SỐ 272
KINH ĐẠI TÁT-GIÀ NI-KIỀN TỬ SỞ THUYẾT
Dịch Phạn ra Hán: Đầu đời Ngụy, Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi,
Dịch Hán ra Việt: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 5: VƯƠNG LUẬN

(Quyển 3 – đầu Quyển 5)

Bấy giờ, quốc vương Nghiêm Sí nghe Đại Tát-già Ni-kiền Tử nói chánh pháp rồi, rất vui mừng tin nhận. Ngay lúc đó, nhà vua hỏi Đại Tát-già Ni-kiền Tử:

–Đại Tát-già từ nơi xa xôi đến giáo hóa chúng sinh, trên đường nhiều hiểm trở, không biết Đại sư thân thể, khí lực có an ổn không? Chúng sinh dễ giáo hóa không? Các đại đệ tử có thực hành theo lời dạy của Đại sư không? Hân hạnh, nhờ Đại sư không chê đất nước của con nên được phụng kiến và được nghe chánh pháp, trong lòng vô cùng vui sướng. Như được gặp mẹ hiền, như đói được thức ăn, như khát gặp nước, như trần truồng gặp y phục, như người nghèo gặp của báu, như lúc nóng gặp mát, như lạnh gặp lửa, như mù được thấy, như điếc được nghe, như kẻ ngồi tù được phóng thích, như bần tiện được tôn quý, như kẻ lạc đường được trở về, như người học trò gặp được thầy. Lòng con vui sướng cũng như thế.

Thưa Đại sư! Từ xưa tới nay, con cứ nghĩ rằng: “Chánh pháp khó được nghe, thầy giỏi khó gặp, thân người khó được, các căn khó vẹn toàn, chánh kiến khó sinh, lòng tin khó phát, khó được hội họp, tự do khó được, thái bình khó gặp.” Như thế, những điều khó khăn ấy con đã vượt cả. Hôm nay gặp được Đại sư, như người vào biển muốn nhặt trân bảo liền gặp được một vùng báu lớn. Hôm nay con có sự nghi ngờ, xin được hỏi, cúi mong Đại sư thương xót giải quyết cho con!

Lúc ấy, Tát-già Ni-kiền Tử bảo vua Nghiêm Sí:

–Nay nhà vua có điều gì nghi ngờ hãy cứ hỏi, ta sẽ phân biệt

giải nói, khai thông, trừ hết sự nghi ngờ để nhà vua được hiểu rõ.

Bấy giờ, vua Nghiêm Sí thấy Tát-già Ni-kiền Tử đã cho phép mình hỏi, trong lòng rất vui mừng rồi đưa ra điều nghi vấn:

–Thưa Đại sư! Những gì là sinh pháp? Những gì là trụ trì? Ở trong những pháp nào mà có tên này?

Đại Tát-già Ni-kiền Tử đáp:

–Đại vương nên biết! Gọi là sinh nghĩa là các chúng sinh; nói trụ trì nghĩa là các quốc độ thế giới. Nói chúng sinh nghĩa là năm thủ ấm. Như vậy, những pháp nào gọi là năm thủ ấm? Đó là sắc thủ ấm, thọ thủ ấm, tưởng thủ ấm, hành thủ ấm và thức thủ ấm. Đại vương! Dựa vào năm pháp này gọi là chúng sinh, gọi là khí thế gian. Nói đến chúng sinh nghĩa là bao gồm bốn loại sinh: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh. Nói khí thế gian nghĩa là bao gồm hư không, đất, nước, gió và lửa.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Ai có khả năng che chở cho tất cả chúng sinh và ai có thể giữ gìn giới này?

Đáp:

–Này Đại vương! Tất cả đều do quả báo nghiệp của chúng sinh và năng lực của nhà vua làm chủ quốc gia, với khả năng đó có thể giữ gìn.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vì sao do quả báo nghiệp chúng sinh có thể bảo hộ chúng sinh?

Đáp:

–Này Đại vương! Do năng lực báo tăng thượng của nghiệp mình cho nên sinh ở nơi tốt đẹp. Nhưng những chúng sinh ấy đối với các vật không có tâm nuối tiếc, giữ gìn; không sinh tâm đây, kia, ta, người. Bởi thế, tất cả các vật để sinh sống, không cần phải thêm công sức mà chỉ tùy theo ý nghĩ là được đầy đủ, đến trọn đời thường sống ở nơi an ổn, hưởng lạc. Lìa khỏi những đau khổ về bệnh thô như lạnh, nóng, đói khát và các thứ đau đớn hành hạ. Họ cũng không có ác tâm xâm lấn, gây thêm sự thiệt thòi cho nhau; cũng không có tâm lường gạt, dối trá nhau. Những thôn xóm, thành ấp đều có bảy báu trang nghiêm, họ thường đi lại ở trong cảnh giới thù thắng vi diệu; sống thọ đến một ngàn tuổi. Khi thọ mạng của họ hết, liền xả thân sinh lên cõi trời hưởng lạc trong đường thiện. Như thế, những chúng sinh này được nghiệp Uất-đơn-việt hộ trì.

Đại vương nên biết! Lại có chúng sinh nhờ năng lực quả báo nghiệp của chính mình, nên được sinh ở nơi thù thắng, thân có ánh sáng, bay trên hư không, lấy niềm vui ở trong thiền định làm món ăn ngon bổ, không sinh vào thai, tuổi thọ vô lượng, sống ở thế gian mãi mãi. Đây gọi là kiếp đầu của chúng sinh.

Đại vương nên biết! Lại có chúng sinh nhờ vào nhân năng lực nghiệp báo của họ trong quá khứ, có công đức thù thắng nên sinh ở trong thế gian, có tâm kính trọng cha mẹ và những bậc trưởng thượng trong gia tộc, cùng các Sa-môn, người tu tịnh hạnh, lấy đó làm ruộng phước. Họ thường làm các việc thiện, làm điều đáng thì nên làm, bỏ hạnh ác, thường thọ trì tốt năm giới và tám giới, thực hành bố thí, tích chứa phước đức. Đây là những chúng sinh có thiện căn ở kiếp thứ hai. Đại vương! Bấy giờ, chúng sinh thiện căn đầy đủ, không khởi lên những điều ác, cho nên thế gian chưa lập vương pháp. Vì thế, gọi là tự nghiệp quả báo có thể che chở chúng sinh.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Được nghiệp bảo hộ như thế con đã biết rồi. Vì sao gọi là năng lực của một người làm chủ đất nước có thể bảo hộ chúng sinh?

Đáp:

–Này Đại vương! Các vua chúng sinh là người làm chủ của chúng sinh mà năng lực của các vị ấy có thể che chở cho chúng sinh.

Nhà vua hỏi:

–Những vị ấy, sao gọi là vua?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Vua là cha mẹ của dân. Vì dựa vào phép tắc để bảo hộ chúng sinh, khiến cho họ được sống an lạc, nên gọi là vua. Đại vương! Nhà vua nuôi dưỡng dân như con đỏ, đưa họ từ nơi ẩm ướt đến chỗ khô ráo, không chờ họ kêu gọi. Vì sao? Đại vương nên biet! Vua được đứng vững là nhờ lấy dân làm nền tảng. Tâm nhân dân một khi đã không yên ổn thì nước ắt sẽ diệt vong. Vì thế, nhà vua phải nghĩ đến nhân dân như con đỏ, không bỏ tâm niệm ấy. Phải biết khổ, vui của người dân trong nước, làm việc kịp thời; biết lũ lụt, khô hạn, biết gió, mưa; biết nóng và không nóng; biết thời thịnh vượng, biết nơi thiếu thốn, biết có, biết không; biết buồn, biết vui; biết già, biết trẻ; biết bệnh, biết không bệnh của người dân. Nhà vua phải biết đúng các việc kiện tụng, biết có tội, hay không tội; biết nhẹ hay nặng. Đối với các vương tử, đại thần và các quan, phải biết người có công và người không có công. Người biết như vậy gọi là không lìa tâm.

Đại vương! Người làm vua khi đã biết trong nước như thế, rồi đem khả năng giúp đỡ. Người nên cho thì cấp cho kịp thời, người nên thu thì phải suy nghĩ kỹ. Sai khiến biết đúng thời, không đoạt danh lợi, phải nghiêm ngặt đối với kẻ tham nhũng để nhân dân được yên ổn. Đó là người giúp đỡ, cũng gọi là vua.

Đại vương nên biết! Vua có bốn hạng:

  1. Vua Chuyển luân.
  2. Vua của từng quốc độ.
  3. Vua chư hầu.
  4. Vua biên địa.

Vua Chuyển luân nghĩa là vua Sát-lợi có quán đảnh, quán xuyến bốn châu thiên hạ, là bậc Pháp vương độc tôn tối thắng cao quý nhất giữ gìn pháp. Vua Chuyển luân ấy có đầy đủ bảy báu:

  1. Báu phu nhân.
  2. Báu Ma-ni.
  3. Xe báu.
  4. Voi báu.
  5. Ngựa báu.
  6. Đại thần báu.
  7. Chủ kho báu.

Vua Chuyển luân ấy đã có đầy đủ bảy báu, đi khắp mọi nơi không có ai đối địch, không có người oán ghét, không có điều buồn phiền, không dùng các loại binh khí. Chỉ dựa vào chánh pháp, bình đẳng không thiên vị để an ủi và thu phục.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vì sao gọi Chuyển luân thánh vương là người thống lãnh bốn cõi?

Đáp:

–Này Đại vương! Vì vua ấy có quyền lực khắp bốn châu thiên hạ vậy!

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vì sao gọi vua ấy là bậc cao quý tối thắng nhất?

Đáp:

–Đại vương! Vì lệnh của vua Chuyển luân thánh không ai dám chống lại.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vì sao gọi vua ấy là vị Hộ pháp?

Đáp:

–Đại vương! Vì vua ấy tu theo mười pháp thiện, không làm theo tà pháp, giết hại… nên gọi là Hộ pháp.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Tại sao gọi là Pháp vương?

Đáp:

–Này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh dùng mười pháp thiện giáo hóa bốn châu thiên hạ, khiến cho tất cả đều giữ gìn, xa lìa mười nghiệp ác, thực hành mười pháp thiện đầy đủ và thành tựu, nên được gọi là Pháp vương.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì mà được đệ nhất phu nhân, và vì sao được thành tựu?

Đáp:

–Này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ nghiệp bất thiện, cho nên được báu phu nhân cùng ở bên mình thọ hưởng niềm vui tối thắng, đó gọi là thành tựu. Vì sao gọi là thọ hưởng niềm vui tối thắng? Đại vương! Phu nhân của vua Chuyển luân thánh ấy trong thân toát ra hương Chiên-đàn vi diệu vô giá; hơi trong miệng thường bay ra hương vô giá của loài hoa Ưu-bát-la; thân thể mềm mại như chim Ca-lăng-già. Nếu có loài chúng sinh khác xúc phạm vào thân chim Ca-lăng-già ấy thì thân thể vĩnh viễn không còn mỏi mệt nữa, xa lìa sự đói khát cùng với những nỗi lo âu, buồn phiền; được thọ hưởng sự vui sướng vô cùng tối thắng. Cũng vậy, vua Chuyển luân thánh gặp phu nhân ấy cũng thọ hưởng vui sướng.

Đại vương nên biết! Thân thể phu nhân ấy, lúc thời tiết lạnh có thể làm cho ấm áp, khi thời tiết nóng có thể làm cho mát mẽ. Tay của những người trong thế gian không thể đụng chạm đến thân của phu nhân. Vì sao? Vì nhờ thiện căn, xa lìa tâm tham dục và nghiệp bất thiện. Tất cả chúng sinh chỉ quan sát, kính trọng, như mẹ, như con gái, như chị em. Nhưng phu nhân ấy phát sinh ba tâm đối với vua Chuyển luân thánh:

  1. Tâm thường tôn trọng vua, không sinh tâm khác.
  2. Tâm thường cung kính vua.
  3. Tâm thường nghĩ đến vua Chuyển luân. Vì sao thế? Vì đã xa lìa tâm tham dục cấu bẩn.

