LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử.
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 6: NĂM PHÁP

Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-tử lại bảo với đại chúng: Toàn thể các thầy nên biết, Đức Phật hiểu biết rõ ràng cặn kẽ năm pháp. Khi đã thấu suốt rồi Ngài vì các hàng đệ tử mà dạy bảo chỉ bày, nay chúng ta cần phải hòa hợp mà kết tập lại, để sau khi Phật diệt độ rồi thì không có sự tranh cãi nhau. Do đó cũng nên tùy thuận cùng tuân giữ Phạm hạnh và các giới luật để có lợi ích lâu dài cho vô số chúng hữu tình. Hãy thương xót hàng trời, người ở thế gian này mà khiến họ hưởng nhận được nhiều lợi ích an lạc thù thắng.

Năm pháp là gì? Ở đây có hai bài Tụng (Ốt-đà-nam) sẽ nói rõ.

Bài tụng (Ốt-đà-nam) thứ nhất nói:

Một: Năm pháp có mười,
Là uẩn, thủ, diệu, dục,
Xan, thú, cái, tài, phược,
Năm kết phần trên dưới.

Gồm có: Năm thứ uẩn, năm thứ thủ uẩn, năm thứ diệu dục, năm thứ keo kiệt, năm thứ thú (cõi – đường), năm thứ màn che, năm thứ tâm gieo trồng, năm thứ tâm trói buộc, năm thứ kết thuận phần dưới và năm thứ kết thuận phần trên.

Năm uẩn: Gồm sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.

1. Thế nào là sắc uẩn?

Đáp: Tức là các thứ sắc…, ở quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, kém hay hơn, xa hay gần…, tất cả những thứ như thế tóm tắt gọi chung một khối là Sắc uẩn.

2. Thế nào là thọ uẩn?

Đáp: Tức là tất cả các thứ thọ nhận của các thời quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, kém hay hơn, xa hay gần…, tất cả những thứ như thế, tóm tắt gọi chung một khối là Thọ uẩn.

3. Thế nào là tưởng uẩn?

Đáp: Tức là tất cả các thứ ý nghĩ (tưởng), ở các thời quá khứ, vị lai, hiện tại hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, kém hay hơn, xa hay gần…, tất cả những thứ như thế tóm tắt gọi chung một khối là Tưởng uẩn.

4. Thế nào là hành uẩn?

Đáp: Tức là tất cả các thứ hành, ở các thời quá khứ, vị lai, hiện tại hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, kém hay hơn, xa hay gần…, tất cả những thứ như thế tóm tắt gọi chung một khối là Hành uẩn.

5. Thế nào là thức uẩn?

Đáp: Tức là tất cả các thứ thức, ở các thời quá khứ, vị lai, hiện tại hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, kém hay hơn, xa hay gần…, tất cả những thứ như thế tóm tắt gọi chung một khối là Thức uẩn.

Trong này nói hết thảy sắc. Hết thảy các thứ sắc là gì? Hết thảy các thứ sắc đó là bốn đại: Đất, nước, lửa, gió và tất cả các thứ do chúng tạo ra. Đó là tất cả các thứ sắc.

Lại tất cả các thứ sắc còn có mười lĩnh vực của sắc, và sắc gồm thâu do lĩnh vực của pháp. Vì thế gọi là tất cả các thứ sắc.

Về các thời quá khứ, vị lai và hiện tại.

Thế nào là sắc thời quá khứ? Nếu những sắc nào đã có (khởi) hay đã có cùng khởi, đã sinh hay sinh tất cả, đã chuyển đổi hay đang chuyển đổi, đã tụ tập, đã xuất hiện, đã tạ từ qua đi, đã biến mất hay chia lìa biến đổi, có tự tánh đã qua, giống loại quá khứ, tùy thuộc đời quá khứ… Đó gọi là sắc thời quá khứ.

Thế nào là sắc thời vị lai? Như các loại sắc chưa khởi, chưa cùng khởi, chưa sinh, chưa sinh tất cả, chưa chuyển đổi, chưa đang chuyển đổi, chưa tụ tập, chưa xuất hiện. Thuộc tự tánh vị lai, giống loại vị lai, tùy thuộc đời vị lai… Đó gọi là sắc thời vị lai.

Thế nào là sắc thời hiện tại? Như các loại sắc đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã sinh tất cả, đã chuyển đổi, đang chuyển đổi, đang tụ tập, đang xuất hiện, trụ vào chỗ, hiện đang ra đi. Hiện đang diệt mất, hiện đang biến đổi và hòa hợp ngay trong hiện tiền, bản tánh hiện tại, giống loại hiện tại, thuộc đời hiện tại… Đó gọi là sắc thời hiện tại.

Hoặc trong hay ngoài. Thế nào là sắc trong? Nếu sắc ở chỗ nối tiếp liên tục đã được mà chẳng mất, thì đó gọi là sắc trong (nội sắc).

Sắc ngoài là thế nào? Nếu ở chỗ nối tiếp liên tục hoặc xưa vốn chưa được hoặc đã được nhưng lại mất đi, hoặc là nối tiếp nhau hoặc thuộc loại không có tinh thần tình cảm thì đó gọi là sắc ngoài (vô cơ).

Sắc hoặc thô hay tế là bày ra (thi thiết), về sắc thô, sắc tế là thế nào? Tức là quán đãi (đối) đặt ra sắc thô và tế. Nó như thế nào? Nếu như quán đãi sắc không thấy mà có đối hay sắc có thấy, có đối, thì gọi đó là thô (to). Còn nếu quán đãi sắc có thấy có đối hay sắc không thấy mà có đối, thì đó là tế.

Hoặc quán đãi sắc không thấy không có đối, hay sắc không thấy mà có đối, thì gọi là thô. Còn nếu quán đãi sắc không thấy mà có đối hay sắc không thấy không có đối, thì gọi là tế.

Nếu quán đãi sắc của cõi Sắc thì sắc của cõi Dục là thô. Còn quán đãi sắc của cõi Dục, thì sắc của cõi Sắc là tế. Nếu quán đãi cái sắc không bị ràng buộc hệ lụy, thì sắc cõi Sắc là thô. Còn như quán đãi sắc cõi Sắc thì sắc không bị ràng buộc hệ lụy là tế. Như thế mà lập ra, có sắc thô và sắc tế. Nên gọi là sắc thô và tế.

Sắc hoặc kém hay hơn. Lập ra sắc kém sắc hơn như thế nào? Là quán đãi mà lập ra sắc kém và sắc hơn.

Nó như thế nào? Nếu quán đãi sắc bị ngăn che hay vô ký thì sắc bất thiện là kém. Còn nếu quán đãi sắc chẳng thiện thì sắc bị ngăn che và sắc vô ký là hơn. Nếu quán đãi sắc không bị ngăn che không vô ký thì sắc có bị ngăn che và vô ký là kém. Còn quán đãi sắc có bị ngăn che và vô ký, thì sắc không bị ngăn che, không vô ký là hơn.

Nếu quán đãi sắc thiện hữu lậu, thì sắc không bị ngăn che và không vô ký là kém, còn như quán đãi sắc không bị ngăn che, không vô ký thì sắc thiện hữu lậu là hơn. Nếu quán đãi sắc thiện vô lậu, thì sắc thiện hữu lậu là kém. Còn quán đãi sắc thiện hữu lậu, thì sắc thiện vô lậu là hơn.

Nếu quán đãi sắc ở cõi Sắc, thì sắc ở cõi Dục là kém, còn quán đãi sắc cõi Dục, thì sắc cõi Sắc là hơn. Nếu quán đãi sắc chẳng bị ràng buộc, thì sắc ở cõi Sắc là kém, còn nếu quán đãi sắc ở cõi Sắc thì sắc không bị ràng buộc là hơn… Như thế mà thành lập (thi thiết) ra có sắc kém sắc hơn, cho nên gọi là sắc có kém hoặc hơn.

Sắc hoặc gần và xa. Thế nào là sắc xa? Đó là sắc ở quá khứ và vị lai.

Thế nào là sắc gần? Đó là sắc ở hiện tại.

Lại, thế nào là sắc xa? Nếu sắc ở thời quá khứ vẫn còn hoài (không liên tục mất mãi) và sắc ở thời vị lai không khởi lên ở trước mắt, thì đó là sắc xa.

Thế nào là sắc gần? Nếu sắc ở thời quá khứ mất luôn rồi, và sắc ở thời vị lai khởi lên trước mắt, thì đó là sắc gần.

Tất cả như thế tóm tắt gọi chung thành một khối. Tất cả tóm tắt làm một khối là sao? Nghĩa là suy luận tìm xét, lượng định quan sát thấy nó tụ hợp lại thành một khối.

Vì sao gọi là sắc uẩn? Sắc uẩn này chỉ bày rõ ràng sắc, uẩn, thân và sự tích tựu chứa nhóm. Nên gọi là sắc uẩn.

Tất cả các thứ thọ.

Tất cả các thứ thọ là gì? Hết thảy các thứ thọ thì gồm có sáu thọ của thân.

Sáu thứ thọ nào? Đó là khi mắt có chạm xúc (với cảnh sắc) thì sinh ra thọ. Và các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý… Khi chạm xúc thì sinh ra thọ nhận. Đó là sáu thứ (tất cả) thọ.

Các thọ ở thời quá khứ, vị lai, hiện tại.

Thế nào là thọ ở thời quá khứ? Nếu các thọ đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã cùng sinh, đã chuyển đổi và đã đang còn chuyển đổi, đã tụ hợp và đã xuất hiện, đã tạ từ ra đi, đã qua rồi, đã mất hết rồi, đã rã lìa biến đổi khác rồi, các thọ ấy có tính chất quá khứ, thuộc giống loại quá khứ, thuộc đời quá khứ. Đó gọi là Thọ quá khứ.

Thế nào là thọ ở thời vị lai? Nếu các thọ chưa khởi, chưa cùng khởi, chưa sinh, chưa cùng sinh, chưa chuyển đổi, chưa chuyển đổi tất cả, chưa hề tụ tập, chưa hề xuất hiện. Nó có tính chất vị lai (chưa xảy ra), thuộc giống loại vị lai, thuộc đời vị lai. Đó là thọ thời vị lai.

Thế nào là thọ ở thời hiện tại? Nếu các thọ đã đang khởi, đang cùng khởi, đã đang sinh, đang cùng sinh, đã đang chuyển đổi, đang chuyển đổi trong hiện tại, đang tụ tập nhóm họp và đang xuất hiện, đang trụ, đang từ tạ ra đi, đang diệt mất từ từ, đang lìa rã và biến đổi cái hòa hợp trước mắt. Các thọ này có tính chất hiện tại, thuộc giống loại hiện tại và thuộc đời hiện tại. Đó gọi là thọ của đời hiện tại.

Hoặc các thọ trong hay ngoài.

Thế nào là thọ ở trong? Nếu các thọ ở đây cứ mãi nối tiếp nhau đã có được mà không mất đi, thì gọi là thọ ở trong.

Thế nào là thọ ở ngoài? Nếu các thọ nối tiếp nhau hoặc từ xưa chưa có, hoặc đã có nhưng lại bị mất đi rồi, hoặc có các nối tiếp khác, thì gọi là thọ ở ngoài.

Hoặc các thọ thô hay tế.

Các thọ thô hay tế được thành lập như thế nào? Nếu khi quán đãi các thọ không có tầm mà chỉ có tứ thì các thọ có tầm có tứ được coi là thô. Còn khi quán đãi các thọ có tầm và từ thì thọ không tầm, chỉ có tứ là tế. Nếu quán đãi thọ không tầm, chỉ có tứ thì thọ không tầm không tứ là tế. Nếu khi quán đãi thọ cõi Sắc thì thọ cõi Dục là thô, còn nếu quán đãi thọ cõi Dục thì thọ cõi Sắc là tế. Nếu khi quán đãi thọ cõi Vô sắc thì thọ cõi Sắc là thô. Còn khi quán đãi thọ cõi Sắc thì thọ cõi Vô sắc là tế. Nếu khi quán đãi thọ chẳng bị ràng buộc (hệ), thì thọ cõi Vô sắc là thô, còn khi quán đãi thọ cõi Vô sắc thì thọ không bị ràng buộc là tế. Cứ như thế mà thành lập bày ra các thọ thô và tế.

Hoặc các thọ kém hay hơn.

Các thọ kém và hơn được thành lập như thế nào? Nên quán đãi để thành lập bày ra (thi thiết) các thọ kém và hơn. Nó như thế nào? Nếu khi quán đãi các thọ bị ngăn che và vô ký thì thọ chẳng thiện là kém. Còn nếu quán đãi thọ bất thiện thì thọ bị che lấp và vô ký là hơn. Nếu khi quán đãi thọ không bị che và vô ký, thì thọ bị che và vô ký là kém. Còn quán đãi thọ bị che và vô ký, thì thọ không bị che và vô ký là hơn. Nếu khi quán đãi thọ thiện hữu lậu thì thọ không bị che và vô ký là kém. Còn khi quán đãi thọ không bị che và vô ký thì thọ thiện hữu lậu là hơn. Nếu khi quán đãi thọ thiện vô lậu, thì thọ thiện hữu lậu là kém. Còn khi quán đãi thọ thiện hữu lậu, thì thọ thiện vô lậu là hơn. Nếu quán đãi thọ cõi Sắc thì thọ cõi Dục là kém, còn khi quán đãi thọ cõi Dục thì thọ cõi Sắc là hơn. Nếu khi quán đãi thọ cõi Vô sắc, thì thọ cõi Sắc là kém. Còn khi quán đãi thọ cõi Sắc thì thọ cõi Vô sắc là hơn. Nếu khi quán đãi thọ không bị ràng buộc, thì thọ cõi Vô sắc là kém. Còn khi quán đãi thọ cõi Vô sắc thì thọ không bị ràng buộc là hơn. Cứ như thế mà thành lập bày ra các thọ hơn kém.

Hoặc các thọ xa và gần.

Thế nào là các thọ xa? Là các thọ ở thời quá khứ và vị lai.

Thế nào là các thọ gần? Là các thọ ở thời hiện tại.

Lại nữa, thế nào là các thọ xa? Nếu các thọ thời quá khứ không liên tục diệt hẳn (tức vẫn còn) và các thọ thời vị lai chưa khởi lên trong hiện tại, thì đó là các thọ xa.

Thế nào là các thọ gần? Nếu các thọ ở thời quá khứ đã diệt hẳn, còn các thọ ở đời vị lai đang hiện khởi trước mắt thì gọi đó là các thọ gần.

Cứ như thế tất cả tóm tắt thành một tên là khối tụ tập.

Thế nào là tất cả tóm tắt thành một khối? Do suy lường, tìm xét, lượng định, thẩm xét, quan sát thì thấy nó tụ họp lại thành một khối.

Vì sao gọi là thọ uẩn? Ở đây, thọ uẩn này chỉ bày thọ, uẩn, thân và sự tích tựu chứa nhóm. Nên gọi là thọ uẩn.

Tất cả các thứ tưởng.

Tất cả các thứ tưởng là gì? Hết thảy các thứ tưởng thì gồm có sáu tưởng của thân.

Sáu thứ tưởng nào? Tức là khi mắt tiếp xúc (với sắc cảnh) thì sinh ra tưởng. Các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi chạm xúc thì sinh ra tưởng.

Đó là các thứ tưởng.

Các tưởng ở thời quá khứ, vị lai, hiện tại.

Thế nào là tưởng ở thời quá khứ? Nếu các tưởng đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã cùng sinh, đã chuyển đổi và đang chuyển đổi, đã tụ tập, đã xuất hiện, đã từ tạ ra đi, qua đi, tiêu mất, lìa rã và biến dời. Các tưởng tính chất quá khứ, thuộc giống loại quá khứ, thuộc đời quá khứ. Đó là tưởng quá khứ.

Thế nào là tưởng vị lai? Nếu các tưởng chưa khởi, chưa cùng khởi, chưa sinh, chưa cùng sinh, chưa chuyển đổi, chưa hiện rõ chuyển đổi, chưa tụ tập, chưa xuất hiện. Có tính chất vị lai, thuộc giống loại vị lai, thuộc đời vị lai. Đó là tưởng vị lai.

Thế nào là tưởng hiện tại? Nếu các tưởng đã đang khởi, đang cùng khởi, đang sinh, đang cùng sinh, đang chuyển đổi, hiện đang chuyển đổi, đang tụ tập và đang xuất hiện. Đang từ tạ ra đi, đang tiêu mất dần, đang rã lìa, biến dời với sự hòa hợp trước mắt. Nó thuộc tính chất hiện tại, giống loại hiện tại, thuộc đời hiện tại. Đó là tưởng hiện tại.

Các tưởng trong và ngoài.

Thế nào là tưởng trong? Nếu các tưởng nối tiếp nhau đã được mà chẳng mất thì gọi là tưởng trong.

Thế nào là tưởng ngoài? Nếu các tưởng đang nối tiếp, hoặc từ xưa chưa có được, hoặc được rồi mà lại mất, hoặc có các nối tiếp khác thì gọi là tưởng ngoài.

Các tưởng hoặc thô hay tế.

Các tưởng thô và tế được thành lập đặt ra như thế nào? Do quán đãi mà lập ra các tưởng thô và tế.

Như thế là sao? Nếu khi quán đãi tưởng không tầm, chỉ có tứ thì cái tưởng có tầm có tứ là thô. Còn khi quán đãi cái tưởng có tầm có tứ, thì cái tưởng không tầm chỉ có tứ là tế. Nếu quán đãi cái tưởng không tầm không tứ, thì cái tưởng không tầm chỉ có tứ là thô. Còn khi quán đãi cái tưởng không tầm chỉ có tứ thì cái tưởng không tầm không tứ là tế.

Nếu khi quán đãi tưởng cõi Sắc, thì tưởng cõi Dục là thô. Còn khi quán đãi tưởng cõi Dục, thì tưởng cõi Sắc là tế.

Nếu khi quán đãi tưởng cõi Vô sắc thì tưởng cõi Sắc là thô. Còn

khi quán đãi tưởng cõi Sắc thì tưởng cõi Vô sắc là tế.

Nếu khi quán đãi tưởng không bị ràng buộc, thì tưởng cõi Vô sắc là thô. Còn khi quán đãi tưởng cõi Vô sắc, thì tưởng không bị ràng buộc là tế. Cứ như thế mà thành lập bày ra các tưởng thô và tế.

Các tưởng kém hoặc hơn. Các tưởng kém hay hơn được thành lập ra sao? Quán đãi để thành lập các tưởng kém và hơn. Đây là sao? Nếu khi quán đãi tưởng bị ngăn che và vô ký thì tưởng chẳng thiện là kém. Còn nếu quán đãi tưởng chẳng thiện, thì tưởng bị ngăn che và vô ký là hơn.

Nếu khi quán đãi tưởng không bị ngăn che và vô ký, thì tưởng có bị ngăn che và vô ký là kém. Còn nếu quán đãi tưởng bị ngăn che và vô ký, thì tưởng không bị ngăn che và vô ký là hơn.

Nếu khi quán đãi tưởng thiện hữu lậu thì tưởng không bị ngăn che và vô ký là kém. Còn khi quán đãi tưởng không bị ngăn che và vô ký, thì tưởng thiện hữu lậu là hơn.

Nếu khi quán đãi tưởng thiện vô lậu thì tưởng thiện hữu lậu là kém. Còn khi quán đãi tưởng thiện hữu lậu, thì tưởng thiện vô lậu là hơn.

Nếu quán đãi tưởng cõi Sắc thì tưởng cõi Dục là kém. Còn khi quán đãi tưởng cõi Dục thì tưởng cõi Sắc là hơn.

Nếu khi quán đãi tưởng cõi Vô sắc, thì tưởng cõi Sắc là kém. Còn nếu quán đãi tưởng cõi Sắc thì tưởng cõi Vô sắc là hơn.

Nếu khi quán đãi tưởng không bị ràng buộc thì tưởng cõi Vô sắc là kém. Còn nếu quán đãi tưởng cõi Vô sắc thì tưởng không bị ràng buộc là hơn.

Cứ như thế mà thành lập đặt ra các tưởng thô và tế.

Các tưởng xa hoặc gần.

Thế nào là tưởng xa? Các tưởng ở thời quá khứ và vị lai là xa.

Thế nào là tưởng gần? Các tưởng ở thời hiện tại là gần.

Lại nữa, thế nào là tưởng xa? Nếu các tưởng quá khứ không liên tục diệt hẳn (tức vẫn còn) và các tưởng thời vị lai chưa khởi lên trong hiện tại, thì đó là tưởng xa.

Thế nào là tưởng gần? Nếu các thọ ở thời quá khứ đã diệt hẳn, còn các tưởng thời vị lai đang hiện khởi trước mắt thì gọi đó là tưởng gần.

Cứ thế tất cả tóm tắt thành một tên là khối.

Thế nào là tất cả tóm tắt thành một khối? Do suy lường, tìm xét, lượng định, quan sát thì thấy nó tụ họp thành một khối.

Vì sao gọi là Tưởng uẩn? Tưởng uẩn ở đây là làm sáng tỏ tưởng,

uẩn, thân và sự tích tụ chứa nhóm. Nên gọi là Tưởng uẩn.

Tất cả các thứ hành.

Tất cả các thứ hành là gì? Hết thảy các thứ hành thì gồm có sáu hành của thân(I).

Sáu thứ hành nào? Tức là khi mắt tiếp xúc (với sắc cảnh) thì sinh ra hành. Các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi tiếp xúc thì cũng sinh ra các thứ hành. Đó là tất cả các thứ hành.

Các hành ở thời quá khứ, vị lai, hiện tại.

Thế nào là hành ở thời quá khứ? Nếu các hành đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã cùng sinh, đã chuyển đổi và đang chuyển đổi, đã tụ tập, đã xuất hiện, đã từ tạ ra đi, đã qua đi, tiêu mất, lìa rã và biến dời. Nó có tính chất quá khứ, thuộc giống loại quá khứ, thuộc đời quá khứ. Đó là hành quá khứ.

Thế nào là hành thời vị lai? Nếu các hành chưa khởi, chưa cùng khởi, chưa sinh, chưa cùng sinh, chưa chuyển đổi và chưa hiện rõ chuyển đổi, chưa tu tập, chưa xuất hiện. Có tính chất vị lai, thuộc giống vị lai, thuộc đời vị lai. Đó là hành ở thời vị lai.

Thế nào là hành ở thời hiện tại? Nếu các hành đang khởi, đang cùng khởi, đang sinh, đang cùng sinh, đang chuyển đổi, hiện đang chuyển đổi. Đang tụ tập và xuất hiện, đang từ tạ ra đi, đang tiêu mất dần. Đang rã lìa biến dời với sự hòa hợp hiện tại trước mắt. Nó thuộc tính chất hiện tại, giống loại hiện tại, thuộc đời hiện tại. Đó là hành hiện tại.

Hoặc các hành trong và ngoài.

