PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA BỒ-TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP KINH
Hán dịch: Tam tạng Pháp Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 9: TINH TẤN BA-LA-MẬT-ĐA

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát Tinh tấn ba-lamật-đa? Bồ-tát tu hạnh tương ưng Tinh tấn ba-la-mật-đa, trước hết khiến cho việc ma ẩn mất không hiện, kế đến là không thoái lui, đầy đủ tinh tấn dũng mãnh, không tiếc thân mạng, hùng dũng kiên cố, chí cầu tu tập. Văn chánh pháp Bồ-tát tạng này, nếu ai có thể biên chép, thọ trì, lắng nghe, đọc tụng, giải thích nghĩa thú, trình bày cho mọi người, Đại Bồ-tát đối với các Khế kinh cũng hướng dẫn dạy dỗ cho mọi người lắng nghe, biên chép, thọ trì, đọc tụng, truyền bá cho mọi người.

Này Xá-lợi Tử! Ví như có người thực hành hạnh chân thật, cầm các loại khí trượng kim cang, chiến đấu với trăm ngàn người không có khiếp sợ, dũng mãnh chiến đấu với quân địch không tiếc thân mạng. Đại Bồ-tát thực hành hạnh tinh tấn cũng như vậy, phải kiên cố phát khởi tinh tấn tối thượng, chí cầu chánh pháp Bồ-tát tạng chưa từng xả bỏ, phát khởi giải hạnh thù thắng, tinh tấn không thoái lui.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát thực hành hạnh tinh tấn kiên cố, không tiếc thân mạng, trong tam thiên đại thiên thế giới, các loài thuộc noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không phải có tưởng, không phải không tưởng, cho đến các loài nằm trong số hữu tình, trong một sát-na, một lạp-phược, một mâu-hô-lật-đa, như vậy lần lượt đủ một kiếp rồi, từ xưa đến nay chưa từng thọ sinh, nay mới thọ sinh làm được thân người, phải nên tinh tấn đọc tụng, thọ trì cho đến diễn nói cho mọi người, khiến người khác thọ trì.

Này Xá-lợi Tử! Nay ta nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa trên. Ví như có người thực hành hạnh chân chánh, cầm kiếm bén chế ngự ác hữu, chém đứt thân mạng toàn thắng trở về.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát cũng như vậy, nhất tâm phát khởi, tinh tấn dũng mãnh, tâm không sợ hãi, luôn thọ trì chánh pháp Bồtát tạng.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có thể đầy đủ hạnh tinh tấn không thoái chuyển, lại có thể mau chóng đầy đủ vô lượng sức tinh tấn như: tịnh tâm dũng mãnh, trì giới dũng mãnh, nhẫn nhục dũng mãnh, tinh tấn dũng mãnh, Tam-ma-địa dũng mãnh, tuệ thù thắng dũng mãnh, hạnh thù thắng dũng mãnh.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tuy có thể khởi những hạnh dũng mãnh như vậy, nhưng chưa bao giờ có một niệm khởi ý giết hại; không phải như bạn ác hễ khởi tâm dũng mãnh là giết hại.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ta cho rằng Đại Bồ-tát này cũng như Phạm vương, như trời Đế Thích, như núi Diệu cao, không thể lay động; có đại Từ, đại Bi và thiện giải thù thắng, lại còn có khả năng thông đạt địa không thoái chuyển cảnh giới thần thông, khéo biết các tâm hạnh của hữu tình, tâm như đại địa tất cả bình đẳng, như nước, lửa, gió và hư không tâm đều bình đẳng, lại có khả năng trừ diệt tất cả lỗi lầm tham sân si.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ví như đem hết bảy báu trong hằng hà sa số thế giới để bố thí, nhưng không bằng Đại Bồ-tát nghe chánh pháp Đại thừa Bồ-tát tạng, tinh tấn tư duy, lại có khả năng tu hành chứng đắc quả Chánh đẳng Chánh giác. Các Đại Bồ-tát phải nên vắng lặng suy nghĩ tu học như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có thể tùy thuận tu học hạnh rong lớn như vậy thì nhất định đạt được thiện căn to lớn viên mãn vô lượng. Do nghe hạnh Tinh tấn ba-la-mật-đa như vậy, nên có thể thành tựu quả thù thắng vi diệu. Vì sao? Vì có tâm ham thích nên nhất định thành Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với chánh pháp Bồ-tát tạng lắng nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì và diễn nói cho mọi người phải nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh như vậy, kiên cố lần lượt vượt qua các hiểm nạn không biết lao khổ.

Sao gọi là khó vượt qua mà có thể vượt qua? Nghĩa là hướng đến Niết-bàn vi diệu, khiến cho ma Ba-tuần không tìm được sơ hở.

Đây gọi là Bồ-tát chánh sĩ tu hạnh tương ưng, dũng mãnh tinh tấn vì cầu đạo tam thừa Niết-bàn như vậy. Trong ba đường ác, khiến các hữu tình đoạn trừ các pháp tạp nhiễm, phải nên đa văn tu tập trì giới nhẫn nhục, các Ba-la-mật-đa và mong cầu xuất ly. Nếu có hữu tình tạo nghiệp bất thiện, lại thêm biếng nhác, thì Bồ-tát nên sinh lòng thương xót, khiến chúng phát tinh tấn dũng mãnh.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát có trí tuệ tăng trưởng thù thắng thì đối với hữu tình biếng nhác phải nên xa lìa, còn đối với hữu tình tinh tấn nên ở chung. Vì sao? Vì Bồ-tát chỉ mong cầu Niết-bàn tối thượng giải thoát thanh tịnh đệ nhất.

Này Xá-lợi Tử! Lại nữa, Đại Bồ-tát khi thực hành Tinh tấn bala-mật-đa và cũng hướng dẫn tất cả hữu tình cùng thực hành. Bồtát còn có thể làm lợi lạc tất cả hữu tình, khéo nói chánh hạnh, khiến tất cả đều được giác ngộ và hướng dẫn hữu tình đi vào đạo vô thượng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Tinh tấn dũng mãnh đều khong ngại
Thường được tôn trọng không ai bằng
Đối với chánh pháp Bồ-tát tạng
Được xưng đại trí khéo giữ gìn
Suy nghĩ nghĩa chánh pháp tối thượng
Được môn trí tuệ chẳng nghĩ bàn
Lại đối chánh pháp cầu xuất ly
Sẽ được Như Lai thân thọ ký
Dũng mãnh tu tập đại thắng tuệ
Ngồi cội Bồ-đề nghĩ chân chánh
Khiến bọn ma sợ hãi khuất phục
Do trì trí tuệ sức tinh tấn
Hiện khắp tất cả giới thanh tịnh
Học hết sự nghiệp ở thế gian
Lại hay lợi lạc các hữu tình
Đầy đủ tinh tấn không tổn giảm.

Này Xá-lợi Tử! Sau khi ta diệt độ sau năm trăm năm, nếu có ai

thực hành hạnh này, hâm mộ thọ trì các Khế kinh, thì sẽ được tuệ thù thắng vô lượng phước đức, giàu có tôn nghiêm và được mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn pháp Chánh đoạn, Từ, Bi, Hỷ, Xả, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai, cho đến tất cả pháp Phật. Nói chung là hiểu rõ tất cả, tâm được thanh tịnh, trừ khử viec ma, khiến các hữu tình hết khổ sinh tử, hướng đến đạo Niết-bàn, xả bỏ mọi cảnh trái thuận.

Này Xá-lợi Tử! Nếu lúc đó các loại hữu tình tương ưng với trí tuệ phương tiện khéo léo, mong cầu tiến đến Chánh đẳng Chánh giác, tu trì tịnh giới, ưa thích đa văn, tu tập các thiền định, tu hành sự nghiệp trí tuệ và thắng giải thoát, giải thoát tri kiến, tinh tấn cầu pháp Phật và ham thích làm lợi ích tất cả hữu tình, đoạn trừ tà kiến, thích cầu chánh kiến, thoát khỏi luân hồi, tu hành Thánh đạo, diễn nói chánh pháp, đồng thời phá các ma chướng, diệt trừ tham sân si, cắt đứt vô minh tối tăm khiến sinh tuệ sáng.

Này Xá-lợi Tử! Nếu ai có thể lắng nghe pháp này thì phát sinh tất cả căn lành, tích tập thành tựu tinh tấn tối thượng. Nếu ai có thể lắng nghe chánh pháp này thì ma không được tiện lợi, từ đó không còn sinh nghi hoặc đối với tất cả pháp Phật.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, hữu tình phước lực đầy đủ, nội tâm chánh hạnh, sẽ được Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, hữu tình này, đối với các Khế kinh mà có thể lắng nghe đọc tụng, ham thích thọ trì trong tinh thần hoan hỷ, đối với chánh pháp Bo-tát tạng mà thọ trì đọc tụng, tu hành thành tựu sinh tâm hoan hỷ cũng như vậy. Ta cho rằng người này đối với tất cả giáo pháp của Như Lai nhất định được thành tựu.

Giá như có người không chuyên chú đọc tụng, chỉ tạm đến lắng nghe, mà tác ý ham thích, sinh tâm hoan hỷ, cũng được tinh tấn kiên cố tối thượng đệ nhất; cho đến đối với chánh pháp Bồ-tát tạng hành tướng chân thật vi diệu, có thể đem một phần nhỏ diễn nói cho người khác.

Này Xá-lợi Tử! Ví như trong biển cả có trái cây chin muồi, đầy đủ sắc hương đang trôi nổi trên mặt nước. Có một người trượng phu thấy trái cây này, khởi thắng hạnh tinh tấn dũng mãnh bơi vào biển cả, mặc dù sóng lớn dữ dội, nhưng người ấy không sợ nhận chìm, hai tay cố lấy cho bằng được trái cây ấy. Hoặc lấy một, hai, ba trái rồi thoát ra khỏi biển. Sau đó, đến một nơi vắng lặng, anh ta xem xét trái này rồi mới nếm thử vị của nó. Nem xong anh ta nghĩ: “Xưa nay ta chưa từng biết đến trái cây này và cũng không biết sắc hương thơm ngon”; rồi lại nghĩ tiếp: “Ta nay phát đại dũng mãnh trở lại biển cả lấy lại quả ấy.” Nhưng khi anh ta đến nơi thì không còn thay trái cây đâu nữa, mà chỉ thấy nước biển đập dữ dội. Thấy thế, anh ta sinh khổ não thoái lui suy nghĩ: “Trái cây này sắc hương thơm ngon thù thắng, thật rất thích, tại sao lúc trước ta không lấy cho nhiều!”

Này Xá-lợi Tử! Sau khi ta diệt độ năm trăm năm, lúc chánh pháp sắp diệt, nếu có hữu tình nào đối với các pháp bố thí, trì giới, thắng tuệ, tinh tấn mà ít có tin hiểu cũng lại như vậy. Vì lý do đó cho nên đối với các Khế kinh, mỗi khi lắng nghe khen ngợi, thọ trì, đọc tụng, diễn nói cho mọi người, cho đến bài kệ bốn câu, cũng đều bị ma Ba-tuần quấy nhiễu não hại, không thể kiến lập, nên thọ trì đọc tụng, phát tâm cúng dường, khen ngợi tán thán, do đó mà nên đều bị xả bỏ.

Lại nữa, có hữu tình ít lắng nghe, đọc tụng, thọ trì, ở chỗ vắng vẻ suy nghĩ tu tập, bị ma xen vào, cho nên đối với nhất thiết xứ đều bị thoái lui. Lúc đó hành giả than như vầy: “Khổ thay, khổ thay! Ta đối với pháp tối thượng của Như Lai bị giảm mất, chúng ta không còn lắng nghe thọ trì chánh pháp chân thật, cho đến thời gian mâuhô-lật-đa nhớ nghĩ Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác cũng không còn kịp nữa rồi!”

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các Bí-sô bị ma quản lý nắm giữ, đối với các Khế kinh không thể lắng nghe đọc tụng. Lúc đó, ma Batuần hiện ra trước đại chúng, hủy báng đủ điều, như nói: “Khế kinh này không phải là Phật nói, chỉ là van trau chuốt hư giả của thế gian.”

Này Xá-lợi Tử! Trong đại chúng ấy có các Bí-sô nghe lời đó rồi, đối với nhất thiết xứ bị ma lực gia hại, nên không chịu lắng nghe.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Nếu người nghe chánh pháp này rồi
Khiến các chúng ma đều xa lìa
Đối với tất cả pháp của Phật
Nhất định tin hiểu trừ nghi hoặc
Nếu các hữu tình phước mỏng manh
Không thể lắng nghe chánh pháp này
Vì các hữu tình phước mỏng đó
Có nghe cũng không thể tin hiểu
Hoặc có người đầy đủ phước lực
Lắng nghe thọ trì sinh tin hiểu
Ít chịu lắng nghe chánh pháp này
Hay khiến tất cả các việc ma
Các hữu tình phước mỏng như vậy
Đối chánh pháp này không tin hiểu
Do không tin nên đọa đường ác
Cũng như người mù không thấy gì
Nếu người có đầy đủ phước lực
Tin hiểu sâu xa chánh pháp này
Do thâm tín nên sinh đường thiện
Nhanh chóng như sữa rơi xuống nước
Một loại hữu tình ít phước báo
Nghe pháp lần lượt sinh phiền não
Người ấy nhiều kiếp chịu khổ não
Vì ngu si nên không giải thoát
Đối Phật Bồ-đề đều xả bỏ
Mau chóng đọa vào trong đường ác.

Này Xá-lợi Tử! Như Lai có pháp trí tuệ trong sáng. Xá-lợi Tử! Sau khi Như Lai diệt độ, chánh pháp sắp diệt, trong bốn chúng, có một hạng Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đối với các Khế kinh lắng nghe đọc tụng, ham thích thọ trì; hoặc có một hạng hữu tình nào đối với nhất thiết xứ không thể ham thích thọ trì đọc tụng, Như Lai biết rõ từng chi tiết của hữu tình ấy.

Lại nữa, các hữu tình nghe Khế kinh này rồi, phát khởi hạnh chân chánh như lý tu hành, sẽ được đầy đủ bốn pháp thanh tịnh trong sạch không chướng ngại:

  1. Đạt được giới pháp Ba-la-mật-đa thanh tịnh trong sạch đầy đủ không chướng ngại.
  2. Thường gặp Như Lai, thấy các tướng tốt thanh tịnh trong sạch đầy đủ không chướng ngại.
  3. Được thấy Từ Thị Như Lai, đạt được pháp thanh tịnh trong sạch, đầy đủ không chướng ngại.
  4. Đạt được các sức thiện căn tương ưng như lý, thanh tịnh trong sạch đầy đủ không chướng ngại.

Này Xá-lợi Tư! Sau khi ta diệt độ pháp sắp diệt rồi, đối với hạnh Đại thừa hành tướng như vậy, người nào tu hạnh tương ưng, phát khởi hạnh tinh tấn thù thắng, lại còn thọ trì đọc tụng Khế kinh, diễn nói cho mọi người, lần lượt lắng nghe. Khi ấy, hữu tình lại có mười thứ ma sự, người trí phải nên biết rõ, không nên tùy thuận với việc ma này, trái lại phải phát khởi tinh tấn dũng mãnh để thành tựu Phật sự. Sao gọi là mười thứ ma sự?

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô đối với các Khế kinh ham thích thọ trì đọc tụng. Lúc đó có ma Ba-tuần đến quấy nhiễu não hại. Đây là ma sự thứ nhất. Người trí nên biết rõ việc này không nên tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh. Lúc đó có ma Ba-tuần đến quấy phá nhiễu hại, khiến cho đôi mắt sinh ra các bệnh. Đây là ma sự thứ hai. Người trí nên biết rõ việc này không nên thoái lui.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh. Lúc đó có ma Ba-tuần đến quấy phá nhiễu hại, khiến các phần trên thân sinh các bệnh khổ. Đây là ma sự thứ ba. Người trí nên biết rõ việc này không nên thoái lui.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh, nhưng tâm còn tán loạn không thích thiền định. Đây là ma sự thứ tư. Người trí nên biết rõ việc này không nên tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế

kinh, nhưng tâm còn nổi lên giận dữ tranh cãi lẫn nhau, không thể an lập được các Khế kinh. Đây là ma sự thứ năm. Người trí nên biết rõ điều đó, không nên tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng Khế kinh, khiến cùng nhau đấu tranh, đều phạm vào tội của quốc gia; dùng lời thô ác chửi nhau bén như tên độc, tổn hại lẫn nhau, mọi hành tướng như vậy khiến các Khế kinh không được lưu truyền, do nghiệp đấu tranh nên mau chóng thoái chuyển. Đây là ma sự thứ sáu. Người trí nên biết rõ việc này không nên tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô ham thích thọ trì đọc tụng các Khế kinh. Lúc đó ma Ba-tuần dụ dỗ đến nhà bạch y, lại khiến khởi lên đấu tranh. Hành tướng như vậy không thể thọ trì các Khế kinh, khiến sinh phỉ báng, do nghiệp đấu tranh tố tụng cho nên mau chóng phá hoại. Đây là ma sự thứ bảy. Người trí nên biết rõ việc này, không nên tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Khi pháp sắp diệt, hoặc có các thiếu niên Bísô, xuất gia chưa được bao lâu, ham thích thọ trì pháp này, tin hiểu kiên cố, đối với các Khế kinh phát tâm Chánh đẳng Chánh giác. Lúc Bí-sô nghe kinh này rồi rất hoan hỷ. Khi ấy, Thân giáo sư mới nói với Bí-sô thiếu niên ấy rằng: “Đây chẳng phải Phật Bồ-đề, chẳng phải pháp luật của Phật, vậy không nên thọ trì.” Các Bí-sô nghe lời này rồi, chỉ trong thời gian ngắn không còn tin thọ Phật Bồ-đề.

Lại nữa, các Bí-sô ấy nói với nhau rằng: “Ta xưa tu tập pháp Phật Bồ-đề, nay chúng ta không còn thích tu tập nữa, các sức thiện căn thuở xưa khiến sẽ đoạn diệt, lại khiến đọa vào pháp nhiễm ô cho đến mạng chung sinh vào đường ác, chịu mọi khổ não.”

Này Xá-lợi Tử! Nên biết, những lời đó đều là lời của ma nói. Như vậy là tích tập các nghiệp địa ngục, các hữu tình hủy báng Tam bảo, không thuận lời Phật, đối với ba đời Như Lai đều biết rõ. Lại các hữu tình phát khởi tinh tấn tu hạnh Đại thừa, Như Lai cũng biết rõ điều đó.