Lại nữa, này Đại vương! Phu nhân báu của vua Chuyển luân đã xa lìa năm loại pháp ác của người nữ:

  1. Lìa tâm hời hợt không có chí hướng của người nữ.
  2. Lìa tâm ham muốn người nam khác.
  3. Xa lìa tâm keo kiệt, ghen ghét.
  4. Đối với chỗ phi xứ xa lìa tâm dâm dục điên đảo.
  5. Khi vua Chuyển luân thánh lâm chung thì người ấy cũng đi theo.

Đại vương! Phu nhân báu ấy có năm công đức:

  1. Biết nghĩ đúng với tâm của nhà vua.
  2. Có thể sinh đầy đủ ngàn người con.
  3. Tự nhiên dòng họ được tôn quý.
  4. Làm cho chỗ ở đầy đủ tất cả vật dụng.
  5. Nếu khi nhà vua cùng với người nữ khác thụ hưởng dục lạc thì không phát sinh tâm ghen ghét, sân hận.

Đại vương! Phu nhân của vua Chuyển luân thánh ấy đã thành tựu ba công đức.

  1. Không nói lời ác.
  2. Không tà kiến.
  3. Nếu vua đi nơi khác thì không ở trong cảnh giới ngũ dục và không động tâm.

Đại vương! Phu nhân của vua Chuyển luân thánh khi xả thân sẽ sinh lên cõi trời. Vì sao? Vì đã lìa khỏi tham dục, ghen ghét, đó gọi là công đức của phu nhân vua Chuyển luân thánh la như vậy, khiến cho nhà vua hưởng vui tối thắng hơn hết.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được báu Ma-ni ấy?

Đáp:

–Này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện, nên được ngọc báu Ma-ni thứ hai, được thọ hưởng ánh sáng tối thắng và vật dụng an lạc tối thượng. Vì sao tối thắng? Đại vương nên biết! Vì ngọc báu Ma-ni của vua Chuyển luân thánh có tám công đức:

  1. Ngọc báu Ma-ni ấy, khi trong đêm tối thì phóng ra ánh sáng lớn, như trăng rằm vào mùa thu; ánh sáng có thể chiếu đến một trăm do tuần. Đến mùa hè chúng sinh bị nóng bức, nhờ ánh sáng báu Mani chiếu đến, thân thể khi tiếp xúc thì được mát mẽ.
  2. Nếu vua Chuyển luân thánh đi ở trong đồng vắng, chỗ không có nước, lại gặp các chúng sinh đói khát, báu Ma-ni ấy sẽ phóng ra nước công đức có đầy đủ tám vị thì không còn đói khát.
  3. Khi vua Chuyển luân thánh cần điều gì thì tất cả đều phát ra từ báu Ma-ni.
  4. Báu Ma-ni có tám cạnh, trong mỗi cạnh phát ra các thứ ánh sáng, như xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê, hồng, tía.
  5. Báu Ma-ni kia đặt ở đâu thì chúng sinh ở xung quanh trong khoảng một trăm do-tuần đều được xa lìa những khổ đau, bệnh tật, thường định tâm, làm những điều thiện đều có kết quả.
  6. Báu Ma-ni ở cảnh giới nào thì không có các loài rồng phóng ra khí độc, sấm chớp, gió dữ, mưa lâu ngày làm tổn hại chúng sinh.
  7. Khi nước ở tất cả núi, sông, khe, hang, rãnh, suối khô cạn, ngọc ma-ni làm cho nó được hồi phục trở lại. Khi rừng cây, hoa quả bị khô héo, có thể khiến cho tươi tốt phồn thịnh, hoa ở trong ao và rừng tất cả đều đầy đủ.
  8. Báu Ma-ni ở chỗ nào thì chỗ đó người dân không có đau ốm, bệnh tật, bị những chất độc hay chết, và cho đến không bị các loài súc sinh cọp, chó sói, sư tử, rắn, chuột, mèo, hồ ly, chim cắt, diều hâu cùng ăn chung một thức ăn, không sinh tâm hại nhau.

Lại nữa, này Đại vương! Vua Chuyển luân thánh có đủ ngàn người con, thân thể cao lớn, khỏe mạnh, hùng dũng, có tài sức xuất chúng, chinh phục thế gian, vâng lời vua dạy, có thể giữ gìn đại pháp, thực hành theo pháp, tâm thương yêu tất cả chúng sinh. Đó là nhờ công dụng báu Ma-ni của vua Chuyển luân thánh khiến cho nhà vua hưởng thọ niềm vui tối thượng thù thắng.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được xe báu thứ ba?

Đáp:

–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ xa lìa tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được xe báu ấy. Xe báu đi đến chỗ nào thì chinh phục tất cả, được vui đại thắng.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là được vui đại thắng?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Xe báu của vua Chuyển luân thánh, có đầy đủ năm công đức:

  1. Xe báu kia toàn thân bằng vàng Diêm-phù-đàn, có đầy đủ ngàn căm, lớn năm do-tuần, hiển hiện ở thế gian như mặt trời thứ hai.
  2. Xe báu kia bay thẳng lên hư không không bị chướng ngại, một ngày có thể đi tám ngàn do-tuần.
  3. Tùy theo suy nghĩ của vua Chuyển luân thánh, muốn đi đến chỗ Tứ Thiên vương, đi đến bốn châu thiên hạ, Nam Diêm-phù-đề, Tây Cù-già-ni, Bắc Uất-đơn-việt, Đông Phất-ba-đề. Khi đó, tùy theo suy nghĩ của nhà vua liền bay lên hư không đi về phía trước. Nương vào năng lực của bánh xe kia, bốn đội binh voi, ngựa, xe, bộ tất cả đều bay vụt lên hư không.
  4. Chỗ nào không phục tùng theo vua Chuyển luân thánh, theo sự suy nghĩ của nhà vua, xe báu kia liền bay đến khiến cho họ phải quy phục.
  5. Sức mạnh của xe báu kia không có đối thủ, tất cả vua nhỏ thấy nó đều hàng phục. Vì vua Chuyển luan thánh nương vào pháp mà tu hành, lìa bỏ tâm giận dữ.

Đó gọi là công dụng của xe báu của vua Chuyển luân thánh, làm cho nhà vua hưởng thọ niềm vui đại thắng tối thượng.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được voi báu thứ tư?

Đáp:

–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được voi báu, hưởng thọ niềm vui ở cỗ xe tối thắng đệ nhất.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là niềm vui ở trên cổ xe tối thắng.

Đáp:

–Đại vương nên biết! Voi báu lớn kia, giống như con ngựa tốt đã được điều phục thuần thục, dùng nó đi chinh phục các nước khác. Nó có đầy đủ bảy chi vững vàng là: bốn chân, vòi, âm căn và đuôi. Bảy chi ấy trụ vững vàng và rất hùng mạnh, sức lực có thể địch nổi đến mấy ngàn con voi bình thường. Nó có màu trắng giống như tuyết, như voi Y-ta, Ba-la của trời Đế Thích. Tất cả các con voi thường không thể xuất hiện đến trước mặt nó ngửi hương. Đại vương! Con voi kia có khả năng sử dụng tự do ở ba nơi là trên không, đường bộ và đường thủy. Voi ấy đi rất nhanh, một ngày đi quanh Diêm-phù-đề ba vòng.

Đại vương nên biết! Khi vua Chuyển luân cỡi trên voi chúa, nó biết được tâm của nhà vua và đi theo sự suy nghĩ đó. Nó đi rất vững vàng, giống như ngỗng chúa, không nhanh, không chậm, không cong quẹo, không ngang ngược. Người nếu đi cùng đường với nó thì nó không làm người ta sợ, cho đến ngay cả người phụ nữ nào xúc phạm đến nó thì nó cũng không giận dữ. Nhưng khi chiến đấu thì nó thể hiện tướng vô cùng hung dữ, không ai dám đến gần. Lúc bình thường, đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, ăn đều do chủ điều khiển, chỉ dùng sợi dây như sợi tơ là dẫn nó đi, thuận theo không trái lệnh. Đó là voi báu của vua Chuyển luân thánh sử dụng, khiến cho nhà vua thọ hưởng niềm vui tối thắng khi cỡi nó.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được ngựa báu thứ năm?

Đáp:

–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được ngựa báu, hưởng thọ niềm vui tối thượng nhanh chóng khi cỡi lên nó.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là rất nhanh chóng?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Ngựa báu kia có màu sắc trắng như hoa Câu-nâu-đầu, có những xoáy tròn như cõi trời khắp toàn thân. Thân thể không lớn, không nhỏ, không cao, không thấp, rất sung mãn, tâm tánh thuần hậu rất dễ điều phục. Giống như ngựa Bà-la-hà của trời Đế Thích, tự do đi lại. Một ngày có thể đi quanh Diêm-phù-đề ba vòng không biết đến mệt mỏi. Đại vương! Đó gọi là công dụng ngựa báu của vua Chuyển luân thánh, khiến cho nhà vua hưởng thọ niềm vui nhanh chóng tối thượng khi cỡi trên nó.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được đại thần báu thứ sáu?

Đáp:

–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ nên được đại thần báu để nhà vua đi dạo chơi thoải mái, thọ hưởng niềm vui vô sự thù thắng đệ nhất.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là niềm vui vô sự thù thắng đệ nhất?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Các vị đại thần kia thay nhà vua xử lý đất nước như ý nghĩ của vua. Họ vì nước quên thân, không cầu tư lợi, nghĩ đến việc giúp đỡ trăm họ cũng như hộ vệ đôi mắt của mình. Làm việc theo ý của nhà vua; thực hiện ngay theo suy nghĩ không trở ngại, không lệ thuộc. Họ tu hành theo chánh đạo, từ bỏ phi pháp, tùy thời, tùy nơi không làm tổn hại. Y theo đúng mệnh lệnh của nhà vua thực hành mười pháp thiện, không trái điều thiện, không trái chánh pháp, không trái y nghĩa đúng pháp, đều thực hành đầy đủ tất cả. Đại vương! Như thế gọi là nhờ công dụng của đại thần báu của vua Chuyển luân thánh, làm cho nhà vua thọ hưởng niềm vui đệ nhất tối thắng.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua Chuyển luân thánh nhờ nhân duyên gì được làm chủ kho báu thứ bảy?

Đáp:

–Đại vương! Vua Chuyển luân thánh nhờ từ bỏ tâm giận dữ, nghiệp bất thiện nên được làm chủ kho báu, thỏa mãn tâm nguyện nhà vua, yên ổn hưởng thọ vui sướng.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là đầy đủ, thỏa mãn, yên ổn hưởng thọ sự vui sướng?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Chủ kho báu ấy có công đức rất lớn. Tất cả các núi lớn, khe sâu, hang tối, đồng hoang, sông, đầm, gò, đồng bằng, bến bãi, hầm hố, những chỗ cao thấp không bằng nhau, thì dùng các trân báu như báu Kim cương, báu Nhân-đà-la, báu Ma-laca-đa, báu Mã não lấp đầy hết những nơi kia mà báu vẫn không hết; huống gì còn vàng bạc, lưu ly, pha lê không kể số lượng. Chủ kho báu ấy, tâm luôn luôn vui vẻ, không có thái độ dối trá, không có tướng hai lòng, không làm người khác buồn phiền, ai thấy cũng đều hoan hỷ.

Đại vương nên biết! Đó gọi là công dụng của vua Chuyển luân thánh làm chủ kho báu, khiến cho nhà vua vui sướng, thỏa mãn ước nguyện.

