KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 5: SÚC SINH

(Từ quyển 18 – quyển 21)

Lại nữa, Tỳ-kheo biết rõ về quả báo của nghiệp, quán đúng như thật về các địa ngục, biết quả báo của nghiệp trong một trăm ba mươi sáu địa ngục và biết như thật về thọ mạng dài ngắn, tăng giảm của các chúng sinh nơi cõi ấy. Vị ấy lại quán về đường thứ hai có vô lượng loài ngạ quỷ, lược nói về ba mươi sáu loại, cũng đã nhận biết đúng như thật về các hành nghiệp của chúng.

Vị ấy dùng văn tuệ quán xét về cõi súc sinh có từng chủng loại riêng biệt gồm ba mươi bốn ức, tất cả đều do tâm gây tạo nên sinh vào năm đường. Trong năm đường ấy, chủng loại súc sinh về số lượng rất là nhiều, mỗi loại có mỗi tướng mạo màu sắc riêng biệt, các đi đứng, ăn uống chẳng đồng. Loài bay thì mỗi loài mỗi khác. Thương-ghét, nghịch-thuận, đi có bạn, đi một mình, cùng sống chung, cùng dạo chơi, đó là các loài chim bay và các loài thú chạy. Các loài ô thước, thiên nga, chim nhạn, hồng… đi chơi từng đàn riêng biệt, chúng không oán ghét, giết hại lẫn nhau, còn các loài cáo, chó, dã can, thì oán ghét nhau. Quạ với cú mèo, ngựa với trâu bò, rắn độc với chuột… chúng tàn hại nhau. Hình tướng chẳng đồng, sự sinh hoạt và ăn uống cũng đều khác biệt.

Vì nghiệp gì mà mỗi loài có hình tướng khác nhau? Cách sinh hoạt, ăn uống cũng không giống nhau?

Vị ấy dùng văn tuệ quán chúng sinh này bị các tâm sai khiến, gây ra vô số nghiệp, đi vào vô số cảnh giới, ăn thức ăn khác nhau.

Vị ấy quán xét về các loài kia, do nhân duyên gì mà mỗi loại khác nhau, oán ghét, ganh tỵ nhau? Vị ấy liền dùng văn tuệ, biết các chúng sinh này, ở đời trước do tà kiến mà học theo pháp tà. Lại có chúng sinh cũng học theo pháp tà rồi sinh tà mạn, lấy những lý luận

và ví dụ của tà kiến để cùng nhau tranh cãi. Tuy cùng bàn luận nhưng rốt cuộc không đưa đến lợi ích, không tạo được an lạc, cũng không phải là đường lành. Hai loại người ấy, sau khi qua đời, bị đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Vì xưa kia oán ghét nhau nên khi thoát khỏi địa ngục, sinh vào loài súc sinh, trở lại oán ghét, sát hại lẫn nhau, như rắn độc với chuột vàng, quạ với cú mèo, ngựa với trâu…

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp rồi, lại quan sát các loài súc sinh, do nghiệp gì mà có loài súc sinh thuận hợp, không sát hại lẫn nhau?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia khi còn làm người, vì sinh tử mà bố thí đã cùng nhau phát nguyện: “Đời vị lai, chúng ta thường làm vợ chồng với nhau”. Sau khi qua đời, những người ấy sinh trong loài súc sinh, vui ít nhưng không bị khổ nhiều như các loài chim mạng mạng, uyên ương, bồ câu, phần nhiều chúng ưa thích ái dục, đó là nguyên nhân của nghiệp.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quan sát các loài súc sinh chó, cáo, dã can. Vì nghiệp gì mà tánh chúng ghét bỏ giết hại nhau?

Vị ấy liền dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia lúc làm người, đã làm bẩn thức ăn thanh tịnh của những người thiện và người xuất gia, lại thường thích tranh chấp. Do tâm tham, nên sau khi qua đời, người ấy bị đọa vào súc sinh, làm thân chó, cáo, dã can, luôn oán ghét, ganh tỵ nhau.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét các loài hươu, nai, do nghiệp gì mà sinh vào loài này?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia đời trước ưa thích làm giặc hùng mạnh, đã đánh trống, thổi ốc, đến các thành ấp, xóm làng, thôn doanh để phá hủy hàng rào của người khác, gây những âm thanh lớn để tăng thêm sự sợ hãi. Người như vậy, sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục, chịu đủ thứ khổ. Ra khỏi địa ngục, lại sinh vào loài hươu, nai, tâm luôn sợ sệt. Do đời trước phá xóm làng của người, khiến họ phải lo sợ nên nay phải sinh vào chốn núi rừng, đồng hoang, luôn luôn kinh hãi. Do nghiệp lực đã gây ra nên sinh làm người thì tâm luôn sợ sệt, nhỏ mọn, nhu nhược, mãi lo sợ. Đó là duyên của nghiệp còn lại.