Này Xá-lợi Tử! Nay ta lại khiến các Bồ-tát khởi bốn thứ tưởng:

  1. Khéo điều phục nghiệp của chính mình.
  2. Khéo tu tập và quán sát.
  3. Không thích quán sát việc làm của người khác, khởi tâm đại Bi đối với các hữu tình.
  4. Thường đi đứng nằm ngồi nơi vắng lặng, đối với mình và người tâm luôn tùy thuận phòng hộ. Đây là khởi bốn thứ tưởng.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi ấy, hữu tình khởi nhiều tà kiến, sinh ra kế chấp, Bí-sô nói pháp cũng lại giảm bớt, bị người khinh chê không còn tôn trọng, cũng không cung kính thân cận cúng dường; có các Bí-sô nói pháp phi pháp, không thích thân cận chánh pháp. Nếu thấy có người sinh tâm cung kính tôn trọng cúng dường Khế kinh, có đại lực, dùng lời lẽ để khen ngợi Khế kinh, thì người ta lại cùng nhau sinh khinh chê ngã mạn.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Bí-sô được lìa dục ham thích thọ trì, còn người chưa lìa dục thì lại không thích thọ trì các Khế kinh, ở trước đại chúng tùy thuận với chúng ma. Đây là ma sự thứ tám. Người trí nên biết rõ việc đó, không nên tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô tuy có ham thích thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép Khế kinh, nhưng vì lợi dưỡng nên tùy thuận với thế gian. Các hữu tình khởi nghiệp trộm cắp, đối với ba việc mỗi mỗi tác ý, đó là tham lam đắm trước y phục, ăn uống và ngọa cụ, đối với ba việc này ham tìm cầu. Đó là ma sự thứ chín. Người trí nên biết rõ việc này, không nên tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Nếu có Bí-sô đối với các Khế kinh Đại thừa, thực hành hạnh tương ưng, có khả năng phát khởi tinh tấn tối thượng, biên chép, thọ trì, đọc tụng, diễn giảng rộng rãi cho mọi người. Lúc đó, Bí-sô bị ma quản lý, nghiệp phiền não chướng che lấp, nên tùy thuận ham thích pháp tạp nhiễm, nói năng hý luận, thường tương ưng đắm trước ngủ nghỉ. Trong giấc ngủ cũng đắm trước các pháp tạp nhiễm, lại còn dính mắc vào việc huyễn hoặc của phụ nữ. Ham thích tùy thuận hành tướng như vậy, đối với các Khế kinh không còn ham thích biên chép, thọ trì, đọc tụng, diễn nói rộng rãi cho mọi người.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Bí-sô thích nghe lời dạy của Như Lai, không muốn đoạn diệt lời dạy của Như Lai. Còn Bí-sô ác nghiệp thì lại không ham thích, đắm trước vào việc của ma, muốn khiến cho pháp Phật mau chóng đoạn diệt. Đây là ma sự thứ mười.

Này Xá-lợi Tử! Mười pháp này các người có trí phải nên biết rõ từng pháp một, không nên tùy thuận. Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi ấy đối với nhất thiết xứ
Do tạo nghiệp nên ma chướng sinh
Đối các bạch pháp đều xả bỏ
Không thích lựa chọn các nghĩa lợi,
Thắng tuệ giảm bớt ác tuệ tăng
Đối với chánh pháp không an trụ
Thích nghe hành trì theo phi pháp
Đọa vào cảnh giới của nẻo ác.
Như vậy lần lượt khi mạng chung
Tỳ vết che lấp vì cứu hộ
Tôn trọng thân giáo A-xà-lê
Một lúc đều đọa vào đường ác,
Ta ở trong câu-chi ngàn kiếp
Vì lợi thế gian tu khổ hạnh
Thường nghĩ khéo léo đối hữu tình
Đều khiến xa lìa lửa ba độc.
Lúc đó ta chứng đại Bồ-đề
Hay chuyển diệu pháp luân thanh tịnh
Tất cả trời, người không ai bằng
Thế xuất thế gian xưng đệ nhất,
Vậy nay ta không nên xả bỏ
Hữu tình thế gian rất khó được
Khiến cho ma chúng đều thoái lui
Tất cả lìa khổ được an lạc.
Lại khiến người thọ trì Lục độ
Hành thiện chân thật giữa đường tối
Tương ưng với những lời Phật dạy
Khả năng đạt được đạo Bồ-đề.
Lắng nghe thọ trì pháp này rồi
Diễn nói pháp Không, pháp chân thật
Khiến chúng an trụ trong chánh tín
Thế nên được lìa các chúng ma.
Đối với chân thật tối thượng này
Nếu có trái với pháp chân thật
Tướng không chân thật chấp chân thật
Không thể xa lìa các chúng ma.
Nếu có hữu tình đến chỗ Phật
Hoan hỷ kiên cố sinh tôn trọng
Khi lắng nghe chánh pháp như vậy
Đạt được nghĩa thù thắng tốt đẹp,
Hữu tình chánh tín hoan hỷ rồi
Chúng ma nhất định sinh khổ não
Làm thiện đối với nhất thiết xứ
Chúng ma hoảng sợ bỏ chạy trốn.
Lúc ma giả làm tướng Bí-sô
Nói lời khéo léo cuồng hoặc nhau
Gây ra sự động loạn trong chúng
Nói Bồ-đề đạo không chân thật,
Tự cho pháp mình mới chân thật
Ngươi nên kiên cố cầu an trụ
Phát sinh hý luận như vậy rồi
Sau đó khinh chê lại hủy bang.
Lúc đó Bí-sô nhiễm trước ma
Bởi tin lời ma sinh buông lung
Cho pháp này không phải Phật thừa
Do đó xả bỏ đạo Niết-bàn,
Lại trái Chánh giác hợp các ma
Không còn tin thọ pháp Phật nữa
Do chấp ngã kiến thô trọng rồi
Mau chóng đọa lạc vào đường ác.
Dẫu có số ít các Bí-sô
Nhưng lại ham thích không chân thật
Đối với pháp Không của Đại thừa
Cùng nhau tìm xét các lỗi lầm,
Dẫu gặp pháp chân thật tối thượng
Nhưng do tạp loạn không lắng nghe
Đối với nghĩa lý sinh sợ hãi
Xả bỏ chánh pháp không hướng đến.
Lúc đó không có người nói pháp
Người không tin hiểu lại càng đông
Như vậy dù có thầy nói pháp
Thảy đều xả bỏ không lắng nghe,
Trong thời mạt pháp của Thế Tôn
Nếu hay lợi lạc các hữu tình
Lúc đó có nhiều ma chướng ngại
Như vậy chớ sinh tâm thoái lui.
Vị lai nếu có các Bí-sô
Nhất định sinh tin hiểu chánh pháp
Thà mất thân mạng cố hộ trì
Mau chóng giác ngộ quả viên mãn.

Khi ấy, Xá-lợi Tử và các Bí-sô ở trong đại chúng nghe hạnh tu tập Đại thừa này, đối với các hiểm nạn có thể thực hành chánh pháp. Nghe xong, mỗi mỗi đều phát khởi sức tinh tấn dũng mãnh kiên cố rộng lớn vô lượng, hành tướng như vậy đối với chánh pháp Đại thừa Bồ-tát tạng lắng nghe, đọc tụng biên chép thọ trì rồi lần lượt chỉ dạy truyền đạt rộng rãi cho mọi người.

Lại nữa, nói thí dụ kheo léo này: Ví như có người có khả năng giữ gìn kho báu của tổ tông, nay thấy tiền của châu báu hết dần sinh ra buồn rầu. Như nay ta thấy Đức Thích-ca Như Lai ở trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, tu hành pháp Chánh đẳng Chánh giác khó được nay lại sắp giảm mất. Bí-sô chúng ta cũng như vậy, cùng sinh lo buồn, vậy nên cùng nhau phát khởi dũng mãnh tinh tấn rộng lớn vô lượng, giữ gìn chắc chắn chánh pháp bảo tạng Đại thừa Bồ-tát.

Lại nữa, Bí-sô nói: Ví như có người, có một người con đoan chánh đẹp đẽ, mỗi khi cha mẹ trông thấy tâm sinh vui thích, nhìn con mắt không tạm rời. Bỗng nhiên đứa con rơi vào chỗ hiểm nạn, bị chim dữ gắp bay đi, lại bị rơi vào chỗ bờ hiểm cao Na-lạc-ca. Lúc đó, cha mẹ phát khởi sức dũng mãnh tìm kiếm con đưa về. Như chúng ta hôm nay, sau khi Phật diệt độ, nếu có Bồ-tát sinh tâm cung kính tin theo pháp bảo vô thượng, muốn cầu xuất ly, thọ trì, đọc tụng, như thuyết tu hành. Ta đem pháp bảo vô thượng của Như Lai cùng nhau phó chúc, tinh tấn giữ gìn cũng như vậy, không để cho các bọn người ác xâm hại.

Lại có một Bí-sô nói: Ví như thế gian tụ tập binh chúng, bày binh bố trận, sắp muốn đánh nhau. Lúc đó, trong chúng có một số hữu tình, thấy quân chúng ấy tâm không khiếp nhược, vững tiến đến trước, bảo hộ binh chúng không cho chiến đấu. Lại ở trong chúng có nhiều người dũng mãnh thấy binh chúng này tâm không khiếp nhược, vững tiến tới trước, lần lượt như vậy mới lập chiến công. Như ta hôm nay, sau khi Đức Phật diệt độ, chánh pháp sắp diệt, nếu có hữu tình trong tâm kiên cố hộ trì chánh pháp, thân cận thiện hữu, mong cầu xuất ly, mặc giáp kiên cố, phát khởi sức tinh tấn rộng lớn, phá chúng quân ma. Hành tướng như vậy đối với Pháp bảo, nếu có phần nhỏ tinh tấn suy nghĩ, lựa chọn khéo léo cũng như vậy. Cho đến diễn nói bài kệ bốn câu cho người khác được tùy hỷ, tin thọ lời Phật dạy, không sinh nghi ngờ hủy báng, lại cũng chỉ bảo cho nhiều hữu tình tùy hỷ xưng tán chánh pháp vi diệu vô thượng của chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, khiến hữu tình được an trụ. Đồng thời cũng có các Bí-sô khác nói vô lượng thí dụ.

Đức Phật bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Đó là hành tướng như thật. Ta cho rằng người này nhất định được phước tụ, cũng như hư không, không có hạn lượng, nói không bao giờ hết.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sau khi Phật diệt độ, làm được như người này rất là khó. Ta cho rằng người này là trượng phu tối thắng, trượng phu tối thượng, trượng phu dũng manh, là bậc đại trượng phu, đại pháp phần của Phật, không thích tịnh trụ tự lợi Tiểu thừa, chỉ thực hành chánh hạnh kiên cố Đại thừa, không ưa khen ngợi danh dự mình và người khác, chỉ tán thán công đức của Đại thừa.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến khi sắp lâm chung cũng chỉ thọ trì đọc tụng chánh pháp này, nhất định thông hiểu pháp chân thật không.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời mạt thế về sau, Bí-sô phá giới cũng lại nổi lên hủy báng chánh pháp, lại ham thích tu tập kinh điển ngoại đạo thế gian.

Này Xá-lợi Tử! Trong đời ác năm trược: kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược này, nếu có Bí-sô có khả năng dũng mãnh nhuệ khí, phá các đấu tranh mà được an trụ, thường nguyện không lìa chư Phật Bồ-đề, trong ba thời phải nên quán tưởng khéo hay an trụ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Thân cận Chánh pháp tạng Như Lai
Hay phá tất cả khổ già chết
Không tương ưng với hạnh tự lợi
Thường vui lợi lạc các hữu tình.
Đối với chánh pháp ta nói ra
Cung kính ham thích hay kiến lập
Họ nhận ta làm Điều Ngự Sư
Là chân đệ tử của Như Lai.
Nếu không ham thích nghe chánh pháp
Lại không có khả năng an trụ
Người này đọa lạc vào đường ác
Như rơi xuống biển mau chìm đắm,
Ở trong ngàn câu-chi kiếp số
Gặp Phật xuất thế rất khó được
Người ấy bị ma làm mê hoặc
Dẫu được gặp Phật sinh nhàm chán.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Quá khứ chín mươi mốt kiếp, giữa kiếp ấy có Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Trong giáo pháp của Đức Phật ấy có lục quần Bí-sô. Nhóm thứ nhất tên là Thiện Kiến, nhóm thứ hai tên là Diệu Lợi, nhóm thứ ba tên là Tác Hỷ, nhóm thứ tư tên là Hiền Kết, nhóm thứ năm tên là Danh Xưng, nhóm thứ sáu tên là Lợi Nha. Tất cả đều sinh kế chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, đoạn kiến, thường kiến, luôn luôn khinh chê ngạo mạn, cùng nhau kêu gọi tập trung nơi đồng trống, thường bàn luận ác hạnh sai khác như vậy. Ai nấy cũng đưa ra ý kiến của chính mình cho đó là thực hành trăm điều thiện, rồi triệu tập thành từng nhóm từ mười, hai mươi, cho đến năm mươi người, đem hành pháp của mình lần lượt chỉ dạy. Lại còn lập thệ rằng: “Nếu ai trái với lời dạy của ta nhất định sẽ gặp tổn hại.” Thệ như vậy rồi, họ phân chia người dẫn đầu đi truyền giảng, hoặc vào làng xóm, hoặc đến thành ấp, hoặc từ nhà này cho đến vương thành. Lúc đó có một người đến một làng nọ để giảng dạy, rồi trở về nhóm của mình chỉ dạy, làm tổn hại lời Đức Phật.

Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là tác ý làm tổn hại lời Đức Phật? Lúc đó, có một giáo phái chấp chặc có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Họ cho rằng, nếu không có ngã, vậy ai là người đến đi? Ai là người ngồi nằm? Ai là người nói năng, im lặng? Ai là người bố thí? Ai là người thọ nhận? Ai là người ăn uống? Ai là người khổ? Ai là người vui? Cho đến một người ốm, một người đau, ai là người chịu sự giác xúc? Lúc đó, trong chúng có người nói như vầy: “Nếu ai nói không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả thì không phải bạn tốt của ta.”

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó trai, gái, bé trai, bé gái ở trong xóm làng nghe lời này rồi đều thích người chấp vào ngã kiến ấy, roi kết làm bạn tốt, cùng nhau nói rằng: “Thuở xưa ta có các bậc trí biết rõ như thật, là bạn chân thiện nói rằng không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả. Nay ta không nên thân cận cúng dường người mà chúng ta đã từng tôn trọng ấy nữa.”

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó lục quần Bí-sô sau nửa tháng trở về tập hợp lại một chỗ. Trong đó, có một Bí-sô nói: “Tôi đã lần lượt giáo hóa năm trăm chủng tộc làm quyến thuộc.”

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác có một Bí-sô Thanh văn đã hết các lậu, không còn phiền não, đắc quả A-la-hán, biết việc này rồi, vào trong năm trăm tụ lạc ấy vì các trai, gái, bé trai, bé gái mà nói: “Những lời nói pháp của các vị ấy là thô ác, không phải là lời chân thật, là lời không nghĩa lợi.” Lúc đó, A-la-hán ở trong chúng ấy nói kệ rằng:

Nếu không biết rõ được chánh pháp
Người này mê muội chân Thánh đạo
Các ông cố chấp vào tà pháp
Nhất định đọa vào các đường ác.
La-hán nói kệ này rồi, lục quần
Bí-sô nổi lên giận dữ không thích tín thọ.

Lúc đó, A-la-hán sinh lòng thương xót, tán thán Phật rồi lại nói kệ rằng:

Phật ta đã nói pháp chân thật
Tất cả hữu vi đều vô thường
Đối với các pháp đều vô ngã
Nó không chắc chắn, không thường còn.
Lại nữa, các hành đều tạo tác
Thể không chắc thật, không lại không
Kẻ ngu si mê cố chấp vào
Đối pháp huyễn hóa sinh động loạn.
Nói kệ xong, La-hán bảo chúng Bí-sô:

–Này các Bí-sô! Chư Phật Như Lai đã nói pháp đều không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả.

Lúc đó, La-hán biết chúng Bí-sô không tín thọ, lại nói kệ rằng:

Nếu sinh kiến chấp vào thí, nhận
Lại nhận có phân biệt giác xúc
Đối pháp vô ngã không tin theo
Người ấy đọa lạc các đường ác.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó hữu tình đối với pháp hư vọng của trai, gái, bé trai, bé gái nói ra mà sinh lòng tín thọ. Có đến sáu vạn tám ngàn người vì bị kiến chấp nên khi thân hoại mạng chung đều bị đọa vào địa ngục Vô gián, thân chịu cực khổ; lại sinh ra nhiều lưỡi, lưỡi lớn như hoa sen ngàn cánh, trên lưỡi lại bị cày sắc cày lưỡi ấy. Lại có ngục tốt cầm chày bén đánh đập tội nhân; lại trên không mưa xuống hòn sắt nóng thiêu đốt tội nhân, hòn sắt nóng ấy hóa thành một khối lửa lớn, lửa cháy rừng rực, tội nhân đồng thấy lửa dữ thiêu thân, hết tội địa ngục lại đọa làm cá ngàn đầu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Có các hữu tình đọa địa ngục
Vô lượng trăm ngàn lửa thiêu đốt
Không trung mưa đá lại mưa lửa
Tội nhân chịu cực rất khổ não.
Một thân lại chịu tất cả khổ
Lửa dữ khí trượng trên không xuống
Trăm du-thiện-na đều đầy cả
Đều thấy thiêu khắp trong địa ngục.
Mỗi mỗi đều thấy ở trên lưỡi
Mũi nhọn tên bén bắn phóng vào
Dao bén cắt lưỡi ra từng mảnh
Mới biết trong khổ lại càng khổ.
Do theo bạn ác làm hư vọng
Mỗi mỗi thân cận và ác kính
Xả bỏ chúng trì giới thanh tịnh
Thế nên đọa vào cực khổ này.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Chúng lục quần Bí-sô ấy, do hư vọng không thật, cho nên cũng sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ. Trên mỗi thân của các Bí-sô ấy lại có ngàn miệng, trong mỗi miệng lại có hai lưỡi, mỗi lưỡi ngang rộng bốn du-thiện-na. Trên mỗi lưỡi có năm trăm cày sắt cày lưỡi ấy, lại dùng hòn sắt nóng thiêu đốt lưỡi ấy, tội nhân đau khổ miệng không thể nói. Lại ở trên đầu có trăm ngàn câu-chi các thứ dụng cụ làm khổ, bay đến đánh đập. Chịu khổ như vậy mãn trăm ngàn câu-chi na-do-tha năm, tội hết lại nhập vào các địa ngục riêng biệt khác để chịu các tội khổ cũng lại như vậy. Vì sao? Vì những người này hay hủy báng lời Phật dạy cho nên phải mắc tội như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thời Đức Phật ấy có trưởng giả tại gia tên là An Lạc, của cải châu báu giàu có phồn thịnh, thọ dụng tùy ý; lại con đầy đủ các thứ báu của tổ tông để lại như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, san hô, các kho cũng đều chứa đầy tràn, các kẻ tùy tùng nô bộc, dân chúng trong thành ấy đều chịu sự sai khiến vừa ý không thiếu. Khi ấy, trưởng giả sủng ái hầu hạ ngoại đạo Ly-hệ, tu tập tà pháp sinh ra tà kiến. Lúc đó, vợ trưởng giả tên là Vĩ-sắc-bát-để, sắc tướng đẹp đẽ đoan chánh nõn nà, thân tướng tròn đầy, ai thấy cũng ham thích. Bà ta sinh hạ một cậu trai, đoan nghiêm đặc biệt diện mạo tròn trịa, thân thể trắng trẻo, ai ai cũng yêu mến. Cậu ta thuở xưa từng ở trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-tha gieo trồng căn lành. Lúc cậu ta mới sinh, đã cười ba lần và nói như vầy: “Nay ta cớ gì sinh trong dòng họ tà kiến.” Người mẹ nghe con nói như vậy, hoảng sợ kinh hồn rởn tóc, vứt con buồn rầu bỏ chạy. Lúc đó, các người nữ thấy việc này rồi tập hợp lại cùng nhau bàn hỏi. Nghe bảo đứa bé này vừa nói như vậy, họ đều sinh hoảng sợ chạy thục mạng, xa nơi ấy rồi lại quán sát bàn luận với nhau: “Đứa bé mới sinh này là Trời, là Rồng hay là Dược-xoa, Lasát, A-tô-la, Nga-lỗ-noa, Khẩn-na-la, Mạc-hô-la-nga, Cưu-bàn-trà,

Tất-xá-tả, Nhân phi nhân đều nghi như vậy?” Lúc đó, đức bé nói với các người nữ rằng:

–Này các cô! Các cô đầy đủ nhân tướng tốt đẹp, cớ gì phải bỏ ta kinh sợ chạy tán loạn như thế?

