LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử.
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 7: SÁU PHÁP

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-tử lại bảo đại chúng: Quý thầy nên biết! Đức Phật đối với pháp sáu điều, chính Ngài hiểu biết rất rõ ràng thông suốt mọi lẽ, sau đó mới đem ra chỉ bày giảng dạy cho các đệ tử. Nay chúng ta nên hòa hợp mà kiết tập ôn lại, để sau khi Phật diệt độ thì không có sự tranh cãi nhau. Và chúng ta cần nên tu phạm hạnh và tuân hành luật pháp để làm lợi ích lâu dài cho vô lượng chúng hữu tình. Nên thương xót hàng trời người ở thế gian, khiến họ thâu nhận được nhiều lợi ích an lạc cao quý.

Sáu pháp là gì? Trong đây có hai bài kệ tụng:

Bài kệ (Ốt-đà-nam) thứ nhất nói:

Một: Sáu pháp có mười
Là nội, ngoạ, thức, xúc
Và thọ, tưởng, tư, ái
Thoái, chẳng thoái đều sáu.

Gồm có: Sáu lĩnh vực bên trong, sáu lĩnh vực bên ngoài, sáu thức của thân, sáu xúc chạm của thân, sáu căn thọ của thân, sáu tưởng của thân, sáu tư của thân, sáu ái của thân, sáu pháp thuận thoái, sáu pháp không thuận thoái.

Sáu lĩnh vực bên trong:

  1. Lĩnh vực bên trong của mắt.
  2. Lĩnh vực bên trong của tai.
  3. Lĩnh vực bên trong của mũi.
  4. Lĩnh vực bên trong của lưỡi.
  5. Lĩnh vực bên trong của thân.
  6. Lĩnh vực bên trong của ý.

Hỏi: Thế nào là lĩnh vực bên trong của mắt?

Đáp: Như mắt đối với các sắc đã thấy, đang thấy và sẽ thấy, hoặc các thứ giống như nó thì gọi là lĩnh vực bên trong của mắt.

Về các thứ lĩnh vực bên trong của tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng tùy chỗ mà trình bày thật rõ ràng.

Sáu lĩnh vực bên ngoài:

  1. Lĩnh vực sắc bên ngoài.
  2. Lĩnh vực tiếng bên ngoài.
  3. Lĩnh vực hương bên ngoài.
  4. Lĩnh vực vị bên ngoài.
  5. Lĩnh vực xúc chạm bên ngoài.
  6. Lĩnh vực pháp bên ngoài.

Hỏi: Thế nào là lĩnh vực sắc bên ngoài?

Đáp: Nghĩa là sắc nào đã bị mất hoặc nhìn thấy, hiện đang nhìn thấy hay sẽ nhìn thấy hoặc những thứ giống như thế thì gọi là lĩnh vực bên ngoài của sắc.

Về các thứ lĩnh vực ở ngoài của tiếng, hương, vị, xúc chạm, pháp thì nên tùy chỗ mà rộng nói.

Sáu thức của thân:

  1. Nhãn thức của thân.
  2. Nhĩ thức của thân.
  3. Tỷ thức của thân.
  4. Thiệt thức của thân.
  5. Thân thức của thân.
  6. Ý thức của thân.

Hỏi: Thế nào là nhãn thức của thân?

Đáp: Mắt và các sắc làm điều kiện sinh ra nhãn thức. Trong đó mắt là tăng thượng (vai trò chính) còn sắc là đối tượng. Đối với sắc thì mắt nhận biết rõ các thứ về tánh liễu biệt, tánh rất liễu biệt và phân biệt rõ ràng về các tính chất của các sắc. Đó gọi là nhãn thức của thân.

Còn các thứ thức của thân như: nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thì nên tùy nơi mà trình bày kỹ.

Sáu xúc của thân:

  1. Nhãn xúc của thân.
  2. Nhĩ xúc của thân.
  3. Tỷ xúc của thân.
  4. Thiệt xúc của thân.
  5. Thân xúc của thân.
  6. Ý xúc của thân.

Hỏi: Thế nào là nhãn xúc của thân?

Đáp: Mắt và các sắc làm điều kiện sinh ra nhãn thức. Ba cái đó hòa hợp nhau lại mà gọi là xúc (tiếp xúc). Ở đây mắt là chủ thể nhận biết, sắc là đối tượng được nhận biết). Khi mắt nhận biết các sắc thì đối tượng phải có những tiếp xúc cùng tiếp xúc, tính chất của tiếp xúc…, đã tiếp xúc và đang tiếp xúc. Đó gọi là mắt là cái để thân tiếp xúc.

Còn về các thứ để thân tiếp xúc như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thì tùy chỗ trình bày kỹ.

Sáu thứ nhận biết (thọ) của thân:

  1. Mắt tiếp xúc khiến thân nhận biết.
  2. Tai tiếp xúc khiến thân nhận biết.
  3. Mũi tiếp xúc khiến thân nhận biết.
  4. Lưỡi tiếp xúc khiến thân nhận biết.
  5. Thân tiếp xúc khiến thân nhận biết.
  6. Ý tiếp xúc khiến thân nhận biết.

Hỏi: Thế nào là mắt tiếp xúc khiến thân nhận biết?

Đáp: Mắt và các sắc làm điều kiện sinh ra nhãn thức. Ba thứ hòa hợp lại gọi là xúc. Xúc là điều kiện nên có nhận biết (thọ). Trong đây mắt là tăng thượng (quan trọng nhất, chủ động), các sắc là đối tượng, sự tiếp xúc của mắt làm nhân sự tiếp xúc của mắt hoạt động (khởi) giống loại của mắt tiếp xúc sinh ra của nhãn xúc. Khi sự tiếp xúc của mắt hoạt động mà có sự tương ưng với ý nghĩ, có ý thức (tác ý) thì khi mắt nhận biết các sắc sẽ có được các thọ (sự cảm xúc nhận biết) các thọ ở hiện tại, ở quá khứ và ở vị lai. Thế nên gọi mắt tiếp xúc khiến thân nhận biết.

Đối với các thứ tiếp xúc khiến thân nhận biết về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thì nên tùy chỗ mà trình bày kỹ.

Sáu thứ tưởng của thân:

  1. Mắt tiếp xúc sinh ra tưởng của thân.
  2. Tai tiếp xúc sinh ra tưởng của thân.
  3. Mũi tiếp xúc sinh ra tưởng của thân.
  4. Lưỡi tiếp xúc sinh ra tưởng của thân.
  5. Thân tiếp xúc sinh ra tưởng của thân.
  6. Ý tiếp xúc sinh ra tưởng của thân.

Hỏi: Thế nào là mắt tiếp xúc sinh ra tưởng của thân?

Đáp: Mắt và các sắc làm điều kiện sinh ra nhãn thức. Cả ba thứ hòa hợp lại gọi là xúc. Xúc làm điều kiện nên có tưởng. Ở đây mắt là tăng thượng sắc là đối tượng. Sự tiếp xúc của mắt làm nhân, sự tiếp xúc của mắt hoạt động, các giống loại của nhãn xúc, sự sinh ra của nhãn xúc. Khi nhãn xúc hoạt động thì có tác ý (có ý thức, ý nghĩ) tương ưng, nên khi mắt nhận biết các sắc thì có các tưởng hoạt động. Các tưởng trong hiện tại, các tưởng đã qua và các tưởng sắp tới. Thế nên gọi là mắt tiếp xúc sinh ra các tưởng của thân.

Đối với các thứ tiếp xúc sinh ra các tưởng của thân và tai, mũi, lưỡi thân ý thì tùy chỗ mà trình bày kỹ.

Sáu thứ tư (tư duy) của thân:

  1. Mắt tiếp xúc sinh ra các tư của thân.
  2. Tai tiếp xúc sinh ra tư của thân.
  3. Mũi tiếp xúc sinh ra tư của thân.
  4. Lưỡi tiếp xúc sinh ra tư của thân.
  5. Thân tiếp xúc sinh ra tư của thân.
  6. Ý tiếp xúc sinh ra tư của thân.

Hỏi: Thế nào là mắt tiếp xúc sinh ra tư của thân?

Đáp: Mắt và các sắc làm điều kiện sinh ra nhãn thức. Cả ba thứ hòa hợp lại gọi là xúc. Xúc làm điều kiện nên có tưởng. Trong đó mắt là tăng thượng, sắc là đối tượng. Sự tiếp xúc của mắt làm nhân, sự tiếp xúc của mắt hoạt động (khởi). Các giống loại của nhãn thức, sự sinh ra của nhãn thức. Khi nhãn xúc hoạt động thì có tác ý (ý nghĩ, có ý thức) tương ưng, nên khi mắt nhận biết các sắc thì có các tư hoạt động. Các tư trong hiện tại, các tư đã qua và các tư sắp tới mà tạo ra các nghiệp của tâm ý. Thế nên gọi là mắt tiếp xúc thì sinh ra các tư của thân.