Thế nào là hành ở trong? Nếu các hành ở đây nối tiếp mãi đã có được mà chẳng mất đi thì gọi là hành ở trong.

Thế nào là hành ở ngoài? Nếu các hành nối tiếp nhau hoặc từ xưa chưa có, hoặc đã có nhưng đã mất, hoặc có các nối tiếp khác, hoặc không phải loại hữu tình thì gọi là hành ở ngoài.

Hoặc các hành thô và tế.

Các tưởng thô hay tế được thành lập đặt ra như thế nào? Quán đãi mà đặt ra các hành thô và tế.

Nó như thế nào? Nếu khi quán đãi cái hành không tầm mà chỉ có tứ, thì cái hành có tứ có tầm gọi là thô. Còn nếu quán đãi cái hành có tầm có tứ thì cái hành không tầm chỉ có tứ là tế.

Nếu khi quán đãi cái hành không tầm không tứ, thì cái hành không tầm chỉ có tứ là thô. Còn nếu quán đãi cái hành không tầm chỉ có tứ thì cái hành không tầm không tứ là tế.

Nếu quán đãi cái hành của cõi Sắc, thì cái hành của cõi Dục là

thô. Còn nếu quán đãi cái hành cõi Dục thì cái hành của cõi Sắc là tế.

Nếu quán đãi cái hành của cõi Vô sắc, thì cái hành của cõi Sắc là thô. Còn khi quán đãi cái hành của cõi Sắc thì cái hành của cõi Vô sắc là tế.

Nếu khi quán đãi cái hành không bị ràng buộc, thì cái hành cõi Vô sắc là thô. Còn khi quán đãi cái hành cõi Vô sắc thì cái hành không bị ràng buộc là tế. Cứ như thế mà thành lập đặt ra các hành thô và tế.

Hoặc các hành kém hoặc hơn.

Các hành hơn và kém được thành lập đặt ra như thế nào? Nên quán đãi mà đặt ra cái hành hơn và kém.

Nó như thế nào? Nếu khi quán đãi cái hành bị ngăn che và vô ký thì cái hành chẳng thiện là kém. Còn khi quán đãi cái hành chẳng thiện thì cái hành bị ngăn che vô ký là hơn.

Nếu khi quán đãi cái hành không bị ngăn che vô ký thì cái hành bị ngăn che vô ký là kém. Còn khi quán đãi cái hành bị ngăn che vô ký thì cái hành không bị ngăn che vô ký là hơn.

Nếu khi quán đãi cái hành thiện hữu lậu thì cái hành không bị ngăn che vô ký là kém. Còn khi quán đãi cái hành không bị ngăn che vô ký thì cái hành thiện hữu lậu là hơn.

Nếu khi quán đãi cái hành thiện vô lậu thì cái hành thiện hữu lậu là kém. Còn khi quán đãi cái hành thiện hữu lậu thì cái hành thiện vô lậu là hơn.

Nếu khi quán đãi cái hành cõi Sắc, thì cái hành cõi Dục là kém. Còn nếu quán đãi cái hành của cõi Dục thì cái hành của cõi Sắc là hơn.

Nếu quán đãi cái hành cõi Vô sắc thì cái hành của cõi Sắc là kém. Còn khi quán đãi cái hành cõi Sắc, thì cái hành của cõi Vô sắc là hơn.

Nếu khi quán đãi cái hành chẳng bị ràng buộc thì cái hành cõi Vô sắc là kém. Còn khi quán đãi cái hành cõi Vô sắc, thì cái hành chẳng bị ràng buộc là hơn.

Cứ như thế mà bày ra các thứ hành hơn hoặc kém.

Hoặc các hành xa và gần:

Thế nào là hành xa? Hành thời quá khứ và vị lai.

Thế nào là hành gần? Là hành thời hiện tại.

Lại, thế nào là các hành xa? Hành quá khứ tiếp nối mãi chẳng dứt, hoặc hành vị lai chưa khởi lên trong hiện tại. Đó là hành xa.

Thế nào là hành gần? Nếu các hành quá khứ liên tục đã đứt mất hoặc các hành vị lai hiện khởi lên trong hiện tại thì gọi là hành gần.

Tất cả như thế tóm tắt thành một khối.

Thế nào là tất cả tóm tắt thành một khối? Do suy lường tìm xét lượng định quan sát thì thấy nó tụ họp lại thành một khối.

Vì sao nói là Hành uẩn? Hành uẩn là ở đây làm sáng tỏ hành, uẩn, thân và sự tích tụ chứa nhóm. Nên gọi là Hành uẩn.

Tất cả các thứ thức.

Tất cả các thứ thức là gì? Hết thảy các thứ thức thì gồm có sáu thức nơi thân.

Sáu thức nào? Tức là khi mắt có tiếp xúc (với sắc cảnh) thì sinh ra các thức. Các thứ tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi tiếp xúc cũng sinh ra các thức. Như thế là tất cả các thứ thức.

Hoặc các thức ở thời quá khứ, vị lai, hiện tại.

Thế nào là thức ở thời quá khứ? Nếu các thức đã khởi, cùng khởi, đã sinh cùng sinh, đã chuyển đổi và hiện đang chuyển đổi. Đã tu tập, đã xuất hiện, đã từ tạ ra đi, đã qua đi, đã tiêu mất, đã rã lìa biến dời. Nó có tính chất quá khứ, thuộc giống loại quá khứ, thuộc đời quá khứ. Nên gọi là thức thời quá khứ.

Thế nào là thức thời vị lai? Nếu các thức chưa khởi, chưa cùng khởi, chưa sinh, chưa cùng sinh, chưa chuyển đổi, chưa hiện rõ chuyển đổi trước mắt. Chưa tụ tập và chưa xuất hiện. Nó có tính chất của vị lai, giống loại vị lai, thuộc đời vị lai. Nên gọi là thức thời vị lai.

Thế nào là thức thời hiện tại? Nếu các thức đang khởi, đang cùng khởi, đang sinh, đang cùng sinh, đang chuyển đổi, hiện đang chuyển đổi trước mắt. Đang tụ tập và xuất hiện, đang trụ, đang từ tạ ra đi, đang diệt mất từ từ, đang lìa rã và biến đổi cái hòa hợp trước mắt. Các thức này có tánh hiện tại, giống loại hiện tại và thuộc đời hiện tại. Đó là thức của thời hiện tại.

Hoặc các thức trong và ngoài.

Thế nào là thức trong? Nếu các thức cứ mãi nối tiếp nhau, đã có được mà không mất đi thì gọi là thức ở trong.

Thế nào là thức ở ngoài? Nếu các thức nối tiếp nhau, hoặc từ xưa chưa có, hoặc đã có nhưng đã mất đi, hoặc có các thứ nối tiếp khác, thì gọi là thức ở ngoài.

Hoặc các thức thô và tế.

Các thức thô hay tế được thành lập đặt ra như thế nào? Nên quán đãi mà đặt ra các thức thô và tế.

Nó như thế nào? Nếu khi quán đãi cái thức không có tầm mà chỉ có tứ, thì cái thức có tầm có tứ là thô. Còn khi quán đãi cái thức có tầm có tứ, thì cái thức không tầm chỉ có tứ là tế.

Nếu khi quán đãi cái thức không tầm không tứ thì cái thức không tầm chỉ có tứ là thô. Còn nếu quán đãi cái thức không tầm chỉ có tứ, thì cái thức không tầm không tứ là tế.

Nếu khi quán đãi cái thức cõi Sắc thì cái thức cõi Dục là thô. Còn khi quán đãi cái thức cõi Dục thì cái thức cõi Sắc là tế.

Nếu khi quán đãi cái thức cõi Vô sắc thì cái thức cõi Sắc là thô. Còn khi quán đãi cái thức cõi Sắc, thì cái thức cõi Vô sắc là tế.

Nếu khi quán đãi cái thức không bị ràng buộc thì cái thức cõi Vô sắc là thô. Còn khi quán đãi cái thức cõi Vô sắc thì cái thức không bị ràng buộc là tế.

Cứ như thế mà bày ra các thức thô và tế.

Hoặc các thức kém và hơn được thành lập đặt ra như thế nào? Nên quán đãi để thành lập các thức hơn và kém. Nó như thế nào? Nếu khi quán đãi cái thức bị ngăn che và vô ký thì cái thức chẳng thiện là kém. Còn khi quán đãi cái thức chẳng thiện thì cái thức bị ngăn che và vô ký là hơn.

Nếu khi quán đãi cái thức không bị ngăn che vô ký thì cái thức bị ngăn che vô ký là kém. Còn khi quán đãi cái thức bị ngăn che vô ký, thì cái thức không bị ngăn che vô ký là hơn.

Nếu khi quán đãi cái thức thiện hữu lậu, thì cái thức không bị ngăn che vô ký là kém. Còn nếu quán đãi cái thức không bị ngăn che vô ký thì cái thức thiện hữu lậu là hơn.

Nếu khi quán đãi cái thức thiện vô lậu thì cái thức thiện hữu lậu là kém. Còn khi quán đãi cái thức thiện hữu lậu thì cái thức thiện vô lậu là hơn.

Nếu khi quán đãi cái thức cõi Sắc, thì cái thức cõi Dục là kém. Còn nếu quán đãi cái thức cõi Dục thì cái thức cõi Sắc là hơn.

Nếu quán đãi cái thức cõi Vô sắc, thì cái thức cõi Sắc là kém. Còn khi quán đãi cái thức cõi Sắc, thì cái thức cõi Vô sắc là hơn.

Nếu quán đãi cái thức không bị ràng buộc thì cái thức cõi Vô sắc là kém. Còn khi quán đãi cái thức cõi Vô sắc thì cái thức không bị ràng buộc là hơn.

Cứ như thế mà thành lập bày ra các thức hơn và kém.

Hoặc các thức xa và gần.

Thế nào là thức xa? Là các thức thời quá khứ và thời vị lai.

Thế nào là thức gần? Là các thức ở thời hiện tại.

Lại, thế nào là các thức xa? Nếu các thức thời quá khứ không tiếp

nối mãi chẳng dứt, hoặc thức vị lai chưa khởi lên trong hiện tại. Đó là thức xa.

Thế nào là thức gần? Nếu các thức quá khứ tiếp nối đã đứt mất, hoặc các thức vị lai hiện khởi lên trong hiện tại, thì gọi là thức gần.

Tất cả như thế tóm tắt thành một khối.

Thế nào là tất cả tóm tắt thành một khối? Do xét tìm, suy lường, lượng định quan sát thì thấy nó tụ họp lại thành một khối.

Vì sao nói là Thức uẩn? Với Thức uẩn ở đây, nó làm sáng tỏ về thức, uẩn, thân và sự tích tụ chứa nhóm. Nên gọi là Thức uẩn.

Có năm thứ chấp uẩn: Đó là chấp sắc uẩn, chấp thọ uẩn, chấp tưởng uẩn, chấp hành uẩn và chấp thức uẩn.

1. Thế nào là chấp sắc uẩn?

Đáp: Nếu như có các thứ sắc hữu lậu rồi theo đó mà chấp chặt suốt các thời quá khứ, vị lai hay hiện tại để sinh ra các thứ hoặc tham, sân hay si, hay tất cả các tâm sở khác của tùy phiền não…, thì đó gọi là chấp sắc uẩn.

2. Thế nào là chấp thọ uẩn?

Đáp: Nếu khi có các thứ thọ hữu lậu rồi theo đó mà chấp chặt suốt các thời quá khứ, vị lai, hiện tại để sinh ra các thứ hoặc tham, sân hay si hoặc tất cả các thứ tâm sở khác của tùy phiền não…, thì đó là chấp thọ uẩn.

3. Thế nào là chấp tưởng uẩn?

Đáp: Nếu khi có các thứ tưởng hữu lậu, rồi theo đó mà chấp chặt suốt các thời quá khứ, vị lai, hiện tại để phải sinh ra các thứ hoặc tham, sân hay si, hay tất cả các tâm sở khác của tùy phiền não…, thì đó là chấp tưởng uẩn.

4. Thế nào là chấp hành uẩn?

Đáp: Nếu khi có các hành hữu lậu, rồi theo đó mà chấp chặt suốt các thời quá khứ, vị lai, hiện tại để sinh ra các thứ hoặc tham, sân hay si, hoặc tất cả các thứ tâm sở khác của tùy phiền não…, thì đó là chấp hành uẩn.

5. Thế nào là chấp thức uẩn?

Đáp: Nếu khi có các thức hữu lậu, rồi theo đó mà chấp chặt suốt cả các thời quá khứ, vị lai, hiện tại để sinh ra các thứ hoặc tham, sân hay si hoặc tất cả các tâm sở khác của tùy phiền não…, thì đó là chấp thức uẩn.

Năm thứ diệu dục (ham muốn sâu xa): Tức là:

1. Khi mắt nhận biết được các sắc thì sinh ra mọi thứ yêu mến, vui mừng, thích chí. Chính cái sắc đáng yêu mến đó sẽ dẫn đến các việc ham muốn đeo đuổi, đam mê chấp trước. Đó là diệu dục của mắt nhận biết sắc.

2. Khi tai nhận thức hiểu được các loại tiếng vang thì sinh ra mọi thứ yêu mến, vui mừng, thích chí. Chính cái tiếng đáng yêu mến đó nó dẫn đến các việc ham muốn đeo đuổi (tùy thuận) đam mê, chấp trước. Đó là diệu dục của tai nhận biết tiếng.

3. Khi mũi nhận thức biết được các thứ mùi thơm thối thì sinh ra các thứ yêu mến, vui mừng, thích chí. Chính cái mùi hương đáng yêu mến đó nó dẫn đến các việc ham muốn đeo đuổi, ham mê, chấp trước. Đó là diệu dục của mũi nhận biết mùi hương.

4. Khi lưỡi nhận thức biết được các vị mặn ngọt…, thì sinh ra các thứ yêu mến, vui mừng, thích chí. Chính cái vị đáng yêu mến đó nó dẫn đến các việc ham muốn, đeo đuổi, ham mê, chấp trước. Đó là diệu dục của lưỡi nhận biết vị.

5. Khi thân nhận biết được sự đụng chạm thì sinh ra các thứ yêu mến, vui mừng, thích chí. Chính sự đụng chạm đáng yêu mến đó nó dẫn đến các việc ham muốn đeo đuổi, đam mê, chấp trước. Đó là diệu dục của thân nhận biết sự đụng chạm.

Thế nào là diệu dục khi mắt nhận biết sắc?

Đáp: Nếu các sắc ở cõi Dục mà mắt tiếp xúc rồi thì sinh lòng yêu mến để làm điều kiện, thì đó gọi là diệu dục khi mắt nhận biết sắc.

Thế nào là diệu dục khi tai nhận biết tiếng?

Đáp: Nếu các thứ tiếng ở cõi Dục mà tai tiếp xúc được rồi sinh lòng yêu mến để làm điều kiện, thì đó gọi là diệu dục khi tai nhận biết tiếng.

Thế nào là diệu dục khi mũi nhận biết mùi hương?

Đáp: Nếu các thứ mùi hương ở cõi Dục mà mũi tiếp xúc rồi sinh lòng yêu mến để làm điều kiện, thì đó gọi là diệu dục khi mũi nhận biết mùi.

Thế nào là diệu dục khi lưỡi nhận biết vị?

Đáp: Nếu các thứ vị ở cõi Dục mà lưỡi tiếp xúc rồi sinh ra lòng yêu mến để làm điều kiện, thì đó gọi là diệu dục khi lưỡi nhận biết vị.

Thế nào là diệu dục khi thân nhận biết sự đụng chạm?

Đáp: Nếu có các thứ đụng chạm ở cõi Dục mà thân tiếp xúc rồi sinh lòng yêu mến để làm điều kiện, thì đó gọi là diệu dục khi thân nhận biết sự đụng chạm.

Có năm thứ xan tham (tham lam keo kiệt): Gồm có:

  1. Xan tham chỗ ở.
  2. Xan tham nhà cửa.
  3. Xan tham sắc đẹp và tiếng khen.
  4. Xan tham lợi dưỡng.
  5. Xan tham pháp.

– Thế nào là là xan tham chỗ ở?

Đáp: Như ngay chỗ ở thì sinh lòng ham muốn luyến tiếc. Thí dụ như có người nghĩ: Ước mong sao chỗ ở này thuộc về của ta chớ không là ai khác. Ở chỗ này ta sẽ đi kinh hành và bày biện sắp đặt. Ta sẽ ở mãi nơi đây mà thọ hưởng các thứ vật dụng và bao nhiêu cái khác nữa. Người ấy sinh lòng mến thích bám riết vào chỗ ấy, nên ngăn cản cấm ngặt các người khác thọ hưởng. Không hề giúp đỡ chia chác nhường chỗ hay ban phát cho ai cả, cũng không xa lìa từ bỏ hay buông xả tất cả. Đó gọi là xan tham chỗ ở.

– Thế nào là xan tham nhà cửa?

Đáp: Như nhà cửa của thí chủ mà sinh lòng ham muốn luyến tiếc. Thí dụ như có người nghĩ: Mong sao các nhà cửa của thí chủ đây thuộc về ta chứ không ai khác. Ở nhà này chỉ riêng ta ra vào, tới lui, đi về thân thích tự tại. Ta sẽ ở đây mãi để thọ hưởng các thứ vật dụng và bao nhiêu thứ khác nữa.

Người ấy sinh lòng mến thích bám riết vào cái nhà của thí chủ đó, nên ngăn cản cấm ngặt các người khác thọ hưởng. Không hề giúp đỡ chia chác nhường chỗ hay ban phát cho ai cả, cũng không xa lìa từ bỏ hay buông xả tất cả. Đó gọi là xan tham nhà cửa.

– Thế nào là xan tham sắc đẹp và tiếng khen?

Đáp: Như đối với sắc đẹp và lời khen ngợi thì sinh lòng ham muốn luyến tiếc. Thí dụ như có người nghĩ: Ước mong sao chỉ riêng ta có sắc đẹp tuyệt trần, ai cũng thích nhìn ngắm sắc đẹp và thân hình tướng mạo oai hùng của ta. Ta sẽ là một tuyệt thế giai nhân, một người hùng khôi ngô tuấn tú sẽ không có một nhan sắc dung mạo nào sánh kịp được ta. Ngoài ra, ta ước mong sao chỉ riêng ta có tiếng tăm lừng lẫy với bao nhiêu lời khen tiếng tốt tuyệt vời và khắp cả mười phương, toàn cõi thế gian này đều cùng khen ngợi tôn sùng không một ai sánh kịp. Chỉ riêng có mình ta am tường việc hưởng thụ, ăn uống cũng như cách biến chế về các thức ăn hiếm có đặc biệt nổi tiếng nhất và tùy lúc mà ăn uống bồi dưỡng để dung nhan tươi đẹp, da dẻ mịn màng. Tất cả ai cũng mến thích và không ai sánh kịp. Và chỉ riêng ta mới biết sử dụng thời trang như y phục, nón mũ, giày dép và các vật dụng, các cách trang sức, trang điểm để khiến sắc đẹp càng cực kỳ lộng lẫy yêu kiều không một ai có thể sánh được… Người đó có tâm ham thích luyến tiếc sắc đẹp và tiếng khen như thế, nên luôn tìm cách ngăn cản kẻ khác, không hề giúp đỡ, nhường chia hay ban phát cho ai cả, cũng không xa lìa tự bỏ hay buông xả tất cả. Đó gọi là xan tham sắc đẹp và tiếng khen.

– Thế nào là xan tham lợi dưỡng?

Đáp: Như đối với lợi dưỡng thì sinh lòng ham muốn luyến tiếc, như có người nghĩ: Ước ao sao chỉ riêng ta là có đủ tất cả mọi thứ lợi dưỡng trên cõi đời này, còn những người khác thì không thể được. Chỉ riêng mình tôi là có được những lợi dưỡng khác thường, lạ lùng hơn những người khác, chỉ biết có riêng mình là kẻ có phước đức và trí tuệ to lớn đầy đủ nhất, tùy thời mà đáng được dâng cúng các thứ y phục ăn uống ngọa cụ, thuốc men và bao thứ tiền của sản vật khác, tất cả mọi người trên thế gian này không ai sánh bằng ta được. Người này có lòng ham muốn đắm mê lợi dưỡng như thế nên luôn tìm cách ngăn cản kẻ khác, không san sẻ chia nhường, không bố thí ban phát ân tuệ gì. Không bao giờ biết xa lìa từ bỏ hay buông xả tất cả. Đó gọi là xan tham lợi dưỡng.

– Thế nào là xan tham pháp?

Đáp: Như đối với giáo pháp thì sinh lòng ham muốn luyến tiếc. Như có người nghĩ: Mong sao cho riêng mình ta là có thể diễn nói chánh pháp, còn ai khác thì không thể làm được. Chỉ có mình ta mới bảo được nhiều người khác nghe lời tụng niệm kinh điển, mà không ai bảo được. Chỉ có riêng mình ta là hỏi đáp hùng biện, quyết đoán nhanh chóng, còn thì chẳng ai làm được. Chỉ riêng mỗi mình ta là thọ trì được các pháp Tố-đát-lãm và Tỳ-nại-da hay A-tỳ-đạt-ma, còn thì không ai làm được. Mong sao chỉ riêng mình ta mới có thể phân biệt và giải thích rõ ràng khéo léo các nghĩa lý của giáo pháp. Và chính riêng ta là người biện luận tài giỏi nhất cũng như soạn thảo được những luận phẩm tuyệt vời nổi tiếng nhất. Còn thì tất cả không ai có thể làm được các việc ấy. Người đó đối với giáo pháp có lòng ham muốn bám chắc như thế, cho nên thường ngăn cản gây chướng ngại cho bao nhiêu người khác, mà không bao giờ giúp đỡ, chia sớt ban phát ân tuệ cho ai cả, cũng chẳng biết xa lìa từ bỏ hay buông xả tất cả. Thế nên gọi là xan tham pháp.

Có năm đường (cõi):

  1. Cõi địa ngục.
  2. Cõi bàng sinh.
  3. Cõi ngạ quỷ.
  4. Cõi người.
  5. Cõi trời;

– Thế nào là cõi địa ngục?

Đáp: Các cõi địa ngục đều có một thứ tính chất, chủng loại giống nhau (chúng đồng phận) về nương nhờ, sự việc và nơi chốn. Những ai sống trong địa ngục rồi thì các thứ sắc thọ tưởng hành thức đều là loài không bị che lấp vô ký. Đó gọi là cõi địa ngục. Lại còn đây là do thân, ngữ và ý tạo ác nhiều nhất, xấu ác nhất. Nếu do rèn luyện, sửa đổi và làm nhiều việc ác thì sẽ đến chốn địa ngục, sinh vào địa ngục và kết thành đời sống địa ngục, nên gọi là cõi địa ngục. Vả lại cõi địa ngục thì có nhiều tên gọi, nhiều cách nói khác hơn, nhiều hơn… đều do ý tưởng, tưởng tượng nêu bày ra mà nói. Thế nên gọi là cõi địa ngục.

– Thế nào là cõi bàng sinh?

