SỐ 202
KINH HIỀN NGU
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, xứ Kinh châu, quận Cao xương,
Sa-môn Tuệ Giác và các vị khác cùng dịch.

Việt dịch:  Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

 

QUYỂN 2

Phẩm 8: NÀNG KIM CƯƠNG, CON GÁI VUA BA-TƯ- NẶC

Tôi nghe như thế này:

Một thời Đức Thế Tôn trú tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ vua Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi sinh được một người con gái đặt tên là Ba-xà-la (đời Tấn dịch là Kim Cương). Người con gái này diện mạo xấu xí, da dẻ thô ráp giống như da ngựa, tóc mọc trên đầu cứng tựa lông đuôi ngựa. Vua thấy người con gái như vậy, không một chút vui, liền bảo người trong cung, giữ gìn cẩn mật không để cho người ngoài thấy biết. Con gái hình thù tuy xấu xí không giống người bình thường, nhưng do phu nhân Mạt-lợi sinh ra, mặc dầu xấu xí như thế nhưng vua cũng ngầm sai người lo nuôi dưỡng đàng hoàng. Khi đã đến tuổi trưởng thành, thành lập gia thất, vua lại buồn rầu không tìm ra cách, liền sai bảo một vị quan:

– Khanh đi vào đám dân thường tìm một người con trai nghèo khổ mà đàng hoàng gọi về đây cho ta. Vị quan này sau khi nghe lời sai bảo liền ra đi khắp nơi để tìm một người như vậy và gọi cậu ta về chỗ vua. Nhà vua đưa cậu ta đến một nơi chỉ rõ sự tình và nói:

– Ta có một người con gái, diện mạo xấu xí, muốn tìm nơi cướ gả, mà chưa được đáp ứng, nghe khanh con nhà đàng hoàng, dầu cho gia đình nghèo khổ nhưng ta sẽ chu cấp đầy đủ, mong người không trái ý của ta và lấy con gái ta làm vợ.

Bấy giờ, cậu ta quỳ xuống tâu:

– Con xin tuân theo sắc chỉ của vua, nay đại vương có ban cho con một con chó nhỏ, con cũng không dám trái ý, huống nữa đây là con gái của vua đã đem ban tặng cho con, con xin ưng thuận.  Nhà vua đem người con gái gả cho người con trai bần hàn đó và cho xây cung điện nhà cửa, lầu gác có bảy lớp cửa và bảo chàng rể khóa cửa cẩn thận. Vua căn dặn:

– Nếu mỗi lần muốn đi ra ngoài thì phải đóng cửa lại, vì con gái của ta xấu xí thậm tệ chớ để cho người ngoài thấy được diện mạo của nó. Chàng ta luôn luôn để vợ trong cung cấm và khóa cửa thật kỹ. Từ đó vua cung cấp của cải cho hai vợ chồng đầy đủ không thiếu vật gì. Nhà vua ban cho chức quan đại thần, người đó trở nên giàu có sung túc. Hàng tháng có tổ chức yến tiệc, chàng phò mã cùng đi dự với các nhà hào tộc phú quý, khi đến dự ai cũng cùng vợ cùng chồng nam nữ chung vui, mọi người đến dự hội ai cũng mang theo vợ, riêng quan đại thần đó luôn đi một mình, mọi người lấy làm lạ, thắc mắc: ‘Vợ của người kia hoặc quá đoan trang thuần thục, tuyệt sắc giai nhân hoặc là quá xấu xí thậm tệ nên không dám xuất hiện giữa đám đông. Nay chúng ta tìm cách đến xem người vợ của ông ta thật hư thế nào?’ Mọi người cùng nhau bàn kế, phục rượu cho ông ta uống thật say, lén lấy chìa khóa, liền bảo năm người đến nhà của vợ chồng kia mở khóa vào nhà. Cùng thời gian đó, người phụ nữ kia âu sầu áo não, tự trách tội lỗi của mình, thầm nhủ: “Ta mắc phải tội gì mà chồng con oán ghét, cứ bị giam giữ trong nhà, tối tăm mù mịt không thấy trời trăng và bóng dáng con người.” Kim Cương liền nghĩ ra, hiện tại Đức Phật đang còn tại thế, cứu giúp quần sinh thoát khỏi khổ ách, tất cả đều được Ngài cứu độ. Bà liền chí thành khẩn thiết, hướng về và đảnh lễ Thế Tôn, cúi mong Đức Thế Tôn thương xót hiện đến tư gia để được nghe giáo huấn. Do tâm nhiệt thành, cung kính thuần nhất, Đức Phật biết được chí nguyện của bà, Ngài liền hiện đến trước mặt. Trước hết Ngài hiện mái tóc đẹp cho bà thấy, vừa mới ngước mắt lên nhìn thấy mái tóc đẹp của Phật. Bà rất hoan hỷ, hoan hỷ một cách cung kính hết mực, từ sự giao cảm nhiệm mầu đó nên tóc trên đầu bà trở nên mềm mại, mượt mà, màu sắc đen huyền. Rồi đến Ngài hiện lên khuôn mặt, bà thấy và tâm rất hoan hỷ, liền khi ấy mặt trở nên đoan chánh, những dị tướng và sắc da xù xì tự nhiên biến mất. Tiếp đến Ngài hiện tướng thân từ eo lưng trở lên, sắc vàng rực chiếu như ánh sáng mặt trời, bà nhìn thấy thân của Phật như vậy, niềm hoan hỷ tăng thêm, nhờ vậy năng lực từ tâm hoan hỷ đó mà tướng xấu trên người biến mất, thân thể cân đối  đoan nghiêm, giống như Thiên nữ, sắc đẹp hơn đời không ai sánh kịp. Đức Phật vận dụng từ tâm cho bà thấy toàn thân, bà quan sát kỹ lưỡng mắt không rời xa, từ đó tâm rất hoan hỷ hạnh phúc không gì sánh được, khi ấy toàn thân đều khác, đoan chánh, tướng tốt phi phàm, trong đời hiếm có, tất cả những gì xấu xí đều biến mất hết.

Sau đó Đức Phật thuyết pháp cho bà nghe, tất cả các niệm ác đều được đoạn diệt, liền sau đó bà đắc đạo quả Tu-đà-hoàn, Đức Phật dùng thần thông trở về tinh xá. Năm người kia mở cửa vào nhà, thấy người phụ nữ kia thân thể đoan chánh, sắc đẹp vô song, họ bảo nhau rằng:

– Thật là quái lạ! Người này chưa hề đi đâu, đoan chánh tuyệt vời! Sau khi quan sát xong, năm người đóng cửa lại trở về và trả lại chìa khóa vào túi của phò mã. Đến khi tỉnh rượu, tiệc xong trở về nhà, vào thấy một người phụ nữ thân hình đoan chánh, sắc đẹp kỳ tuyệt, dung mạo lạ thường, người đời hiếm có. Thấy vậy trong lòng hân hoan, ông liền hỏi:

– Nàng là ai?

Người vợ đáp:

– Thiếp là vợ của chàng.

Người chồng thắc mắc hỏi:

– Em trước đây không đẹp lắm mà nay do nhờ nhân duyên nào mà được sắc đẹp hơn xưa như vậy?

Người vợ trình bày sự việc đã xảy ra như thế với người chồng, nhờ ân Đức Phật mà được như thế này và nói với chồng:

– Em muốn chúng ta đồng đi yết kiến phụ vương.

Người chồng đồng ý, liền đi đến vua cha thưa:

– Vợ con muốn đến để yết kiến phụ vương.