Lúc đó, đứa bé vì các người nữ nói kệ rằng:

Chúng nữ các cô đều tốt đẹp
Tại sao không sợ các đường ác
Tôi khiến các cô ngộ chân thật
Thảy đều xa lìa các hiểm nạn,
Cha mẹ của tôi và quyến thuộc
Đều không phải thiện hữu của tôi
Nay tôi vì họ trừ tà kiến
Không sinh hiểm nạn các đường ác.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cha mẹ và các chúng hội của cậu bé nghe cậu bé nói kệ rồi, cũng trở lại chỗ cậu bé. Trước cha mẹ cậu bé nói kệ rằng:

Tất cả các kho và tài bảo
Ngũ cốc nhà cửa và các món
Hãy xả tất cả đem bố thí
Theo Phật xuất gia làm Sa-môn.
Tỳ-bà-thi Phật đang trụ thế
Ở trong ba cõi không ai bằng
Phật ấy tuệ nhật chiếu thế gian
Con nguyện xuất gia làm đệ tử.
Được khai thị bằng chánh pháp Phật
Lợi lạc tất cả các hữu tình
Phật ấy tuệ nhật chiếu thế gian
Con nguyện xuất gia làm đệ tử.
Đức Phật đầy đủ ba mươi hai
Tướng đại trượng phu đều trang nghiêm
Phật ấy tuệ nhật chiếu thế gian
Con nguyện xuất gia làm đệ tử
Giả sử trong ngàn câu-chi kiếp
Chưa từng nghe danh tự Phật này
Như hoa Ưu-đàm khó được gặp
Con nguyện xuất gia làm đệ tử.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cha mẹ nói với con rằng: “Con có thể phát tâm thanh tịnh theo Phật xuất gia, nay ta đem hai mươi câu-chi châu báu vàng bạc của tổ tông cho con, để con lần lượt bố thí.” Lúc đó cha mẹ nói kệ rằng:

Ta nay có tất cả tài bảo
Thảy đều cho con đem bố thí
Do con phát khởi tâm thanh tịnh
Tùy chỗ lợi lạc các hữu tình,
Tất cả vàng bạc các trân báu
Ngũ cốc nhà cửa và vật dụng
Do con phát khởi tâm thanh tịnh
Mau chóng xả thí lợi hữu tình.
Giường, mền, ngọa cụ các thọ dụng
Hương xoa, tràng hoa và hương bột
Do con phát khởi tâm thanh tịnh
Tùy chỗ mau chóng hành bố thí,
Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo
Đây là ruộng phước tốt vô thượng
Phát tâm rộng lớn cúng nơi ấy
Lợi lạc chân thật với tất cả.
Lúc đó, cậu bé vì cha mẹ nói kệ rằng:
Con muốn đi đến chỗ Đức Phật
Trước Đại Tỳ-bà-thi Thế Tôn
Cúng dường các món thật vô thượng
Lợi lạc tất cả các hữu tình,
Hoặc trời, hoặc người và các chúng
Thích cầu tất cả việc vui thích
Nay con đến trước chỗ Thế Tôn
Xin mọi người đều đến chỗ ấy.

Nói kệ rồi, cậu bé lại suy nghĩ nhìn khắp bốn phương rồi thưa với cha mẹ: “Nay con đến chỗ Đức Phật Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.” Nghe việc này rồi mọi người đều sợ hãi cùng nói lên rằng: “Tại sao cậu bé mới sinh ra một ngày mà có thể cùng bàn luận với cha mẹ, lại làm sao có thể đi được.” Đồng thời có tám vạn bốn ngàn câu-chi chúng đều đến tập hội cùng suy nghĩ nói rằng: “Nay cậu bé này là Trời, là Rồng, là Dược-xoa, La-sát, Kiềnthát-phược, A-tô-la, Khẩn-na-la, Ma-hô-la-nga, hay Nhân phi nhân…?”

Lúc đó, cậu bé cùng các chúng đồng đến chỗ Đức Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Khi cậu bé hướng dẫn chúng đi, trên hư không có mười ngàn lộng che ở trên.

Lại ở trên hư không có tiếng xướng lớn lên rằng: “Không để cho các vị bị nóng lạnh mưa gió làm tổn hại!” Lại ở trong hư không có lưới vàng che phủ ở trên. Lại ở trên hư không mưa xuống các loại hoa trời đẹp và các loại bột hương, các hương thơm vi diệu, lại có gió mát thổi nhè nhẹ làm bay hương ấy. Lại ở đường đi có nước hương thơm rưới lên đất, trời mưa y báu và mưa hoa cao đến ngang gối.

Lại ở bên đường đi có vô lượng ao hồ chứa đầy nước tám công đức tự nhiên xuất hiện, trong mỗi ao hồ đều có vô lượng hoa Ưu-đàm-bát-la, hoa Câu-vật-đầu, hoa Bôn-noa-lợi-ca mọc lên cúng dường. Lại có bảy đài gỗ báu thù thắng vi diệu tự nhiên xuất hiện. Trong khi đi lại có đủ loại sừng ốc không gõ tự nhiên kêu, phát ra âm thanh ca vịnh vi diệu tán thán, còn ở hai bên có vô lượng trân báu tự nhiên trang nghiêm. Lúc cậu bé vừa mới bước chân, đều hiện một hoa đỡ dưới bước chân, mỗi bước chân qua thì hoa ẩn mất không hiện.

Khi ấy ở giữa đường, trong khoảng chốc lát, cậu bé nhìn lại nói kệ rằng:

Đời có chánh lý không chánh lý
Nay ta bước đi đường tối thượng
Không đi con đường không phải chánh
Vì thế nên đi đến chánh lý.
Ta ở trong na-do-tha kiếp
Hoặc lúc đạt được làm thân người
Lại gặp Như Lai xuất thế gian
Đầy đủ sức trí tuệ tin hiểu.

Này Xá-lợi Tử! Lúc cậu bé nói kệ xong, ở giữa hư không có tám vạn bốn ngàn vị trời cùng tán thán bằng kệ rằng:

Lành thay, lành thay! Bậc Đại trí!
Hay nói Đệ nhất nghĩa tối thượng
Xả bỏ tất cả các phi lý
Thế nên hay hành đạo chân chánh.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cậu bé đáp lại chư Thiên bằng kệ rằng:

Các vị hay hành đạo chân chánh
Rộng nói đạt được nghĩa hòa hợp
Nếu như cố chấp không chánh đạo
Làm sao đạt được lý tương ưng.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó Thiên chúng đáp lại cậu bé bằng kệ rằng:

Các vị tham trước nơi dục lạc
Tất cả cảnh giới không xuất ly
Do ngu si nên trái chánh lý
Sẽ đọa vào đường ác địa ngục,
Nếu đối chánh đạo cầu xuất gia
Nên xả thọ dụng các cảnh dục
Nếu hay khai thị các chánh lý
Tức là người tương ưng thế gian.

Nay Xá-lợi Tử! Khi ấy, cậu bé đáp lại chư Thiên bằng kệ rằng:

Nay ta nói Thiên chúng các ông
Đối với chánh đạo chưa biết gì
Như vậy tương ưng lý chân chánh
Nên nói để các ông hiểu rõ.

Cậu bé nói kệ rồi, cùng với cac đại chúng đồng đi đến chỗ Đức Tỳ-bà-thi Như Lai. Đến rồi đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đứng qua một bên, chiêm ngưỡng Đức Tỳ-bà-thi Như Lai, mắt không tạm rời.

Lúc đó, cậu bé tâm rất hoan hỷ noi kệ rằng:

Đầy đủ ba minh trí cam lồ
Hay làm lợi ích cho thế gian
Đảnh lễ Long Tượng Sư Tử Vương
Thế nên nay con thường tán lễ.
Trí Phật chiếu sáng rất hy hữu
Cũng như nhật nguyệt chiếu thế gian
Cũng như hoa Ưu-đàm xuất hiện
An trụ kiên cố sắc tướng đẹp,
Hữu tình thế gian nhiều chướng nặng
Không thể hiểu biết Phật Thánh đạo
Cũng như người mù lại ngu si
Không biết nên đọa vào đường ác.
Con nguyện đương lai thành Chánh giác
Cũng như Tỳ-bà-thi Thế Tôn
Khiến các hữu tình lìa các khổ
Diệt lửa ba độc được mát mẻ
Lại khiến vô lượng các hữu tình
Cũng phát thệ nguyện rộng như con
Nghe Phật diễn nói thừa tối thượng
Đều được khai thị đạo Bồ-đề.

Cậu bé nói kệ này rồi, lại nói như vầy: “Nam-mô Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo nói pháp yếu.” Đồng thời tám vạn bốn ngàn câu-chi người cũng nói như vầy: “Nam-mô Tỳ-bà-thi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khéo nói pháp yếu.” Tán thán ba lần như vậy rồi làm lại từ đầu: “Con nguyện đương lai đều được thành Chánh đẳng Chánh giác như Tỳ-bà-thi Như Lai khéo nói pháp yếu.”

Khi ấy, Tỳ-bà-thi Như Lai, biết được cậu bé và tám vạn bốn ngàn câu-chi người có thể kham nhận thọ ký, liền hiện thần biến, từ nơi mặt phóng ra ánh sáng tên là Quyết định thắng. Ánh sáng ấy có vô lượng sắc tướng như xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, pha-chi-ca, kim sắc… Sắc tướng như vậy bao trùm vô lượng thế giới, chiếu suốt đến Phạm Thiên đến sắc biên tế, che khuất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng. Ánh sáng ấy quay trở lại trên đảnh Đức Phật, nhiễu quanh bên phải trăm ngàn vòng rồi bỗng nhiên ẩn mất.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó Bí-sô thị giả của Đức Phật Tỳ-bà-thi Như Lai thấy ánh sáng thần biến của Phật rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chấp tay hướng lên Đức Phật chiêm ngưỡng tôn nhan dùng kệ thưa hỏi: Tỳ-bà-thi Phật đại hy hữu

Là bậc Thánh tôn trong các Thánh
Nay con thưa hỏi Thiện Thệ Tôn
Vì nhân duyên gì hiện ánh sáng?
Nói kệ xong Bí-sô lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn hiện đại thần thông, phóng ánh sáng này, cúi xin Như Lai rũ lòng thương xót trừ nghi cho con diễn nói việc này. Lại có vô lượng trăm ngàn người hiện đang đứng trước Thế Tôn cung thích muốn nghe, chúng con rất tha thiết ân cần muốn nghe, Thế Tôn hãy vì các hữu tình mà từ bi khai thị. Như Lai đại Bi, là mắt sáng cho thế gian cứu hộ tất cả, như các ngôi nhà che mát tất cả, cúi xin Như Lai đại Từ thương xót cắt đứt lưới nghi, các sở hành, tưởng niệm, tất cả hành nghiệp và các nghi hoặc của các hữu tình trong quá khứ, hiện tại, vị lai, Như Lai đều biết rõ.

Lại nữa, các hữu tình trong các cõi Phật ở trong ba đời, tất cả trí tuệ ngôn ngữ sai khác, Như Lai đều thông đạt. Như Lai là đấng Pháp vương, đầy đủ tám thứ tiếng, nói pháp đều được tự tại, vì nhân duyên gì hiện đại thần thông, phóng ánh sáng này. Cúi xin Như Lai đoạn trừ tất ca lưới nghi và mọi sự khổ não của chúng con đều được đoạn diệt. Hôm nay chúng con thưa thỉnh ba lần như vậy, nhất tâm chuyên chú, chấp tay cung kính rất thích muốn nghe.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Tỳ-bà-thi Như Lai bảo Bí-sô thị giả rằng:

–Ngươi có thấy cậu bé chấp tay đứng trước ta không?

Bí-sô thưa:

–Dạ vâng, thưa Thiện Thệ con đã thấy!

Phật bảo Bí-sô:

–Nay cậu bé này thuở xưa đã từng thân cận xưng tán cung kính lễ bái, lại còn dùng y phuc ngọa cụ, các loại thuốc thang cúng dường tám vạn bốn ngàn câu-chi na-do-tha chư Phật, trồng các căn lành, vì cầu thành tựu Chánh đẳng Bồ-đề, thường tu phạm hạnh.

Đức Phật bảo Bí-sô:

–Ngươi có thấy tám vạn bốn ngàn câu-chi người đang đứng chắp tay ở trước ta không?

Bí-sô thưa:

–Dạ vâng, con đã thấy thưa Thiện Thệ!

Đức Phật bảo:

–Các người này ở đời quá khứ đều đã từng là cha mẹ của cậu bé này, đời đời đều được cậu bé này giáo hóa phát tâm, các đời về sau, nguyện đều không thọ thân nữ, đều hay tùy thuận tu tập, đồng phát tâm Chánh đẳng Chánh giác. Nay ta sẽ thọ ký cho họ. Vì nhân duyên đó cho nên ta hiện đại thần thông, phóng ánh sáng này.

Lúc đó, Tỳ-bà-thi Như Lai vì Bí-sô thị giả và mọi người mà nói kệ rằng:

Ngươi thấy hiện tiền các đại chúng
Đi theo cậu bé đến phó hội
Tám vạn bốn ngàn câu-chi số
Chuyên chú nhất tâm nghe ta nói.
Phật tuyên nói pháp được tự tại
Bí-sô! Nay ta nói điều đó
Ta biết cậu bé trong nhiều kiếp
Thân cận cúng dường các Đức Phật.
Lại trong vô lượng chỗ chư Phật
Chí tâm kiên cố cầu xuất gia
Tu trì hạnh thanh tịnh tối thượng
Lại hay lợi lạc chúng trời người.
Hiện tiền các đại chúng này đây
Tám vạn bốn ngàn câu-chi số
Đời đời đã từng làm cha mẹ
Giáo hóa hoan hỷ không gián đoạn.
Lại trong vô số kiếp thuở xưa
Rộng phát vô biên các đại nguyện
Đời đời thảy đều làm cha mẹ
Đồng cầu đại Bồ-đề vô thượng.
An trụ như vậy lìa sinh tử
Phải nên theo ta cùng tu học
Chí cầu Bồ-đề diệu vô thượng
Ta nay vì họ thân thọ ký,
Chúng ấy nhất định thành Chánh giác
Thế nên nay ta hiện thần thông
Ta có khả năng khiến tâm ngươi
Đi, đứng, nằm ngồi không nghi hoặc.
Các vị trời rồng và nhân chúng
Na-do-tha số đứng trước ta
Đồng nghe vì họ thân thọ ký
Không lâu sẽ thành Đấng Lưỡng Túc.

Này Xá-lợi Tử! Nghe Đức Phật ấy thọ ký, cậu bé hoan hỷ phấn khởi đi đến chỗ cha mẹ nói lời thành thật bằng kệ rằng:

Tám vạn bốn ngàn chúng như vậy
Thuở xưa từng làm cha mẹ con
Đồng thời cùng phát tâm Bồ-đề
Hom nay cha mẹ như thế nào

Này Xá-lợi Tử! Khi ấy cha mẹ vì cậu bé nói kệ rằng:

Như lời con nói cùng các chúng
Mỗi mỗi đã phát tâm Bồ-đề
Nay ta quy y Nhất Thiết Trí
Cùng con phát nguyện không khác gì
Như vậy tiến cầu đạo cứu cánh
Thân con là thân ta đã sinh
Cùng con đồng phát tâm chân thật
Nguyện được thành tựu quả Bồ-đề.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, cậu bé vì cha mẹ lại nói kệ rằng:

Nếu con được thành Phật trước nhất
Nguyện xin khai thị cho tất cả
Con nguyện cha mẹ và mọi người
Cùng thành đại Bồ-đề vô thượng.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó, vì cậu bé và mọi người, Tỳbà-thi Như Lai nói như vầy:

Nay ta vì các ông mà thọ ký thành Phật chớ sinh nghi hoặc, khéo an ủi chính mình, chớ thấy cái khác. Vì sao? Vì thuở xưa các ông đã làm Đại tự tại Thiên tử, lúc đó ta đã từng thọ ký cho các ông, từ đó trở về sau trải qua câu-chi na-do-tha kiếp không đọa đường ác. Lại quá hơn câu-chi na-do-tha kiếp, sinh trong dòng Chuyển luân thánh vương, được thành Phật hiệu là Đại Bi Như Lai A-la-ha Tammiệu Tam-phật-đà, đầy đủ đại danh xưng, cha là Tịnh Phạn, lìa các ám độn, mẹ là Ma-gia, lìa mọi ưu não. Người con thuở đó cũng như con ta tên là La-hầu-la, xuất hiện ở thế gian rồi, cầu thành Chánh đẳng Chánh giác, được thành tựu đạo Bồ-đề. Tuổi thọ Đức Phật ấy đủ mười vạn tuổi. Ánh sáng của Đức Phật ấy chiếu sáng mười vạn du-thiện-na quốc độ.

Tất cả hữu tình ở trong thế giới ấy có duyên hay không duyên đều được nương vào ánh sáng của Đức Phật. Lúc đó, trong ánh sáng của Đức Phật có trăm câu-chi na-do-tha câu-chi, trăm ngàn na-do-tha câu-chi chúng đại Thanh văn đều đến tập hội. Lại có một câu-chi chúng đều là A-la-hán, đầy đủ bạch pháp, đã hết các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đủ tám giải thoát, đắc sáu thần thông.

Này Xá-lợi Tử! Đại A-la-hán như vậy đều đến tập hội. Lại có vô lượng chúng Đại Bồ-tát đều đến tập hội. Lại có tất cả cha mẹ thuở xưa từng làm cha mẹ của Đức Phật cũng đến tập hội.

Lúc đó, Đại Bi Như Lai nói pháp giáo hóa vô lượng a-tăng-kỳ hữu tình đều trụ địa không thoái chuyển, đã làm các việc thiện lợi cho các hữu tình rồi vào Niết-bàn. Chánh pháp tồn tại thế gian một câu-chi năm. Xá-lợi của Đức Phật ấy lưu bố rộng rãi ở các thế gian, cũng như sau khi ta diệt độ lưu bố Xá-lợi không khác.

Này Xá-lợi Tử! Lúc nói lời này, có các Chánh sĩ phát khởi dũng mãnh, tinh tấn càng tăng, sinh khởi tâm Từ quán sát thế gian, lợi lạc hữu tình, tâm không thoái chuyển. Lại có Đại Bồ-tát phát khởi chánh niệm, tăng trưởng tối thắng, tâm không gián đoạn, chí cầu Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, nguyện ở trong sinh tử lưu chuyển hóa độ lợi ích hữu tình, cầu Phật Bồ-đề.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó ta cũng phát nguyện này, dứt sạch nguồn gốc sinh tử, mặc giáp tinh tấn, hóa độ lợi ích hữu tình, một kiếp viên mãn hạnh nguyện tinh tấn, tinh tấn dũng mãnh tâm không thoái chuyển, nguyện thành Bo-đề.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển? Đại Bồ-tát khi thực hành tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển, giá như thấy lửa cháy đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới, vì cầu Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác Bồđề, nên phát khởi tinh tấn dũng mãnh, vào trong lửa nhưng vẫn nhẫn chịu không biếng nhác. Lúc các Bồ-tát nghe pháp này rồi liền được siêu việt viên mãn, một kiếp hạnh nguyện tinh tấn.