Đáp: Các cõi bàng sinh đều có chung một thứ tính chất, chủng loại giống nhau về nương nhờ, sự việc và nơi chốn. Những kẻ ở trong cõi bàng sinh thì các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là loài không bị che lấp vô ký. Đó gọi là cõi bàng sinh. Lại còn đây là do ngu si đần độn tạo ra các hạnh xấu về thân ngữ ý nên dẫn đến chốn bàng sinh, sinh vào cõi bàng sinh và kết thành kiếp sống bàng sinh. Nên gọi là cõi bàng sinh. Vả lại cõi bàng sinh thì có nhiều tên gọi, nhiều cách nói khác hơn, nhiều hơn…, đều do ý tưởng, tưởng tượng nêu bày ra mà nói. Thế nên gọi là cõi bàng sinh.

– Thế nào là cõi ngạ quỷ?

Đáp: Các cõi quỷ đều có chung một thứ tính chất, chủng loại giống nhau về nương nhờ, sự việc và nơi chốn. Những kẻ sống ở cõi quỷ rồi thì sắc thọ tưởng hành thức đều là loại không bị che lấp vô ký. Đó gọi là cõi quỷ. Lại còn đây là do keo kiệt biển lận mà tạo ra các hạnh ác về thân ngữ ý, hoặc do rèn tập, sửa đổi hay làm nhiều việc ác thì sẽ dẫn đến cõi quỷ, sinh vào cõi quỷ. Vả lại cõi quỷ thì có nhiều tên gọi, nhiều cách nói khác nhau, nhiều hơn…, đều do ý tưởng, tưởng tượng đặt ra mà nói. Nên gọi là cõi quỷ.

– Thế nào là cõi người?

Đáp: Các cõi người đều có chung một tính chất, chủng loại giống nhau về nương nhờ, sự việc và nơi chốn. Những kẻ sống trong cõi người rồi thì các thứ sắc thọ tưởng hành thức đều là loại không bị che lấp vô ký. Đó gọi là cõi người. Lại còn đây là do sự tạo tác các hạnh thiện thấp kém nhất của thân ngữ ý, lại do rèn luyện, tu tập và làm được nhiều việc thiện nên dẫn đến cõi người, sinh vào cõi người và kết thành kiếp sống của loài người. Nên gọi là cõi người – Thế nào là cõi trời?

Đáp: Các cõi trời đều có một tính chất, chủng loại giống nhau về nương nhờ, sự việc và nơi chốn. Những kẻ sống trong cõi trời rồi thì các thứ sắc thọ tưởng hành thức đều là loại không bị che lấp vô ký. Đó gọi là cõi trời. Lại còn đây là do sự tạo tác các hạnh thiện cao đẹp của thân ngữ ý. Lại còn do rèn luyện, tu tập và làm nhiều việc thiện khác nên dẫn đến cõi trời, sinh vào cõi trời và kết thành kiếp sống của loài trời. Nên gọi là cõi trời. Vả lại cõi trời thì có nhiều tên gọi, nhiều cách nói khác hơn, đều do ý tưởng, tưởng tượng đặt ra mà nói. Nên gọi là cõi trời.

*****

Có năm thứ màn che (Năm cái): Đó là màn che tham dục, màn che giận dữ, màn che hôn trầm mê ngủ, màn che trạo cử hối hận, màn che nghi ngờ.

1. Thế nào là màn che tham dục?

Đáp: Tham dục: Tức là đối với các cảnh dục luôn luôn tham mê ham đắm và chụp giựt, giấu cất, giữ gìn, chấp chặt, yêu thích, say đắm, đam mê, mê đắm khắp cả, tự trói buộc tâm, trông mong, tìm cầu, mê mẩn, chiêu tập các khổ, là loại tham lam, sự sinh ra tham… Đó gọi là tham dục.

Màn che tham dục là do sự tham dục này mà nó ngăn che tâm, đè nén giấu kín tâm, bao trùm ràng buộc tâm ta. Nên gọi là màn che tham dục.

2. Thế nào là màn che giận dữ?

Đáp: Giận dữ là sao? Lòng luôn muốn gây tổn hại cho mọi loài. Lúc nào cũng ôm ấp sự tàn hại chỉ chực gây ra sự khổ não ưu phiền. Đã giận dữ thì sẽ giận dữ và hiện đang lúc nào cũng giận dữ. Thích gây tai họa rất thích gây tai họa, vì ý nghĩ luôn luôn giận dữ, cho nên đối với mọi loài đều luôn đi ngược lại để cố tình gây thảm họa. Một khi đã gây tai họa rồi thì sẽ gây tai họa nữa và lúc nào cũng đang gây tai họa. Đó là giận dữ.

Màn che của giận dữ là sao? Chính do cái tâm giận hờn này nó ngăn che tâm mình, nó đè nén chôn kín cái tâm, nó bao trùm kín mít, ràng buộc chặt chẽ tâm ta, cho nên gọi là màn che của giận dữ.

3. Thế nào là màn che hôn trầm mê ngủ?

Hôn trầm là sao? Nghĩa là thân có tự tánh nặng nề, tâm cũng có tự tánh nặng nề. Cả thân và tâm đều chẳng điều hòa dịu dàng. Thân hôn trầm và tâm cũng hôn trầm (mê mờ), mịt mờ rối rắm buồn lo. Đó gọi là hôn trầm.

Mê ngủ (ngủ nghỉ): Là tâm ô nhiễm lỗi lầm có sự mê ngủ mộng mị, không có tâm tháo vác làm việc mà lại có tánh mê mờ yếu ớt. Nên gọi là mê ngủ.

Thế nào là màn che của hôn trầm mê ngủ? Do thứ hôn trầm mê ngủ này nó ngăn che tâm trí, nó đè nặng chôn sâu tâm ta, nó che lấp bao trùm kín mít và ràng buộc chặt chẽ tâm ta. Nên gọi là màn che của hôn trầm mê ngủ.

4. Thế nào là màn che trạo cử hối hận?

Trạo cử (luôn động đậy): Tức là các thứ khiến tâm không được yên tịnh vắng lặng, tâm luôn lay động, bồn chồn, xôn xao, lăng xăng. Nên gọi là trạo cử.

Hối hận (ố tác): Trong tâm ô nhiễm lỗi lầm, khiến lòng luôn ăn năn hối cải việc làm ác, tính chất làm ác, nên gọi là ố tác (hối hận).

Thế nào là màn che trạo cử hối hận? Vì do sự trạo cử hối hận này nó ngăn che tâm ta, nó đè nén chôn chặt cái tâm, nó bao trùm kín mít và ràng buộc chặt chẽ cái tâm, nên gọi là màn che trạo cử hối hận.

5. Thế nào là màn che của nghi ngờ?

Nghi ngờ là sao? Tức là đối với Phật Pháp Tăng và Khổ, Tập, Diệt, Đạo sinh lòng nghi ngờ thành hai phần, hai ngã khác nhau (nửa tin, nửa ngờ). Vì trù trừ do dự, vì mũi tên độc do dự, nên chẳng thích làm, chẳng quyết định suy lường (quyết đoán), chẳng ngộ nhập được. Đã không luôn luôn tiến lên, sẽ không luôn luôn tiến bước thì hiện đại cũng không thể một mực tiến lên mà không hề do dự. Đó gọi là nghi ngờ.

Thế nào là màn che nghi ngờ? Do sự nghi ngờ này nó ngăn che tâm ta, nó đè nén chôn chặt tâm mình, nó bao trùm kín mít, nó trói buộc chặt chẽ tâm ta. Thế nên gọi là màn che của nghi ngờ.

Có năm thứ tâm mới gieo trồng (tài): Các thầy nên biết năm thứ ấy là:

1. Như một số người đối với các bậc Đại sư hãy còn nghi ngờ do dự, chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh. Nếu đối với bậc Đại sư mà hãy còn nghi ngờ do dự chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, không tin tưởng thanh tịnh thì gọi là hạng thứ nhất, tức là đối với bậc Đại sư tâm mới gieo trồng, chưa đoạn diệt, chưa được biết khắp (Giác ngộ).

2. Như một số người đối với chánh pháp hãy còn nghi ngờ do dự, chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh. Nếu đối với chánh pháp hãy còn nghi ngờ do dự, chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh thì gọi là hạng thứ hai, tức là đối với chánh pháp tâm mới gieo trồng, chưa đoạn dứt, chưa được biết khắp.

3. Như một số người đối với các sự học tập, môn học mình học hãy còn nghi ngờ do dự, chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh. Đó là hạng thứ ba, là đối với chỗ học của mình tâm mới gieo trồng, chưa đoạn diệt, chưa được biết khắp.

4. Như một số người đối với các giáo pháp, giới luật hãy còn nghi ngờ do dự, chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh. Nếu như thế, thì đó là hạng thứ tư, tức là đối với giáo pháp giới luật (giáo giới) tâm vừa mới gieo trồng, chưa đoạn diệt, chưa được biết khắp.

5. Như một số người đối với các bậc Bí-sô Thượng tòa trí tuệ sáng suốt, đã tu hành phạm hạnh và thể nhập pháp Phật từ lâu xa, cả đến các bậc Đại sư, các vị Đại trí… mà những bạn đồng tu phạm hạnh đều cùng nhau khen ngợi tán dương, giúp đỡ hộ trì và kính mến. Nhưng số người này lại đối với các bậc phạm hạnh đại trí nêu trên mà giận dữ chửi bới, xúc phạm làm nhục gây các sự não hại, nên chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh. Nếu làm các việc như thế thì đó là hạng thứ năm, tức là đối với các bậc trí tuệ phạm hạnh thì tâm vừa mới gieo trồng chứ chưa đoạn diệt, chưa biết khắp.

– Nếu đối với bậc Đại sư, hãy còn nghi ngờ do dự chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng, thì gọi là hạng thứ nhất, vì đối với các bậc Đại sư chỉ là tâm mới gieo trồng, chưa đoạn diệt, chưa biết khắp đó.

Thế nào là bậc Đại sư?

Đáp: Đại sư là chỉ cho chư Phật Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Thế nào là đối với bậc Đại sư hãy còn nghi ngờ do dự? Nghĩa là đối với chư Như Lai, bậc Chánh đẳng giác mà sinh ra các thứ nghi ngờ do dự.

Thế nào là chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tịnh tín? Nếu đối với các bậc Đại sư mà sinh ra các thứ nghi ngờ do dự, thì người này chưa thể nào thực hiện sự đoạn diệt cũng như các thứ tùy thuận như tâm tùy thuận, ý muốn tùy thuận, lòng tin tùy thuận, sự hiểu biết quý báu rõ ràng tùy thuận và kể cả các hiểu biết đã qua và sắp tới. Thế nên gọi là chưa ngộ nhập, chưa thật hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh.

Thế nào là hạng thứ nhất? Dần dần thuận theo thứ tự, liên tục đếm mãi lên thì nó là hạng thứ nhất.

Thế nào là đối với bậc Đại sư thì tâm vừa mới gieo trồng? Đối với Như Lai Chánh Đẳng Giác, sinh ra các thứ nghi ngờ do dự, thì đối với tâm của người ấy tự tạo ra sự gieo trồng. Ví như người nông dân tuy có ruộng đất tốt mà chẳng chịu khai khẩn cày cấy để cho đất chai cứng khô cằn, ngay như các giống cỏ dại còn chẳng mọc được huống là các mầm lúa quý. Cho nên đối với các bậc Đại sư mà hãy còn nghi ngờ do dự chưa tin chắc thì cũng như thế. Vì nó che lấp cái tâm mình khiến tâm trí trở thành chai cứng cằn cỗi không thể trồng trọt được. Với cái tâm như thế còn không thực hiện được các việc sai trái lầm lạc, huống là chánh pháp đúng đắn. Thế nên gọi là đối với bậc Đại sư là tâm mới gieo trồng.

Thế nào là chưa đoạn diệt, chưa biết khắp? Vì cái tâm để gieo trồng của người ấy chưa được hạng phục chế ngự làm chủ được, nên cái hại hãy còn dài.

– Nếu đối với chánh pháp hãy còn nghi ngờ, do dự, chưa ngộ nhập, chưa hiểu rõ, chưa tịnh tín, thì gọi là hạng thứ hai. Tức là đối với chánh pháp tâm mới gieo trồng, chưa đoạn diệt, chưa biết khắp.

Thế nào là chánh pháp?

Đáp: Chánh pháp là ái dục đã dứt, lìa bỏ, tịch diệt, Niết-bàn rốt ráo.

Thế nào là đối với chánh pháp hãy còn nghi ngờ do dự? Nếu như đối với sự ái dục đã dứt, lìa bỏ, tịch diệt, Niết-bàn rốt ráo mà sinh ra các thứ nghi ngờ do dự, thì đó là đối với chánh pháp hãy còn nghi ngờ do dự.

Thế nào là chưa ngộ nhập, chưa hiểu rõ, chưa tịnh tín? Nếu đối với chánh pháp mà sinh ra các thứ nghi ngờ do dự thì người này dứt bỏ hết và không thể khởi lên được các thứ tùy thuận về tâm, về ý muốn, về lòng tin, về sự hiểu biết rõ ràng quý báu, kể cả các hiểu biết đã qua và sắp tới. Thế nên gọi là chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng và chưa tin tưởng thanh tịnh.

Thế nào là hạng thứ hai? Tức là dần dần theo thứ tự liên tục tính mãi lên, thì nó là hạng thứ hai.

Thế nào là đối với chánh pháp thì tâm vừa mới gieo trồng? Tức là đối với sự ái dục, lìa bỏ, tịch diệt, Niết-bàn rốt ráo… mà sinh ra các thứ nghi ngờ do dự, thì ở tâm của người ấy tạo ra sự gieo trồng. Cũng như kẻ nông dân dù có đất tốt, nhưng không chịu cày bừa trồng trọt, để cho đất chai cứng khô cằn, ngay như các giống cỏ dại còn không mọc nổi huống là các mầm lúa quý? Cho nên đối với chánh pháp mà còn nghi ngờ do dự thì cũng như thế. Vì nó che lấp tâm mình, khiến tâm trí trở thành chai cứng cằn cỗi không thể gieo trồng được. Với tâm như thế còn không thực hiện được các điều sai trái lỗi lầm, huống là chánh pháp đúng đắn. Thế nên gọi là đối với chánh pháp tâm mới gieo trồng.

Thế nào là chưa đoạn dứt, chưa biết khắp? Vì cái tâm để gieo trồng của người ấy chưa được hạng phục chế ngự được, nên cái hại còn hoài. Thế nên gọi là chưa đoạn diệt, chưa biết khắp.

– Nếu đối với sự học tập (kiến thức) của mình mà hãy còn nghi ngờ do dự, chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh thì gọi là hạng thứ ba. Tức là đối với sự học tập của mình thì tâm mới gieo trồng, chưa đoạn diệt, chưa biết khắp.

Thế nào là sự học tập, các kiến thức?

Đáp: Như chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hiểu đúng, thấy đúng và bày ra các môn học tập. Như nói: Ta học như thế với các môn học được đó, đối với chánh lý của các pháp thiện thì không thể chứng được. Còn ta học như thế này, với các môn học về sự việc này…, thì mới chứng được các pháp thiện đúng chánh lý.

Thế nào là đối với sự học tập còn nghi ngờ do dự? Đối với chư Như Lai bậc Chánh Đẳng Giác, bày ra các cách học, môn học mà nghi ngờ do dự.

Thế nào là chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh? Đối với các sự, các môn học tập mà nghi ngờ do dự thì người này dứt bỏ và không thể nào khởi lên được các thứ tùy thuận về tâm, về ý muốn, về lòng tin, về sự hiểu biết rõ ràng quý báu, kể cả các hiểu biết đã qua và sắp tới.

Thế nào là hạng thứ ba? Là theo thứ tự dần dần liên tục tính mãi lên, thì nó ở hạng thứ ba.

Thế nào là đối với sự học tập thì tâm vừa mới gieo trồng? Tức là đối với sự học tập môn học mà chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác do đã hiểu đúng, thấy đúng và bày ra tmà lại nghi ngờ do dự, không tin, thì ở tâm của người ấy sẽ tự tạo ra nơi để gieo trồng. Cũng như người nông dân dù có đất ruộng tốt, nhưng chẳng chịu cày bừa, trồng trọt, để cho đất chai cứng cằn cỗi. Ngay như các thứ cỏ dại còn chẳng mọc được, huống là các mầm lúa quý. Cho nên đối với các sự học tập mà còn nghi ngờ do dự chưa tin chắc thì nó cũng như thế. Vì nó che lấp tâm mình, khiến tâm trí trở nên chai cứng cằn cỗi không trồng trọt chi được cả. Với tâm như thế, các việc sai trái lầm lạc, còn không thực hiện được huống là chánh pháp đúng đắn. Thế nên gọi là đối với sự học tập chỉ là tâm mới gieo trồng. Vì cái tâm để gieo trồng của người ấy chưa được hạng phục chế ngự, nên cái hại vẫn còn lâu dài.

– Nếu đối với giáo pháp giới luật mà còn nghi ngờ do dự, thì chưa thể ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh thì đó là hạng thứ tư. Tức là đối với giáo pháp và giới luật chỉ có tâm vừa mới gieo trồng chứ chưa được đoạn diệt và chưa biết khắp.

Thế nào là giáo giới?

Đáp: Tức là chư Như Lai bậc Chánh Đẳng Giác, hiểu đúng thấy đúng cứ mỗi nửa tháng nói ra kinh giới biệt giải thoát. Đó gọi là giáo pháp giáo luật. Như nói ta đã giữ giới cấm như thế, giữ các giới cấm này nên đối với chánh lý của pháp thiện không thể chứng được. Nhưng khi ta giữ giới cấm, với các giới cấm này thì đạt được chánh lý của các pháp thiện.

Thế nào là đối với giáo giới còn nghi ngờ do dự? Chư Phật Như Lai bậc Chánh Đẳng Giác, cứ mỗi nửa tháng nói nhắc lại các kinh giới biệt giải thoát, nhưng đối với các giáo giới thì lại nghi ngờ do dự. Đó là đối với giáo giới hãy còn nghi ngờ do dự.

Thế nào là chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh? Nếu đối với các điều giới cấm mà còn nghi ngờ do dự, thì người này dứt bỏ hẳn nên không thể nào khởi lên các thứ tùy thuận như về tâm (tâm tùy thuận), về ý muốn, về lòng tin, về sự hiểu biết rõ ràng quý báu, kể cả các hiểu biết đã qua và sắp tới. Thế nên gọi là chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh.

Thế nào là hạng thứ tư? Cứ thuận theo thứ tự dần dần liên tục tính mãi lên thì nó là hạng thứ tư.

Thế nào là đối với giáo giới (các giới luật) thì tâm vừa mới gieo trồng? Đối với các kinh giới biệt giải thoát mà chư Như Lai bậc Chánh Đẳng Giác đã thấy đúng, biết đúng, và mỗi nửa tháng nói ra, thì lại mãi nghi ngờ do dự, thì ở tâm của người đó tự tạo ra sự gieo trồng. Ví như có kẻ nông dân, dù có đất ruộng tốt, nhưng không chịu cày cấy, trồng trọt mà để cho đất đai chai cứng khô cằn thì ngay như các loài cỏ dại cũng chẳng mọc được, huống chi là các mầm lúa quý? Cho nên đối với các giới luật mà còn nghi ngờ do dự chưa tin chắc thì cũng như thế. Vì nó che lấp tâm mình, khiến tâm trí bị chai cứng cằn cỗi không thể trồng trọt được gì. Với cái tâm như thế, các việc sai trái lầm lạc, còn không thực hiện được huống chi là chánh pháp đúng đắn? Thế nên gọi là đối với giáo giới (giới luật) chỉ là tâm vừa mới gieo trồng.

Thế nào gọi là chưa đoạn diệt, chưa biết khắp? Vì cái tâm để gieo trồng của người ấy chưa được hạng phục chế ngự, nên cái hại hãy còn lâu dài.

– Nếu đối với các vị Bí-sô Thượng tòa trí tuệ sáng suốt đã từ lâu xa tu hành các phạm hạnh và thể nhập pháp Phật…, cho đến các bậc Đại sư, các bậc đại trí mà những bạn đồng tu phạm hạnh đều khen ngợi, khen ngợi giúp đỡ hộ niệm và kính mến… Nhưng số người đó lại đối với các bậc phạm hạnh, đại trí đó mà giận dữ chửi bới, xúc phạm làm nhục, gây ra các sự não hại, nên chưa ngộ nhập, chưa hiểu biết rõ ràng, chưa tin tưởng thanh tịnh, thì gọi là hạng thứ năm. Vì đối với các bậc phạm hạnh đại trí chỉ là tâm vừa mới gieo trồng chứ chưa đoạn diệt, chưa được biết khắp.

Thế nào là Đại sư?

Đáp: Tức là chư Phật Như Lai bậc Chánh Đẳng Giác.

Thế nào là người có trí đồng tu phạm hạnh? Đó là chư vị Tôn giả Xá Lợi Tử, Đại Thái Thúc Thị, Đại Doanh Cấu Thị, Đại Ẩm Quang, Đại Chấp Tàng, Đại Kiếp Phỉ Na, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Chuẩn Đà, Đại Thiện Kiến, Đại Lộ, Đại Danh, Vô Diệt Dục Lạc, Kim Tỳ La v.v… và các bậc Thánh hiền đệ tử của Phật, đó gọi là các bậc có trí đồng tu phạm hạnh.

Nếu là Đại sư và các bậc đại trí đồng tu phạm hạnh cùng khen ngợi, giúp đỡ hộ trì, kính mến, thì đó gọi là các Bí-sô Thượng tòa trí tuệ sáng suốt đã từng tu phạm hạnh và thể nhập pháp Phật lâu xa. Tức là các Bí-sô này gọi là bậc có trí tu phạm hạnh.

Vì sao đối với các bậc có trí tu phạm hạnh như thế mà lại giận dữ chửi mắng, xúc phạm, làm nhục, gây bao não hại? Đối với người đó, ở chỗ các bậc có trí tu phạm hạnh mà khởi lên giận dữ, nói ra những lời lẽ không tùy thuận. Vì những lời lẽ không tùy thuận (hòa thuận vui vẻ) sẽ biểu thị sự chê bai xúc phạm làm nhục dữ dằn. Thế nên gọi là ở chỗ bậc có trí tu phạm hạnh mà giận dữ chửi mắng, xúc phạm làm nhục gây mọi sự não hại.

Thế nào là chẳng ngộ nhập, không hiểu biết rõ ràng, không tin tưởng thanh tịnh? Nếu ở chỗ (đối với) các bậc có trí tu phạm hạnh mà giận dữ, chửi mắng, xúc phạm, làm nhục, hổn ẩu gây não hại…, thì người này lại dứt hẳn, không thể nào khởi lên được các thứ tùy thuận như về tâm, về ý muốn, về lòng tin, về sự hiểu biết rõ ràng quý báu. Kể cả các hiểu biết đã qua và các hiểu biết sắp tới. Thế nên gọi là không ngộ nhập, không hiểu biết và không có tin tưởng thanh tịnh.

