu, hoặc vô hữu.
Cả hai thảy đều lìa”.

Tất cả là: tất cả chúng sinh. Niết-bàn: là lý bất sinh bất diệt, Phật và chúng sinh đều có lý này. Không có sinh tử để dứt thì đâu có Niết-bàn để chứng, cho nên nói “Tất cả không Niết-bàn”. Nhưng chẳng chứng mà chứng, chứng Niết-bàn này. Cho nên Phật là người năng chứng, Niếtbàn là pháp sở chứng. Lìa pháp, không có người, cho nên nói “Không có Niết-bàn của Phật”. Lìa người vô pháp, cho nên nói không có Phật Niết-bàn. Kinh Nhập Lăng-già chép: Phật không trụ Niết-bàn, Niếtbàn không trụ nơi Phật. Lời tuy khác mà nghĩa thì đồng. Giác là Phật sở giác, tức Niết-bàn, người, pháp đều mất, cho nên nói “xa lìa giác, sở giác”. Nhưng người pháp đều không là quên hữu mà chưa quên vô, cho nên nói “hoặc hữu, hoặc vô hữu, cả hai đều lìa”.

4. Nói về lìa chấp đắm:

“Quán Mâu-ni vắng lặng
Cho nên xa lìa sinh
Ấy gọi là chẳng chấp
Đời nay, đời sau tịnh”.

Mâu-ni là tiếng Phạm, Hán dịch là Tịch mặc, là tên Phật. Ở đây nói người quán được thể vắng lặng của Phật như thế thì sinh ra xa lìa, vì thế đối với Phật bất sinh chấp đắm, cho nên đời nay, đời sau đều được thanh tịnh. Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu thấy Mâu-ni vắng lặng, sinh xa lìa thì người ấy đời nay đời sau lìa chấp đắm, không còn chấp đắm, lời nghĩa càng rất rõ ràng. Các bài kệ trên khen ngợi Phật đều nói lìa chấp đắm, do khen ngợi Phật được sinh điều lành, nếu không lìa chấp đắm thì không thể sinh điều lành sâu xa.

5. Bồ-tát Đại Tuệ phát khởi:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ khen Phật xong, tự nói tên họ:

Con tên là Đại Tuệ,
Thông đạt được Đại thừa,
Nay đem trăm tám câu,
Thưa hỏi bậc Tối tôn”.

Dưới đây là phần chánh tông, Đại Tuệ tự nói là căn cơ Đại thừa, vì chúng mà phát khởi.

6. Đức Phật hứa nói:

“Khi bậc Thế gian giải,
Nghe Bồ-tát nói kệ,
Quán sát tất cả chúng,
Bảo các Phật tử rằng:
Này Phật tử các ông!
Nay cho mặc tình hỏi,
Tôi sẽ vì các ông,
Nói cảnh giới tự giác”.

Thế gian giải là một trong mười hiệu của Như lai. Đại Tuệ hỏi một trăm lẻ tám câu, đều là pháp mà Như lai đã thân chứng, cho nên nói cảnh giới tự giác.

7. Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi một trăm lẻ tám câu:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ do lời Phật nói, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính dùng kệ hỏi rằng”.

Bảo Thần chú Nhập Lăng-già chép: Sau đây là các bài kệ hỏi nghĩa một trăm lẻ tám câu. Có trường hợp một câu là một nghi vấn, có trường hợp hai câu là một nghi vấn, có trường hợp ba câu là một nghi vấn, cho đến mười câu là một nghi vấn, có khi một câu là hai nghi vấn, nói chung, một trăm lẻ tám câu này là hỏi về năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, là pháp môn đối trị để cứu độ chúng sinh. Vì vậy, Đại Tuệ nêu những việc đã thấy khi cùng Ma-đế đến các cõi nước của các Đức Phật, cho nên dưới đây hỏi núi, biển, trời, trăng v.v… danh, tướng, vọng tưởng trong năm pháp. Đoạn dưới hỏi các thiền giải thoát v.v… tức là chánh trí, như như trong năm pháp.

“Làm sao thanh tịnh được niệm kia? Là hỏi làm thế nào thanh tịnh được vọng niệm kia mà sinh chánh niệm?

Làm sao khiến niệm thêm lớn? Là hỏi tịnh niệm thêm lớn.

Làm sao thấy si hoặc? Là hỏi về khởi kiến hoặc?

Vì sao hoặc thêm lớn? Là hỏi thêm lớn kiến hoặc?

Vì sao có tướng biến hóa các cõi và các ngoại đạo? Là hỏi Như lai ở trong cõi nước, thị hiện thân tướng biến hóa chúng sinh và các ngoại đạo.

Vì sao không chịu thứ lớp? Kinh Nhập Lăng-già chép: Không có hình ảnh thứ lớp, nghĩa là hỏi trong pháp vô tướng thì do đâu mà có thứ lớp?

Vì sao gọi vô thọ? Do ở trên hỏi nếu có thứ lớp, vì sao gọi là pháp vô tướng. Vô thọ tức là nghĩa vô tướng.

Vì sao gọi là Phật tử? Là hỏi vì sao Bồ-tát gọi là Phật tử?

Giải thoát đến chỗ nào? Là hỏi người tu hành đã được giải thoát thì có thể đến chỗ nào?

Ai buộc, ai giải thoát? Là hỏi khi mê ai bị trói buộc, khi ngộ ai được giải thoát?

Cái gì là cảnh giới thiền? Là hỏi các thiền định lấy gì làm cảnh giới?

Tại sao có ba thừa? Cúi mong giải thích cho. Hỏi do đâu mà có ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Duyên khởi vì sao sinh? Thế nào tác sở tác?: Là hỏi duyên khởi thiện ác và nghiệp quả gây ra.

Thế nào thuyết đồng khác? Là hỏi ngoại đạo tà kiến vì sao có thuyết đồng khác?

Thế nào là thêm lớn? Kinh Nhập Lăng-già chép: Vì sao các hữu khởi? Nghĩa là khởi ba cõi.

Thế nào gọi là định Vô Sắc? Là hỏi về bốn không định của cõi Vô Sắc.

Cùng với diệt chánh thọ? Là hỏi chánh thọ định diệt tận!

Thế nào là tưởng diệt? Vì sao từ định giác? Là hỏi tâm thọ tưởng diệt là định, vì sao từ định mà khởi giác!

Vì sao sở tác sinh? Tiến đi và giữ thân? Là hỏi từ định khởi dụng, phàm sở tác là do thân này tiến đi, an trụ được tự tại hoàn toàn.

Vì sao hiện phân biệt? Là hỏi hiện thân nói pháp phân biệt các tướng khác nhau của các pháp?

Làm sao sinh các địa? Là hỏi được ngộ nhập các địa vị. Kinh Nhập Lăng-già chép: Làm sao nhập vào các địa?

Ai người phá ba cõi? Ở đâu? Thân ra sao? Là hỏi phá được các cõi, vượt ra ngoài ba cõi. Sao gọi là Phật tử? Kinh nhập Lăng-già chép: Làm sao có Phật tử có khả năng phá được ba cõi?

Vãng sinh đến chỗ nào? Hỏi đã phá ba cõi rồi thì vãng sinh về cõi nào?

Sao gọi Tối thắng tử? Là hỏi trong hàng đệ tử Phật, ai là bậc nhất?

Nhờ đâu được thần thông? Và Tam-muội tự tại? Là hỏi thần thông tự tại do tu hành như thế nào mà được?

Tâm Tam-muội là gì? Tối thắng vì con nói. Là hỏi tâm Tam-muội vì sao là tốt đẹp?

Thế nào gọi là tạng? Là hỏi tàng thức thứ tám?

Thế nào ý và thức? Là hỏi về ý căn và các thức.

Vì sao sinh và diệt? Vì sao thấy rồi không? Là hỏi ý thức khởi thấy sinh diệt, thấy rồi cũng diệt? Kinh Nhập Lăng-già chép: Vì sao khởi các kiến? Vì sao thối các kiến?

Thế nào là chủng tánh, phi chủng và tâm lượng? Hỏi chủng tánh khác nhau giữa ba thừa, ngoại đạo không có chủng tánh và tâm lượng bất định chủng.

Vì sao lập ra tướng? Cùng với nghĩa vô ngã? Là hỏi hữu tướng và tướng vô ngã?

Vì sao không chúng sinh? Sao thế tục nói có? Là hỏi chân vô tục hữu.

Thế nào là chấp đoạn, và chấp thường chẳng sinh? Là hỏi hai kiến chấp đoạn, thường?

Tại sao Phật, ngoại đạo, tướng chẳng hề trái nhau? Là hỏi tà chánh không trái nhau?

Vì sao đời tương lai lại sinh các bộ phái? Là hỏi sau khi Phật diệt độ đệ tử Ngài lại lập các bộ phái khác nhau.

Sao gọi không gọi nhân? Sao gọi sát-na hoại? Hỏi tánh không của các pháp, sát-na niệm diệt, niệm sát-na rất nhỏ nhiệm?

Thế nào thai tạng sinh? Là hỏi về gá thai thọ sinh?

Vì sao đời bất động? Là hỏi tướng thế gian có tánh chất dời đổi, vì sao bất động.

Do đâu như huyễn mộng? Và thành Càn-thát-bà, như ánh nắng thế gian, như trăng soi mặt nước. Đây là hỏi năm ví dụ: Dụ cho tướng sinh diệt của thế gian đều là nghĩa không thật. Càn-thát-bà là tiếng Phạm, Hán dịch Tầm hương thành.

Do đâu nói chi giác, cùng với Bồ-đề phần? Là hỏi bảy giác chi và tám chánh đạo.

Vì sao cõi nước loạn? Là hỏi cõi nước nương ở, vì sao mà hư hoại rối loạn.

Vì sao khởi chấp Hữu? Là hỏi các pháp không có tự thể tại sao khởi chấp Hữu, Hữu là ba cõi. Kinh Nhập Lăng-già chép: vì sao thấy các cõi?

Thế nào bất sinh diệt? Đời như hoa trong không? Là hỏi tướng thế gian như hoa đốm trong hư không, vì sao nói bất sinh không diệt. Kinh nhập Lăng-già chép: Thế nào là hoa đốm giữa hư không, bất sinh cũng không diệt?

Thế nào giác thế gian? Vì sao nói lìa văn tự? Là hỏi chúng sinh làm sao hiểu biết các pháp thế gian? Làm sao lìa tướng văn tự?

Lìa vọng tưởng là ai? Vì sao ví hư không? Là hỏi ai biết các pháp như hư không lìa vọng tưởng phân biệt? Kinh Nhập Lăng-già chép: vì sao như hư không? Làm sao lìa phân biệt.

Có mấy thứ như thật? Là hỏi chân như có bao nhiêu thứ.

Mấy tâm Ba-la-mật? Có bao nhiêu độ tâm?

Nhờ đâu vượt các địa? Ai đến vô sở thọ? Là hỏi ai có thể vượt qua thập địa, đạt đến Phật địa? Vô sở thọ là cảnh giới Phật.

Hai vô ngã là gì? Là hỏi ai có khả năng không bị hoặc chướng, chấp hai thứ người pháp.

Làm sao tịnh nhĩ – diệm? Là hỏi ai có khả năng làm thanh tịnh trí chướng?

Các trí có mấy thứ? Là hỏi các chánh trí.

Mấy giới, tánh chúng sinh? Là hỏi chúng sinh tánh khác nhau, có mấy thứ giới cấm?

Ai sinh các thật tánh? Ngọc ma-ni chân châu? Là hỏi các vật báu do đâu mà sinh.

Ai sinh các ngữ ngôn? Chúng sinh các thứ tánh? Là hỏi ngữ ngôn của chúng sinh khác nhau, chủng tánh khác nhau, do đâu mà khởi.

Minh xứ và kỹ thuật, người nào đã hiển bày? Là hỏi pháp năm minh và kỹ thuật. Năm minh gồm: 1. Nội luận, nghĩa là hết thảy Phật pháp. 2. Ngoại luận có bốn thứ: Nhân, Thanh, Y phương, Công xảo.

Năm minh này mỗi thứ đều có công năng sinh ra trí tuệ cho nên gọi là “Minh xứ”.

Già-đà có mấy thứ? Trường tụng và đoản cú? Già-đà là tiếng Phạm, Hán dịch là Cô khởi, cũng gọi là Phúng tụng, khác với trùng tụng. Hỏi cô khởi tụng và văn xuôi trùng tụng.

Có mấy thứ lý luận? Là hỏi lý thú trong kinh. Kinh Nhập Lăng-già chép: bao nhiêu thứ đạo lý khác nhau.

Thế nào gọi là luận? Là hỏi về luận giải thích kinh, Kinh Nhập Lăng-già chép: Giải thích mấy thứ khác nhau?

Tại sao sinh ăn uống? Và sinh các ái dục? Là hỏi thức ăn do ai làm, ái dục vì sao mà khởi?

Thế nào gọi là vua? Chuyển luân và tiểu vương. Thế nào giữ đất nước? Là hỏi các vua chuyển luân và tiểu vương cùng pháp giữ gìn cõi nước.

Các trời có mấy thứ? Vì sao gọi mặt đất, các sao và trời trăng: Hỏi danh tướng cõi Dục.

Người tu hành giải thoát, mỗi bậc có mấy thứ? Là hỏi về Hữu học, Vô học, người giải thoát là Vô học, người tu hành là học.

Đệ tử có mấy thứ? Sao gọi A-xà-lê? Là hỏi thầy và đệ tử, A-xàlê, Hán dịch là Giáo sư.

Phật lại có mấy bậc? Lại có mấy chủng sinh? Là hỏi ba thân Phật và bổn sinh, bổn sự. Bổn sinh là việc làm đời trước của Phật. Kinh Nhập Lăng-già chép: Như lai có mấy bậc, bổn sinh, bổn sự cũng vậy.

Ma và các ngoại đạo, mỗi loại mấy thứ? Là hỏi chúng ma và các ngoại đạo: Ma, tiếng Phạm Ma-la, Hán dịch là Năng hại, là làm hại pháp lành.

Tự tánh và tự tâm, mỗi loại bao nhiêu thứ? Là hỏi tánh và tâm có bao nhiêu loại khác nhau.

Thế nào thì thiết lượng? Cúi mong Tối Thắng nói? Là hỏi tâm lượng vọng tưởng thi thiết, Tối Thắng chính là Phật.

Thế nào không gió mây? Là hỏi về danh tướng vô tình cõi Dục.

Vì sao niệm thông minh? Là hỏi tâm niệm hữu tình cõi Dục làm sao có thể phát sinh trí tuệ.

Thế nào là rừng cây? Thế nào là cỏ rậm? Thế nào voi ngựa nai? Thế nào là bắt lấy? Là hỏi cây cỏ do đâu mà sinh? Là hỏi voi ngựa do đâu mà sinh? Lại nữa ai có khả năng bắt lấy.

Vì sao mà thấp hèn? Là hỏi do nhợp gì mà làm người thấp hèn.

Vì sao chia thời tiết? Là hỏi một năm vì sao chia ra sáu tiết. Ở tây vực thì tháng làm một tiết, một năm chia làm sáu tiết.

Sao gọi Nhất-xiển-đề? Nhất-xiển-đề là tiếng Phạm, Hán dịch là Cực ác. Lại dịch là Tín bất cụ (không có lòng tin).

Nam, nữ và bất nam, họ làm sao mà sinh? Là hỏi người nam, người nữ và năm hạng bất nam ở thế gian do đâu mà sinh?

Sao gọi tu hành thối? Sao gọi tu hành sinh? Là hỏi người tu hành do đâu mà thối đọa, do đâu mà sinh tinh tấn.

Thiền sư dùng pháp gì? Lập ra hạng người nào? Là hỏi người tu thiền định dùng pháp gì dạy đạo.

Chúng sinh sinh các đường, tướng gì và loại gì? Là hỏi về hình dáng, chủng loại chúng sinh trong sáu đường.

Thế nào là tài phú? Vì sao được tài phú? Là hỏi giàu sang, của cải ở thế gian do đâu mà được.

Thế nào là họ Thích? Do đâu có họ Thích chủng? Thế nào họ Cam-giá, xin Vô thượng tôn nói: hỏi dòng họ Thích-ca và dòng Camgiá. Kinh Bản hạnh Tập chép: vua Đại Mao Thảo được thành vua tiên, bị người thợ săn bắn chết, máu nhỏ xuống đất mọc lên hai cây mía, bị ánh nắng mặt trời soi chiếu nên một gốc sinh một bé trai, một gốc sinh đứa bé gái, nam tên là thiện sinh, tức vua Cam-giá, dòng họ Thích chính là con cháu nối dõi.

“Thế nào Trường khổ tiên? Kia dạy bảo những gì? Hỏi người tu tiên khổ hạnh ý cầu sống lâu, thọ giáo với ai”.

“Như lai vì sao bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu hiện tất cả các loại danh sắc, Tối thắng tử vây quanh”: Hỏi Phật hiện thân ở các cõi nhiều như bụi nhỏ, tùy loại khác nhau, có đại chúng vây quanh, do nhân gì mà được như vậy!

“Vì sao không ăn thịt? Tại sao cấm ăn thịt? Các chủng loại ăn thịt, nhân gì nên ăn thịt.” Là hỏi về nguyên nhân ăn thịt và cấm ăn thịt?

“Hình trời trăng ra sao, Tu-di và hoa sen, cõi sư tử hơn hết! Thế giới nghiêng đứng che, như lưới trời Đế-thích”. Ở đây là hỏi hình tướng thế giới. Núi Tu-di là núi Diệu cao, thống lãnh một tứ thiên hạ, một mặt trời, một mặt trăng. Nhiễu hoa sen là thế giới Hoa tạng. Nói thế giới Sư tử là trên hết trong các cõi. Các thế giới hình loại khác nhau như có nghiêng, có che, có ngửa, có ngang. Mành lưới Nhân-đà-la tức là mành lưới của trời Đế-thích. Lưới này có ngàn hạt châu, mỗi hạt châu chiếu sáng lẫn nhau, dụ cho thế giới lớp lớp vô tận.

“Hoặc đều là châu báu, như đàn cầm như trống, hình giống các loài hoa. Hoặc lìa ánh trời trăng, như vậy thảy vô lượng”. Đây cũng hỏi hình tướng thế giới khác nhau, hoặc do các báu tạo thành, hoặc hình tướng như đàn cầm, như trống, như hóa, hoặc không có mặt trời, mặt trăng chiếu soi nhờ đâu được sáng.

“Thế nào là hóa Phật? Thế nào báo sinh Phật? Thế nào như như Phật? Thế nào trí tuệ Phật? ” Là hỏi thân Phật có các tên gọi khác nhau là vì sao? là thân ứng hóa của Phật, nghĩa là trăm ngàn ức hóa thân. Báo sinh Phật khác với báo thân, nghĩa là tùy căn cơ mà hóa hiện. Như như là pháp thân Phật, nghĩa là thể tánh như như không thay đổi. Trí tuệ Phật là tự báo thân Phật, nghĩa là tự mình tu nhân cảm quả, vì trí thỉ giác hợp với bản giác nên gọi là trí tuệ.

“Vì sao ở cõi Dục? Không thành Đẳng chánh giác? Vì sao sắc cứu cánh, lìa dục được Bồ-đề?” Hỏi Lô-xá-na báo thân Phật, không đắc đạo ở cõi Dục mà ở cõi Sắc Cứu Cánh đắc đạo là vì sao?

“Thiện thệ vào Niết-bàn, ai người giữ chánh pháp. Hỏi sau khi Phật diệt độ ai là người truyền trì chánh pháp.

Thiên Sư trụ bao lâu? Chánh pháp trụ chừng nào? Là hỏi Phật trụ

thế và sau khi diệt độ, chánh pháp tồn tại trong thời gian dài ngắn thế nào. Thiên Sư tức là thầy trời người.

Tất-đàn cùng với kiến, mỗi loại có bao nhiêu? Hỏi cơ duyên được hóa độ và kiến giải. Tất-đàn là biến thí. Có bốn thứ: 1. Thế giới tất-đàn, thế giới là thứ lớp nghĩa là nghe nói pháp dần dần được vui mừng lợi ích. 2. Đối trị tất-đàn, nghĩa là nghe pháp tu hành đối trị nghiệp chướng đời trước được diệt nghiệp ác. 3. Vị nhân tất-đàn, nghĩa là nhờ nghe pháp nên được lợi ích, sinh điều lành. 4. Đệ nhất nghĩa tất-đàn, nghĩa là người nghe pháp nên được lợi ích, ngộ chân lý.

“Luật Tỳ-ni Tỳ-kheo, do nhân gì lập ra? Tỳ-ni là luật, là hỏi vì sao Phật đặt ra luật và Tăng trì luật. Kinh Nhập Lăng-già chép: Cớ sao lập Tỳ-ni và các Tỳ-kheo.

“Các Tối Thắng tử kia, Duyên giác và Thanh văn vì sao trăm biến dịch? Thế nào trăm vô thọ?” Hỏi chỗ sinh của hàng Nhị thừa. Biến dịch: là biến dịch sinh tử ở cõi phương tiện nhân quả đổi dời. Vô thọ: nghĩa là nhập Niết-bàn vô dư không thọ đời sau.

“Sao gọi thế tục thông? Sao gọi xuất thế gian? Sao gọi đệ Địa thứ bảy? Cúi mong nói con nghe”. Là hỏi năm thần thông thế gian, đắc sáu thông xuất thế và trụ ở đệ Địa thứ bảy, danh từ đệ Địa thứ bảy đã giảng rõ.

“Tăng-già có mấy loại? Thế nào là hoại tăng?”. Hỏi tăng ba thừa và tăng phá giới. Tiếng Phạm là Tăng-già, Hán dịch là chúng, cũng dịch là hòa hợp.

“Sao gọi y phương luận? Đó do nhân duyên gì?”. Hỏi các luận y phương ở thế gian và xuất thế gian vì ai mà nói. Kinh Nhập Lăng-già chép: Tại sao vì chúng sinh nói rộng luận y phương.

“Cớ gì Đại Mâu-ni? Xướng nói những câu này: Đức Phật Ca-diếp, Câu-na-hàm, Câu-lưu-tôn là ta”: Hỏi vì sao Phật nói các Đức Phật quá khứ là ta, nghĩa này trong văn kinh quyển ba, quyển bốn giải thích rõ.

“Vì sao nói đoạn thường? Và cùng ngã, vô ngã? Vì sao không phải bất cứ lúc nào cũng giảng nói nghĩa chân thật, mà lại vì chúng sinh phân biệt nói tâm lượng”? Là hỏi Như lai sao không chỉ nói Đại thừa mà nói rộng các pháp khác.

“Sao có rừng nam nữ? Ha-lê, A-ma-lặc”. Là hỏi cây trái rừng rậm như nam nữ thế gian. Hai thứ trái Ha-lê, A-ma-la đều là loại trái ở Tây Vực mới có.

“Kê-la và Thiết vi, Kim cương thảy các núi, vô lượng báu trang nghiêm, thần tiên đều đầy đủ?”. Hỏi các núi và các báu trang nghiêm, tiên nhân nhạc thần ở đây đầy đủ là vì sao? Vì Càn-thát-bà là nhạc thần của Thiên đế. Dưới đây là Thế tôn chấp nhận nghi vấn của Đại Tuệ và giải thích.

8. Đức Phật khen ngợi:

“Vô thượng Thế gian giải nghe Bồ-tát Đại Tuệ nói kệ thưa hỏi về các pháp môn cứu độ của Đại thừa và tâm các Đức Phật là bậc nhất liền khen lành thay! Lành thay lời hỏi, Đại Tuệ khéo lắng nghe, nay ta sẽ lần lượt đáp đúng như lời ông hỏi. “Kinh Nhập Lăng-già chép: Khi ấy, Đức Thế tôn nghe Bồ-tát nói tâm các Đức Phật tối thượng nhiệm mầu là pháp môn Đại thừa, liền bảo rằng: lành thay Này Đại Tuệ! Lắng nghe, ta sẽ thứ lớp nói đúng như lời ông hỏi, liền nói kệ rằng: “Sinh cùng với bất sinh, Niết-bàn không sát-na, tiến đến không tự tánh”: Ở đây giải thích câu hỏi của Đại Tuệ, pháp hữu vi sinh, pháp vô vi bất sinh, các pháp Niết-bàn hư không sát-na trôi lăn, đều do vọng tưởng hiện ra, vốn không có tự tánh.

9. Đức Phật trả lời một trăm lẽ tám câu hỏi:

“Phật, các Ba-la-mật, Phật tử cùng Thanh văn, Duyên giác các ngoại đạo, cùng với Vô Sắc hành, các việc như thế đó”. Trên là hỏi người và pháp sở hành, pháp sở hành của ngoại đạo thuộc về hành Vô Sắc.