Lại nữa, khi các Bồ-tát nghe pháp này rồi, đối với tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển, liền được vô lượng thiện căn.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát thực hành tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyen, vì lợi ích tất cả hữu tình, cầu chứng Niết-bàn, thuần nhất không xen tạp thường trụ kiên cố, đối với thiện và bất thiện đều khởi lòng đại Bi thương xót, thực hành hạnh tương ưng đối với các hữu tình.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nên thực hành tinh tấn dũng mãnh không có biếng nhác dù ở đâu, cất bước chân đi thường không lìa tâm Bồ-đề, quán thấy Tam bảo luôn ở trước mắt, cũng không rời bỏ tất cả hữu tình, cũng không tùy thuận tất cả phiền não.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát nên thực hành tinh tấn dũng mãnh không có biếng nhác, đem sức thiện căn đã sinh, hoặc chưa sinh đều hồi hướng chánh đạo Bồ-đề, lại khiến thiện căn tăng trưởng vô tận.

Này Xá-lợi Tử! Ví như nước của trăm con sông chảy ra biển mãi mãi không bao giờ hết. Nay đem thiện căn này hồi hướng Bồ-đề cũng như vậy, không có cùng tận. Thế nên gọi là tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát thực hành tinh tấn

dũng mãnh không có biếng nhác, đối với các hạnh chân chánh Nhất thiết trí trí tích tập thiện căn, lại hay lợi lạc tất cả hữu tình, thế nên gọi là tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nay ta lược nói về phước uẩn mà Đại Bồ-tát cho đến tất cả hữu tình đạt được, cho đến phước uẩn mà hữu học, vô học, Thanh văn, Duyên giác đạt được. Các phước uẩn đó không bằng đầu sợi lông phước uẩn của Như Lai. Huống nữa là phước uẩn Như Lai đạt được nhiều như lông khắp cả toàn thân. Vì do Như Lai tu hành tích tập phước uẩn rộng lớn trong vô lượng kiếp. Nếu như có người tích tập phước uẩn rộng lớn, hành tướng như thật trăm phần, ngàn phần, không bằng nhân tướng của Như Lai, huống nữa là tất cả tướng tốt của Như Lai.

Lại nữa, các phước uẩn đó không bằng tướng nhất kha nguyệt bạch hào giữa chặng mày của Như Lai, huống nữa là trăm ngàn phần công Đức Như Lai

Lại nữa, các phước uẩn đó không bằng môt đảnh tướng vô kiến của Như Lai, huống nữa là tướng đại trượng phu của Như Lai, cho đến ô-sắc-ni-sa các căn tướng tốt phát sinh trăm ngàn câu-chi công đức.

Lại nữa, các phước uẩn ấy không bằng âm đại pháp loa nói một tướng của Như Lai, huống nữa pháp âm rộng lớn của Như Lai bao trùm vô lượng thế giới, khiến hữu tình các căn điều hòa đều sinh hoan hỷ, tùy theo sự hiểu biết thù thắng khéo được điều phục, phát sinh sự hiểu biết đối với Chánh đẳng Chánh giác khó được như vậy.

Như vậy, Bồ-tát đối với vô lượng thế giới tùy theo đó mà học. Như Lai nói ra âm thanh to lớn khiến hết tất cả hữu tình đều được nghe. Bồ-tát mặc giáp tinh tấn, phát ý chí kiên cố, thích tu tập hạnh tinh tấn dũng mãnh không thoái chuyển của Bồ-tát.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi Đại Bồ-tát tu hạnh tinh tấn không có thoái lui, giả sử khiến tất cả hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới thành tựu đầy đủ trí lực hiểu biết thù thắng. Nếu các hữu tình đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, tùy thuận thành tựu đầy đủ trí lực, đem so với công đức trước trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, cho đến ô-ba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Nói tóm lại, tất cả hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới như vậy, đều khiến đạt được trí lực Tu-đà-hoàn, trí lực Tư-đà-hàm, trí lực A-nahàm, trí lực A-la-hán; lại khiến đạt được trí lực của Thập tín, Thập trú, Thập hạnh, Thập hồi hướng, địa vị không thoái chuyển, địa vị Nhất sinh bo xứ Bồ-tát. Nói rộng ra, cho đến tất cả hữu tình trong vô lượng thế giới khiến đạt được trí lực của Nhất sinh bổ xứ Bồ-tát. Nếu các hữu tình nghe được trí lực không phân biệt và có phân biệt của Như Lai mà không kinh sợ thì ngay khi ấy, lần lượt ham thích trí lực thậm thâm so với công đức trước trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn ức phần, a-tăng-kỳ phần, cho đến ô-ba-ni-sát-đàm phần cũng không bằng một. Bồ-tát ham thích phát khởi tinh tấn dũng mãnh, thà bỏ thân mạng, đầu, mắt, tủy, não, tất cả chi phần, đối với trí lực của Như Lai tu tập liên tục không để gián đoạn, xả bỏ dũng mãnh tinh tấn như vậy, ta cho rằng đây là Bồ-tát thực hành tinh tấn không thoái chuyển.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát phải nên tu tập địa vị không thoái chuyển, cho đến phát khởi nhất tâm, thể nhập vào vô lượng vô biên tâm hạnh sai biệt của tất cả hữu tình trong quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu các hữu tình nhiều tham, sân, si… tất cả phiền não mà lại hồi nhập tâm của Bồ-tát, lúc đó, Bồ-tát dùng sức trí tuệ, thí dụ, ngôn từ mỗi mỗi tìm cầu, phát khởi dũng mãnh như vậy, thấy sắc tướng này, tất cả hữu tình bị tham, sân, si… thiêu đốt. Lúc đó, Bồ-tát dùng các phương tiện khiến hữu tình dứt hết tất cả phiền não, cũng như tro tàn tan mất không còn sót gì. Lại khiến hữu tình tu tập hướng đến Niết-bàn, ta cho rằng, Bồ-tát này hành tinh tấn không thoái lui.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tu hạnh tinh tấn không thoái chuyển, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện, cho đến tinh tấn tất cả Ba-la-mật-đa. Thân, miệng, ý không lìa sự tu tập, nhưng đối với ba nghiệp phát sinh tinh tấn ý là tối thắng.

Sao gọi là ý nghiệp tinh tấn tối thắng? Tức là không phân biệt và có phân biệt.

Sao gọi là không phân biệt? Tức là tâm Bồ-đề.

Sao gọi là có phân biệt? Tức là khởi tâm đại Bi đối với tất cả hữu tình.

Sao gọi là không phân biệt? Nghĩa là đối với nhẫn trí ngộ lý vô ngã.

Sao gọi là có phân biệt? Tức là có thể nhiếp thọ tất cả hữu tình.

Sao gọi là không phân biệt? Là tuy có thể nhiếp thọ tất cả hữu tình, nhưng không chấp trước.

Sao gọi là có phân biệt? Tức là nhàm chán luân hồi.

Không phân biệt là đối với ba cõi đều không sở đắc. Có phân biệt là có các của báu vui vẻ bố thí. Không phân biệt là bố thí không chấp tướng. Có phân biệt là trì giới có sự tích tập. Không phân biệt là trì giới không chấp tướng. Có phân biệt là có thể nhẫn chịu khổ. Không phân biệt là sát-na tâm không chỗ trụ. Có phân biệt là phát khởi các pháp thiện căn. Không phân biệt là thường vắng lặng. Có phân biệt là đối với thiền định có sự tích tập. Không phân biệt là tâm thường quyết định an trụ không lay động. Có phân biệt là tu văn tuệ không biết nhàm chán. Không phân biệt là trong tâm chuyên chú khéo léo. Có phân biệt là đối với văn tuệ rộng nói các pháp. Không phân biệt là đối với pháp tánh không có ghi nhớ. Có phân biệt là đối với trí tuệ có sự tu tập trau luyện. Không phân biệt là đối với các pháp lìa mọi hý luận. Có phân biệt là tích tập tu hoc các phạm hạnh. Không phân biệt là đối với các tánh tuệ đều hay xa lìa. Có phân biệt là có thể viên mãn năm thần thông. Không phân biệt là dứt hết các hữu lậu. Có phân biệt là đối với quán tưởng thường hay suy nghĩ. Không phân biệt là trong tâm luôn chánh niệm. Có phân biệt là khéo léo đối với bốn chánh đoạn. Không phân biệt là có thể siêu việt các thiện căn. Có phân biệt là chấp trước tướng văn tự muốn cầu xuất ly. Không phân biệt là phước báo to lớn bao trùm vô tướng. Có phân biệt là thông đạt các căn và sự thích nghi của các hữu tình. Không phân biệt là có thể quán sát các pháp thiện căn, nhưng không sở đắc. Có phân biệt là có sự tu tập đối với các lực. Không phân biệt là đối với chỗ này, không có tổn giảm. Có phân biệt là có thể phát sinh Bồ-đề pháp phần. Không phân biệt là đối với các pháp lìa trí phân biệt. Có phân biệt là đối với chánh đạo có khả năng cầu tiến. Không phân biệt là quán các thần biến cũng như hư không. Có phân biệt là có thể tích tập định môn. Không phân biệt là trụ Xa-ma-tha nhưng chỉ một cảnh. Có phân biệt là đối với Tỳ-bát-xa-na có tích tập. Không phân biệt là khéo nhập vào pháp tánh. Có phân biệt là có thể hiểu rõ các pháp nhân duyên. Không phân biệt là có thể biết rõ pháp không phải nhân duyên. Có phân biệt là đắm trước tiếng thắng nghĩa. Không phân biệt là thực hành hạnh chánh pháp. Có phân biệt là trang nghiêm Pháp thân. Không phân biệt là lìa mọi trang nghiêm Pháp thân. Có phân biệt là trang nghiêm lời nói. Không phân biệt là nương tựa vào cac bậc Thánh có thể thường yên lặng. Có phân biệt là nương vào ba cửa giải thoát môn mà sinh ra lạc dục. Không phân biệt là ngã không tăng thượng. Có phân biệt là có thể lìa bốn việc ma. Không phân biệt là có thể vưt bỏ thói quen chủng tử phiền não. Có phân biệt là có thể biết rõ phương tiện khéo léo. Không phân biệt là thấy biết trí tuệ như thật. Có phân biệt là lìa mọi cái thấy theo phan duyên. Không phân biệt là lìa mọi cái thấy siêu việt. Có phân biệt là có cái thấy tưởng niệm. Không phân biệt là thấy ý nghiệp. Đây là ý nghiệp tinh tấn, tinh tấn là tối thượng thù thắng. Ta cho rằng Đại Bồ-tát này thực hành tinh tấn không thoái.

Lại nưa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát khi thực hành tinh tấn không thoái, thực hành năm pháp tối thượng cực diệu, mau chóng chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Sao gọi là năm pháp tối thượng cực diệu?

  1. Thường nhớ nghĩ Phật xuất hiện ở thế gian.
  2. Hay thân cận các bậc Thiện tri thức.
  3. Thường gặp thời tốt.
  4. Thường tích tập các pháp thiện căn kiên cố.
  5. Theo học giới cụ túc của Đại Bồ-tát đều được viên mãn.

Đây là năm pháp tối thượng cực diệu khiến Bồ-tát mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi Tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát lìa năm pháp tối thượng cực

diệu này thì có thể chứng đắc Chánh đẳng Chánh giac không?

Đức Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử! Nếu các Bồ-tát không thường nhớ nghĩ Phật xuất hiện thế gian, không thân cận các trí thiện thức, nếu không gặp thời tốt, không thể tích tập các pháp thiện căn không khiến kiên cố, không thể theo học giới cụ túc của Đại Bồ-tát không được viên mãn. Nếu xa lìa năm pháp cực diệu tối thượng như vậy, thì không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác. Nếu ai trái với năm pháp này mà chứng đắc thì không thể có.

Này Xá-lợi Tử! Sao gọi là Bồ-tát tại gia xa lìa năm pháp? Nghĩa là như vua, đại thần ở trong đại chúng, dựa vào oai thế khủng bố nhiều người, lại nói với mọi người rằng: “Ta có thể làm bất cứ việc gì đến với các ngươi, chỉ vì khi dối mà thật không làm.” Cho đến nói những lời nói khi dối như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Do khi dối như thế nên không thể sinh vào chư Thiên nẻo thiện, hành tướng như vậy cũng không thể gặp được thời tốt.

Này Xá-lợi Tử! Hành tướng này Bồ-tát tại gia chỉ đủ nuôi sống chính mình chứ không thể lợi tha, cũng không gặp Phật xuất thế, cho đến không thể chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia ở trong thành ấp có các chướng ngại thường hay quấy nhiễu não hại.

Thế nào là trong thành ấp có các chướng nạn?

Này Xá-lợi Tử! Có các Đức Như Lai xuất thế thành Đẳng chánh giác, nói pháp giáo hóa các hàng Trời, Người, A-tu-la… đầu, giữa, cuối đều thiện, ý nghĩa sâu xa, lời nói khéo léo, đầy đủ tướng thanh bạch phạm hạnh và được bốn bộ chúng vây quanh cung kính. Tuy Bồ-tát thân cận cúng dường lễ bái Bí-sô, Bí-sô-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nhưng lại ở chung trong xóm làng thành ấp ngõ hẻm, nhân dân, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, cho nên giới uẩn không thể đầy đủ thanh tịnh. Vì thế ta nói trong thành là chướng nạn. Nếu Bồ-tát tại gia đắm trước năm dục như vậy không thể nhớ nghĩ Phật xuất thế, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia tự tuyên nói pháp luật hiện hành, lại càng nhiều chướng nạn. Nghĩa là cha, mẹ, trai, gái, vợ, con, nô tỳ, chị, em, anh, em, bạn bè, quyến thuộc trong nhiều kiếp bị chướng nạn.

Này Xá-lợi Tử! Pháp như vậy hay gây chướng nạn cho Bồ-tát tại gia, cũng lại không thích Phật xuất thế, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia đối với Khế kinh hành tướng như thật của Như Lai lập ra, tuy nghe rồi nhưng không thích đa văn, đối với hạnh thiểu dục không thích tu tập, cũng không tin thọ các Khế kinh đồng loại, đối với giáo pháp Đại thừa của Như Lai lại sinh hủy báng. Những hạng người như vậy đều đọa vào đường ác.

Sao gọi là các đường ác? Đó là Diệm-ma-la giới, ngạ quỷ, súc sinh, biên địa, các ác luật nghi, dù làm được thân người nhưng không đầy đủ, cấu uế chướng nặng, đủ mọi tà kiến.

Này Xá-lợi Tử! Chỗ đáng nhàm chán như vậy, chư Phật, Bồ-tát đều xa lìa không thích sinh vào nơi ấy, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát tại gia thích dựa vào những người có thế lực lớn như: quốc vương, đại thần và các nhân dân giàu có hào kiệt, như vậy thì càng thêm sân nhuế. Hễ nói ra điều gì phần nhiều là sự dối trá, tích tập việc ác, mê hoặc người khác, hay sinh khinh chê. Người này dùng lời bất thiện nhất định đọa đường ác, thân thể ốm gầy, đủ các tướng ác.

Này Xá-lợi Tử! Đó là năm pháp của Bồ-tát tại gia. Vì lý do đó cho nên không thể gặp Phật xuất thế, không thể thân cận bạn tốt, không thể gặp thời tốt, thiện căn đã được tích tập đều bị hủy hoại, không thể theo học với Đại Bồ-tát trì giới, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Nếu ai thực hành theo năm pháp
Thì không thể tăng trưởng thắng tuệ
Mà lại xa lìa Bậc Điều Ngự
Không thể mau chóng thành Chánh giác.
Khi dối hết tất cả hữu tình
Như vua, đại thần, các nô tỳ
Đều đoạn tất cả sức thiện căn
Không thể gặp được Phật xuất thế.
Hoặc lại kinh bố các hữu tình
Ra lịnh trói bắt và đánh đập
Làm các nghiệp ác như vậy rồi
Lại thường xa lìa Bậc Vô Thượng.
Đối với Bí-sô, Bí-sô-ni
Phá các tịnh giới sinh bệnh khổ
Sát-na không gặp được thời tốt
Thường luôn xa lìa các Đức Phật.
Cha, mẹ, vợ, con các quyến thuộc
Mãi luôn theo học hạnh phi pháp
Ngược lại không thích nghe chánh pháp
Đọa vào si mê khó ra khỏi.
Giá như gặp Phật cầu thân cận
Trong khoảng sát-na không thể được
Hoặc có lúc ham thích xuất gia
Bị các chướng nạn luôn ập đến.
Hoặc lúc nghe chánh pháp này rồi
Rồi tùy theo chỗ nói chân thật
Hữu tình càng sinh tâm sân nhuế
Cho rằng đây là phi chánh pháp.
Gây ra các chướng nạn như vậy
Trong mười sáu phần chưa bằng một
Do nhân hủy báng chánh pháp này
Đời đời mù lòa không thể thấy.
Thế nên không thấy Bậc Chánh Giác
Dù thấy không sinh tin thanh tịnh
Sẽ được thân người không đầy đủ
Sau đọa vào tất cả bàng sinh.
Nếu người quy hướng Phật Bồ-tát
Và sinh ham thích với Bồ-đề
Tất cả chướng nạn đều tiêu trừ
Khéo hay tu tập hạnh chân chánh.
Tất cả cha mẹ và quyến thuộc
Cùng với tất cả hữu tình khác
Hướng dẫn ai nấy đều xuất gia
Mau chóng nhiếp thọ về chánh đạo.
Trước hết hướng dẫn mẹ mình rồi
Lại hay khen ngợi khiến xuất gia
Cùng nhau đi đến Bậc Thiện Thệ
Phát tâm khai ngộ đại Bồ-đề.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Bồ-tát xuất gia có năm pháp như vầy, xa lìa các bạn lành, chư Phật xuất thế dù chỉ trong khoảng sát-na cũng không thể gặp, sức thiện căn đã được tích tập cũng đều bị phá hoại, không thể theo học với các Đại Bồ-tát trì giới, cho đến khong thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác. Năm pháp đó là gì?

  1. Do suy nghĩ tà vạy cho nên phá các tịnh giới.
  2. Do không tin nên hủy báng chánh pháp.
  3. Đắm trước lợi dưỡng và thích danh tiếng.
  4. Chấp trước ngã kiến vào các hiểm nạn.
  5. Hay sinh tật đố đối với hạnh thiện của người khác.

Này Xá-lợi Tử! Bồ-tát xuất gia đủ năm pháp như vậy nên xa lìa bạn lành, không thể gặp Phật xuất thế. Nói tóm lại, cho đến không thể mau chóng chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi Tử! Vì nghĩa đó, cho nên giống như chó đói ốm o tiều tụy, da dính liền xương, bỗng thấy xương khô liền sinh tưởng muốn ăn. Tưởng thế, nó ngoạm lấy khúc xương khô đó mang đến chỗ vắng, ra sức liếm gặm, gặm đến nổi miệng bị tổn thương, máu chảy lên khúc xương, nhưng nó không biết đó là máu của mình mà cứ vọng sinh ham thích, muốn “ăn” no nê nhưng không thể được. Lúc đó, có Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ từ xa đi đến, thấy con chó đói này đang gặm xương khô liền than thở. Thấy những người này đến, con chó đói tự suy nghĩ: “Các người kia đến nhất định cướp mất thức ăn ngon của ta.” Nghĩ thế, nó liền sủa dữ tợn, mắt nhìn lườm lườm, nhe răng hừ hừ.