Còn các thứ tiếp xúc sinh ra các tư của thân về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thì nên tùy chỗ mà trình bày kỹ.

Sáu thứ mến yêu của thân:

  1. Mắt tiếp xúc khiến thân mến yêu.
  2. Tai tiếp xúc khiến thân mến yêu.
  3. Mũi tiếp xúc khiến thân mến yêu.
  4. Lưỡi tiếp xúc khiến thân mến yêu.
  5. Thân tiếp xúc khiến thân mến yêu.
  6. Ý tiếp xúc khiến thân mến yêu.

Hỏi: Thế nào là mắt tiếp xúc khiến thân mến yêu?

Đáp: Mắt và các sắc làm điều kiện sinh ra nhãn thức. Cả ba thứ hòa hợp lại gọi là xúc (tiếp xúc). Xúc làm điều kiện khiến có nhận biết (thọ), thọ làm điều kiện nên khiến có mến yêu. Trong đây mắt là tăng thượng, các sắc là đối tượng. Đối với các sắc mắt nhận biết, nên sinh ra các tham lam ham thích, rồi bám lấy giữ gìn, cất giấu, đam mê, yêu mến. Đó là mắt tiếp xúc khiến thân yêu thích.

Còn các thứ tiếp xúc khiến thân yêu thích của tai, mũi, lưỡi, thân, ý thì nên tùy chỗ mà trình bày kỹ. Sáu pháp thuận theo lui sụt:

  1. Chẳng cung kính chư Phật.
  2. Chẳng cung kính chánh pháp.
  3. Chẳng cung kính chư tăng.
  4. Chẳng cung kính việc học hỏi.
  5. Đầy đủ lời nói ác.
  6. Chơi với bạn dữ.

Hỏi: Thế nào là chẳng cung kính chư Phật? Thế nào là bản chất không cung kính Phật?

Đáp: Có tính chất không cung kính chư Phật Thế Tôn, không cung kính tánh bình đẳng, không thích hợp với tánh tự tại, không thỏa hợp cùng tánh bình đẳng tự tại. Đó gọi là tánh không cung kính chư Phật.

Đối với chánh pháp, đối với Tăng và với sự học hỏi thì cũng như thế.

Đầy đủ lời nói ác. Thế nào là tính chất lời nói ác? Như trước đây đã nói về lời nói ác (ác ngữ).

Chơi với bạn ác. Thế nào là tính chất bạn ác? Như trước đây đã nói về bạn ác.

Sáu pháp thuận không lui sụt:

  1. Sống cung kính chư Phật.
  2. Sống cung kính chánh pháp.
  3. Sống cung kính chư Tăng.
  4. Sống cung kính sự học hỏi.
  5. Đầy đủ lời nói thiện.
  6. Chơi với bạn lành.

Hỏi: Sống cung kính chư Phật. Thế nào là có tánh cung kính chư Phật?

Đáp: Là có tính chất cung kính chư Phật Thế Tôn, tánh có cung kính, có thích hợp với tánh tự tại, có lo sợ sự theo đuổi, đổi tánh tự tại. Đó gọi là có tánh cung kính chư Phật.

Đối với chánh pháp, đối với Tăng, đối với sự học hỏi cũng như thế.

Hỏi: Đầy đủ lời nói thiện. Thế nào là tính chất lời nói thiện?

Đáp: Lời nói thiện như trước đây đã nói đầy đủ.

Hỏi: Chơi với bạn lành. Tính chất bạn lành là sao?

Đáp: Bạn lành chính là Phật và đệ tử của Ngài hay rộng nói cho đến các việc làm có tính cách lìa bỏ sự ngu si, hay hạnh điều phục chế ngự ngu si. Đó là tính chất của bạn lành. Đối với các bạn lành như thế mà gần gũi rèn tập, thân thiết giao du, cung kính thờ phụng hầu hạ…, thì đó gọi là chơi với (gặp gỡ) bạn lành.

Bài tụng (Ốt-đà-nam) thứ hai nói:

Sau sáu pháp: mười bốn
Là hỷ ưu xả hằng
Giới xuất căn hỷ thông
Minh niệm thượng quán loại.

Gồm có: Sáu hành vui gần, sáu hành lo gần, sáu hành buông xả gần, sáu thứ luôn an trụ, sáu giới, sáu cõi xuất ly, sáu pháp tránh căn, sáu pháp đáng mừng, sáu thông, sáu phần tưởng thuận sáng, sáu tùy niệm, sáu pháp vô thượng, sáu quán đãi, sáu loại sinh.

Sáu hành vui gần:

  1. Mắt thấy sắc thuận vui hành sắc gần.
  2. Tai nghe tiếng thuận vui hành tiếng gần.
  3. Mũi ngửi mùi thuận vui hành mũi gần.
  4. Lưỡi nếm vị thuận vui hành vị gần.
  5. Thân biết chạm thuận vui hành xúc gần.
  6. Ý hiểu pháp thuận vui hành pháp gần.

Mắt thấy sắc thuận vui hành sắc gần, nghĩa là khi mắt thấy sắc rồi thì đối với sắc cứ một mực đáng yêu thích, vui mừng, vừa ý thỏa lòng nhưng với sắc đó cứ mãi vui mừng khởi ý nghĩ suy hoài. Nếu cứ vui vẻ nghĩ tới lui như thế thì sinh ra hỷ thọ (cảm xúc vui). Thế nên gọi là mắt thấy sắc thuận vui hành sắc gần.

Đối với các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý vui hạnh gần cũng như thế.

Sáu hành lo gần:

  1. Mắt thấy sắc thuận lo hành sắc gần.
  2. Tai nghe tiếng thuận lo hành tiếng gần.
  3. Mũi ngửi mùi thuận lo hành mùi gần.
  4. Lưỡi nếm vị thuận lo hành vị gần.
  5. Thân biết chạm thuận lo hành xúc gần.
  6. Ý hiểu pháp thuận lo hành pháp gần.

Mắt thấy sắc thuận lo hành sắc gần, nghĩa là khi mắt đã thấy sắc rồi thì đối với sắc cứ một mực chẳng đáng yêu thích, vui mừng, vừa ý thỏa lòng. Và vì đối với sắc đó cứ mãi lo buồn khởi ý suy nghĩ hoài. Nếu cứ lo buồn nghĩ tới luôn như thế thì sẽ sinh ra ưu thọ (cảm xúc buồn lo). Thế nên nói mắt thấy sắc thuận lo hành sắc gần. Đối với các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý lo hành gần cũng như thế.

Sáu hành buông xả gần:

  1. Mắt thấy sắc thuận buông xả hành sắc gần.
  2. Tai nghe tiếng thuận buông xả hành tiếng gần.
  3. Mũi ngửi mùi thuận buông xả hành mùi gần.
  4. Lưỡi nếm vị thuận buông xả hành vị gần.
  5. Thân biết chạm thuận buông xả hành xúc chạm gần.
  6. Ý hiểu pháp thuận buông xả hành pháp gần.

Mắt thấy sắc thuận buông xả hành sắc gần, là khi mắt thấy sắc rồi thì đối với sắc đó không có việc đáng hay chẳng đáng mến yêu, vui mừng, vừa ý thỏa lòng chi cả. Vì đối với sắc ấy nó thuận với sự buông xả chẳng để ý suy tư nhớ nghĩ chi nên sinh ra xả thọ (cảm xúc trơ, không vui buồn). Thế nên nói mắt thấy sắc thuận buông xả hành sắc gần.

Đối với các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý buông xả hành gần cũng như thế.

Sáu thứ luôn an trụ:

1. Mắt thấy sắc chẳng vui, chẳng buồn, đủ niệm chánh tri, luôn an trụ và buông xả.

2. Tai nghe tiếng không vui không buồn đủ niệm chánh tri luôn an trụ vào buông xả.

3. Mũi ngửi mùi không vui không buồn đủ niệm chánh tri luôn an trụ vào buông xả.

4. Lưỡi nếm vị không vui không buồn, đủ niệm chánh tri, luôn an trụ vào buông xả.

5. Thân biết xúc chạm, không vui không buồn đủ niệm chánh tri luôn an trụ vào buông xả.

6. Ý hiểu pháp không vui không buồn, đủ niệm chánh tri, luôn an trụ vào buông xả.