“Tu-di, biển cả, núi lớn, châu, đảo, cõi nước, đất”: Trên là nói các danh tướng vô tình trong cõi nước.

“Các sao và trời trăng, ngoại đạo, Trời, Tu-la, giải thoát, tự tại thông, lực, thiền, Tam-ma-đề, định và như ý túc, giác chi và đạo phẩm”. Hỏi danh tướng các pháp. Tam-ma-đề tức Tam-muội. Diệt tức vô thọ, như ý túc tức bốn như ý túc Dục, Niệm, Tấn, Tuệ. Giác chi tức là bảy Giác chi: Niệm, trạch, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả. Đạo phẩm tức là nói chung ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

“Các thiền định vô lượng, các ấm thân qua lại, chánh thọ, diệt tận định, Tam-muội khởi tâm nói. Tâm ý và các thức, pháp vô ngã có năm, tự tánh tưởng sở tưởng, và hai chấp hiện tại”. Các thiền định thế gian, xuất thế gian, thiền định Tiểu thừa, Đại thừa. Các ấm thân sinh tử trong sáu đường. Chánh thọ tức Tam-muội. Diệt tận định là thọ tưởng tâm diệt thân chứng định này. Tam-muội khởi tâm mà nói là từ định mà khởi, vận tâm nói pháp. Tự tâm ý và hai thứ chấp, gom chung là năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã.

“Thừa và các chủng tánh, vàng bạc ma-ni thẩy, Nhất-xiển-đề đại chủng, hoang loạn và nhất Phật, trí, nhĩ-diệm đắc hướng chúng sinh hữu, vô hữu”. Thừa là ba thừa. Nhất-xiển-đề xem chú thích ở trước. Đại chủng là bốn đại chủng. Hoang loạn là cõi nước loạn lạc. Nhất Phật tức Phật Ca-diếp trước, Đẳng là ngã, Đắc hướng giống như ma được dịp làm hại. Hữu vô hữu tức không hữu.

“Voi ngựa các cầm thú, vì sao bị bắt lấy: Ví nhân thành tất-đàn, cùng với tác, sở tác”: Ví là ví dụ. Nhân thành tức tương ưng. Tất-đàn là bốn Tất-đàn như trên đã giải thích. Tác, sở tác tức nghiệp năng tác, sở tác.

“Tòng lâm mê hoặc thông, tâm lượng chẳng hiện hữu, các địa không đến nhau, trăm biến trăm vô thọ, luận y phương, công xảo, kỹ thuật các minh xứ”. Danh tướng đều như trước giải thích. Như trên là tất cả câu hỏi của Đại Tuệ.

“Đất các núi Tu-di, lượng biển cả trời, trăng. Chúng sinh thượng, trung, hạ, thân đều như bụi nhỏ”. Từ đây đến lỗ chân lông, lông mày có bao nhiêu cọng, đều là Đức Phật hỏi ngược trở lại lời Đại Tuệ hỏi, số lượng độ không cùng khắp. Chúng sinh hạng thượng trung hạ chung trong mười cõi mà nói. Thân có bao nhiêu hạt bụi nhỏ, nghĩa là thân lượng cao thấp nặng nhẹ.

“Mỗi sát-na có bao nhiêu hạt bụi nhỏ, mỗi cung số có bao nhiêu, khuỷu tay, bước, câu-lô-xá, nửa do-diên, do-diên”. Sát là cõi nước, nghĩa là thế giới Đại thiên là một sát độ, hai thước là một khuỷu tay, bốn khuỷu tay là một cung, năm trăm cung là một câu-lô-xá, mười câu-lô-xá là một do-diên, do-diên tức do-tuần.

“Lông nhỏ, bụi qua cửa, lông dê, khoáng mạch trần”. Xưa chú giải rằng: Bảy hạt bụi nhỏ thành một hạt bụi qua cửa sổ, bảy hạt bụi qua cửa sổ thành một hạt bụi nhỏ như đầu lông thỏ, bảy hạt bụi nhỏ như đầu lông thỏ thành một hạt bụi nhỏ như đầu lông dê, bảy hạt bụi nhỏ như đầu lông dê thành một hạt bụi nhỏ như đầu lông trâu, bảy hạt bụi nhỏ như đầu lông trâu thành một con rệp, bảy con rệp thành một con rận, bảy con rận thành một hạt cải, bảy hạt cải thành hạt bắp. Khoáng tức là đại mạch.

“Bát-tha mấy khoáng mạch”, Bát-tha là nửa đấu, “A-la mấy khoáng mạch”, A-la là một đấu.

“Độc long Na-khư-lê! ” Độc long là một hộc, Na-khư-lê mười hộc.

“Lặc-xoa và Cử-lợi”. Lặc-xoa là một muôn, Cử-lợi là một ức.

“Cho đến tần-bà-la, mỗi số có bao nhiêu, tần-bà là một triệu.

“Có bao nhiêu a-nâu” là trần.

“Tên xá-lê-sa-bà” là hạt cải.

“Bao nhiêu xá-lê-sa-bà”, gọi là một lại đề, là hạt cỏ.

“Mấy lại đề thành ma-sa”, mấy hạt cỏ thành hạt đậu.

“Mấy ma-sa, đà-na”, gọi là thù.

“Lại bao nhiêu đà-na-la thành một ca-lê-sa-na” là lượng.

“Bao nhiêu ca-lê-sa-na hợp thành một ba-la?” Là cân.

“Những tướng chứa nhóm này bao nhiêu ba-la-Di-lâu?”. Di-lâu là núi Tu-di, nghĩa là bao nhiêu cân hạt bụi nhỏ có thể tạo thành núi Dilâu. Kinh Nhập Lăng-già chép: Bao nhiêu cân thành núi Tu-di.

“Những thứ này là việc nên hỏi, sao lại hỏi việc khác? Thanh văn và Bích-chi-phật, Phật và các Bồ-tát, thân mỗi vị có bao nhiêu số? Vì sao không hỏi điều này?”. Nghĩa là vì sao không hỏi Phật và thân ba thừa mỗi thừa có bao nhiêu hạt bụi nhỏ.

“Ngọn lửa có mấy a-nâu? Phong a-nâu lại có mấy a-nâu” ý nói hỏa đại, phong đại mỗi đại có bao nhiêu số hạt bụi.

“Mỗi căn có bao nhiêu a-nâu (trần)? Bao nhiêu lỗ chân lông và cọng lông mày?”. Căn căn là nói sáu căn. Dưới đây là giải đáp câu hỏi của Đại Tuệ.

“Vua hộ tài tự tại. Vì sao gọi là vua.

“Vua Chuyển Luân Thánh đế, sao là vua thủ hộ?”. Thế nào là hộ quốc.

“Thế nào là giải thoát?” Người tu hành giải thoát này lại có bao nhiêu thứ.

“Nói rộng và nói câu, như lời ông đã hỏi”. Già-đà có bao nhiêu, tụng dài và câu ngắn, Kinh Lăng-già chép: Thế nào là câu văn xuôi.

“Chúng sinh các thứ dục”: Là Năm dục.

“Cùng các thứ ăn uống”, là ăn thịt, không ăn thịt.

“Thế nào là rừng nam nữ, núi Kim cương vững chắc, sao ví như huyễn mộng. Như nai đồng khát nước, sao có thiên tiên núi, Càn-thátbà trang nghiêm”. Vô lượng báu trang nghiêm, tiên Càn-thát-bà đầy dẫy.

“Giải thoát đến chỗ nào? Ai buộc ai giải thoát? ” Hai câu này lời hỏi giống.

“Sao gọi cảnh giới thiền”. Những gì là cảnh giới thiền.

“Biến hóa và ngoại đạo”. Hóa tướng cõi nước và các ngoại đạo.

“Thế nào vô nhân tác? Thế nào hữu nhân tác, hữu nhân vô nhân tác, và phi hữu vô nhân”. Bốn câu này tại sao đều nói khác.

“Vì sao hiện đã diệt”? Kiến hoàn toàn trở lại.

Làm sao tịnh các giác? Vì sao các giác chuyển, và chuyển các sở tác? Vì sao tịnh niệm kia? Tại sao niệm thêm lớn.

“Làm sao dứt các tưởng? Làm sao sinh Tam-muội? Phá ba cõi là ai? Ở đâu và thân gì?”. Phá ba cõi và thân ở chỗ nào.

“Vì sao không chúng sinh, mà nói có ta người. Thế nào thế tục nói. Cúi mong phân biệt rộng”. Đây nói không có chúng sinh và thế tục nói.

“Tướng đã hỏi ra sao? và chỗ hỏi phi ngã”. Lập ra tướng và nghĩa vô ngã.

“Làm sao thành Thai tạng? Và các thứ thân khác”. Là Thai tạng sinh và loại danh sắc.

“Thế nào chấp đoạn thường? Vì sao nói đoạn thường.” “Tâm làm sao đắc định?” Thế nào là Tam-muội.

“Lời nói và các trí”, các ngữ ngôn và các trí.

“Giới chủng tánh Phật tử”, bao nhiêu giới tánh chúng sinh.

“Sao gọi thành và luận?” Thành có bao nhiêu thứ, vì sao gọi là luận?

“Sao gọi thầy, đệ tử?” Đệ tử có mấy hạng và A-xà-lê là gì.

“Các chủng loại chúng sinh, các thứ này thế nào? Nam, nữ và bất nam.

“Thế nào là ăn uống? Thông minh, ma, thi thiết?” Niệm thông minh, ma và bao nhiêu thi thiết lượng.

“Sao gọi cây, dây sắn?” Hỏi rừng rậm cây cỏ.

“Điều mà Tối thắng tử hỏi, thế nào các thứ cõi?” Hỏi thế nào là hình mặt trời, mặt trăng, cho đến vô lượng thứ như thế…

“ Vị Tiên khổ hạnh lâu, thế nào là dòng họ?” Dòng họ Thích và dòng họ Cam-giá.

“Từ đâu sư thọ học? Dựng lập cho những người nào?

“Thế nào là xấu xa?” Hỏi vì sao thấp kém.

“Thế nào người tu hành?” Hỏi người tu hành tiến tới, lui sụt.

“Cõi Dục sao chẳng giác, thành A-ca-nị-tra”. Cõi Dục không thành Chánh Giác và trời sắc cứu cánh lìa Dục được Bồ-đề. A-ca-nị-tra là trời Sắc Cứu Cánh.

“Sao gọi tục thần thông?” là thần thông thế tục.

“Sao gọi là Tỳ-kheo?” Là hỏi phần Tỳ-ni Tỳ-kheo.

“Thế nào là hóa Phật? Thế nào là báo Phật? Thế nào như như Phật? Bình đẳng trí tuệ Phật”. Hỏi về thân Phật.

“Thế nào là chúng tăng? Phật tử hỏi như vậy”. Là hỏi tăng ba thừa.

“Dây đàn, lưng trống, hoa, cõi nước lìa ánh sáng”. Là hỏi hình tướng cõi nước.

“Tâm địa ấy có bảy”. Hỏi thế nào là Địa thứ bảy, Địa thứ bảy chính đã nói rõ ở địa, nghĩa là tư hoặc đã hết, tuệ tâm hiển bày cho nên gọi Tâm địa.

10. Tổng kết nêu lên:

“Chỗ hỏi đều như thật”. Tổng kết nêu lên ngài Đại Tuệ hỏi đều đúng như nghĩa thật.

“Đây và các thứ khác rất nhiều, Phật tử cần phải hỏi”. Tổng kết chỉ cho lỗi của Đại Tuệ.

“Mỗi mỗi tướng tương ưng, xa lìa các lỗi thấy, tất-đàn lìa nói năng, nay ta sẽ hiển bày, thứ lớp dựng lập câu”. Tổng kết đời trước đời sau, tức gồm chung các câu hỏi trên đều khế hợp lý lìa lỗi. Dùng ngay bốn tất-đàn làm một trăm lẻ tám câu nói về dựng lập.

“Phật tử khéo lắng nghe”: Dạy lắng nghe lãnh thọ.

“Một trăm lẻ tám câu trên, như các Phật đã nói”: Một trăm lẻ tám câu pháp này gồm có năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, pháp các Đức Phật nói không ngoài bốn thứ này. Dưới đây là tổng kết chỉ các câu, mỗi câu giúp cho người phá tình bỏ chấp, cho nên đều nói phi cú. Kinh Nhập Lăng-già chép: Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là một trăm lẻ tám câu? Phật dạy Đại Tuệ: đó là câu sinh là phi sinh…

11. Cách trả lời một trăm lẻ tám câu của Phật trong kinh Nhập Lăng-già

“Câu bất sinh là sinh, câu thường là vô thường”: Hợp lại nói câu sinh là phi sinh, đây nói câu bất sinh là sinh, là lời ngược lại. Nói chúng sinh ở trong cảnh chân như vô sinh, do vọng khởi mà sinh chấp pháp, vốn tự chẳng sinh cho nên nói câu phi sinh, nếu chấp pháp sinh tức là có thường do không có sinh cho nên nói phi thường.

“Câu tướng là vô tướng, câu trụ dị là phi trụ dị”: Chấp thường thì có tướng, phi thường thì vô tướng, do sinh mà có trụ do trụ mà có dị. Trụ là trụ ở thế gian, dị nghĩa là từ trẻ đến già tướng kia đổi khác. Hai câu trụ dị ở trước không có lời hỏi, vì hỏi tuy lược đáp nhưng phải rõ ràng.

“Câu sát-na chẳng phải câu sát-na, câu tự tánh lìa câu tự tánh”. Lìa tức là chẳng phải.

“Câu không là bất không, câu đoạn là bất đoạn, câu biên phi biên, câu trung phi trung”. Hai câu này không hỏi.

“Câu thường chẳng phải câu thường”. Trước nói câu thường là nói phàm phu đối với trụ chấp là thường. Ở đây nói câu thường là nói ngoại đạo chấp tánh bốn đại là thường.

“Câu duyên chẳng phải câu duyên, câu nhãn chẳng phải câu nhãn, câu phiền não chẳng phải câu phiền não, câu ái chẳng phải câu ái, câu phương tiện chẳng phải câu phương tiện”. Các câu này không hỏi.

“Câu xảo chẳng phải câu xảo, câu tịnh chẳng phải câu tịnh, câu thành chẳng phải câu thành, câu thí chẳng phải câu thí, câu đệ tử chẳng phải câu đệ tử, câu sư chẳng phải câu sư, câu chủng tánh chẳng phải câu chủng tánh, câu ba thừa chẳng phải câu ba thừa, câu sở hữu chẳng phải câu sở hữu, câu nguyện chẳng phải câu nguyện”. Các câu này không hỏi.

“Câu ba luân chẳng phải câu ba luân”. Câu này không hỏi, ba luân: là thân luân hiện thần thông, khẩu luân nói pháp, và ý luân quán xét căn cơ.

“Câu tướng phi tướng, câu hữu phẩm phi hữu phẩm, câu chung phi chung, câu duyên tự Thánh trí hiện pháp lạc phi hiện pháp lạc”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Câu tự chứng Thánh trí chẳng phải câu tự chứng Thánh trí, câu hiện pháp lạc chẳng phải câu hiện pháp lạc.

“Câu cõi nước phi cõi nước, câu a-nâu phi a-nâu, câu thủy phi thủy, câu cung phi cung, câu thật phi thật, câu số phi số”. Số là số hạt bụi nhỏ.

“Câu số phi số”. Là số lượng thanh.

“Câu minh phi minh, câu hư không phi hư không, câu mây phi mây, câu công xảo kỹ thuật minh xứ phi công xảo kỹ thuật minh xứ, câu phong phi phong, câu địa phi địa, câu tâm phi tâm, câu thi thiết phi thi thiết, câu tự tánh phi tự tánh, câu ấm phi ấm, câu chúng sinh phi chúng sinh, câu tuệ phi tuệ, câu Niết-bàn phi Niết-bàn, câu sở tri phi sở tri, câu ngoại đạo phi ngoại đạo, câu hoang loạn phi hoang loạn, câu huyễn phi huyễn, câu mộng phi mộng, câu diệm phi diệm, câu tượng phi tượng, câu luân phi luân”. Kinh Lăng-già chép: Câu hỏa luân.

“Câu Càn-thát-bà phi Càn-thát-bà, câu thiên phi thiên, câu ẩm thực phi ẩm thực, câu dâm dục phi dâm dục, câu kiến phi kiến, câu Bala-mật phi Ba-la-mật, câu giới phi giới, câu trời trăng tinh tú phi trời trăng tinh tú, câu đế phi đế”. Nhắc lại Văn trên đúng như thật.

“Câu quả phi quả”. Câu này không hỏi.

“Câu diệt khởi phi diệt khởi”. Kinh Nhập Lăng-già nói: Câu diệt phi diệt, câu khởi phi khởi.

“Câu trị phi trị”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Câu y phương phi y phương.

“Câu tướng phi tướng”. Lời đáp gồm có ba tướng: trước là thể tướng, kế là tiêu tướng, ở đây là pháp tướng.

“Câu chi phi chi”. Kinh Nhập Lăng-già chép: Câu chi phần nghĩa là chi hình phân đoạn.

“Câu xảo minh xứ phi xảo minh xứ, câu thiền phi thiền, câu mê phi mê, câu hiện phi hiện, câu hộ phi hộ, câu tộc phi tộc, câu tiên phi tiên, câu vương phi vương, câu nhiếp thọ phi nhiếp thọ”. Một câu này không hỏi.

“Câu thật phi thật, câu ký phi ký”. Một câu này không hỏi.

“Câu Nhất-xiển-đề phi Nhất-xiển-đề, câu nam nữ bất nam phi nam nữ bất nam, câu muội phi muội”. Một câu này không hỏi.

“Câu sự phi sự”. Một câu này không hỏi.

“Câu thân phi thân, câu giác phi giác, câu động phi động, câu căn phi căn, câu hữu vi phi hữu vi, câu vô vi phi vô vi, câu nhân quả phi nhân quả, ba câu này không hỏi.

“Câu Sắc Cứu Cánh phi Sắc Cứu Cánh, câu tiết phi tiết, câu rừng cây bìm sắn phi rừng cây bìm sắn, câu tạp phi tạp”. Một câu này không hỏi.

12. Đức Phật tổng kết:

“Câu thuyết phi thuyết, câu Tỳ-ni phi Tỳ-ni, câu Tỳ-kheo phi Tỳkheo, câu xứ phi xứ, câu tự phi tự. Này Đại Tuệ! Đó là một trăm lẻ tám câu, trước Phật đã nói, ông và các Đại Bồ-tát phải nên tu học.

13. Số câu của các bản dịch khác:

Xét bản chính văn đời Tống, chỉ có một trăm lẻ bốn câu, trong đó thêm bản dịch bốn quyển đời Đường mới đủ. Như từ câu hữu phẩm phi hữu phẩm trở xuống, bản dịch đời Đường là câu hữu phi câu hữu, câu vô phi câu vô. Lại nữa, câu duyên tự Thánh trí hiện pháp lạc phi câu hiện pháp lạc, bản dịch đời Đường chia làm hai câu. Lại, câu khởi diệt phi khởi diệt cũng chia thành hai câu. Lại nữa, từ câu thuyết phi thuyết trở xuống, bản dịch đời Đường lại có câu quyết định phi quyết định. Đều thêm bốn câu. Một trăm lẻ tám nghĩa này, văn có ba đoạn: ban đầu thì Đại Tuệ thưa hỏi, kế là Như lai giải thích, nhưng chỗ hỏi chỗ trả lời đều không thứ lớp, cho nên không thể dùng số chắc chắn khai hợp mà luận được, đến cuối cùng là kết thúc chỉ bày một trăm lẻ tám câu, mỗi câu rõ ràng, nhưng không nhiều không ít, số lượng đến đây, vì tiêu biểu đối lại một trăm lẻ tám phiền não có một trăm lẻ tám pháp môn, là pháp ấy. Có sự có lý, có tánh có tu, có chân có vọng, có mê có ngộ, có giáo có hạnh, có nhân có quả, có thể có dụng, có tức có lìa, có vong có chiếu. Đại ý của toàn kinh nêu lên ở đây. Đoạn văn dưới đây là hỏi riêng đáp riêng.

14. Bồ-tát Đại tuệ thưa hỏi:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Các thức có mấy thứ sinh, trụ, diệt? Phật bảo Đại Tuệ: “Các thức có hai thứ sinh, trụ, diệt, chẳng thể suy lường mà biết được. Các thức có hai thứ sinh, đó là lưu chú sinh và tướng sinh. Có hai thứ trụ, là lưu chú trụ và tướng trụ. Có hai thứ diệt, là lưu chú diệt và tướng diệt”. Từ đây đến cuối văn hỏi đáp riêng năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã.

Ban đầu hỏi về các thức: Vì thức tức là tâm, tâm là gốc muôn pháp. Y theo thường đối lập các thức, nghĩa là thức thứ chín yêm-mala tức tịnh thức chân thường thanh tịnh thuộc Phật. Thức A-lại-da thứ tám tức thức hàm tàng, thuộc Bồ-tát, thức A-đà-na thứ bảy thức truyền thống, thuộc hàng Nhị thừa, thức phân biệt sự thứ sáu cũng gọi thức ba lãng thuộc phàm phu. Hoặc có người dịch không lập thức thứ chín, đó là đệ cửu tức, tên khác của thức thứ tám. Kinh này nói rõ các thức khác với bình thường. Y theo văn kinh ở sau cho rằng Như lai tạng gọi là thức tạng, năm thức và ý căn ý thức nhãn v.v… cộng chung là tám thức. Do các thức này y theo môn sinh diệt mà nói, cho nên hỏi có mấy thứ sinh, trụ, diệt? Đức Phật đáp có hai thứ sinh, trụ, diệt: chẳng thể suy lường mà biết được, nghĩa là chân như diệu tánh vốn bất sinh diệt. Sinh là nhân duyên sở sinh, trụ là dừng lại, dị là thay đổi, diệt là diệt hết. Đây không nói dị là do văn tóm lược! Nhưng tướng sinh diệt của các thức này chỉ có trí tuệ Phật mới hiểu rõ được, cho nên nói chẳng phải so lường mà biết được. Nói lưu chú sinh, trụ diệt, nghĩa là ở trong thức ấm niệm niệm nối nhau, như dòng nước chảy suốt không hề tạm dừng. Nói tướng của sinh, trụ diệt, nghĩa là tướng hiển hiện ra bên ngoài, căn cảnh đối nhau khởi sinh, trụ, diệt.

15. Ba tướng của các thức:

“Này Đại Tuệ! Các thức có ba tướng, đó là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng”. Chuyển tướng: Từ vô thỉ huân, biến giác thành bất giác. Nghiệp tướng: Vì bất giác cho nên động thì thành nghiệp. Chân tướng: Tùy duyên bất biến thể tánh chân tịnh. Theo luận khởi tín chép: Nghiệp tướng chuyển tướng hiện tướng, chính từ chân khởi vọng, vọng động thành nghiệp. Vì động cho nên càng thấy có cảnh giới thứ lớp phát hiện. Ở đây không nói hiện mà nói chân, vì nói thể tánh của thức này tùy duyên bất biến nên gọi là Chân.

16. Nói lược, nói rộng:

Này “Đại Tuệ! Nói lược có ba thức, nói rộng có tám tướng. Ba thức ấy là chân thức, hiện thức và thức phân biệt sự. Này Đại Tuệ! Ví như gương sáng chiếu các sắc tượng, hiện thức ở trong ấy mà hiện cũng giống như vậy”

1/ Lược: Các thức nói lược có ba thứ: a.1) Chân thức: tức Như lai tạng thức; a.2) Hiện thức: tức Như lai tạng sở chuyển, cũng gọi là thức tạng, gọi chuyển mà thể không chuyển; a.3) Thức phân biệt sự: tức ý căn ý thức và năm thức thân. Đây chia tạng thức thành hai, hợp sự thức thành một.

2/ Rộng: Nói rộng có tám tướng: Y theo văn kinh sau, tức hợp chân thức, hiện thức trên thành một tạng thức; chia thức phân biệt sự trên thành bảy thức, đó là ý căn, ý thức, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức. Nhưng các thức này rộng lược khai hợp khác nhau, bởi do Như lai tạng là nhân lành, không lành, tùy duyên nhiễm tịnh huân biến khác nhau, chúng sinh từ vô thỉ huân tập nghiệp ác, chỉ theo duyên nhiễm, Như lai tạng đổi tên thành Thức tạng, thứ lớp chuyển sinh các thức. Đây là toàn chân thành vọng, toàn lý thành sự. Nếu tùy theo tịnh duyên liễu đạt các thức đều là chân trí thì Như lai tàng không còn đổi tên, cho nên ngay nơi sự là lý, bỏ vọng về chân. Gương sáng dụ cho hiện thức, vì hiện thức có công năng sinh ra nguồn gốc các pháp, gây nhân cảm quả, như gương soi chiếu các vật không khác nhau.