Thế nào gọi là hạng thứ năm? Tức là thuận theo thứ tự dần dần liên tục đếm mãi lên thì nó ở hạng thứ năm.

Thế nào là ở chỗ các bậc có trí tu phạm hạnh chỉ là tâm mới gieo trồng? Nếu ở chỗ bậc có trí tu phạm hạnh mà khởi lên giận dữ chửi mắng xúc phạm làm nhục và gây các sự buồn khổ, thì tâm người ấy là nơi gieo trồng. Ví như người nông dân dù có đất ruộng tốt nhưng chẳng chịu cày bừa gieo trồng khiến đất trở nên chai cứng khô cằn, thì ngay như các cỏ dại còn chẳng mọc được huống chi là những mầm lúa quý? Cho nên ở chỗ bậc có trí tu phạm hạnh mà lại giận dữ chửi mắng, xúc phạm, làm nhục và gây các sự buồn khổ thì cũng như thế. Vì nó che lấp tâm mình khiến tâm trí trở thành chai cứng cằn cỗi không thể trồng trọt được. Với cái tâm như thế còn không thực hiện được các điều sai trái lỗi lầm, huống là các chánh pháp đúng đắn. Thế nên gọi là ở chỗ bậc có trí tu phạm hạnh chỉ mới gieo trồng.

Thế nào là chưa đoạn diệt, chưa biết khắp? Vì cái tâm để gieo trồng của người ấy chưa được hạng phục chế ngự được, nên cái hại còn dài lâu. Nên gọi là chưa đoạn diệt, chưa biết khắp.

Có năm thứ ràng buộc tâm: Các thầy nên biết năm thứ ấy là:

1. Như một số người, thân mình chưa lìa bỏ được các thứ tham lam, dâm dục, sự thân thiết, sự yêu thương, sự thèm khát… Với cái thân như thế mà càng hừng hẫy làm thêm mãi không bao giờ yên tĩnh vắng lặng nên không thể chứng được các nghĩa lý cao xa. Do đó tâm trí không được ngộ nhập, không có niềm tin trong sạch, không an trụ, không hiểu biết thông suốt… Nếu bị như thế thì là hạng thứ nhất, tức là thân chưa lìa bỏ được tham v.v… nên tâm bị ràng buộc, không thể điều phục làm chủ được, do đó nó tác hại lâu dài.

2. Lại nữa, các thầy nên biết, một số người đối với các cảnh dục chưa lìa bỏ được các thứ tham lam, dâm dục, sự thân thiết, sự yêu thương, sự thèm khát. Do người này chưa lìa bỏ được các thứ như thế mà lại càng hừng hẫy làm thêm mãi, không bao giờ được vắng lặng yên tĩnh nên không chứng được các nghĩa lý cao xa. Do đó tâm trí không được ngộ nhập không có lòng tin trong sạch, không an trụ yên ổn, không hiểu biết thấu suốt… Nếu bị như thế thì thuộc hạng thứ hai, tức là đối với dục chưa lìa bỏ được tham v.v… nên tâm bị ràng buộc, không thể hạng phục làm chủ được, nên bị khổ hại lâu dài.

3. Lại nữa, các thầy nên biết, một số người có cả tại gia và xuất gia ở cùng nhau, vui buồn sướng khổ cùng hưởng, mừng giận cùng chia, tất cả mọi việc cùng chung làm, cuối cùng trở nên khắng khít không thể lìa xa nhau. Do vì họ thích tại gia xuất gia cùng sống chung lẫn lộn như thế, mà càng hừng hẫy làm thêm mãi, nên không bao giờ được yên tĩnh vắng lặng để có thể chứng được nghĩa lý cao xa. Do đó mà tâm trí chẳng thể ngộ nhập, không có lòng tin trong sạch, không được an trụ trong yên ổn, không hiểu biết thấu suốt… Nếu là như thế thì thuộc hạng thứ ba, tức là thích ở lẫn lộn với nhau, nên tâm bị ràng buộc, không thể hạng phục làm chủ được, nên bị khổ hại lâu dài.

4. Lại nữa, các thầy nên biết, một số người đối với các thứ luận thuyết chân chánh của chư Phật Thánh nhân, để diệt trừ các lầm lỗi, để hướng tâm mình vào đó mà lìa bỏ các niềm vui trần tục thấp kém. Như các luận thuyết về giới luật, về thiền định, về trí tuệ, về giải thoát, về giải thoát tri kiến. Hoặc các luận thuyết về thiểu dục (ít ham muốn), về tri túc (biết vừa đủ tri túc), về luật hao mòn, về sự tỉnh giác (tỉnh sự), các luận thuyết về đoạn dứt hoàn toàn, về lìa các ô nhiễm, về tịch diệt, về sự phát khởi các duyên tùy thuận và duyên tự tánh… Khi được diễn giảng các luận thuyết đó, thì số người ấy không hề trân trọng cung kính mà nghe, không lắng tai nghe, không chú tâm nghe lời dạy bảo, chẳng tuân hành pháp tùy pháp, vượt bỏ lời răn dạy của bậc Đại sư. Ở những nơi giảng dạy, những pháp môn thì không thích học tập. Do khi giảng nói các luận thuyết như thế nhưng người này chẳng cung kính lắng nghe, mà càng hừng hẫy làm thói như thế mãi, nên không bao giờ được yên tĩnh vắng lặng để có thể chứng được các nghĩa lý cao quý. Do đó mà tâm trí chẳng thể ngộ nhập, không có niềm tin trong sạch, không được an trụ trong yên ổn, không hiểu biết thấu suốt… Nếu là như thế thì thuộc hạng thứ tư, tức là đối với các luận thuyết chân chánh, tâm luôn bị ràng buộc, không thể hạng phục làm chủ được, nên bị khổ hại lâu dài.

5. Lại nữa, các thầy nên biết, có một số người mới chứng được chút ít, tuy sau đó có một thời gian làm các việc cao quý tốt đẹp, nhưng nửa chừng thì bỏ dỡ. Do người ấy chứng được chút ít mà càng hừng hẫy làm thêm mãi, không bao giờ được yên tĩnh vắng lặng để có thể chứng được các nghĩa lý cao xa. Do đó mà tâm trí không thể ngộ nhập, không có niềm tin trong sạch, không được an trụ trong yên ổn, không hiểu biết thấu suốt… Nếu là như thế thì thuộc hạng thứ năm, tức là sau một ít thời gian làm các việc tốt đẹp cao quý, nên tâm bị ràng buộc, không thể hạng phục, làm chủ được nên bị khổ hại lâu dài.

Ở đây nói về thân chưa lìa bỏ được các thứ tham lam, dâm dục thân thiết, yêu thương, thèm khát…, có nghĩa là chỉ rõ sự quá thương yêu thân mình khiến tâm bị ràng buộc không được vượt thoát.

Nên nói thân chưa lìa bỏ các thứ tham, dâm v.v… mà càng hăng hái làm thêm mãi khiến không bao giờ được yên tĩnh vắng lặng để chứng được nghĩa lý cao quý.

Thế nào là càng hừng hẫy thêm? Có nghĩa là càng thương yêu bản thân hơn, nhiều hơn nữa mà bỏ hẳn việc chuyên cần tinh tấn, mạnh mẽ khích lệ nên chẳng chế phục, điều khiển được tâm mình một cách liên tục, nên gọi là hừng hẫy, người trong cảnh đó không có vui vẻ gì, nên gọi là hừng hẫy.

Thế nào là cứ mãi làm thêm? Nghĩa là càng yêu mến bản thân, thì càng phải đoạn diệt, càng phải rèn luyện, tu tập làm rất nhiều việc, nên gọi là cứ mãi làm thêm (gia hành). Trong hoàn cảnh đó người ấy chẳng hề vui vẻ ưa thích, nên nói cứ làm thêm mãi.

Thế nào là dứt hẳn? Tức là càng yêu mến bản thân nên càng lìa hẳn tám thứ đạo Thánh (Tám chánh đạo), nên gọi là dứt hẳn. Người trong cảnh đó chẳng hề vui thích gì, do đó mà nói là dứt hẳn.

Thế nào là yên tĩnh vắng lặng? Tức là nếu càng thương mến bản thân thì xa lìa mãi việc ở chốn yên tĩnh vắng vẻ, nên nói là vắng vẻ yên tĩnh. Vì người trong cảnh đó không ưa thích gì, do đó nói là yên tĩnh vắng lặng.

Thế nào là chứng được nghĩa lý cao xa? Tức là nếu càng yêu mến bản thân thì vĩnh viễn xa lìa việc chứng được ái dục hết sạch, xuất ly, tịch diệt và Niết-bàn. Đó gọi là chứng được nghĩa lý cao xa. Vì người trong cảnh đó không ưa thích gì, do đó nói là chứng được các nghĩa lý cao xa.

Tâm chẳng ngộ nhập, không lòng tin trong sạch, chẳng được an trụ trong yên ổn, không hiểu biết thấu suốt, nghĩa là càng yêu mến bản thân thì người ấy cắt đứt vĩnh viễn, chẳng bao giờ phát khởi các sự tùy thuận như về tâm, về ý muốn, về lòng tin, về hiểu biết thấu suốt, kể cả các hiểu biết đã qua và sắp tới.

Hàng thứ nhất, tức là theo thứ tự dần dần cứ liên tục đếm mãi lên thì nó ở hạng thứ nhất.

Đối với thân chưa lìa bỏ tham v.v… nên tâm bị ràng buộc, nghĩa là nếu đối với thân càng thêm mến yêu sâu xa, thì tâm của người đó càng bị trói chặt, trói buộc rất chặt chẽ, như bị một người trẻ rất mạnh mẽ, lấy dây rất chắc, trói buộc thật chặt, rất chặt rồi chế thêm nước vào dây cho thật dẽo thật chắc. Đó gọi là bị trói buộc rất chặt chẽ. Như vậy, nếu càng yêu mến bản thân thì tâm sẽ bị trói buộc rất chặt chẽ như thế.

Nói về sự chưa được hạng phục, làm chủ nên bị khổ hại lâu dài, nghĩa là chưa đoạn diệt, chưa biết khắp.

Còn đối với dục mà chưa lìa bỏ các tham v.v… thì tâm bị ràng buộc trói chặt, nói rộng ra cũng như thế.

Việc ưa sống lẫn lộn giữa người tại gia và xuất gia, nghĩa là kẻ xuất gia tại gia cùng sống lẫn lộn chung nhau với tất cả nghĩa tình thì vui buồn cùng hưởng, khổ sướng cùng chia, nghĩa là có việc vui thì cùng vui, có việc khổ thì cùng chịu khổ, có việc vui mừng thì cùng vui mừng, có việc lo âu sầu khổ thì cùng sầu khổ lo âu. Có những công việc thì cùng làm, cùng thực hiện. Cuối cùng trở nên khắng khít nhau chẳng rời, nghĩa là đối với mọi sự việc cùng thực hiện thì thân tâm cùng giúp đỡ nhau không hề biếng trễ. Các việc khác thì như trước đã nói.

Đối với các luận thuyết chân chánh.

Thế nào là luận thuyết? Nghĩa là căn cứ vào việc xuất ly, (vượt thoát) xa lìa từ bỏ để sinh ra các pháp thiện mà lên tiếng bàn luận, nói năng đề xướng, bình phẩm nghị luận để làm sáng tỏ, hay trách cứ khen chê, biện thuyết tuyên bố… Tất cả thuộc về ngữ nghiệp. Đó gọi là luận thuyết chân chánh.

Nói là Thánh, thì có hai thứ gọi là Thánh, tức là các pháp thiện gọi là Thánh, mà vô lậu cũng gọi là Thánh, Thánh nói ở đây là chỉ cho các pháp thiện, chứ không phải vô lậu.

Trừ bỏ các thiếu sót, là với các luận thuyết chân chánh này, suốt ngày đêm suy tư áp dụng thì có thể đưa đến cuộc sống thiểu dục hỷ túc, tức là sống đời giản đơn, dễ đủ dễ sống. Do luôn luôn biết giảm trừ bớt, mà được nhiều công đức, biết lượng định, sống trong sạch. Cho nên gọi là trừ bớt lỗi lầm.

Hay hướng tâm về chỗ lìa bỏ sự ngăn che bao kín để có được an lạc, với nghĩa trong này khi nói về cái tâm thì có nghĩa là với các luận thuyết chân chánh này sẽ khiến tâm đoạn trừ được sự ngăn che bao kín để được trong sạch an lạc. Do đó mà nói hướng tâm về chỗ lìa bỏ sự ngăn che để được an lạc.

Luận thuyết về giới luật, tức là với luận thuyết chân chánh này sẽ chỉ bày đúng đắn về tai họa của sự phá giới và công đức của sự trì giới.

Luận thuyết về thiền định, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về các tai họa của sự phân tán loạn động và công đức của chánh định.

Luận thuyết về trí tuệ, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về các tai họa của tuệ ác và công đức của chánh trí tuệ tuyệt diệu.

Luận thuyết về giải thoát, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về tai họa của tà giải thoát và công đức của chánh giải thoát.

Luận thuyết về giải thoát tri kiến, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về tai họa của trí tuệ bất chánh và công đức của trí tuệ chân chánh.

Luận thuyết về thiểu dục (ít ham muốn), tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về tai họa của nhiều ham muốn và công đức của thiểu dục.

Luận thuyết về hỷ túc (tri túc biết vừa đủ), tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về tai họa của sự chẳng biết vừa đủ và công đức của sự biết đủ.

Luận thuyết về sự giảm bớt, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn tai họa của sự thêm nhiều sinh tử và công đức của sự giảm bớt sinh tử.

Luận thuyết về sự ít việc, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về tai họa của đa đoan công chuyện và công đức của ít việc.

Luận thuyết về vĩnh đoạn, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về tai họa của kiết sử và công đức của sự vĩnh đoạn kiết sử

Luận thuyết về lìa bỏ sự mê đắm, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về các tai họa của sự tham đắm và công đức của sự lìa bỏ sự mê đắm.

Luận thuyết về tịch diệt, tức là luận thuyết chân chánh này chỉ bày đúng đắn về các tai họa của sự có thân xác này và công đức của sự không có thân xác.

Luận thuyết về tùy thuận của duyên tánh và duyên khởi, tức là luận thuyết chân chánh này tuyên nói, bày ra, lập nên và chỉ bày rõ ràng rằng do các duyên họp lại khởi lên mà sinh ra các pháp và sự khéo léo nhẫn nhục chịu đựng.

Trong khi diễn nói các luận thuyết ấy thì người này chẳng trân trọng cung kính cúng dường chú ý lắng tai nghe. Chẳng chú tâm học tập, không thi hành pháp tùy pháp mà vượt bỏ lời răn dạy của bậc Đại sư.

Các nơi có giảng dạy không ham thích đến xin học hỏi, nghĩa là bị trói chặt vì sai lầm, trói chặt các luận thuyết chân chánh nên không cung kính lắng tai nghe.

Liền càng hừng hẫy, nghĩa là do bị trói chặt vì sai lầm, nó trói chặt cả các luận thuyết chân chánh nên chẳng cần phải cung kính lắng tai nghe. Do đó đoạn dứt sự tinh tấn siêng năng mạnh mẽ, nên không thể khích lệ điều phục làm chủ tâm mình liên tục hoài hoài, đó gọi là hừng hẫy hăng hái. Người trong cảnh đó không hề vui thích. Do đó mà nói càng hừng hẫy.

Càng hừng hẫy thêm lên mãi, nghĩa là do bị trói chặt vì sai lầm, trói chặt các luận thuyết chân chánh, không chịu cung kính lắng tai nghe v.v…, nên liền đoạn dứt các sự rèn luyện tu tập hoặc làm nhiều việc nên gọi là càng hừng hẫy làm thêm. Người trong cảnh đó không hề vui thích, do đó mà nói càng hừng hẫy làm thêm mãi.

Còn việc đoạn dứt vĩnh viễn là vì bị trói chặt vì sai lầm, nó trói chặt các luận thuyết chân chánh, nên chẳng cung kính lắng tai nghe v.v…, liền đoạn dứt cả tám chánh đạo, đó gọi là đoạn dứt. Người trong cảnh đó không hề vui thích, do đó mà nói là đoạn dứt (dứt bỏ hẳn).

Về sự yên lặng vắng vẻ, tức là người này đối với các luận thuyết chân chánh, bị trói chặt trong sai lầm nên không cung kính lắng tai nghe, nên xa lìa việc sống nơi vắng vẻ yên lặng. Đó gọi là yên lặng vắng vẻ. Người trong cảnh đó không hề vui thích, do đó mà nói là yên lặng vắng vẻ.

Liền chứng được nghĩa lý cao xa là do các luận thuyết chân chánh bị trói chặt trong sai lầm nên chẳng chịu cung kính lắng tai nghe, nên bị cắt đứt việc chứng được sự dứt hẳn ái dục, sự xuất ly, sự tịch diệt và Niết-bàn. Đó gọi là sự chứng được nghĩa lý cao xa. Người trong cảnh đó không hề vui thích. Do đó nên nói là chứng được nghĩa lý cao sâu (thâm diệu).

Tâm chẳng ngộ nhập, không có lòng tin thanh tịnh, không được an trụ trong yên ổn, không hiểu biết thấu suốt là do bị trói chặt trong sai lầm đối với các luận thuyết chân chánh, nên chẳng cung kính lắng tai nghe v.v…, do đó liền bị đoạn dứt mãi mãi việc khởi lên các thứ tùy thuận như về tâm, về lòng tin, về ý muốn về tâm hiểu rõ, kể cả các hiểu biết đã qua và sắp tới. Thế nên nói tâm chẳng ngộ nhập v.v… Đó là hạng thứ tư. Và tâm bị trói buộc như đã nói trước đây.

Chỉ chứng được chút ít dù sau này có làm các việc tốt đẹp cao quý, nhưng lại bỏ dở nửa chừng.

Thế nào là chứng được chút ít? Tức là như có một số người giữ được một số giới cấm liền mừng cho là đủ, hoặc cho đến chỉ chứng được một phần rất ít về trí thông sinh tử, liền cho là đủ. Như thế đều gọi là chứng được chút ít.

Tuy về sau có làm các việc tốt đẹp cao quý, tức là người này chưa dứt hết phiền não, cũng chưa chứng được cách đoạn diệt phiền não. Do đó nên nói: Tuy sau này có làm các việc quý đẹp.

Nhưng bỏ dở nữa chừng, là bỏ việc tu thiện, phế bỏ sự chuyên cần tinh tấn. Do đó mà nói là bỏ dở nửa chừng.

Liền bị hừng hẫy (thiêu đốt) nghĩa là đối với cõi này chưa làm được các việc khó nhọc, chưa cắt đứt được kiết sử, thì bị cắt đứt việc siêng năng chuyên cần, cố gắng mạnh mẽ hết sức, nên chẳng điều phục làm chủ được tâm một cách liên tục hoài hoài. Đó gọi là hừng hẫy. Và người trong cảnh đó cũng không hề vui thích, do đó mà cũng gọi là hừng hẫy.

Còn cứ làm thêm mãi, dó đó mà dứt hẳn sự yên tĩnh vắng lặng để chứng được nghĩa lý cao quý, đều giống như trước đã nói.

Gọi đó là hạng thứ năm, tức là theo thứ tự dần dần liên tục đếm mãi lên thì nó ở hạng thứ năm.

Sau này đã làm các việc tốt mà tâm bị trói buộc, là ở cõi này chưa làm được các việc khó nhọc lắm, chưa đoạn dứt hết phiền não kiết sử, nên tâm bị trói chặt, vô cùng chặt, như bị một người trai trẻ mạnh khỏe lấy dây thật chặt đem nhúng nước rồi trói gô lại thật chặt. Đó gọi là bị trói chặt, vô cùng chặt.

Về sau đó làm các việc quý đẹp, là ở cõi này chưa làm được các việc khó nhọc, chưa đoạn dứt hết các kiết sử, nên bị tâm trói chặt, thật chặt.

Chưa hạng phục làm chủ được, nên còn bị khổ hại dài lâu. Nghĩa là chưa đoạn hết, chưa biết khắp.

Năm thứ kết thuận phần dưới:

  1. Tham dục kết phần.
  2. Giận dữ kết phần.
  3. Thấy có thân (Hữu thân kiến) kết phần.
  4. Giới cấm thủ kết phần.
  5. Nghi ngờ kết phần.

– Tham dục kết thuận phần dưới:

Tham dục là sao? Tức là đối với dục cảnh có những cái tham nào thì đều ham muốn cả, rộng nói cho đến loại tham lam, thứ sinh tham lam, đó gọi là tham dục.

Kết thuận phần dưới, thì phần dưới là cõi Dục, còn phần trên là cõi

Sắc. Do tham dục chưa đoạn dứt, chưa biết khắp, cho nên liền đến cõi Dục, sinh vào cõi Dục và kết thành đời sống cõi Dục. Nên gọi là tham dục kết thuận phần dưới.

– Giận dữ kết thuận phần dưới:

Giận dữ là sao? Tức là luôn có ý muốn làm tổn hại các loài hữu tình. Rộng nói cho đến hiện tại đang gây họa, nên gọi là giận dữ kết thuận phần dưới. Rộng nói như trước.

– Chấp thân kết thuận phần dưới:

Chấp thân là sao? Đối với năm thứ chấp uẩn thì theo đó mà chấp thấy có ta và cái của ta (ngã sở). Và từ đó mà khởi lên các sự thấy có nhận chịu, ham muốn và trí tuệ nhìn thấy… Đó gọi là chấp có thân kết thuận phần dưới và các việc rộng nói như trước.

– Giới cấm thủ kết thuận phần dưới:

Giới cấm thủ (chấp các giới cấm) là sao? Như có một số người chấp chặt các điều răn cấm, cho rằng do giữ các giới cấm này thì có thể được thanh tịnh, giải thoát và xuất ly (vượt thoát), hoặc vượt ra ngoài các khổ vui và chứng được quả vị (chỗ) vượt ra ngoài các khổ vui… Một số người khác thì lại bảo giữ các giới cấm này được thanh tịnh vượt khổ vui; số khác nữa thì chấp những giới cấm khác…, mới chứng được như thế v.v…, đó gọi là giới cấm thủ kết thuận phần dưới. Cũng rộng nói như trước.

– Nghi ngờ kết thuận phần dưới:

Nghi ngờ là sao? Tức là đối với Phật, Pháp, Tăng và Tứ đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo mà nghi ngờ chẳng tin tưởng… Rộng nói cho đến không hiện có một cõi nào… Đó là nghi ngờ kết thuận phần dưới.

Phần dưới là cõi Dục. Phần trên là cõi Sắc và Vô sắc. Do vì có cái nghi ngờ này mà chưa đoạn dứt, chưa biết khắp. Cho nên liền đến cõi Dục, sinh vào cõi Dục và kết thành đời sống cõi Dục. Cho nên gọi là nghi ngờ kết phần dưới.