Đại vương nên biết! Vua Chuyển luân thánh nhờ có đầy đủ bảy báu như thế, cho nên vua trong bốn thiên hạ và các vua rồng, hai loại vua trời, là Tứ Thiên vương và cõi trời Tam thập tam, cùng với Đế Thích phân chia tòa ngồi. Họ nhờ từ bỏ sân hận, tâm ác, nghiệp bất thiện nên được đầy đủ bảy báu như thế, hưởng thọ niềm vui thù thắng, huống gì thực hành đầy đủ mười thiện nghiệp ư!

Đại vương nên biết! Vua Chuyển luân thánh còn có bảy thứ gọi là báu mềm mại, công đức của nó không bằng bảy báu ở trước. Bảy báu đó là:

  1. Kiếm báu.
  2. Da báu.
  3. Giường báu.
  4. Vườn báu.
  5. Nhà báu.
  6. Y phục báu.
  7. Đầy đủ các đồ dùng báu.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là kiếm báu đệ nhất của vua Chuyển luân thánh, nó có công dụng như thế nào?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Kiếm báu ấy, các vua chư hầu trong nước của vua Chuyển luân thánh, nếu người nào có tâm niệm trái lệnh nhà vua thì ngay lúc ấy kiếm báu từ trên hư không bay đến nơi người ấy. Những Tiểu vương trông thấy liền quy phục, đảnh lễ kiếm báu, mà kiếm báu kia không khởi tâm giết hại. Cho nên đó được gọi là công đức kiếm báu của vua Chuyển luân thánh. Tất cả các quốc sĩ không cần dùng dao gậy, tự nhiên tuân theo.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là da báu của vua Chuyển luân thánh?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Da báu của vua Chuyển luân thánh chính là da của vua rồng lấy từ trong biển ra. Chủ thương buôn mang về từ trong biển lớn, dâng lên nhà vua Chuyển luân thánh. Tấm da báu ấy rộng trăm do-tuần, dài mười do-tuần. Thể chất của nó sạch sẽ, tinh khiết, chiếu sáng lóng lánh như mặt trời, lửa đốt không cháy, ngâm nước không mục, gió thổi bạt núi nhưng không lay động được nó, luôn điều hòa nhiệt độ, khử trừ nóng và lạnh. Khi nhà vua đi đến chỗ nào thì nó cũng đi theo đến đấy. Tùy theo số lượng binh lính của vua Chuyển luân thánh, da báu ấy trải rộng mười do tuần che khắp ở trên. Có thể làm nhà đầy đủ cho mọi người ở. Những người ấy đều ơ riêng từng phòng, không trở ngại nhau. Đó là công dụng của công đức da báu.

Hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là giường báu của vua Chuyển luân thánh?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Giường báu của vua Chuyển luân thánh được kien tạo rất bằng phẳng, vững chắc không lay động, không cao, không thấp; không rộng, không hẹp; không dài, không ngắn; không khôn, không điệt; không cứng, không mềm; không rít, không trơn mà chỉ mềm mại dịu dàng. Nếu khi nhà vua ngồi tọa thiền ở trên giường báu kia thì liền nhập vào thiền định Tam-muội giải thoát. Nếu khi nhà vua phát khởi tâm tham, sân, si ngồi trên giường báu kia thì tức thời liền chấm dứt. Người nữ nào thấy vua ngồi tren giường báu ấy thì liền từ bỏ tâm tham, sân, si. Đó là công dụng của công đức giường báu.

Hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là vườn báu của vua Chuyển luân thánh?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Nếu khi vua Chuyển luân thánh muon nhập thiền định thì đi vào trong vườn ấy, liền được định tâm. Nếu lúc nhà vua muốn thọ hưởng năm thứ dục lạc, đi vào trong vườn ấy và nhờ công đức làm điều thiện của vua thì những thú vui của các cõi trời như hoa quả, các loài chim, nước suối, nước dòng, nước ao, nước sông và tất cả các nhạc cụ, kỹ nhạc, hát múa, xướng ca; những thứ kia đang ở nơi cõi trời tự nhiên biến mất rồi liền hiện ra trước mặt nhà vua. Khi đó, vua Chuyển luan hưởng thọ dục lạc cũng như các vị trời khác. Đó là dụng của công đức vườn báu.

Hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là nhà báu của vua Chuyển luân thánh?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Nếu khi vua Chuyển luân thánh ngồi trong ngôi nhà ấy muốn thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao thì liền thấy được tất cả ngay trong ngôi nhà đó, và thấy được cả các thứ ngọc báu kỳ lạ của cung trời không trở ngại. Ở trong ngôi nhà này cũng nghe được các loại âm nhạc. Khi nghe những kỹ nhạc này thì buông bỏ những nỗi ưu phiền, mệt mỏi; ở trong giấc ngủ rất sảng khoái, rất hy hữu và có thể mơ thấy các điềm lành. Khi thời tiết lạnh thì lại ấm áp, gió thoang thoảng đưa hương thơm. Khi thời tiết nóng thì lại mát mẻ, gió nhè nhẹ thoảng đưa thật là thích thú và thọ hưởng sự vui sướng. Vào canh hai thì ngủ, canh ba thức dậy hưởng thọ pháp lạc, đến canh tư nói pháp giáo hóa. Đó là dụng của công đức nhà báu.

Hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là y báu của vua Chuyển luân thánh?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Y báu của vua Chuyển luân thánh không như tơ lụa, hay vải vóc ở thế gian, mà nó lại có những đường hoa văn ngang dọc rất tuyệt đẹp, cực kỳ mềm mại, tất cả trần cấu không thể làm nhiễm ô dù một tí nhỏ. Khi mặc y báu ấy thì không còn nóng, lạnh, đói khát, bệnh tật, buồn phiền, mỏi mệt. Đại vương! Y báu đó lửa không thể đốt cháy, dao cắt không đứt, nước ngậm không mục. Đó là dụng của công đức y báu.

Hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là vật dụng báu dưới của chân vua Chuyển luân thánh?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Vật dụng báu dưới chân của chân vua Chuyển luân thánh đó là đôi giày. Khi nhà vua mang nó vào đi trên nước cũng giống như đi trên đất, vào lửa không bị cháy giống như vào ao nước sạch sẽ, mát mẻ. Nhà vua muốn đi thưởng ngoạn, dù đi trăm ngàn do tuần cũng không cảm thấy mệt mỏi. Đó là dụng của công đức vật dụng báu dưới chân.

Đại vương! Đó là bảy thứ báu uyển chuyển của vua Chuyển luân thánh, đó chỉ là phần nhỏ quả báo, tập khí công đức trong mười điều thiện, chứ thực sự chưa nói đầy đủ quả báo của mười thiện nghiệp đạo.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào gọi là đi khắp trời đất không có đối địch?

Thế nào gọi la không có những mũi nhọn?

Thế nào là không có phiền não?

Thế nào là không có đao trượng?

Thế nào là nương theo chánh pháp?

Thế nào là bình đẳng?

Thế nào là an ủi những kẻ hàng phục?

Thế nào là không có sự buon giận?

Đáp:

–Đại vương! Đi khắp trời đất không có đối địch, vì khắp mọi nơi đều được tự tại.

Không có những mũi nhọn là vì không có những mũi nhọn ác đối với xấu ác oán địch vậy.

Không có sự buồn giận, là vì không dùng sức mạnh, thế lực để uy hiếp người.

Không có binh khí, là vì từ bỏ dao gậy, không làm tổn hại.

Nương theo chánh pháp là vì xa lìa phi pháp tham, sân và si; thực hành theo chánh pháp, cải hóa ngu si tối tăm.

Bình đẳng là đem lòng thương đến khắp tất cả chúng sinh đều như nhau, như nghĩ đến một người con, không thiên vị ai.

An ủi kẻ hàng phục tức là như các vua khác nhau trong chúng sinh, mỗi người đều có phần đất làm chủ, không dời đổi, không chiếm đoạt, sống trong sự an ổn

Vì sao? Vì vua Chuyển luân thánh là vua trong bốn châu thiên hạ. Những thành ấp trong thời đại, trong xứ sở của vua Chuyển luân thánh đều có các vua nhỏ.

Những vị vua nhỏ nay phải đón rước vua Chuyển luân thánh và tâu lên:

–Đại vương biết cho! Khắp mọi nơi trong bốn châu thiên hạ đều được yên ổn, đầy đủ, thịnh vượng và rất sung sướng. Như thế là không có bệnh tật; y phục, ăn uống tự nhiem đầy đủ, không có các sự đau khổ. Có rất nhiều các chúng sinh, nhân dân, voi, ngựa, tất cả đều đầy đủ, đều thuộc sở hữu của Đại thiên thánh, tùy ý nhà vua thọ dụng. Chúng con xin vâng theo lời dạy của Đại vương, không dám trái nghịch.

Bấy giờ, vua Chuyển luân bảo các vua:

–Này các chư hầu! Mỗi vị phải làm cho quốc gia của mình được thái bình. Ta đến là vì chư vị, chứ không vì đất nước. Các vị phải y theo chánh pháp cai quản và xây dưng đất nước, không theo tà pháp, phải có tâm bình đẳng, không thiên vị. Trong nước của các vị, nếu có tà pháp thì mau chóng trừ diệt đi, đó là tuân theo lệnh của ta, mới gọi là các vị yêu nước. Nếu không trừ diệt đi thì ta và các vị mắc tội rất nặng.

Đại vương nên biết! Như thế mới gọi là Chuyển luân thánh vương bảo hộ các chúng sinh.

Các tiểu vương là vua cai quản phần nhỏ, dưới vua cai quản

phần nhỏ là vua ở biên địa. Hai hạng vua ay đều tuân theo mệnh lệnh của vua Chuyển luân thánh. Đại vương nên biết! Như thế gọi là vua làm chủ quốc độ giáo hóa chúng sinh.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Các tiểu vương khác, nương theo những pháp gì để cai trị đất nước, chăm lo đời sống nhân dân?

Đáp:

–Đại vương! Các vua nhỏ phải y theo pháp Vương luận, lấy đạo đức cai trị đất nước, bảo hộ các chúng sinh, trừ vua Chuyển luân. Vì sao? Khi vua Chuyển luân thánh xuất hiện ở thế gian, khi ấy các chúng sinh từ bỏ pháp bất thiện, tâm tham ác, lìa tâm tham điên đảo, lìa tâm tà kiến. Từ đó các quốc độ ấy không còn phi pháp, không có thợ săn, mổ giết… Vì sao? Vì họ sống theo vương pháp, nhận thức rõ ràng về tội và phước; đối với pháp không mê mờ, lầm lẫn, thực hành hợp với lý, không gây ra lỗi lầm.

Đại vương nên biết! Như thế, vua Chuyển luân thánh chỉ dựa theo công đức nghiệp lực của chính mình để bảo hộ thế gian. Lúc bay giờ, các vua nhỏ bàn luận với nhau về những việc không nên làm.

*********

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Ở trong thời kỳ nào, các tiểu vương thực hành pháp vương luận?

Đáp:

–Đại vương! Vào thời kỳ mạt pháp, vua Chuyển luân thánh ẩn mất, không xuất hiện, chánh pháp bị coi thường, chỉ thực hành theo tà pháp, khởi lên sự đấu tranh. Tâm chúng sinh xấu xa, phát sinh ba sự sai lầm:

  1. Tâm tham ưa thích phi pháp.
  2. Tâm tham khởi lên điên đảo.
  3. Mạng lưới tà pháp che khuất tâm.

Những tiểu vương kia chính họ không có trí tuệ, đánh mất sự sáng suốt. Vì thế, Thánh nhân nói: “Các tiểu vương cai trị đất nước bằng luận pháp là thực hành chánh pháp và bảo hộ chúng sinh trong thế gian.”

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm tham ưa thích phi pháp?