17. Nói về hai thức:

Này “Đại Tuệ! Hiện thức và thức phân biệt sự, hai thức này tướng hoại và chẳng hoại lần lượt làm nhân lẫn nhau”. Hiện thức chứa đựng hạt giống thiện ác không mất, cho nên gọi là bất hoại. Sự thức dùng căn đối cảnh, khởi tâm thương ghét, niệm niệm sinh diệt cho nên gọi là hoại. Nhưng hai thức này tuy hoại, bất hoại khác nhau nhưng lần lượt làm nhân, cho nhau chẳng phải khác chẳng phải không khác.

Này “Đại Tuệ! Bất tư nghị huân và bất tư nghị biến là nhân của hiện thức”. Huân là xông ướp. Biến là biến chuyển. Nói bất tư nghị huân, là toàn chân thành vọng, nói bất tư nghị biến là toàn lý thành sự, chân vọng không hai, sự lý một thể, không huân mà huân, không biến mà biến, tâm không thể suy lường miệng không thể bàn luận, huân biến như vậy thành nhân của hiện thức.

Này “Đại Tuệ! Nhận lấy các trần cảnh và vọng tưởng huân tập từ vô thỉ làm nhân của thức phân biệt sự”. Các trần là sáu trần. Chấp: là sáu căn chấp lấy sáu trần mà khởi ái kiến. Vọng tưởng huân tập từ vô thỉ, là từ vô thỉ đến nay khởi vọng tưởng ái kiến này huân thành sự thức, đó gọi là Nhân.

Này “Đại Tuệ! Nếu trở về chân thức kia thì các thứ không thật, các thứ luống dối ấy đều diệt thì tất cả căn thức cũng diệt, gọi là tướng diệt”. Phúc là trở lại, nghĩa là nếu phản chiếu được chân thức thì tất cả vọng tưởng ái kiến tự nhiên tiêu diệt, vọng tưởng năng huân đã diệt thì căn thức sở huân cũng mất, đó gọi là tướng diệt.

18. Nói về sở duyên:

Này “Đại Tuệ! Vì nối nhau diệt là sở nhân nối nhau diệt, cho nên nối nhau diệt. Sở tùng diệt và sở duyên diệt nên nối nhaudiệt. Này Đại Tuệ! Vì sao? Vì là sở duyên. Nương là vọng tưởng từ vô thỉ. Huân duyên là thức cảnh vọng tưởng từ tự tâm hiện khởi. Nối nhau diệt: là lưu chú diệt. Sự nối nhau của thức là có nhân duyên, nếu nhân duyên diệt thì thức nối nhau diệt. Nhân là vọng tưởng từ vô thỉ, duyên là tự tâm hiện cảnh giới phân biệt. Vọng tưởng vô thỉ là vô minh căn bản.

Này Đại Tuệ! Ví như khối đất và hạt bụi, chẳng khác, chẳng phải không khác; vàng và các món trang sức cũng giống như vậy. Này Đại Tuệ! Nếu khối đất và hạt bụi khác nhau thì khối đất không phải do hạt bụi hợp thành, nay khối đất thật sự do hạt bụi hợp thành, cho nên chẳng phải khác. Nếu chẳng phải chẳng khác thì khối đất và hạt bụi không nên phân biệt khác nhau. Đây là ví dụ rõ chuyển thức và tạng thức chẳng phải khác chẳng phải không khác, chính là nói chân tướng của tàng thức chẳng diệt, đó là cương yếu của kinh này. Cái gọi là Phật tâm ngữ chính là ở đây. Khối đất dụ cho chuyển thức, hạt bụi dụ cho tạng thức. Tạng thức là chân, chuyển thức là vọng. Khối đất nhân hạt bụi hợp thành, thể kia là một cho nên không thể nói khác. Nếu khối đất và hạt bụi chắc chắn là một thì không còn phân biệt khác nhau. Không thể nói không khác, là ví dụ từ chân khơi vọng, vọng diệt chân hiện. Vàng và các thứ trang sức, dụ kia cũng giống như vậy. Sau mới hợp pháp.

19. Nói pháp chẳng phải một chẳng phải khác:

“Cũng vậy, này Đại Tuệ! Nếu chuyển thức và chân tướng của tạng thức khác nhau thì tàng thức không phải nhân. Nếu không khác thì chuyển thức diệt tàng thức cũng phải diệt, nhưng tự chân tướng thật sự chẳng diệt”. Đây nói rõ pháp chẳng phải một, chẳng phải khác, nghĩa là nếu các chuyển thức và tạng thức khác nhau thì khi gió vô minh kia huân động, thể của tạng thức lẽ ra không theo duyên, đó là rơi vào chấp thường, nhưng tàng thức là nhân lành không lành chẳng phải không theo duyên. Nếu không khác nhau thì khi chuyển thức diệt, tàng thức lẽ ra cũng diệt, đó là rơi vào chấp đoạn, nhưng chân tướng của tàng thức không bao giờ diệt, vì tự tánh thanh tịnh tâm của chúng sinh do gió vô minh làm động, tâm và vô minh đều không hình tướng, không có tướng lìa bỏ, mà tâm chẳng phải tánh động. Nếu vô minh diệt thì thức cũng nối nhau diệt, nhưng trí tánh không hoại.

20. Chân vọng diệt không diệt:

“Cho nên Này Đại Tuệ! Chẳng phải tự chân tướng thức diệt mà chỉ là nghiệp tướng diệt. Nếu tự chân tướng thức diệt thì tàng thức diệt. Này Đại Tuệ! Nếu tàng thức diệt thì chẳng khác luận nghi chấp đoạn” của ngoại đạo, ở đây nói lý do chân vọng diệt, không diệt, ở trên ý nói chuyển thức diệt, tàng thức không diệt, đã nêu rõ chẳng khác, chẳng phải không khác, vẫn sợ Đại Tuệ chưa thấu đạt ý sâu, nên lại bảo rằng: Chân tướng không diệt, chỉ có nghiệp tướng diệt, vì chân là tánh bất kiến, vốn lìa sinh diệt, nghiệp là tướng vô minh luống dối cho nên có sinh diệt. Đã bỏ vọng về chân thì vọng diệt mà chân không diệt. Nếu chân có diệt thì đâu khác luận nghị chấp đoạn của ngoại đạo. Luận nghị tức lời nói vô nghĩa, nghĩa là ngôn giáo của ngoại đạo không thật.

21. Luận thuyết của ngoại đạo:

Này “Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia luận như vầy: cảnh giới nhiếp thọ diệt thì thức lưu chú cũng diệt. Nếu thức lưu chú diệt thì lưu chú từ vô thỉ lẽ ra cũng dứt mất. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói lưu chú sinh nhân chẳng phải do nhãn thức, sắc, ánh sáng nhóm hợp mà sinh, mà có các nguyên nhân khác. Này Đại Tuệ! Về nhân kia nói rằng hoặc là thắng diệu, hoặc là sĩ phu, hoặc tự tại, hoặc thời, hoặc bụi nhỏ”. Luận ngoại đạo không ra ngoài hai kiến chấp đoạn, thường. Cái gọi là cảnh giới nhiếp thọ diệt thì thức lưu chú cũng diệt, đây là chấp đoạn. Cảnh giới nhiếp thọ là trần cảnh mà tâm thức chấp lấy. Nội giáo cho rằng lưu chú diệt là nói tướng ấy diệt, nhưng tánh không hề diệt, ngoại đạo nói diệt là đoạn diệt, đâu biết thức tánh lưu chú vượt ngoài tạng thức từ vô thỉ ấy. Kia lại nói: trôi chảy làm sinh nhân, chẳng phải do bốn duyên nhãn thức, sắc, và ánh sáng hòa hợp mà sinh, mà có riêng nhân khác. Nhân khác, hoặc thắng diệu tức là thắng tánh, sinh này làm chủ cõi trời Phạm thiên, hoặc sĩ phu cũng gọi là trượng phu, tức là một trong mười sáu tri kiến, tên khác của thần Ngã. Tự tại, nghĩa là trời Đại tự tại và chấp thời tiết, bụi nhỏ, v.v… Là năng sinh, sinh nhân mà ngoại đạo chấp đều là loại này.

22. Có bảy chủng tánh tự tánh:

“Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy chủng tánh tự, đó là: Tập tánh tự tánh, tự tánh tánh, tướng tánh tự tánh, đại chủng tánh tự tánh, nhân tánh tự tánh, duyên tánh tự tánh và thành tánh tự tánh.

Đây là danh nghĩa bảy thứ tự tánh. Nếu y cứ theo sự giải thích sai lầm thì phàm chẳng phải Thánh, sợ chẳng phải ý kinh, như đoạn văn dưới nói. Đây là tánh tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm của các Đức Phật ba đời. Lại nói rằng: phàm phu không có tánh tự tánh, chẳng lẽ không tánh nghĩa là Thánh chẳng phải phàm ư! Cho nên phải y theo Thánh để giải thích. Trong bảy thứ tánh, sáu thứ trước không ra ngoài nhân quả, nói tập tánh tự tánh tức muôn điều lành chứa nhóm làm nhân, do tập nhân cho nên có tánh có tướng, tánh bên trong còn tướng bên ngoài. Đại chủng tự tánh, nghĩa là quả của bốn đại chủng. Đại chủng vốn có cả phàm lẫn Thánh. Ở đây y theo Thánh báo, cái gọi là sắc là thường, v.v… Thường: là chân thường, tức quả của năm ấm pháp tánh, cho nên có nhân có duyên, nhân thân mà duyên sơ. Do nhân quả hợp thành, thành là thành tự tánh, tức là Đệ nhất nghĩa tâm ở văn sau.

23. Có bảy thứ Đệ nhất nghĩa:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có bảy thứ Đệ nhất nghĩa. Tức là Tâm cảnh giới, Tuệ cảnh giới, Trí cảnh giới, Kiên cảnh giới, siêu nhị kiến cảnh giới, siêu tử địa cảnh giới và Như lai tự đáo cảnh giới”.

Nói cảnh giới, Kinh Nhập Lăng-già chép: sở hành tức là cảnh giới sở hành, nhưng có chia ra chung riêng khác nhau. Sáu thứ trước Bồ-tát và Phật, Tự đáo cảnh giới thứ bảy chỉ nói về Phật, Tâm cảnh giới, tức Đệ nhất nghĩa xứ do tâm tạo ra, tâm có công năng phát tuệ, năng lực của tuệ đã cao siêu thì thành trí dụng, trí dụng đã thành thì chánh kiến hiện ra, chánh kiến hiện ra thì vượt khỏi hai kiến chấp đoạn thường, cho đến vượt khỏi cảnh giới Bồ-tát, đến Như lai tự đáo cảnh giới.

24. Phật tổng kết:

Này “Đại Tuệ! Đây là tánh tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm của Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại”. Đây là tổng kết tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm, là sở chứng của Phật”.

“Do tánh tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm mà thành tựu được pháp thế gian, xuất thế gian và xuất thế gian thượng thượng của Như lai”. Dưới đây là nói về Như lai nương tự tánh Đệ nhất nghĩa mà thành tựu đức dụng tự hành hóa tha. Thành tựu thế gian là nêu đồng người pháp mà hóa tha. Pháp xuất thế gian có cả hàng ba thừa. Pháp xuất thế gian thượng thượng chỉ có Phật và Phật mới rốt ráo.

“Thánh tuệ nhãn vào tự tướng cộng tướng dựng lập, như chỗ dựng lập không đồng với ác kiến luận của ngoại đạo”. Thánh tuệ nhãn là Phật biết, Phật thấy. Tự tướng là pháp tự chứng, cộng tướng là pháp hóa tha. Do tự ngộ nhập tri kiến Phật mà lập ra các thứ pháp môn, giúp cho các chúng sinh nương pháp tu hành cũng đều ngộ nhập tri kiến Phật. Nhưng chỗ lập ra pháp môn đều là toàn thể khởi dụng, cho nên khác với tà kiến nói suông của ngoại đạo.

25. Luận ác kiến của ngoại đạo:

Này “Đại Tuệ! Thế nào gọi là đồng với luận ác kiến của ngoại đạo, nghĩa là tự cảnh giới do vọng tưởng mà thấy, không biết do tự tâm hiện, bờ mé không thông”. Ngoại đạo tu hành cũng phát tà tuệ, cảnh giới họ thấy không biết do tâm phát hiện, vọng tự phân biệt có không, ý nói do vọng tưởng mà thấy. Nói bờ mé không thông, nghĩa là tướng cảnh giới hiện ra không thể thông đạt.

Này “Đại Tuệ! Phàm phu ngu si đối với tánh, vô tánh, tự tánh, Đệ nhất nghĩa khởi luận nhị kiến”. Phàm phu đối vô tánh, tự tánh, Đệ nhất nghĩa, mê muội không biết rằng chẳng thật là không. Vì mê nên đối với tánh Đệ nhất nghĩa chẳng phải có, chẳng phải không này khởi hai chấp hý luận có không.

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vọng tưởng trong ba cõi khổ được diệt mà không biết đó là duyên diệt ái nghiệp; huyễn cảnh tự tâm sở hiện do tùy theo cái thấy, theo đó mà hiện, nay sẽ nói”. Ba hữu là cõi dục, cõi sắc, cõi Vô Sắc. Nói hữu: là sinh tử không mất. Khổ: tức là sinh tử khổ. Vô tri là vô minh, Ái là tư hoặc, Nghiệp duyên là nghiệp duyên thiện ác, đây là nghiệp duyên sinh tử phiền não, tức là khổ hoặc, nghiệp trong ba đường, đều do tự tâm hiện ra cảnh hư huyễn. Nếu liễu đạt được như huyễn thì các cảnh tự diệt. Như Kinh Nhập Lăng-già chép: Nếu biết cảnh như huyễn do tự tâm hiện thì dứt vọng tưởng ba cõi khổ và, nghiệp, duyên ái vô tri.

26. Nói về hai chúng khởi lên nhận thức sai lầm:

Này “Đại Tuệ! Nếu có Sa-môn Bà-la-môn muốn làm cho nhân quả vô chủng, hữu chủng hiện ra và sự thời trụ, duyên ấm, giới, nhập mà sinh khởi và an trụ, hoặc nói sinh rồi diệt”. Sa-môn Hán dịch là cần tức, nghĩa là siêng năng tu tập các điều lành, dứt các điều ác. Bà-lamôn, Hán dịch là Tịnh hành. Đoạn này nói hai chúng khởi lên nhận thức sai lầm về Có Không, đồng với ngoại đạo. Vô chủng: là chấp tánh tự nhiên. Hữu chủng: là chấp thân này từ hạt bụi sinh, từ thế tánh sinh, lấy đây làm nhân muốn cho thành quả, nên nói là nhân quả hiện. Và chấp y sự vật thời tiết mà trụ, hoặc duyên năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập… sở sinh mà trụ, đây là chấp thường. Hoặc nói sinh rồi liền diệt, đây là chấp đoạn.

Này “Đại Tuệ! Kia hoặc nối nhau, hoặc sự, hoặc sinh, hoặc hữu, hoặc Niết-bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc đế, đều thuộc phá hoại đoạn diệt luận. Vì sao? vì những điều này hiện ra không thật có và chẳng có kiến phần thỉ phần”. Nếu nối nhau nghĩa là nhân quả nối nhau, hoặc sự, nghĩa là sự vật, hoặc sinh, là ấm, giới, nhập… sinh, hoặc hữu, như các pháp thật ở trên, Là có: tức là hiển bày các pháp Niết-bàn v.v… Pháp Bốn đế đều là không. Và trở thành phá hoại đoạn diệt luận. Vả lại, Niết-bàn và đạo là pháp xuất thế gian. Hoặc nghiệp duyên, hoặc khổ quả là pháp thế gian. Đây nói bốn đế là pháp môn chân tục do Phật nói. Kia cho là không, thành luận thuyết đoạn diệt. Lại nêu giải thích nghĩa kia rằng: Do pháp bốn đế này hiện ra mà kia đều cho là thật có, đối với chỗ trước tiên khởi ngã chấp, chấp có chấp không đều là tà kiến, chẳng phải là phần chánh nhân giải thoát.

27. Nêu ví dụ để nói về chấp đoạn của ngoại đạo:

Này “Đại Tuệ! Thí như cái bình bể không thể làm được việc của cái bình, cũng như hạt giống bị cháy không thể làm được việc nẩy mầm”. Lập hai ví dụ này để nói về chấp đoạn của ngoại đạo, ban đầu dụ không có quả, không quả thì không nhân, kế là dụ không nhân, không nhân thì không quả.

“Như vậy, Này Đại Tuệ! Nếu tánh ấm, giới, nhập đã diệt, đang diệt và sẽ diệt, tự tâm vọng tưởng thấy là vô nhân”. Kia bất sinh theo thứ lớp, nếu nói rằng năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập đã diệt, vậy thì không nhân, nay diệt thì không quả, sẽ diệt thì lại không nhân; do đó mà suy đều là tự tâm vọng tưởng hiện, nhân đã không thì không có thứ lớp nối nhau sinh.

28. Phá chuyển chấp của ngoại đạo:

Này “Đại Tuệ! Nếu lại nói vô chủng hữu chủng, thức ba duyên hợp mà sinh thì rùa lẽ ra phải mọc lông, cát nên ép ra dầu. Tông chỉ của người chấp sẽ phải bị hoại, vì trái với nghĩa quyết định, thuyết hữu chủng, vô chủng có lỗi như vậy, nếu có làm được sự nghiệp gì thảy đều là không, là vô nghĩa”. Đây nhiều lớp phá chuyển chấp của ngoại đạo, trên chỉ chấp có, chấp không, là nhân sinh pháp đã bị bác bỏ. Nếu còn chấp có chấp không và thức ba duyên hòa hợp mà sinh thì cũng không có việc đó, cho nên nói ví dụ dể hiểu. Rùa đã không thể mọc lông, cát cũng không thể ép ra dầu thì rơi vào nghĩa chấp, cho nên tông ông sẽ bị hoại vì trái với nghĩa quyết định của Đại thừa. Chấp của ngoại đạo lấy hai chấp có và chấp, không làm gốc, cho nên bác bỏ chung nói có lỗi như vậy, đã không có gốc kia thì sự nghiệp nhân quả tạo ra đều không thật nghĩa.

29. Nói ba duyên làm nhân năng sinh:

Này “Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia nói có ba duyên hòa hợp sinh, đó là sở tác phương tiện, tự tướng và nhân quả, quá khứ hiện tại vị lai, tướng hữu chủng vô chủng từ xưa đến nay đã thành việc, truyền thừa cho nhau giác tưởng địa chuyển, tự thấy thói quen sai lầm, nên nói như thế”. Trên chỉ nói ba duyên kia làm nhân năng sinh, chưa nói việc tạo tác. Tạo việc gì? Hoặc phương tiện, hoặc nhân quả, hoặc tướng chung ở cả ba đời. Phương tiện là giáo pháp ngoại đạo. Nhân quả là nhân quả sở tu nương vào giáo kia. Tự tướng là tướng tự tâm hiện ra. Việc ba đời này đừng là nói gần. Nếu xét về nguồn gốc thì tướng của hai thứ Hữu, Vô nối nhau từ giác tưởng địa chuyển. Cái gọi là trước tám muôn kiếp, từ nơi chỗ ban đầu tối tăm sinh ra Giác, Giác sinh tánh, Tánh sinh địa, dần dần chuyển sinh hai mươi lăm đế, đều từ các lỗi tà kiến của mình mà huân tập các thói quen khác nên nói như vậy.

“Cho nên Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si bị ác kiến làm hại, vô trí tà vạy si mê, vọng cho là bậc nhất thiết trí nói”. Phàm phu ngu si cũng là ngoại đạo, do chấp ác kiến tà kiến mê muội không biết, tự cho là có trí lập giáo dạy người, vì thế vọng cho là bậc Nhất thiết trí nói.

30. Nói về Phật giáo chánh thuyết:

Này “Đại Tuệ! Nếu lại có các Sa-môn, Bà-la-môn khác thấy mây bay, vòng lửa, thành Càn-thát-bà, bất sinh huyễn, sóng nắng, trăng đáy nước, mộng lìa tự tánh, đó là vọng tưởng hiện khởi ở trong và ngoài tâm, luống dối từ vô thỉ, không lìa tự tâm. Nhân duyên vọng tưởng diệt hết thì lìa vọng tưởng năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán, thọ dụng, lập ra thân đều là tàng thức. Đối với cảnh giới thức thì năng nhiếp thọ và sở nhiếp thọ đều chẳng tương ưng. Không có cảnh giới nào lìa sinh trụ diệt, tự tâm sinh khởi chạy theo phân biệt”. Ở đây nói Phật giáo chánh thuyết tức là huyễn cảnh do thuyết trước hiện khởi. Kiến lìa tự tánh nghĩa là thấy tất cả pháp đều lìa tự sinh tánh chấp, cũng lìa tha sinh, cộng sinh, vô nhân sinh tánh chấp. Ở đây nói lược chung về tự tánh, do lìa tánh chấp cho nên vô sinh. Thí như mây bay trong hư không, như vòng lửa xoay tròn, như thành Càn-thát-bà, như huyễn, như sóng nắng, trăng đáy nước, như mộng thấy, cùng với huyễn cảnh là một. Nếu thông đạt huyễn cảnh này vốn không trong ngoài, thấy có trong ngoài, nhưng do vọng tưởng luống dối từ vô thỉ tạo thành, không lìa tự tâm, tự tâm tánh lìa, cho nên nhân duyên vọng tưởng diệt hết, đây là vọng tưởng khổ quả trong ba cõi diệt. Và năng thuyết sở thuyết, năng quán sở quán, cho đến tàng thức thọ dụng lập ra thân tất cả đều lìa lời nói đối với thức cảnh giới nhiếp thọ, cảnh giới tức sáu trần, nhiếp thọ tức sáu căn. Nói sở nhiếp thọ tức sáu thức. Nói không tương ưng, là do biết cảnh giới vắng lặng cho nên không đối đãi, đâu còn có sinh trụ diệt, nhưng về sau tàng thức tự tâm sinh khởi, chạy theo tất cả cảnh giới, do chánh trí phân biệt nên tạo ra tất cả.

31. Nói về Bồ-tát tự chứng:

Này “Đại Tuệ! Bồ-tát kia chẳng bao lâu sẽ thấy được sinh tử, Niết-bàn bình đẳng, phương tiện khéo léo đại bi, phương tiện vô khai phát. Này Đại Tuệ! Kia thấy tất cả thế giới chúng sinh thảy đều như huyễn, chẳng cần nhân duyên, xa lìa cảnh giới trong ngoài, ngoài tâm không thấy gì, theo thứ lớp mà vào chỗ vô tướng, lần lượt bước lên từ địa này cho đến địa khác, là cảnh giới Tam-muội”. Pháp giới bình đẳng vốn bất sinh, diệt, mê là sinh tử, ngộ là Niết-bàn, mê ngộ tuy khác mà lý thường bình đẳng. Bồ-tát tu hành từ thấp đến cao, cho nên nói không bao lâu sẽ được sinh tử, Niết-bàn bình đẳng, đây là tự chứng. Tự chứng lý rồi, thì khởi dụng hóa tha, vận tâm đại bi, lập ra phương tiện khéo léo dẫn dắt chúng sinh, dạy cho họ tu hạnh vô tác, khai phát bổn tánh. Nói phương tiện không khai phát tức là hạnh vô công dụng, lý tuy mỗi người vốn đầy đủ nhưng chẳng có hạnh vô công dụng này thì tự hành hóa tha đều không thành tựu. Bồ-tát kia đã đạt được lý này thì hiểu rõ tất cả chúng sinh đều như huyễn hóa, không nhọc phải tác ý, xa lìa các tướng cảnh giới trong ngoài một cách tự nhiên, chỉ một chân tâm, hoàn toàn không còn thấy gì khác, đó gọi là vào chỗ vô tướng, chỗ vô tướng tức là chỗ sơ trụ, phá vô minh, hiển bày pháp tánh, thứ lớp nhập hành hướng địa. Từ địa này đến địa khác tức là từ địa thứ nhất đến địa thứ mười.