Mắt thấy sắc mà không vui không buồn đủ niệm chánh tri luôn an trụ vào buông xả, là mắt thấy sắc đối với việc đáng yêu thích vui mừng hài lòng thỏa ý thì không yêu thích vui mừng hài lòng thỏa ý, hoặc là nương nhờ, hoặc tất cả đều không gián đoạn, hoặc là duyên vào đó, ở vào đó (đối tượng duyên, sở xứ) hoặc là sắc tăng thượng mà thuận với sự buông xả khởi ý suy nghĩ. Nếu đối với loại sắc đó mà luôn khởi ý nghĩ mãi tới sự buông xả thì sinh ra diệu xả, tức sự buông xả tuyệt diệu nhiệm mầu. Thế nên nói mắt thấy mà không vui không buồn, đủ niệm chánh tri, luôn an trụ vào buông xả.

Đối với các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà luôn an trụ thì cũng như thế.

Trong đây nói về buông xả là sao? Nói buông xả tức là chỉ cho tâm có tánh bình đẳng tâm có tánh chánh trực ngay thẳng, tâm không khinh sợ mà nhanh nhẹn tháo vác.

Lại có chỗ nói: Sáu thức tương ưng cùng duyên nơi các cảnh của sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp mà có xả thọ (cảm xúc buông xả) thì gọi là buông xả. Nay nghĩa trong đây là ý nói đến xả của tâm bình đẳng, tâm ngay thẳng, tâm không kinh sợ mà lại nhanh nhẹn tháo vác, lại luôn luôn xả thì gọi là xả.

Có sáu lĩnh vực (Giới):

  1. Lĩnh vực của đất.
  2. Lĩnh vực của nước.
  3. Lĩnh vực của lửa. 4. Lĩnh vực của gió.
  4. Lĩnh vực của hư không.
  5. Lĩnh vực của thức. Nên lĩnh vực của phân biệt các lĩnh vực nầy đúng pháp uẩn luận.

Có sáu lĩnh vực xuất ly:

1. Như có một thầy bảo: Đối với định tâm từ, dù tôi đã luyện tập tu hành và cố gắng làm đủ mọi cách, nhưng tâm tôi hãy còn bị giận dữ trói chặt. Hãy nên bảo vị ấy: Đừng nên nói như thế! Vì sao? Vì nếu vị nào đối với định tâm từ mà rèn luyện tu hành và làm đủ mọi cách với vô niệm mà tâm người ấy cũng còn bị giận dữ trói chặt thì không thể nào có chuyện đó được! Vì ai đã có định tâm từ thì nhất quyết là phải xuất ly vượt thoát ra ngoài tất cả mọi sự trói buộc của giận dữ.

Xuất ly ở đây là sao? Khi đoạn dứt sự trói cột của giận dữ cũng gọi là xuất ly, khi vượt thoát được sự trói buộc của giận dữ cũng gọi là xuất ly, những người có định tâm từ cũng gọi là xuất ly. Nay nghĩa trong đây ý nói chữ xuất ly của những kẻ có định tâm từ.

2. Như có thầy bảo: Đối định tâm bi, dù tôi đã luyện tập tu hành và cố gắng làm đủ mọi cách, nhưng tâm tôi vẫn còn bị sự tàn hại trói chặt. Hãy nên bảo vị ấy đừng nên nói như thế! Vì sao? Vì nếu vị nào đối với định tâm bi mà rèn luyện tu hành và làm đủ mọi cách với vô niệm nhưng tâm người ấy cũng còn bị tàn hại trói chặt thì đều đó không thể nào có! Vì nếu ai đã có định tâm bi thì nhất quyết là phải xuất ly vượt thoát khỏi tất cả mọi sự trói buộc của tàn hại.

Xuất ly ở đây có nghĩa thế nào? Dứt hẳn sự ràng buộc của tàn hại cũng gọi là xuất ly, vượt thoát sự ràng buộc của tàn hại cũng gọi là xuất ly, các người có định tâm bi cũng gọi là xuất ly. Nay nghĩa trong đây ý nói những kẻ có định tâm bi gọi là xuất ly.

3. Như có thầy bảo: Đối với định tâm hỷ tôi đã rèn luyện tu tập và làm đủ mọi cách nhưng tâm tôi vẫn còn bị sự không vui (chẳng an lạc) trói chặt. Hãy nên bảo với thầy đó: Đừng nên nói như thế! Vì sao? Vì nếu vị nào đối với định tâm hỷ mà đã rèn luyện tu tập và cố gắng làm đủ mọi cách với vô niệm nhưng tâm người ấy vẫn còn bị không an lạc trói chặt thì điều đó không thể nào có được. Vì nếu đã có định tâm hỷ thì nhất quyết là phải xuất ly vượt thoát tất cả mọi sự trói chặt của sự không vui (an lạc).

Trong đây xuất ly là nghĩa thế nào? Đoạn dứt chẳng vui cũng gọi là xuất ly, vượt thoát khỏi sự không vui cũng gọi là xuất ly. Các người có định tâm hỷ cũng gọi là xuất ly. Nay nghĩa trong đây ý nói người có định tâm hỷ gọi là xuất ly.

4. Có thầy lại bảo: Đối với định tâm xả, dù tôi đã rèn luyện tu tập và đã làm đủ mọi cách nhưng tâm tôi vẫn còn bị dục, tham và sân trói chặt. Hãy nên bảo với thầy đó: Đừng nên nói như thế! Vì sao? Vì nếu vị nào đối với định tâm xả mà rèn luyện tu tập và đã làm đủ mọi cách, với vô niệm, nhưng tâm người ấy vẫn còn bị dục tham và sân trói chặt, thì điều đó không thể nào xảy ra được. Vì nếu ai đã có định tâm xả thì nhất quyết là phải xuất ly vượt khỏi tất cả mọi trói buộc của dục tham và sân giận.

Chữ xuất ly ở đây có nghĩa thế nào? Đoạn dứt hẳn dục tham và sân cũng gọi là xuất ly, vượt thoát mọi dục tham và sân cũng gọi là xuất ly. Các định tâm xả thì cũng gọi là xuất ly. Nay nghĩa trong đây ý muốn nói cái xuất ly có định tâm xả.

5. Có thầy lại bảo: Đối với tâm định vô tướng, dù tôi đã rèn luyện tu tập và đã làm đủ mọi cách, nhưng tâm tôi vẫn còn bị trói chặt của thức tùy tướng. Hãy nên bảo với vị đó: Đừng nói như thế! Vì sao? Vì nếu vị nào đối với tâm định vô tướng đã rèn luyện tu tập và đã làm đủ mọi cách, với vô niệm nhưng tâm người ấy vẫn còn bị thức tùy tưởng ràng buộc chặt thì đều nầy không thể nào xảy ra được. Vì nếu ai đã định tâm vô tướng thì nhất quyết là phải xuất ly vượt thoát tất cả thức tùy tướng.

Chữ xuất ly ở đây có nghĩa như thế nào? Dứt hết thức tùy tướng cũng gọi là xuất ly, vượt khỏi thức tùy tướng cũng gọi là xuất ly, có được định tâm vô tướng cũng gọi là xuất ly. Nay nghĩa trong đây ý muốn nói cái xuất ly khi có được định tâm vô tướng.

6. Lại có thầy bảo: Dù tôi đã lìa bỏ ngã mạn, không còn nhìn thấy ngã và ngã sở, nhưng tâm tôi vẫn còn bị tên độc của nghi ngờ do dự trói chặt và làm tổn hại. Xin nói với vị đó: Đừng nên nói như thế! Vì sao? Vì nếu vị nào đã lìa bỏ hết ngã mạn, không còn thấy ngã và ngã sở với vô niệm nhưng tâm người ấy vẫn còn bị tên độc của nghi ngờ do dự trói chặt và làm tổn hại thì điều đó không thể nào xảy ra được. Vì nếu ai đã lìa bỏ ngã mạn, không còn nhìn thấy ngã và ngã sở thì nhất quyết là phải xuất ly vượt thoát các tên độc của nghi ngờ do dự.

Chữ xuất ly ở đây có nghĩa như thế nào? Dứt hẳn ngã mạn cũng gọi là xuất ly, vượt thoát khỏi ngã mạn cũng gọi là xuất ly. Nay nghĩa trong đây ý nói về xuất ly khi đã vượt thoát khỏi ngã mạn.