Này Xá-lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Khi thấy khúc xương khô không có máu thịt gì, các người kia có cướp đoạt không?

Xá-lợi Tử thưa:

–Dạ không, thưa Thế Tôn! Dạ không, thưa Thiện Thệ!

Đức Phật hỏi:

–Này Xá-lợi Tử! Như vậy thì tại sao con chó kia lại khởi tưởng như thế?

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Là vì con chó quá đói, nên gặp xương khô nó coi như là vị cam lồ, vọng sinh tham ái, nên sủa dữ tợn, mắt nhìn lườm lườm, nhe răng hừ hừ, sợ các người kia đến cướp khúc xương.

Đức Phật hỏi:

–Này Xá-lợi Tử! Như sau khi ta diệt độ, có các Bí-sô đối với các chủng tộc, cho đến tiện lợi bất tịnh, tâm sinh đắm trước, bị nó trói buộc. Hành tướng như vậy, trong khoảng sát-na muốn thành tựu Phật sự cũng không thể được. Ta cho rằng, các Bí-sô ở trong pháp Phật cũng như con chó đói kia, nên bị Như Lai quở trách. Nếu các hữu tình thấy hành tướng của các Bí-sô này cũng lại hủy báng cũng như con chó đói kia.

Này Xá-lợi Tử! Lại có Đại Bồ-tát làm lợi lạc tất cả hữu tình, cầu trí tuệ Phật, chính thân mạng mình còn xả bỏ, huống nữa đối với thiện nghiệp của người khác mà lại sinh ganh ghét.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thế gian có người ngu si, vì mạng sống nên ham thích tiền tài châu báu, ăn uống, thân làm nô bộc, bị trói buộc sai khiến, xua đuổi; đối với dòng họ người khác lại cuồng vọng thân cận, là vì tham cầu sinh ra ganh ghét người khác.

Này Xá-lợi Tử! Như Bí-sô kia vì tham lợi dưỡng ở nơi dòng họ ấy, trước thấy người khác đến lại sinh tâm gánh ghét, nói với người đến sau rằng: “Ta ở đây đã lâu, các ngươi từ đâu đến đây? Các trưởng giả trong dòng họ này trước đã phát nguyện cung phụng mọi thứ y phục, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ, thuốc thang quyết định cho ta.” Rồi lại nói tiep: “Các ngươi là người đến sau thì làm sao mà có được.” Nhân đó, vị Bí-sô kia phát sinh ba thứ lỗi lầm:

  1. Đắm trước chỗ ở.
  2. Không thích ở chỗ cũ.
  3. Có thể hiểu rõ pháp thế gian nhưng không biết gì về pháp xuất thế gian.

Lại nữa, các Bí-sô này ở trong dòng họ trưởng giả không thích ở yên. Các Bí-sô này lại nói: “Trụ xứ có ba. Một là ham thích xứ trụ. Hai là hòa hợp xứ trụ. Ba là như thật xứ trụ.” Đã thế, còn nói với các trưởng giả rằng: “Trưởng giả các ông mắc phải nhiều sai lầm, nên phải hết lòng sinh cung kính ta, xưng dương tán thán pháp của ta.”

Này Xá-lợi Tử! Do dòng họ này hay sinh ganh ghét đối với pháp thanh tịnh, nên đều bị giảm mất.

Này Xá-lợi Tử! Lại có dòng họ sinh ganh ghét hư vọng không thật, hoặc có người trì giới hay không trì giới, đối với Đại Bồ-tát thảy đều xa lìa không chịu theo học. Thí dụ như vậy phải nên biết rõ.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đời quá khứ vô lượng vô biên rộng lớn a-tăng-kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn, lúc đó có Phật ra đời hiệu là Thắng Cao Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trụ thế chín mươi câuchi năm. Trong hội Phật ấy có chín mươi na-do-đa đại chúng Thanh văn, đều là A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, hoàn tất việc lợi mình, tâm được tự tại, đến bờ giác ngộ. Lúc đó, có trưởng giả tên là Thiện Tập, của cải giàu có, quyến thuộc đông nhiều, tiền tài châu báu sung túc, đầy đủ các món như kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, thọ dụng không hết. Lại có nô tỳ hầu hạ, voi ngựa, xe cộ và các kho báu chứa đầy tràn. Lúc đó, trưởng giả sinh được hai người con, người con đầu tên là Tịnh Trụ, con thứ hai tên là Tịnh Trì, diện mạo đoan chánh, thân tướng đầy đủ, ai nấy cũng thích ngắm nhìn. Hôm nọ chúng chạy nhảy chơi giỡn trên lầu gác lớn.

Khi ấy, Đức Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Buổi sáng hôm ấy, Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, mặc y cầm bát cùng đại chúng Bí-sô trước sau vây quanh vào đại thành lần lượt khất thực. Tướng Đức Phật rực rỡ sáng như núi vàng, lại như cờ vàng to lớn rực rỡ tối thượng đệ nhất, trụ hạnh Xa-ma-tha, các căn ẩn mật. Cũng như long tượng thanh tịnh hết sức vi diệu, như ao hồ lớn lìa các nhơ bẩn, lại như biển lớn đầy cả châu báu, như chúa trời Đế Thích có chư Thiên vây quanh; như Đại phạm Thiên vương trang nghiêm tịch tĩnh, đầy đủ thanh tịnh, tâm ý điều hòa, các căn vắng lặng. Lúc đó, hai người con này thấy Đức Thắng Cao Như Lai, Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-bồ-đà, thấy thế khen ngợi rồi từ xa đi đến. Đức Phật thân tướng tốt đẹp vô lượng vô biên, viên mãn đầy đủ, hai người con này chiêm ngưỡng Thế Tôn tâm không nhàm chán.

Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Tịch Trụ thuở xưa đã từng diện kiến Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên mới nói với đồng tử Tịnh Trì:

–Thuở xưa em đã từng thấy Đức Như Lai Thắng Cao chưa? Công đức của Đức Phật này không có cùng tận, Ngài là cha lành của tất cả hữu tình.

Lúc đó, đồng tử Tịnh Trì nói:

–Thuở xưa em chưa từng thấy Đức Phật này, tướng tốt của Thế Tôn đầy đủ, oai đức đặc biệt.

Đồng tử Tịnh Trụ nói:

–Thuở xưa anh đã từng thấy Đức Như Lai Thắng Cao, anh nguyện đương lai cũng giống như Đức Phật này không khác.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó đồng tử Tịnh Trụ nói kệ rằng:

Con nguyện đương lai như Thế Tôn
Có các chúng Bí-sô vây quanh
Nếu con được giống tướng Như Lai
Được gọi Bậc Tối Thượng như vậy.
Nay con cúng dường thức ăn uống
Vì muốn cầu Bồ-đề vô thượng
Nhà cửa sở hữu đều vứt bỏ
Con nguyện đương lai thành Chánh giác.
Ví như các sao, trăng sáng nhất
Ai người thấy rồi không mát mẻ
Trong chúng hữu tình Phật hơn hết
Ai không bỏ nhà cầu xuất gia.
Này Xá-lợi Tử! Lúc đồng tử Tịnh
Trì nghe kệ này rồi, lại nói kệ rằng:
Nay anh chớ nói lời như vậy
Cũng chớ lớn tiếng báo bốn phương
Anh nghe lời chân thật của em
Làm sao mau chóng được Bồ-đề.
Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Tịnh
Trụ nghe kệ này rồi lại nói kệ rằng:
Nếu em không ham thích đạo này
Thì chớ có khởi tâm ganh ghét
Nay anh nói ra lời tốt này
Nhờ đó nên được đạo Bồ-đề.
Em đối tài bảo của thế gian
Cũng chớ có sinh tâm keo kiệt
Chính thân mạng này anh còn xả
Thế nên nói cho em biết rõ
Cho em mọi thứ các nhà cửa
Cho đến tất cả các châu báu
Nay anh đi đến nơi chỗ Phật
Xuất gia mong thọ ký Bồ-đề.
Ba mươi hai tướng đẹp thù thắng
Ai người thấy rồi không ham thích
Bồ-đề vô thượng ai không hành
Đừng nên sinh lòng thấy kém cỏi
Anh đối của báu và nhà cửa
Cha mẹ, quyến thuộc, các bạn bè
Mọi thứ như thế anh đều xả
Vì cần đi đến nơi chỗ Phật.
Giả sử trong câu-chi ngàn kiếp
Nghe Phật xuất thế rất khó được
Phật là ánh sáng của thế gian
Người gặp ánh sáng Phật càng khó.
Phật đến Vương thành đi hóa độ
Đại chúng Bí-sô đều vây quanh
Cũng như trời trong trắng sáng tỏ
Chiếu soi khắp tất cả thế gian,
Lại như xuất hiện ngàn mặt trời
Bốn phía nẻo đường đều sáng tỏ
Phật đang hóa độ ở trong thành
Phóng ánh sáng khắp cũng như vậy.
Ví như Tu-di chúa các núi
Cũng như xuất hiện báu thù diệu
Phật ở trong đại chúng Bí-sô
Thanh tịnh tôn nghiêm cũng như vậy.
Ánh sáng rực rỡ đại oai đức
Chiếu sáng tất cả các hữu tình
Như Lai thù thắng Đấng Lưỡng Túc
Các sắc tướng viên mãn như vậy.
Phật vào Vương thành đang hóa độ
Hiển hiện vô lượng đại oai thần
Chư Thiên, Long thần và hữu tình
Người thấy ham thích đều cung kính,
Ba mươi hai tướng đẹp thù thắng
Thấy rồi ai không cầu chánh pháp
Nếu ai thích tu tập Tiểu thừa
Là kẻ ngu phu thấy yếu kém.
Anh thấy vô thượng Nhân Trung Tôn
Tướng tốt đoan nghiêm rất hiếm có
Nay đều đến chỗ Thiện Thệ Tôn
Vì cầu đạo Bồ-đề vô thượng.

Này Xá-lợi Tử! Khi nghe kệ này rồi, đồng tử Tịnh Trì lại nói kệ rằng:

Em không ham thích nơi Tiểu thừa
Cũng muốn đi đến nơi chỗ Phật
Nay ở trong lầu gác lớn này
Thề nguyện nhảy xuống bỏ thân mạng
Em lại tưởng thân này hư huyễn
Đối thân mạng này nên vứt bỏ
Vì cầu đại trí tuệ vô thượng
Cũng nên đi đến nơi chỗ Phật
Cha mẹ ân ái rất là nặng
Nhà cửa tài vật các cảnh dục
Tất cả em đều muốn xả bỏ
Thệ sẽ đi đến nơi chỗ Phật
Nếu em nguyện được như Thế Tôn
Mong Phật khen ngợi vì nhiếp thọ
Vứt bỏ tất cả sở hữu rồi
Theo Phật xuất gia làm đệ tử.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, đồng tử Tịnh Trụ từ trên lầu gác thong thả đi xuống, tức thời liền đến chỗ của Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đồng thời, đồng tử Tịnh Trì ở trong lầu gác phát tâm dũng mãnh, không tiếc thân mạng, từ trên lầu cao nhảy xuống, do tinh tấn như thế cho nên trước đã đến chỗ Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Tịnh Trụ đến chỗ Phật rồi, đem pháp phục tối thượng vi diệu giá trị bằng một câu-chi số vàng ở Diêmphù-đàn dâng cúng Như Lai, rồi nói kệ rằng:

Nay con cúng pháp phục vi diệu
Không cầu các sắc tướng đoan nghiêm
Con nguyện đương lai như Thế Tôn
Tối thượng tối tôn xưng đệ nhất,
Đầy đủ thanh tịnh đại trí tuệ
Nên khéo an trụ sức tinh tấn
Trang nghiêm ba mươi hai tướng đẹp
Nguyện được quả như Đấng Lưỡng Túc.
Lại được thành tựu mười Trí lực
Bốn Vô sở úy khéo an trụ
Con nguyện đương lai như Thế Tôn
Tối thượng tối tôn xưng đệ nhất.
Con nguyện sống trong chánh pháp Phật
Như Phật an trụ trong ánh sáng
Diễn nói các pháp thí hữu tình
Khiến hết tất cả đều giác ngộ.
Nay con cúng pháp phục tối thượng
Không cầu các sắc tướng đoan nghiêm
Nguyện cầu đại Bồ-đề thanh tịnh
Nguyện độ vô biên chúng trời người.
Con nguyện cúng pháp phục thượng diệu
Vì cầu tuệ vô thượng Như Lai
An trụ chánh pháp môn không hai
Nhiếp phục tất cả các ngoại đạo.
Lại nguyện lợi lạc các hữu tình
Đều khiến xa lìa tham sân si
Vô minh, ái, hữu thảy đều trừ
Đạt được pháp vô vi cam lồ.
Lại nói pháp thanh tịnh Như Lai
Lợi lạc tất cả các hữu tình
Khiến xa lìa sinh, già, bệnh, chết
Và diệt buồn rầu các khổ não.
Lại nguyện nói pháp lợi tất cả
Hàng trời, rồng, nhân và phi nhân
Có tưởng, không tưởng các hữu tình
Tự giác, giác tha đều cung kính.
Con nguyện an trụ các cõi Phật
Phóng ánh sáng chiếu khắp mười phương
Trong chỗ tối tăm và nóng bức
Rưới vị cam lồ được mát mẻ.
Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới
Đều khiến tất cả không đắm trước
Xa lìa tất cả cảnh yêu ghét
Luôn nói pháp thanh tịnh Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Khi đồng tử Tịnh Trì đến chỗ Phật rồi, lại dâng cúng dép vi diệu tối thượng lên Đức Thế Tôn một cách ân can rồi nói kệ rằng:

Con nguyện như Phật Chúng Trung Tôn
Như nhà cửa lớn làm cứu hộ
Khiến các hữu tình lìa nẻo ác
Lại hay diễn nói đạo chân chánh.
Tất cả ái dục ở thế gian
Đó là ngu phu cảnh giới thô
Tất cả hữu vi đều xa lìa
Nguyện Phật xuất thế thường được gặp.
Thấy ánh sáng Phật chiếu thế gian
Phát tâm cúng dường Đấng Lưỡng Túc
Vì lợi tất cả các hữu tình
Thệ cầu quả Bồ-đề vô thượng.
Lại dùng các hương hoa tối thắng
Các loại tràng phan và bảo cái
Vì lợi tất cả các hữu tình
Dâng lên cúng dường Đấng Đại Giác,
Y phục thượng diệu và ăn uống
Giường, mền, ngọa cụ các thuốc thang
Vì lợi tất cả chúng hữu tình
Dâng lên cúng dường Đức Như Lai.
Lại đem trống và các nhạc cụ
Ca vịnh tán thán tiếng vi diệu
Vì lợi tất cả các hữu tình
Cúng dường đấng Xuất Thế rạng ngời.
Lại đem ngọc trân các món ngon
Là vị tối thượng trong thế gian
Vì lợi tất cả các hữu tình
Nguyện dâng cúng dường Phật Thế Tôn.
Cúng dường rộng lớn như vậy rồi
Mong cầu xuất gia theo Như Lai
Vì lợi tất cả các hữu tình
Thề làm tất cả hạnh thanh tịnh.
Nguyện cho tất cả loài hữu tình
Không sinh vào tà đạo huyễn hoặc
Đều khiến câu-chi số hữu tình
An ổn trụ vào tám đường chánh.
Con nguyện không sinh vào Dục giới
Biên địa thấp kém chỗ nhàm chán
Xa lìa tất cả biếng nhác rồi
Thường được thân cận Bậc Tinh Tấn.
Lại nguyện không sinh các nẻo ác
Thường nguyện sinh vào dòng tín tâm
Sinh rồi nên phát tâm tối thượng
Nguyện thấy Như Lai thường thân cận.
Thấy rồi phát tâm thanh tịnh này
Và đem tràng hoa các hương xoa
Cúng dường các thứ trống kỹ nhạc
Nên cầu thắng giải lợi tất cả.
Nguyện ở trong nhiều câu-chi kiếp
Thường khởi việc cúng dường rộng lớn
Xuất gia xa lìa các cảnh dục
Sẽ làm tất cả hạnh thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Hai đồng tử này ở chỗ Đức Thắng Cao Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác dùng các thứ kỹ nhạc, kệ, ca, vịnh, tán thán cúng dường Phật rồi, ở ngay nơi đó phát tâm thanh tịnh, dùng Chiên-đàn đỏ xây cất tinh xá, ngang dọc bốn du-thiện-na, cao nửa du-thiện-na, xây dựng xong dâng cúng Thế Tôn và thưa: “Cúi xin Như Lai thương xót thọ nhận.”

Hai đồng tử này ở chỗ Thắng Cao Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khuyến thỉnh Thế Tôn bằng kệ rằng:

Thỉnh Phật an trụ tinh xá con
Chư Phật quá khứ đã xưng tán
Nay con cúng với tâm thanh tịnh
Xin Phật thương xót thân nạp thọ.
Nếu Phật thường ở tinh xá con
Biết rõ câu-chi số hữu tình
Quá, hiện, vị lai tâm ba đời
Con nguyện đương lai cũng như vậy.
Phật nương tinh xá đến bờ giác
Đạt được chánh đoạn và thần túc
Bốn thứ thắng hạnh đều biết rõ
Con cúng tinh xá cũng như vậy.
Cúi xin Thắng Cao Như Lai Phật
Cùng với tất cả chúng Bí-sô
Nhận tinh xá này trong nửa tháng
Cúng dường tôn trọng thường cung kính.
Nay con ở chỗ Đức Như Lai
Thân cận cung kính cúng dường rồi
Phát tâm tịnh tín cầu xuất gia
Cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục.
Bỏ nhà xuất gia như vậy roi
Đối các lợi lạc mong cầu khắp
Nên thường tu tập thiện tương ưng
Ham thích pháp chân thật như vậy.

Khi hai đồng tử nói kệ này rồi, đồng tử Tịnh Trụ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nguyện đương lai mau chóng thành Chánh giác, phóng ánh sáng lớn như Phật Thế Tôn không khác.

Đồng tử Tịnh Trì lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con nguyện sẽ làm vị đạo sư ở nơi các đường ác hiểm nạn.

Này Xá-lợi Tử! Khi ấy, đồng tử Tịnh Trì đứng qua một bên ở trước chỗ Đức Thắng Cao Như Lai, cung kính chắp tay phát thệ: “Đối với giáo pháp của Đức Phật, con nguyện không có ngồi nằm, thường lìa ngủ nghỉ, vì lợi hữu tình, cầu đạo vô thượng, luôn luôn xa lìa tất cả biếng nhác, thà vứt bỏ tất cả thân mạng; dù máu, thịt, gân, da có khô cằn đi chăng nữa cũng lại xa lìa tất cả biếng nhác, nên phát tinh tấn dũng mãnh to lớn, cầu đạo Bồ-đề.”

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Đại Bồ-tát Tịnh Trụ vì Đại Bồ-tát Tịnh Trì mà nói kệ rằng:

Anh cùng em phát tâm bình đẳng
Tu hành hạnh Bồ-đề vô thượng
Nay anh cũng phát sức tinh tấn
Vì lợi tất cả các hữu tình,
Xa lìa các dục và thân mạng
Máu thịt khô cằn vẫn tinh tấn
Nguyện trong ngàn kiếp cố tu tập
Tinh tấn chí vui đạo Bồ-đề,
Thường nghĩ an trụ nơi đồng trống
Và thích núi rừng chỗ vắng lặng
Vì cầu vô thượng đại trí tuệ
Được tự tại trong pháp thanh tịnh.