32. Nói chuyển thân đắc Như lai:

“Hiểu ba cõi như huyễn, phân biệt quán sát sẽ được Tam-muội như huyễn, vượt qua cảnh giới tự tâm, hiện vô sở hữu, được an trụ Bátnhã Ba-la-mật. Lìa bỏ phương tiện sở tác từ kia sinh ra, vào Tam-ma-đề Kim cương dụ, theo vào thân Như lai, theo vào như như hóa, thần thông tự tại, từ bi phương tiện đầy đủ trang nghiêm, bình đẳng vào tất cả cõi Phật, vào chỗ ngoại đạo, lìa tâm ý, ý thức. Bồ-tát này thứ lớp chuyển thân liền được thân Như lai”. Trên nói rõ thế giới chúng sinh như huyễn thì biết ngoài tâm không có pháp, đến đây lại biết ba cõi như huyễn, đắc Tam-muội Như huyễn, vượt qua cảnh giới tự tâm hiện, không còn có các tướng và được an trụ trí tuệ bờ bên kia. Nói lìa bỏ phương tiện sở tác do kia sinh ra là lìa sở tác hữu sinh mà được phương tiện vô sinh vô tác. Kim Cương dụ là nói Bồ-tát Đẳng giác dùng trí Phật dứt trừ vô minh nhỏ nhiệm sau cùng, dứt bỏ được cái khó dứt bỏ. Vì kim cương là vật rất cứng rất sắc dụ cho trí Phật. Tam-ma-đề, Hán dịch là Đẳng trì, tức là thứ định chứng được sau tâm Kim cương, từ định này chuyển vào Phật địa. Như như là lý bản giác, thường an trụ lý này mà khởi các sự biến hóa, sẽ được thần thông tự tại, phương tiện từ bi đầy đủ trang nghiêm. Nói vào tất cả cõi Phật là vào cảnh giới Phật. Nói vào chỗ ngoại đạo là vào cảnh giới ma. Do có khả năng rốt ráo lìa tâm ý, ý thức, được trí vô phân biệt gọi là Tam-muội sắc thân cùng khắp. Nói chuyển thân đắc Như lai đây là tổng kết quả vị mà Bồ-tát tu chứng.

33. Phải nên tu học nghĩa bốn tất cả:

Này “Đại Tuệ! Cho nên muốn được vào thân của Như lai thì phải xa lìa vọng tâm phân biệt ấm, giới, nhập, xa lìa vọng tưởng phân biệt các pháp sinh, trụ, diệt do nhân duyên hòa hợp tạo ra. Tâm thẳng một đường mà quán sát, lỗi luống dối từ vô thỉ, thói quen vọng tưởng là nhân của ba cõi, suy nghĩ không thật có, được Phật địa vô sinh, đến con đường Thánh tự giác, tự tâm tự tại, đến hạnh vô khai phát, như tùy ngọc ma-ni, có nhiều các màu sắc, tùy nhập tâm nhỏ nhiệm của chúng sinh mà dùng hóa thân tùy tâm độ lượng. Các địa thứ lớp nối nhau dựng lập. Cho nên Này Đại Tuệ! Tự tất-đàn, phải khéo tu học”. Nói muốn được thân Như lai thì phải nương vào quả mình tu chứng mà tu nhân hạnh, phải xả bỏ vọng tâm về năm, mười tám giới, mười hai xứ và các pháp sinh trụ diệt luống dối do nhân duyên hòa hợp sinh ra. Nói chỉ do tâm thẳng tiến quán sát, nghĩa là quán các pháp duy tâm, không bước vào đường khác. Quán thẳng một niệm ba đường vốn không thật có. Nói lỗi luống dối là đường phiền não. Nói nhân thói quen là nghiệp đạo. Nói ba cõi là đường khổ. Đối với các vấn đề này, tư duy thấy rõ hoàn toàn không có một pháp thì khế hợp Phật địa vô sinh, đến cảnh giới của bậc Thánh thú tự giác, đã được tự tâm vô nhập mà không tự tại, cho nên nói đến hạnh vô khai phát, tức hạnh vô công dụng. Bồ-tát đạt đến giai vị này tùy căn cơ mà ứng hiện, như ngọc ma-ni tùy theo màu mà sắc thay đổi. Dùng trí nhỏ nhiệm nhập vào tâm nhỏ nhiệm của chúng sinh, tùy tâm lượng kia mà nói vô lượng pháp môn độ sinh, giúp chúng sinh được độ kia cũng từ các địa, dần dần thứ lớp nối nhau lập ra pháp môn. Bồ-tát độ sinh khuyến khích điều lành đối với bốn tất-đàn, cho nên tổng kết khuyên rằng phải nên tu học nghĩa bốn tất-đàn, nghĩa bốn tất-đàn 386 đã chú thích ở trước.

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch Phật rằng: bạch Đức Thế tôn! Đức Thế tôn nói tâm, ý, ý thức, năm pháp, tự tánh tướng, việc sở hành của tất cả các Đức Phật Bồ-tát do tự tâm biến hiện cùng với cảnh giới sở duyên chẳng hòa hợp, hiển bày tất cả thuyết, thành tướng chân thật, tất cả Phật ngữ tâm. Vì các Đại Bồ-tát ở trên núi Ma-la-da nằm trong biển thuộc nước Lăng-già nói Như lai khen ngợi biển sóng tàng thức cảnh giới pháp thân”. Từ Đức Thế tôn nói tâm, ý, ý thức, đến tất cả Phật ngữ tâm, là do Đại Tuệ nói lại pháp đã được nghe. Là sở hành của các Đức Phật, Bồ-tát, nhưng không lìa cảnh giới tự tâm của chúng sinh. Nói không hòa hợp là không hòa hợp với căn trần. Vì năm pháp ba tự tánh các pháp, mê ngộ đều do chân vọng đồng có mà thành ra sự khác nhau giữa hòa hợp và không hòa hợp. Hòa hợp là vọng thức, không hòa hợp là chân trí. Đã không hòa hợp thì điều đó nói lên tất cả những gì được nói đều là tướng chân thật, tức là điểm quan trọng của chư Phật giáo tâm. Đã nói điều được nghe rồi lại khởi thỉnh, cúi mong vì các Bồtát mà giảng nói pháp mà trước kia Như lai khen ngợi. Nói biển sóng tàng thức tức là thức thứ tám, thức này dung chứa các pháp thiện ác tùy duyên nhiễm tịnh, như biển dậy sóng, cảnh giới pháp thân chân lý rốt ráo của Như lai.

34. Phật nói về chuyển thức nương tàng thức sinh:

“Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ: Vì có bốn nhân duyên nên nhãn thức chuyển. Bốn nhân duyên ấy là: 1. Tự tâm hiện nhiếp thọ; 2. Bất giác vô thỉ hư ngụy quá sắc tập khí; 3. Chấp đắm thức tánh tự tánh. . Muốn thấy các thứ sắc tướng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn thứ nhân duyên, dòng nước tàng thức và sóng chuyển thức sinh”. Ở đây đáp câu hỏi trên. Trước nói bốn duyên như nhãn… nói về chuyển thức nương tàng thức sinh. Cái gọi là bốn duyên, đó là căn duyên, sắc duyên, thức duyên và dục kiến duyên. Căn duyên: căn tức là nhãn căn, nhãn đối cảnh tự tâm phát hiện, do bất giác cho nên vọng sinh chấp lấy. Sắc duyên: Sắc trần vốn không, từ vô thỉ đến nay chấp lấy làm sắc, vọng tưởng huân tập giúp cho như thế. Thức duyên: Tánh của Thức là phân biệt, căn trần đối nhau mà sinh chấp. Dục kiến duyên: Tuy ba duyên hòa hợp, nếu không khởi tâm dục kiến thì các sắc tướng vẫn không thấy. Do bốn duyên này nên nhãn thức chuyển sinh, nếu suy tìm nguồn gốc mà khởi lên tàng thức, gọi là chỗ nước chảy. Do tàng thức mà sinh chuyển thức, như nước dậy sóng.

Này “Đại Tuệ! Như nhãn thức sinh tất cả các căn, hạt bụi, lỗ chân lông đều sinh. Theo thứ lớp cảnh giới sinh cũng giống như vậy. Thí như gương sáng hiện các sắc tượng, cũng như gió lớn thổi nước biển cả”. Tâm thể như biển, tám thức như dòng nước chảy, bảy thức như dòng thác, sáu thức như sóng mòi. Nay nương tám thức trôi chảy, có nhãn… thì sóng chuyển thức sinh, như nhãn thức, năm căn, cho đến đối với một hạt bụi, một lỗ chân lông, đều đồng sinh với thức, chẳng có gì là không hay biết. Theo thứ lớp cảnh giới sinh cũng giống như vậy, là ý nói cảnh giới ngoại trần cũng thứ lớp sinh với thức, muôn pháp do thức hiện là như vậy, nhưng chỗ sinh thức có chậm có nhanh, như gương sáng hiện các hình ảnh, là dụ cho nhanh chóng sinh, như gió mạnh thổi nước biển cả, là dụ cho dần dần sinh. Gương hiện bóng không có trước sau, gió thổi nước biển cả thì sóng trước khởi động sóng sau nổi theo.

35. Tâm bị trần bên ngoài làm lay động:

“Gió cảnh giới bên ngoài làm xao động biển tâm, sóng thức không dừng. Vì tướng của nhân sở tác khác, chẳng khác, hợp với tướng do nghiệp sinh vào sâu trong chấp chặt, không thể biết rõ tự tánh của sắc, v.v… nên năm thức thân chuyển. Này Đại Tuệ! Tức là năm thức thân kia cùng chung khởi. Do đó biết tướng phần đoạn khác nhau chính là nhân của ý thức”. Tâm bị ngoại trần làm lay động như gió thổi biển cả, làm cho các sóng thức sinh nối nhau không xen hở. Tàng thức làm nhân chuyển sinh các thức, do đó vào sâu trong vọng tưởng chấp chặt, không biết tự tánh của sắc, v.v… thể vốn không, cho nên năm thức như nhãn v.v… thứ lớp chuyển sinh. Thân nghĩa là nhóm họp tức là nhóm hợp các kiến trần thành một nhãn thức v.v… đã sinh năm thức thì có ý thức đồng duyên, cho nên nói tức là năm thức thân kia khởi chung, nhưng năm thức kia và do tướng phần đoạn khác nhau của năm trần mà sinh ra tri giác. Nhân ý thức của ý nói thức thứ năm là nhân của thức thứ sáu.

36. Nói về thân kia chuyền:

“Thân kia chuyển kia không nghĩ rằng, ta xoay vần làm nhân cho nhau. Tự tâm hiện vọng tưởng chấp đắm chuyển nên mỗi hoại tướng kia đều chuyển. Phân biệt cảnh giới phần đoạn khác nhau, nghĩa là kia chuyển”. Thân kia chuyển: Là năm thức kia chuyển sinh thức thứ sáu, mà thức cũng không tự cho rằng xoay vần làm nhân cho nhau mà sinh, đều do tự tâm hiện vọng chấp cảnh trước, cảnh có sinh diệt thì chuyển cũng theo đó, hoặc do cảnh kia có tướng biến hoại, nên thức cũng đều chuyển. Lại do thức kia phân biệt các cảnh mà thức chuyển, nên gọi là kia chuyển.

37. Người Nhị thừa nhập định Diệt Tận:

“Như người tu hành nhập thiền Tam-muội, thói quen nhỏ nhiệm chuyển mà không hiểu biết lại nghĩ rằng: Thức diệt rồi mới nhập thiền chánh định. Nhưng thật ra thức chẳng diệt mà nhập chánh định, vì hạt giống thói quen chẳng diệt cho nên không diệt. Bởi cảnh giới chuyển, nhiếp thọ không có cho nên diệt”. Đây là nói người Nhị thừa nhập định diệt tận; lấy ví dụ nghĩa tàng thức nhỏ nhiệm không diệt, vì người Nhị thừa nhập định này không thể biết là thức chuyển, tự cho rằng mình nhờ diệt các thức mà nhập chánh định, nhưng thật ra không hề diệt. Bất diệt là do hạt giống thói quen của thức nương nơi tàng thức. Định diệt tận kia chỉ hàng phục sáu thức không để chấp trần cảnh cho là diệt! Nhiếp thọ không có tức không chấp trần cảnh.

38. Hành tướng của tàng thức nhỏ nhiệm:

Này “Đại Tuệ! Như thế là bờ mé rốt ráo của tàng thức nhỏ nhiệm, trừ các Đức Phật và hàng Bồ-tát Trụ địa, còn các bậc Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo tu hành đạt được năng lực trí tuệ Tam-muội, đều không thể tính lường rành rõ”. Ở đây nói hành tướng của tàng thức nhỏ nhiệm, chỉ có các Đức Phật và Bồ-tát đăng địa mới đạt đến bờ mé rốt ráo, tất cả Nhị thừa ngoại đạo tu hành chứng đắc năng lực Tam-muội đều không thể biết.

“Tướng các địa khác, dùng trí tuệ khéo léo phương tiện phân biệt quyết đoán cú nghĩa, gốc lành tốt đẹp vô biên đã thành thục, lìa vọng tưởng luống dối do tự tâm hiện, ngồi yên nơi rừng núi, tu bậc hạ trung thượng, thấy được vọng tưởng trôi chảy của tự tâm, ở trong vô lượng cõi nước được các Đức Phật quán đảnh, được năng lực tự tại, thần lực Tam-muội, các thiện tri thức Phật tử làm quyến thuộc, các vị này đều đã vượt qua các thứ chấp tâm, ý, ý thức, cảnh giới tự tánh do tự tâm hiện khởi, các tưởng luống dối, biển hữu sinh tử, nghiệp ái vô tri. Cho nên, Này Đại Tuệ! Người tu hành nên phải gần gũi hàng tri thức tối thắng”. Tướng các địa khác nghĩa là người tu tập như thật hành trì, dùng năng lực trí tuệ khéo léo phương tiện phân biệt tướng các địa. Quyết định cú nghĩa tức khéo thông đạt các cú nghĩa. Gốc lành thành thục nghĩa là đối với vô biên Đức Phật, tu tập gốc lành trên hết. Dứt bỏ vọng tưởng luống dối do tự tâm hiện nghĩa là không còn vọng tưởng phân biệt, tự tâm hiện liền biết được. Rừng núi là chỗ tu hành, bậc hạ, trung, thượng, căn khí khác nhau đều thấy được vọng tưởng trôi chảy tự tâm lưu chú, cho nên đối với vô lượng cõi nước, được các Đức Phật làm pháp quán đảnh, chính là được thần thông Tam-muội tự tại, các bậc tri thức và các vị Bồ-tát làm quyến thuộc. Các vị ấy đều biết tâm, ý, ý thức các cảnh giới sở hành nên có thể thoát khỏi nghiệp ái vô minh trong biển lớn sinh tử, cho nên khuyên bảo tu hành, là khuyên nên gần gũi những vị tu học đúng như thật. Lời nghĩa của đoạn văn kinh này ẩn kín, xưa chú giải phần nhiều khác nhau, ở đây y theo những chỗ rõ ràng trong bản dịch đời Đường để giải thích.

39. bài trùng tụng nói lại nghĩa trên:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Ví như sóng biển cả
Đây do gió mạnh thổi
Sóng lớn dậy biển cả
Không có lúc ngừng lặng
Biển tàng thức thường trụ
Cảnh giới gió lay động
Lớp lớp các sóng thức
Ào ạt mà chuyển sinh
Các màu sắc xanh đỏ
Sữa đặc và đường phèn
Vị lạt sinh hoa quả”.

Tám câu đầu nói cũng như gió mạnh thổi nước biển cả. Các màu xanh đỏ ở đây gồm sáu trần truy tìm cảnh giới bên ngoài, gió thổi trôi giạt biển tâm. Xanh đỏ là màu có khả năng sinh khởi nhãn thức. Kha bội là âm thanh có thể sinh khởi nhĩ thức. Đàn nhũ là hương vị làm cho sinh khởi tỷ thức. Mộc la, thạch mật là xúc làm sinh khởi thân thức. Cam đàm thuộc vị trần làm sinh khởi thiệt thức. Hoa hiện tại có công năng sinh ra quả vị lai, lớp lớp pháp trần làm sinh khởi ý thức, đó gọi là gió cảnh giới khởi động sóng biển tâm thức.

“Trời trăng và ánh sáng,
Chẳng khác chẳng không khác,
Nước biển nổi sóng biển,
Bảy thức cũng như vậy,
Tâm cùng hòa hợp sinh”.

Hai ví dụ này chính là nói thức tâm thứ tám cùng thức thứ sáu hòa hợp sinh chẳng khác, chẳng phải không khác, nói bảy thức là nói gồm có ý căn, ý thức, và năm thức thân, chẳng phải nói là thức thứ bảy. Trời trăng, nước biển cả dụ cho gốc, ánh sáng sóng mòi dụ cho ngọn.

“Thí như nước biển động
Lớp lớp sóng mòi dậy.
Bảy thức cũng như vậy
Tâm cùng hòa hợp sinh.
Là chỗ tàng thức kia
Các thức nghiệp chuyển dậy.
Là do ý thức kia
Suy nghĩ nghĩa các tướng.
Tướng bất hoại có tám
Vô tướng cũng vô tướng
Ví như sóng của biển
Cho nên không khác nhau.
Các thức tâm như thế
Khác cũng không thể được”.

Đây là y theo dụ sóng biển ở trên lại chia làm hai nghĩa: Dụ ban đầu nói khác là y theo kinh Lăng-già, thường thì bảy thức này cũng giống như vậy, tâm cùng hòa hợp sinh. Vì bản này dụ tám thức chuyển sinh các thức như nước biển biến động dậy lên sóng mòi. Nói do ý thức kia tư duy các tướng là do ý thức tư duy tướng sáu trần… cho nên nói là khác. Ví dụ kế là ý nói chẳng khác, kệ chép: Tướng Bất hoại có tám, nghĩa là tám thức không có hoại tướng. Vô tướng cũng vô tướng nghĩa là tám thức vốn không có tướng nên không thể thấy được, các thức đồng nương tàng thức cũng không có tướng có thể thấy được, như sóng và biển tuy khác nhưng đồng một tánh ướt, chẳng khác nhau. Các thức đều do tâm nên nói khác cũng không thể được; cho nên nói rằng, khác cũng không thể được.

“Tâm danh chứa nhóm nghiệp,
Ý danh rộng gom góp,
Các thức thức sở thức,
Cảnh hiện ra nói năm”.

Thích Luận chép: ba thứ tâm, ý, thức chỉ là một pháp, chỉ có tên khác; đối số gọi là tâm, năng sinh gọi là ý, phân biệt gọi là thức. Nói tâm danh chứa nhóm nghiệp, nghĩa là tướng căn trần đối nhau, một niệm tâm khởi mà sinh chấp chặt thành nghiệp thiện ác. Nói ý danh rộng gom góp, là do tâm trước chuyển nhập ý căn, sanh tham sân si, gây ra các nghiệp. Các thức, thức sở thức là thức thứ sáu phân biệt, năm thức trước sở thọ năm trần, cho nên nói cảnh hiện thấy nói năm, năm là năm thức.

40. Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật, Đức Phật dùng kệ đáp:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Phật:

“Xanh đỏ các sắc tượng,
Chúng sinh phát các thức,
Các thứ pháp như sóng,
Thế nào cúi xin nói”.

Trên nói các trần như xanh đỏ v.v… phát sinh năm thức như sóng biển, chẳng phải một chẳng phải khác. Lại nói rằng: Tâm có công năng chứa nhóm các nghiệp, cho nên có câu hỏi này. Khi ấy, Đức Thế tôn dùng kệ đáp rằng:

“Xanh đỏ các thứ màu,
Sóng mòi đều không có,
Gom góp nghiệp nói tâm,
Khai ngộ các phàm ngu”.

Hai câu tụng trên là nói pháp dụ đều không, câu kế tiếp là nói tâm ý chứa nhóm thành nghiệp, giúp cho phàm phu biết do gây ra nghiệp mà ngộ bản tánh.

“Nghiệp kia đều không có,
Tự tâm sở nhiếp lìa,
Sở nhiếp không sở nhiếp,
Đồng với sóng mòi kia”.

Bài kệ này nói rõ nghiệp sở tạo và tâm năng tạo đều vắng lặng cũng giống sóng mòi, nhiếp tức là chấp.

“Thọ dụng lập ra thân,
Là hiện thức chúng sinh.
Đối kia hiện các nghiệp,
Thí như nước, sóng mòi”.

Bài tụng này nói y báo chánh báo và nghiệp sở tạo của chúng sinh đều do tự tâm vọng tưởng hiện, như nước dậy sóng, nhưng thấu đạt vọng tức là chân như, sóng tức là nước, đồng một tánh ướt, đâu có khác nhau.

41. Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng kệ hỏi, Đức Phật đáp:

Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ hỏi:

Tánh biển và sóng mòi,
Nổi dậy phân biệt được.
Tàng và nghiệp cũng vậy,
Vì sao chẳng giác biết”.

Câu hỏi này ý nói pháp dụ là đồng, vì sao chúng sinh có biết, không biết.

Đức Thế tôn dùng kệ đáp:

“Phàm phu không trí tuệ,
Tàng thức như biển cả.
Nghiệp tướng như sóng mòi,
Nương thí dụ mà biết”.

Phàm phu vô trí không thể hiểu biết, tạng thức như biển thường trụ, nghiệp tướng như sóng chuyển sinh. Nêu ví dụ dẫn chứng so sánh để giúp cho kia thông hiểu.

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ hỏi:

Mặt trời mọc trước chiếu,
Chúng sinh hạ trung thượng,
Như lai chiếu thế gian,
Vì ngu nói chân thật.

Đã phân bộ các pháp, vì sao không nói thật”.

Ý của câu hỏi, này là thỉnh nói cảnh giới pháp thân, xin nói thật cho chúng sinh nghe; song, Như lai chỉ nói các bộ pháp tướng tàng thức như biển…. Vì vậy cho nên lập thí dụ để hỏi. Đã phân các bộ sao không nói thật.

Bấy giờ, “Đức Thế tôn dùng kệ đáp:

Nếu nói chân thật ấy
Tâm kia không chân thật
Thí như biển, sóng mòi
Bóng trong gương và mộng
Tất cả đồng thời hiện
Tâm, cảnh giới cũng vậy.

Ý Như lai là muốn nói thật, mà chưa nói là vì căn cơ chúng sinh chưa thuần thục, cho nên nói tâm kia không chân thật, do không chân thật nên Như lai nói tạng thức chuyển sinh các thức, như biển dậy sóng và hình ảnh trong gương, việc trong mộng. Tuy đồng thời đều hiện nhưng chẳng chân thật; nên tâm, cảnh giới cũng giống như vậy.

42. Cảnh giới bên ngoài chẳng phải tâm sẳn có: “Vì cảnh giới không có, thứ lớp nghiệp chuyển sinh.

Thức là thức sở thức
Ý là ý cho thế
Năm thức do hiển hiện
Không có định thứ lớp”.

Ở đây nói cảnh giới ngoại trần chẳng phải tâm sẵn có, chỉ tùy nghiệp chuyển sinh, sáu thức phân biệt trần bên ngoài do năm thức sở chấp cho nên nói thức sở thức. Ý căn đối với pháp trần mà khởi ý thức cũng giống như vậy. Năm thức tùy theo năm trần mà hiển hiện, đâu có nhất định thứ lớp mà sinh.

43. Và học trò thợ vẽ,

Trên vải, vẽ các hình,
Ta nói cũng như vậy.
Màu sắc vốn không nét,
Chẳng nét cũng chẳng vải.
Vì làm vui chúng sinh,
Hòa lẫn vẽ các hình”.

Dụ này nói lên lời nói văn tự không có thật nghĩa. Như lai tùy căn cơ nói pháp, như người thợ vẽ theo hình mà vẽ tượng. Nhưng vẽ tượng tuy do màu sắc và nét lụa mà thành, thật ra chẳng phải do màu sắc nét lụa, nhưng vì làm vui ý thích chúng sinh nên giả vẽ ra các ảnh tượng.

44. Pháp còn bỏ huống chi phi pháp:

“Lời nói khác việc làm,
Chân thật lìa văn tự.
Phân biệt vì sơ cơ,
Tu hành bày chân thật,
Chỗ chân thật tự ngộ,
Lìa năng giác, sở giác.
Đây nói cho Phật tử”.

Lời nói khác việc làm… nghĩa là đối với căn cơ mà lập ra ngôn giáo, chẳng thật ở tại ngôn giáo, vì sự chân thật kia vốn lìa danh tự, cho nên phân biệt là vì kẻ sơ cơ. Sơ nghiệp là người mới phát tâm. Nếu có tâm chân thật thì nêu bày pháp chân thật, giúp cho người kia tu hành và ngộ chỗ chân thật, cho nên năng giác sở giác đều bỏ, huống chi là lời nói!

45. Nói pháp phải hợp cơ:

“Người ngu phân biệt rộng,
Các thứ đều như huyễn,
Tuy hiện không chân thật,
Nói các thứ như thế,
Tùy việc lập ra riêng,
Lời nói chẳng thích hợp,
Kia cho là phi thuyết”.