Có sáu thứ gốc tranh cãi:

1. Có một số người hay giận dữ. Vì nếu có giận dữ thì đối với bậc Đại sư không thể nào cung kính, cúng dường tôn trọng, ngợi khen được. Do vậy mà không hiểu được chánh pháp. Nếu không thấy được chánh pháp thì còn đoái hoài gì đến đời sống của Sa-môn? Nếu không đoái hoài đến đời sống của Sa-môn thì liền khởi lên sự đam mê nhiễm, mãi đùa giỡn tranh cãi. Do bám dựa vào lối sống đó nên làm cho nhiều chúng sinh không được nghĩa lý lợi ích mà phải chịu nhiều khổ não, vô lượng hàng trời, người cũng không hưởng được lợi ích mà phải chịu nhiều sự khổ não. Nếu quý thầy thấy rõ được các cội gốc tranh cãi hoặc ở trong hay ở ngoài có chỗ nào chưa đoạn trừ, thì hãy nên hòa hợp tu tập mà siêng năng chuyên cần tìm đủ mọi phương cách mà đoạn trừ, không nên chơi bời phóng dật nữa. Quý thầy cần nên đoạn thật hết sạch các cội gốc tranh cãi, đừng để sót tí nào như trước đây hãy còn thanh tịnh chưa khởi gốc tranh cãi. Quý thầy đã thấy rõ hoặc trong hoặc ngoài, các gốc tranh cãi đã được đoạn trừ thật hết rồi thì nên phát khởi lên chánh niệm và chánh tri. Và với tâm hăng hái mạnh mẽ luôn siêng năng chuyên cần gìn giữ khiến cho mãi đến đời sau nó vĩnh viễn không bao giờ hiện ra nữa, thì đó là chánh đoạn, đoạn diệt khéo léo tài tình các gốc tranh cãi như thế.

2. Đây là có giận hờn. Còn như nếu có che giấu buồn phiền, nếu có ganh tỵ keo kiệt, nếu có dối trá dua nịnh, nếu có tà kiến đảo kiến (thấy biết sai lầm) thì cũng rộng nói như thế.

Lại có một số người chấp chặt vào quan điểm chấp thật cứng chắc bền bỉ không thể nào khuyên dạy không bỏ được. Nếu ngoan cố như thế thì đối với bậc Đại sư không thể nào cung kính cúng dường tôn trọng ngợi khen được. Do vậy không thể thấy được chánh pháp. Nếu chẳng thấy được chánh pháp thì đâu có đoái hoài chi tới đời sống của bậc Samôn. Nếu không đoái hoài đến đời sống của bậc Sa-môn thì liền khởi đam mê nhiễm trước, mãi lo chơi bời và tranh cãi. Vì chỉ sống trong đam mê nhiễm trước, tranh cãi nên khiến bao nhiêu chúng sinh không được nghĩa lý lợi ích mà phải chịu nhiều khổ não, vô số hàng trời người cũng không hưởng nhờ nghĩa lý lợi ích mà phải chịu bao nhiêu khổ não. Nếu quý thầy đã thấy rõ gốc tranh cãi đó hoặc trong hoặc ngoài có chỗ nào chưa đoạn trừ hết thì hãy nên hòa hợp tụ tập lại mà siêng năng chuyên cần cố tìm mọi phương cách để đoạn diệt cho thật hết sạch, không nên chơi bời phóng dật nữa. Quý thầy cũng nên cố gắng diệt thật hết gốc tranh cãi đừng để sót tí nào, như trước đây hãy còn thanh tịnh chưa khởi gốc tranh cãi. Quý thầy khi đã thấy rõ hoặc trong hay ngoài các gốc tranh cãi đều đã được đoạn diệt thật hết rồi thì hãy phát khởi chánh niệm và chánh tri. Và với lòng hăng hái mạnh mẽ, luôn siêng năng chuyên cần gìn giữ, khiến cho tận mãi ở đời sau nó vĩnh viễn không còn sinh lại nữa. Thì đó là chánh đoạn, đoạn diệt khéo léo tài tình các gốc tranh cãi như thế.

3. Đây là nói về người có giận hờn, còn như nếu có che giấu, buồn rầu, nếu có ganh tỵ keo kiệt, nếu có lừa dối dua nịnh, nếu có thấy biết điên đảo sai lầm, thì tất cả đều như trước vừa nói.

4. Có tà kiến đảo kiến (có thấy biết điên đảo sai lầm).

Thế nào là tà kiến? Nếu có thấy biết mà chẳng chịu bố thí ban tặng, không cúng lễ, không mến thích…, rộng nói cho đến đời ta đến đây đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng còn phải kiếp sau nữa, không biết lý đó thì gọi đó là tà kiến.

5. Còn đảo kiến là sao? Tức là có tà kiến và sự thấy biết lầm lẫn nghịch lý ngược đời.

6. Chấp giữ sự thấy biết của mình, chấp giữ thật cứng chắc bền bỉ, rất khó khuyên dạy buông bỏ được.

Thế nào là chấp chặt quan điểm mình? Chấp ngã và thế gian nầy thường còn mãi, chỉ có điều đó là đúng thực, các điều khác là ngu dốt, sai lầm, hư vọng. Rộng nói cho đến việc chấp: Như Lai sau khi chết rồi không phải có mà cũng không phải không có, chỉ có điều nầy là đúng thực, các ý kiến khác đều ngu dốt, sai lầm, hư vọng. Đó gọi là chấp chặt quan điểm mình.

Thế nào là chấp giữ thật cứng chắc bền bỉ? Tức là do chấp chặt

quan điểm mình thế nên khởi lên chấp chặt cứng chắc bền bỉ.

Thế nào là khó buông bỏ khuyên dạy? Do khởi lên sự mến thích, mến thích luôn luôn, mến thích tất cả, hiện đang mãi mãi mến thích quan điểm mình. Thế nên rất khó khuyên dạy sự chán ghét, lìa bỏ và giải thoát.

Có sáu pháp đáng mừng:

1. Như có vị Bí-sô, ở chỗ bậc Đại sư và các bậc trí đồng tu phạm hạnh mà phát khởi tu thân nghiệp từ bi, đó là pháp đáng mừng thứ nhất. Do pháp nầy cho nên hay phát sinh ra sự đáng mến yêu, đáng tôn trọng, đáng vừa ý, và dẫn đến mọi sự mến thích tôn trọng vừa ý thỏa lòng nên thâu giữ được sự vui mừng hoan lạc một mực không hề trái nghịch tranh cãi nhau.

2. Lại có vị Bí-sô ở chỗ bậc Đại sư và các bậc có trí đồng tu phạm hạnh mà phát khởi sự tu ngữ nghiệp từ bi. Đó là pháp đáng mừng thứ hai. Do pháp nầy cho nên hay phát sinh ra sự đáng yêu mến. Rộng nói cho đến một mực không hề tranh cãi.

3. Lại có vị Bí-sô ở chỗ bậc Đại sư và các bậc trí đồng tu phạm hạnh mà khởi tu ý nghiệp từ bi tức là pháp đáng mừng thứ ba. Do pháp nầy cho nên hay phát sinh ra sự đáng yêu mến. Rộng nói cho đến một mực không hề tranh cãi.

4. Lại có vị Bí-sô do nhờ pháp mà thâu nhận một số lợi dưỡng hợp pháp, ít nhất như các thức ăn uống nhận được trong bát khi khất thực. Với số lợi dưỡng nầy thì cùng với các bậc trí đồng tu phạm hạnh chia nhau mà thọ hưởng chung, chứ không hề giấu riêng. Đó gọi là pháp đáng mừng thứ tư. Do pháp nầy cho nên phát sinh ra sự đáng yêu mến. Rộng nói cho đến một mực không hề tranh cãi.

5. Lại có vị Bí-sô có bao nhiêu giới hạnh không hề thiếu sót, không lẫn lộn. Đáng được ứng cúng (cúng dường) là bậc thiện không chấp trước, bậc thiện rốt ráo, đáng được các người trí khen ngợi không hề chê bai hủy báng. Với các giới hạnh như thế cùng với các bậc trí đồng tu phạm hạnh, cùng nhau thọ trì tuân giữ không hề giấu giếm. Đó là pháp đáng mừng thứ năm. Do pháp nầy cho nên phát sinh ra các sự đáng yêu mến. Rộng nói cho đến một mực không hề tranh cãi.

6. Lại có vị Bí-sô có những nhận thức, sự thấy biết là sự xuất ly của Thánh nhân (Phật) có thể khéo thông đạt thấu suốt tất cả, nếu thật hiện được cách đó thì chính thức dứt hết các khổ. Với sự thấy biết như thế cùng với các bậc trí đồng tu phạm hạnh, cùng nhau tu tập không che giấu. Đó là pháp đáng mừng thứ sáu. Do pháp nầy cho nên phát sinh ra các sự đáng yêu mến, đáng tôn trọng, đáng thích ý. Có thể dẫn đến mọi sự yêu thích, tôn trọng vừa ý thỏa lòng nên thâu nhận được sự vui mừng hoan không hề trái nghịch tranh cãi.