Như vậy, vị ấy quán xét một phần nhỏ về các loài súc sinh, oán ghét, sát hại lẫn nhau, đó là do nghiệp đã tạo trước kia.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét các loài súc sinh, vì nghiệp gì mà thọ thân theo Hóa sinh?

Vị ấy liền dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia đời trước vì nhằm lấy chỉ tơ nên nuôi tằm, giết kén, hoặc đem đun nấu, hoặc lấy nước ngâm, sinh ra vô lượng trùng tên là Hỏa man. Có những ngoại đạo thọ pháp trai tà, lấy trùng còn nhỏ này bỏ trong lửa để cúng dường chư Thiên cầu phước đức. Sau khi qua đời, người ấy bị đọa vào địa ngục, chịu đủ các khổ. Ra khỏi địa ngục, lại sinh vào loài hóa sinh, ở trong đồ vật chứa đựng nước, đủ các loại khác nhau.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét các loài súc sinh, vì nghiệp gì mà đọa vào loài Thấp sinh?

Vị ấy liền dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia khởi ác tà kiến, giết hại rùa, ba ba, cá, ngao, ốc, hến và những loài trùng nhỏ trong ao, bể, hoặc trùng nhỏ trong men rượu. Hoặc có người ác, vì tham của cải mà giết các loài sâu nhỏ, hoặc vì tà kiến thờ trời, giết trùng để cúng tế. Sau khi qua đời, những người ấy bị đọa vào địa ngục, chịu đủ các thứ khổ không thể tính kể. Ra khỏi địa ngục, lại làm thân súc sinh trong loài Thấp sinh như muỗi, bọ chét…

Quán hai loại sinh ấy rồi, vị ấy tuần tự dùng tâm vi tế quán xét về quả báo của nghiệp trong các loài chúng sinh thuộc Noãn sinh. Vì nghiệp gì mà sinh vào loài này?

Nếu người nào chưa đoạn trừ tham, sân, si, nhờ tu học thiền định, chứng được thần thông thế gian. Nhưng do nhân duyên gì đó mà người kia sinh tâm sân giận, phá hoại quốc độ, nên sau khi qua đời, người ấy bị đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ. Ra khỏi địa ngục, lại làm thân trong loài noãn sinh như chim điêu, chim thứu… Thoát thân này rồi, lại sinh làm người luôn có nhiều sân hận. Đó là do nghiệp ác còn sót lại.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết rõ về quả báo của nghiệp. Vị ấy dùng văn tuệ quán các súc sinh, vì nghiệp gì mà thọ thân Thai sinh?

Như có chúng sinh, đem tâm ái dục hòa hợp với loài bò, ngựa, bắt chúng giao hợp để tự thỏa thích. Hoặc bắt người khác làm tà hạnh, phi lễ. Sau khi qua đời, người ấy bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô lượng. Ra khỏi địa ngục, lại làm thân súc sinh thuộc Thai sinh. Nếu sinh làm người thì làm thân hoàng môn, đó là do nghiệp ác còn sót lại.

Lại nữa, Tỳ-kheo kia quán mười một loại súc sinh rồi, tiếp đến quán bốn loại chúng sinh, khi ra khỏi địa ngục lại thọ bốn loại thức ăn:

  1. Đoàn thực (Thức ăn phải nhai).
  2. Ý tư thực (Thức ăn bằng ý tư duy).
  3. Xúc thực (Thức ăn bằng sự tiếp xúc).
  4. Ái thức thực (Thức ăn bằng thức).

Tỳ-kheo lại tư duy, quan sát về quả báo của bốn loại thức ăn.

Vị ấy dùng văn tuệ, quán các chúng sinh lấy các Đoàn thực cho người phá giới hoặc lũ giặc. Sau khi cho ăn, người kia bảo lũ giặc này giết hại kẻ oán thù. Kẻ giặc ấy nhận lời liền giết kẻ oán thù kia. Sau khi qua đời, kẻ sai giết hại người ấy bị đọa vào địa ngục, chịu đủ các khổ báo. Ra khỏi địa ngục, đọa vào loài súc sinh thuộc Đoàn thực như: trâu, bò, dê, lạc đà, lừa, ngựa, heo, chó…; các loài chim như: chim cắt, thứu, ngỗng, vịt, khổng tước, mạng mạng, chim hồng và các loài chim khác. Phần nhiều chúng sống trong vùng đồng hoang, núi rừng hiểm trở. Đó là một ít loài súc sinh thuộc Đoàn thực.