Đáp:

–Đại vương! Đối với mười bất thiện nghiệp đạo mà sinh tâm ưa thích, đó gọi là tâm tham ưa thích phi pháp.

Hỏi:

–Thế nào là tâm tham điên đảo?

Đáp:

–Của cải do năng lực của chính mình làm ra, hoặc nhờ thời tiết mà có được, nhờ chánh pháp mà có được, nhờ như pháp mà được, nhưng tâm tham lam lại vô cùng, còn mong cầu của cải của người khác. Như vậy, gọi là tâm tham điên đảo.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm bị màng lưới tà kiến trói buộc?

Đáp:

– Đại vương! Đối với những lập luận không đúng của ngoại đạo mà lại khởi lên tưởng là luận đúng; đối với luân không lợi ích lại khởi tưởng lợi ích; đối với phi pháp mà khởi tưởng là chánh pháp. Vào đời mạt pháp, chẳng phải là bậc trí đã làm ra luận này mà lại cho là chánh luận rồi sinh lòng tin, tu tập theo tà kiến cho là được phước. Đó gọi là màng lưới tà pháp che khuất tâm.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Những pháp nào gọi là Vương luận? Nay các tiểu vương theo pháp luận này để cai trị đất nước, dạy dỗ nhân dân, đó có thể bảo hộ chúng sinh như pháp chăng?

Đáp:

–Đại vương! Lìa bỏ các tâm tham dục điên đảo, lìa bỏ các tâm giận dữ điên đảo, lìa bỏ các tâm ngu si điên đảo, nương theo đối trị, nương theo thật thể, nương theo sai biệt, nương theo lợi ích. Nương theo đối trị, nương theo thật thể là thiện căn không tham, không sân và không si. Vì sao có thể phát khởi pháp bị đối trị và pháp đối trị? Pháp bị đối trị là tâm buông thả và tâm không từ bi. Pháp để đối trị là nhà vua thực hành pháp hạnh, tâm vua không buông thả. Có Từ bi rộng lớn, biết thân là vô thường, của cải là vô thường, khéo tự quán sát thân thấy nhiều lỗi lầm; có thể biết như thật, thấy như thật, từ bỏ thọ hưởng của cải, thực hành pháp hạnh của vua; dẫu được tự do nhưng không làm phi pháp. Như thế gọi là tâm không buông lung.

Đại vương nên biết! Theo pháp luận của vương pháp, không nên được vật, được thì không nên lấy; chỗ đáng được nhưng chẳng phải thời thì không lấy. Nếu theo thời tiết, vật đáng được nhưng đối với người nghèo khổ thì không nên cưỡng ép lấy. Cho đến như nạn nguy hiểm, nạn giặc cướp, nạn phản nghịch, nạn tàn sát lẫn nhau, khi có những nạn như thế nên khởi lòng Từ, không xa lánh sự nguy hại để bảo hộ các chúng sinh. Đối với những người nghèo khổ nên ban phát cho họ cơm ăn, áo mặc; đối với người làm ác thì dùng pháp thiện dạy bảo họ. Đó gọi là lòng Từ.

Đại vương nên biết! Nương theo hai pháp này gọi là vua thực hành pháp hạnh, đúng là bảo hộ chúng sinh, tâm không buông thả, tâm Từ bi rộng lớn.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh thì phải có lòng Từ bi. Như thế làm sao xử trị những chúng sinh ác hạnh kia?

Đáp:

–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh, nếu muốn tự phạt những chúng sinh ác hạnh kia, trước hết phải khởi tâm Từ, dùng trí tuệ quán sát, suy nghĩ về năm pháp rồi sau đó mới trị phạt.

Năm pháp đó là:

  1. Dựa theo sự thật, chẳng phải không thật.
  2. Dựa theo thời, chẳng phải không đúng thời.
  3. Theo nghĩa, chẳng phải vô nghĩa.
  4. Phải nói những lời từ tốn, không nên nói những lời thô thác.
  5. Nương theo lòng Từ bi, chẳng phải tâm giận dữ.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là y theo sự thật, chẳng phải không thật?

Đáp:

–Đại vương! Phải nên như pháp mà tra hỏi, căn cứ vào lời họ tự khai rồi y theo đúng tội trị phạt họ, chứ không theo điều không thật. Đó gọi là y theo sự thật chẳng phải không thật.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là y theo thời, chẳng phải không đúng thời?

Đáp:

–Đại vương! Khi nhà vua có năng lực, người kia trái lệnh vua

thì nên trị tội người ấy. Nếu nhà vua không có năng lực thì nên dừng lại không trị. Đó gọi là y theo thời, chẳng phải không đúng thời.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là y theo nghĩa, chẳng phải vô nghĩa?

Đáp:

–Đại vương! Nên hỏi người đối địch rằng họ gây nên tội lỗi với tâm như thế nào? Nếu phát xuất từ tâm ác thì nên như pháp mà trị, còn nếu chẳng tâm ác thì không nen trị tội. Đó gọi là dựa theo nghĩa, chẳng phải vô nghĩa.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là lời nói từ tốn, không nói những lời thô ác?

Đáp:

–Đại vương! Khi biết chúng sinh này đã phạm vương pháp, nhưng chỉ quở trach không cần trị phạt gì cả, nên như tội ấy khai báo đúng không che dấu, khéo nói những lời hòa thuận, khéo nói lời nhã nhặn, quở trách như thế mới đúng là quở trách. Đó là gọi là lời nói không thô thác.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào là tâm Từ chẳng phải tâm giận dữ?

Đáp:

–Đại vương! Người trí biết tội này không chỉ quở trách, nhưng phán xét tội này đáng bị tử hình thì không được chặt tay, chân, móc mắt, cắt tai, mũi, lưỡi, mà nên y theo tâm đại Từ bi ra lệnh bắt nhốt họ vào nhà lao; hoặc gông, cùm, trói, đánh; dùng những lời lẽ để trách mắng; lấy hết của cải đuổi đi nơi khác. Làm như vậy là để họ hối cải, chẳng phải đem lòng ác từ bỏ chúng sinh này. Đó gọi là tâm Từ, chẳng phải tâm giận dữ.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vì sao vua thực hành pháp hạnh trói nhốt, đánh đập, làm khổ những chúng sinh khác như thế, mà lại còn nói là có lòng đại Từ bi? Hai điều này đều mâu thuẫn nhau.

Vậy, thế nào là vua thực hành pháp hạnh?

Bấy giờ, Đại Tát-già Ni-kiền Tử nói:

–Đại vương! Theo như nghĩa ở trên, nay ta nói với ông ví dụ này: Ví như cha mẹ có một người con lam điều ác. Vì nghĩ đến con, muốn để nó ăn năn hối cải nên buộc lòng phải trị phạt thật. Ngoại trừ ra không giết, không đoạn dứt các chi phần trên thân thể, mà chỉ trị phạt bằng cách trách mắng, đánh đập, tùy theo tội đó mà trị thật nặng. Đó không thể gọi là vô lương tâm, tâm ác hay tâm làm hại mà chỉ vì quá thương đến con nên phải làm như thế để khiến nó hối cải không tiếp tục làm ác nữa. Người cha mẹ ấy không thể gọi là phi pháp mà gọi là nghĩ đến con, không đánh mất tâm Từ.

Đại vương nên biết! Vua thực hành pháp hạnh phải trị phạt tất cả những chúng sinh làm việc ác cũng như vậy. Với lòng Từ sâu nặng, vì khiến người ác hối cải, tuyệt đối không tử hình, không hủy hoại thân thể. Vì lòng Từ, lòng Bi nên giam cầm, đánh, trói, mắng nhiếc, thu lấy của cải, đuổi đi nơi khác. Đó là muốn khiến cho họ hối cải, bỏ điều ác, làm điều thiện, và cũng khiến những chúng sinh khác có ý nghĩ ác thì không làm phi pháp. Đấy chẳng phải chỉ bình thường đối với tâm ác bỏ những chúng sinh này, cũng không cố tâm làm cho chúng sinh đau khổ và hành hạ họ. Đó là vua thực hành pháp hạnh, vì lòng Từ bi buông ra những lời nói không tốt đẹp để trị tội chúng sinh.

Vì thế, hai hành động này tuy là mâu thuẫn nhau nhưng không trái ngược nhau.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Những chúng sinh nào là ác hạnh?

Đáp:

– Đại vương! Chúng sinh ác hạnh nói sơ lược có năm hạng:

  1. Chúng sinh đó đối với vua không có lợi ích.
  2. Những chúng sinh đó cùng nhau tụ họp làm những việc không lợi ích.
  3. Chúng sinh ấy khởi lên sự chống đối.
  4. Chúng sinh tà hạnh.
  5. Chúng sinh tà mạng.

Đại vương nên biết! Những chúng sinh đối với nhà vua không lợi ích có mười một hạng:

  1. Chúng sinh đó chống đối nhà vua.
  2. Chúng sinh đó dạy người khác làm phản.
  3. Chúng sinh đó cho nhà vua uống thuốc độc.
  4. Chúng sinh đó cướp đoạt của cải của nhà vua.
  5. Chúng sinh đó phá hoại những công việc của nhà vua đang làm.
  6. Chúng sinh đó xâm phạm hoàng hậu và cung nữ của nhà vua.
  7. Chúng sinh đó trái với mệnh lệnh của nhà vua.
  8. Chúng sinh đó tiết lộ bí mật của nhà vua.
  9. Chúng sinh đó dò xét đất nước.
  10. Chúng sinh đó chửi mắng nhà vua.
  11. Chúng sinh đó nói xấu hủy nhục nhà vua.

Như vậy, này Đại vương! Đó là những chúng sinh đối với nhà vua không có lợi ích.

Đại vương nên biết! Những chúng sinh cùng nhau tụ họp làm những việc không có lợi ích, có mười hạng:

  1. Những chúng sinh tụ họp giết hại lẫn nhau.
  2. Những chúng sinh tụ họp cướp đoạt của nhau.
  3. Những chúng sinh tụ họp xâm chiếm vợ của nhau.
  4. Những chúng sinh dối trá làm chứng cho người khác.
  5. Chúng sinh đó không thật, lừa dối người khác.
  6. Những chúng sinh đó phá sự thân thiết bạn bè của người khác.
  7. Những chúng sinh đó dùng lời ác khẩu mạt sát người khác.
  8. Những chúng sinh đó hành ác nghiệp, cân đo đong đếm luôn lường gạt, thu góp của người khác.
  9. Những chúng sinh đó tụ họp để hủy báng nhau.
  10. Những chúng sinh đó tu họp thiêu đốt lẫn nhau.

Đại vương! Đó là những chúng sinh quây quần, tụ họp làm những việc không có lợi ích.

Đại vương nên biết! Những chúng sinh phản nghịch, nghĩa là các tiểu vương ở biên địa, thành ấp, hoặc chủ tụ lạc… không tuân mệnh lệnh căn bản của Đại vương đã đưa ra. Đó gọi là những chúng sinh phản nghịch.

Đại vương nên biết! Những chúng sinh tà hạnh là những chúng sinh không có giới. Sao gọi là không có giới? Chúng sinh đó có đầy đủ luật nghi ác, như làm đồ tể, thợ săn, nuôi heo, dê, gà, chó, ngỗng, vịt, mèo, hồ, chim, cú, diều; dùng câu bắt cá, ba ba; giăng lưới, đào hầm, đốt lửa, tên độc để đánh bắt cầm thú, giết hại người khác. Tự mình buông lung làm những việc độc ác. Đó là những chúng sinh có hạnh sai trái.

Đại vương nên biết! Những chúng sinh tà mạng là những chúng sinh đó tuy đã xuất gia, cạo bỏ râu tóc, từ bỏ các thứ của cải, tu hạnh không tham đắm, mặc những thứ y phục khác đời, nhưng lại không có giới, khởi lên tà kiến, làm những việc lạ lùng, tìm mọi phương tiện để cầu lợi dưỡng, đời sống không đúng với chánh pháp; tất cả những ý nghĩ và hành động của họ đều không có trong chánh pháp.