Đối với bậc Đại sư. Thế nào là Đại sư? Đại sư là chỉ cho tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Các bậc trí đồng tu phạm hạnh. Thế nào là các bậc trí đồng tu phạm hạnh? Các bậc trí đồng tu phạm hạnh là chỉ cho các Tôn giả Giải Kiều Trần Na cho đến rộng kể các vị khác nữa…

Khởi tu thân nghiệp về từ bi. Thân nghiệp từ bi là sao? Tức là những hoạt động phấn chấn, thương xót mọi loài của thân nghiệp. Trong đây ý nói thân nghiệp từ bi ở chỗ các bậc Đại sư là những kẻ trí đồng tu phạm hạnh thì nó hòa hợp trong cuộc sống hiện tại. Do đó nên nói là ở chỗ bậc Đại sư và các bậc trí đồng tu phạm hạnh mà khởi tu thân nghiệp từ bi. Đó là pháp đáng mừng thứ nhất. Nghĩa là với pháp đó thì nên tùy thuận theo đuổi và đáng mến thích cung kính cúng dường nuôi lớn thân thể đẹp đẽ trang nghiêm với mọi thứ vật dụng cần thiết. Thế nên gọi là pháp đáng mừng.

Có thể (hay) phát sinh sự đáng yêu mến, tức là do pháp nầy mà có thể phát sinh sự đáng yêu mến.

Cũng do pháp nầy mà có thể phát sinh các sự đáng tôn trọng, đáng vừa ý.

Có thể dẫn đến mọi sự đáng yêu tôn trọng thích ý thỏa lòng nên thâu giữ được sự mừng vui hoan lạc một mực không hề trái nghịch tranh cãi. Nghĩa là chính do pháp nầy dẫn đến sự mến yêu tôn trọng, vừa ý vui lòng để nhận được sự mừng vui hoan lạc không hề trái nghịch tranh cãi, nghĩa là hòa hợp thuận thảo nhau.

Nói là một mực (nhất thú), là một cảnh, một cõi, một môi trường hoàn cảnh hiện tại (vị).

Cũng như thân nghiệp từ bi, các ngữ nghiệp và ý nghiệp từ bi cũng y như thế.

Nhờ chánh pháp mà nhận được các lợi dưỡng hợp pháp là sao? Nếu các lợi dưỡng nào chẳng do lừa dối mà được, chẳng do dối trá lừa đảo, chẳng do giả bộ hiện tướng đàng hoàng, chẳng do kích thích mà có được, cũng chẳng phải do vị lợi dưỡng cố ý mong cầu lợi dưỡng mà được và cả ngay trong lúc thọ dụng lại không có tạo ra những lỗi lầm tội lỗi nào thì đó gọi là nhờ chánh pháp mà nhận được các lợi dưỡng.

Ít nhất là các thức ăn uống nhận được trong bát, nghĩa là các thức ăn uống dưới đáy bát còn chia nhau thọ dụng huống là tiền bạc và các vật dụng khác…

Tất cả các thứ lợi dưỡng nầy đều cùng các bậc trí đồng tu phạm hạnh. Cùng chung thọ dụng không giấu giếm dùng riêng, tức là các lợi dưỡng do chánh pháp mà thâu nhận được một cách hợp lý thì gọi là “các thứ lợi dưỡng nầy”. Nếu các Bí-sô, Bí-sô ni cùng các người chánh thức có tu học siêng năng chuyên cần, dù là nam nữ cư sĩ thì đều gọi là các người có trí đồng tu phạm hạnh. Nhờ chánh pháp mà được các lợi dưỡng hợp pháp thì nên cùng với các người trí đồng tu phạm hạnh mà chung nhau thọ dụng, chẳng nên giấu giếm để dùng riêng.

Nên gọi là pháp đáng mừng thứ tư, như đã được nói rõ ở trước.

Có bao nhiêu giới hạnh là sao? Tức là có thân nghiệp, ngữ nghiệp vô lậu và đời sống thanh tịnh, tất cả đều gọi là có giới hạnh không thiếu sót, không lẫn lộn xen tạp, nghĩa là các giới hạnh nầy luôn luôn được tuân hành vâng giữ và chuyển đổi, cùng bình đẳng thi hành và chuyển đổi, cho nên gọi là không thiếu sót lộn xộn tạp bẩn.

Đáng cúng dường (ứng cúng), nghĩa là các hữu tình nào còn tham sân si thì nói là cấp dưỡng, còn những ai đã lìa bỏ được tham sân si, thì gọi là ứng cúng, đáng được nhận thọ mỗi thứ cấp dưỡng như y phục, thức ăn uống, ngọa cụ giường nằm, thuốc men thường đem đến dâng cúng dường.

Không chấp trước, là các đệ tử Phật đối với giới hạnh không khởi lên sự chấp trước.

Thiện rốt ráo, là đối với các giới hạnh nầy khéo léo cẩn thận kỹ lưỡng giữ gìn đến cùng cực rốt ráo.

Khéo nhận được, là đối với các giới hạnh nầy mà ân cần tôn trọng cung kính, giữ gìn cẩn thận thì đủ, nhận được các bậc trí khen ngợi không chê bai hủy báng.

Nghĩa là chư Phật và các đệ tử Phật thì gọi là bậc Trí, các bậc trí nầy đều cùng ngợi khen, không hề quở trách.

Với các giới hạnh như thế thì cùng các bậc trí đồng tu Phạm hạnh chung nhau tuân giữ thọ trì không hề che giấu.

Giới hạnh như thế là sao? Nghĩa là các giới bình đẳng, giới bình đẳng chính là tám Thánh đạo, trong đó chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thì gọi là giới bình đẳng, cùng các bậc trí đồng tu Phạm hạnh, tức là các Tôn giả Giải Kiều Trần Na v.v…

Cùng tuân giữ thọ trì, không hề che giấu, là cùng các bạn đồng tu Phạm hạnh, cùng chung một mục đích đường lối, cùng một nghĩa lý lợi ích, nó đều giống nhau cả.

Gọi là pháp đáng mừng thứ năm. Như trước đã nói rồi.

Có bao nhiêu nhận thức, sự thấy biết là sao? Nếu y vào sự xuất ly, mà lìa bỏ sự sinh ra các pháp thiện thì đối với các pháp tướng, các pháp tuyển chọn càng tuyển chọn kỹ lưỡng cùng cực, cho đến rộng nói…

Là sự xuất ly của Thánh nhân (Phật v.v…) thì như trước đã rộng nói.

Với sự thấy biết đó mà cùng với bậc trí đồng tu Phạm hạnh cùng chung tu học không hề che giấu.

Thế nào là sự thấy biết như thế? Nghĩa là sự thấy biết về bình đẳng, tức là sự thấy biết và tám Thánh đạo vậy. Còn các điều khác thì như trước đã nói. Đó là sáu pháp đáng mừng.

Có sáu pháp thần thông:

  1. Thần cảnh trí chứng thông.
  2. Thiên nhĩ trí chứng thông.
  3. Tha tâm trí chứng thông.
  4. Túc trụ trí chứng thông.
  5. Tử sinh trí chứng thông.
  6. Lậu tận trí chứng thông.

– Thế nào là Thần cảnh trí chứng thông?

Đáp: Là lãnh thọ hiểu biết và thị hiện biến hóa ra mọi thứ thần thông biến hóa…, cho đến rộng nói.

Chữ thông ở đây có nghĩa thế nào? Nghĩa là đối với các thứ thần thông biến hóa đó thì có trí biết rất tuyệt diệu.

– Thế nào là Thiên nhĩ trí chứng thông?

Đáp: Do tai của các trời nghe được các thứ tiếng, như tiếng nói của loài người, loài không phải người, tiếng xa, tiếng gần v.v…

Chữ thông ở đây có nghĩa thế nào? Tức là có trí tuyệt vời đối với các thứ tiếng của tai trời.

– Thế nào là tha tâm thông trí chứng?

Đáp: Nghĩa là đối với tâm có tầm tứ của chúng hữu tình Bổ-đặcgià-la thì đều biết đúng như thật. Như có tâm tham thì biết đúng là tâm tham, tâm đã lìa bỏ tham thì biết đúng là tâm đã lìa bỏ tham. Cũng như thế tâm có sân giận hay lìa bỏ sân giận, tâm có si hay lìa bỏ si, tâm tóm lược, tâm phân tán, tâm đưa xuống, tâm hướng lên, tâm luôn xao động hay không xao động, tâm lặng yên hay không lặng yên, tâm không định hay định, tâm tu hay không tu, tâm giải thoát hay không giải thoát…, đều biết đúng như thật.

Chữ thông ở đây có nghĩa thế nào? Nghĩa là đối với sự biết rõ lòng người thì có trí biết tuyệt diệu.