Có năm thứ kết thuận phần trên:

  1. Tham sắc.
  2. Tham vô sắc.
  3. Trạo cử (luôn động đậy không yên).
  4. Kiêu mạn.
  5. Vô minh.

– Tham sắc kết thuận phần trên:

Tham sắc là sao? Ở trong cõi Sắc mà tu pháp đoạn diệt, để diệt trừ tất cả các thứ ham muốn, tham lam và mọi sự giữ gìn, cất giấu, đam mê, tham ái… Đó gọi là tham sắc.

Còn kết thuận phần trên: Phần dưới là cõi Dục, phần trên là cõi Sắc và Vô sắc. Chính do cái tham sắc này mà chưa đoạn diệt và chưa biết khắp. Cho nên liền đến cõi Sắc, sinh vào cõi Sắc và kết thành kiếp sống ở cõi Sắc, nên gọi là tham sắc kết thuận phần trên.

– Tham vô sắc kết thuận phần trên:

Tham vô sắc là sao? Ở trong cõi Vô sắc mà tu pháp đoạn diệt, để diệt trừ tất cả thứ ham muốn, tham lam và mọi sự giữ gìn, cất giấu, đam mê, tham ái. Đó gọi là tham vô sắc.

Còn kết thuận phần trên, thì phần dưới là cõi Dục, phần trên là cõi Sắc và Vô sắc. Do tham vô sắc này mà chưa đoạn diệt và chưa biết khắp, cho nên liền đến cõi Vô sắc, sinh vào cõi Vô sắc và kết thành kiếp sống ở cõi Vô sắc. Nên gọi là tham vô sắc kết thuận phần trên.

– Trạo cử kết thuận phần trên:

Trạo cử là sao? Ở trong cõi Sắc và Vô sắc mà tu pháp đoạn diệt, để đoạn dứt tất cả thứ không yên tịnh vắng lặng, dứt thật sạch các thứ rất nhỏ nhặt gây mất yên tĩnh vắng lặng, diệt cả những cái sinh ra trạo cử, có tự tánh sinh ra trạo cử, tức là tâm luôn xao động nóng nảy, bị quấy rối. Đó là trạo cử.

Kết thuận phần trên, thì phần dưới là cõi Dục, còn phần trên là cõi Sắc và Vô sắc. Do trạo cử này mà chưa đoạn diệt và chưa biết khắp, cho nên liền đến cõi Sắc và Vô sắc, sinh vào cõi Sắc và Vô sắc, kết thành kiếp sống ở cõi Sắc và cõi Vô sắc. Nên gọi là trạo cử kết thuận phần trên.

– Kiêu mạn kết thuận phần trên:

Kiêu mạn là sao? Ở cõi Sắc và Vô sắc thường tu pháp đoạn diệt, để diệt hết tánh hỗn láo, miệt thị cậy mình, tánh tự cao tự đại, khinh thường miệt thị kẻ khác. Đó là kiêu mạn. Còn kết thuận phần trên, như trước đã nói rõ.

– Vô minh kết thuận phần trên:

Vô minh là sao? Ở cõi Sắc và Vô sắc thường tu pháp đoạn diệt để diệt trừ các thứ ngu si, không có trí, đần độn, tối tăm… Đó là vô minh.

Kết thuận phần trên, thì phần dưới là cõi Dục, còn phần trên là cõi Sắc và Vô sắc. Do vô minh này chưa được đoạn diệt, chưa biết khắp, cho nên liền đến cõi Sắc và Vô sắc, sinh vào cõi Sắc và Vô sắc và kết thành kiếp sống ở cõi Sắc và Vô sắc. Nên gọi là vô minh kết thuận phần trên.

*****

Bài kệ (Ốt-đà-nam) thứ hai (sau) nói:

Sau, năm pháp mười bốn
Là chẳng nhẫn và nhẫn
Giảm bớt và đầy đủ
Bày lời, không chỗ được (năng)
Chi thắng, giải thoát tưởng
Giải thoát xứ, căn, lực
Bất hoàn và Tịnh cư
Xuất ly cõi có năm.

Gồm có: Năm lỗi chẳng chịu được, năm công đức chịu được, năm thứ giảm bớt, năm thứ đầy đủ, năm thứ bày lời, năm lĩnh vực không kham nổi, năm thắng chi, năm cách thành thục tưởng giải thoát, năm thứ giải thoát, năm căn năm lực, năm thứ Bất hoàn, năm cõi trời Tịnh cư, năm cõi xuất ly.

Năm lỗi lầm chẳng chịu được:

  1. Bạo ác.
  2. Buồn lo hối tiếc.
  3. Chúng sinh không mến ưa.
  4. Tiếng xấu đồn xa khắp mười phương.
  5. Chết rồi bị đọa vào đường ác địa ngục.

– Thế nào là bạo ác?

Đáp: Tức là có những chúng sinh (Bổ-đặc-già-la) chẳng chịu được và các nhân duyên (sự việc) chẳng chịu nỗi (chẳng chấp nhận được) luôn luôn cất chứa dao gậy sẵn sàng làm hại kẻ khác.

– Thế nào là buồn lo hối tiếc?

Đáp: Tức là có những chúng sinh và các việc không thể chấp nhận được, vì nó luôn gây các nghiệp dữ về thân ngữ ý. Khi đã làm các việc ác đó rồi thì lo buồn hối tiếc, thân tâm luôn nóng nãy bứt rứt khổ sầu.

– Thế nào là chúng sinh chẳng mến thích?

Đáp: Tức là các chúng sinh và các sự việc chẳng thể chấp nhận được đó hễ mắng chửi thì nó chửi mắng lại, ai giận hờn, đánh đập, tàn hại hoặc đùa chơi thì nó lập tức giận hờn, đánh đập, giết hại, hoặc đùa chơi lại ngay… Do cái tật ăn miếng trả miếng đó mà chúng sinh không mến thích.

– Thế nào là tiếng xấu đồn xa khắp mười phương?

Đáp: Có những chúng sinh và các sự việc chẳng thể chấp nhận được lúc nào cũng đấu tranh đánh cãi nhau. Họ thích cùng nói chuyện tranh cãi khinh khi coi thường, chọc ghẹo, đùa vui, chê bai, miệt thị nhau. Do cái tật (duyên) ưa tranh cãi đấu tranh đó mà tiếng xấu lan xa khắp mười phương.

– Thế nào là khi chết rồi thì phải đọa vào đường ác địa ngục?

Đáp: Các chúng sinh và các nhân duyên khó thể chấp nhận được luôn luôn gây rất nhiều các hạnh nghiệp xấu ác về thân, ngữ, ý, khi gây quá nhiều hạnh nghiệp xấu đó rồi thì khi chết phải bị đọa vào đường dữ đại địa ngục chịu khổ vô cùng, nên nói chết rồi sẽ phải bị đọa vào đường ác địa ngục.

Năm công đức chịu đựng được (chấp nhận được):

  1. Không bạo ác.
  2. Không lo buồn hối tiếc.
  3. Chúng sinh mến thích.
  4. Tiếng lành lan khắp mười phương.
  5. Chết rồi được sinh lên cõi trời.

– Thế nào là không bạo ác?

Đáp: Có những chúng sinh do giỏi chịu đựng nên không hề cất chứa dao gậy, cũng chẳng gây hại cho ai.

– Thế nào là không lo buồn hối tiếc?

Đáp: Có những chúng sinh giỏi chịu đựng, do giỏi chịu đựng gây tạo các nghiệp thiện tốt đẹp về thân-ngữ-ý. Khi đã tạo các nghiệp thiện rồi thì đâu có lo rầu hối tiếc, trái lại thân tâm mát mẻ thoải mái.

– Thế nào là chúng sinh mến thích?

Đáp: Có những chúng sinh giỏi chịu đựng, do giỏi chịu đựng nên khi họ bị mắng chửi, thì không hề chửi lại, bị giận hờn, bị đánh đập, bị tàn hại, bị chọc ghẹo, đùa phá, thì không hề giận hờn đánh đập, tàn hại, chọc ghẹo, đùa phá lại. Do đó mà được ai nấy mến thích. Vì không ăn miếng trả miếng đó nên ai cũng mến thích.

– Thế nào là tiếng lành lan khắp mười phương?

Đáp: Có những chúng sinh giỏi chịu đựng, do giỏi chịu đựng nên không bao giờ tranh đấu cãi cọ nhau, họ không nói chuyện để tranh cãi, coi nhẹ, chọc ghẹo, chê bai, khinh rẻ, miệt thị. Do đó mà tiếng lành lan xa khắp mười phương.

– Thế nào là khi chết rồi sẽ được sinh lên cõi trời?

Đáp: Có những chúng sinh giỏi chịu đựng, do giỏi chịu đựng nên họ luôn gây tạo nhiều hạnh thiện, tốt đẹp về thân-ngữ-ý, khi đã gây tạo nhiều hạnh thiện đó rồi thì khi chết sẽ được sinh lên cõi trời, hưởng vô số phúc thiện vui vẻ.

Năm thứ tổn giảm:

  1. Bà con bị tổn giảm.
  2. Tiền của bị hao hụt.
  3. Sức khỏe bị giảm bớt.
  4. Giới hạnh bị giảm bớt.
  5. Sự thấy biết bị giảm bớt.

– Thế nào là bà con bị tổn giảm?

Đáp: Tức là như có bà con thân quyến bị các tai nạn như gặp phải vua quan, giặc cướp, hay lửa, nước trôi mà chết đi. Hoặc có ít bà con thì cũng gọi là bà con bị hao hụt.

Vì sao gọi là bà con bị hao hụt? Vì với việc như thế thì khiến không ai ưa thích vui vẻ hay chịu đựng được. Nếu không có ai cứu giúp mà phải xa lìa mất mát nên chẳng vừa ý. Nên gọi là bà con bị hao hụt.

– Thế nào là tiền của bị giảm sút?

Đáp: Nếu tiền của giàu sang thình lình gặp phải các tai nạn như bị vua quan, giặc cướp, hay bị lửa cháy nước trôi, kẻ oán thù khiến mất hết. Hoặc như không có nhiều tiền của thì cũng gọi là tiền của bị giảm sút hao hụt.

Vì sao lại bảo là tiền của bị giảm sút? Vì chính các việc như thế thì chắc chắn rằng không ai ưa thích vui vẻ và vừa ý được cả. Các việc khác như trước đã nói.

– Thế nào là sức khỏe (không bệnh) bị giảm bớt?

Đáp: Như việc thân thường gặp bệnh hoạn luôn, như bệnh đau đầu v.v… như trước đã nói rõ. Lại trong mình thường có bệnh cũng nói là sức khỏe bị hao hụt giảm bớt.

Vì sao nói sức khỏe bị giảm sút? Vì chính các việc đó không ai ưa thích…, như trước đã nói.

– Thế nào là giới hạnh bị giảm sút?

Đáp: Như giết hại, trộm cướp, dâm dục tà hạnh, nói dối, nói ly gián, nói hung dữ, nói lời lỗi lầm lộn xộn…, và gồm cả các thứ không thuận lợi cho giới hạnh, như có những giới dẫn đến việc trái lý (phi lý) hoặc các giới làm chướng ngại cho thiền định, tất cả như thế gọi là làm giới hạnh bị giảm sút.

Vì sao lại bảo giới hạnh bị giảm sút? Vì chính các việc đó không ai ưa thích, vui vẻ, chấp nhận được cả. Nếu không ai giúp đỡ cứu hộ cho thì bị kém cỏi mất mát nên không ai vừa ý. Vì các việc như thế chắc chắn không phải kết quả đáng yêu mến, đáng vui mừng, thích chí thỏa lòng. Với các sự việc (pháp) như thế hẳn không phải là các quả dị thục đáng mến thích vui mừng, đáng thích chí thỏa lòng. Thế nên gọi là giới hạnh bị giảm sút.

– Thế nào là sự thấy biết bị giảm sút?

Đáp: Có những cái thấy như không có bố thí tặng biếu, không có cúng tế, cũng không có vui vẻ mến yêu, cho đến như đã rộng nói đầy đủ từ trước rồi. Lại có những cái thấy chẳng thiện, chẳng thuận lợi như có những cái thấy dẫn đến sự phi lý (cái đạo lý hoặc có những cái thấy làm chướng ngại thiền định. Tất cả như thế đều gọi là tự thấy biết tổn giảm hao hụt).

Vì sao lại bảo tự thấy biết bị hao hụt? Vì các việc như thế thì chẳng đáng mến thích vui vẻ chi cho đến quả dị thục chẳng vui lòng.

Thế nên gọi là sự thấy biết giảm sút hao hụt.

Có năm thứ đầy đủ:

  1. Bà con đầy đủ.
  2. Tiền của đầy đủ.
  3. Sức khỏe đầy đủ.
  4. Giới hạnh đầy đủ.
  5. Thấy biết đầy đủ.

– Thế nào là bà con đầy đủ?

Đáp: Tức là trong thân tộc bà con không có ai bị tai nạn phải chết chóc mất mát vì các vua quan, giặc cướp, hay lửa cháy nước trôi. Còn như người có bà con đông đảo thì cũng nói là bà con đầy đủ.

Vì sao lại bảo là bà con đầy đủ? Vì các việc như thế thì ai cũng mến ưa vui thích. Nếu gặp tai nạn thì có người cứu giúp, không bị chết chóc giảm mất nên luôn được vừa ý thỏa lòng.

– Thế nào là tiền của được đầy đủ?

Đáp: Tức là tiền của không bị mất mát hao tốn vì gặp các tai nạn vì vua quan giặc cướp và kẻ thù hoặc bị nước trôi lửa cháy…, kẻ có nhiều tiền của thì cũng gọi là tiền của đầy đủ.

Vì sao lại bảo là của tiền được đầy đủ? Vì khi được các việc nầy thì ai cũng mến ưa vui thích vừa ý cả. Các việc khác như trước đã nói rồi.

– Thế nào là sức khỏe đầy đủ?

Đáp: Nếu trong thân không bị các bệnh như đau đầu nhức mỏi đã nói đầy đủ như trước đây. Kẻ nào ít bệnh hoạn thì cũng gọi là sức khỏe đầy đủ.

Vì sao nói là sức khỏe đầy đủ? Vì các việc như thế ai cũng mến ưa vui thích, đã nói rõ ở trước.

– Thế nào là giới hạnh đầy đủ?

Đáp: Tức là không bao giờ giết hại, trộm cướp, tà dâm, không nói dối, nói ly gián, nói hung dữ, nói lầm lỗi lộn xộn. Lại còn đầy đủ các điều thuận lợi cho giới hạnh (thiện giới) như các giới cấm đúng lý, các giới cấm không làm trở ngại cho thiền định. Tất cả như thế gọi là giới hạnh đầy đủ.

Vì sao nói là giới hạnh đầy đủ? Vì các sự việc như thế thì ai cũng mến ưa vui thích. Có người giúp đỡ hộ trợ khiến không mất giảm nên rất vừa ý. Vì việc đó có các kết quả đáng mến ưa vui thích, thỏa ý vừa lòng. Vì các việc đó có được các quả dị thục đáng mến ưa thích, thỏa ý vừa lòng. Thế nên gọi là giới hạnh đầy đủ.

– Thế nào là sự thấy biết đầy đủ?

Đáp: Có những sự thấy biết có bố thí ban tặng, có cúng tế, có mến thích… cho đến đã nói rõ ở trước. Lại có nhiều sự thuận lợi cho sự thấy biết như có các sự thấy biết đúng lý, có các sự thấy biết không làm trở ngại cho việc thiền định. Tất cả như thế gọi là sự thấy biết đầy đủ.

Vì sao nói sự thấy biết đầy đủ? Vì các việc đó rất đáng mến ưa vui thích…, cho đến có các quả dị thục vừa ý thỏa lòng. Thế nên nói là sự thấy biết đầy đủ.

Có năm cách tỏ bày lời nói:

  1. Nói đúng lúc và chẳng đúng lúc (phi thời).
  2. Nói lời đúng thực và không đúng thực.
  3. Nói lời có nghĩa lý bổ ích và không có nghĩa lý.
  4. Nói lời êm ái dịu dàng hoặc lời hung ác.
  5. Nói lời hiền từ hoặc giận dữ.

– Thế nào là nói lời đúng lúc và không đúng lúc?

Hỏi: Nói lời chẳng đúng lúc là sao?

Đáp: Cách nầy có hai thứ là trong và ngoài.

Thế nào là nói chẳng đúng lúc bên trong? Tức là khi có Bí-sô muốn kể tội của người khác mà trong lòng lại bị ảnh hưởng điều khiển do các thứ hoặc là tham, sân hay si hoặc đang gặp khổ dữ hay lâm trọng bệnh, hoặc không thể chuyện trò bàn bạc với người khác được…, thì đó gọi là nói không đúng lúc thuộc về trong.

Thế nào là nói chẳng đúng lúc bên ngoài? Tức là như có thầy Bísô kể tội người khác mà kẻ muốn kể tội nầy lại đang bị ảnh hưởng điều khiển do các thứ hoặc tham, sân hay si hoặc đang gặp khổ dữ, hay bị đau nặng hoặc không thể nói năng luận bàn với người khác được, hoặc chưa nhận được đầy đủ sự sống trong hiện tại của một Bổ-đặc-già-la thì gọi là chẳng đúng lúc bên ngoài.

Trong đây có nói chẳng đúng lúc bên trong và ngoài nhưng gọi chung làm một là nói không đúng lúc.

Hỏi: Thế nào là nói đúng lúc?

Đáp: Cách nầy cũng có hai thứ trong và ngoài.

Nói đúng lúc bên trong là sao? Như các thầy Bí-sô kể tội người khác mà vị nầy không bị ảnh hưởng của các thứ hoặc tham, sân hay si cũng không bị đau nặng và có khả năng luận bàn trò chuyện với người khác…, thì gọi là nói đúng lúc thuộc trong.

Nói đúng lúc bên ngoài là sao? Như có thầy Bí-sô kể tội người khác, nhưng người muốn kể tội lại không bị ảnh hưởng ràng buộc do các thứ hoặc tham, sân hay si hay bị khổ dữ, cũng không lâm trọng bệnh và lại có khả năng nói chuyện luận bàn với người khác, cũng như đã thọ nhận đầy đủ sự sống hiện tại của một Bổ-đặc-già-la (chúng sinh). Thì đó là nói đúng lúc thuộc ngoài.

Trong đây có nói đúng lúc bên trong và ngoài, nhưng tóm tắt gọi chung làm một là nói đúng lúc thôi. Thế nên gọi là nói đúng lúc và không đúng lúc.

– Thế nào là nói lời đúng thực và chẳng đúng thực?

Hỏi: Nói lời chẳng đúng thực là sao?

Đáp: Như có thầy Bí-sô kể tội người khác, nhưng lại không thấy, không nghe, không nghi ngờ chi về việc người kia phạm giới, phạm sự thấy biết, phạm các quy điều pháp tắc hay đời sống trong sạch. Thì đó gọi là nói không đúng thực.

Hỏi: Nói lời đúng thực là sao?

Đáp: Như có vị Bí-sô kể tội người khác mà thật có thấy nghe và nghi ngờ về các tội đã phạm giới, phạm sự thấy biết và các quy điều phép tắc cũng như đời sống trong sạch. Vậy đó là nói lời đúng thực.

– Thế nào là nói lời có nghĩa lý bổ ích và không nghĩa lý?

Hỏi: Nói lời không có nghĩa lý bổ ích là sao?

Đáp: Như có thầy Bí-sô kể tội các người khác đã phạm giới, thấy phạm, phạm các quy tắc và đời sống thanh tịnh…, song. thầy Bí-sô phạm các tội đó đã phát lồ, trình bày, thú tội, bày tỏ xin sám hối với các bậc Thượng thủ rồi và không còn có điều gì đáng nói nữa cả. Thì lời nó kể tội đó coi như không nghĩa lý bổ ích.

Hỏi: Còn lời nói có nghĩa lý bổ ích là sao?

Đáp: Ấy là như vị Bí-sô kể tội thầy Bí-sô khác phạm giới và sự thấy biết, phạm các quy tắc và đời sống thanh tịnh…, mà người nầy chưa hề phát lồ trình bày kê khai bày tỏ xin sám hối với ai cả, hoặc còn có những điều chưa nói hết. Thì đó là lời nói có nghĩa lý bổ ích.

– Thế nào là lời nói dịu dàng êm ái và lời nói dữ dằn hung ác?

Hỏi: Lời nói dữ dằn hung ác là sao?

Đáp: Như có thầy Bí-sô nầy có ác ý giận hờn hung dữ với thầy kia nên nói như vầy: Ông đã thấy biết mình đã phạm tội như thế, rõ ràng ông là một Sa-môn xấu xa, một Sa-môn ngu độn không biết xấu hổ, là một Sa-môn ngoan cố khó dạy. Ông phải mau kê khai đầy đủ các tội lỗi ra đi, chớ có giấu giếm… Đó là lời nói hung dữ.

Hỏi: Lời nói dịu dàng êm ái là sao?

Đáp: Như có thầy Bí-sô đến chỗ thầy Bí-sô khác mà nói: Thầy đã phạm phải các lỗi lầm như thế, vậy nên trình bày phát lồ sám hối chớ nên che giấu. Nếu trình bày xong tất sẽ được an lạc, còn chưa trình bày sẽ không được an lạc. Đó là lời nói êm ái dịu dàng. – Thế nào là lời nói hiền từ thương mến hoặc giận dữ Hỏi: Lời nói giận dữ là sao?

Đáp: Như có thầy Bí-sô đến chỗ thầy Bí-sô khác với lòng đầy giận hờn độc hại mà kể tội thầy đó đã phạm giới, phạm kiến, phạm các quy điều phép tắc vi phạm đời sống thanh tịnh…, đó là những lời nói giận hờn.

Hỏi: Còn lời nói hiền từ thương mến là sao?

Đáp: Như có thầy Bí-sô đến chỗ thầy Bí-sô khác với tất cả tấm lòng thương mến tràn đầy khi đến nơi chỉ bày các lỗi lầm đã phạm giới, vi phạm sự thấy biết, phạm các quy điều phép tắc và đời sống thanh tịnh v.v… Đó là lời hiền từ thương mến.

Có năm việc không kham chịu được: Là năm điều gì?

Như Bậc Bí-sô A-la-hán các lậu hoặc đã dứt hết nên:

  1. Không thể chịu được việc nghĩ đến sự giết hại mạng sống.
  2. Không thể chịu được khi nghĩ đến việc trộm cướp.
  3. Không thể chịu được nghĩ đến các việc dâm dục tà hạnh.
  4. Không thể chịu được khi biết đúng mà lại nói dối.
  5. Không thể chịu được việc chứa nhóm và thọ hưởng các thứ dục lạc.