Đó là những chúng sinh có đời sống sai trái.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vì sao vua thực hành pháp hạnh lại tự phạt năm hạng chúng sinh kia?

Đáp:

–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt tội nhân kia, nhưng không tử hình, không thi hành những hình phạt hủy hoại thân thể như móc mắt, cắt tai, mũi, lưỡi, tay chân. Có ba hình thức trị phạt:

  1. Trị tội bằng cách quở trách.
  2. Trị tội bằng cách tịch thu tài sản của người đó.
  3. Trị tội bằng cách dùng dây trói nhốt vào lao, hoặc gông cùm, đánh đập, trách mắng rồi đuổi đi.

Tùy theo những việc làm ác của chúng sinh kia thuộc tội nặng,

vừa hay nhẹ mà tự phạt họ trong ba phương pháp này. Đó là vua thực hành pháp hạnh trị phạt năm loại chúng sinh làm ác kia.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh lại trị phạt những chúng sinh đối với nhà vua không có lợi ích như thế nào?

Đáp:

–Đại vương! Những tội nhân như thế, trị tội bằng cách không tử hình, không hủy hoại thân thể mà được dùng dây trói, nhốt vào nhà lao, gông cùm, đánh đập, tịch thu tài sản, đuổi đi nơi khác. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh đối với nhà vua không có lợi ích.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt những chúng sinh cùng nhau tụ họp làm việc không lợi ích như thế nào?

Đáp:

–Đại vương! Ngoài việc không tử hình, không hủy hoại thân thể ra, họ được dùng dây trói, nhốt vào nhà lao, gông cùm, đánh đập. Không nên đoạt hết tất cả tài sản của họ, mà trong sáu phần chỉ tịch thu một phần rồi đuổi đi nơi khác. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh cùng nhau tụ họp lam việc không lợi ích kia.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt những chúng sinh nổi lên chống đối nhà vua kia như thế nào?

Đáp:

–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh, trước hết dùng lời nói tốt đẹp như pháp hướng dẫn chỉ dạy họ. Nếu họ nghe theo lệnh vua liền bỏ tâm chống đối, xin vua trị tội mình thì vua nên ban bố đại ân, tha thứ trọng tội cho họ; dựa vào nơi quốc thổ mà nhà vua quản lý, không giảm, không đoạt, không đuổi đi. Vì sao? Vì để họ biết vua có ba việc:

  1. Có tánh.
  2. Có ân.
  3. Có thế lực mạnh.

Để những người chưa hàng phục khiến họ hàng phục, người đã hàng phục khiến họ không làm nữa, người có ý đồ chống lại khiến họ không dám phát khởi.

Đại vương nên biết! Những người có tội kia được miễn tội, họ trở lại kính phục nhà vua, nhân dân an ổn. Nhà vua như pháp kia được phước vô lượng, tiếng tốt lưu truyền khắp nơi. Nếu như người có tội ấy khi nghe lệnh của nhà vua mà không chịu nhận tội thì nên tăng thêm hình phạt nặng, nhưng không được tử hình, không được hủy hoại thân thể, chỉ tịch thu hết tài sản, quốc độ nhân dân và đuổi đến nơi khác. Vì sao? Vì khiến những chúng sinh khác không còn nổi lên phản nghịch. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh, trị phạt những chúng sinh phản nghịch.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, trị tội những chúng sinh tà hạnh như thế nào?

Đáp:

–Đại vương! Người ác như vậy, không tử hình, không hủy hoại các chi tiết trên thân, không được đuổi đi, không được tịch thu tài sản của người đó, mà chỉ trách mắng để trị tội, và nói như thế này: “Nếu còn làm việc như thế, sẽ bị tội nặng”. Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh tà hạnh.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh trị phạt những chúng sinh có đời sống sai trái như thế nào?

Đáp:

–Đại vương! Phải nên tùy thuận chúng Tăng như pháp, nếu vị Tỳ-kheo kia phá giới tà kiến, không theo chánh pháp, như thật để tu hành. Tỳ-kheo sống không đúng chánh pháp như thế, Tăng nên hòa hợp gọi họ đến trước Tăng bắt họ phải nói lên lỗi của mình. Nếu người kia tự biết việc của mình làm là có tội, tùy theo phạm nặng hay nhẹ nên như pháp mà trị. Hoặc Tỳ-kheo kia chống lại lệnh của Tăng, không nghe theo lời dạy bảo của Thầy bạn, của Thiện tri thức mà còn quấy phá chúng Tăng, không để cho ai tu hành được. Nếu quốc chủ kia là người pháp vương thì Tăng nên đến thưa để nhà vua dạy bảo họ phải tuân theo lệnh của Tăng.

Bấy giờ, vua mới thực hành pháp hạnh. Trước hết, phải gọi Tỳkheo phá giới kia đến, dùng lời khéo léo khuyến khích, dẫn dụ để họ tuân theo lệnh của Tăng. Nếu Tỳ-kheo ấy không tuân theo, nên tập hợp hai chúng lại để họ có mặt trước Tăng trả lời sự that. Nếu có tội thì nên theo pháp của Tăng trị tội Tỳ-kheo kia, nhưng không được tử hình, không được hủy hoại thân thể, không giam cầm, không xiềng xích, không đánh đập, không được cởi bỏ ca-sa, không tịch thu tài sản mà chỉ quở trách rồi đuổi đi.

Đại vương nên biết! Nếu có hai nhóm bè đảng tranh nhau kiện tụng, dựa vào sự phá giới, theo tà kiến, dựa vào tà hạnh điên đảo, dựa vào những việc làm sai trái, khởi lên những cố chấp sai lầm, và những lời nói ngôn ngữ kỳ quái; vua thực hành pháp hạnh tự biết pháp, tự biết nghĩa nên như pháp để chấm dứt sự tranh cãi đó. Nếu quốc vương là kẻ ngu muội, không có trí, không tự biết pháp, không biết nghĩ, không biết chánh pháp, không biết tà pháp, không biết đúng pháp luật, không biết phi pháp luật, không biết đúng pháp ngữ, không biết phi pháp ngữ. Thì nhà vua nên hỏi các vị Sa-môn có đạo đức biết pháp, biết nghĩa, có trí tuệ, thường tu theo chánh pháp, làm lợi ích chúng sinh, khéo biết chấm dứt sự tranh cãi, có thể nói như pháp; nên hỏi các vị ấy, vì đối với chánh pháp các ngài biết phạm hay không phạm. Biết như vậy, rồi sau đó theo đúng như pháp chấm dứt sự tranh cãi đó. Đại vương! Đó là vua thực hành pháp hạnh trị tội những chúng sinh có đời sống sai trái.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Nếu quốc vương kia là một hôn quân, không có trí, trong nước có rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn mà những việc làm của họ đều khác nhau, đúng sai lẫn lộn. Mỗi người tự nói rằng: “Ta là Sa-môn tu hành chánh đạo, có thể làm lợi ích cho chúng sinh. Ta là ruộng phước, đáng được dành cúng dường.” Những điều đúng sai lẫn lộn như vậy, làm sao biết được vị nào là Sa-môn chân chánh, vị nào là chẳng phải Sa-môn? Đâu là chánh đạo, đâu là tà đạo? Ai là người nói đúng pháp, ai nói phi pháp?

Đáp:

–Đại vương nên biết! Có một vị Đại Sa-môn con dòng họ Thích, vì đạo xuất gia, chứng đắc thần thông, có đại danh xưng là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni; ở trong pháp của vị Cù-đàm kia đều là những Sa-môn chân chánh, thường hành chánh đạo, làm lợi ích cho chúng sinh. Họ là ruộng phước biết rõ chánh pháp, nói đúng như pháp.

Đại vương nên biết! Ngoài pháp của Sa-môn Cù-đàm ra, tất cả các Bà-la-môn khác đều là tà đạo, chẳng phải Sa-môn chân chánh, họ đều nói lời phi pháp. Đại vương không nên nghe theo lời nói ấy. Vì sao? Vì họ không phải chánh pháp thì làm sao nói như pháp?

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Nếu quốc vương kia là một kẻ hôn quân, không có trí, không biết pháp vua, không thực hành theo chánh pháp, tự do làm ác. Vậy thì quốc vương ấy có tội ai trị phạt ông ta?

Đáp:

–Đại vương! Vua kia tự thân làm ác thì chính ông ta trị tội mình.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thế nào gọi là tự thân gây tội, rồi tự thân trị tội?

Đáp:

–Đại vương! Vị vua kia nên theo hai pháp để tự trị tội mình:

  1. Nương vào nội lực.
  2. Nương vào ngoại lực.

Nương vào nội lực, vị vua phải nên suy nghĩ rằng: “Nay hành động của ta là buông lung hay chẳng phải buông lung; có lòng Từ hay không có lòng Từ; là việc nên làm hay không nên làm; là thiện nghiệp hay ác nghiệp.” Nếu người biết việc đó không nên làm, là ác nghiệp liền chấm dứt không làm, sinh tâm hổ thẹn, tự hối hận ăn năn, sợ mang phải tiếng xấu, sợ đọa vào các đạo, nên nương hai pháp để bảo vệ, giữ gìn thân mình:

  1. Không lung.
  2. Không có tâm Từ.

Như vậy, gọi là nương vào trí lực tự trị tội mình.

Nếu vua không có trí, không có khả năng tư duy như thế, nên đi khắp mọi nơi trong nước tìm cầu các Sa-môn có trí tuệ lớn, khéo biết vương luận, thường thực hành chánh pháp, có thể nói đúng sự thật. Vị vua kia nên đích thân đến chỗ những vị Sa-môn ấy. Nếu nhà vua không đích thân đến được thì nên sai đại thần, vương tử, người tôn quý, hoặc người được tôn trọng đi đến chỗ Sa-môn ấy thưa rằng: “Nhà vua rất quý trọng và mong muốn được gặp, các vị có thể đến chỗ nhà vua”. Nếu những Sa-môn ấy đến thì vua nên ra nghinh đón, đảnh lễ, thăm hỏi, và phải hết lòng cung kính tôn trọng hỏi Sa-môn: “Những gì là việc làm thiện? Những gì là hành động ác? Thực hành những pháp nào có thể được lợi ích? Thực hành những pháp nào không có lợi ích? Tâm ta ám muội, không có trí tuệ, xin vì ta giảng nói.”

Khi ấy, vị Sa-môn nên thuyết giảng rõ ràng cho nhà vua về những pháp các vua trong quá khứ đã làm và các pháp vương luận; dùng lời nói từ tốn nói với nhà vua rằng: “Pháp này nên phụng hành, có lợi ích lớn, đó là mười pháp thiện như không sát sinh… Những pháp thế này không nên thực hành, không có ích lợi, gọi là mười pháp ác, như: sát sinh,… Những pháp thế này là vua thực hành pháp hạnh đã làm. Nay vua chưa biết thì nên bỏ mười pháp ác thực hành mười phap thiện.” Khi vua đã nghe như vậy rồi phải thọ trì, như pháp hối cải. Nếu được như vậy, gọi là nương vào năng lực bên ngoài tự trị tội mình.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh phải bảo hộ thế gian như thế nào?

Đáp:

–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh không thiêu đốt, không phá hoại, không úng nước, đó là hạnh giữ gìn khí thế gian. Vì sao? Vì tất cả những việc làm đó đều là nghiệp bất thiện. Vì thế, vua thực hành pháp hanh không nên thiêu đốt, phá hoại, úng nước thành ấp, tụ lạc, núi rừng, sông đầm, vườn tược, cung điện trang nghiêm, lầu các. Tất cả đường sá, cầu cống, hang ổ, nhà cửa tự nhiên; tất cả các thứ lúa, đậu, mè, ngô, hoa quả, cỏ cây, rừng rú đều không nên thiêu đốt, phá hoại, úng nước, chặt phá. Vì sao? Vì các vật ấy là vật chung của các chúng sinh ở đó, chúng không có tội lỗi gì, không nên làm mất đi vật thọ dụng của chúng, khiến chúng phải đau khổ.