– Thế nào là Túc trụ trí chứng thông?

Đáp: Nghĩa là có thể nhớ lại được các việc, các kiếp sống đời trước của vô lượng đời quá khứ, hoặc một kiếp hoặc nhiều kiếp…, cho đến như đã rộng nói.

Chữ thông ở đây có nghĩa thế nào? Đối với các việc ở đời trước thì có trí biết thật tuyệt diệu.

– Thế nào sinh tử trí chứng thông?

Đáp: Như trước đây đã nói rồi.

– Thế nào lậu tận trí chứng thông?

Đáp: Cũng như trước đây đã rất rõ ràng rộng rãi rồi.

*****

Có sáu thứ tưởng thuận phần minh:

  1. Tưởng vô thường.
  2. Tưởng vô thường khổ.
  3. Tưởng khổ vô ngã.
  4. Tưởng chán ăn.
  5. Tưởng tất cả thế gian không thể vui.
  6. Tưởng về chết.

Năm tưởng trong đây thì đã nói rõ trong tưởng thành thục giải thoát trước đây rồi (nay không nói lại).

Hỏi: Thế nào là tưởng tất cả thế gian chẳng thể vui?

Đáp: Thế gian tức là năm thủ uẩn, tức sắc uẩn v.v… đến thức thủ uẩn. Như có các vị Bí-sô đối với năm thứ thủ uẩn nầy mà luôn khởi ý nghĩ tìm hiểu xét lường thì thấy đáng sợ hãi, thấy chẳng đáng yêu mến, cũng chẳng đáng vui mừng chi. Khi suy nghĩ đến năm uẩn thì luôn thấy các tưởng như thế ngay ở trước mắt trong hiện tại, đã qua hay sắp tới…

Thế nên gọi là tưởng tất cả thế gian không thể vui.

Hỏi: Vì sao lại nói tưởng thuận phần sáng?

Đáp: Minh, có ba thứ minh:

  1. Vô học túc trụ trí chứng minh.
  2. Vô học sinh tử trí chứng minh.
  3. Vô học lậu tận trí chứng minh.

Do sáu tưởng trước đó, nếu ai thấy ba minh nầy chưa sinh thì hãy khiến chúng phát sinh, nếu đã sinh rồi thì nên khiến chúng càng lớn rộng hơn. Nên nói là tưởng thuận phần minh.

Có sáu thứ tùy niệm:

  1. Tùy niệm Phật.
  2. Tùy niệm Pháp.
  3. Tùy niệm Tăng.
  4. Tùy niệm giới.
  5. Tùy niệm xả.
  6. Tùy niệm thiên.

– Thế nào là tùy niệm Phật?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử Phật ở chỗ Thế Tôn do tướng như thế nầy mà theo đó nghĩ nhớ đến chư Phật như: Đức Thế Tôn đầy chính là Như Lai A-la-hán, rộng nói cho đến là Phật, Bạc-già-phạm. Nếu các hàng đệ tử Phật từ tướng như thế, tùy theo đó nghĩ nhớ đến chư Phật bằng thấy biết làm căn bản, tương ưng với chánh trí. Các niệm như niệm tùy theo, niệm riêng biệt, niệm nhớ nghĩ. Tính chất của ý niệm, tính chất của tùy niệm (sự nghĩ nhớ theo) tính chất của sự nghĩ nhớ riêng rẽ (biệt niệm), tính chất sự chẳng quên, tánh chẳng quên các giáo pháp, tâm sáng suốt, tánh ghi nhớ rõ ràng…, đó là tùy niệm Phật.

– Thế nào là tùy niệm pháp?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Quý vị Bí-sô nên biết! Có các hàng đệ tử Đức Phật do tướng như thế mà tùy theo nghĩ nhớ đến chánh pháp tức là chánh pháp do Phật đã khéo léo trình bày diễn giảng cho đến bậc trí đã được nội chứng… Nếu các hàng đệ tử Phật do tướng như thế mà tùy theo đó mà nghĩ nhớ đến chánh pháp. Do thấy biết làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng nhau… Rộng nói như trước. Đó là tùy niệm pháp.

– Thế nào là tùy niệm Tăng?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Quý vị Bí-sô nên biết! Có các hàng đệ tử Phật do tướng như thế mà tùy theo nghĩ nhớ đến chư Tăng, đó là những hàng đệ tử Phật đầy đủ các hạnh diệu. Rộng nói cho đến là phước điền vô thượng ở thế gian đáng được cúng dường. Nếu các hàng đệ tử Phật theo tướng như thế mà nghĩ nhớ đến chư Tăng. Do thấy biết làm căn bản cùng chứng trí tương ưng nhau… Rộng nói như trước. Đó là tùy niệm Tăng.

– Thế nào là tùy niệm giới?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Quý vị Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử Phật do tướng như thế mà tùy theo đó nghĩ nhớ đến giới hạnh của mình, như là giới hạnh nầy thanh tịnh không hề thiếu sót… Rộng nói cho đến các bậc trí luôn khen ngợi không hề quở trách chê bai. Nếu các hàng đệ tử Phật do tướng như thế mà theo đó nghĩ nhớ đến các giới hạnh của mình. Do thấy biết làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng nhau.

Rộng nói như trước, đó là tùy niệm giới.

– Thế nào là tùy niệm xả?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Quý vị Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử Phật do tướng như thế mà tùy theo đó nghĩ nhớ đến sự buông xả của mình. Như bảo: Tôi hiện nay không còn mê đắm của cải tiền bạc nữa. Đối với tật xấu tham lam keo kiệt buộc chặt mọi người thì tôi đã lìa bỏ được nó, tâm tôi không còn đam mê vướng víu nữa. Hãy dang rộng tay mà bố thí ban tặng tất cả những tiền bạc của cải có được cho mọi người. Buông bỏ tài sản tiền của không một chút tiếc nuối đoái hoài. Phân chia tiền của ban tặng khắp nơi lòng không thiên lệch phe phái… Nếu các hàng đệ tử Phật nên với cái tướng như thế mà theo đó nhớ nghĩ tới sự buông xả của mình. Do thấy biết làm căn bản cùng với chứng trí tương ưng nhau. Rộng nói như trước. Đó là tùy niệm xả.

– Thế nào là tùy niệm các cõi trời?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Quý vị Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử Phật do tướng như thế mà tùy theo đó nghĩ nhớ đến các cõi trời. Như có chúng trời Tứ Đại vương, có trời Ba Mươi Ba… Trong đó có các cõi như cõi trời Dạ-ma, cõi trời Đổ-sử-đa, cõi trời Lạc-biến-hóa, cõi trời Tha-hóa-tự-tại. Nếu người nào đã thành tựu được tín giới không điên đảo và nghe học được trí tuệ buông xả (xả tuệ) thì sau khi chết đã được sinh lên cõi trời đó. Tôi cũng thành tựu được tín giới không điên đảo, đã nghe học được khéo léo xả tuệ, vì sao tôi chẳng được sinh lên cõi trời đó? Nếu các đệ tử Phật do tướng như thế theo đó mà nghĩ nhớ đến các cõi trời. Do thấy biết làm căn bản, cùng với chứng trí tương ưng nhau. Các niệm liên tục, niệm riêng biệt, niệm nghĩ nhớ, tánh niệm, tánh tùy niệm, tánh nghĩ riêng biệt, tánh không lãng quên, tánh không lãng quên chánh pháp, tánh tâm sáng suốt ghi nhớ lâu… Đó là tùy niệm thiên hay các cõi trời.

Có sáu pháp vô thượng:

  1. Thấy vô thượng.
  2. Nghe vô thượng.
  3. Lợi vô thượng.
  4. Học vô thượng.
  5. Hành vô thượng.
  6. Niệm vô thượng.

– Thế nào là thấy vô thượng?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Quý vị Bí-sô nên biết! Như có một số Bổ-đặc-già-la đến ngắm xem các vòng báu, voi báu, ngựa báu, ngọc châu báu, nữ báu, chủ kho tàng, quan báu, vua chúa, binh lính, quan hầu quý báu… Hoặc lại đến viếng thăm nhìn ngắm hoặc Sa-môn hay Bàla-môn có tà kiến và hạnh tà kiến…, thì ta bảo số Bổ-đặc-già-la đó tuy là có thấy chứ không phải chẳng thấy. Nhưng đó là cái thấy thấp hèn có bản tánh của hàng phàm phu dị sinh chứ không phải của bậc Thánh hiền, còn như những kẻ có tu hành, có gieo trồng sự tín, ái thanh tịnh và đến thăm viếng nhìn xem Như Lai và các đệ tử Phật, ta nói số người đó có cái thấy vô thượng, vì có thể tự gây được lợi ích cho mình và giúp mình được an lạc. Cũng khiến cho tự thân mình được yên ổn, vượt ra khỏi các tai nạn sầu khổ, diệt tan hết các sự đau buồn và nhanh chóng chứng được các pháp yếu đúng lý. Đó gọi là thấy vô thượng.