Này Xá-lợi Tử! Trong một ngàn năm, Bồ-tát Tịnh Trì chưa có giây phút nào ngủ nghỉ và cũng chưa có giây phút nào biếng nhác, huống là có mộng tưởng. Lại nữa, trong ngàn năm Bồ-tát Tịnh Trì chưa có khi nào ngồi, trừ những lúc tiện lợi, cho đến chỉ trong một khoảng khảy móng tay cũng không quỳ gối, huống nữa là ngồi nằm. Trong một ngàn năm, hễ đến giờ ăn thì Bồ-tát cầm bát đi khất thực, đối với người cúng dường cũng không nhìn xem là nam hay nữ, là bé trai hay bé gái, hóa độ lợi ích hữu tình, tâm hành bình đẳng, khất thực rồi trở về chỗ cũ Tam quán thế gian rồi sau mới ăn, ăn rồi không ăn phi thời, không sinh một niệm tưởng đói khát, cho đến không sinh ý tưởng phân biệt ngon dở, tốt xấu. Lại trong một ngàn năm, nếu không phải thời thì không đi khất thực. Trong một ngàn năm, Bồ-tát ở dưới gốc cây, nhất tâm tinh tấn cầu đạo Bồ-đề, cũng không nhìn xem cây đó là cây gì. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát đều mặc pháp phục, chưa từng có thay đổi. Lại trong một ngàn năm, đối với các dục, Bồ-tát không khởi lên tầm từ, đối với các tổn hại cũng lại như vậy. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy đối với cha, mẹ, anh, chị, em và quyến thuộc của mình, đối với ngày tháng cũng chưa từng khởi một niệm tầm từ. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng có một niệm ham thích ở nhà cửa. Lai trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng khởi một niệm ngắm nhìn mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng dựa tường, vách mà sống. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng xoa dầu thơm vào thân. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát đối với tự thân chưa từng khởi một niệm biếng nhác. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy chưa từng khởi một niệm mệt mỏi. Lại trong một ngàn năm, cho đến dầu sữa, Bồ-tat ấy cũng không thọ nhận, chỉ thích nhất tâm, tinh tấn, cầu chứng Chánh đẳng Chánh giác. Lại trong một ngàn năm, đối với thân tâm Bồ-tát cũng không mệt mỏi biếng nhác. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát tu hạnh tinh tấn, không khởi một niệm cạo bỏ râu tóc. Lúc đó, bốn đại Thiên vương đến ở trên đảnh dùng tay rờ lên đảnh tóc tự rụng. Bốn Thiên vương lại đem tóc ấy đến nơi đất thanh tịnh xây tháp phụng thờ. Lại trong một ngàn năm, bốn đại Thiên vương biết Bồ-tát ấy luôn luôn thành tựu việc thiện. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy nếu gặp lúc thời tiết nóng nhưng vẫn nhẫn chịu không thích núp dưới bóng mát. Lại trong một ngàn năm nếu gặp lúc lạnh, Bồ-tát ấy cũng không dùng y đắp thân. Lại trong một ngàn năm, Bồ-tát ấy cũng lại không thích nói năng bàn luận với hữu tình thế gian.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó có ma vương bỗng nhiên xuất hiện, tên là Si niệm. Lúc đó, ma vương Si niệm sai các ma Ba-tuần vì hai Bồ-tát Tịnh Trụ, Tịnh Trì tạo ra rừng kiếm và cầu đường kiếm. Lúc đó, ma vương và Ba-tuần tới lui cuồng loạn rồi lớn tiếng nói:

“Nay ta tạo ra rừng kiếm này.”

Khi ma nói lơi này, trong tam thiên đại thiên thế giới, trên đến cung ma, dưới thấu địa giới, có trăm ngàn câu-chi ma vương Ba-tuần, chư Thiên quyến thuộc đều nghe tiếng đó, nên cùng đến tập hội, cũng sinh khủng bố, muốn mưu hại nhau.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó Bồ-tát nhất tâm tinh tấn an trụ không lay động.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Khi ấy Đại Bồ-tát Tịnh Trì ở nơi rừng kiếm cầu đường, cũng không kinh hành, tâm không tùy thuận. Lúc đó, chư thiên ma thét lên tiếng đại ác để khủng bố nhiễu não Bồ-tát, nhưng hai Bồ-tát Tịnh Trì và Tịnh Trụ đều không nghe biết. Lại ở trong hư không chư thiên tán thán như vầy: “Hai Bồ-tát có thể thực hành chánh hạnh đầy đủ như vậy, đại Bi như vậy, dũng mãnh như vậy, trong một ngàn năm hai Bồ-tát này chỉ chuyên chú tưởng Phật.”

Khi ấy, Đức Thắng Cao Như Lai hóa độ đã xong, nhập vào Niết-bàn. Trên hư không, chư Thiên thấy sau khi Như Lai Niết-bàn mới bảo:

–Này thiện nam! Đức Thắng Cao Như Lai đã Niết-bàn rồi.

Nghe lời ấy rồi, hai Bồ-tát liền đến chỗ Đức Thắng Cao Như Lai Niết-bàn, sắp xếp giường ghế, đến rồi chắp tay cung kính đứng qua một bên. Do lòng thương nhớ, nên hai Bồ-tát nhớ nghĩ Như Lai trong bảy ngày mắt không tạm rời, tôn trọng tán than. Lúc đó, hai Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh, thực hành hạnh Bồ-tát, lợi lạc hữu tình, như vác gánh nặng. Ngay khi ấy, hai Bồ-tát đứng trước Phật như vào Niết-bàn, sinh lên Phạm thế. Sinh Phạm thế rồi trở lại tháp của Đức Thắng Cao Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong bốn vạn năm, nhiễu quanh lễ bái phát tâm cúng dường. Lại trong bảy vạn năm cầm các loại tràng phan, bảo cái cung kính cúng dường. Lại dùng các món đồ ăn, thức thuoc, hương hoa vi diệu tối thượng cúng dường tháp miếu. Khi tuổi thọ của hai Bồ-tát ở Phạm thiên đã hết, lại hạ sinh xuống Diêm-phù-đề trong dòng Chuyển luân vương thù thắng, sinh được trí túc mạng. Khi hai Bồ-tát sinh rồi lại nói với nhau: “Phải nên siêng năng tu tập, chớ sinh buông lung.”

Khi ấy Bồ-tát nói kệ rằng:

Chúng ta sinh vào dòng vua chúa
Được đại thần thông khỏi các nạn
Nên nguyện thường hành chớ buông lung
Thân cận đại Bồ-đề vô thượng,
Tôn quý giàu sang các dục lạc
Là pháp chóng mục không thể tin
Người trí nên biết rõ như thế
Mong cầu đại Bồ-đề tối thượng.
Nếu người cầu đạo Bồ-đề này
Nên bỏ giàu có các dục lạc
Vì lợi hữu tình cầu xuất gia
Tu trì hạnh thanh tịnh tối thượng.
Thuở xưa con trong vô lượng kiếp
Cùng các hữu tình nhiều tham cầu
Đối năm dục lạc rất hừng hẫy
Cho rằng thọ dụng thường không đủ.
Nay con giác ngộ các dục lạc
Tôn quý giàu có và quyến thuộc
Thảy đều xả bỏ thệ xuất gia
Tinh tấn vì cầu đạo Bồ-đề.
Con xưa đến năm mười sáu tuổi
Rời nhà xuất gia cầu xuất ly
Cạo bỏ râu tóc mặc pháp phục
Trong ngàn năm thực hành phạm hạnh,
Cũng lại đồng thời đều nhập diệt
Rồi lại vãng sinh trời Phạm thế
Sau khi tuổi thọ Phạm thế hết
Sinh dòng thù thắng Diêm-phù-đề.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó lại có Đức Phật ra đời hiệu là Tối Thượng Dũng Mãnh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Hai Bồ-tát ấy đến chỗ của Đức Phật này, thân cận cúng dường, tôn trọng tán thán, phát lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thường mặc pháp phục, trong câu-chi kiếp tu hành phạm hạnh.

Này Xá-lợi Tử! Hai Bồ-tát ấy ở trong vô lượng đời đã từng gặp trăm ngàn chư Phật, thân cận cúng dường, ở mỗi chỗ Đức Phật đều tu phạm hạnh đầy đủ, tôn trọng, tán thán, cung kính cúng dường.

Này Xá-lợi Tử! Từ đó về sau, Bồ-tát Tịnh Trì thành qua Chánh đẳng Chánh giác trước hết, hiệu là Dũng Mãnh Tinh Tấn Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trụ the chín mươi câu-chi năm, có chín mươi câu-chi na-do-đa đại chúng Thanh văn đều đến tập hội.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, Bồ-tát Tịnh Trụ làm Chuyển luân thánh vương trong thời đức Dũng Mãnh Tinh Tấn Như Lai, ở chỗ Đức Phật ấy ton trọng tán thán, lại dùng y phục tối thượng vi diệu, đồ ăn, thức uống, ngọa cụ, thuốc thang, các món cúng dường cho Đức Phật và chúng Bí-sô ấy trong ba tháng.

Này Xá-lợi Tử! Lúc Chuyển luân thánh vương cúng dường rồi, Đức Dũng Mãnh Tinh Tấn Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, muốn Chuyển luân thánh vương sinh đại giác ngộ, nên nói kệ rằng:

Nếu hành hạnh tinh tấn tối thượng
Luôn luôn mong cầu pháp của Phật
Nếu các hữu tình đắm dục lạc
Tất cả nghĩa lợi rất khó được.
Nếu không xa lìa các dục lạc
Thì tổn tự lợi và lợi tha
Điều này phải gấp nên trừ bỏ
Mà cầu các pháp Phật tối thượng.
Nay ta khiến ngươi cũng như vậy
Thuở xưa đã từng bỏ quyến thuộc
Và phát đại thệ nguyện vô biên
Chóng cầu thành tựu quả Bồ-đề.
Ngươi đã thấy ta thành Phật đạo
Trong vườn Lộc giả chuyển pháp luân
Nếu còn sinh đắm trước các dục
Thì không thể chóng thành Bồ-đề.
Chư Phật đều nói lìa các dục
Đối pháp phóng dật không sinh lại
Người trí khéo tin theo điều đó
Thì hay xa lìa các nghiệp chướng.
Ngươi còn gánh nặng đối ác tuệ
Pháp không nghĩa lợi sao an trụ
Nếu không giác ngộ được các dục
Phật nói đều là nhân các khổ.

Khi Đức Thế Tôn ấy nói kệ rồi, Chuyển luân thánh vương sinh đại giác ngộ, liền xả bỏ tất cả đất nước, vợ, con, cha, mẹ, quyến thuộc, đại thần, nô tỳ, các nước ấp nhỏ, tất cả thứ dân, tiền tài châu báu, kho tàng ở thế gian, đứng trước Phật nói kệ rằng:

Giả sử thịt thân đều khô cằn
Cho đến chết bỏ ngoài đồng hoang
Thề bỏ đất nước các cung điện
Mong cầu Phật Bồ-đề tối thượng.
Lại nữa phát khởi đại tinh tấn
Lợi lạc tất cả các hữu tình
Ở nơi đồng hoang rất xa xăm
Bỏ nhà xuất gia thích tu hành.
Vĩnh viễn xả bỏ các dục lạc
Xa lìa tội nghiệp và si mê
Nếu còn chấp trước nơi các nhiễm
Thì là trái với đạo Bồ-đề.
Tất cả các dục và vương vị
Thệ nguyện vứt bỏ hết tất cả
Con đối với giáo pháp Thế Tôn
Nguyện thích xuất gia hành chánh hạnh.
Người trí xa lìa các cảnh dục
Chí thích tu hành đạo Bồ-đề
Nên phát tâm tinh tấn dũng mãnh
Nếu đắm tạp nhiễm trái Phật đạo.
Nay con đối với các cảnh dục
Vương vị dục lạc đã vứt bỏ
Khát ngưỡng pháp Phật cầu xuất ly
Tinh tấn nguyện mau thành Bồ-đề.

Khi Chuyển luân thánh vương nói kệ rồi, ở chỗ Đức Phật ấy thân cận cúng dường, phát lòng kính tín, bỏ nhà xuất gia, cạo bỏ râu tóc thường mặc pháp phục. Vua xuất gia rồi, đồng thời lại co sáu mươi trăm ngàn câu-chi na-do-tha người cũng phát lòng kính tín, bỏ nhà xuất gia. Khi ấy, Đức Như Lai Dũng Mãnh Tinh Tấn hóa độ đã xong, liền nhập Bát-niết-bàn. Thấy Phật diệt độ, Chuyển luân thánh vương buồn rầu áo não, gom lấy xá-lợi phụng thờ cúng dường, cúng dường rồi mạng chung sinh lên cõi trời Đâu-suất-đà. Khi thọ mạng ở cõi đó hết lại hạ sinh vào cõi Diêm-phù-đề. Lúc đó mới được thành Phật hiệu là Thiện Hạnh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trụ thế một câu-chi năm, lại có câu-chi na-do-đa đại chúng Thanh văn đến tập hội, đều là đại A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, hoàn tất việc lợi mình, tâm được tự tại, đã đến bờ giác ngộ. Lại có mười vạn chúng Đại Bồ-tát, không còn thoái chuyển, trụ địa không thoái, thệ cầu Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật ấy nói pháp giáo hóa vô lượng a-tăng-kỳ hữu tình, làm các việc thiện lợi rồi mới vào Bátniết-bàn. Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp tồn tại ở thế gian mãn một kiếp, rồi sau đó mới phân bố Xá-lợi Phật, cung kính cúng dường, cũng như sau khi ta diệt độ phân bố xá-lợi không khác.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát Tịnh Trụ thực hành hạnh Tinh tấn ba-la-mật-đa của Bồ-tát, thường luôn theo học không có biếng nhác mệt mỏi. Do thuở xưa dựa vào một loại tạo ra kho báu, hữu tình lại khởi lên ganh ghét.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát khi cầu đại Bồ-đề mà lại khởi lên ganh ghét dòng họ người khác, nên biết, lúc đó có ba thư sợ:

  1. ở chỗ phi lý mà đi khất thực.
  2. Điều không nên nói mà lại cùng nhau nói.
  3. Thấy các Bí-sô khác lại sinh ganh ghét. Do ba điều này cho nên càng tăng trưởng lỗi lầm ganh ghét. Vì lý do đó cho nên ở trong địa ngục coi như là nhà của mình. Như vậy, đối với người hành tinh tấn, cũng như người mù đối với các hiểm nạn biến địa, thọ sinh tà kiến, bị nó nhiếp thọ.

Này Xá-lợi Tử! Lại thấy các Bí-sô khác tâm sinh giận dữ không muốn nhìn, khởi tâm ganh ghét, khiến người khác phải nổi giận tranh cãi, nổi lên tướng cực ác, nói lời thô lỗ. Vì lý do đó, nên đọa vào địa ngục như nhà của mình, từ đó thọ sinh kiến lập chủng tử. Dẫu được thân người, nhưng lại sinh ra các hiểm nạn biên địa tà kiến, bị nó nhiếp thọ, tâm không thương xót, thích gây nhiều tổn hại, dối trá với người khác rất thích tùy thuận.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với chủng tộc khác sinh ra ganh ghét, thì nên nhớ nghĩ ba thứ sợ hãi như vậy.

Đức Thế Tôn vừa nói xong, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Thật hy hữu! Thưa Thế Tôn! Đại Bồ-tát mới có thể lắng nghe hành tướng của Đức Như Lai như vậy, đối với dòng họ người khác không sinh ganh ghét, đạt thiện lợi lớn nên được xuất ly.

Xá-lợi Tử nói tiếp:

–Hay thay! Thưa Thế Tôn! Các chúng Thanh văn chúng con cũng thích muốn nghe pháp yếu này. Thưa Thế Tôn! Làm thế nào để khỏi sinh ganh ghét đối với dòng họ người khác, mà được xuất ly và giải thoát địa ngục, các đường ác hiểm nạn tối tăm?

Đức Phật dạy:

–Này Xá-lợi Tử! Do không có nhân duyên nên không nói việc này.

Xá-lợi Tử thưa:

–Thưa Thế Tôn! Chúng con làm thế nào để lìa mọi phỉ báng, không sinh tà kiến, thường sinh giữa thành phố, thấy Phật nghe pháp, tu hạnh Thanh văn?

Xá-lợi Tử vừa thưa xong, Đức Phật dạy:

–Hay thay, hay thay! Này Xá-lợi Tử! Ông có thể hỏi Như Lai về pháp nghĩa như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nếu các hữu tình thích học tập theo các điển tích của ngoại đạo thế gian, thì không nên nói cho họ. Nếu hữu tình cung kính tin hiểu pháp Phật, chí thích tu học thì nên nói cho họ. Vì sao? Vì nếu người không xa lìa điển tích ngoại đạo thế tục, mà ta đem diễn nói thì đó là nền móng của đấu tranh, là nạn của Phật pháp.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát tin hiểu kiên cố, không sinh buông lung, trong nhiều kiếp tầm từ quán sát, tâm sinh cứu hộ các loài hữu tình, thì mới có khả năng đến chỗ Như Lai thưa hỏi pháp nghĩa, nghe pháp này rồi, vui thích hoan hỷ, như thuyết tu hành.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu các hữu tình tinh tấn yếu kém mà cầu Niết-bàn thì thật là khó, trái lại càng tăng thêm ba thứ lỗi lầm. Đó là lợi dưỡng, tôn trọng, danh xưng, nhưng lại ham thích bạn bè chủng tộc và các quyến thuộc, để tự nuôi sống nên thường tham cầu làm lợi bất nghĩa. Do ba việc này cho nên thường tìm cầu, không thể thoát khỏi ba đường ác. Vì tinh tấn yếu kém, nên đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Diệm-ma-la giới, chướng ngại đường sinh Thiên, lại ở trong đường ngạ quỷ, thường sinh đấu tranh.

Này Xá-lợi Tử! Các hữu tình ấy không tin thọ các thiện pháp, lại thân cận các bạn ác, không ham thích sống chỗ vắng lặng, nhưng lại thích sống nhà bạch y. Nghe các trưởng giả nói lời như vầy:

–Nếu các vị sống ở đây, tôi xin cung cấp các món ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang, thân cận cúng dường.

Lúc đó, các Bí-sô trao đổi với các trưởng giả:

–Nếu chúng ta ở đồng hoang, thì ai thân cận nay ta nên mến mộ cung kính các vị.

Các Bí-sô nhân đó càng sinh tham trước ở nhà bạch y. Ở được thời gian lâu, cùng với chủng tộc và dòng họ, sinh tham ái lẫn nhau. Bỗng nhiên có Bí-sô khác từ phương xa đến vào nơi dòng ấy. Lúc đó, các Bí-sô cũ do vì tham trước, sinh ra ganh ghét nói với Bí-sô mới đến:

–Ta vốn thanh tịnh, đa văn, đã chứng Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.

Các Bí-sô cũ buông ra những lời ác dối trá hư vọng như vậy. Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó các Bí-sô khác cũng nói như vầy:

–Tôi nay không cần ở lâu trong nhà bạch y này.

Các Bí-sô cũ cùng nhau ganh ghét làm lợi bất nghĩa.