Lại nữa, ngoài tất cả những rừng cây, các trời thiện tịnh và tất cả quỷ thần đều sống chung ở trong đó và cùng có nhà cửa, cung điện, lầu đài trang nghiêm của các vị trời đó. Vườn, ao, nhà cửa, cung điện, lầu các trang nghiêm nên xem tất cả dưới nước hay trên cạn đều có các côn trùng sinh sống. Đó là các loài chim sẻ, chuột, gà, chó, chim gáy gù, bồ câu, oanh vũ, voi, ngựa, trâu, dê, mèo, hổ, rắn, mọt, ngỗng, vịt, các, ba ba…, cho đến tất cả các loài côn trùng nhỏ bé. Vua thực hành pháp hạnh và các chúng sinh cùng nương vào nơi thế gian này để sinh sống, không nên phá hoại. Như vậy, gọi là vua thực hành pháp hạnh bảo hộ thế gian, làm cho chúng sinh được an lạc.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh có vô lượng chư Thiên hầu hạ, đi theo che chở cho vua, bởi vì năng lực của trời tự trị, có quyền che chở cho người. Nhưng vì sao nói người lại che chở cho trời?

Đáp:

–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh có thể cho trời ăn thức ăn trong sạch để đời sống chân chánh. Nghĩa là, vua nói cho họ về thiền định, giải thoát và mười điều thiện trong pháp môn cam lồ chánh giáo của Như Lai, khiến họ ra khỏi sự đau khổ trong đường ác. Đó gọi là che chở, trừ các sự sát sinh bất thiện, xấu xa… Vì sao? Vì ở trong nghiệp ác để đời sống của mình có một phần của chúng sinh. Cho nên, vua thực hành pháp hạnh, tức là thân có thể tích tập vô lượng công đức, có lợi ích trong hiện tại và vị lai, cũng có thể tích tập các quả thiện.

Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh không nên thiêu đốt, phá hoại, hủy diệt tháp miếu của Như Lai, cho đến phòng ốc, nhà cửa, các vật sinh sống của những vị Sa-môn tịnh hạnh. Vườn tược, lầu các, quán xá, cây rừng, hoa quả không nên chiếm đoạt, không nên phá. Ngoài ra là còn vì muốn có lợi ích cho Phật, Pháp, Tăng.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh có quan phụ tá nhà vua là vị quan tể tướng đứng đầu trong triều đình. Nhưng ông ta lại không lo việc nước mà chỉ mưu lợi cho mình; hoặc vì tư thù mà hại đến việc công, hoặc nhận hối lộ bẻ cong pháp luật; để nhân dân tụ họp bè đảng tăng thêm sự khinh thường, làm loạn; dùng sức mạnh uy hiếp kẻ yếu đuối; lấy quyền quý khinh thường sự thấp hèn; lấy sự giàu sang khinh chế người nghèo khổ; lấy việc quanh co, dua nịnh để dối gạt điều ngay thẳng. Kẻ giàu có thì huênh hoang vênh váo, còn người nghèo khổ phải chịu thiệt thòi; kẻ dối trá dua nịnh lại lên nắm chính quyền, còn bậc trung hiền phải lui về ở ẩn; hoặc khi còn ở chốn quan trường sợ lụy đến mình nên phải im lặng, hoặc tìm cầu tiền của hối lộ để được yên thân. Trăm họ bần cùng khốn khổ, không biết đâu để cứu vãn. Vì chán chường sự đau khổ nên họ nghĩ đến việc làm loạn, không nghe theo lệnh vua. Ấy là do các quan lại hành xử không trung tiết, dối gạt người trên, nhiễu loạn kẻ dưới, hô hào để nhận bổng lộc của vua. Những người ác như thế, nên ghép họ vào số những chúng sinh nào?

Đáp:

–Đại vương! Những người ác như thế nên ghép họ vào trong số những chúng sinh cướp đoạt bậc nhất để trị tội. Vì sao? Vì họ nhậm chức quan lớn, hưởng bổng lộc rất nhiều của nhà vua, lại bỏ việc công lo việc tư, không giữ đúng phep tắc, cho nên tai họa làm loạn cũng chính là phát sinh từ đấy. Đây là kẻ giặc rất lớn của quốc gia. Vua là bậc Pháp vương không xử tội họ bằng cách tử hình, cho nên ghép họ vào trong số chúng sinh cướp đoạt ở bậc cao nhất để trị tội.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, nếu trong nước có chúng sinh bất hiếu, không nghĩ đến ân dưỡng dục của cha mẹ, bỏ cha mẹ để ở với vợ con. Những thứ y phục, thức ăn, thuốc men dùng khi bệnh tật chỉ nghĩ đến cung cấp cho vợ con, không cho cha mẹ. Cha mẹ già yếu không còn sức lực ra vào thì chưa từng lo lắng, gần gũi giúp đỡ, hầu hạ, thế mà đối với vợ con họ ngày đêm không lìa; được một chút ngon ngọt không dám ăn một mình để dành cho vợ con; hoặc trộm của cha mẹ cung cấp cho vợ con ăn chơi thỏa thích. Cha mẹ nói điều tốt không chịu nghe theo, vợ con nói điều ác thì tin dùng không bỏ. Hoặc vì vợ con mà chửi mắng cha mẹ. Hoặc cùng với những người trong thân tộc như cô, chị, em gái sang hèn, trên dưới cùng với họ làm việc dâm dục, không biết hổ thẹn. Những người như thế nên ghép họ vào trong số những chúng sinh nào?

Đáp:

–Đại vương! Những người ác như thế, nên ghép họ vào trong số những chúng sinh cướp đoạt bậc nhất để trị tội họ. Vì sao? Vì ân cha mẹ sâu nặng như thế, hết lòng hiếu dưỡng còn không đền đáp hết, huống gì từ bỏ chống lại mệnh lệnh. Đó gọi là giặc cướp rất lớn trong thế gian.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, trong nước có người buông lung, không có lòng Từ. Đối với vợ con, tôi tớ, bà con, họ thường làm những điều bất nhẫn, sai khiến phi pháp, sai khiến phi thời. Người nào không làm, cưỡng bức khiến họ phải làm, đến cả đánh đập, chửi mắng không có điều gì không làm. Còn áo cơm không đủ ăn mặc, ngủ nghỉ không có chỗ, gọi chưa kịp đến thì thù ghét, lánh mặt; xuất ngôn toàn là những lời mắng chửi giống như oan gia. Những người như thế, nên giúp họ trong thành phần chúng sinh nào?

Đáp:

–Đại vương! Nên ghép họ vào hạng chúng sinh tà hạnh bậc trung để trị tội. Vì sao? Vì nhà cửa, của cải, nô tỳ cùng làm ra nên họ có nửa phần ở trong đó, nên phần thực ấy họ tự ý ăn mặc. Nhưng lại phần của nô tỳ thì tiếc giữ không cho, giả sử có cho đi nữa thì không đúng thời tiết, được nhiều thì cho ít, thường làm cho thiếu thốn. Đó là tà hạnh lớn nhất trong thế gian.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, trong nước có người đối với Phật, Pháp, Tăng làm việc không lợi ích, như là: thiêu đốt, pha hoại chùa tháp, tượng Phật và các kinh sách; dùng lời nói hủy nhục, nói xấu, nói rằng: “Làm việc này không có lợi lộc gì. Những người cúng dường trong hiện tại bị hao tổn, trong tương lai cũng không có lợi ích”. Hoặc ghét chùa tháp, và các hình tượng nên làm chướng ngại chỗ đó bằng cách phá hoại, trừ diệt hay đưa đi đặt ở chỗ khác. Hoặc đập phá phòng ốc, nhà cửa của những người Samôn tịnh hạnh. Hoặc lấy của Phật, Pháp, Tăng như vườn ruộng, rừng, nhà, voi, ngựa, xe, bò, lừa, lạc đà, nô tỳ, tôi tớ, y phục, đồ ăn thức uống, vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não và tất cả trân bảo. Hoặc bắt Sa-môn sai khiến làm việc, moi móc những lỗi lầm, cởi áo ca-sa. Hoặc khinh khi xem thường, đùa bỡn các Sa-môn, muốn làm trò cười nên không để họ chuẩn bị lúc đó hỏi cung. Hoặc dối gạt, mời thỉnh đến nhưng không cho ăn uống; dẫu có cho ăn uống thì không đúng lúc, cho thức ăn phi pháp. Hoặc có khi xem thường hủy nhục, chửi mắng và dùng những lời thô tục để phỉ báng. Hoặc dùng gậy, hòn đất, gạch đá, đến cả tự tay đánh các Sa-môn. Hoặc cầm dao, mác, cung tên, giáo, kích để chặt, bắn làm thương tổn. Hoặc xô xuống nước. Hoặc đẩy vào lửa, hoặc đẩy từ trên núi xuống hố, hầm nguy hiểm. Hoặc thả voi, ngựa, cọp, beo, sư tử, chó dữ, thú độc làm hại thương tích thân thể họ.

Những người ác như thế thì nên ghép họ vào loại chúng sinh nào?

Đáp:

–Đại vương! Những người ác như thế phải ghép họ vào trong số những chúng sinh ác nghịch bậc cao để trị tội. Vì sao? Vì họ gây nên tội căn bản rất nặng.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư, những gì gọi là tội căn bản?

Đáp:

– Đại vương! Tội căn bản có năm loại:

  1. Phá hoại chùa tháp, thiêu đốt kinh tượng; hoặc lấy vật của

Phật, Pháp và Tăng; hoặc dạy người làm, hoặc thấy người làm thì hổ trợ vui mừng. Đó là tội nặng căn bản thứ nhất.

  1. Hoặc phỉ báng pháp Thanh văn, Bích-chi-phật và pháp Đại thừa; hủy nhục, nói xấu, gây sự khó khăn, ngăn cản, che giấu. Đó là tội nặng căn bản thứ hai.
  2. Hoặc có Sa-môn với lòng tin xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, hoặc có người trì giới, hoặc có người không trì giới đều bị họ trói nhốt vào lao ngục, gông cùm đánh đập, bắt sai khiến làm việc, moi móc những lỗi lầm, chửi mắng đủ điều rồi đuổi đi gấp; hoặc cởi ca-sa bức hiếp khiến cho họ hoàn tục, hoặc giết chết. Đó là tội nặng căn bản thứ ba.
  3. Gây nên một tội trong năm tội Ngũ nghịch, đó là tội nặng căn bản thứ tư.
  4. Phỉ báng, phủ nhận tất cả nghiệp thiện ác, thường làm mười điều bất thiện, không sợ đời sau; đích thân làm, dạy người làm khiến họ giữ mãi không bỏ. Đó là tội nặng căn bản thứ năm.

Đại vương! Nếu người phạm những tội nặng căn bản như thế nhưng lại không tự mình sám hối, nhất định sẽ thiêu đốt tất cả thiện căn, thẳng đến địa ngục lớn, chịu khổ vô cùng.