Ở đây lại giải thích-câu Ứng sơ nghiệp. Tuy vì người ngu rộng dùng ngôn giáo các thứ phân biệt; thật ra kia chẳng phải thật, cũng như nhà ảo thuật hóa ra các tướng đều chẳng chân thật, cho nên các thứ lời nói tùy căn cơ phương tiện lập ra đó thôi! Nói ra chẳng thích hợp là đối với người Tiểu thừa, nói pháp chân thật cho họ nghe thì chẳng thích hợp, họ lại cho là phi thuyết, cái gọi là nói pháp không hợp cơ, lại thành đại vọng ngữ.

46. Thầy thuốc tùy bịnh cho thuốc:

“Tất cả người bệnh kia,
Thầy thuốc tùy chỗ dùng
Như lai vì chúng sinh,
Tùy tâm ứng lượng nói,
Vọng tưởng chẳng cảnh giới,
Thanh văn cũng chẳng phần.
Vì thương người mà nói,
Về cảnh giới tự giác”.

Thầy thuốc tùy bệnh cho thuốc khác nhau, huống chi Như lai ứng lượng nói pháp cũng có khác nhau. Song Như lai nói cảnh giới tự giác chân thật, chẳng phải cảnh giới của Tiểu thừa. Vọng tưởng tức ngoại đạo, kinh Nhập Lăng-già chép: Ngoại đạo phi cảnh giới, Thanh văn cũng như vậy.

 

LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO
KINH CHÚ GIẢI

QUYỂN MỘT
(Phần 2)

1. Tổng kết khuyến khích:

“Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát muốn biết cảnh giới vọng tưởng tâm nhiếp thọ và cảnh nhiếp thọ của tự tâm hiện lượng, thì phải xa lìa những thói quen ngủ say. Đầu hôm, nửa đêm cho đến gần sáng, thường tự giác ngộ phương tiện tu hành, phải lìa lời nói của kinh luận ác kiến và tướng các thừa Thanh văn, Duyên giác, phải thông đạt tướng vọng tưởng do tự tâm hiện khởi”: Đoạn này nói sự chân thật vững chắc chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo Tiểu thừa, nhưng mà tâm vốn đầy đủ pháp môn, nếu tu hành được thì điều tốt nào mà không thành, cho nên ở đây tổng kết khuyến khích. Hiện lượng trần cảnh đều không ngoài tự tâm, do mê bất giác nên vọng tưởng chấp chặt. Nói nhiếp thọ là năng thủ; và nhiếp thọ giả là sở thủ; muốn hiểu rõ luống dối mà hiển bày chân thật thì ở ngay chỗ đó mà xả tục, lìa các sự mê loạn, nửa đêm, đầu hôm cho đến lúc gần sáng phải giác ngộ, đó gọi là pháp môn tu hành phương tiện. Kinh luận ác kiến là gốc của ngoại đạo, Tiểu thừa. Không tướng là bệnh của Thanh văn Duyên giác, nếu giải thoát xa lìa được các điều ấy thì sẽ thông đạt được tướng vọng tưởng của tự tâm hiện, mà xây dựng cảnh giới chân thật.

2. Cảnh giới pháp thân là địa vị rốt ráo của Như lai:

“Lại nữa này Đại Tuệ! Bồ-tát dựng lập tướng trí tuệ được an trụ rồi, đối với ba tướng Thánh trí phải siêng tu học. Ba tướng Thánh trí, phải siêng tu học là gì? Đó là tướng vô sở hữu, tướng tất cả Chư Phật tự nguyện xứ, và tướng tự giác Thánh trí rốt ráo. Tu hành được như đây rồi, có thể lìa bỏ tướng tâm trí tuệ lừa què, được địa thứ tám của bậc Tối thắng tử, thì đối với ba tướng trên do tu hành mà sinh. Này Đại Tuệ! Tướng vô sở hữu nghĩa là tướng của Thanh văn Duyên giác và ngoại 36 đạo, do tu tập mà sinh. Này Đại Tuệ! tướng Tự nguyện xứ là chỗ các Đức Phật quá khứ tự nguyện tu sinh. Này Đại Tuệ! Tướng tự giác Thánh trí rốt ráo là đối với tất cả pháp tướng không có chấp chặt, được thân như huyễn Tam-muội, chư Phật địa xứ tiến về tu hành mà sinh. Này Đại Tuệ! Đây gọi là ba tướng Thánh trí. Nếu người thành tựu ba tướng Thánh trí này thì sẽ đạt đến cảnh giới tự giác Thánh trí rốt ráo. Cho nên, này Đại Tuệ! Ba tướng Thánh trí phải siêng tu học”.

Đoạn trên đây nói cảnh giới pháp thân là địa vị rốt ráo của Như lai, người tu hành muốn đạt đến địa vị này không có trí thì không tiến đến được. Cho nên dựng lập tướng trí tuệ, làm chỗ nương tựa cho người tu học. Nếu không tiến công thì do đâu mà thành tựu, cho nên có lời khuyên răn rằng: đối với ba tướng Thánh trí trên phải siêng tu học. Lại sợ Đại Tuệ chưa thông đạt ba tướng nên trích dẫn mà giải thích. Nhưng ba tướng này không phải hạnh tu hành của người Nhị thừa, cho nên dụ như lừa què. Tối thắng tử tức Bồ-tát địa thứ tám, không chung với người Nhị thừa cho nên nói năng xả. Vì kinh này là Đại thừa bao gồm cả Thông giáo. Nói do tu mà sinh là do tu hành mà phát sinh Thánh trí. Tướng vô sở hữu chẳng phải tướng của Nhị thừa, ngoại đạo. Tướng tự nguyện xứ là các Đức Phật từ xưa lập nguyện tu hành. Tướng Thánh trí rốt ráo là tướng tự chứng trung đạo trí tướng, trung đạo lìa hai bên không hữu cho nên nói không có sự chấp chặt. Thân Tam-muội tức báo thân. Các địa xứ v.v… nghĩa là hóa thân khắp các cõi Phật, thị hiện tiến tu đến quả cho nên nói do tu hành mà sinh. Tổng kết khuyên những người cùng tu hành hãy biết.

3. Một trăm lẻ tám câu lấy phân biệt tự tánh làm chỗ nương:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ biết rõ tâm niệm của chúng Đại Bồ-tát suy nghĩ, gọi là Thánh trí sự phân biệt tự tánh kinh, nương năng lực oai thần của tất cả Phật mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Cúi xin Ngài nói về Thánh trí sự phân biệt tự tánh kinh là chỗ nương của một trăm lẻ tám câu phân biệt”. Năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều là những việc của Thánh trí nói trong kinh này. Các Bồ-tát đã nghe nói tám thức rồi, lại muốn nghe pháp ba tự tánh, cho nên Này Đại Tuệ! Vì chúng lại thỉnh; chỉ nói tự tánh kinh ấy là nêu chung mà thâu nhiếp riêng. Nói một trăm lẻ tám câu là sở y của phân biệt, nghĩa là một trăm lẻ tám câu lấy phân biệt tự tánh làm chỗ nương.

4. Nói về nghĩa vọng chấp tự tánh khác nhau:

“Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác dựa vào sự phân biệt này mà nói Đại Bồ-tát nhập tự tướng, cộng tướng, tự tánh vọng tưởng. Do phân biệt mà nói tự tánh vọng tưởng thì nên khéo léo để biết, quán sát cùng khắp người pháp vô ngã, dứt sạch vọng tưởng, soi sáng các địa, vượt ngoài tất cả các thú vui thiền định của Thanh văn Duyên giác và ngoại đạo. Quát sát cảnh giới sở hành không thể suy nghĩ bàn luận của Như lai, quả quyết lìa bỏ năm pháp tự tánh, khéo tự trang nghiêm bằng pháp thân trí tuệ của Như lai. Khởi cảnh giới huyễn, đến tất cả cõi Phật, tầng trời Đâu-suất cho đến tầng trời Sắc Cứu Cánh, liền được pháp thân thường trụ của Như lai”. Như lai lo lắng các Bồ-tát đối với pháp sinh chấp tự tướng, cộng tướng nên nói cho họ nghe nghĩa vọng chấp tự tánh khác nhau, biết nghĩa rồi quán sát khắp thì lìa chấp người, chấp pháp, chấp đã lìa rồi liền vào các địa, do đó mà vượt qua thiền định của Tiểu thừa, phàm phu, được nhập vào cảnh giới không thể suy nghĩ, bàn luận của Như lai thì sự vọng chấp năm pháp, ba tự tánh kia không lìa mà lìa. Pháp thân trí tuệ trang nghiêm: quả tự tu hành viên mãn. Khởi cảnh giới huyễn, là hiện cõi nước hóa độ chúng sinh, sanh đến tất cả cõi Phật, cõi trời, hễ có chúng sinh có thể thọ nhận sự hóa độ, thì không nơi nào là không thị hiện thọ sinh, thành Đẳng chánh giác. Đâu-suất-đà, Hán dịch Tri túc, nghĩa là đối với năm dục biết đủ.

5. Ngoại đạo chấp không ngoài hai thứ:

“Phật bảo Đại Tuệ: Có một thứ ngoại đạo khởi vọng tưởng chấp Vô sở hữu, cho rằng các pháp không có nhân, như thỏ không có sừng; tất cả các pháp cũng giống như vậy. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy các thứ cầu-na cực vi đà-la-phiêu, hình xứ hoành pháp đều khác nhau. Thấy rồi cho rằng thỏ không có sừng, nhưng lại chấp mê là trâu có sừng”. Kiến chấp của ngoại đạo không ngoài hai thứ: 1. Chấp không, thấy tất cả các pháp tùy nhân mà hết, không còn nhân nào khác như thỏ không sừng, các pháp cũng giống như vậy, đó là Chấp đoạn. 2. Chấp có, thấy đại chủng nương cát bụi mà sinh. Đại chủng là bốn đại chủng. Cầu-na Hán dịch là y. Đà-la-phiêu dịch là trần. Đối với hình lượng xứ của các vật như bụi nhỏ v.v… thì cho rằng có những sự khác nhau rồi nảy sinh nghĩ tưởng là trâu có sừng, đó là chấp thường.

6. Ngoại đạo sinh hai chấp có không:

Này “Đại Tuệ! Ngoại đạo rơi vào hai kiến chấp, chẳng hiểu tâm lượng. Cảnh giới vọng tưởng trong tự tâm thêm lớn, thân thọ dụng được lập ra, vọng tưởng căn lượng. Này Đại Tuệ! tất cả pháp tánh cũng giống như vậy, lìa có, không, không nên nghĩ là. Này Đại Tuệ! nếu lìa có, lìa không, mà nghĩ là thỏ không sừng, đó gọi là tà tưởng, vì Ngoại đạo do quán đối đãi mà sinh ra chấp. Không nên nghĩ là thỏ không sừng, cho đến phân biệt tự tánh bụi nhỏ đều không thật có. Này Đại Tuệ! Cảnh giới bậc Thánh là lìa, không nên nghĩ là trâu có sừng”. Ngoại đạo kia sinh hai chấp có không, nên không biết các pháp do tâm, mà đối với cảnh giới tự tâm thêm lớn vọng tưởng phân biệt, còn các thứ nuôi thân của thế gian đều do tâm lượng vọng tưởng, gốc cũng do tâm. Nếu thấu đạt được cảnh giới do tâm lượng này hiện ra đều là luống dối thì hai chấp Có Không chắc chắn sẽ tiêu hết. Lại bảo này Đại Tuệ! Chẳng những tâm pháp vốn không mà tánh của tất cả các pháp cũng vốn lìa tướng có không, chẳng nên vọng chấp. Lại nữa, nếu nói rằng Có Không đều lìa mà lại nghĩ tưởng thỏ không có sừng, cũng là tà chấp. Nói đãi quán, đãi nghĩa là đối đãi, là quán sừng trâu có, sừng thỏ không, cũng chẳng phải chân không, vì vậy nói không nên nghĩ là. Cho đến đối với tự tánh bụi nhỏ mà tìm cầu thể tướng đều chẳng thật có. Vì cảnh giới Thánh trí vốn lìa các kiến chấp kia, vì vậy cho nên ở đây không nên phân biệt.

7. Bác bỏ chấp hữu vô của ngoại đạo đều chẳng phải chánh nhân:

“Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Người đạt được vô vọng tưởng, thấy tướng bất sinh rồi theo đó suy nghĩ quán sát bất sinh vọng tưởng mà nói là vô chăng?”. Đã bác bỏ chấp hữu vô của ngoại đạo đều chẳng phải chánh nhân. Lại hỏi rằng: Nay trong Chánh giáo những người không còn vọng tưởng, chỉ thấy tướng vô sinh mà thôi, thì có khác gì với các ngoại đạo kia quán sát bất sinh vọng tưởng, mà nói là vô chăng?

8. Đáp để phân biệt với phi:

“Phật bảo Đại Tuệ: chẳng phải quán sát bất sinh vọng tưởng mà nói là vô. Vì sao? Vì vọng tưởng do đó mà sinh. Y sừng kia sinh vọng tưởng, cho nên nói là y nhân; phải lìa khác và chẳng khác. Cho nên chẳng phải quán sát vọng tưởng bất sinh rồi nói là không sừng”. Đáp trước là để phân biệt với chẳng phải. Nói chẳng quán sát, vì hiểu rõ tự tánh vọng tưởng là không, khác với sự phân biệt của ngoại đạo, đối với có mà nói không; do ngoại đạo dùng phân biệt vọng tưởng làm nhân sinh ra các pháp, như nhân sừng có không mà sanh phân biệt. Nói do nương sừng nên sinh vọng tưởng. Nói lìa khác, chẳng khác: khác nghĩa là nương sừng mà sanh phân biệt có không; nói chẳng khác nghĩa là đối với sừng, không khởi phân biệt, lìa bỏ chấp này cho nên nói chẳng phải quán sát vọng tưởng bất sinh mà nói không có sừng.

9. Giải thích lại nghĩa trên:

Này “Đại Tuệ! Nếu vọng tưởng khác với sừng thì không do sừng mà sinh. Nếu không khác, thì phải do sừng mà sinh, cho đến, phân tích hạt bụi tìm cầu không bao giờ được. Vì chẳng khác với sừng cho nên vọng tưởng cũng chẳng có tánh. Cả hai đều vô tánh. Vì sao nói là không! này Đại Tuệ! vì không cho nên chẳng có sừng, quán có cho nên nói thỏ không sừng, chẳng nên nghĩ là như thế. Này Đại Tuệ! Vì không có chánh nhân cho nên nói hữu vô, cả hai đều không thành”. Ở đây lại nói vọng tưởng khác sừng v.v… là lại giải thích nghĩa trên. Nếu cho rằng phân biệt và sừng khác nhau thì sừng chẳng phải nhân sở y. Nếu không khác thì do sừng mà sinh phân biệt. Nếu phân tích cho đến hạt bụi thì tất cả đều không thật có. Từ đó, hai chấp có sừng, và không sừng đều diệt mất. Nói không khác sừng tức vọng tưởng cũng không tánh. Chẳng phải tánh là chẳng phải thật tánh, nếu hai pháp hữu vô đều vô tánh thì chỉ cho pháp nào mà nói là vô. Nói vô cho nên không sừng, nghĩa là khác với có sừng, vả lại, nói không sừng, chắc chắn không đúng lý, cho nên nói không nên nghĩ là. Nói không phải là chánh nhân, nghĩa là không có được nhân chân chính để nói về hữu vô, hữu vô đều không có thật nghĩa, cho nên cả hai đều không thành.

Này “Đại Tuệ! Lại có các ngoại đạo, khác chấp đắm việc sắc, không, hình xứ, hoành pháp, không thể khéo biết giới hạn của hư không, nói sắc lìa hư không, khởi kiến chấp vọng tưởng giới hạn”. Lặp lại chấp vào nghĩa sắc không của ngoại đạo, để phân biệt kia chẳng phải nhân. Như Kinh Nhập Lăng-già chép: lại có ngoại đạo chấp sắc, hình trạng, giới hạn hư không mà sinh chấp đắm, nói sắc khác với hư không mà sinh ra phân biệt.

10. Khéo phân biệt sắc không:

Này “Đại Tuệ! Hư không là sắc, tùy nhập sắc chủng. Này Đại Tuệ! Sắc là hư không, năng trì và sở trì được lập ra, tánh sắc không sự phân biệt nên biết. Này Đại Tuệ! Khi bốn đại chủng sinh thì tự tướng đều khác nhau, cũng không trụ hư không, chẳng phải kia chẳng có hư không”. Trên đây là nói về việc không khéo phân biệt Sắc và Không, ở đây nói, không tức là sắc, sắc tức là không. Năng trì sở trì nghĩa là sắc là sở trì của hư không, ở chỗ sở trì lập ra các sắc, thì ngoài không không có sắc đề làm năng sở lẫn nhau. Vì sao mà nói lìa hư không sanh ra chấp bờ mé. Nói tánh sắc không sự ấy nghĩa là sự tánh sắc tánh không, nên phân biệt như thế. Kinh Nhập Lăng-già chép: Giới hạn của sắc và không nên biết là như vậy. Bốn đại chủng: đất nước lửa gió, khi bốn đại này sinh, cứng ướt nóng động, tự tướng của chúng mỗi thứ đều khác nhau. Tuy chẳng trụ ở hư không, mà chẳng hề lìa hư không, cho nên nói chẳng phải nó không có hư không.

11. Quán đối đãi:

“Đúng thế, Này Đại Tuệ! Vì quán trâu có sừng nên thỏ không sừng. Này Đại Tuệ! Lại nữa, sừng trâu, phân tích thành bụi nhỏ, lại phân biệt bụi nhỏ ấy trong từng sát-na không dừng trụ. Đó là pháp sở quán gì mà nói là không ư! Nếu nói quán các vật khác thì pháp kia cũng giống như vậy”. Quán trâu có sừng v.v… là đối với trâu có sừng mà nói thỏ không có sừng. Sừng trâu này phân tích thành bụi nhỏ, lại phân tích hạt bụi gần với hư không, như vậy thì đối với tướng giác, vô giác, tìm kiếm tướng trụ trong từng sát-na cũng không thật có. Sát-na là niệm nhỏ nhiệm. Ngoại đạo kia chấp không, là nói theo sừng trâu có. Tìm kiếm sừng trâu, đã không có hạt bụi nhỏ thật có, thì chẳng biết đối với vật gì mà nói là không. Kinh Lăng-già chép: Tất cả các vật đối đãi cũng đều như vậy, đãi là đối đãi.

12. Kết thúc, khuyến khích lìa hai chấp:

“Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ rằng, Phải lìa các vọng tưởng dị kiến về sừng thỏ, sừng trâu, hình sắc hư không. Đại Bồ-tát các ông phải suy nghĩ vọng tưởng do tự tâm hiện, tùy vào tất cả cõi nước, bậc Tối thắng tử dùng tự tâm hiện phương tiện mà dạy bảo họ”. Đây là kết thúc khuyến khích lìa hai chấp. Lại nói rằng: phải suy nghĩ vọng tưởng do tự tâm hiện, muốn biết vọng tưởng thật có hay không chỉ nên nhìn lại tự tâm mình là có quả hay không có quả, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không, suy nghĩ sẽ tự biết được. Cũng phải dùng giáo lý này mà dẫn dắt người, cho nên nói tùy theo tất cả cõi nước. Tối thắng tử giống như Phật tử.

13. Nói về tự tánh vọng tưởng chẳng ngoài ngoại trần và nội thức:

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói kệ rằng: 

Sắc thảy và tâm không,
Các sắc nuôi lớn tâm.
Thân thọ dụng an lập,
Thức tạng hiện chúng sinh,
Tâm ý cùng với thức,
Pháp tự tánh, có năm.
Vô ngã hai thứ tịnh,
Nói rộng điêù cần nói
Dài, ngắn, có, không thảy,
Xoay vần giúp nhau sinh,
Vì không nên thành có,
Do có nên thành không,
Sự phân biệt bụi nhỏ,
Chẳng khởi vọng tưởng sắc,
Chỗ tâm lượng an lập,
Người ác kiến chẳng ưa,
Giác tưởng chẳng cảnh giới,
Thanh văn cũng như vậy.
Vì cứu đời, mà nói,
Về Cảnh giới tự giác”.

Sắc và tâm đều không: Bài tụng trên là nói về tự tánh vọng tưởng không ra ngoài các ngoại trần như sắc v.v… và nội thức, tâm dùng lý để nói thì vốn không thật có. Một chữ không này, là cây dao bén để chặt bỏ vọng, không gì hôn nó, nếu thể nhận được thì có tưởng nào mà không dứt bỏ được. Song, phàm phu không biết mà khởi vọng tưởng, trở lại nuôi lớn vọng tưởng tự tâm, cho nên các vật của thân thọ dụng v.v… từ đó lập ra. Nói theo gốc thì do tạng thức hiện bày, vì vậy, tâm, ý, ý thức, lần lượt sinh ra. Tự tánh pháp có năm, y theo ba tự tánh mà lập năm pháp danh, tướng v.v… và hai vô ngã. Nói rộng v.v… như bài tụng trên nói, vọng tưởng có không và quán sát đối đãi… đều chẳng phải chánh nhân. Việc phân biệt hạt bụi không khởi vọng tưởng sắc, v.v… bài tụng trên phân tích cho rằng, có sừng không sừng đều là vọng tưởng tà chấp. Chỗ Tâm lượng an lập: bài tụng trên nói, suy nghĩ biết được, tự tâm xa lìa kiến chấp có không, đó chính là chỗ an lập của nghĩa bậc nhất, chẳng phải cảnh giới an vui của Nhị thừa, ngoại đạo, ác kiến giác tưởng, mà chính là cảnh giới tự giác mà Phật nói.

14. Bồ-tát Đại Tuệ hỏi:

“Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ vì muốn dứt sạch tự tâm hiện lưu, nên lại thưa hỏi Như lai: Bạch Đức Thế tôn! Làm sao để dứt sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sinh, là Đốn hay Tiệm”: Tự tâm hiện lưu nghĩa là phiền não lưu chú hiện hành của tám thức tự tâm, cũng gọi là lỗi lầm của thói quen do tự tâm hiện khởi. Đại Tuệ vì chúng sinh mà hỏi pháp trừ sạch này là đốn hay tiệm.

15. Nêu tịnh tướng tiệm đốn:

“Phật bảo: Này Đại Tuệ! Tiệm chứ chẳng phải đốn. Như trái yêm-la chín dần, chẳng thể chín ngay được, Như lai dứt sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sinh cũng như vậy, tiệm chứ chẳng phải đốn.

Thí như người thợ gốm làm các mặt hàng, thành dần dần chứ chẳng phải thành ngay trong một lúc. Như lai dứt sạch tự tâm hiện lưu cho tất cả chúng sinh cũng giống như thế, tiệm chứ chẳng phải đốn… Thí như người học âm nhạc, hội họa, các thứ kỹ thuật, thành tựu dần dần chư chẳng phải chỉ trong một lúc: Như lai dứt trừ sạch tự tâm hiện lưu cho tất cả chúng sinh cũng giống như thế, dần thành chẳng phải thành ngay. Thí như gương sáng, hiện ngay tất cả sắc tượng vô tướng, Như lai dứt sạch tự tâm hiện lưu của tất cả chúng sinh cũng giống như thế, đốn hiện vô tướng; không có tất cả cảnh giới thanh tịnh. Như vầng trời trăng đốn chiếu hiển bày tất cả sắc tượng. Như lai vì muốn giúp chúng sinh lìa lỗi lầm của thói quen do tự tâm mình hiện cũng giống như thế, là hiển bày cảnh giới trí tối thắng không thể suy nghĩ bàn luận. Thí như tàng thức đốn phân biệt biết ngay cảnh giới thọ dụng do tâm mình hiện và thân an lập, chúng sinh nương nhờ Phật cũng giống như vậy, thành ngay cảnh giới chỗ ở của chúng sinh, đặt người tu hành vào tầng trời Sắc Cứu Cánh. Thí như Pháp Phật làm ra, nương vào ánh sáng chiếu soi của Phật, con đường tự giác của bậc Thánh cũng giống như thế, chúng sinh, đối với pháp tướng, có tánh, không tánh, ác kiến vọng tưởng, được nương vào sự chiếu soi khiến dứt trừ sạch”.