Này Xá-lợi Tử! Lại có một hạng người đối với pháp Đại thừa buông lời gian ác, canh tranh lẫn nhau, hủy báng hành tướng như thật của các Khế kinh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Nếu ai đối với Khế kinh, thanh, danh, cú, văn, chánh pháp của Như Lai nói ra mà tạm thời nghe rồi đều được hiểu biết thù thắng, còn đối với hữu tình mà sinh hủy báng, hành tướng như vậy nhất định đọa vào đường ác.

Này Xá-lợi Tử! Lại nữa, đối với Đại Bồ-tát tinh tấn không thoái chuyển mà sinh oán ghét, hành tướng như vậy cũng đọa đường ác.

Khi nghe Đức Thế Tôn nói như thế, Xá-lợi Tử và các hữu tình không sinh ganh ghét đối với người làm thiện.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát như vậy đối với Tinh tấn ba-la-mậtđa, thực hành tinh tấn, không thoái chuyển, sinh ý tưởng cứu hộ các hữu tình. Tất cả hữu tình thường bị ba thứ bệnh thieu đốt. Đó là tham, sân, si. Ta nên đối với các hữu tình ấy đem chánh pháp của Phật tích tập hòa hợp, làm đại lương dược, chữa trị chứng bệnh tham, sân, si nhiệt não các hữu tình này. Ta cho rằng, đây là Đại Bồ-tát thực hành hạnh Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tất cả hữu tình thường sinh nhiệt não. Vì sao? Vì ba thứ bệnh độc lúc nào cũng bộc phát. Nếu sinh lên cõi trời và cõi người cho đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Diệm-ma-la giới, đều bị độc tham, sân, si thiêu đốt. Đại Bồ-tát thấy hữu tình bị nhiệt não khổ sở nên phát khởi ý tưởng cứu hộ. Lại suy nghĩ rằng, ba thứ bệnh này thuốc hay thế gian không thể trị hết, làm sao trừ được ba thứ bệnh này? Chỉ có Phật Như Lai được đại Pháp thân, là Đại y vương mới có thể cứu hộ trị liệu ba thứ bệnh nặng nhiệt não của tất cả hữu tình. Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, thân là pháp dược, là đại y vương mới có thể cứu hộ trị liệu tất cả hữu tình diệt trừ ba thứ độc nhiệt não.

Này Xá-lợi Tử! Nếu các thứ y dược ở thế gian không thể trị liệu được ba thứ bệnh độc, chỉ có Như Lai và Đại Bồ-tát làm Đại y vương thí đại pháp dược mới có thể diệt trừ ba độc nhiệt não của các hữu tình.

Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu thì Như Lai đã nói các cõi hữu tình, ý Thế Tôn nghĩ sao? Không phải như địa, thủy, hỏa, phong không giới, trong mấy giới ấy hữu tình giới là rộng vô lượng vô biên?

Đức Phật khen:

–Đúng vậy, đúng vậy! Này Xá-lợi Tử! Thật đúng như lời ông nói. Các chúng hữu tình ấy đồng phần giới, Thanh văn, Duyên giác không thể thấy, chỉ có Thiên nhãn của Phật mới có thể chiếu khắp.

Này Xá-lợi Tử! Trong tam thiên đại thiên thế giới Trời, Người, A-tu-la, cho đến vô lượng vô biên noãn, thai, thấp, hóa, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, không phải có tưởng, không phải không tưởng, kiến lập hữu tình giới như vậy, Thiên nhãn của Phật đều chiếu thấu tận. Hoặc một sát-na, hoặc một lạp-phược, một mâuhô-lật-đa, trong thời gian đó không được thân người, hôm nay mới được.

Này Xá-lợi Tử! Những người như vậy, giả sử đều như y vương Hoặc Mạng khéo trị các bệnh, muốn chữa trị tham, sân, si, các bệnh khổ nhiệt não cho một người cũng không thể được.

Lại nữa, có thể hòa hợp các thứ lương dược tối đại chất cao như núi Tu-di, để trị bệnh tham, sân, si cho một người cũng không thể được. Giả sử đều như y vương Hoặc Mạng, sống ở thế gian tuổi thọ một kiếp, giã trộn hòa hợp các đại lương dược lượng hơn Tu-di, mọi người làm cho đến khi mệt mỏi, muốn chữa trị bệnh tham, sân, si cho một người, dù chỉ hết một phần nhỏ cũng không thể được.

Này Xá-lợi Tử! Chỉ có Như Lai đầy đủ phương tiện, pháp dược thanh tịnh, mới có thể tùy theo bệnh cho thuốc chữa trị ba độc. Nếu các hữu tình có bệnh thiêu đốt nhiệt não, Như Lai vì nói pháp quán bất tịnh, hòa hợp làm thuốc. Thuốc này có khả năng trị liệu hết bệnh trong vô lượng trăm ngàn câu-chi na-do-đa a-tăng-kỳ, cho đến không thể nói hết, không thể ghi hết số hữu tình có bệnh tham nhiệt não. Lại các hữu tình có bệnh sân nhiệt não, Như Lai vì hữu tình ấy nói pháp đại Từ, hòa hợp thành thuốc. Thuốc ấy có khả năng trị liệu hết bệnh trong vô lượng, cho đến không thể nói, không thể ghi nhớ số hữu tình có bệnh sân nhiệt não. Lại các hữu tình có bệnh si nhiệt não, Đức Như Lai vì hữu tình ấy nói pháp duyên sinh, hòa hợp thành thuốc. Thuốc ấy có thể chữa trị hết bệnh trong vô lượng, cho đến không thể nói hết, không thể ghi nhớ hết số hữu tình bị bệnh si nhiệt não. Cần nên biết rõ ví dụ này. Đại Bồ-tát có thể đem pháp dược của Như Lai cứu hộ chữa trị hết bệnh vô lượng vô biên cho đến không thể nói hết, không thể ghi nhớ hết số hữu tình bị bệnh ba độc nhiệt não. Làm được như vậy là thành tựu Pháp thân của Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát trụ Pháp thân như vậy, lại nhờ sức gia trì của Pháp thân, nên khiến vô lượng vô biên, cho đến không thể nói hết, không thể ghi nhớ số hữu tình bị bệnh ba độc quấy nhiễu não hại, thảy đều trừ diệt không còn tái sinh, thảy đều trừ diệt không còn tái sinh.

Này Xá-lợi Tử! Thuở xưa ta ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, biết rõ được pháp này. Lại cũng ngay thời điểm đó có Phật ra đời, hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phat thọ ký cho ta:

–Quá vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ngươi được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.

*********

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Ta ở chỗ Đức Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, được đầy đủ Pháp thân, sinh lên cõi trời Tam thập tam, hiệu là Quang Minh Thiên tử, làm chủ Thướcca-la, có đại oai đức, đầy đủ đại thần thông, tiếng tăm vang khắp, tự tại vô ngại. Thời điểm ấy, trong châu Diêm-phù-đề có tám vạn bốn ngàn thành lớn, lại có nhiều thành ấp xóm làng. Trong các xóm làng ấy, có trăm ngàn câu-chi na-do-đa các loại hữu tình. Lại cũng trong thời điểm ấy kiếp tật bệnh nổi lên, hữu tình ác nghiệp bệnh duyên thành thục, trên thân mang đủ các chứng bệnh, nào là ghẻ lỡ, ung thư, mụt nhọt, hắt lào lan tràn, phong huỳnh đàm ấm… Lúc đó, có trăm ngàn y vương, hòa hợp lương dược trị liệu cho các hữu tình tật bệnh được thuyên giảm.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Lúc đó hữu tình không nơi nương tựa, không người cứu hộ. Người chưa hết bệnh lớn tiếng than:

–Nếu Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, La-sát bà, Nhân phi nhân có thể khiến cho tôi giải thoát tất cả bệnh khổ não thì tôi cúng dường hết tất cả tài vật, nguyện làm kẻ nô tỳ tùy ý sai sử.

Này Xá-lợi Tử! Người đời không thể thấy, còn ta dùng Thiên nhãn thanh tịnh hơn mắt người thường mới có thể thấy các hữu tình trên thân mang đủ thứ chứng bệnh: Ghẻ lỡ, ung thư, mụt nhọt, hắc lào, phong huỳnh, đàm ấm, nóng lạnh… các chứng bịch tích tập đầy dãy trên thân, ta mới có thể thấy. Người đời không thể nghe các hữu tình lớn tiếng than, còn ta dùng Thiên nhĩ thanh tịnh hơn người thường mới có thể nghe được, khởi tâm đại Bi thương xót các hữu

tình ấy. Ta suy nghĩ rằng, ta sẽ làm chỗ nương tựa cho những ai không chỗ nương tựa, cứu hộ cho những ai chưa được cứu hộ, diệt trừ bệnh cho những ai chưa hết bệnh, tất cả đều được bảo hộ an lạc.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó ta ẩn thân Thước-ca-la, cách đại thành Câu-lô không xa, bỗng nhiên hóa sinh thành tướng hữu tình, tên là Tô-mâu, vì các hữu tình có bệnh trong Diêm-phù-đề mà nói kệ rằng:

Cách thành Câu-lô không bao xa
Hoa tướng hữu tình tên Tô-mâu
Nếu ai đến xin thịt mà ăn
Thì sẽ dứt hết các bệnh tật,
Hữu tình các ngươi chớ kinh sợ
Như vậy người ăn sinh hoan hỷ
Tô-mâu không giận, sân đã trừ
Là đại lương dược châu Diêm-phù.

Này Xá-lợi Tử! Tám vạn bốn ngàn đại thành, quận, ấp, xóm, làng trong khoảng thời gian đó, tất cả hữu tình nghe tiếng này rồi, vội vã đi đến đại thành Câu-lô chỗ Tô-mâu lấy một ít thịt trên thân của Tô-mâu mà ăn. Ai nấy đều lấy nhưng thịt trên thân vẫn không tổn giảm. Lúc đó Tô-mâu nói kệ rằng:

Bồ-đề chân thật không hư dối
Đạt được vô tận trí tuệ uẩn
Lời này chân thật không dối trá
Khiến thịt thân ta cũng vô tận.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, các người bệnh trong Diêm-phù-đề, tập hợp tại chỗ Tô-mâu, mỗi người đều lấy một ít thịt trên thân của Tô-mâu mà ăn. Do trí vô tận cho nên cắt như vậy rồi, lại sinh, nhưng các chi phần trên than sinh lại rồi không có tổn giảm.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các người bệnh ăn thịt của Tô-mâu, nên được hết các bệnh, an ổn khoái lạc, không còn tật bệnh tái phát. Như vậy các người bệnh trong châu Diêm-phù thảy đều bớt bệnh, an ổn khoái lạc không còn bệnh tật tái phát.

Khi ấy, các hữu tình trong châu Diêm-phù, hoặc trai hoặc gái, bé trai, bé gái đều nói như vầy:

–Theo tôi nghĩ, sở dĩ hôm nay chúng ta đều hết bệnh an ổn khoái lạc là nhờ ăn thịt Tô-mâu, vậy nay chúng ta hãy nên thân cận cúng dường Tô-mâu.

Nói thế xong, cả chúng đồng loạt tập trung đến chỗ Tô-mâu cùng nhau vây quanh nói kệ rằng:
Ngài là chỗ nương tựa của chúng tôi
Ngài là y vương, là lương dược
Hôm nay chúng tôi phải làm gì
Nguyện xin cúng dường không xan lận.

Này Xá-lợi Tử! Lúc đó, ta biết các hữu tình được an ổn rồi liền hiện thân hình Đại Thước-ca-la, ở trước mọi người nói lời như vầy:

–Ta nay không dùng đến vương thành, quốc độ quận, ấp, xóm, làng, nhà cửa, tài vật, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách các thứ trân bảo quý đẹp, voi, ngựa, trâu, dê, xe cộ, trai, gái, bé trai, bé gái, nô tỳ hầu hạ, đồ ăn thức uống, y phục, giường nằm ngọa cụ, thuốc thang các vật dụng, vườn rừng, ao tắm, các thứ đẹp đẽ như vậy ta đều không dùng. Ta chỉ dạy dỗ các ngươi nên chấm dứt sát sinh, trọn đời không nên giết hại, nên chấm dứt trộm cắp, mãi mãi không trộm cắp; nên đoạn tà dục và mãi mãi không tà dục; nên đoạn nói dối và trọn đời không nói dối; nên đoạn hai lưỡi, trọn đời không nói hai lưỡi; nên đoạn nói lời thêu dệt và trọn đời không nói thêu dệt. Nói tóm lại, nên đoạn ác khẩu, tham, sân, tà kiến, trọn đời không nên tái phạm.

Lúc đó Đại Thước-ca-la vì mọi người nói kệ rằng:

Đa câu-chi số các tài bảo
Chất cao cũng như núi Tu-di
Ăn uống, y phục, Thiên nữ đẹp
Các thứ như vậy ta không dùng.
Nếu ngươi cúng dường các thứ ấy
Không bằng tu tập mười điều thiện
Mỗi mỗi đều khởi tâm Từ bi
Bất cứ lúc nào cũng thủ hộ.
Bồ-tát không thích các tài lợi
Chỉ hay hộ trì mười nghiệp thiện
Các ngươi nếu cùng nhau tu hành
Thì đó chính là châ cúng dường.
Ăn uống, y phục và ngọa cụ
Voi ngựa xe cộ các trân báu
Như vậy cho đến Thiên nữ đẹp
Tất cả thứ ấy ta không nhận.
Các ngươi nghe ta nói chân thật
Nên tu mười thiện nghiệp thanh tịnh
Cùng nhau phát khởi tâm Từ bi
Đối tất cả chỗ thường thủ hộ
Nếu hay nhiếp thọ pháp như vậy
Thì mười thiện nghiệp luôn thanh tịnh.

Đức Thế Tôn nói kệ rồi, bảo Xá-lợi Tử:

–Này Xá-lợi Tử! Lúc đó ta ở trong đại chúng giảng nói pháp yếu, thanh tịnh không xen tạp, chỉ dạy lợi ích an vui. Lúc ta nói pháp này rồi, ẩn thân không hiện. Lúc đó, trai, gái, bé trai, bé gái ở trong Diêm-phù-đề nhờ ăn thịt Tô-mâu, nên đến khi mạng chung không có một người nào đọa vào đường ác, cùng lúc đều được sinh lên cõi trời Tam thập tam, ở trong chúng vi diệu, thọ các khoái lạc.

Này Xá-lợi Tử! Những người được sinh lên các cõi trời ấy nghe pháp này rồi, chỉ dạy được lợi ích an vui, hiểu biết ba thừa một cách chắc chắn. Ba thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Vô thượng nhất thiết trí thừa. Ở trong chúng có người sẽ nhập Niết-bàn, chưa nhập Niết-bàn, hiện nhập Niết-bàn.

Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Này Xá-lợi Tử! Ông quán Đại Bồ-tát an trụ Pháp thân, sao gọi là được đại thần thông, đầy đủ đại oai đức, danh xưng vang lừng? Lúc đó chỉ có một mình ta có khả năng xả thân mạng thành thục tất cả hữu tình ba thừa Niết-bàn.

Đức Phật vừa nói xong, Tôn giả Xá-lợi Tử bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ-tát đầy đủ Pháp thân?

Phật bảo Xá-lợi Tử:

–Này Xá-lợi Tử! Pháp thân của Đại Bồ-tát kiên cố cũng như kim cang không thể phá hoại, thù thắng vi diệu, chân thật không sinh diệt.

Lại nữa, Pháp thân vì độ hữu tình không tiếc thân mạng. Vì lý do đó cho nên lửa không thể thiêu, vật không thể hoại, lại kiên cố như kim cang không thể phá hoại.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển, như vậy là an trụ Pháp thân đầy đủ, thành thục hữu tình, không tiếc thân mạng, cũng không ngôn thuyết phân biệt biến kế. Lại biết thân này cũng như hư không, lìa các tướng. Do thân lìa tướng cho nên có thể hiểu rõ tất cả các pháp, lìa các tướng. Do lìa các tướng cho nên không phân biệt là thân là pháp. Nếu đối với tướng thì thân đã lìa tướng; đối với tất cả pháp cũng lại như vậy. Nếu tự thân lìa được một tướng, thì có thể hiểu rõ tất cả hữu tình thân lìa tướng. Vì pháp giới lìa tướng cho nên đối với tất cả pháp lìa tướng. Nên học như vậy, cho đến một pháp rất nhỏ cũng không thể được. Do tất cả hữu tình thân chân như cho nên có thể hiểu rõ tất cả hữu tình thân chân như. Do tất cả hữu tình thân chân như, cho nên có thể hiểu rõ tự thân chân như. Do tự thân chân như, cho nên có thể hiểu rõ tất cả pháp chân như. Do tất cả pháp chân như, cho nên có thể hiểu rõ tự thân chân như. Do tự thân chân như, cho nên biết rõ chư Phật chân như. Do tất cả chư Phật chân như, cho nên thông đạt tự thân chân như. Do tự thân chân như nên hiểu rõ quá khứ, vị lai, hiện tại chan như. Do quá khứ, vị lai, hiện tại chân như, cho nên hiểu rõ tự thân chân như. Lại quá khứ chân như cùng với vị lai chân như không trái nhau. Quá khứ chân như cùng với hiện tại chân như cũng không trái nhau. Hiện tại chân như cùng quá khứ chân như không trái nhau. Vị lai chân như cùng quá khứ chân như cũng không trái nhau. Lại quá khứ chân như cùng vị lai chân như không trái nhau. Vị lai chân như cùng hiện tại chân như cũng không trái nhau. Hiện tại chân như cùng vị lai chân như không trái nhau. Vị lai chân như cùng hiện tại chân như cũng không trái nhau. Do hiện tại chân như cùng quá khứ chân như cũng không trái nhau. Do quá khứ chân như cùng hiện tại chân như cũng không trái nhau. Lại quá khứ chân như cùng vị lai chân như, hiện tại chân như cũng lại như vậy. Lại uẩn, xứ, giới chân như kia, uẩn, xứ, giới chân như này; nhiễm tịnh chân như kia, nhiễm tịnh chân như này; Niết-bàn luân hồi chân như kia, Niết-bàn luân hồi chân như này; hành chân như kia, hành chân như này, tất cả hành chân như cũng lại như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Như đã nói không có sai khác, không phải xa lìa, không phải hình tượng, cho đến chân như không có tướng nhỏ nào. Vì sao? Vì chân như không tướng thuyết này, tức là tướng Như Lai. Như vậy là nhiếp thọ nhân quả chân như. Thuyết này cũng là tướng của Như Lai. Bồ-tát thấy các tướng như vậy, không có tạo tác, tức là tướng Như Lai. Cái thấy ấy không phải tranh cãi, tất cả sắc tướng không có lay động, tức là tướng Như Lai, không phải là trí chân như.

Làm thế nào để quán sát thân Như Lai? Nên bình đẳng quán sat thân Như Lai, tức là tự thân bình đẳng. Do tự thân bình đẳng quán sát, nên tất cả thân không phải thân bình đẳng. Do tất cả thân không phải thân bình đẳng quán sát, cho nên đối với thân này có thể quán sát. Thế nên biết rõ, tất cả thân tướng đều từ duyên sinh. Biết điều đó rồi, Pháp thân quyết định không thể phá hoại, đối với Pháp thân cũng lại như vậy. Khi đạt được Pháp thân như vậy rồi thì mới có khả năng phân biệt rõ không phải uẩn, xứ, giới. Đối với các hữu tình thấy nghe hay biết thì mới có thể hóa độ làm các nghĩa lợi.