Đại vương! Vì trong nước của nhà vua thực hành nghiệp bất thiện rất nặng này, cho nên các vị La-hán phạm hạnh, các vị Tiên, Thánh nhân đều bỏ nước ra đi. Chư Thiên thương xót, khóc lóc. Tất cả quỷ thần thiện, các vị thần có sức mạnh lớn không bảo hộ nước ấy. Các đại thần giết hại lẫn nhau, các quan đứng đầu triều đình tranh nhau, nghịch tặc khắp nơi cùng nhau nổi dậy, vua trời không xuống, vua rồng ẩn mất, nắng mưa bất thường, mưa gió trái mùa. Các rồng đều bỏ đi hết nên suối, khe, ao, sông đều khô cạn, cỏ cây cháy rụi, ngũ cốc mất mùa, nhân dân đói khát, giặc cướp hoành hành, ăn thịt lẫn nhau, xương trắng phơi đầy đồng; bệnh hủi, bệnh dịch, tử vong vô số. Khi đó, những người dân không biết tự suy nghĩ là mình đã làm nên tội mà còn oán giận các trời, trách mắng quỷ thần. Vì thế, vua thực hành pháp hạnh, vì cứu những nỗi khổ này nên thực hành pháp trị tội.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, nếu người với tâm không nhiễm ô, tâm khong ác độc, vì sao với tâm Từ lại không được tử hình hoặc hủy hoại thân thể.

Đáp:

–Đại vương! Vì vua thực hành pháp hạnh tâm không nhiễm ô, tâm không ác độc, không thể khởi lên những ý nghĩ như: giết hại chúng sinh hoặc hủy hoại thân thể. Vì sao? Vì vua thực hành pháp hạnh, thấy chúng sinh kia đến nỗi khi chết cũng nương theo kết quả hành động của chính mình, sinh tâm sân hận, chết rồi lại sinh vào đường ác, tâm ác cứ đi theo mãi, không bao giờ chấm dứt. Cho nên, vua thực hành pháp hạnh không tử hình, không hủy hoại thân thể. Vì sao? Vì việc này thật nguy hiểm. Nếu giết hoặc hủy hoại thân thể, một khi đã làm rồi thì sau không thể cứu vãn được. Còn trói nhốt vào nhà lao, hoặc gông cùm, đánh đập, la mắng…, thì không phải từ bỏ vĩnh viễn. Vì thế, Đức Phật dạy: “Vua thực hành pháp hạnh là bảo hộ chúng sinh. Nếu giết họ, hoặc hủy hoại thân thể họ thì không gọi bảo hộ chúng sinh đầy đủ được.”

Đại vương! Giết hoặc hủy hoại thân thể thật là việc sợ hãi lớn nhất ở thế gian. Đức Phật không cho phép vị vua thực hành pháp hạnh làm những việc như thế!

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, những người trong nước phải nộp vật thuế khóa cho nhà vua thì đó là vật của vua hay của người khác?

Đáp:

–Đại vương! Đó chẳng phải vật của vua cũng chẳng phải vật của người khác. Vì sao? Vì vật đó do chính công sức của họ làm ra, cho nên chẳng phải vật của riêng nhà vua. Chẳng phải vật của người khác là vì vua bảo hộ những người này, cho nên chẳng phải vật thuộc về họ. Những chúng sinh kia lập pháp như thế vì thế nên nhà vua cũng được phần, chẳng phải vật của người khác.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh, nếu có người dân đóng nộp vật cho nhà vua mà không nộp thì người đó là kẻ ăn cắp vật cua nhà vua hay không ăn cắp vật của nhà vua?

Đáp:

–Đại vương! Chẳng phải ăn cắp vật của nhà vua, nhưng người ấy tham tiếc của, coi thường nhà vua không nộp thuế thì bị vô số tội. Vì sao? Vì đóng nộp thuế cho nhà vua mà lai không nộp.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Tất cả mọi người ở trong nước đều nộp thuế cho nhà vua nhưng không cần nộp. Như vậy, nhà vua liền thi hành biện pháp dùng roi gậy đánh đập, chửi mắng, hoặc lấy vật của họ. Hành động như vậy gọi là cướp đoạt hay không cướp đoạt?

Đáp:

–Đại vương! Đó chẳng phải cướp đoạt. Vì sao? Vì vua có khả năng bảo hộ những hoạn nạn, do đó đời sống của họ được yên ổn, thì phải nộp thuế cho nhà vua. Đó chẳng phải cướp đoạt.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Nếu người nghèo khổ phải nộp vật cho nhà vua, nhưng vì không có vật để nộp nên bị cưỡng ép đánh đập, buộc họ phải nộp thuế, đó là cướp đoạt hay chẳng phải cướp đoạt?

Đáp:

–Đại vương! Có người bị coi là cướp đoạt, nhưng có người không phải cướp đoạt. Có người không phải là cướp đoạt, khi người ấy lười biếng, giải đãi, không chuyên cần làm ăn, sống phi pháp, tà dâm, cờ bạc. Với những sư ăn chơi như thế nên cướp đoạt của cải người khác, đến nỗi làm cho họ nghèo khổ. Những người như thế, vua thực hành pháp hạnh phải dùng roi trừng phạt họ, tịch thu hết tài sản, để họ đi vay mượn vật nộp cho nhà vua. Đó gọi là vua chẳng phải cướp đoạt. Vì sao? Vì nhà vua nghĩ rằng, để cho người kia không dám làm việc phi pháp, làm tổn thất của cải. Như vậy, cả vua lẫn dân đều được lợi ích, là đời sống được thành tựu và lại không có tội lỗi.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Với những hạng người nào, vua là kẻ cướp đoạt? Đáp:

–Đại vương! Tất nhiên nhà vua được quyền thu góp. Nhưng nếu biết rõ gia nghiệp của người kia bị giặc cướp đoạt, người thân dối gạt lấy, chủ phi pháp cướp đoạt; hoặc bị lửa thiêu đốt, bị gió dữ, mưa hung, bảo cát, mưa đá làm hư hoại gia nghiệp; hoặc họ ở nơi không được an ổn, nhân dân bỏ đi mất hết gia nghiệp; hoặc bị sâu bọ, chim sẻ, chuột, chim oanh vũ ăn hết ngũ cốc; hoặc gặp thời buổi hạn hán, hoa màu không chín, nước ngập thu hoạch không được. Có những nguyên nhân như thế, không xây dựng được cơ nghiệp, của cải hết sạch. Với những người này thì nên miễn, không nên bắt họ nộp tài sản. Nếu như nhà vua lấy tài sản của họ thì gọi là cướp đoạt. Vì sao? Vì không có lòng thương yêu đối với những người nghèo khổ này, nên không gọi là bảo hộ chúng sinh đầy đủ được.

Đại vương nên biết! Ta nêu ra một ví dụ để minh họa việc này, người trí thì ở ngay nơi ví dụ này sẽ hiểu được. Như có người muốn đem đồ ăn thức uống cúng dường những người Sa-môn tịnh hạnh. Khi đã chuẩn bị đầy đủ những đồ ăn thức uống ngon bổ, nhưng bỗng nhiên nhà ấy bị cháy, gió thổi ngã, nước cuốn trôi; hoặc bị giặc cướp lấy hết đồ ăn, thức uống; hoặc bị đồ bất tịnh làm dơ, không thể ăn được. Đến giờ thọ trai, các vị Sa-môn đến nhà thí chủ, nhưng thấy gia đình họ bị tổn thất, nên trở lại giúp đỡ, chia xẻ khổ đau và khất thực về cho họ. Lòng dạ nào lại dám lấy đồ ăn của thí chủ nữa? Nhưng người thí chủ kia không cúng dường thức ăn cũng không có tội.

Đại vương! Cũng vậy, vua thực hành pháp hạnh tuy nhiên được quyền thu góp, những người ấy không nộp cũng không phạm vương pháp, không nên tịch thu, đánh đập. Vua thực hành pháp hạnh ở trong thế gian cai trị nhân dân là luôn luôn mong muốn họ được hạnh phúc.

*********

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Như thế, vua thực hành pháp hạnh không buông lung, họ thành tựu được mấy pháp thì gọi là vua thực hành pháp hạnh?

Đáp:

–Đại vương! Thành tựu mười pháp mới được gọi là vua thực hành pháp hạnh.

Mười pháp đó là:

  1. Tự tánh thành tựu.
  2. Quyến thuộc có lễ nghĩa.
  3. Trí tuệ thành tựu.
  4. Thường siêng năng tinh cần.
  5. Tôn trọng pháp.
  6. Mạnh mẽ lanh lợi.
  7. Ân nghĩa sâu nặng.
  8. Hiểu rõ mọi hoạt động của sự vật trong thế gian.
  9. Có thể chấp nhận những sự đau khổ.
  10. Không giữ pháp điên đảo.

Đại vương! Vua thành tựu tự tánh sẽ được thành tựu hai công đức:

  1. Thái tử, đại thần, trưởng giả, cư sĩ và nhân dân trong thành ấp, tụ lạc đều yêu mến, và quý trọng nhà vua.
  2. Nhà vua không có những thứ bệnh tật.

Vua có quyến thuộc biết lễ nghĩa cũng được thành tựu hai công đức:

  1. Đối với những việc làm của nha vua, các sự tranh luận, nhà vua không cần phải lo âu.
  2. Cẩn thận không phạm vương pháp.

Vua thành tựu trí tuệ cũng được thành tựu hai công đức:

  1. Biết giỏi phương tiện, dựa theo pháp để bảo hộ chúng sinh.
  2. Muốn làm việc gì thì với trí tuệ của mình vua có thể biết được, không cần nhờ người khác.

Vua thường siêng năng chuyên cần cũng có thành tựu hai công đức:

  1. Tất cả các kho lẫm đều đầy ắp.
  2. Không có giặc cướp, sống an ổn hạnh phúc.

Vua tôn trọng pháp cũng có thành tựu hai công đức:

  1. Luôn luôn thực hành theo pháp thiện không gián đoạn.
  2. Có khả năng giáo hóa những chúng sinh làm việc ác. Vua mạnh mẽ, lanh lợi cũng có thành tựu hai công đức:
  3. Trong tâm mong cầu việc gì thì mau được đầy đủ.
  4. Muốn phát tâm làm việc gì, suy nghĩ không lâu liền thành như pháp.

Ân nghĩa sâu nặng cũng có thành tựu hai công đức:

  1. Quyến thuộc đều ưa thích nhà vua.
  2. Các đại thần và tất cả nhân dân đều kính tin và tôn trọng nhà vua.

Hiểu rõ mọi hoạt động của sự vật trong thế gian cũng có thành tựu hai công đức:

  1. Có khả năng biết những chúng sinh làm ác, chúng sinh làm thiện.
  2. Vua giúp người dân ở xa được vật không để mất mát.

Vua có chịu đựng những đau khổ cũng có thành tựu hai công đức:

  1. Nhà vua muốn thực hiện điều gì thì có thể thành tựu đầy đủ.
  2. Không sợ những sự đau khổ và buồn bực.

Vua không giữ pháp điên đảo cũng có thành tựu hai công đức:

  1. Tự mình đạt đến đạo thù thắng.
  2. Không bao giờ xa lìa các bậc Thiện tri thức.

Đại vương! Người đầy đủ mười công đức như vậy, gọi là vua thực hành pháp hạnh thành tựu.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Thành tựu mười loại công đức như thế mới gọi vua thực hành pháp hạnh. Nếu như trong nước ấy có vua chư hầu phản nghịch, chuẩn bị bốn loại binh mã để chiến đấu tranh giành đất nước với vua pháp hạnh. Hoặc ngay cả vua nước ngoài đến xâm lăng; họ muốn mở một cuộc đại chiến, tập bốn bộ binh mã, tất cả đều sẵn sàng thì vua thực hành pháp hạnh bằng cách nào để đối phó với cuộc chiến tranh này?

Đáp:

–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh nên suy nghĩ ở trong ba thời điểm, đưa ra ba phương tiện để vào trận chiến đấu. Ba thời điểm đó là: vào lúc đầu, vào lúc giữa và vào lúc cuối.