Đoạn này nêu tịnh tướng tiệm, đốn. Phật bảo Đại Tuệ: Dưới đây là nêu tướng tiệm tịnh: Văn gồm có bốn dụ, có pháp, có dụ, có hợp đều rất dễ thấy. Thí như chiếc gương sáng v.v… trở xuống là nêu rõ tướng đốn tịnh cũng có bốn dụ, sơ vô tướng sắc tượng tức là sắc tượng được nói, thể của hình bóng vốn không; do trong pháp dụ thì cảnh giới vô tướng vốn không thật có cho nên nói không có tất cả tạng thức. Dụ rằng, Đốn phân biệt tri nghĩa là chẳng phải tạng thức phân biệt, chính là phân biệt cảnh giới do tạng thức hiện ra, như các hình bóng ở trong gương. Dụ này là y theo cảnh sở cư mà Phật vì muốn các chúng sinh có căn cơ lớn thành thục một cách nhanh chóng cho. Nói nương Phật là báo thân Phật. dùng báo thân nương vào pháp thân. Nói thí như pháp Phật làm ra nương vào Phật, như Kinh Nhập Lăng-già chép: Thí như pháp thân Phật đốn hiện báo Phật và hóa Phật. Con đường Tự giác của bậc Thánh tức cảnh giới tự chứng. Người ngoại đạo, đối với tánh hữu và vô, chấp lấy một cách sai lầm, được chiếu soi khiến dứt trừ sạch.

16. Tất cả chẳng thật, đều như huyễn:

Này “Đại Tuệ! Nói theo Pháp thân, báo thân Phật, thì tất cả pháp nhập tự tướng cộng tướng là nhân của thói quen tự tâm hiện lượng, do chấp đắm của tự tánh vọng tưởng nối nhau, tất cả chẳng thật, đều như huyễn, các thứ chấp đắm đều không thật có Pháp nương Phật, pháp tức là thể của pháp thân, nương Phật tức dụng của báo Phật, nghĩa là toàn thể khởi dụng cho nên nói tất cả pháp. Pháp tức là pháp Đại thừa. Nhập tự tướng cộng tướng v.v… là nói chúng sinh quên mất bổn tánh, chấp vào tự tướng cộng tướng, đó là phiền não hiện ra nơi tự tâm, cũng gọi là nhân của thói quen. Do phiền não nối nhau vọng chấp gây ra các nghiệp ác trói buộc, gọi là nhân chấp đắm. Do phiền não gây ra các nghiệp, chịu các thứ sinh tử luống dối, cho nên nói như huyễn không thật, ba đường này bao gồm cả chín cõi cho nên nói các thứ chấp đắm, nhưng ba đường này vốn là ba đức, chúng sinh quên ba đức ấy nên trôi lăn trong ba đường. Phật nói pháp này giúp cho chúng sinh thấu hiểu tự tánh vốn không, dứt vọng thành chân, chân vọng điều dứt, cho nên nói chẳng thật có.

17. Tự tướng, cộng tướng đều không ngoài hai tự tánh:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Chấp đắm duyên khởi tự tánh, sinh tướng vọng tưởng tự tánh. Này Đại Tuệ! Thí như các nhà ảo thuật nương cỏ cây, ngói gạch tạo ra các thứ huyễn hóa, nương theo biết bao nhiêu thứ hình sắc của chúng sinh, khởi lên tất cả các thứ vọng tưởng. Tất cả các vọng tưởng đó cũng đều không thật. Ở đây nói tự tướng, cộng tướng, v.v… của các pháp đều không ngoài hai tự tánh. Do duyên khởi tự tánh mà sinh tướng vọng tưởng tự tánh, nên lại dùng thí dụ để nêu rõ. Nương cỏ cây… Làm các thứ huyễn, ở đây ví dụ duyên khởi tự tánh, hoặc bao nhiêu hình sắc… Nghĩa là vọng tưởng tự tánh. Các vọng tưởng kia như nhà ảo thuật biến ra các tướng huyễn hóa, cho nên nói cũng không chân thật.

18. Dùng pháp huyễn dụ cho các vọng tưởng:

“Cũng thế, này Đại Tuệ! Y duyên khởi tự tánh, khởi vọng tưởng tự tánh; các tướng của các tâm vọng tưởng, các tướng vọng tưởng của hành và sự, các thói quen vọng tưởng chấp đắm, đó là tướng vọng tưởng tự tánh sinh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là nương Phật nói pháp”. Trên đây là dùng pháp huyễn dụ cho các vọng tưởng, ở đây hợp với dụ trước. Nói các tâm vọng tưởng v.v… tức là nhân có tâm thì có tưởng, có tưởng thì có hành, có hành thì có sự, đều do vọng tưởng, tức là tướng của ba đường trước, chỉ có khai hợp là khác! Kinh Nhập Lăng-già chép: Do năng lực chấp đắm cảnh giới thói quen, cho nên, trong tánh duyên khởi có tánh vọng chấp khiến các tướng hiện ra, đó gọi là tánh vọng chấp sinh. Văn rõ ràng cho nên chỉ dẫn lời chú thích ngang đây: Đó gọi là tướng nương Phật nói pháp.

19. Danh của vô danh, tướng của phi tướng:

Này “Đại Tuệ! Pháp Phật lìa tướng tự tánh của tâm, cảnh giới tự giác sở duyên của bậc Thánh, dựng lập tạo tác”. Pháp Phật là pháp thân tu đức. Nói lìa tướng tự tánh của tâm là, lìa vọng niệm, vả lại pháp thân rốt ráo chỗ nào mà không lìa, hơn nữa, đặc biệt nói tâm, vì tâm là gốc của muôn pháp, nếu tâm không mất thì tất cả pháp sinh. Ở đây nói lìa tướng thì các pháp vắng lặng. Tướng vắng lặng ấy gọi là Pháp thân. Đã nói lìa tướng thì danh tướng pháp thân từ đâu mà lập; cho nên nói cảnh giới sở duyên của bậc Thánh Tự giác, dựng lập tạo tác, nghĩa là gắng gượng dùng pháp tánh làm pháp thân. Đây là “danh của vô danh, tướng của phi tướng”.

20. Nói về hóa Phật:

Này “Đại Tuệ! Hóa Phật là nói các thứ thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định và tâm trí tuệ, lìa ấm giới nhập, giải thoát thức tướng phân biệt, quán sát dựng lập, vượt hẳn kiến chấp ngoại đạo và kiến chấp Vô Sắc”. Hóa Phật tức là ứng thân Phật; nói pháp ba thừa độ thoát chúng sinh; nói sáu độ là pháp Bồ-tát, lìa năm ấm, mười tám giới, mười hai xứ và giải thoát thức tướng phân biệt, là pháp Nhị thừa: Quán sát dựng lập, tức như văn sau nói hai nghĩa của chữ Giác là pháp tự hành hóa tha của Bồ-tát. Vượt ngoài kiến chấp ngoại đạo là lìa hai chấp đoạn, thường. Kiến chấp Vô Sắc: là chấp định Vô Sắc cho rằng đó chính là định Niếtbàn, tức tâm thọ tưởng diệt.

21. Kết thúc khuyên tu học:

Này “Đại Tuệ! pháp thân Phật lìa tâm phan duyên, phan duyên lìa rồi thì tất cả tướng căn lượng sở tác đều diệt; chẳng phải là cảnh giới sở chấp ngã tướng chấp đắm của phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Đó chính là tướng tự giác của bậc Thánh rốt ráo khác nhau tướng được dựng lập, cho nên Này Đại Tuệ! Đối với Tự giác Thánh cứu cánh khác nhau tướng phải siêng tu học. Các hiện chấp của tự tâm nên phải dứt bỏ. Lại nữa, pháp Phật là nói lại chỗ lìa. Trước nói lìa tâm thì tự thể lìa, nay lại nêu lìa cảnh năng lìa sở lìa. Lìa phan duyên thì khác với phàm phu, lìa phan duyên lìa thì khác với Nhị thừa. Bởi hàng Nhị thừa tuy lìa tiền trần nhưng lại chấp không, Phật thì không như vậy, tất cả tướng căn lượng sở tác diệt, là khác với ngoại đạo, cho nên nói chẳng phải các phàm phu cho đến cảnh giới chấp đắm. Sở lìa đã cùng cực thì chỉ là tự giác cảnh giới Thánh mà thôi, nói tướng rốt ráo khác nhau: Rốt ráo là quả vị cùng cực, khác nhau chính là pháp vô vi mà có khác nhau, khác nhau trong không khác nhau. Kết thúc khuyến khích có hai thứ, khuyên tu học, kết thúc văn này; dứt trừ là tổng kết hiện lưu của tự tâm ở trên.

22. Khuyên Bồ-tát tu tự giác Thánh trí:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Có hai thứ Thanh văn thừa thông phân biệt tướng, nghĩa là được tướng tự giác Thánh của bậc khác nhau, và tướng tánh vọng tưởng tự tánh chấp đắm. Thế nào là Thanh văn được tướng tự giác Thánh khác nhau? Nghĩa là đối với cảnh giới vô thường, khổ, thông, vô ngã được chân đế, lìa dục, vắng lặng, dứt ấm, giới, nhập, tự tướng, cộng tướng, biết một cách đúng đắn các tướng bất hoại ở bên ngoài, Tâm được dừng lặng, tâm dừng lặng thì được Tam-muội thiền định giải thoát, đạo quả chánh thọ giải thoát, không lìa thói quen bất tư nghị biến dịch sinh tử, được tự giác Thánh lạc trụ Thanh văn. Ấy gọi là được tướng tự giác của bậc Thánh khác nhau.” Trên đây là khuyên Bồ-tát tu tự giác Thánh trí đã có Đại Tiểu khác nhau, vượt ngoài tướng Thanh văn sở chứng. Có hai thứ khác nhau: Tướng tự giác của bậc Thánh khác nhau, là sở chứng lý. Tướng tánh vọng tưởng tự tánh chấp đắm, là chấp giáo khởi biến. Tuy đồng là Thanh văn nhưng được mất khác hẳn. Vô thường, khổ, không, vô ngã là quán tích không mà hàng Thanh văn tu. Cảnh giới, là cảnh giới sở không. Chân đế là chân lý. Lìa dục vắng lặng, là lìa ái dục trong ba cõi, nhập Niết-bàn Vô dư. Tức diệt năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập, tự tướng, cộng tướng, tự cộng tướng, tức là tướng chung riêng. Biết như thật tướng bất hoại bên ngoài nghĩa là các Thanh văn không thể biết rõ một cách đúng như thật rằng tướng sinh tử tức là tướng Niết-bàn, cho nên thuộc về bên ngoài. Vì chắc chắn được vắng lặng, sau đó tâm mới dừng lặng, tâm đã dừng lặng nên được thiền định cho đến chánh thọ giải thoát. Không lìa thói quen, v.v… là phiền não bị dứt trừ có chánh, có tập, chỉ có thể dứt chánh, lìa phần đoạn sinh tử, chưa thể dứt tập, còn có biến định sinh tử. Phần đoạn chi hình sinh tử phần đoạn trong ba cõi; biến dịch là phương tiện độ, là nhân dời quả đổi sinh tử. Nói không thể suy nghĩ bàn luận nghĩa là sinh tử biến dịch này phàm phu chẳng thể suy nghĩ bàn luận được. Lạc trụ là hàng Thanh văn lạc trụ ở chân không Niết-bàn.

23. Bồ-tát chứng chân đế mà không mê đắm:

Này “Đại Tuệ! Đại Bồ-tát được tự giác thanh trí khác nhau lạc trụ, chẳng phải ở diệt môn lạc mà ở chánh thọ lạc, vì đoái tướng thương xót chúng sinh, vì bổn nguyện cho nên không khởi chứng. Này Đại Tuệ! Ấy gọi là Thanh văn được tự giác Thánh khác nhau tướng lạc. Đại Bồtát đối với tự giác Thánh khác nhau tướng lạc đó, không nên tu học”. Ở đây ý nói Bồ-tát cũng chứng chân đế mà không đắm trước, nói chẳng phải diệt môn, không đồng với trụ môn vắng lặng, hướng đến chánh lạc thọ của Tiểu thừa. Nói đoái hoài thương xót chúng sinh… Nghĩa là Bồ-tát dùng bi nguyện độ sinh, không chấp đắm Niết-bàn. Đây là lặp lại lời tổng kết rằng cái vui Tam-muội mà các Thanh văn chứng đắc thì đối với Bồ-tát Tam-muội này không nên tu học.

24. Gạn lại để giải thích:

Này “Đại Tuệ! Thế nào là tâm vọng tưởng tự tánh chấp đắm tướng Thanh văn? Đó là đại chủng xanh, vàng, đỏ, trắng, cứng, ướt, ấm, động, chẳng phải do tạo tác mà sanh, tự tướng, cộng tướng, bậc Tiên thắng khéo léo nói ra kiến rồi nhưng người Thanh văn khởi tự tánh vọng tưởng. Đại Bồ-tát đối với điều đó nên biết nên xả, tùy duyên nhập vào tướng pháp vô ngã, dứt trừ kiến chấp tướng người vô ngã, thứ lớp các địa tiếp nối dựng lập. Ấy gọi là các Thanh văn tánh vọng tưởng tự tánh chấp đắm tướng. Đoạn này gạn lại dẫn giải thích. Chấp tướng Thanh văn, trước hết là giải thích tánh vọng tưởng, nghĩa là sắc bốn đại chủng, mỗi đại chủng có tánh tự nhiên. Như tánh của đất là sự cứng chắc tánh, của nước là sự ẩm ướt tánh của lửa là sự ấm nóng tánh của gió là sự chuyển động. Nói chẳng tạo tác sinh là chẳng do tạo tác mà sinh, nhưng đối với ấm giới nhập, tự tướng cộng tướng mà sinh chấp đắm. Tiên Thắng là Phật, nghĩa là Đức Phật dùng phương tiện khéo léo giảng nói. Nói các Thanh văn chấp giáo không thể thấu hiểu tự tánh vốn không, thấy các tướng cảnh giới kia, khởi tự tánh vọng tưởng, là Bồ-tát phải biết đó là lỗi mà nên lìa bỏ, tùy duyên nhập vào pháp vô ngã tướng v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: lìa chấp người vô ngã, nhập tướng pháp vô ngã, dần dần vào các địa, đó gọi là hạ kiết.

25. Như lai nói về không thể suy nghĩ, bàn luận:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: bạch Đức Thế tôn! Lời Thế tôn nói thường không thể suy nghĩ bàn luận cảnh giới của con đường tự giác bậc Thánh và cảnh giới Đệ nhất nghĩa. Thế tôn! Lời các ngoại đạo nói chẳng phải nhân duyên thường không thể suy nghĩ bàn luận ư! Như lai bàn luận về không thể suy nghĩ bàn luận với cái mà ngoại đạo nói, sợ người học lầm chân rơi vào vọng cho nên nêu lên để đặt câu hỏi, tên đồng nghĩa khác thấy đầy đủ, ở văn dưới. Cái gọi là thường cùng bất tư nghị, không ra ngoài hai thứ cảnh giới, thường tức là tự giác Thánh thú, bất tư nghị tức là Đệ nhất nghĩa, tự giác thường trí, Thánh thú là thường cảnh, do thường trí mà khế hợp với thường cảnh nên gọi là thường Đệ nhất nghĩa thể dứt bặt nói năng suy nghĩ, gọi là bất tư nghị, ngoại đạo tà kiến làm sao đồng được.

26. Nhân duyên của ngoại đạo chẳng được thường không thể suy nghĩ, bàn luận:

“Phật bảo này Đại Tuệ! Nhân duyên của các ngoại đạo chẳng được thường bất tư nghị. Vì sao? Vì ngoại đạo thường bất tư nghị không nhờ tự tướng mà thành. Nếu thường bất tư nghị không nhờ tự tướng mà thành thì do đâu mà hiển hiện thường bất tư nghị. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Nếu Bất tư nghị nhờ tự tướng mà thành thì kia lẽ ra phải thường. Do tác giả nhờ tướng nên thường bất tư nghị chẳng thành. Đáp rằng: chẳng phải các ngoại đạo nhân duyên v.v… bởi ngoại đạo tu chứng chẳng phải nhân duyên chân chánh, do chẳng phải chánh nhân, nên quả chẳng phải chánh quả, cho nên nêu ra giải thích để bác bỏ. Không nhờ tự tướng mà thành, nghĩa là chẳng phải do tướng tự giác mà thành thì quả của cảnh giới thường bất tư nghị cũng không thành. Nếu nhân kia từ tướng tự giác mà thành, thì nhân thường mà quả cũng thường. Nói do làm tướng nhân, v.v… nghĩa là do nhân sở tác là tà chấp cho nên thường bất tư nghị không thành quả.

27. Nói về chỗ đúng của chánh giáo trải với ngoại đạo:

Này “Đại Tuệ! Đệ nhất nghĩa thường bất tư nghị của ta, tướng của nhân Đệ nhất nghĩa, lìa tánh phi tánh, được tướng tự giác nên có tướng. Làm nhân của trí Đệ nhất nghĩa cho nên có nhân. Vì lìa tánh phi tánh, thí như vô tác hư không, Niết-bàn diệt tận cho nên thường. Đúng thế! Này Đại Tuệ! Chẳng đồng với luận thường. Bất tư nghị của ngoại đạo. Đúng thế, này Đại Tuệ! Thường bất tư nghị này các Đức Như lai tự giác Thánh trí chứng đắc, như thế cho nên thường bất tư nghị tự giác Thánh trí chứng đắc này cần phải tu học. Đây là đối với lỗi của ngoại đạo, mà hiển bày chỗ đúng chánh giáo nói Đệ nhất nghĩa nhân tướng thành v.v… Đệ nhất nghĩa này tức là thật tướng trung đạo, do đó là nhân tức là thường nhân, do đó gọi tướng tức là thường tướng, xa lìa lỗi hữu vô. Nói lìa tánh thì chẳng đúng, lìa phi tánh thì chẳng phải vô, chẳng phải hữu chẳng phải vô chính là nói lên Trung đạo. Trung đạo dứt bặt sự đối đãi cho nên thường, thường cho nên mầu nhiệm mầu nhiệm nên không thể suy nghĩ bàn luận. Đó là do Như lai là bậc rốt ráo thường bất tư nghị, khác với ngoài đạo không có nhân tự tướng, cho nên lại nói có nhân, có tướng. Nói thí như vô tác, hư không v.v… hư không do vô vi cho nên thường, Niết-bàn do diệt tận cho nên thường. Thường bất tư nghị này thì sự tranh luận của ngoại đạo tự không thể sánh bằng. Nói các Như lai v.v… Phật dạy chẳng phải chỉ có pháp của ta như vậy, mà thường bất tư nghị của Chư Phật cũng đều như vậy. Cho nên khuyên Bồ-tát phải nên tu học.

28. Bác bỏ tánh vô thường của ngoại đạo:

Lại nữa, này Đại Tuệ! thường bất tư nghị của ngoại đạo là tánh vô thường, vì là nhân của tướng khác, chẳng phải tướng của nhân tự tác cho nên thường. Lại nữa, Này Đại Tuệ! Thường bất tư nghị của các ngoại đạo đối với tánh phi tánh sở tác là vô thường, thấy rồi suy nghĩ chấp là thường”. Đây là bác bỏ tánh vô thường của ngoại đạo, cho nên bắt bẻ họ không quả, vì nhân kia chẳng phải chánh nhân, cho nên đối với nhân trở lại bác bỏ. Nói nhân quả tướng khác, là chẳng phải tướng nhân của tự ngã. Kia nói thường, là chẳng phải lại thường do năng lực của tự làm chánh nhân thật tướng tạo thành, là thường của chẳng phải thường mà chấp là thường, đâu thể nói lên quả của tánh thường được. Lại nữa, ngoại đạo chấp thường bất tư nghị chính là nói pháp sở tác của thế gian có rồi hoàn không, đều là vô thường tánh phi tánh tức có không. Tác là thấy rồi vọng chấp là thần ngã, cho là thường bất tư nghị cho nên suy nghĩ chấp là thường.

29. Thường bất tư nghị của ngoại đạo chỉ là môn thuyết vọng tưởng:

Này “Đại Tuệ! Ta cũng dùng nhân duyên như vậy, tạo tác tánh, phi tánh vô thường thấy rồi, tự giác Thánh cảnh giới nói thường kia không nhân. Này Đại Tuệ! Nếu lại các ngoại đạo nhân tướng thành thường bất tư nghị, nhân tự tướng là tánh, phi tánh, đồng với sừng thỏ. Thường bất tư nghị này chỉ là lời nói vọng tưởng, các ngoại đạo có lỗi như vậy”. Vì sao? Vì chỉ có lời nói vọng tưởng mới đồng với sừng thỏ, tự nhân tướng chẳng có phần. Lại nói: ta cũng dùng nhân duyên như vậy, nghĩa là Như lai cũng thấy tánh kia vô thường, nhưng tu thường để nói lên cảnh giới của bậc Thánh tự giác, về sau mới biết tánh kia vô thường nên nói thường vô nhân, lại nữa, nếu dùng tà nhân tà tướng của ngoại đạo thành thường bất tư nghị, thì nhân tự tánh tướng kia chỉ có lời nói mà không có thật nghĩa, cho nên nòi đồng với sừng thỏ. Các bọn ngoại đạo có lỗi hạ kiết. Kia tóm lược có bốn: 1. Lời nói vọng tưởng. 2. Tự nhân tướng chẳng có phần. 3. Chẳng tự giác được tướng. . Suy nghĩ chấp thường. Cho nên nói có lỗi như thế.

30. Thường bất tư nghị của Phật và ngoại đạo:

Này “Đại Tuệ! Thường bất tư nghị của ta nhờ tự giác được tướng, lìa sở tác tánh phi tánh nên thường, chẳng phải ngoài đạo tánh phi tánh, vô thường suy nghĩ chấp là thường. Này Đại Tuệ! Nếu ngoại đạo tánh phi tánh vô thường mà suy nghĩ chấp là thường, bất tư nghị thường, vì kia không biết tướng thường bất tư nghị tự nhân, họ cách xa cảnh giới tự giác Thánh trí nên họ không nên nói”. Thường bất tư nghị của ta v.v… là Phật dạy chỗ chứng đắc bất tư nghị của Ngã, do tự chứng làm nhân tướng, không đồng với ngoại đạo có rồi lại không, là vô thường, dùng thần ngã suy lường chấp là thường. Nếu lại ngoại đạo tánh phi tánh v.v… lại bác bỏ ngoại đạo chấp cùng có bốn nghĩa: 1. Bác bỏ suy lường chấp thường. 2. Bác bỏ không biết tướng là thường bất tư nghị tự nhân. 3. Bác bỏ họ cách xa Phật. 4. Họ không nên nói. Là Bác bỏ họ chỉ có lời nói.

31. Sinh tử và Niết-bàn đều là vọng tưởng:

“Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Thanh văn sợ sinh tử vọng tưởng khổ mà cầu Niết-bàn. Chẳng biết sinh tử, Niết-bàn khác nhau tất cả tánh vọng tưởng chẳng phải tánh, sau rồi các căn cảnh giới thôi dứt nghĩ là Niết-bàn, chẳng phải tự giác Thánh trí thú tàng thức chuyển. Cho nên phàm phu nói có ba thừa, nói tâm lượng thú không thật có. Cho nên Này Đại Tuệ! Kia chẳng biết quá khứ, vị lai, hiện tại đều là cảnh giới tự tâm của các Đức Như lai, chấp đắm cảnh giới ngoài tâm hiện, vòng sinh tử thường xoay chuyển”. Ngoại đạo Tiểu thừa ưa cầu Niết-bàn, không biết Niết-bàn tướng khác nhau giữa sinh tử và Niết-bàn đều là vọng tưởng không có thật tánh. Trí nhãn của người Tiểu thừa này thấy căn cảnh vị lai thôi dứt, nhận lầm Niết-bàn, chẳng phải nghĩa chân thật là cảnh sở thú của tự giác Thánh trí, cũng chẳng phải chuyển tàng thức thành Niết-bàn. Phàm phu nói có ba thừa: cho là sinh tử tức Niết-bàn, pháp Đại thừa thì Tiểu thừa chẳng biết cho nên nói cho họ nghe Niết-bàn chân không của Tiểu thừa, tâm lượng không thật có tức là chân không. Nhưng lại không biết Niết-bàn diệu tâm của các Đức Phật ba đời là từ tâm phát hiện chẳng phải có riêng. Vọng chấp ngoài tâm có pháp, khởi hoặc tạo nghiệp, trôi lăn trong sinh tử.