Này Xá-lợi Tử! Ví như y vương Hoặc Mạng tích tập hòa hợp các loại thuốc hay rồi ban cho các người bệnh. Ông ta còn tao ra đồng nữ sắc tướng thù thắng vi diệu, cũng như ao hồ thanh tịnh tối thượng, trang nghiêm đầy đủ an trụ hết sức vi diệu, thời phi thời đi đứng ngồi nằm, lại còn có thể làm các sự nghiệp thù thắng vi diệu. Lúc đó, co cư sĩ trưởng giả dòng họ to lớn tối thắng tối thượng, đến thấy đồng nữ được làm bằng thuốc. Khi ấy y vương Hoặc Mạng ban khắp cho mọi người sờ vào. Các người bệnh mỗi khi rờ vào đều được khoái lạc khinh an không còn bệnh tật sầu não.

Này Xá-lợi Tử! Nên biết, chỉ có một y vương Hoặc Mạng mới có thể khiến hữu tình trừ hết bệnh tật, còn các thầy thuốc khác không thể trị hết.

Này Xá-lợi Tử! Biết rõ Pháp thân của Đại Bồ-tát cũng lại như vậy. Cho đến hữu tình trai, gái, bé trai, bé gái bị tham sân si thiêu đốt, Bồ-tát rờ khắp thân các hữu tình có bệnh này đều được hết bệnh, xa lìa tất cả nhiệt não. Bồ-tát đạt được như vậy là nhờ nguyện lực thuở xưa thanh tịnh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát không vì các việc ăn uống tài vật nuôi dưỡng thân này, mà đối với Pháp thân tất cả việc lấy bỏ thảy đều thông đạt. Nhưng vì thương xót hữu tình mà nhận lấy ăn uống, đối với thân mạng cũng không xả bỏ, đối với sức Pháp thân cũng không lấy bỏ, cũng không tổn giảm.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát đối với Pháp thân không sinh không diệt, nhưng vì thị hiện nên có sinh có diet. Lại có thể thành thục hữu tình, đối các hành pháp biết rõ sinh diệt; lại biết các pháp cũng không hợp tập, chỗ sinh chỗ diệt thảy đều biết rõ. Đối với Pháp thân, pháp thực, pháp lực, pháp thường y chỉ, tâm không biểu hiện. Đây là nguyện lực thuở xưa thành thục hữu tình Tinh tấn ba-lamật-đa không thoái chuyển.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Nay mới được thành thân Kim cang
Không hoại, không tan Phật biết rõ
Dao không tổn thương, lửa không đốt
Độ hết hữu tình đều thoát khỏi,
Độ thoát hữu tình lửa dữ hại
Nếu được thuốc mát mẻ tối thượng
Hữu tình thấy biết như vậy rồi
Lại như ăn được các món ngon,
Cho đến pháp giới không phân biệt
Chỉ một Pháp thân không thân khác
Không nhân, không ngã, không nho đồng
Thông đạt các pháp do duyên sinh.
Quán sát như thực hành khổ hạnh
Vì duyên chấm dứt nên khổ đoạn
Sắc uẩn không cứng như bọt nước
Thọ uẩn cũng như bong bóng nước
Tưởng như khát ái thấy sóng nắng
Quán hành như cây chuối không thật
Lại như huyễn hóa các kỹ nghệ
Trong mỗi sát-na đều lìa tướng.
Những người có trí đã thí nguyện
Rõ thức tạo tác không chắc thật
Các thứ đồ dùng như điện chớp
Như dòng thác đổ từ núi cao,
Tài dục cũng giống như hình bóng
Nhanh chóng còn nhanh hơn tên bắn
Biết rõ biến đổi như mây trôi
Các bậc có trí không ham thích.
Không ở trong trời, người, ba cõi
Thọ dụng ăn uống các thú vui
Sau đọa vào địa ngục cực khổ
Thấy rồi không thích ở cõi trời,
Không chỗ nương tựa như bàng sinh
Người này nương tựa lìa sinh tử
Bồ-tát sẽ được đại Pháp thân
Dẫu có thành hoại không sinh diệt.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn ba-lamật-đa không thoái chuyển. Nên học như vậy. Thế gian đầy dẫy các pháp bất thiện, pháp đối trị cũng lại như vậy, nhưng hữu tình lại không biết. Hữu tình thế gian có ba chứng bệnh nặng đó là: Tham, sân, si. Ba thứ bệnh nặng này hữu tình không thể biết rõ. Ba thứ bệnh nặng này có ba loại thuốc hay để chữa trị; nhưng hữu tình cũng không biết. Nếu người bệnh tham thì dùng thuốc quán bất tịnh để chữa trị. Người bệnh sân thì dùng thuốc quán từ bi để chữa trị. Người bệnh si thì dùng thuốc quán duyên khởi để chữa trị. Ba loại thuốc hay nay các hữu tình không thể biết. Nếu như có thuốc của y vương để chữa trị tật bệnh, thì chỉ trị bớt tạm thời, chứ không thể trị hết hẳn, không thể trị hết tất cả bệnh. Các người có trí không nên tùy thuận tu học như vậy, mà phải nên học pháp đối trị của Thế Tôn, làm đại y vương thông đạt tất cả thiện pháp vô thượng, khiến các người bệnh dứt sạch các bệnh, đó mới là cứu cánh. Còn đối với các y vương thế gian, dù chỉ một phần nhỏ cũng không nên theo học. Phải nên tích tập giã, rây, sàng, sảy, hòa hợp pháp dược tối thượng, nếu nghe tiếng rồi thì cả bệnh nặng tham, sân, si thảy đều tiêu trừ.

Này Xá-lợi Tử! Đây gọi là Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn bala-mật-đa không thoái chuyển. Phương thức tích tập giã, rây, sàng, sảy hòa hợp đại pháp dược như vậy. Các Thanh văn Duyên giác đều không thể làm được, chỉ có Như Lai Vô Thượng Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, là Đại y vương, gom các thiện căn, giã, rây, sàng sảy hòa hợp làm đại pháp dược, thổi pháp loa lớn, phát ra âm thanh sâu xa vi diệu, khiến cho vô lượng vô biên trăm ngàn câu-chi na-dođa căm-yết-la tam thiên đại thiên thế giới thảy đều nghe biết. Nói tóm lại, pháp dược ấy có khả năng trị hết tất cả đại bệnh tham, sân, si của vô số hữu tình, số lượng này nhiều không thể nói hết, không thể nói hết.

Này Xá-lợi Tử! Ví như trong rừng Tuyết sơn có cây đại dược thọ vương tên là “Lìa các độc”, nó có khả năng khiến vô số hữu tình khi ngửi được mùi hương của nó thảy đều hết bệnh.

Này Xá-lợi Tử! Dùng cây đại dược thọ vương “Lìa các độc” bôi lên loa, trống rồi thổi, đánh lên thì làm cho các hữu tình đã bị trúng độc thuốc độc, khí độc và tất cả độc, hễ ai nghe được tiếng này đều được trừ hết các độc.

Này Xá-lợi Tử! Cây đại dược thọ vương “Lìa các độc” này, tất cả thầy thuốc đều không thể biết, chỉ có y vương Hoặc Mạng mới có thể biết.

Này Xá-lợi Tử! Nếu đối với đại chánh pháp dược của Đại Bồtát mà có khả năng tích tập giã, rây, sàng, sảy hòa hợp thì chỉ có Như Lai mới có thể có, còn Thanh văn, Duyên giác không thể có được. Như Lai thông đạt tất cả thiện pháp, làm Đại y vương, có năng lực làm dứt hết các bệnh của tất cả hữu tình. Đối với pháp dược này có khả năng tích tập, giã, rây, sàng, sảy, hòa hợp, thổi pháp loa lớn phát ra âm thanh vi diệu sâu xa, khiến cho vô lượng vô biên trăm ngàn câu-chi na-do-đa căm-yết-la tam thiên đại thiên thế giới đều được nghe. Nói tóm lại, vô số hữu tình không thể nói hết, không thể nói hết, khi nghe được tiếng này rồi tất cả bệnh nặng tham, sân, si đều trừ sạch.

Sao gọi là Đại Bồ-tát tích tập pháp tài? Ở chỗ nào có thể dụng thí? Nếu Đại Bồ-tát dụng thí pháp tài thì chỉ có tích tập chánh pháp tạng của Bồ-tát.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa không thoái chuyển, đối với chánh pháp tạng Bồ-tát thọ trì đọc tụng, giải nói nghĩa ấy, hoặc tự chép, hoặc dạy người chép, cho đến diễn nói rộng rãi cho mọi người. Nên học như vậy.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Thời quá khứ lần lượt như vậy rộng lớn không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp. Lúc đó có Phật hiệu Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha Tam-miệu Tamphật-đà. Trong hội Phật ấy có tám mươi câu-chi chúng đại Thanh văn đến tập hoi, đều là A-la-hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, tâm được tự tại, đến bờ giác ngộ. Thọ mạng của Đức Phật ấy là tám vạn năm, chánh pháp tồn tại thế gian đủ năm trăm năm, tượng pháp cũng vậy. Sau khi Đức Phật Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai Niết-bàn, có xá-lợi cũng như sau khi ta diệt độ không khác.

Này Xá-lợi Tử! Lúc Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai nhập Niết-bàn rồi, sau một trăm năm, có Bồ-tát diệt độ từ phương khác sinh đến vương gia. Lúc đó đứa bé nói với mẹ:

–Nay vì duyên gì mà con sinh trong dòng họ phi pháp này. Nay con vẫn nương tựa vào hạnh chánh pháp mà tu hành. Vì lý do đó nên gọi là Chánh pháp hạnh.

*********

Này Xá-lợi Tử! Vì muốn thành thục thiện căn cho nên suốt hai mươi năm, đồng tử phát lòng tin thanh tịnh đối với chánh pháp hạnh, bỏ nhà xuất gia thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc, hoặc ở A-lannhã, hoặc ngồi thiền dưới gốc cây. Lúc đó, trong hư không có các Hiền thánh đến chỉ dạy nghĩa lợi, bảo Bí-sô rằng:

–Thầy đối với chánh pháp tạng của Bồ-tát được hạnh tinh tấn không thoái chuyển, có danh tiếng lớn, sẽ được thành Phật.

Bí-sô nghe tiếng của Hiền thánh rồi sinh đại hoan hỷ thật chưa từng có. Cho đến tất cả nhân dân trong thành, ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung, khắp tất cả mọi nơi đều tìm cầu chánh pháp Bồ-tát tạng.

Lại nữa, Bí-sô đến Tăng-già-lam cung kính đảnh lễ thăm hỏi chúng Bí-sô và Bí-sô-ni rồi thưa:

–Sao gọi là chánh pháp Bồ-tát tạng? Bồ-tát đối với A-xà-lê và pháp Phật làm sao thừa sự thân cận tu học? Tôi nay muốn ở chỗ Tôn giả mà tìm cầu chánh pháp Bồ-tát tạng, hoặc danh hoặc tự đều đến lắng nghe.

Nghe Bí-sô hỏi thế, chúng Bí-sô trả lời:

–Này Bí-sô! Điều đó chúng tôi không biết.

Bí-sô lại thiết nghĩ: “Như vậy lời nói của Hiền thánh không có hư vọng, tôi chưa từng nghe chánh pháp Bồ-tát tạng, đối với tinh tấn không thoái chuyển làm sao mà thực hành?” Nghĩ thế rồi, Bí-sô chuyển sang hỏi:

–Thưa Tôn giả Cụ thọ! Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai hiện ở phương nào? Cúi xin chỉ giúp cho!

Các Bí-sô kia trả lời:

–Này Bí-sô! Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai hiện ở phương này.

Nghe thế, Bí-sô liền đến chỗ Đức Phật theo sự hướng dẫn đó. Đến rồi nhiễu quanh bên phải ba vòng, đảnh lễ sát chan rồi đứng dậy thưa:

–Thưa Thế Tôn! Nay con ngồi kiết già nơi đây, nếu không nghe được chánh pháp Bồ-tát tạng từ nơi Đức Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai thì thề không ngồi dậy.

Này Xá-lợi Tử! Trong bảy ngày bảy đêm Bí-sô này tinh tấn không thoái chuyển. Kiên cố như vậy quá bảy ngày bảy đêm, nhờ thần lực của Phật nên thấy thế giới phương Đông Bảo Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác nghe Đức Thế Tôn ấy khai diễn tám thứ pháp môn. Tám pháp môn này có khả năng tùy thuận tu học chánh pháp Bồ-tát tạng. Lúc đó, Bí-sô nghe đầy đủ tám pháp chẳng thể nghĩ bàn này không có gì hơn được, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, Bí-sô có thể khai diễn hạnh tinh tấn không thoái chuyển. Lại ở trong thành, ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung trọn sáu mươi năm giáo hóa vô lượng vô biên trời, người trụ trong ba thừa. Lúc Bí-sô sắp lâm chung lại phát nguyện:

–Sau khi tôi viên tịch sẽ sinh vào các cõi Phật, ở cõi Phật diẹt rồi, sinh vào Diêm-phù-đề trong dòng họ trưởng giả, sinh rồi phát lời nguyện tu hành chánh pháp hạnh.

Vì lý do đó cho nên đồng với tên thuở xưa là Chánh pháp hạnh, phát lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc. Xuất gia chưa bao lâu hiện tiền an trụ chánh pháp Bồ-tát tạng, trong sáu vạn năm khai diễn chánh pháp hạnh Bồ-tát tạng khắp cả thành ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung; giáo hóa vô lượng vô biên trời, người; thành thục ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Vô thượng Đại thừa. Khi sắp lâm chung lại phát thệ:

–Nhờ nguyện lực này được làm người trong châu Diêm-phùđề, sinh trong dòng vua chúa. Sinh ra trong sát-na, trong hư không có tiếng Hiền thánh bảo rằng: Cõi hữu tình của ngươi vượt hơn các pháp, vì lý do đó cho nên đặt tên là “Siêu vượt hơn các pháp”. Thành thục hữu tình, đến năm hai mươi tuổi phát sinh lòng tin chân chánh, rời nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc, vượt hơn các pháp chánh niệm duyên lực, hiện tiền an trụ chánh pháp Bồ-tát tạng.

Này Xá-lơi Tử! Bí-sô vượt hơn các pháp này đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, đoạn các nghi hoặc, đi khắp thành ấp, xóm làng, quốc độ, vương cung, khai diễn chánh pháp, hơn sáu vạn năm, khiến vô lượng vô biên trời, người, A-tu-la phát tâm Chánh đẳng Chánh giác. Khi Bí-sô sắp lâm chung lại phát thệ rằng:

–Được làm thân người, sinh vào dòng họ trưởng giả đại Bà-lamôn trong châu Diêm-phù-đề. Sinh ra trong khoảng sát-na, giữa hư không có tiếng Thánh hiền bảo: Hữu tình giới của ngươi được chánh niệm, cho nên đặt tên là “Được chánh niệm”, thành thục hữu tình.

Đến năm hai mươi tuổi phát sinh lòng tin chân chánh, rời nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc. Do thuở xưa suy nghĩ như thật cho nên thành tựu đa văn tối thượng tối thắng. Trong sáu mươi năm thuyết pháp giáo hóa, đến các thành, ấp, xóm, làng, quốc độ, vương cung khiến các hữu tình đối với chánh pháp Bồ-tát tạng có khả năng khai diễn đoạn các nghi hoặc. Lại giáo hóa quá hơn số đó nữa, giáo hóa đến bốn câu-chi trời, người, A-tu-la… thành thục ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Vô thượng trí Phật thừa.

Này Xá-lợi Tử! Bí-sô Chánh pháp hạnh này phát nguyện ấy rồi liền mạng chung, sinh vào trong cõi Phật Bảo Tạng Như Lai thuở xưa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khiến sáu mươi câu-chi trời, người, A-tu-la… đều được viên mãn thành thục ba thừa.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát ấy ở trong cõi Phật Bảo Tạng Như Lai không có gián cách, đạt được đa văn, đầy đủ tối thượng tối thắng chẳng thể nghĩ bàn. Sau khi mạng chung được sinh vào dòng họ vua chúa trong thế giới Liên Hoa Siêu Thắng Như Lai. Thuở xưa giáo hóa sáu mươi câu-chi trời, người A-tu-la… đồng sinh ra đều làm quyến thuộc. Lúc đó có Đức Phật ra đời hiệu là Tối Thượng Hạnh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, tuổi thọ của Đức Phật ấy đủ tám mươi câu-chi năm tuổi thọ của nhân dân nước đó cũng lại như vậy. Đức Phật ấy có tám mươi câu-chi đại chúng Thanh văn cùng đến tập hội, đều là A-la-hán. Mỗi một Thanh văn đều có tám mươi câu-chi đại chúng Thanh văn, đồng là đại A-la-hán thanh tịnh. Lúc đó có đồng tử Dũng Mãnh Thọ Vương đa văn, thành tựu trí tuệ, thông đạt sáng suốt đồng tử cùng với quyến thuộc tám mươi câu-chi người, đồng thời đến chỗ Tối Thượng Hạnh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác; đến rồi đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh Đức Thế Tôn rồi đứng qua một bên. Lúc đó, Tối Thượng Hạnh Như Lai biết được tâm niệm nhân duyên thuở xưa của đồng tử nên liền nói pháp.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo:

–Này Xá-lợi Tử! Đồng tử Dũng Mãnh Thọ Vương nghe được hạnh tu hành thuở xưa như vậy rất sinh hoan hỷ, cùng với tám mươi câu-chi quyến thuộc đồng phát lòng tin thanh tịnh, bỏ nhà xuất gia, thành tướng Bí-sô, thọ giới Cụ túc, trọn đời tu hành phạm hạnh cầu đạo Bồ-đề.

Lúc đó, Đức Tối Thượng Như Lai bảo đại chúng:

–Này đại chúng! Sau khi ta diệt độ Đại Bồ-tát Dũng Mãnh Thọ Vương này sẽ thành Phật xuất hiện thế gian hiệu là Đại Tinh Tấn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi đức Tối Thượng Như Lai Niết-bàn, Dũng Mãnh Thọ Vương cúng dường Xálợi rồi thọ trì Chánh pháp, sau đó chứng quả Chánh đẳng Chánh giác.

Này Xá-lợi Tử! Tuổi thọ của Đại Tinh Tấn Như Lai là nửa kiếp; có vô lượng đại chúng Thanh văn, mỗi một Thanh văn đều có hai mươi na-do-đa đại Thanh văn chúng đều là đại A-la-hán thanh tịnh cùng đến tập hội.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát tinh tấn không thoái chuyển này thực hành Tinh tấn ba-la-mật-đa; đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, nghe rồi lần lượt thọ trì đọc tụng, rồi đem diễn giảng cho mọi người, cho đến sinh vào thế giới Tinh Tấn Như Lai.

Này Xá-lợi Tử! Nếu thiện nam, thiện nữ nào an trụ Đại thừa

thì mau chóng chứng quả Chánh đẳng Chánh giác, tinh tấn không lui sụt đối với chánh pháp Bồ-tát tạng quyết định lắng nghe thọ trì đọc tụng, cho đến diễn nói cho mọi người. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì các Đại Bồ-tát có khả năng đối với chánh pháp Bồ-tát tạng, tinh tấn cần cầu hạnh tinh tấn không thoái chuyển như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Đây là Đại Bồ-tát Tinh tấn ba-la-mật-đa.