Đại vương! Lúc đầu muốn vào khởi phương tiện, nếu vua thực hành pháp hạnh thấy vua chư hầu phản nghịch thì ngay lúc ấy nên suy nghĩ ba điều này:

  1. Suy nghĩ rằng: “Binh mã của vua chư hầu phản nghịch là cũng của chúng ta và họ sẽ chiến thắng ta. Nếu ta cũng chiến đấu với họ thì sẽ tổn thất rất lớn, không có lợi ích gì. Nếu họ chiến thắng ta thì họ sống còn ta chết.” Nhà vua suy nghĩ như thế rồi, nên đi tìm những người bạn thân hoặc người quen của vị vua phản nghịch kia, nhờ họ hòa giai để chấm dứt cuộc chiến này.
  2. Vua thực hành pháp hạnh thấy thế lực của vua phản nghịch kia ngang mình hoặc hơn mình, trong tâm tự nghĩ: “Không nên chiến đấu với họ, nên cung cấp của cải cho họ để chấm dứt chiến tranh”.
  3. Neu thấy vua phản nghịch kia có nhiều binh sĩ, quyến thuộc, bè đảng; thế lực bốn binh voi, ngựa, xe và bộ rất hùng mạnh. Còn binh sĩ của vua thực hành pháp hạnh tuy ít, nhưng có thể dùng phương tiện hiện đại hùng mạnh chống cự, làm cho vua phản nghịch kia sinh tâm sợ hãi, chấm dứt chiến tranh.

Đó là trong thời gian đầu suy nghĩ về dụng của ba phương tiện.

Đại vương! Nếu như dùng ba việc bạn thân, của cải và uy hiếp làm cho sợ hãi này mà không dập tắt được cuộc chiến tranh kia. Lúc này, vua thực hành pháp hạnh nên suy nghĩ ba điều rồi, đi thẳng vào trận chiến.

Ba điều suy nghĩ:

  1. Nghĩ rằng: “Đây là vua phản nghịch không có tâm Từ bi, tự mình giết hại chúng sinh và thấy người khác giết hại chúng sinh cũng không ngăn chặn. Hôm nay, ta không thể để cho họ giết hại lẫn nhau như thế này.” Đây là tâm ban đầu bảo hộ chúng sinh.
  2. Nghĩ rằng: “Ta nên dùng phương tiện thu phục vua phản nghịch để quân sĩ binh mã hai bên không chiến đấu.”
  3. Nghĩ rằng: “Ta nên dùng phương tiện bắt sống, trói lại không để họ giết hại lẫn nhau.”

Khởi lên tâm Từ bi này rồi, sau đó chuẩn bị bốn loại binh mã phân bố ra. Các tướng sĩ đọc hiệu lệnh, tuyển chọn binh lính, phân ra làm ba phẩm. Ở trong phẩm thượng thì có thượng, trung và hạ. Chọn những người dũng mãnh của bậc thấp trong phẩm thượng đặt ở phía trước. Tiếp theo, chọn những người khỏe mạnh trong phẩm trung đứng ở thứ hai. Tiếp theo, chọn những binh lính có sức khỏe mạnh nhất của phẩm thượng phân ra ở hai bên bảo hộ các bộ binh, để cho họ sợ hãi.

Lúc ấy, vua thực hành pháp hạnh ở giữa quân ra lệnh cho đại quân hùng mạnh voi, ngựa, xe và bộ của phẩm tối thượng đi vào trận chiến. Vì sao? Vì có năm việc khiến cho đại quân hùng mạnh không thối chí.

Năm việc đó là:

  1. Biết hổ thẹn với vua.
  2. Tất cả phải sợ vua.
  3. Nắm được ý của vua.
  4. Làm cho binh lính ở sau không sợ hãi.
  5. Khiến cho mọi người nghĩ đến việc báo ân quốc vương.

Với thế lực phân chia như vậy, không sinh sự thoái lui, có khả năng dũng mãnh chiến đấu.

Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh đã thiết lập phương tiện vào trận chiến đấu, lúc ấy dẫu có giết hại chúng sinh thì vị ấy chỉ mắc tội rất nhẹ, không cần sám hoi cũng có thể tiêu trừ được. Vì sao? Vì vua thực hành pháp hạnh kia trước khi muốn vào trận chiến đấu đã khởi ba tâm Từ bi, thì dầu cho có làm điều ác này cũng chỉ mắc tội nhẹ, không hẳn chịu quả báo.

Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh kia vì chúng sinh, vì bảo hộ Sa-môn, vì bảo hộ pháp Sa-môn, vì bảo hộ vợ con, dòng họ và những tư thức mà có thể xả bỏ thân mình và của cải. Nhân tạo những nghiệp như thế, nên vua thực hành pháp hạnh kia được vô lượng phước.

Đại vương! Nếu vì bảo vệ đất nước, chăm lo đời sống nhân dân mà khởi binh chiến đấu, trong lúc ấy, quốc vương trước hết phải khởi ba tâm ở trên, rồi mới ra lệnh vua chư hầu phải một mực tuân theo lệnh của vua, chiến đấu như thế là có phước không có tội.

Nhà vua hỏi:

–Thưa Đại sư! Vua thực hành pháp hạnh thường sinh bao nhiêu tâm để bảo hộ chúng sinh như thế?

Đáp:

–Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh đối với các chúng sinh khởi lên tám tâm.

Tám tâm đó là:

  1. Nghĩ đến tất cả chúng sinh như nhớ nghĩ về con của mình.
  2. Nghĩ đến những chúng sinh làm việc ác như nghĩ đến đứa con bệnh hoạn của mình.
  3. Thường nghĩ chịu khổ thay cho chúng sinh, sinh tâm đại Bi.
  4. Nghĩ chia xẻ niềm vui thù thắng của chúng sinh, sinh tâm hoan hỷ.
  5. Nghĩ đối với những chúng sinh oan gia, sinh ý tưởng bảo hộ.
  6. Có thể đối với những chúng sinh bạn bè thân thuộc thì sinh ý tưởng bảo hộ che chở.
  7. Đối với của cải sinh ý tưởng như thuốc.
  8. Đối với chúng sinh, sinh ý tưởng vô ngã.

Đại vương! Nghĩ đến các chúng sinh, sinh ý tưởng như con, nên phát khởi hai tâm:

  1. Như cha mẹ nghĩ đến con, ngăn ngừa các điều ác.
  2. Đối với tất cả chúng sinh thường không bỏ tâm Từ bi.

Nghĩ đến những chúng sinh làm việc ác như nghĩ về đứa con bệnh tật, nên phát khởi hai tâm:

  1. Có khả năng chịu đựng, như người bệnh ở thế gian chửi mắng các thầy thuốc giỏi, những thầy thuốc vẫn không tức giận.
  2. Vì muốn đoạn dứt tất cả lỗi lầm, nên thực hành tâm như thế.

Nghĩ chịu khổ đau thay cho chúng sinh, sinh tâm đại Từ, nên phát khởi hai tâm:

  1. Ở trong hoạn nạn nguy cấp, cứu chúng sinh thoát khỏi khổ đau.
  2. Có khả năng hưởng niềm vui an ổn thù thắng.

Đối với những chúng sinh thọ lạc, sinh tâm hoan hỷ, nên phát khởi hai tâm:

  1. Đối với của cải và đời sống của người khác không sinh tâm tham.
  2. Đối với hạnh phúc và sự giàu sang của người khác không sinh tâm đố kỵ.

Đối với những chúng sinh oan gia sinh ý tưởng bảo hộ, nên phát khởi hai tâm:

  1. Thường nghĩ diệt trừ lỗi lầm cho họ, nhân đó xa lìa oan gia.
  2. Đối với những chúng sinh oan gia sinh ý nghĩ như bè bạn thân thích, huống gì những chúng sinh khác chẳng phải oan gia?

Đối với những chúng sinh bạn bè thân thích, sinh ý tưởng bảo hộ che chở, nên khởi hai tâm:

  1. Nghĩ làm cho tình bạn càng thêm vững chắc.
  2. Nghĩ đến cho tất cả chúng sinh không oán thù nhau.

Đối với vật dụng sinh ý tưởng như thuốc, nên khởi hai tâm:

  1. Có ái dục nhưng không tà dâm.
  2. Đối với sắc, thanh, hương, vị và xúc tùy theo thế gian thọ dụng, không sinh tâm tham đắm.

Đối với tự thân không sinh ý tưởng là ngã, nên khởi hai tâm:

  1. Thường đi đến những bậc Sa-môn, người đại trí để nghe Phật pháp.
  2. Nghe pháp rồi, y theo lời dạy mà tu hành.

Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh thường tư duy tám pháp như thế, không mong cầu của cải mà người thế gian tự nhiên hiến dâng. Những châu báu, kỹ vat kỳ lạ ở trong nước không có mà kho lẫm vẫn đầy dẫy. Dù cho những vị vua làm việc ác, phi pháp trong thế gian dùng roi đánh đập, bức hiếp nhân dân nộp của cải thì cũng không bằng một phần của vua pháp hạnh.

Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh thực hành tám pháp này, đối với những việc làm thì ở năm tháng, mặt trời, mặt trăng và sao thường hiện điềm lành. Tất cả phi nhân, các loại tà ác quỷ muốn tìm chỗ sơ hở cũng không thể được. Ở trong nước ấy, thời tiết mưa hòa gió thuận, ngũ cốc được mùa, nhân dân no đủ, không còn nghĩ đến việc đói khát nữa. Tất cả những loài có thể mang đến cho thế gian những điều bất lợi như trùng sâu, chim sẻ, chuột, rồng, mưa đá thảy đều tiêu diệt hết. Nếu trong nước ấy có giặc cướp, tất cả đều y theo tội lỗi do hành động của chính mình mà chịu những sự đau khổ, hành động của mình chấm dứt thì quả báo cũng không còn.

Đại vương! Vua thực hành pháp hạnh có thể bảo hộ chúng sinh như thế, bảo vệ thế gian, không phụ tất cả chúng sinh. Tất cả mọi người làm việc thiện, người trí tuệ và bậc Thánh trong thế gian đều không thể quở trách. Vì sao? Vì không co tội.

Đại vương! Vua thực hành các hạnh thiện như thế, sau khi mạng chung sẽ sinh lên cõi trời và hưởng thọ cảnh giới an lạc vi diệu ở các cõi trời kia.

Rồi nói bài kệ rằng:

Trọng pháp không buông lung
Thường nghĩ lợi chúng sinh
Quyến thuộc có lễ phép
Biết giỏi hạnh lợi tha
Chính mình thường thanh tịnh
Lìa những việc vô ích
Vua kia hơn thế gian
Gọi vua hành pháp hạnh.
Tướng quý, nói hòa nhã
Siêng chuyên cần làm thiện
Biết giỏi việc thế gian
Tất cả các nghề nghiệp,
Vì thường không biếng nhác
Phương tiện hộ tất cả
Chúng sinh được an vui
Không có người đau khổ,
Thường thích việc lợi tha
Tâm muốn hộ tất cả
Phát ngôn lời ái ngữ
Quyết định nói an ổn,
Biết lỗi, có công đức
Biết hơn và biết kém
Vua đều cũng như thế
Chúng sinh sống an lạc.
Với người tâm bình đẳng
Hay thí vật, giải nghĩa
Các quan và quyến thuộc
Tất cả yêu mến vua,
Nhóm đầy đủ điều thiện
Thường có thế lực mạnh
Vua chánh pháp như thế
Ở lâu trên vương vị.
Tâm Từ lìa giết hại
Bố thí diệt trộm cắp
Chánh hạnh phòng tà dâm
Lời thật dứt nói dối,
Hòa hợp lìa chia rẽ
Nói nhẹ ngăn ác khẩu
Nói ngay trị phù phiếm
Sống sạch bỏ uống rượu,
Tịnh tâm bỏ ba độc
Thọ vương vị cõi trời
Đại vương phải nên biết
Thường khéo hộ các giới.