32. Pháp vô sinh còn không thật có, huống chi là tất cả pháp:

“Lại nữa này Đại Tuệ! Tất cả pháp bất sinh là do các Đức Phật quá khứ vị lai hiện tại nói. Vì sao? Vì tự tâm hiện tánh phi tánh, lìa hữu phi hữu mà sinh này Đại Tuệ! Tất cả tánh bất sinh, tất cả pháp như sừng thỏ, ngựa v.v… Vì phàm phu ngu si chẳng giác vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp bất sinh, cảnh giới tự giác Thánh trí, tất cả tánh, tự tánh, tướng bất sinh. Chẳng phải hai cảnh giới của vọng tưởng kẻ ngu kia, tự tánh thân tài dựng lập thú tự tánh tướng. Này Đại Tuệ! Tạng thức năng nhiếp sở nhiếp tướng chuyển, kẻ ngu rơi vào hai kiến chấp sinh, trụ, diệt, hy vọng tất cả tánh sinh, hữu phi hữu vọng tưởng sinh, chẳng phải Thánh hiền. Này Đại Tuệ! Đối với kia nên phải tu học. “Phần trên Phật nói tìm kiếm vô sinh còn không thật có, huống chi là tất cả pháp ư! Do chúng sinh từ vô thỉ chấp đắm các pháp, cho nên các Đức Phật phá chấp đắm kia nên nói bất sinh, vì tất cả pháp chỉ tự tâm hiện không có thật tánh, đâu chỉ lìa hữu sinh, mà cũng lìa vô sinh. Kinh Niết-bàn chép: cái gọi là Bất sinh bất sinh”. Tất cả tánh bất sinh… lại y theo mê ngộ để nêu bày được mất, nghĩa là không thể rõ hết sinh tức vô sinh, chỉ nói tất cả tánh bất sinh, chấp đắm tất cả pháp như thỏ, ngựa v.v… không có sừng, đây là kẻ kẻ ngu chẳng giác vọng tưởng là vọng tưởng của tự tánh, chẳng phải nay nói là bất sinh. Nếu nói tất cả pháp bất sinh, là cảnh giới tự giác Thánh trí của Phật, thì tất cả pháp tánh tướng đều bất sinh, đây là chân vô sinh. Chẳng phải kẻ ngu kia vọng tưởng phân biệt hai cảnh hữu vô. Nói tự tánh thân tài, v.v… như Kinh Nhập Lăng-già chép: Thân và tài sinh khí thế gian v.v… tất cả đều là hình bóng của tạng thức. Hai tướng sở thủ, năng thủ hiện, kẻ ngu không hiểu rơi vào hai chấp hữu vô, sinh, trụ, diệt, chấp đắm tất cả tánh sinh, không ngoài vọng tưởng hữu vô, thật chẳng phải vô sinh mà Thánh hiền chứng đắc. Nói đối với kia là đối với vô sinh mà các Đức Phật nói, phải nên tu học.

33. Nói về năm thứ Vô gián:

“Lại nữa này Đại Tuệ! Có năm chủng tánh Vô gián, năm chủng tánh ấy là: Thanh văn thừa Vô gián chủng tánh, Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh, Như lai thừa Vô gián chủng tánh, bất định chủng tánh, và các biệt chủng tánh nói về chủng tánh kia vốn không khác nhau. Từ vô thỉ huân tập, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc định hoặc bất định, kinh này có nói. Có năm thứ Vô gián, hoặc chủng tánh kia thuần nhất không lẫn lộn.

34. Chỗ yếu kém của Thanh văn:

“Làm sao biết Thanh văn thừa Vô gián chủng tánh? Nếu khi nghe nói được ấm, giới, nhập tự tướng, cộng tướng dứt liền biết, toàn thân nổi ốc, vui mừng, và ưa tu tướng trí, chẳng tu tướng duyên khởi phát ngộ, đó gọi là Thanh văn Thừa Vô gián chủng tánh. Thanh văn Vô gián thấy địa thứ tám, dứt sinh phiền não nhưng thói quen phiền não chưa dứt bỏ, không qua được sinh tử biến dịch bất tư nghị, đã qua sinh tử phần đoạn, chính như Sư Tử hống nói: ta sinh đã hết sinh tử phạm hạnh đã lập, chẳng còn thân đời sau, biết đúng như thật, tu tập người vô ngã, cho đến được giác ngộ, nhập Niết-bàn. Thanh văn sợ khổ tâm tha thiết gấp cầu chứng, cho nên khi nghe nói Bốn đế, biết khổ dứt tập, mến diệt tu đạo thì thân tâm vui vẻ. Ấm giới nhập tự tướng, cộng tướng, tuy khai hợp khác nhau nhưng tức là khổ đế. Tướng trí là trí tổng tướng của Bốn đế. Hàng Thanh văn căn cơ chậm lụt, thích tu trí này, không tu tướng duyên khởi phát ngộ. Duyên giác tức mười hai nhân duyên, chính là hạnh tu của Duyên giác mà phát ngộ, nhưng hàng Thanh văn không thích tu. Hàng Thanh văn dùng Tam-muội Vô gián thấy địa Bích-chiphật thứ tám dứt kiến tư hoặc phiền não hiện hành, chưa đoạn hoặc vô minh riêng. Nói thói quen phiền não tức là vô minh. Do chưa vượt qua biến dịch sinh tử, chỉ có thể vượt qua phần đoạn sinh tử khổ mà thôi. Sư tử hống tức là ý nói không sợ hãi, nghĩa là đến địa thứ Tám nói: “ta đã hết sinh tử dứt khổ tập, phạm hạnh đã lập, không còn chịu thân đời sau, tu đạo chứng diệt, đều thật không luống dối, cho nên nói biết đúng như thật: Tu tập người vô ngã cho đến đắc Niết-bàn giác, nghĩa là không chấp người mà được Niết-bàn chứng nhân không”

Này “Đại Tuệ! Các biệt Vô gián là ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, nuôi lớn, sĩ phu. Các chứng sinh kia khởi giác như vậy, cầu nhập Niết-bàn, lại thấy ngoại đạo khác nói thấy đều do tác giả, thấy tất cả tánh rồi, nói đây là bát Niết-bàn. Khởi giác như thế, đối với pháp vô ngã thấy họ vô phần, không có giải thoát. Này Đại Tuệ! Đây là chủng tánh của các Thanh văn thừa Vô gián ngoại đạo, chẳng xuất mà tưởng là xuất, vì chuyển ác kiến cho những người này nên phải tu học”. Các Vô gián khác nhau đây nói Thanh văn chấp tướng không khác ngoại đạo mà nói Vô gián, đối với ngã, nhân, thấy, biết v.v… các pháp khác nhau, chấp là Niết-bàn, mà không biết đây là cội gốc sinh tử, trái lại cho là giác mà chấp là chứng. Lại có một hạng người chấp tất cả các pháp đều do tạo tác mà có, chẳng phải nhân chấp là nhân, thấy tất cả tánh cho là Niết-bàn. Như Thanh văn ưa diệt tu đạo, nhưng đối với pháp vô ngã giải thoát thật chẳng có phần, gọi là Phật tử nhưng thật là ngoại đạo. Cho nên nói Vô gián ngoại đạo tuy muốn ra khỏi ba cõi, mà không thể vượt qua nên nói chẳng ra khỏi mà tưởng ra khỏi. Cũng khuyên khiến người học nên chuyển ác kiến kia, mà hướng về chủng tánh Như lai.

35. Nói về Duyên giác và Độc giác:

Này Đại Tuệ! Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh, nếu nghe nói các biệt duyên Vô gián, khắp mình nổi ốc rơi lệ dầm dề, duyên chẳng gần nhau, tất cả chẳng chấp các thứ tự thân, các thứ thần thông, hoặc ly hoặc hợp các thứ biến hóa, khi nghe lời nói tâm họ liền nhập. Nếu biết họ là Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh rồi, thì thuận theo nói cho họ nghe về Duyên giác thừa: Ấy gọi là tướng Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh. Duyên giác, là từ Phật mà lãnh thọ giáo pháp, quán mười hai nhân duyên, quán lý chân đế, gọi là Duyên giác, cũng gọi là Độc giác; nghĩa ra đời không gặp Phật, thấy duyên tự ngộ. Các biệt Duyên Vô gián: Nghe nói mười hai nhân duyên nhân quả xoay vần mà ngộ vô sinh, thích ứng với sở nguyện kia, thương cảm chứa nhóm đến nơi lệ dầm dề. Nói không gần gũi nhau, nghĩa là ưa một mình nơi chỗ vắng lặng, tu hạnh xa lìa đối với tất cả các tướng đều không nên chấp. Hoặc có khi nói cho nghe thân hiện thần thông biến hóa, hoặc chia một thân thành nhiều thân, hoặc hợp nhiều thân thành một thân. Nghe nói như vậy khiến tâm có chỗ nhập. Bồ-tát biết kia là Duyên giác thừa Vô gián chủng tánh, nên nói pháp Duyên giác thừa này cho họ nghe.

36. Nói về Như lai thừa:

Này “Đại Tuệ! Như lai thừa Vô gián chủng tánh có bốn thứ: 1. Tự tánh pháp Vô gián chủng tánh. 2. Ly tự tánh pháp Vô gián chủng tánh. 3. Đắc tự giác Thánh Vô gián chủng tánh. . Ngoại sát thù thắng Vô gián chủng tánh. Này Đại Tuệ! Nếu người nghe bốn việc này, khi nói mỗi thứ và khi nói tự tâm hiện thân tài kiến tập cảnh giới bất tư nghị, thì tâm không kinh sơ. Ấy gọi là Như lai thừa Vô gián chủng tánh tướng”. Như lai chủng tánh Vô gián: Tánh ấy viên dung vô ngại. Nói bốn thứ: 1. Tự tánh pháp, tức Như lai tạng, tự tánh thanh tịnh tâm. 2. lìa tự tánh pháp, nghĩa là tánh này lìa tánh chấp. 3. Đắc tự giác Thánh, tức Như lai cứu cánh giác trí. . Ngoại sát thù thắng, nghĩa là bi nguyện của Như lai trang nghiêm cõi nước, nhiếp hóa chúng sinh, các thứ tốt đẹp. Kinh Lăng-già chép: Pháp sở chứng có ba thứ: hợp tự tánh pháp, lìa tự tánh pháp thành một. Ba thứ này tức là ba thân: pháp thân, báo thân, ứng thân. Và nói tự tâm hiện thân tài… Kinh Nhập Lăng-già chép: Nghe tự tâm hiện thân tài lập ra thức A-lại-da cảnh bất tư nghị, không kinh không sợ không hãi. Phải biết đây là tánh Như lai thừa.

37. Nói về chủng tánh bất định:

Này “Đại Tuệ! Chủng tánh Bất định nghĩa là khi nói ba tánh kia, tùy nghe nói bất cứ tánh nào mà vào, thì tùy đó mà thành. Này Đại Tuệ! Đây là sơ trị địa, là chủng tánh lập ra, vì siêu nhập vào địa vô sở hữu tạo tác lập ra. Kia tự giác tạng, thói quen phiền não, của mình thanh tịnh thấy pháp vô ngã, được Tam-muội, ưa trụ Thanh văn, sẽ được thân Tối thắng Như lai”. Bất định chủng tánh, khi nghe nói ba pháp Thanh văn, Duyên giác, Như lai thì liền sinh tin hiều mà thuận theo tu học từ Tiểu thừa vào Đại thừa, tánh kia có thể dời đổi cho nên nói bất định. Trị địa thứ nhất, tức là người chứng Càn tuệ địa, địa này là địa thứ bảy trong mười địa. Tạo tác lập ra, là nói lời như thế. Kia là tự giác tạng v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: kia trụ trong Tam-muội, ưa thích Thanh văn, nếu chứng biết từ thức nương tựa, thấy pháp vô ngã, trừ sạch thói quen phiền não, cuối cùng sẽ được chứng thân Như lai. Từ thức nương tựa tức thức thứ tám khi tự giác. Thói quen phiền não tức là vô minh.

38. Nói về bốn quả Thanh văn:

Khi ấy, Đức Thế tôn: muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Quả Tu-đà-bàn-na
Vãng lai và bất hoàn.
Đợi chứng A-la-hán
Đó thảy tâm hoặc loạn”

Tu-đà-bàn-na tức Tu-đà-hoàn, Hán dịch là Dự lưu, có khả năng dứt bỏ kiến hoặc trong ba cõi dự vào dòng Thánh, đây là Sơ quả. Vãng lai: Tiếng Phạm Tu-đà-hàm, có khả năng dứt bỏ sáu phẩm tư hoặc trước trong cõi Dục, ba phẩm sau chưa dứt, còn phải qua lại trong cõi trời, người một lần nữa, đây là quả thứ hai. Bất hoàn, Tiếng Phạm A-nahàm, dứt hết tư hoặc trong cõi Dục, không còn thọ sinh lại trong cõi Dục, đây là quả thứ ba. A-la-hán là quả thứ tư. Người chứng quả thứ tư này tuy dứt bỏ kiến hoặc, tư hoặc chứng được Tiểu quả nhưng chưa thể dứt bỏ trần sa hoặc và vô minh hoặc, đó gọi là hoặc loạn:

39. Nói về các loại thừa:

“Ba thừa và Nhất thừa,
Phi thừa ta đã nói
Kẻ ngu ít trí tuệ
Các bậc Thánh xa lìa tịch”.

Tam thừa: là ba chủng tánh Thanh văn, Duyên giác và Bất định, Nhất thừa chủng tánh Như lai, chẳng phải thừa mỗi mỗi khác nhau chủng tánh. Ý Như lai chỉ nói Nhất thừa, vì chúng sinh căn khí khác nhau nên khi nói ba thừa chẳng phải thừa, dẫn quyền về thật. Các bậc Thánh xa lìa vắng lặng, là ưa vào nơi vắng lặng của bậc Thánh chứng quả thứ tư.

40. Như lai trụ trong lý vắng lặng, không có lập thừa:

“Pháp môn Đệ nhất nghĩa,
Xa lìa cả hai giáo,
Trụ nơi Vô sở hữu,
Sao dựng lập ba thừa”

Pháp môn Đệ nhất nghĩa là lý vắng lặng, đâu có quyền thật khác nhau. Như lai trụ trong lý vắng lặng này không lập một pháp, huống chi là ba thừa.

“Các thiền vô lượng thảy,
Tam-ma-đề Vô Sắc
Thọ, tưởng đều vắng lặng,
Cũng chẳng có tâm lượng”.

Các thiền: tức Tứ thiền, Vô lượng là bốn tâm vô lượng. Vô Sắc là bốn định Vô Sắc. Tam-ma-đề: Nghĩa là Đẳng trì, tức Tam-muội. Thọ tưởng vắng lặng, là định diệt tận của Tiểu thừa. Các pháp này tâm lượng đều dứt.

41.. Nói về Nhất-xiển-đề:

Này “Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề kia chẳng phải Nhất-xiển-đề, thế gian giải thoát ai chuyển? Này Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề có hai thứ: Bỏ tất cả gốc lành và đối với chúng sinh vô thỉ phát nguyện. Thế nào bỏ tất cả gốc lành? Nghĩa là chê bai Bồ-tát tạng và nói lời ác: “Đây không phải nói thuận theo kinh điển giải thoát”. Vì bỏ tất cả gốc lành nên không được vào Niết-bàn. Nhất-xiển-đề là tiếng Phạm, Hán dịch là “tín bất cụ”, cũng dịch là Cực ác. Phi Nhất-xiển-đề, không chắc chắn là cực ác, nếu chắc chắn là cực ác, thì mãi mãi không chuyển ác thành thiện được giải thoát. Nhưng xiển-đề hiện hành tuy là tánh ác nhưng không dứt mất gốc lành, nếu chiếu soi tánh cũng sẽ thành Phật. Cho nên lại bảo rằng xiển-đề có hai thứ:

a) Xả tất cả gốc lành, người này thậc cực ác. Và đối với chúng sinh vô thỉ phát nguyện, đây là Bồ-tát xiển-đề. Vì sao bỏ tất cả điều lành? Trích dẫn giải thích nghĩa cực ác, chê bai Bồ-tát tạng và nói lời ác, đây là người pháp đều chê bai, đâu chịu thuận theo kinh luật là pháp giải thoát mà nhập Niết-bàn, cái gọi là xiển-đề là người không tu, điều lành đã hết.

b) Bồ-tát vốn tự nguyện phương tiện, chẳng phải không nhập Niết-bàn, vì tất cả chúng sinh mà vào Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Kia vào Niết-bàn, đó gọi là chẳng nhập pháp tướng Niết-bàn. Đây cũng đến cõi Nhất-xiển-đề”. Ý nói Bồ-tát Đại thừa do bổn nguyện phương tiện muốn cho tất cả chúng sinh nhập vào Niết-bàn, rồi sau mới Niết-bàn. Nói không vào pháp tướng Niết-bàn, là Bồ-tát hiểu rõ sinh tử tức Niếtbàn. Niết-bàn vốn đầy đủ chẳng phải có Niết-bàn riêng để nhập vào, nghĩa là hành giả thanh tịnh không vào Niết-bàn. Nói cũng đến cõi Nhất-xiển-đề, vì Bồ-tát biết rõ ác tức là lành, không có điều lành để tu, thú hướng, đồng với Nhất-xiển-đề bỏ tất cả điều lành và không vào Niết-bàn.

42. Lý do Bồ-tát xiển đề không vào Niết-bàn:

“Đại Tuệ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn: Trong đây vì sao rốt ráo chẳng vào Niết-bàn. Phật bảo Đại Tuệ: Bồ-tát Nhất-xiển-đề, biết tất cả pháp xưa nay đã vào Niết-bàn, rốt ráo không vào Niết-bàn, mà chẳng phải như Nhất-xiển-đề bỏ tất cả gốc lành. Này Đại Tuệ! Nhấtxiển-đề bỏ tất cả gốc lành, lại nhờ thần lực Như lai, hoặc có khi gốc lành sinh. Vì sao? Vì Như lai chẳng bỏ tất cả chúng sinh, do đó Bồ-tát Nhất-xiển-đề không nhập Niết-bàn“. Đây là nêu bày giải thích lý do Bồ-tát Xiển-đề không vào Niết-bàn. Nói xưa nay vào Niết-bàn v.v… Kinh dạy: Tất cả chúng sinh tức là tướng Niết-bàn, không thể còn diệt nữa. Nhưng Bồ-tát chẳng phải không bao giờ vào Niết-bàn, vì hiểu rõ tu tức tánh, lìa tướng Niết-bàn. Hoặc có khi gốc lành sinh… văn nói rõ có thể thấy.

43. Phân biệt tự tánh:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo biết về ba tự tánh, ba tự tánh ấy là gì? Đó là là vọng tưởng tự tánh, duyên khởi tự tánh và thành tự Thánh“. Phân biệt tự tánh là điểm quan trọng của kinh này, trước đã nói lược, nay lại nói kỹ.

44. Nói về danh tướng chấp đắm và sự tướng chấp đắm:

Này “Đại Tuệ! tự tánh vọng tưởng từ tướng sinh. Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là tự tánh vọng tưởng từ tướng sinh? Phật bảo Này Đại Tuệ! Tự tánh duyên khởi tự tướng tương hành, tướng hiển hiện sự tướng, chấp đắm có hai thứ tự tánh vọng tưởng. Như lai Ứng cúng Đẳng chánh giác lập ra: Nghĩa là danh tướng chấp đắm tướng và sự tướng chấp đắm tướng. Danh tướng chấp đắm tướng là nói chấp đắm các pháp trong ngoài. Sự tướng chấp đắm tướng là kia chấp đắm tự tướng, cộng tướng trong ngoài như vậy. Ấy gọi là hai thứ tướng vọng tưởng tự tánh. Hoặc y hoặc duyên sinh, đó là duyên khởi”. Nói tự tánh vọng tưởng từ tướng sinh, chính là từ tướng duyên khởi sinh ra. Duyên khởi là sự tướng từ nhân duyên khởi, sự tướng hiển hiện mà sinh hai thứ chấp đắm. Nói tướng tướng, là sự tướng chẳng phải một. Như lai lập ra, tức Như lai vì chúng sinh giảng nói tự tánh vọng tưởng để cho họ biết vọng, không vọng. Danh tướng chấp đắm tướng, nghĩa là các pháp căn trần trong ngoài, chấp đắm danh tướng. Sự tướng chấp đắm tướng, tức đối với pháp căn trần kia không rõ tánh không mà chấp đắm tự tướng, cộng tướng. Hoặc y hoặc duyên sinh, chính là nói duyên khởi tự tánh. Y tức là nhân, nghĩa là các pháp từ nhân duyên mà sinh. Nhân duyên có căn trần nhân duyên, có nghiệp hoặc nhân duyên, có nghiệp hoặc nhân duyên mà nghiệp lại từ căn trần sanh khởi. Tất cả các pháp thế gian xuất thế gian chẳng có pháp nào không từ nhân duyên sinh. Ngoài Long Thọ nói: Pháp do nhân duyên sinh.

45. Nói về thành tự tánh:

Thế nào là thành tự tánh? Nghĩa là lìa vọng tưởng về danh tướng và sự tướng. Thánh trí sở đắc và tự giác Thánh trí thú hướng cảnh giới sở hành. Đó gọi là thành tự tánh Như lai tạng tâm. Thành là thành tựu. Nói lìa vọng tưởng danh tướng, sự tướng, nghĩa là các Đức Phật, bậc Thánh, quán pháp do nhân duyên sinh tức quán không, quán giả và quán trung. Trí: tự giác Thánh trí tức như như. Hợp hai pháp này thành một tự tánh. Ấy gọi là Như lai tạng tâm.

Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

“Danh, tưởng, giác, tưởng,
Tự tướng tánh tướng,
Chánh trí, như như
Ấy là thành tướng”.

Danh tướng tức duyên khởi tự tánh. Giác tưởng tức vọng tưởng tự tánh. Chánh trí như như thì thành tự tánh. Đây là nhiếp năm pháp làm ba tự tánh, cho nên biết năm pháp ba tự tánh, đặc biệt khai hợp khác!

46. kết thúc khuyên tu:

Này “Đại Tuệ! Ấy gọi là Kinh Quán Sát Ngũ Pháp Tự Tánh Tướng, tự giác Thánh trí đến cảnh giới sở hành. Đại Bồ-tát các ông phải nên tu học”. Một là kinh nói tuy có cả năm pháp ba tự tánh nhưng khuyên tu những điều quan trọng, chính là tự giác Thánh trí, ở đây kết thúc khuyến tu.

47. Nói về người vô ngã:

a. “Lại nữa Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo quán hai tướng vô ngã. Thế nào là hai tướng vô ngã? Là người vô ngã và pháp vô ngã. Thế nào là người vô ngã? Là lìa ngã, ngã sở, ấm giới nhập nhóm họp vô tri nghiệp ái sinh, nhãn sắc v.v… nhiếp thọ chấp đắm sinh thức, tất cả các căn tự tâm hiện. Căn thân, khí giới là tướng tự vọng tưởng của tàng thức hiển bày lập ra”. Nói khéo quán sát tướng người pháp vô ngã, nghĩa là dùng hai thứ không quán sát nhiệm mầu, phá hai chấp sinh pháp. Các kinh khác thì gọi là sinh không pháp, đây nói là người vô ngã, pháp vô ngã. Vô là không, người là giả danh của chúng sinh, pháp là năm ấm thật pháp. Phàm phu đối với điều này giả thật ngã kiến nghiêng nặng, cho nên dùng vô ngã để phá. Nếu đạt được vô ngã thì tất cả lìa chấp, hiển bày bản tánh người nhiệm mầu, pháp nhiệm mầu. Trong người vô ngã nói lìa ngã, ngã sở, ngã tức là giả danh, ngã sở là thật pháp. Vì giả không tự giả, nương thật pháp mà có giả danh. Nếu suy tìm giả phải bao gồm thật, cho nên nói nhóm ấm giới nhập. Vô tri tức phiền não, nghĩa là thật pháp từ phiền não nghiệp ái mà sinh. Nhãn sắc v.v… là các thức như mắt, v.v… chấp lấy các trần như sắc, v.v… Căn thân, khí giới tạng, khí là y báo, nghĩa là thế giới như khí, thân là chánh báo, tạng là tạng thức. Kinh Nhập Lăng-già chép: Lại nữa, thân khí, thế gian mà tự tâm thấy đều do tạng tâm hiển hiện, các pháp này cầu vọng chấp đều không thật có. Đó gọi là người vô ngã.

b. “Như dòng sông, như hạt giống, như đèn, như gió, như mây, sát-na lần lượt hoại, thô động như khỉ vượn, ưa chỗ bất tịnh như ruồi lằn, không nhàm chán như gió thổi lửa. Do thói quen luống dối từ vô thỉ như bánh xe đạp nước, sinh tử trôi lăn trong các cõi, làm các thứ thân sắc. Như ảo thuật, thần chú, máy động hình đi. Khéo biết tướng kia, đó gọi là trí người vô ngã“. Năm ví dụ như ví dụ dòng sông… tướng hoại trong từng sát-na. Ba thứ thô động là tướng thức luống dối, cho nên dụ như ruồi lằn, khỉ vượn, gió lửa để ví dụ, nhưng đều do thói quen luống dối từ vô thỉ rơi vào sinh tử trôi lăn trong ba đường, cho nên ví dụ như đạp nước. Các thứ thân sắc… là dụ cho thân huyễn. Như ảo thuật giúp cho máy động, thần chú giúp cho thây đi. Kinh Nhập Lăng-già chép: Thí như thây người chết, nhờ năng lực chú thuật cho nên đi được. Cũng như người gỗ nhờ máy mà vận động. Khéo biết tướng kia, tức khéo biết các tướng như trên thí dụ. Đây là trí mầu quán người vô ngã.