Vị Bí-sô A-la-hán đã dứt hết các lậu hoặc nên không thể chịu được khi nghĩ đến việc giết hại mạng sống, tức là vì lý do đó nên vị nầy nghĩ đến việc phải chấm dứt sinh mạng Bí-sô A-la-hán (tự sát) và do đó mà các lậu cũng chấm dứt. Đối với vị đó vĩnh đoạn đã biết khắp. Cũng giống như việc đào bới cắt đứt rễ cái và bẻ ngọn cây đa la, khiến cho đời sau không còn cách sinh lại nữa.

Vị Bí-sô A-la-hán đã dứt hết các lậu hoặc nên không chịu được còn nghĩ đến việc trộm cướp hay sống trái phạm hạnh quen thói dâm dật cũng như việc biết đúng mà lại nói dối… thì cũng như thế.

Vị Bí-sô A-la-hán đã dứt hết các lậu nên không chịu được các việc chứa nhóm và hưởng thụ các thứ dục lạc nghĩa là do nhân duyên chứa nhóm và hưởng thụ dục lạc ấy mà Bí-sô A-la-hán dứt hết các lậu và đã được vĩnh đoạn, đã được biết khắp, giống như việc đào bới cắt đứt rễ cái và bẻ ngọn cây đa la khiến không còn sinh lại kiếp sau nữa.

Có năm sự sống đáng quý: Đó là năm điều gì?

1. Quý thầy nên biết, các hàng đệ tử Phật thường ở chỗ Như Lai mà tu tập gieo trồng tịnh tín và an trụ vào sinh căn, thì chẳng bị các Sa-môn, Bà-la-môn, các Thiên vương, Ma vương và Phạm thiên hoặc các cõi thế gian khác đúng pháp rủ rê cướp đoạt. Đó là sự sống quý thứ nhất.

2. Lại nữa quý vị, các hàng đệ tử chư Phật, luôn có tánh ngay thẳng không hề dua nịnh dối lừa. Ở chỗ bậc Đại sư và các kẻ trí đồng tu phạm hạnh thì đúng như thật trình bày rõ ràng. Đây là sự sống thứ hai.

3. Lại nữa quý thầy, các hàng đệ tử chư Phật thường ít tật không bệnh hoạn, bụng dạ chắc chắn, không nóng quá hay lạnh quá. Thời tiết khí hậu luôn điều hòa không có các sự khổ não buồn lo, do đó mà ăn uống dễ tiêu hóa. Đó là sự sống quý thứ ba.

4. Lại nữa quý thầy, các hàng đệ tử chư Phật luôn luôn sống trong siêng năng cần mẫn, hăng hái mạnh mẽ bền bỉ, đối với các pháp thiện không bao giờ trái phép tắc. Giả sử như chỉ còn da bọc xương còn máu thịt đều khô tóp hết thì vẫn một dạ mong cầu được chứng pháp thiện quý báu thù thắng mà luôn cố gắng hết mình, siêng năng chuyên cần hăng hái mạnh dạn bền bỉ không bao lìa bỏ việc tu tập pháp thiện. Nếu chưa chứng được thì lại càng nổ lực siêng đến cùng, quyết không bỏ dở nữa chừng. Đó là sự sống quý thứ tư.

5. Lại nữa quý thầy, các hàng đệ tử Phật, luôn sống an trụ thành tựu thế gian có trí tuệ sinh Thánh tuệ, xuất tuệ và trí tuệ thông đạt thấu suốt tất cả. Trí tuệ được tạo nên cũng như cả cái chánh tuệ diệt hết các khổ. Đó là sự sống quý thứ năm.

– Ở chỗ Như Lai luôn tụ tập gieo trồng tịnh tín là:

Thế nào là Như Lai? Vì là bậc Giác ngộ cao tột nhất (Chánh Đẳng Giác) nên gọi là Như Lai.

Tịnh tín là sao? Như là các sự tin tưởng rằng nếu nương vào sự xuất ly và lìa bỏ thì sẽ sinh ra các pháp thiện. Như tự tánh của các thứ niềm tin, sự tùy thuận, sự ân khả. Và tính chất đã mến thích, sẽ mến thích và đang mến thích. Cũng như tự tánh của tâm thanh tịnh, nên gọi là tịnh tín. Tức là do sự tịnh tín nầy mà ở chỗ Như Lai đã từng tu tập gieo trồng, sẽ tu tập gieo trồng và hiện đang tu tập gieo trồng. Do đo nên nói ở chỗ Như Lai thường tu tập gieo trồng niềm tin thanh tịnh (tịnh tín).

Căn sinh là thế nào? Nghĩa là tịnh tín nầy có hai thứ căn: một là trí vô lậu, hai là căn thiện vô lậu nên gọi là căn sinh.

Nói về an trụ tức là do hành tướng của căn sinh như thế thì liền do đó mà có hành tướng an trụ như thế. Và nếu do có hành tướng an trụ như thế thì liền có ngay hành tướng của căn sinh như thế. Nên gọi là an trụ.

Không thể dụ dỗ tước đoạt được: Tức là vì đã thành tựu tịnh tín như thế, nên tất cả thế gian nầy hoặc trời, ma, Phạm thiên, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn hoặc các loại chúng sinh, trời người đều không thể dẫn đi (dụ dỗ)? Và chiếm đoạt được. Không thể dụ dỗ chiếm đoạt, không thể lật đổ, không thể khuynh đảo lật đổ tất cả, và dù rất cố gắng cùng cực cũng chẳng thể lật đổ khuynh đảo được tý nào, không thể lay động, lay động tất cả, lay động cùng cực, không thể động đậy, động đậy tất cả, động đậy cùng cực. Thế nên nói là chẳng thể dụ dỗ chiếm đoạt được.

Đó gọi là thứ nhất, tức là theo thứ tự liên tục đếm dần lên thì nó là hàng thứ nhất.

Nói là sự sống đều rất quý: Tức là do lòng tin thanh tịnh thêm nhiều nên tất cả thiện nam tín nữ sau nầy dần dần trở nên cao quý tốt đẹp, nên gọi là sự sống quý báu.

– Nói không dua nịnh. Dua nịnh là sao? Nghĩa là tất cả lòng dạ

có tự tánh hiểm ác, gian trá, quanh co khúc mắc, tạp loạn, không ngay thẳng, rõ ràng, không điều hợp với tánh thiện…, điều gọi là siểm nịnh. Nếu không siểm nịnh như thế thì gọi là không dua nịnh.

Nói không lừa dối. Lừa dối là sao? Nghĩa là lường cân sửa đấu, tráo thư trả lời. Đối với mọi người thì giả hình đổi dạng giả bộ tài tình, giả bộ lão luyện đúng kỹ thuật nghề nghiệp, giỡn chơi chọc ghẹo, mê hoặc quyến rũ… Tất cả đều gọi là lừa dối. Nếu không có các điều vừa nói thì gọi là không dối lừa.

Tánh thuần ngay thẳng, nghĩa là luôn quý trọng sự sáng sủa rõ ràng, không siểm nịnh, không lừa dối, nên nói là tánh thuần ngay thẳng.

Ở chỗ bậc Đại sư và các người trí tu phạm hạnh thì đúng như thật tự hiện bày đó.

Đại sư là sao? Đại sư là chỉ cho các Đức Như Lai Chánh Đẳng Giác.

Kẻ trí đồng tu phạm hạnh là sao? Tức là chỉ cho các Tôn giả Xá Lợi Tử, Đại Thái Thúc Thị, Đại Quãng Cấu thị, Đại Ca Diếp Ba, Đại Chấp Tàng, Đại Kiếp Phỉ Na, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Chuẩn Đà, Đại Thiện Kiến, Đại Lộ, Đại Danh, Vô Diệt Dục Lạc, Kim Tỳ La v.v…

Đều có người trí đồng tu phạm hạnh: Nếu quý vị nào nhiều tham sân si có trái phạm lỗi lầm thì nên ở chỗ bậc Đại sư và các kẻ trí đồng tu Phạm hạnh mà đúng như thật trình bày đầy đủ rõ ràng, khai ra phát lồ sám hối, không chút che giấu. Do đó nên nói ở chỗ Đại sư và các người trí đồng tu Phạm hạnh đúng như thật mà trình bày rõ ràng.

Là điều thứ hai: Tức là theo thứ tự liên tục đếm dần lên thì nó ở hàng thứ hai.

Nói là sự sống quý: Là vì không có dua nịnh lừa dối thêm nhiều, nên các thiện nam hoặc tín nữ sau nầy dần dần trở nên cao quý. Nên nói là sự sống quý báu.

– Nói là ít bệnh, nhiều bệnh là sao? Tức là như đau đầu v.v… rộng nói thêm đầy đủ. Và các thứ bệnh hoạn bức bách ép ngặt hành hạ khổ sở khác hay tạo ra các thứ chạm xúc chẳng an ổn, còn trong thân thì có nhiều bệnh tật. Như vậy nếu thân không có các bệnh tật thì gọi là ít bệnh.

Nói là không bệnh hoạn, là nói thêm về ít tật bệnh (nhấn mạnh thêm) như để chỉ việc bụng dạ không lạnh quá hay nóng quá và thời tiết điều hòa không có các sự khổ não buồn lo. Do đó mà ăn uống dễ tiêu hóa, là người ấy đã thành tựu được việc không lạnh quá hay nóng quá.

Luôn thành tựu bình thường, (bình đẳng) hai tạng sống chín.

Nếu khi có cái tạng lạnh quá, thì các thức ăn uống chậm chạp khó tiêu, khiến thân thể nặng nề, không thể chịu đựng và làm việc tốt được, không thể siêng năng chuyên cần tu tập các hạnh đoạn diệt cao quý.

Nếu khi có cái tạng quá nóng, thì các thức ăn uống mau (chín) tiêu hóa quá nhanh, khiến thân thể ốm gầy suy yếu, không thể chịu đựng làm việc được, không thể siêng năng chuyên cần tu tập pháp đoạn diệt cao quý. Do người đó thành tựu được hai tạng sống chín không lạnh quá nóng quá và thời tiết (giờ giấc) điều độ điều hòa không có các sự khổ não buồn lo, nên khi ăn uống thì dễ tiêu hóa, khiến thân thể khỏe mạnh mập mạp, làm được nhiều việc và có thể siêng năng gắng sức chuyên cần tu tập hạnh đoạn diệt cao quý.

Đó gọi là hàng thứ ba: Tức là thuận theo thứ tự mà liên tục đếm dần lên thì nó ở hàng thứ ba.

Gọi là sự sống cao quý, là do sự ít tật bệnh nầy càng nhiều thêm thì các thiện nam tín nữ sau nầy càng trở nên cao quý. Do đó mà gọi là sự sống cao quý.

– Luôn trụ trong chuyên cần siêng gắng.

Tinh tấn là sao? Nếu đối với pháp xuất ly và lìa bỏ để sinh ra các pháp thiện mà cố gắng siêng năng, chuyên cần hăng hái, mạnh mẽ bền bỉ, lòng luôn tiến bước không gì ngăn cản được thì gọi là tinh tấn. Do đã thành tựu được sự tinh tấn như thế nên người đó có thể tu tập rèn luyện được các hạnh cao quý tốt đẹp. Luôn siêng gắng tiến bước đến khi chứng nhập được, nên gọi là chuyên cần siêng gắng.

Nói luôn trụ trong chuyên cần, là người nầy đã siêng năng gắng sức đầy đủ đạt thượng phẩm.

Có chuyên cần, là hiểu bày rõ ràng sự siêng gắng chắc chắn bền bỉ.

Có hăng hái mạnh mẽ bền bỉ, là do đã thành tựu được sức tinh tấn siêng năng đó rồi, nên quyết mạnh giữ chắc sự kiên trì bền bỉ, giữ chắc các lợi ích lớn, giữ chắc các thứ cần giữ chặt. Đó là khéo léo không lầm lỗi tùy theo mỗi sự chấp chặt có ích mà luôn giữ mãi chẳng rời. Cũng như khi đã dựng được nước nhà rồi thì khéo cai trị giữ gìn. Nên gọi là có sức hăng hái mạnh mẽ bền bỉ.

Đối với các pháp thiện không bao giờ buông bỏ các quy tắc là luôn siêng năng bền bỉ chuyên cần tu tập các pháp thiện không gián đoạn.

Vì mong cầu được chứng pháp thiện quý báu thù thắng, nếu chưa chứng được thì càng siêng năng hăng hái nổ lực hết mình quyết không bỏ dở nữa chừng. Nghĩa là nếu chưa chứng được quả A-la-hán thì luôn siêng năng hăng hái cố gắng hết mức chứ không biếng lười bỏ dở. Do đó nên nói là vì mong cầu được chứng pháp thiện. Nếu chưa chứng được thì càng chuyên cần siêng năng cố gắng hăng hái quyết không bỏ dở nửa chừng.

Là hàng thứ tư: Tức là thuận theo thứ tự liên tục đếm dần lên thì nó ở hàng thứ tư.

– Nói là sự sống cao quý. Do sự tinh tấn chuyên cần thêm nhiều, nên các thiện nam, tín nữ sau nầy sẽ trở nên cao quý. Nên gọi là sự sống cao quý.

An trụ trong trí tuệ đầy đủ. Tuệ là gì? Tức là nương vào sự xuất ly, lìa bỏ để sinh ra các pháp thiện, mà đối với các pháp tướng thì phân biệt tuyển chọn, tuyển chọn kỹ hết mức. Rộng nói cho đến Tỳ-bát-xána. Thì gọi là tuệ.

Nói an trụ, là do đã thành tựu được tuệ như thế, cho nên đối với các pháp tướng có thể thực hiện được các hạnh cao quý để tiến đến sự chứng quả, giác ngộ. Do đó mà nói là an trụ trong cụ tuệ (trí tuệ đầy đủ).

Thành tựu được trí tuệ sinh diệt của thế gian, thế gian thì tức là năm uẩn, đó là Sắc, thọ, tưởng, hành, thức các uẩn đó luôn bị chấp chặt. Vì người đó đã thành tựu được cái tuệ như thế nên biết đúng như thực về sự sinh ra và biến đổi hư mất của năm uẩn chấp ấy. Do đó nên nói thành tựu được cái tuệ có sinh diệt của thế gian.

Nói về Thánh tuệ thì có hai loại Thánh: một là thiện nên gọi là Thánh, hai là vô lậu cũng gọi là Thánh. Tuệ đầy đủ nầy gồm cả hai thứ Thánh đó nên gọi là Thánh tuệ.

Nói về xuất tuệ, là người đó đã thành tựu được tuệ như thế nên có thể vượt thoát ra khỏi cõi Dục và có thể xuất ly cả cõi Sắc và cõi Vô sắc nữa. Nên nói là xuất tuệ.

Tuệ khéo thông đạt thấu suốt, là người đó đã thành tựu được tuệ như thế, nên đối với các đế khổ-tập-diệt-đạo đều thấu suốt rõ ràng các tướng của khổ tập diệt đạo, khéo léo, giỏi thấu suốt và phân biệt được tất cả mọi thấu suốt thông đạt cho nên gọi là tuệ khéo thông đạt thấu suốt.

Tuệ được tạo nên (sở tác), nghĩa là người nay do học mãi các đạo hạnh không gián đoạn nên được trí tuệ tuyệt diệu, nên trong đây gọi đó là tuệ do người ấy tạo nên.

Chánh tuệ diệt hết các khổ. Chánh là gì? Tức là chỉ cho các nhân, các pháp môn, các lý thú, các hành tướng…, nên gọi là chánh.

Tuệ diệt hết các khổ, thì năm uẩn chấp gọi là khổ. Trí tuệ nầy khiến năm uẩn ấy dứt hết, cùng hết, hết khắp tất cả, tới được sự vĩnh tận. Nên gọi là tuệ dứt hết các khổ.

Đó là hàng thứ năm, tức là theo thứ tự đếm dần lên liên tục thì nó là hàng thứ năm.

Nói là sự sống cao quý, tức là trí tuệ đầy đủ (cụ tuệ) nầy càng thêm nhiều, nên các thiện nam, tín nữ dần dần sau nầy sẽ trở nên cao quý, nên gọi là sự sống cao quý.

Có năm thứ tưởng thành thục giải thoát:

  1. Tưởng vô thường.
  2. Tưởng khổ vô thường.
  3. Tưởng khổ vô ngã.
  4. Tưởng chán ghét ăn uống.
  5. Tưởng về chết.

– Thế nào là tưởng vô thường?

Đáp: Tất cả các hành đều vô thường. Đối với các hành vô thường từ chỗ vô thường đó mà đúng lý suy tư tìm xét các tưởng hiện đang xảy ra trước mắt, các tưởng đã qua, các tưởng sắp tới, và các tưởng hiện tại, nên gọi là tưởng vô thường.

– Thế nào là tưởng khổ vô thường?

Đáp: Tất cả các hành đều vô thường, do vì vô thường nên có khổ. Do có hành khổ cho nên có các tưởng khổ. Nay đúng lý mà suy tư tìm xét các tưởng hiện đang xảy ra trước mắt, mà tưởng về các tưởng đã qua, chưa tới và đang trong hiện tại, nên gọi là tưởng khổ vô thường.

– Thế nào là tưởng khổ vô ngã?

Đáp: Tất cả các hành đều vô thường. Vì vô thường cho nên khổ, vì khổ nên vô ngã. Đối với vô ngã của các hành vô ngã mà đúng lý suy tư tìm xét các tưởng đang xảy ra trước mắt, mà tưởng về các tưởng đã qua, các tưởng chưa đến và các tưởng trong hiện tại, nên gọi là tưởng khổ vô ngã.

– Thế nào là tưởng chán ghét sự ăn uống?

Đáp: Tất cả các thầy Bí-sô đều cần phải ăn uống, vậy nên từ các thức ăn đó mà khởi lên các ý niệm chán ghét, các ý niệm ghê tởm chê bỏ hãy lấy cái tưởng bất tịnh mà tưởng xét về các thức ăn.

Việc đó như thế nào? Như đối với cơm và cháo nhừ thì nên liên tưởng đến sự sình chướng của thây chết. Còn đối với cháo, canh thịt, thì nên liên tưởng tới phân lỏng của người. Các thứ sữa, tô lạc còn tươi thì liên tưởng tới ốc não. Còn các thứ sữa, dầu mỡ, đường, mật đã chín thì liên tưởng tới mỡ sa, mỡ nước. Các thứ gạo khô (bún gạo) thì liên tưởng tới xương nát vụn, còn bánh thì liên tưởng tới da người, muối thì tưởng là răng bị nát vụn. Còn các thứ củ rễ cọng đọt của rau tươi, cành lá thì nên liên tưởng tới tóc mọc trên đầu lâu, sọ người. Các thứ nước uống được thì nghĩ tới máu mủ… đó là đối với phần ăn uống mà khởi lên các ý tưởng ghê tởm, chán ghét, do dùng cái quán bất tịnh mà nhìn xét thức ăn. Cứ luôn nghĩ tưởng như thế ở trước mắt, hay đã sắp tới và trong hiện tại… đó gọi là tưởng chán ghét sự ăn uống.

– Thế nào là tưởng về sự chết?

Đáp: Đối với thân thể mạng sống đang rất đẹp đẽ mà khởi ý tưởng suy xét đến sự vô thường với các tưởng như thế ở trước mắt, trong quá khứ, ở tương lai và trong hiện tại.

Đó là năm thứ tưởng thành thục giải thoát.

Vì sao lại gọi năm thứ đó là tưởng thành thục giải thoát? Giải thoát có ba thứ: Là tâm giải thoát, Trí tuệ giải thoát và vô vi giải thoát. Do năm thứ tưởng giải thoát hữu vi nầy, nếu ai chưa có thì nên khiến chúng sinh ra. Nếu đã có rồi thì nên khiến nó càng thêm bền chắc to rộng hơn. Do đó mà nhanh chóng chứng được vô vi giải thoát. Do nhân duyên (lý do) nầy nên gọi là tưởng thành thục giải thoát.

*****

Có năm lĩnh vực giải thoát:

1. Quý vị nên biết! Nếu các Bí-sô hay các Bí-sô ni được hoặc bậc Đại sư nói các pháp yếu, hoặc một vị có trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng như bậc Đại sư nói các pháp yếu, hoặc vì có trí đồng tu phạm hạnh nói các pháp yếu. Các pháp yếu như thế người ấy đều hiểu biết đúng đắn. Do hiểu biết đúng đắn hoặc pháp hoặc nghĩa nên liền sinh vui, vì vui nên sinh mừng. Tâm mừng vui nên thân nhẹ nhàng khoan khoái, thân nhẹ nhàng khoan khoái nên nhận được niềm hoan lạc. Do có hoan lạc nên tâm yên định, tâm yên định nên thấy biết như thật, thấy biết như thật nên sinh chán ghét, vì chán ghét mới lìa bỏ, vì lìa bỏ nên được giải thoát. Đó là lĩnh vực giải thoát thứ nhất. Thế nên các vị Bí-sô, Bí-sô ni nên an trụ vào lĩnh vực đó. Nếu ai niệm chưa trụ thì nên trụ vào chánh niệm, tâm chưa định thì nên trụ vào chánh định, lậu chưa dứt thì nên dứt trừ các lậu, chưa chứng được Niết-bàn an ổn vô thượng thì hãy nhanh chóng chứng ngộ.

2. Lại nữa quý vị, nếu các Bí-sô, Bí-sô ni, dù không có bậc Đại sư hay một vị có trí đồng tu phạm hạnh đáng quý trọng để nói các pháp yếu. Nhưng chính mình thường lớn tiếng đọc tụng các pháp yếu rốt ráo đã từng được nghe. Do vì đã lớn tiếng đọc tụng như thế nên hiểu biết đúng đắn về pháp hoặc nghĩa của các pháp yếu ấy. Do đó mà sinh vui, vì vui nên mừng, vì tâm mừng nên thân nhẹ nhàng khoan khoái, vì thân nhẹ nhàng khoan khoái nên nhận được niềm hoan lạc. Do có hoan lạc nên tâm yên định, tâm yên định nên thấy biết như thật, thấy biết như thật nên sinh chán ghét, vì chán ghét nên lìa bỏ, vì lìa bỏ nên được giải thoát. Đây là lĩnh vực giải thoát thứ hai. Thế nên các vị Bí-sô, Bí-sô ni hãy nên an trụ vào lĩnh vực đó. Nếu ai niệm chưa trụ thì nên trụ vào chánh niệm, tâm chưa định thì nên trụ vào chánh định, lậu chưa dứt thì nên dứt trừ các lậu, chưa chứng được Niết-bàn an ổn vô thượng thì hãy nhanh chóng chứng ngộ.