Vua nói với người con rể:

– Sao nói vậy được, hãy mau đóng cửa lại cẩn thận không cho ra ngoài. Người con rể thưa:

– Sở dĩ có việc như ngày hôm nay là nhờ hồng ân của Đức Phật, nên thân hình vợ con mới được đoan chánh như Thiên nữ không khác. Sau khi vua nghe chàng rể trình bày xong, vua phán:

– Vậy thì mau đem ái nữ của ta đến đây. Vua liền cho xa giá nghênh đón ái nữ vào cung. Vua thấy thân  hình ái nữ đoan chánh đặc thù nên hoan hỷ vô cùng, liền ra lệnh sửa soạn xa giá vua phu nhân, ái nữ cùng phò mã đi đến chỗ Phật, lễ Phật xong liền đứng một bên. Khi ấy vua Ba-tư-nặc quỳ xuống bạch Phật:

– Bạch Đức Thế Tôn, không rõ con gái trẫm do phước đức ngày trước như thế nào mà được sinh vào gia đình giàu sang phú quý và do tạo tội lỗi gì mà lại mang thân hình xấu xí, da tóc thô cứng giống như súc sinh? Cúi mong Thế Tôn chỉ bảo cho chúng con được rõ.

Đức Phật khai thị cho nhà vua và phu nhân:

– Ở đời xấu đẹp đều do quả báo từ nơi việc thực hành tội phước. Trong quá khứ lâu xa, có một nước lớn gọi là Ba-la-nại, trong nước có một vị trưởng giả giàu có vô cùng. Bấy giờ có nhiều người trong vùng thường đi đến cúng dường vị Bích-chi-phật; vị này có thân thể thô kệch, hình hài xấu xí, tiều tụy khó coi. Vị trưởng giả đó có một người con gái hàng ngày thấy vị Bích-chi-phật đến, sinh tâm xấu ác khinh khi nói lời hủy báng, nào là diện mạo xấu xa, thân hình thô kệch thật là đáng ghét… Vị Bích-chi-phật vài lần đến gia đình đó khất thực, nhận sự cúng dường. Ngài trụ thế một thời gian và nhập Niết-bàn. Trước khi sắp nhập Niết-bàn, ngài thị hiện các loại thần thông để giáo hóa cho đàn-việt. Thân bay lên hư không phun ra lửa và nước, hiện từ phía Đông biến ở phía Tây, hiện phía Tây biến phía Đông, hiện phía Nam biến phía Bắc, hiện phía Bắc biến phía Nam, nằm ngồi biến hiện các cách trên hư không. Toàn gia đình kia thấy được thần thông biến hiện của ngài. Rồi từ trên hư không ngài hạ xuống vào trong gia đình kia, ông trưởng giả thấy như vậy tâm càng hoan hỷ. Bấy giờ người con gái kia hối hận tự trách: “Xin ngài tha thứ! Con trước đây do tâm xấu ác, tội lỗi sâu dày mong ngài đừng để tâm những lỗi lầm của con.” Vị Bích-chi-phật cũng thuận theo sự ăn năn, sám hối của cô ta.

Đức Phật khai thị cho nhà vua:

– Cô gái lúc bấy giờ nay chính là con gái của đại vương, do tâm bất thiện xấu ác, hủy báng bậc Hiền thánh Bích-chi-phật, tạo những lỗi lầm về khẩu nghiệp từ đó đến nay thường chịu thân hình xấu xí. Sau này cô ấy tự mình ăn năn sám hối nên có sự biến đổi nhiệm mầu thân hình đoan chính, trí tuệ siêu quần, không ai hơn được. Do nhân duyên cúng dường Bích-chi-phật đời đời được phú quý chứng đắc giải thoát.

Như vậy, này đại vương, tất cả các loại hữu tình chúng sinh cần phải thủ hộ thân và miệng chớ nên nói dối, làm những điều sai trái, khinh khi, mắng chửi người khác.

Bấy giờ vua Ba-tư-nặc và các vị quần thần, cùng tất cả đại chúng sau khi nghe Đức Phật giảng thuyết về nhân duyên, quả báo, tất cả đều phát khởi lòng tin và sinh tâm cung kính, tự mình cảm ứng trước Phật, từ niềm tin đó mà chứng đắc từ Sơ quả đến quả vị thứ tư và có người phát tâm vô thượng bình đẳng và cũng có người an trú vào Bất thoái chuyển. Mọi người ai cũng đều khát ngưỡng, cung kính tôn thờ và phụng hành các giáo huấn của Đức Phật.