48. Nói về pháp vô ngã:

“Thế nào là trí pháp vô ngã? Nghĩa là biết rõ ấm, giới, nhập, tướng vọng tưởng tự tánh. Như ấm giới nhập lìa ngã, ngã sở. Ấm giới nhập chứa nhóm nhân nghiệp ái ràng buộc, xoay vần duyên nhau, sinh không dao động, các pháp cũng giống như vậy, lìa tự tướng, cộng tướng vọng tưởng không thật, năng lực vô tưởng lẫn nhau. Đây là phàm phu sinh, chẳng phải Thánh hiền. Tâm ý thức, năm pháp, ba tự tánh lìa”. Pháp vô ngã trí từ thật pháp chỉ bày thẳng, nghĩa là giác biết tướng ấm giới nhập là tánh vọng tưởng. Như ấm giới nhập v.v… chẳng hạn như tiền người vô ngã, quán lìa ngã, ngã sở, chỉ do ấm giới nhập chứa nhóm, nghiệp ái trói buộc, làm duyên khởi lẫn nhau thấy tự tánh kia rõ ràng không thật có: cho nên nói không lay động, dao động tức là tạo tác. Kinh Nhập Lăng-già chép: không có người năng tác, đã không năng tác thì đâu thể sở tác các pháp được, cho nên nói lìa tự tướng, cộng tướng, nhưng tướng luống dối này là vọng tưởng phân biệt của phàm phu, chẳng phải của các bậc Thánh hiền. Đã rõ pháp pháp vốn không, đâu còn có vọng tưởng, cho nên nói tự tánh lìa. Xa lìa mà chẳng phải xa lìa tức thấu đạt tánh kia mất đi.

49. Kết thúc khuyến khích lợi ích:

Này “Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo phân biệt tất cả pháp vô ngã, pháp lành là vô ngã, Đại Bồ-tát không bao lâu sẽ được Địa thứ nhất. Bồ-tát vô sở hữu quán tướng địa, quán sát khai giác vui mừng, thứ lớp tiến lên vượt đến Cửu địa. Nơi đó dựng lập vô lượng bảo trang nghiêm, hoa sen báu lớn, voi đầu đàn, cung điện báu lớn, cảnh giới tự tánh huyễn do tu tập sinh. Ngồi nơi kia mà đồng một loại với các vị Tối Thắng tử quyến thuộc vây quanh. Từ tất cả cõi Phật đến, Phật dùng tay làm phép quán đảnh như Thái tử con vua chuyển luân làm phép quán đảnh, vượt địa vị Phật tử, đến Tự giác Thánh trí pháp thú, sẽ được pháp thân tự tại của Như lai, vì thấy pháp vô ngã, đó gọi là tướng pháp vô ngã, Đại Bồ-tát các ông phải nên tu học”. Trong văn này kết thúc khuyến khích lợi ích. Nói sẽ được Địa thứ nhất, là Hoan hỷ địa. Vô sở hữu v.v… Nghĩa là Bồ-tát dùng quán mầu Trung đạo, biết rõ tướng các địa không bị chướng ngại. Vì quán sát như vậy nên mở mà sinh vui mừng, hoặc siêu hoặc tiệm, đến Pháp Vân địa, trụ ở địa này rồi, có vô lượng cảnh giới các báu trang nghiêm hiện ra trước mặt. Tự Tánh huyễn: do tu tập pháp môn huyễn tánh nên chiêu cảm quả báo như vậy. Đồng một tượng loại v.v… nghĩa là hàng Bồ-tát pháp thân đều đến vây quanh, các Đức Phật cũng đến dùng tay làm lễ quán đảnh, như văn dưới rất dễ thấy.

50. Làm sao lìa được hai chấp này?

“Khi ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Tướng dựng lập chê bai, cúi mong Thế tôn nói giúp con và các Đại Bồ-tát lìa ác kiến hai bên dựng lập và chê bai, chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác: Đã lìa thường lập ra, dứt kiến chấp chê bai, không chê bai chánh pháp”. Trong thế giới chân như còn không thể nói có được, chẳng có thuyết, có danh là lập ra chấp thường. Chẳng phải vô thuyết vô danh là chê bai chấp đoạn. Này Đại Tuệ! Lập ra đây để hỏi: làm sao lìa hai kiến này để được Bồ-đề, không chê bai chánh pháp.

51. Dựng lập và chê bai đều do tâm lượng:

“Khi ấy, Đức Thế tôn nhận lời thỉnh của Bồ-tát Đai Tuệ mà nói kệ rằng:

Dựng lập và chê bai,
Không có tâm lượng kia
Thân thọ dụng dựng lập
Và tâm không thể biết
Ngu si không trí tuệ
Dựng lập và chê bai”

Ở đây nói dựng lập và chê bai đều do tâm lượng, nhưng tâm lượng thật tìm không thật có, Như lai chỉ thẳng như thế, giúp cho hàng phàm phu mê mờ kia biết rõ vốn không có lìa các tà kiến. Nói thân thọ dụng lập ra, thân là sắc thân chánh báo, thọ dụng là tư tài y báo. Do ngu si vô trí không biết đó là tự tâm vọng hiện nên rơi vào hai kiến.

52. Bác bỏ dựng lập và chê bai:

“Đức Thế tôn nói nghĩa kệ này rồi, muốn lặp lại cho rõ ràng nên bảo Đại Tuệ: Có bốn thứ chẳng thật có mà có dựng lập. Bốn thứ ấy là: chẳng có tướng dựng lập, chẳng có kiến dựng lập, chẳng có nhân dựng lập và chẳng có tánh dựng lập, đó gọi là bốn thứ dựng lập. Lại chê bai, là đối với sở lập kia không có sở đắc, quán sát chẳng có phần, liền khởi chê bai. Ấy gọi là tướng dựng lập chê bai”. Trên nói dựng lập chê bai là tà kiến đoạn thường, mà chưa nói rõ danh nghĩa cho nên nêu danh kia rồi sau giải thích nghĩa. Danh tướng tất nhiên là nhiều, kia tóm lược có bốn: Tướng, kiến, nhân, tánh. Đều nói chẳng phải có lập ra, nghĩa là vốn không có kiến mà dựng lập kiến, tướng chê bai không từ nơi khác khởi, đối với việc dựng lập pháp mong cầu không thật có, do khởi không tưởng, cho nên nói đối với sở lập kia không có sở đắc. Nói quán sát không có phần. Kinh Nhập Lăng-già chép: Không khéo quán sát bởi không thể hiểu rõ chân không là bất không mà khởi lên kiến chấp chê bai.

53. Giải thích tướng dựng lập ban đầu:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Vì sao chẳng có tướng mà dựng lập tướng? Nghĩa là ấm, giới nhập chẳng có tự tướng, cộng tướng mà khởi chấp chặt, đây như vậy, đây chẳng khác. Đó gọi là chẳng có tướng dựng lập tướng, đây chẳng có tướng dựng lập, là do lỗi vọng tưởng luống dối từ vô thỉ, các thứ thói quen chấp chặt mà sinh”. Đây là giải thích tướng dựng lập ban đầu. Nói chẳng có tướng dựng lập: Nghĩa là đối với ấm giới nhập, tự tướng, cộng tướng vốn không thật có mà sinh chấp chặt. Nói đây như vậy, đây không khác: Như vậy là tự tướng, không khác là cộng tướng. Nhưng đây chẳng có tướng lập ra tướng, chẳng phải mới đời này, cho nên nói vọng tưởng luống dối từ vô thỉ, các thứ thói quen chấp chặt mà sinh.

54. Chẳng có kiến dựng lập tướng:

Này “Đại Tuệ! Chẳng có kiến dựng lập tướng: là ấm giới nhập kia nhập vào ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, nuôi lớn, sĩ phu được dựng lập. Ấy gọi là chẳng có kiến dựng lập tướng”. Chẳng có kiến v.v… Kiến này cũng từ ngã sở sinh ra, nghĩa là đối với ấm giới nhập vọng khởi kiến chấp ngã, nhân, chúng sinh v.v… cho nên nói chẳng có kiến dựng lập.

55. Chẳng có chân dựng lập tướng:

Này “Đại Tuệ! Chẳng có chân dựng lập tướng, nghĩa là thức ban đầu vô nhân sinh, sau bất thật như huyễn, vốn bất sinh, nhãn, sắc, minh, giới, niệm, trước sinh, sinh rồi thật có rồi lại hoại. Ấy gọi là chẳng có nhân dựng lập tướng”. Nhân này dựng lập thức ban đầu vô nhân sinh, nghĩa là thức niệm đầu tiên vô nhân mà sinh, sau khi sinh bất thật như huyễn, đã như huyễn thì đâu có sinh! Nhãn, sắc, minh, giới… là nói thức đầu tiên vốn không, sau do bốn duyên như mắt v.v… một niệm trước sinh. Sinh đã thật có, rồi lại hoại. Đó là sinh diệt cho nêu đều phi.

56. Chẳng có tánh dựng lập tướng:

Này “Đại Tuệ! Chẳng có tánh dựng lập tướng, nghĩa là hư không diệt, bát Niết-bàn, chẳng phải tạo tác, chấp đắm tánh dựng lập. Đây là lìa tánh, chẳng phải tánh. Tất cả pháp như sừng thỏ, sừng ngựa v.v… như tóc rũ hiện, lìa có chẳng phải có. Ấy gọi là chẳng có tánh dựng lập tướng”. Trong tánh dựng lập, nói hư không diệt, nhập Niết-bàn, tức ba thứ vô vi. Hư không là hư không, vô vi diệt là phi trạch diệt, vô vi bát Niết-bàn gọi là trạch diệt vô vi. Ba vô vi này đều không có tánh tạo tác. Nhưng tà kiến chấp chặt là hữu, nói lìa tánh, chẳng phải tánh: nghĩa là tất cả các pháp xưa nay chẳng có chẳng không, như sừng thỏ, sừng ngựa, v.v… là ví dụ chẳng phải có, như tóc rũ do mắt bị nhặm mà sinh, ấy là ví dụ chẳng phải vô. 

57. Tổng kết bác bỏ:

“Dựng lập và chê bai là kẻ ngu vọng tưởng, không khéo quán sát tự tâm hiện lượng, chẳng phải Thánh hiền. Cho nên lìa ác kiến dựng lập chê bai, phải nên tu học”. Đây là tổng kết bác bỏ, do kẻ kẻ ngu không khéo quán sát tự tâm hiện lượng chẳng phải có chẳng phải không, mà vọng chấp có không, thật chẳng phải Thánh hiền. Cho nên khuyên Bồtát lìa hai thứ chấp này, phải nên tu học.

58. Bồ-tát khéo biết sẽ đạt đến địa vị rốt ráo:

“Lại nữa, Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát khéo biết tướng tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã, tiến đến rốt ráo. Vì an lập chúng sinh nên hiện các thứ hình tượng, như chỗ tự tánh vọng tưởng nương vào duyên mà khởi. Thí như các sắc hiện trong hạt châu như ý, hiện khắp tất cả cõi nước các Đức Phật, tất cả Như lai và có đại chúng nhóm họp trong đó thảy đều nghe nhận Phật pháp. Đó là các pháp như huyễn, như mộng, như ánh chớp, như hình ảnh trong gương, trăng đáy nước, đối với tất cả pháp lìa sinh diệt, đoạn thường, và lìa pháp Thanh văn, Duyên giác”. Đây là nói Bồ-tát khéo biết tướng tâm, ý, ý thức năm pháp, ba tự tánh, hai vô ngã, sẽ đạt đến địa vị rốt ráo, pháp tự hành đã thành, sẽ hóa độ chúng sinh, tùy loại hiện thân. Cho nên nói hiện các thứ thân. Nói luống dối tưởng… huống chi Bồ-tát tùy căn cơ lập ra giáo hóa, cũng như phàm phu vọng tưởng từ duyên mà khởi. Lại nói thí như các màu sắc… dụ cho Bồ-tát dùng một thân, tất cả thân hiện khắp tất cả cõi nước của các Đức Phật và các Đại Bồ-tát nghe thọ Như lai nói pháp. Pháp mà vị ấy nói như huyễn, như mộng, như hình ảnh trong gương, như trăng đáy nước, xa lìa sinh diệt và đoạn thường, không trụ trong giai vị Nhị thừa.

59. Lìa Nhị thừa được Tam-muội:

“Được trăm ngàn Tam-muội, cho đến trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội. Được Tam-muội rồi, sẽ đến cõi nước các Đức Phật, cúng dường các Đức Phật, sinh lên các tầng trời để truyền bá Tam bảo, thị hiện thân Phật, có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đại chúng vây quanh, dùng tự tâm hiện lượng độ thoát chúng sinh, phân biệt giảng nói ngoại tánh là vô tánh, giúp họ xa lìa kiến chấp có không”. Đã lìa địa vị Nhị thừa thì được vô lượng Tam-muội của các Đức Phật, cho đến thị hiện thân Phật. Nói tự tâm hiện v.v… Kinh Nhập Lăng-già chép: Vì các chúng sinh nói cảnh giới bên ngoài đều do tâm hiện, giúp họ xa lìa kiến chấp có không.

60. Lìa hạnh sở tác:

“Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Tâm lượng thế gian
Phật tử quán sát
Các thứ thân hình
Lìa hành sở tác
Được sức thần thông
Thành tựu tự tại”

Nói tâm lượng thế gian, nghĩa là Bồ-tát dùng tự tâm hiện lượng. Quán sát chúng sinh thế gian tùy căn cơ ứng hiện khắp, nhưng đều vượt ra ngoài lòng từ vô duyên cho nên lìa hành sở tác, cũng do được năng lực Tam-muội như huyễn cho nên thành tựu.

61. Nói theo tánh tướng:

Khi ấy, Bồ-tát Đại Tuệ lại thưa hỏi Phật: Cúi mong Đức Thế tôn vì chúng con nói tất cả pháp không, vô sinh, không hai, lìa tướng tự tánh. Chúng con và chúng Bồ-tát khác, giác ngộ pháp không, vô sinh, không hai, lìa tướng tự tánh rồi, sẽ lìa vọng tưởng có không, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ! Lắng nghe! Lắng nghe! Hãy khéo suy nghĩ, nay ta sẽ nói rộng cho ông nghe. Đại Tuệ tất cả pháp sở sinh, không tự sinh tánh, gọi tự tánh Không. Trước đã nói không tánh, ở đây lại nói tánh không, trước là xét nhập vào không, cho nên tánh tướng đều là tướng, y theo tu. Ở đây thì vốn tự hai không, cho nên tánh tướng đều là tánh, y theo tánh.

62. Nói về hành không:

“Thế nào là hành không? Nghĩa là ấm lìa ngã và ngã sở. Nhân sở thành nên chỗ tạo nghiệp phương tiện sinh, đó gọi là hành không”. Hành không nói ấm lìa chấp. Từ ấm thành ngã, từ ngã khởi hành. Nhân sở là nhân ngã sở, nghĩa là nhân ngã sở khởi nghiệp, phương tiện hòa hợp mà sinh vọng chấp, thuận tánh tìm cầu đều không thật có, gọi là hành không.

Này “Đại Tuệ! Tức hành không như thế ấy xoay vần duyên khởi tự tánh vô tánh, đó gọi là vô hành không”. Vô hành không là không lìa sở tác hành trước, chính là rõ thấu được các ấm xoay vần duyên khởi không có tự tánh, là hành vô hành, đó gọi là vô hành không.

63. Tất cả pháp lìa lời nói không:

Thế nào là tất cả pháp lìa lời nói không? Nghĩa là vọng tưởng tự tánh không có lời nói, nên tất cả pháp lìa lời nói. Ấy gọi là tất cả pháp lìa lời nói không. Tất cả pháp lìa lời nói không, là tất cả pháp vọng chấp tự tánh, tự tánh là thật có, đâu có dung hòa lời nói, đó gọi là lìa lời nói không.

“Thế nào là tất cả pháp Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không? Nghĩa là người được tự giác Thánh trí thì tất cả lỗi thói quen kiến chấp không, đó gọi là tất cả pháp Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không”. Tự giác Thánh trí vốn chẳng phải không, mà năng không lỗi thói quen kiến chấp kia, sở đã không, năng không cũng không, tức là rốt ráo không.

64. Nói về chấp không của ngoại đạo:

“Thế nào là bỉ bỉ không? Nghĩa là đối với kia chẳng có cái không kia, đó gọi là bỉ bỉ không. Này Đại Tuệ! Thí như nhà Lộc tử mẫu không có voi ngựa, trâu dê… chẳng phải không có chúng Tỳ-kheo mà nói kia không. Chẳng phải nhà nhà tánh không, cũng chẳng phải chỗ khác không có voi ngựa. Đó gọi là tất cả pháp tự tướng. Kia đối với kia không có kia, đó gọi là bỉ bỉ không. Như trên gọi là bảy thứ không. Bỉ bỉ không là cái không rất thô, ông phải lìa bỏ”. Bỉ bỉ không, chính là nói chấp không của ngoại đạo, đối với đây mà nói thì chỉ không ở kia mà chẳng không ở đây. Cho nên nói đối với kia không có cái không kia. Thí như Lộc Tử v.v… Lộc Tử là tên người, kia tên Tỳ-xá-khư Mẫu Ưu-bà-di, tin sâu Tam bảo, xây dựng tịnh xá cho có Tỳ-kheo ở, trong tịnh xá đó không nuôi voi, ngựa… Nói nhà kia không, là chỉ nhà kia không có voi ngựa, chẳng phải nói chúng Tỳ-kheo cũng không. Chẳng phải nhà trở xuống là tổng kết bác bỏ ngoại đạo chấp không tà vạy, nghĩa là dù cho nhà kia không có Tỳ-kheo nhưng chẳng thể không có hai tánh kia, dù cho rằng chỗ ấy không có voi ngựa là không thì chỗ khác cũng chẳng phải không, cho nên năng sở kia đây rõ ràng sao lại không có. Ấy gọi là tất cả pháp trở xuống tổng kết bác bỏ, chữ bỉ ban đầu chỉ cho ngoại đạo, nhưng đối với kia không kia mà chẳng thể không đây. Lại nói rằng bỉ bỉ không trong bảy thứ không là cái không rất thô, đó là tà chấp của ngoại đạo, cho nên răn bảo người học phải xa lìa.

65. Thế nào là vô minh chân thật:

Này “Đại Tuệ! Không tự sinh chẳng phải bất sinh, trừ người trụ Tam-muội, đó gọi là vô sinh”. Đây là giải thích câu hỏi vô sinh. Không tự sinh, nói đủ phải như Đại luận có bài kệ rằng: “Các pháp không tự sinh, không từ nơi khác sinh, chẳng cộng chẳng vô nhân. Cho nên nói bất sinh.” Chẳng phải bất sinh, nghĩa là chẳng phải hoàn toàn bất sinh, vì nói về lý thì vô sinh mà không chỗ nào bất sinh. Ngài Vĩnh gia cũng nói rằng: Nếu thật vô sinh, vô bất sinh. Trừ người trụ Tam-muội, là trừ đăng địa thứ nhất sơ trụ phá vô minh hiển hiện pháp tánh, gọi là vô sinh Chân thật.

66. Nói về lìa tự tánh:

“Lìa tự tánh tức là vô sinh. Lìa tự tánh thì sát-na nối nhau trôi chảy và dị tánh, hiện tất cả tánh lìa tự tánh. Cho nên tất cả tánh lìa tự tánh”. Ở đây giải thích câu hỏi lìa tướng tự tướng, tức là vô sinh. Nói sát-na nối nhau trôi chảy chính là tâm, và dị tánh hiện, v.v… là pháp. Nghĩa là nếu tâm biến động thì có dị tánh hiện tất cả các pháp, nếu rõ tâm không thì các pháp tự tiêu mất, cho nên nói là lìa tự tánh.

67. Giải thích câu hỏi không hai:

“Thế nào là không hai? Nghĩa là tất cả pháp như lạnh nóng, dài ngắn, đen trắng. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không hai chẳng phải đây Niết-bàn kia sinh tử, chẳng phải đây sinh tử, kia Niết-bàn, vì khác tướng nhân mà có tánh, đó gọi là không hai. Như Niết-bàn, sinh tử tất cả pháp cũng giống như vậy. Cho nên không và vô sinh chẳng phải hai, lìa tướng tự tánh, nên phải tu học”. Đây là giải thích câu hỏi không hai. Trước y theo sự để nêu hai tướng kia, tướng lạnh nóng, dài ngắn, trắng đen đối đãi rõ ràng không thể không phải hai. Lại nói tất cả pháp chẳng hai, là nói theo lý, vì lý là một, dung hợp với việc kia thì khác, cho nên tất cả pháp không hai. Nói chẳng phải đối với Niết-bàn v.v… sinh tử và Niếtbàn xưa nay bình đẳng, chẳng phải ngoài Niết-bàn có sinh tử riêng, chẳng phải ngoài sinh tử có Niết-bàn riêng, kia tức là ngoài. Nhưng hai thứ này không hai mà hai, hai mà không hai. Nếu không hiểu điều này mà nói có tướng khác, nhân khác thì mỗi thứ đều có tự tánh. Nói không hai là một, đã biết hai thứ này chẳng phải hai thì tất cả pháp đều giống như vậy. Cho nên nói đoạn dưới là tổng kết khuyến khích.

68. Tổng kết nêu rõ sinh tử, Niết-bàn đều như huyễn mộng:

“Khi ấy, Đức Thế tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:

Ta thường nói pháp không
Xa lìa đoạn và thường
Sinh tử như huyễn mông
Mà nghiệp kia chẳng mất
Hư không và Niết-bàn
Diệt hai cũng như vậy
Người ngu sinh vọng tưởng
Các bậc Thánh lìa hữu vô”

Phật dạy: Ta nói lý Trung đạo diệu không thì có không đều dứt, cho nên nói xa lìa đoạn thường, đây là tổng kết nêu rõ, sinh tử, Niết-bàn đều như huyễn mộng, kế nói sinh tử, Niết-bàn đều lìa đoạn thường, thì biết sinh tử như huyễn mộng cho nên không thường, nghiệp kia không mất cho nên không đoạn, hư không và Niết-bàn tức ba pháp vô vi, đều là Niết-bàn. Niết-bàn này cũng như huyễn cho nên chẳng phải thường, chẳng đồng với Tiểu thừa là diệt vô cho nên không đoạn diệt hai không hai, nghĩa là sinh tử Niết-bàn không hai, lìa đoạn thường cũng giống như vậy. Ngu vọng tưởng cho nên rơi vào đoạn thường, bậc Thánh đã lìa hữu vô thì không có hai pháp khác nhau.

69. Tổng kết về các pháp không vô sanh:

“Khi ấy, Đức Thế tôn lại bảo Bồ-tát Đại Tuệ rằng: Này Đại Tuệ! Không và vô sinh, không hai, lìa tướng tự tánh, vào trong tất cả kinh điển của các Đức Phật, tất cả các kinh đều nói nghĩa này, các kinh đều tùy tâm mong cầu của chúng sinh, nên giải thích cho nghe, nêu bày nghĩa kia, mà chẳng phải chân thật ở lời nói. Ví như nai khát nước nghĩ là mê loạn chạy tìm, nai đối với tướng kia chấp là tánh nước, nhưng kia không phải nước. Như vậy các pháp nói trong tất cả kinh điển vì giúp cho người ngu phát tâm vui mừng, cho nên chẳng phải thật là Thánh trí ở tại lời nói, cho nên phải nương vào nghĩa, chớ chấp lời nói”. Đây là tổng kết về các pháp không vô sinh, chẳng phải chỉ có kinh này nói mà chính là ý chỉ giải thích của tất cả kinh giáo. Cảnh giới Thánh vốn không có lời nói, nhưng Như lai khéo léo phân biệt, vì muốn làm cho chúng sinh lìa chấp đắm, hiển bày tánh. Nếu hoặc chấp thì sai đối với lý, cho nên khuyên rằng chớ chấp lời nói, quý ở chỗ được ý quên lời, như dụ ngón tay chỉ mặt trăng, ở đây nên đạt được điều đó.