3. Lại nữa quý vị, nếu có các Bí-sô, Bí-sô ni không có bậc Đại sư hay một vị có trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng đến nói pháp yếu, cũng không lớn tiếng đọc tụng các pháp yếu đã từng được nghe mà chỉ thường vì người khác mà diễn giảng chỉ bày các điều, các pháp yếu rốt ráo đã từng được nghe. Do vì diễn giảng chỉ bày cho người khác các pháp yếu nên đã hiểu biết đúng đắn về pháp hoặc nghĩa của chúng. Do đó mà sinh vui, vì vui nên mừng, vì tâm mừng nên thấy nhẹ nhàng khoan khoái, vì thân nhẹ nhàng khoan khoái nên nhận được niềm hoan lạc. Do có hoan lạc nên tâm yên định, tâm yên định nên thấy biết như thật, thấy biết như thật nên sinh chán ghét. Vì chán ghét nên lìa bỏ, vì lìa bỏ nên được giải thoát. Đó gọi là lĩnh vực giải thoát thứ ba. Thế nên quý vị Bí-sô, Bí-sô ni hãy nên an trụ vào lĩnh vực đó. Ai mà niệm chưa trụ thì nên trụ vào chánh niệm, tâm chưa định thì nên trụ vào chánh định, lậu chưa dứt thì nên diệt trừ các lậu, chưa chứng được Niết-bàn an ổn vô thượng thì hãy nhanh chóng chứng ngộ.

4. Lại nữa quý vị, nếu các Bí-sô, Bí-sô ni, tuy không có Đại sư hoặc một bậc trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng khác đến nói pháp yếu cũng không lớn tiếng đọc tụng hay vì người khác mà diễn giảng rộng nói chỉ bày các pháp yếu, mà chỉ riêng ở nơi vắng vẻ một mình tự suy nghĩ xét lường quan sát các điều pháp yếu rốt ráo đã từng được nghe qua. Do chỉ riêng mình suy nghĩ xét lường quan sát các pháp yếu rốt ráo nên đã hiểu biết đúng đắn về pháp và nghĩa của các pháp yếu ấy. Do đó mà sinh vui, vì vui nên mừng, vì tâm mừng nên thân nhẹ nhàng khoan khoái, thân nhẹ nhàng khoan khoái rồi nên nhận được niềm hoan lạc. Do có hoan lạc nên tâm yên định, tâm yên định nên thấy biết như thật, thấy biết như thật nên sinh chán ghét. Vì chán ghét nên mới lìa bỏ, vì lìa bỏ nên được giải thoát. Đó gọi là lĩnh vực giải thoát thứ tư. Thế nên quý vị Bí-sô, Bí-sô ni hãy nên trụ vào lĩnh vực đó. Ai có niệm chưa trụ thì nên trụ vào chánh niệm, tâm chưa định thì nên trụ vào chánh định, lậu chưa dứt thì nên dứt trừ các lậu, chưa chứng được Niết-bàn an ổn vô thượng thì hãy nhanh chóng chứng ngộ.

5. Lại nữa quý vị, nếu các Bí-sô, Bí-sô ni tuy không có Đại sư hay bậc trí đồng tu phạm hạnh khác đáng tôn trọng đến nói các pháp yếu, cũng không lớn tiếng đọc tụng các pháp yếu hay vì giảng nói chỉ bày các pháp yếu, cũng không ở chỗ vắng vẻ chỉ một mình suy tư xét lường quan sát các pháp yếu rốt ráo đã từng nghe được, nhưng có bao nhiêu nghĩa lý sâu xa thì khéo léo giữ gìn tuân hành vào một tướng nhất định. Và với cái tướng đó mà luôn luôn khéo léo suy tư tìm hiểu rồi hiểu biết rõ ràng và thông suốt thấu đáo. Do đó mà hiểu đúng đắn về pháp hoặc nghĩa của các pháp yếu rốt ráo đó. Do đó mà sinh vui, vì vui nên mừng. Vì tâm mừng nên thân nhẹ nhàng khoan khoái, thân nhẹ nhàng khoan khoái nên nhận được niềm hoan lạc. Vì có hoan lạc nên tâm yên định, tâm yên định nên thấy biết như thật, thấy biết như thật nên sinh chán ghét, vì chán ghét nên mới lìa bỏ, vì lìa bỏ nên được giải thoát. Đó là lĩnh vực giải thoát thứ năm. Thế nên quý vị Bí-sô, Bí-sô ni hãy nên trụ vào lĩnh vực đó. Ai có niệm chưa trụ thì nên trụ vào chánh niệm, tâm chưa định thì nên trụ vào chánh định, lậu chưa dứt thì hãy dứt trừ các lậu, chưa chứng được Niết-bàn an ổn tột bậc thì hãy nhanh chóng chứng ngộ.

Ở trong đây khi nói bậc Đại sư hay bậc trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng đến nói pháp yếu.

Đại sư ấy là ai? Đại sư đó chính là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Bậc trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng đó là ai? Đó là các Tôn giả: Kiều Trần Na, Mã Thắng, Hiền Thắng, Vụ Khí, Đại Danh, Na Xá, Viên Mãn, Vô Cấu, Diệu Tý, Ngưu Chủ, Xá Lợi Tử, Đại Thái Thục

Thị, Đại Ca Diếp Ba, Đại Kiếp Phỉ Na, Đại Quản Cấu Thị, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Chấp Tàng, Đại Thiện Kiến, Đại Lộ, Tùy Thuận Vô Diệt Dục Lạc, Kim Tỳ La v.v… đều gọi là bậc trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng.

Pháp là gì? Là danh từ, câu nói, câu văn thì gọi là pháp. Tức là trước đây bậc Đại sư và các bậc trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng đã dùng các thứ danh từ, câu nói, câu văn để nói giảng cho mọi người trình bày, lập nên các luận thuyết, giải bày phân biệt, chỉ dẫn rõ ràng. Do đó mà nói là pháp yếu. Như các pháp yếu do các Đại sư và các bậc trí đồng tu phạm hạnh đáng tôn trọng nói ra như thế, như thế…, thì người ấy hiểu biết đúng đắn về pháp hoặc nghĩa.

Hiểu biết đúng đắn về pháp là sao? Với danh từ, câu nói, câu văn thì gọi là pháp. Người ấy đối với các pháp đó mà hiểu tất cả, hiểu gần, hiểu rõ ràng, thấu suốt sự sai khác về phẩm chất và chủng loại của nó. Vì đã chứng được trí không hai và không lui sụt, nên có thể hiểu biết đúng đắn về pháp.

Hiểu biết đúng đắn về nghĩa là sao? Được danh từ, câu nói, câu văn chỉ bày nói về nó, nói khắp tất cả để trình bày, chỉ rõ, biểu thị thì gọi là nghĩa. Đối với nghĩa nầy, người đó hiểu biết tất cả, hiểu gần, hiểu rõ ràng, thấu suốt được chỗ sai khác về phẩm chất và chủng loại của nó. Vì đã chứng được trí không hai và không lui sụt, nên có thể hiểu biết đúng đắn về nghĩa.

Do hiểu biết đúng đắn về pháp hoặc nghĩa nên sinh ra vui, tức là đầu tiên thì sinh ra mừng gọi là vui. Với niềm vui nầy người đó khởi tất cả, sinh tất cả, đang chuyển đổi, tu tập và xuất hiện. Do đó mà nói sinh ra vui.

Vì vui nên sinh ra mừng, nghĩa là vui hết mực thì gọi là mừng. Đối với mừng nầy, người ấy khởi tất cả, sinh tất cả, đang chuyển đổi tu tập và xuất hiện. Do đó mà nói vui sinh ra mừng. Tâm mừng nên thân nhẹ nhàng khoan khoái, người ấy từ vui sinh ra tâm mừng, nên trong pháp hiện đời thì thân nặng nên có tính chất bị đoạn diệt: Tâm nặng cũng bị đoạn diệt. Thân chịu đựng làm việc được, tâm cũng chịu đựng làm việc được. Nếu thân tinh tế linh hoạt thì tâm cũng thế, thân nhẹ nhàng khoan khoái thì tâm cũng vậy. Thân lìa sự che lấp, tâm cũng thế, thân biếng lười tâm cũng thế, thân không mỏi mệt bê trễ tâm cũng thế. Do đó mà nói tâm vui mừng thì thân cũng khoan khoái nhẹ nhàng.

Thân khoan khoái nhẹ nhàng nên nhận được niềm hoan lạc. Nghĩa là thân đã chịu đựng được, làm được thì thân cũng chịu đựng làm việc được… Rộng nói cho đến thân không mỏi mệt tâm cũng thế, thân có niềm vui thì tâm cũng vui mừng tuyệt diệu. Do đó nên nói thân nhẹ nhàng khoan khoái nên nhận được hoan lạc.

Vì có hoan lạc nên tâm yên định, nghĩa là vì có hoan lạc nên xa lìa được mọi cực nhọc mệt mỏi. Vì không cực nhọc mệt mỏi nên pháp hạnh bình đẳng, cho nên tâm trụ được an trụ vào tất cả, trụ gần nhất và một hướng tiến đến được Tam-ma-địa. Do đó nên nói có hoan lạc thì tâm yên định.

Tâm định nên thấy biết đúng như thật, nghĩa là người ấy khi có tâm đã trụ vào chỗ không có hai, không có chuyển đổi. Bấy giờ thì đối với khổ thì thấy biết như thật đó là khổ. Đối với các thứ tập, diệt, đạo cũng thấy biết như thật đó là tập, diệt, đạo. Do đó nên nói tâm định nên thấy biết đúng như thật.

Vì thấy biết như thật nên sinh chán ghét, là khi người ấy đối với khổ biết như thật đó là khổ, đối với tập, diệt, đạo cũng thấy biết như thật đó là tập, diệt, đạo, thì lúc đó đối với năm uẩn liền sinh chán ghét nghịch ý. Do đó mà nói thấy biết như thật nên sinh chán ghét.

Vì chán ghét nên lìa bỏ, là khi người đó đối với năm uẩn sinh ý chán ghét trái nghịch thì bấy giờ đối với ba gốc tội ác là tham, sân, si có thể làm cho mỏng bớt, nhẹ bớt đi. Giống như người đem các áo màu xanh, vàng nhúng nước rồi phơi dưới ánh mặt trời chói chang thì các màu sắc ấy sẽ phai nhanh. Như thế vì đã chán ghét năm uẩn mà làm giảm nhẹ bớt ba gốc độc tham, sân, si, nên nói là vì chán nên lìa bỏ.

Vì lìa bỏ nên được giải thoát, là khi người ấy đã giảm nhẹ đi ba gốc độc thì tâm người ấy đối với tham, sân, si sẽ được giải thoát.

Đó là hàng thứ nhất, tức là theo thứ tự liên tục đếm dần lên thì nó ở hàng thứ nhất.

Lĩnh vực giải thoát. Vì sao ở đây gọi là lĩnh vực giải thoát? Trong đây có bảy thứ gọi là lĩnh vực giải thoát đó là:

  1. Hiểu biết đúng đắn về pháp.
  2. Hiểu biết đúng đắn về nghĩa.
  3. Vui.
  4. Mừng.
  5. Nhẹ nhàng khoan khoái.
  6. An lạc.
  7. Định.

Thế nên các Bí-sô, Bí-sô ni v.v…, ấy là khuyên nên học đạo lý không gián đoạn. Đối với nghĩa trong đây nói các Bí-sô, Bí-sô ni nên an trụ vào lĩnh vực đó. Nghĩa là nên trụ vào lĩnh vực đó, cùng trụ, trụ gần. Nên nói là an trụ vào lĩnh vực đó.

Ai có niệm chưa trụ thì nên trụ vào chánh niệm, tức nên trụ vào tứ niệm trụ (tứ niệm xứ).

Tâm chưa định thì nên trụ vào chánh định, tức nên trụ vào bốn thứ thiền định.

Lậu chưa dứt thì nên dứt trừ các lậu.

Các lậu là gì? Có ba thứ lậu, đó là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người nầy, đối ba thứ lậu đó dứt hết, cùng dứt, dứt khắp, hiện đang dứt, sẽ dứt và dứt trừ nhanh chóng. Do đó mà nói lậu chưa dứt thì nên dứt trừ các lậu.

Chưa chứng được Niết-bàn an ổn tột bậc thì hãy nhanh chóng chứng ngộ, nghĩa là các ái dục đã dứt hết, lìa bỏ, tịch diệt và Niết-bàn, nên nói là Niết-bàn an ổn tột bậc, người ấy nhanh chóng ở trong đó mà được tùy thuận với Niết-bàn, tiếp xúc với Niết-bàn và chứng được Niếtbàn. Do đó mà nói chưa chứng Niết-bàn an ổn tột bậc thì nên nhanh chóng chứng ngộ.

Giỏi lớn tiếng đọc tụng các pháp yếu rốt ráo đã từng được nghe theo, nghĩa là dùng âm thanh to lớn mà đọc tụng các pháp yếu như đã nghe trước đây.

Mà hay vì người khác mà rộng nói diễn giảng chỉ bày các pháp yếu rốt ráo, đã từng nghe, nghĩa là người ấy giỏi vì người khác mà nói, trình bày lập nên các luận thuyết, tỏ bày phân biệt, giảng giải rõ ràng các pháp yếu như đã nghe trước đây.

Giỏi ở riêng chỗ vắng vẻ yên tịnh một mình suy xét, tính lường, quan sát theo các pháp yếu rốt ráo đã từng được nghe.

Có bao nhiêu nghĩa lý sâu xa, tức là riêng một mình ở chỗ vắng vẻ yên tịnh mà suy nghĩ tìm xét khắp các phương diện, chọn lựa kỹ càng, quan sát tinh tế như các nghĩa lý sâu xa của các pháp yếu rốt ráo mà đã từng được nghe trước đây.

Lại khéo tuân hành giữ gìn một tướng nhất định, đối với tướng nhất định ấy người đó khéo suy tư tìm hiểu, lại khéo hiểu biết rõ ràng và thông suốt thấu đáo, nghĩa là khéo giữ gìn nhất định và các định tướng. Đối với tướng nhất định ấy, người nầy hay khéo suy tư tìm hiểu, lại hiểu biết rõ ràng và thông suốt thấu đáo rành rẽ việc nhập trụ xuất tướng. Còn các điều khác thì như trước đã nói.

– Có năm căn:

  1. Tín căn.
  2. Tinh tấn căn.
  3. Niệm căn.
  4. Định căn.
  5. Tuệ căn. Đây là tướng của năm căn, như trước đã nói nhiều.

– Có năm lực:

  1. Tín lực.
  2. Tinh tấn lực.
  3. Niệm lực.
  4. Định lực.
  5. Tuệ lực.

– Tín lực là sao?

Đáp: Ở chỗ Như Lai luôn tu tập gieo trồng các thứ tịnh tín sinh căn và an trụ. Chẳng bị các Sa-môn, Bà-la-môn hoặc Trời, Ma, Phạm thiên hay các cõi thế gian khác dẫn dụ chiếm đoạt. Đó gọi là tín lực.

– Tinh tấn lực là sao?

Đáp: Đối với mình khi sinh ra các điều bất thiện thì phải cố gắng diệt trừ cho dứt hẳn. Do đó mà cần phải siêng năng cố gắng luôn luôn, cho đến đã rộng nói về bốn thứ chánh đoạn. Đó là sức tinh tấn (tinh tấn lực).

– Niệm lực là sao?

Đáp: Đối với nội thân mà trụ, mà luôn theo giỏi quan sát cho đến rộng nói về bốn thứ niệm trụ (tứ niệm xứ). Nên gọi là niệm lực.

– Định lực là sao?

Đáp: Lìa bỏ các ác dục và pháp chẳng thiện, cho đến rộng nói về bốn thứ tĩnh lự (tứ thiền). Đó gọi là định lực.

– Tuệ lực là sao?

Đáp: Tức là hiểu biết đúng như thật rằng đây là khổ thánh đế, đây là khổ tập thánh đế, đây là khổ diệt thánh đế, đây là đường đi đến chỗ hết khổ thánh đế. Đó là tuệ lực.

Vì sao lại gọi là lực (sức)?

Đáp: Nhân vì sức như thế, nương vào các sức như thế, trụ vào các sức như thế…, thì tất cả mọi sự trói buộc chặt chẽ của tùy miên và tùy phiền não đều có khả năng cắt đứt có thể cắt đứt, đập nát, chế phục, phá hoại nó đi…, cho nên gọi là sức.

Có năm thứ chẳng trở lại (Bất hoàn):

  1. Trung bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la.
  2. Sinh bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la.
  3. Hữu hành bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la.
  4. Không hành bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la.
  5. Thượng lưu bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la.

– Thế nào là Trung bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la?

Đáp: Có những chúng sinh (Bổ-đặc-già-la) ở trong hiện đời đã đoạn dứt năm kết thuận phần dưới, mà chưa đoạn dứt được năm kết thuận phần trên, cho nên còn tạo tác thêm nhiều mà khởi lên các nghiệp của dị thục và các nghiệp sinh dị thục. Do đó sau khi chết, người nầy có khởi ý ở trong cõi trời thuộc Sắc giới xong liền được các đạo lực vô lậu như thế, rồi tiến đến việc đoạn trừ thật hết các kiết sử còn sót mà chứng nhập Niết-bàn. Thế nên gọi là Trung bát Niết-bàn chúng sinh.

Hỏi: Vì sao lại gọi là Trung bát Niết-bàn chúng sinh?

Đáp: Do vì loại chúng sinh nầy có các trình độ rất mạnh mẽ, còn các kiết sử thì yếu ớt mỏng nhẹ, đã vượt thoát khỏi cõi Dục, nhưng chưa đến được cõi Sắc. Ở trong khoảng giữa đó (cõi Dục và cõi Sắc) mà được các đạo lực vô lậu như thế, rồi tiến đến việc đoạn trừ thật hết các kiết sử còn sót mà chứng nhập Niết-bàn, nên gọi là Trung Bát Niết-bàn chúng sinh.

– Thế nào gọi là Sinh bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la?

Đáp: Có các chúng sinh, ở trong hiện pháp, đối với năm kết thuận phần dưới thì đã đoạn dứt và biết khắp, còn năm kết thuận phần trên thì chưa đoạn dứt và biết khắp. Cho nên còn tạo tác thêm nhiều mà khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Do đó sau khi chết vì có khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới nên được sinh vào cõi trời thuộc Sắc giới, sau khi ở đó chẳng bao lâu thì chứng được đạo lực vô lậu như thế, rồi tiến đến việc đoạn trừ thật hết các kiết sử còn sót mà chứng nhập Niết-bàn, nên gọi là Sinh bát Niết-bàn chúng sinh.

Hỏi: Vì sao gọi là Sinh bát Niết-bàn chúng sinh?

Đáp: Do vì loại chúng sinh nầy vừa mới sinh chưa được bao lâu thì liền có được các đạo lực vô lậu như thế, rồi tiến đến việc đoạn trừ thật hết các kiết sử còn sót mà chứng nhập Niết-bàn. Nên gọi là Sinh bát Niết-bàn chúng sinh. Lại có chỗ nói loại chúng sinh đó vừa mới sinh chưa được bao lâu liền có được các đạo lực vô lậu như thế, rồi tiến đến việc đoạn trừ thật hết các kiết sử còn sót, sau đó phải sống hết kiếp rồi mới nhập vào cõi Niết-bàn vô dư, nên gọi là Sinh Bát Niết-bàn chúng sinh.

– Thế nào là Hữu hành bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la?

Đáp: Có những chúng sinh ở hiện pháp đối với năm kết thuận phần dưới thì đã đoạn dứt và đã biết khắp, còn năm kết thuận phần trên thì chưa đoạn và chưa biết khắp. Cho nên còn tạo tác thêm nhiều mà khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Do đó sau khi chết vì có khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới nên được sinh vào cõi trời thuộc Sắc giới. Sau đó nương vào đạo hữu hành và nhờ sức siêng năng chuyên cần và khởi ý có siêng gắng, luôn tu tập chẳng nghỉ ngơi đạo gia hạnh, rồi tiến đến việc diệt trừ hết các kiết sử còn sót mà chứng nhập Niết-bàn. Thế nên gọi là Hữu hành bát Niết-bàn chúng sinh.

Hỏi: Vì sao gọi là Hữu hành bát Niết-bàn chúng sinh?

Đáp: Do vì loại chúng sinh nầy y vào đạo hữu hành nhờ phần hành và cần tác ý (sức siêng năng chuyên cần mà khởi ý có siêng gắng) tu tập mãi không thôi cái đạo gia hành rồi tiến đến việc dứt trừ hết các kiết sử còn sót mà chứng nhập Niết-bàn. Nên gọi là Hữu hành bát Niết-bàn chúng sinh. Lại có chỗ nói loại chúng sinh nầy nương vào định duyên hữu vi mà tiến đến việc dứt trừ thật hết các kiết sử còn sót mà chứng nhập Niết-bàn. Nên gọi là Hữu hành bát Niết-bàn chúng sinh.

– Thế nào là Không hành bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la?

Đáp: Có các chúng sinh ở trong hiện pháp, đối với năm kết thuận phần dưới thì đã đoạn dứt và đã biết khắp, còn năm kết thuận phần trên thì chưa đoạn dứt, chưa biết khắp, cho nên còn tạo tác thêm nhiều mà khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Do đó sau khi chết rồi, vì có khởi ý ở cõi Sắc nên được sinh lên cõi trời thuộc Sắc giới. Sau đó nương vào đạo vô hành, nhờ hạnh vô cần, và tác ý vô cần, tu tập mãi không thôi, nghĩ Đạo gia hạnh, rồi tiến đến việc diệt trừ hết các kiết sử khác mà chứng nhập Niết-bàn. Nên gọi là Không hành bát Niết-bàn chúng sinh. Lại có chỗ nói: Do vì loại chúng sinh nầy dựa vào định, duyên nơi vô vi mà tiến đến việc diệt trừ hết các kiết sử khác rồi mới vào cõi Niết-bàn vô dư. Cho nên gọi là Không hành bát Niết-bàn chúng sinh.

– Thế nào gọi là Thượng lưu bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la?