– Thế nào là nghe vô thượng?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Như có một số Bổ-đặc-già-la đến nghe các thứ tiếng của voi, tiếng ngựa, tiếng xe chạy, tiếng bước chân đi, tiếng thổi tù và, tiếng trống lớn bé, tiếng kêu gọi, tiếng ca hát, tiếng đàn hát âm nhạc. Hoặc đến nghe Sa-môn, hoặc Bà là môn phát khởi tà kiến và hạnh tà kiến, nói các pháp tà, thì ta bảo rằng số Bổ-đặc-già-la đó tuy là có nghe chứ chẳng phải không nghe. Nhưng đó là cái nghe thấp hèn có tự tánh của phàm phu dị sinh chứ không phải là của Thánh hiền. Còn như những người có tu hành, biết gieo trồng sự tín, ái thanh tịnh đến thăm viếng nghe Như Lai và các đệ tử Phật diễn nói chánh pháp. Ta bảo số người đó có cái nghe vô thượng, vì có thể tự gây được lợi ích cho mình… Rộng nói cho đến nhanh chóng chứng được các pháp yếu đúng lý. Đó gọi là nghe vô thượng.

– Thế nào là lợi vô thượng?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Như có một số Bổ-đặc-già-la, hoặc có được vợ con hoặc có nhiều ngọc quý, tiền bạc hay lúa thóc, hoặc nhiều bạn bè thân hữu. Hoặc đối với Sa-môn hay Bà-la-môn có phát khởi tà kiến và hạnh tà kiến và số người đó lại tin yêu sâu xa, thì ta bảo rằng số Bổ-đặc-già-la đó tuy gọi là được lợi nhưng không phải là được lợi, mà đó là lợi thấp hèn của phàm phu dị sinh, chứ không phải là lợi của bậc Thánh hiền. Còn như những người có tu hành, biết gieo trồng sự tín ái thanh tịnh lại hay đến chỗ Như Lai và các đệ tử Phật mà sinh lòng tin tưởng ái mộ sâu xa, thì ta bảo rằng số người đó được cái lợi vô thượng vì có thể gây được ích lợi cho mình. Rộng nói cho đến nhanh chóng chứng được các pháp yếu đúng lý. Đó gọi là lợi vô thượng.

– Thế nào là học vô thượng?

Đáp: Đức Thế Tôn có nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Như có một số Bổ-đặc-già-la, hoặc học cỡi voi, cỡi ngựa, hoặc học bắn cung, phóng tên, hoặc học cầm câu móc, hoặc cầm dây, cầm thẻ bài hoặc học lên xe hay xuống xe, hoặc học phóng chạy hay nhảy xa, nhảy cao, hoặc học viết sách, số học, tính toán, toán số v.v… Hoặc học với Sa-môn hay Bàla-môn có tà kiến và tà hạnh lấy đó đem ra dạy học…, thì ta bảo rằng số Bổ-đặc-già-la đó tuy có chỗ học chớ không phải không học, nhưng đó là cái học có tự tánh thấp hèn của phàm phu dị sinh chứ không phải cái học của các bậc Thánh hiền. Còn như những kẻ có tu hành, gieo trồng sự tín ái thanh tịnh, thường hay học các môn học của Như Lai và các đệ tử Phật đã học. Ta bảo rằng số người đó có cái học vô thượng, vì có thể tự gây được ích lợi cho mình. Rộng nói cho đến nhanh chóng chứng được các pháp yếu đúng lý. Đó là học vô thượng.

– Thế nào là hành vô thượng?

Đáp: Đức Thế Tôn có nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Như một số Bổ-đặc-già-la, hoặc làm việc điều phục huấn luyện voi, ngựa, hoặc làm việc luyện người, luyện trâu, hoặc làm các việc thờ lửa, hoặc thờ mặt trăng, thờ mặt trời, thờ thuốc, thờ ngọc châu, thờ tinh tú, thờ cung điện v.v… các việc hoặc làm Sa-môn, Bà-la-môn có tà kiến và hạnh tà kiến và đến xin thọ học làm việc đó… Ta bảo rằng số Bổ-đặc-già-la đó tuy là có việc chứ chẳng phải không làm. Nhưng đó là việc làm có tự tánh thấp hèn của dị sinh phàm phu chứ không phải của bậc Thánh hiền. Còn như có những người có tu hành, gieo trồng sự tín ái thanh tịnh, thường hay làm những việc làm của Như Lai và các đệ tử Phật đã làm. Ta bảo rằng số người nầy có sự làm việc (hành) vô thượng, vì có thể tự gây được lợi ích cho mình. Rộng nói cho đến nhanh chóng chứng được các pháp yếu đúng lý. Đó là hành vô thượng.

– Thế nào là niệm vô thượng?

Đáp: Đức Thế Tôn có nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Như có một số Bổ-đặc-già-la hoặc nhớ nghĩ vợ con hay tiền của lúa thóc, hoặc nghĩ nhớ bạn bè, hoặc nghĩ nhớ Sa-môn hay Bà-la-môn là những kẻ có tà kiến và hạnh tà kiến (làm việc tà kiến) và phép tà của họ. Ta bảo rằng số Bổ-đặc-già-la đó tuy có nhớ nghĩ chứ chẳng phải không nhớ nghĩ. Nhưng đó là sự nhớ nghĩ có tự tánh thấp hèn của phàm phu dị sinh chứ không phải của bậc Thánh hiền. Còn như những kẻ có tu hành, gieo trồng sự tín ái thanh tịnh, thường hay nghĩ nhớ đến Như Lai và các vị đệ tử Phật. Ta bảo số người nầy có sự nghĩ nhớ (niệm) vô thượng, vì có thể tự gây được sự lợi ích cho mình, có thể tự giúp mình được an lạc, cũng có thể khiến tự thân mình luôn được an ổn mà sống. Và vượt thoát khỏi tai nạn của sấu lo, diệt trừ dứt hết các lo buồn khổ não. Nhanh chóng chứng được các pháp yếu đúng lý. Đó là niệm vô thượng.

Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Nếu được lìa tương ưng
An ổn thấy vô thượng
Nghe, lợi, học, làm, nhớ
Tất đến được không sầu.

Có sáu pháp quán đãi (Quán đối):

  1. Quán đãi sắc.
  2. Quán đãi thanh.
  3. Quán đãi hương.
  4. Quán đãi vị.
  5. Quán đãi xúc.
  6. Quán đãi pháp.

Hỏi: Thế nào là quán đãi sắc?

Đáp: Nếu thứ sắc hữu lậu có chấp trước, với các sắc nầy ở các thời, hoặc quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, hoặc có dục, hoặc tham, hoặc sân, hoặc si, hoặc tùy mỗi mỗi tâm sở và tùy phiền não mà đúng lúc sinh ra… Thì đó gọi là quán đãi sắc.

Các thứ: thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là quán đãi?

Đáp: Nếu như pháp hữu lậu có chấp trước, thì đối với các pháp đó hoặc ở quá khứ, hoặc vị lai hay ở hiện tại, hoặc có dục, hoặc tham, hoặc sân hay si, hoặc tùy mỗi mỗi tâm sở hay tùy phiền não mà đúng lúc sinh ra, thì đó gọi là quán đãi.

Có sáu loại sinh:

  1. Có loại Bổ-đặc-già-la đời đen sinh pháp đen.
  2. Có loại Bổ-đặc-già-la đời đen sinh pháp trắng.
  3. Có loại Bổ-đặc-già-la đời đen sinh pháp Niết-bàn không đen không trắng.
  4. Có loại Bổ-đặc-già-la đời trắng sinh pháp trắng.
  5. Có loại Bổ-đặc-già-la đời trắng sinh pháp đen.
  6. Có loại Bổ-đặc-già-la đời trắng sinh pháp Niết-bàn không đen không trắng.

– Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la đời đen sinh pháp đen?

Đáp: Như có một số người sinh vào một số nhà nghèo hèn bần tiện gọi là chiên đà la… Rộng nói cho đến như nhà nghèo thiếu ăn thiếu mặc. Người nầy sinh vào nhà đó, hình dung xấu xí, không ai thích nhìn, mọi người cùng khinh ghét. Phần lớn đều làm mướn cho kẻ khác, bất cứ việc gì. Cho nên gọi là đen, và từ loại đen như thế, họ lại tạo ra các nghiệp xấu ác về thân, ngữ, ý. Đến khi chết rồi thì bị đọa vào các đường dữ nên phải sinh vào chốn địa ngục để chịu bao đau khổ cùng cực. Nên gọi là loại Bổ-đặc-già-la đời đen sinh pháp đen.

1. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la đời đen sinh pháp trắng?

Đáp: Như có một số người sinh vào nhà nghèo hèn bần tiện, gọi là nhà chiên trà la, rộng nói là nhà nghèo thiếu ăn, thiếu mặc. Người nầy sinh vào chốn ấy, hình dung xấu xí, không ai thích nhìn lại hay quở trách chê trách. Phần lớn đều phải làm mướn cho kẻ khác, bất cứ việc gì, nên gọi là đen. Nhưng người nầy lại biết tạo ra các hạnh nghiệp tốt lành về thân, ngữ, ý. Do nhân duyên ba nghiệp thiện đó nên sau khi chết rồi được sinh vào cõi thiện, ở trong các cõi trời mà hưởng bao điều vui thú tuyệt diệu. Đó gọi là loại Bổ-đặc-già-la đời đen mà sinh pháp trắng.

2. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la đời đen mà sinh ra pháp Niết-bàn không đen, không trắng?

Đáp: Như có một số người sinh vào nhà nghèo hèn bần khổ, gọi là nhà Chiên-trà-la. Rộng nói như là nhà thiếu ăn, thiếu mặc. Người nầy sinh vào chốn ấy hình dung xấu xí, không ai thích nhìn lại còn quở trách chửi mắng. Phần lớn đều phải làm mướn cho kẻ khác bất cứ việc gì, nên gọi là đen. Với cuộc đời đen đúa buồn thảm như thế, người nầy nghe biết Đức Như Lai vì mọi chúng sinh giảng dạy các chứng pháp như thật Tỳ-nại-da liền đến nghe pháp. Sau khi nghe rồi sinh lòng tin tưởng thanh tịnh. Với tâm tịnh tín đó, người ấy suy nghĩ thấy rằng ở nhà biết bao sự ràng buộc bức bách, khác nào chốn lao tù với biết bao phiền toái lo toan khổ não. Còn thoát khỏi gia đình thì khác nào phóng mình vào chốn hư không mênh mông bát ngát, tự do thoải mái và tất cả các nhân pháp thiện sẽ nảy sinh lớn mạnh. Lại nghĩ cứ mãi bận bịu gia đình thì chẳng còn rãnh rang mà tu ít pháp thiện ở đời, huống hồ là đem hết cả cuộc đời mình siêng năng chuyên cần tu học thuần nhất vẹn toàn một cuộc sống phạm hạnh trong trắng. Vậy thì, ta cần nên cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp phục với lòng chánh tín mạnh mẽ đưa thân vào cuộc sống không nhà, siêng năng tu tập phạm hạnh. Sau khi nghĩ kỹ, anh ta liền quyết ý xa bỏ hết sự sản, tiền bạc và người thân, cạo bỏ râu tóc, mình mặc pháp y, lòng tin vững chắc, sống kiếp thênh thang không bận bịu gia đình xin thọ trì giới pháp ngày đêm siêng năng chuyên cần giữ gìn giới hạnh giải thoát đặc biệt. Tất cả các quy điều phép tắc tuân hành nghiêm ngặt. Dù một lỗi nhỏ cũng hết sức áy náy lo âu. Luôn đến tìm học ở mọi nơi không hề trái phạm. Tuân giữ các giới hạnh sâu kín siêng năng tu giới luật…, dần dần chứng được Tứ thiền. Do vì tâm định nên các lậu dứt hết. Nên chứng được tuệ tâm giải thoát vô lậu. Rộng nói cho đến không còn phải nhận thân đời sau nữa. Thế nên gọi là loại Bổ-đặcgià-la đời đen mà sinh pháp Niết-bàn không đen không trắng.

3. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la đời trắng sinh pháp trắng?

Đáp: Như có một số người sinh vào nhà giàu sang như các loại giai cấp lớn của các hàng Sát đế lỵ, Bà-la-môn hay các dòng dõi lớn như Trưởng giả, cư sĩ, hoặc sinh vào một gia đình giàu có sang trọng nào khác, nhiều tiền lắm của, kho tàng đầy ấp. Người nầy sinh vào chốn ấy, hình dạng đẹp đẽ, uy nghi ai cũng thích nhìn, mọi người đều kính trọng khen tốt. Nên gọi là trắng. Với cuộc đời sáng tươi trắng trẻo như thế, anh ta lại gây tạo các hạnh nghiệp tốt lành về thân, ngữ, ý. Do nhân duyên ba nghiệp thiện đó, nên sau khi chết thì được sinh vào các đường thiện, ở trong các cõi trời mà hưởng mọi phước báu vui thú tuyệt diệu.

Thế nên gọi là loại Bổ-đặc-già-la đời trắng sinh pháp trắng.

4. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la đời trắng sinh pháp đen?

Đáp: Như có một số người sinh vào nhà giàu sang quyền quý như các giai cấp lớn của các hàng Sát đế lỵ, Bà-la-môn hay các dòng dõi cao sang của Trưởng giả, cư sĩ hoặc một loại gia thế giàu có sang trọng nào khác, lắm tiền nhiều của, kho lãm đầy ấp. Người đó sinh vào chốn ấy hình dung đẹp đẽ uy nghi ai cũng thích ngắm nhìn, khen ngợi là tốt. Cho nên gọi là trắng. Với cuộc đời sáng tươi trắng trẻo như thế, anh ta lại gây tạo ra các hạnh nghiệp xấu ác về thân, ngữ, ý. Do nhân duyên ba nghiệp xấu ác nầy nên sau khi chết rồi phải đọa vào các đường dữ, ở trong địa ngục chịu bao nhiêu khốn khổ cực hình. Đó gọi là loại Bổđặc-già-la đời trắng mà sinh pháp đen.

5. Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la đời trắng mà sinh pháp Niết-bàn không đen không trắng?

Đáp: Như có một số người được sinh vào nhà giàu sang quyền quý như các giai cấp lớn của các hàng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn hoặc các dòng dõi lớn, như trưởng giả, cư sĩ hay một loại gia thế giàu có sang trọng nào khác, lắm tiền nhiều của kho tàng đầy ấp…, nên gọi là trắng. Với cuộc đời sáng tươi trắng trẻo như thế, người nầy nghe đồn có Đức Như Lai diễn giảng đúng như thật các chứng pháp Tỳ-nại-da, liền đến nghe pháp. Khi đã nghe xong liền được tín tâm thanh tịnh. Người nầy đã thành tựu được lòng tin tưởng thanh tịnh rồi thì tự nghĩ ở nhà sẽ gặp biết bao sự ràng buộc bức bách khác nào chốn lao tù với bao nhiêu lo toan phiền toái khổ não. Còn thoát khỏi gia đình thì khác chi phóng mình giữa chốn hư không mênh mông tự tại và các nhân của pháp thiện sẽ nảy sinh và lớn mạnh. Lại nghĩ cứ mãi bận bịu vướng víu gia đình thì chẳng còn rãnh rang mà tu chút ít pháp thiện ở đời, huống hồ là dành cả cuộc đời mình để siêng năng chuyên cần tu học thuần nhất một cuộc sống phạm hạnh trong trắng. Vậy thì ta cần nên cạo bỏ râu tóc, mặc pháp ý. Với lòng chánh tín mạnh mẽ, ta sống một cuộc sống không nhà, siêng gắng tu tập phạm hạnh. Sau khi nghĩ kỹ anh ta liền quyết ý từ bỏ tất cả tài sản tiền bạc, người thân thích, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, lòng tin vững chắc, sống kiếp thênh thang không bận bịu gia đình. Xin thọ trì giới pháp, ngày đêm siêng năng chuyên cần giữ gìn giới hạnh về giải thoát đặc biệt. Tất cả quy điều phép tắc tuân giữ nghiêm ngặt dù một lỗi nhỏ cũng hết sức áy náy âu lo, luôn đến tìm học ở mọi nơi không hề trái phạm. Luôn giữ gìn các giới hạnh sâu kín siêng tu giới luật, đến khi đầy đủ các niệm chánh tri thấy biết đúng thực diệt hết sự ngăn che, chứng được Tứ thiền. Do đó dần dần đến khi các lậu dứt hẳn, chứng được tâm giải thoát, và tuệ giải thoát. Ngay trong hiện đời được chứng các thông tuệ hiểu đầy đủ: Đời sống ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không nhận thân đời sau nữa. Đó gọi là loại Bổ-đặc-già-la đời trắng mà sinh pháp Niết-bàn không đen không trắng.