Đáp: Có các chúng sinh ở hiện pháp, đối với năm kết thuận phần dưới thì đã đoạn dứt và đã biết khắp, còn năm kết thuận phần trên thì chưa đoạn dứt và chưa biết khắp. Cho đến hiện vào tu xen tạp cả loại tĩnh lự (Thiền) thứ tư của thế tục. Đến khi sắp chết thì hạ xuống ba bậc thiền, chỉ trụ vào sơ thiền mà chết. Do đó mà tạo tác thêm lớn khởi lên các nghiệp của dị thục và sinh dị thục, cho nên khi chết đi thì khởi ý vào cõi trời Sắc, và được sinh vào cõi Sắc Phạm Chúng thiên. Sau khi sinh rồi thì hiện nhập vào đệ nhị thiền của thế tục. Đến khi chết thì tạo tác thêm nhiều nên khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Sau khi chết khởi ý vào cõi trời thuộc Sắc giới nên được vãng sinh lên cõi Sắc Quang Âm thiên. Sau khi sinh ở đó rồi hiện nhập vào đệ tam thiền của thế tục. Khi chết vì tạo tác thêm nhiều nên khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Sau khi chết vì khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới nên được vãng sinh vào cõi Sắc Biến Tịnh thiên. Sau khi sinh rồi thì hiện nhập vào đệ tứ thiền của thế tục. Khi chết vì tạo tác thêm nhiều nên khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Sau khi chết vì có khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới nên được vãng sinh vào cõi Sắc cõi trời Vô Phiền. Sau khi sinh rồi hiện nhập vào Trung phẩm tạp tu đệ tứ thiền của thế tục. Khi chết vì tạo tác thêm nhiều nên khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Sau khi chết rồi vì có khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới nên được vãng sinh vào cõi Sắc cõi trời Vô Nhiệt. Sau khi sinh rồi thì hiện nhập vào Thượng phẩm tập tu đệ tứ thiền của thế tục. Khi chết vì tạo tác thêm nhiều nên khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Sau khi chết rồi vì có khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới cõi trời Thiện Hiện. Sau khi sinh rồi thì hiện nhập vào Thượng Thắng phẩm tạp tu đệ tứ thiền của thế tục. Khi chết vì tạo tác thêm nhiều nên khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Sau khi chết rồi vì có khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới, nên được vãng sinh vào cõi Sắc nơi cõi trời Thiện Kiến. Sau khi sinh rồi thì hiện nhập vào Thượng thượng phẩm tối cực viên mãn tạp tu đệ tứ thiền của thế tục. Khi chết vì tạo tác thêm nhiều nên khởi lên các nghiệp của dị thục và nghiệp sinh dị thục. Sau khi chết rồi vì có khởi ý ở cõi trời thuộc Sắc giới, nên được vãng sinh vào cõi trời Sắc cứu cánh. Sau khi sinh rồi thì mới được các đạo lực vô lậu như thế, rồi tiến đến việc diệt trừ thật hết các kiết sử khác còn sót xong mới chứng nhập vào cõi Vô dư y bát Niết-bàn. Thế nên gọi là Thượng lưu bát Niết-bàn Bổ-đặc-già-la.

Hỏi: Vì sao gọi là Thượng lưu chúng sinh?

Đáp: Có hai thứ lưu (dòng). Đó là nghiệp sinh tử và phiền não. Người nầy đối với hai thứ đó đều chưa đoạn dứt, chưa biết khắp. Do nhân duyên đó mà phải đi trên con đường ấy, trôi lăn lặn hụp trong dòng thác của sinh tử và phiền não ấy. Cho nên gọi là Thượng lưu chúng sinh.

Lại có nơi nói: Do vì loại chúng sinh bất hoàn (chẳng trở lại) nầy dần dần tiến bộ mãi lên sau nầy chứng được thiền định nên có thể lãnh thọ (hiểu được chứng được) được các pháp cao quý vĩnh viễn không còn lui sụt nữa. Cho nên gọi là Thượng lưu (bậc trên).

Lại còn, thượng lưu tóm tắt có hai thứ, đó là:

  1. Hành cõi Sắc.
  2. Hành cõi Vô sắc.

Hành cõi Sắc, tức là xem cõi trời Sắc cứu cánh là chỗ cao tột nhất.

Hành cõi Vô sắc, tức là xem cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ là chỗ cao tột nhất.

Có năm cõi trời Tịnh Cư:

  1. Cõi trời Vô Phiền.
  2. Cõi trời Vô Nhiệt.
  3. Cõi trời Thiện Hiện.
  4. Cõi trời Thiện Kiến.
  5. Cõi trời Sắc Cứu Cánh.

– Thế nào là cõi trời Vô Phiền?

Đáp: Nghĩa là ở trên cõi trời Vô Phiền thì mọi người cùng xem nhau như một, là bạn bè thân thiết cùng chung số phần sống với nhau, tức cùng nương nhờ sự việc các nơi ở đều giống nhau. Lại nếu sinh vào cõi trời Vô Phiền thì hết thảy sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô phú vô ký. Nên gọi là cõi trời Vô Phiền.

Lại còn vì là cõi trời Vô Phiền nên đối với khổ thì thấy là khổ, với tập thì thấy là tập, với diệt thì thấy là diệt, với đạo thì thấy là đạo. Nên gọi là cõi trời Vô Phiền.

Lại nữa vì là cõi trời Vô Phiền nên thân và tâm không hề bị buồn phiền nhiễu loạn. Vì thân tâm không bị phiền nhiễu nên nhận được sự yên vắng tịch tĩnh, khắp nơi đều trong sạch và các thọ nhận đều vô lậu vi diệu, nên gọi là cõi trời Vô Phiền. Lại còn ở cõi ấy thì tất cả đều giống nhau người nầy người kia chỉ khác nhau về tên gọi và các ý nghĩ nên đặt ra mà nói năng…, và gọi là cõi trời Vô phiền.

– Thế nào là cõi trời Vô Nhiệt?

Đáp: Nghĩa là ở trên cõi trời Vô nhiệt thì mọi người như một là bạn bè thân thích cùng chung số phần sống như nhau, cùng nương nhờ sự việc, nơi ở… đều giống nhau. Lại nếu sinh vào cõi đó thì hết thảy sắc thọ tưởng hành thức đều vô phú vô ký nên gọi là cõi trời Vô Nhiệt.

Lại còn vì là cõi trời Vô Nhiệt nên đối với khổ thì thấy là khổ, đối với tập, diệt, đạo…, cũng thấy rõ là tập, diệt, đạo. Lại còn sinh lên cõi ấy thì thân và tâm không hề bị nóng nảy buồn rầu (nhiệt não) do thân tâm không bị buồn rầu nóng nảy nên lãnh thọ được sự yên vắng tịch tĩnh, khắp nơi đều trong sạch và các thọ nhận đều vô lậu vi diệu nên gọi là cõi trời Vô Nhiệt.

Lại còn ở cõi nầy thì mọi người đều giống nhau chỉ khác nhau về tên gọi và ý nghĩ…, nên đặt ra mà nói năng…, và gọi là cõi trời Vô nhiệt.

– Thế nào là cõi trời Thiện Hiện?

Đáp: Nghĩa là ở cõi trời Thiện Hiện thì mọi người đều như một, là bạn bè thân thích cùng chung số phần sống như nhau, cùng nương nhờ sự việc nơi ở đều giống nhau. Lại nếu sinh vào cõi trời Thiện Hiện thì hết thảy sắc thọ tưởng hành thức đều vô phú vô ký. Lại nữa, vì là cõi trời Thiện Hiện nên đối với khổ thì thấy là khổ, với tập diệt đạo cũng thấy rõ là tập diệt đạo. Lại nữa, vì là cõi trời Thiện Hiện nên người ở đó có hình sắc rất đẹp đẽ tuyệt diệu, thanh tịnh uy nghiêm mọi người đều thích nhìn ngắm, đẹp đẽ hơn cả hai cõi trời Vô Phiền, Vô Nhiệt nhiều, nên gọi là Thiện Hiện. Lại còn ở cõi nầy thì mọi người đều giống nhau. Chỉ khác nhau về tên gọi và ý nghĩ… Nên đặt ra mà nói năng và gọi là cõi trời Thiện Hiện.

– Thế nào là cõi trời Thiện Kiến?

Đáp: Nghĩa là ở cõi trời Thiện kiến thì mọi người đều như một, là bạn bè thân thích cùng chung số phần sống như nhau cùng nương nhờ sự việc nơi ở đều giống nhau. Lại nếu sinh vào cõi đó thì hết thảy sắc thọ tưởng hành thức đều vô phú vô ký. Lại còn, vì là cõi trời Thiện kiến nên đối với khổ thì thấy là khổ, với tập diệt đạo cũng thấy rõ là tập diệt đạo. Lại nữa vì là Thiện kiến nên người ở cõi đó hình sắc chuyển đổi (trở nên) đẹp đẽ tuyệt diệu, rất thanh tịnh oai nghiêm, mọi người đều rất thích nhìn ngắm, ở đây còn hơn cả ba cõi Vô Phiền, Vô nhiệt và Thiện hiện nhiều, nên gọi là Thiện kiến. Lại còn ở cõi nầy thì mọi người đều giống nhau, chỉ khác nhau về tên gọi và các ý nghĩ…, nên đặt ra và nói năng và gọi là cõi trời Thiện Kiến.

– Thế nào là cõi trời Sắc Cứu Cánh?

Đáp: Nghĩa là ở cõi trời Sắc Cứu Cánh thì mọi người đều như một, là bạn bè thân thích cùng chung số phần sống như nhau cùng nương nhờ sự việc nơi ở đều giống nhau. Lại nếu sinh vào cõi đó thì các thứ sắc thọ tưởng hành thức đều vô phú vô ký. Lại còn vì là cõi trời Sắc Cứu Cánh nên đối với Khổ thì thấy là Khổ, thấy Tập Diệt Đạo cũng thấy rõ là Tập Diệt Đạo. Lại nữa vì là cõi Sắc Cứu Cánh thiện nên có được tự thể là đối với cái sắc đẹp đẽ thì thuộc vào hàng cao quý bậc nhất nên gọi là Sắc Cứu Cánh. Cõi nầy cũng gọi là Ngại Cứu Cánh thiên. Ngại nghĩa là có ngại vi có thân nhưng đây là chỗ có thân ngại rốt ráo tốt đẹp nhất, nên gọi là Ngại Cứu Cánh thiên. Lại còn, ở cõi nầy thì mọi người đều giống nhau chỉ khác về tên gọi và các ý nghĩ nên đặt ra và nói năng và gọi là cõi trời Sắc Cứu Cánh hoặc là cõi trời Ngại cứu cánh. Đó là cõi Sắc Cứu Cánh thiên hoặc Ngại Cứu Cánh thiên.

Có năm lĩnh vực xuất ly: Những gì là năm?

1. Quý thầy nên biết! Có các hàng đệ tử Phật đa văn có sự thấy biết rất tinh tế nhạy bén. Như khi nghĩ về các dục thì tâm đối với các dục không đi sâu vào, không thích thú tin ưa, không sống trong đó, không hay biết chi cả mà co lại, lại không dám đuổi theo nó, từ chối buông bỏ tất cả, ghê tởm khinh bỉ, chế ngự các sai trái. Cũng giống các sợi gân hay lông chim co rút lại khi bị đốt cháy vậy. Những hàng đệ tử Phật đa văn có sự thấy biết nhanh nhạy tinh tường nên đối với các dục thì tâm không chạy theo nó. Nhưng khi nghĩ đến sự xuất ly vượt thoát ra ba cõi thì lòng tin tưởng vui vẻ thâm nhập ngay vào, an trụ trong đó, có hiểu biết rõ, không hề co lại mà thoải mái ung dung, lòng không chán ghét mà tháo vác lanh lợi tâm luôn an lạc dễ dàng thuận lợi cho việc tu tập. Đối với các điều kiện của dục khởi lên các lậu hoặc gây nên bao tổn hại đau buồn thì họ đều giải thoát cả. Từ chỗ xa lìa dục mà giải thoát mọi trói buộc thì không còn tiếp nhận các thọ nhận của các nhân duyên của chúng nữa. Như thế gọi là Dục xuất ly. Đối với giận dữ không còn giận dữ nữa với tàn hại cũng không tàn hại nữa, đối các sắc là không sắc. Phải nên biết như thế.

2. Quý thầy nên biết! Có các hàng đệ tử Phật đa văn (học rộng) có sự thấy biết rất nhạy bén tinh tường như khi nghĩ về sự hiện hữu của thân, thì đối với thân tâm không hề vui vẻ tin tưởng hưởng ứng thâm nhập vào, không sống trong đó, không hề hay biết chi cả, mà co lại chẳng dám đuổi theo nó, từ chối, buông bỏ tất cả, ghê tởm, khinh bỉ, chế ngự các sai trái. Co rút lại giống như các sợi gân hay lông chim khi bị đốt cháy. Các đệ tử của Phật đa văn, có sự thấy biết tinh tường đối với ý nghĩ về sự có thân thì không ham chạy theo nó. Nhưng khi nghĩ về chấm dứt sự có thân để được Niết-bàn thì lòng tin tưởng vui vẻ thâm nhập và an trụ vào ngay, có hiểu biết rõ không còn co lại mà thư thái ung dung, lòng không còn chán ghét mà tháo vác lanh lợi. Tâm luôn an lạc, dễ dàng thuận lợi cho việc tu tập. Khi các duyên của việc có thân khởi lên các lậu, gây bao tổn hại đau buồn thì đều được giải thoát cả. Kể từ khi khởi lên sự xa lìa các trói buộc để được giải thoát thì không còn tiếp nhận các thọ nhận của các nhân duyên của chúng nữa. Như thế gọi là sự xuất ly của có thân.

3. Ở đây nói về sự hiện hữu thì chỉ cho người có tên họ đó, giống loại đó có ăn uống, có nhận biết khổ vui, có đời sống, có sống chết… thì gọi là các hữu.

4. Đa văn, nghĩa được nghe nhiều chánh pháp, tức là Khế kinh gồm nhiều loại như Ứng tụng, Ký biệt, Kệ tụng, Tự nói, Nhân duyên, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sinh, Phương quảng, Pháp hiếm có (vị tằng hữu), Nghị luận v.v… nghe các pháp đó nên gọi là đa văn.

5. Đệ tử các Thánh. Thánh đây chính là chư Phật, đệ tử Phật thì gọi là đệ tử Thánh. Những ai đã quy y Phật, Pháp, Tăng, tất cả đều được gọi là đệ tử của Thánh.

– Hàng đệ tử Phật có sự thấy biết tinh tường nhạy bén. Thế nào là tinh tường nhạy bén? Đó là tròn đủ vào hàng thượng phẩm.

Thế nào là sự thấy biết (kiến)? Đó là nương vào pháp thiện được phát sinh do xuất ly (giải thoát) xa lìa từ bỏ. Đối với sự tuyển chọn càng tuyển chọn kỹ càng…, rộng nói cho đến Tỳ-bát-xá-na… Nên gọi là sự thấy biết.

– Như khi nghĩ đến các dục. Các dục là sao? Dục cũng gọi là các dục, cũng gọi là các dục, năm cảnh dục lạc hơn hết cũng gọi là các dục. Nghĩa đây nói là về năm cảnh dục lạc hơn hết gọi là các dục. Do đó nên nói khi nghĩ đến các dục, lòng không vui thích tin tưởng thâm nhập vào đó mà là an trụ hiểu biết, nghĩa là đối với các cảnh dục lạc hơn hết đó, các đệ tử Phật khi coi sự khen ngợi tán dương cùng mọi tác ý tra, suy xét, thì không khởi tâm tùy thuận đeo đuổi nó và cũng chẳng tin tưởng, ước muốn theo nó hay chú ý hiểu biết đã hiểu biết và sẽ hiểu biết rõ. Do đó nên nói là đối với các dục thì tâm vui vẻ tin tưởng thâm nhập an trụ và hiểu biết, mà co lại chẳng duỗi theo nó, là đối với các dục lạc hơn hết đó, các đệ tử Phật coi sự khen ngợi tác ý suy tư tìm xét thì đều từ chối buông bỏ tất cả chúng, lại chán ghét khinh bỉ ghê tởm, quyết điều phục đi ngược, nên nói là trụ vào chỗ buông bỏ chán ghét chê bai ghê tởm và quyết điều phục, đi ngược, như xuất ly.

– Xuất ly là sao? Xuất ly cũng gọi là xuất ly cõi xuất ly cũng gọi là xuất ly, căn thiện cõi Sắc, cũng gọi là xuất ly. Sơ thiền cũng gọi là xuất ly. Nay ở đây ý nói về sơ thiền gọi là xuất ly. Do đó nên nói khi nghĩ đến xuất ly, thì đối sự xuất ly tâm liền thâm nhập sâu xa.

– Vui vẻ, tin tưởng an trụ và có hiểu biết, là các đệ tử Phật đối sự xuất ly nầy vì hiểu biết rõ khi cùng tác ý suy tư tìm xét thì liền sinh tâm tùy thuận đeo đuổi và tin tưởng ước muốn theo nó, hay chú ý hiểu biết, đã hiểu biết và sẽ hiểu biết rõ. Do đây cho nên nói đối với sự xuất ly thì tâm vui vẻ, tin tưởng thâm nhập sâu vào và an trụ ở đó.

– Có hiểu biết, đã không co lại mà thư thái ung dung, nghĩa là các đệ tử Phật đối với sự xuất ly, coi sự khen ngợi khi cùng khởi ý tìm xét suy tư, thì đều khởi tâm vui vẻ an trụ và hướng về thâm nhập vào, nên nói là chẳng co lại mà thư thái ung dung.

– Tâm chẳng chán ghét mà tháo vác lanh lợi, là các đệ tử Phật đối với sự xuất ly nầy mà khen ngợi cùng làm và khi khởi ý suy xét tìm hiểu thì không phải như đối với dục, tâm không thích trụ vào đó mà lại chán ghét, khinh bỉ ghê tởm, và quyết điều phục đi ngược. Do đó nên nói tâm chẳng chán ghét mà tháo vác lanh lợi.

– Tâm luôn an lạc, là các đệ tử Phật ngay lúc ấy tâm họ rất an lạc, không cực nhọc hao tổn nên không mỏi mệt. Do đó nên nói tâm rất an lạc.

– Dễ dàng tu tập, là các đệ tử Phật ngay lúc ấy luôn luôn tu tập, luôn luôn tác ý tương ưng với sự tu tập nên gọi là dễ dàng tu tập.

– Khéo giỏi tu tập, là các đệ tử Phật ngay lúc đó vì có đủ các thứ nhân, pháp môn, chánh lý và đạo hạnh mà ân cần tôn trọng tu tập, kiên trì bền bỉ tu tập, cung kính tu tập, tác ý tu tập. Nên gọi là giỏi tu tập.

– Đối với các điều kiện nổi dậy lậu, gây bao tổn hại thì đều được giải thoát là từ khi khởi lên việc lìa bỏ sự ràng buộc mà được giải thoát, thì các đệ tử Phật, do nhân duyên nầy nên tâm luôn được giải thoát. Kể từ khi lìa bỏ các ràng buộc nên được giải thoát. Do đó nên nói đối với các dục, làm điều kiện khởi lên các lậu, gây bao tổn hại, đều được giải thoát khỏi chúng.

– Chẳng tiếp nhận các nhận biết của các nhân duyên ấy, là đối với các lậu nếu chưa đoạn dứt chưa biết khắp thì sẽ nhận lấy các khổ não. Còn như đã đoạn dứt đã biết khắp rồi thì chẳng còn nhận các thọ khổ nữa. Do đó nên nói chẳng tiếp nhận các thọ của nhân duyên ấy nữa. Như thế gọi là đối với dục đã xuất ly.

Nay ở trong đây cái gì được gọi là xuất ly? Đoạn dứt hẳn các dục cũng gọi là xuất ly, vượt qua các cõi Dục cũng gọi là xuất ly, lìa bỏ cõi trần tục cũng gọi là xuất ly, căn thiện cõi Sắc cũng gọi là xuất ly, Sơ thiền cũng gọi là xuất ly. Nay ở đây ý nói Sơ thiền gọi là xuất ly.

– Đối với giận dữ không giận dữ.

Giận dữ là sao? Giận dữ cũng gọi là giận dữ, cảnh giới giận dữ cũng gọi là giận dữ. Trong đây ý nói là lĩnh vực giận dữ gọi là giận dữ.

Không giận dữ là sao? Không giận dữ cũng gọi là không giận dữ, lĩnh vực không giận dữ cũng gọi là không giận dữ, định từ tâm cũng gọi là không giận dữ. Nay nghĩa trong đây ý nói tâm từ ổn định gọi là không giận dữ.

– Đối với tàn hại không tàn hại.

Tàn hại là sao? Hại cũng gọi là hại, lĩnh vực tàn hại cũng gọi là tàn hại. Nay nghĩa trong đây ý nói lĩnh vực tàn hại gọi là tàn hại.

Không tàn hại là sao? Không tàn hại cũng gọi là không tàn hại, lĩnh vực không tàn hại cũng gọi là không tàn hại, tâm bi ổn định cũng gọi là không tàn hại. Nay nghĩa trong đây ý nói tâm bi ổn định là không tàn hại.

– Đối với sắc là không sắc.

Sắc là sao? Sắc cũng gọi là sắc, lĩnh vực sắc, cũng gọi là sắc, tứ thiền cũng gọi là sắc. Nay nghĩa trong đây ý nói Tứ thiền là sắc.

Không sắc là sao? Không sắc cũng gọi là không sắc, bốn thứ không sắc cũng gọi là không sắc. Nay nghĩa trong đây ý nói bốn thứ không sắc gọi là không sắc.

– Có các đệ tử Phật đa văn có sự thấy biết rất tinh tường nhạy bén, thì như trước đã nói rồi.

– Như nghĩ về có thân, thì có thân cũng gọi là có thân, năm thủ uẩn cũng gọi là có thân. Nay nghĩa trong đây ý nói năm thủ uẩn gọi là có thân.

– Liền đối với sự có thân, tâm chẳng hướng nhập vào v.v… như trước đã nói về dục.

– Nếu nghĩ về việc chấm dứt có thân, thì có thân diệt mất cũng gọi là diệt, trạch diệt, cũng gọi là diệt. Nay nghĩa trong đây ý nói Trạch diệt gọi là diệt chẳng phải gì khác.

*****

Chú thích:

Theo chú thích ở cuối trang thì quyển 14 cả bốn bản Tống – Nguyên – Minh – Cung vua…, đều không có.

Ở trên lại ghi: Quyển nầy bản đời Tống ở trang (bức) thứ 8, hàng thứ 89 nói là: Có khởi ý sinh về cõi trời thuộc Sắc giới đó (phần dưới liền nói) khi chết rồi, ở cõi trời thuộc Sắc giới ấy… (cho đến trang thứ 9 cả 5 hàng) Bổ-đặc-già-la. Lại nữa, (ở dưới có nói) đã vãng sinh vào cõi Sắc… (cho đến trang thứ 11, hàng thứ 7) nghiệp thân sinh dị thục (ở dưới có nói). Sau đó có lời nói ấy v.v…

Ba tiết đoạn như thế, văn nghĩa dứt gọn không liên hệ gì nhau. Nay kiểm tra hai bản, thì thấy bản đời Tống lầm đem Sinh dị thục nghiệp thân xuống dưới phần: Hoại mạng chung Bỉ Sắc giới thiên cho đến Bổ-đặc-già-la Phục v.v…

Có đoạn văn trên 34 hàng viết: Bỉ Sắc giới thiên trung hữu khởi “ở dưới” Kiếp tương trung hữu khởi “phần dưới” dĩ vãng sinh Sắc giới “rồi mới” Sinh dị thục nghiệp thân v.v… và đoạn văn lùi 34 hàng mà ghi Bổ-đặc-già-la, Phục “ở dưới Chí linh như thị”. Nay y vào hai bổn tiến thoái mà sửa cho đúng.

Ở trang thứ 12 nguyên cả 6 hàng: Thiện hiện Thiền trung Sở hữu vô (chi la). Bổn trong cung (quốc) và bên đời Tống đều nói là “Thoát Phúc vô ký” cho đến “Tiện chăng chư dục tâm” v.v… gồm có đoạn văn 35 hàng. Nay y theo riêng một bản là đủ (hết chú thích).