Lại nữa, Tỳ-kheo quán các loài súc sinh thuộc Xúc thực ở trong bọc trứng, hoặc vừa ra khỏi trứng, lấy sự tiếp xúc làm thức ăn. Lại có nhiều loại chim sống trong nước, lấy bờ hồ làm tổ, hoặc đào bờ sông để làm hang ổ để đẻ trứng. Còn các loài rồng, rắn vì nghiệp gì mà ăn bằng sự tiếp xúc?

Tỳ-kheo quan sát, liền dùng văn tuệ biết các chúng sinh này đời trước trong tâm hứa làm việc bố thí, sau đó suy nghĩ, tính toán, hối hận không làm. Do tạo nghiệp bất thiện mà người kia bị đọa làm súc sinh. Do tâm xưa suy nghĩ mà nay mắc quả báo phải ăn bằng sự tiếp xúc.

Lại nữa, Tỳ-kheo quán các loài súc sinh ăn bằng nhớ nghĩ. Vì nghiệp gì mà làm thân súc sinh ăn bằng sự nhớ nghĩ?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các súc sinh như cá đỏ, cá đề-di, cá thố… cho đến ngao, ốc… đều lấy tâm nhớ nghĩ làm thức ăn. Nếu nhớ nghĩ thì không đói khát, thân thể càng phát triển.

Vì nghiệp gì mà sinh vào các loài này?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh này do ngu si thiếu trí, không biết quả báo của nghiệp, đã hứa đem đồ vật cho người, nói rằng:

–Một tháng, hoặc nửa tháng sau, tôi sẽ lấy của cải thức ăn uống, vàng bạc, châu báu cho ông.

Nghe hứa như vậy, người nghèo ấy rất vui mừng, khen ngợi, trông mong mau đến nửa tháng hay một tháng để có được của cải. Sau đó, người nghèo kia tới nhà người giàu, nhưng ông ta nói khác đi, không giống như lời đã hứa trước đây. Người giàu ác ấy, sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục Ưu hỷ, chịu đủ khổ não. Ở đây sau khi qua đời lại bị đọa vào súc sinh, lấy nhớ nghĩ làm thức ăn. Do đời trước hứa cho người nghèo của cải, khiến họ vui mừng, nhưng cuối cùng không cho. Vì nhân duyên ấy, nếu được làm người thì làm kẻ nô tỳ cho người sai khiến. Đó là do nghiệp ác còn sót lại.

Lại nữa, Tỳ-kheo kia biết quả báo của nghiệp và quán các súc sinh ăn bằng loại thứ tư là Ái thức thực.

Vị ấy dùng văn tuệ quán thấy có súc sinh do Ái thức thực làm khổ não, thường nhớ đến sự ăn uống, sinh trong vùng đồng hoang, làm thân trăn lớn, rắn, thằn lằn, chỉ hút hơi gió. Lại có trời Quang minh cũng gọi là Ái thức ức thực, nhưng không bị khổ não, thấy thức ăn thì nhớ nghĩ đến liền được no. Súc sinh ăn bằng thức ái thì vì nghiệp gì mà phải chịu quả báo như vậy?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia vì có nhiều sân giận, nhiều ngu si mà sát hại chúng sinh. Sau khi qua đời, người ấy sinh trong đường ác, làm thân trăn lớn. Do đời trước vì ưa thích oán kết nên tự quấn trói tâm mình. Vì nhân duyên đó mà sinh trong loài súc sinh chịu khổ não, ưa thích ăn gió. Nếu sinh làm người thì hay sân giận, dấy khởi tranh cãi, kiện tụng với những việc vô cớ. Đó là do nghiệp ác còn sót lại.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét về vô lượng vô biên thế giới của súc sinh. Vì lý do gì có những chúng sinh làm thân loài trùng trong nước?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia do ngu si thiếu trí, không có tâm tuệ, khi sắp chết rất khổ sở vì bệnh khát, hay ưa nghĩ nhớ đến nước. Khi qua đời, người ấy bị đọa trong đường ác, làm thân các loài vật ở trong nước như các loài cá. Khi còn thân trung ấm, người ấy thấy các thứ nước liền sinh tâm chạy đến đó. Do thủ làm nhân duyên cho hữu, nên thân trung ấm ấy có một phần trong đó. Vì đời trước không thực hành bố thí, trì giới, nên người ấy sinh trong nước, miệng luôn khô khan, giống như chạm vào tro lửa. Đó là do nghiệp ác gây ra từ đời trước.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết rõ quả báo của nghiệp, lại quán xét các loài súc sinh thuộc chim bay? Vì nghiệp gì mà chúng bay trên không trung, không bị chướng ngại?

Vị ấy dùng văn tuệ, quán ba loại thần thông:

  1. Thần thông giải thoát.
  2. Thần thông thân hành.
  3. Thần thông tâm tự tại.

Người giải thoát, theo sự nhớ nghĩ của tâm, hoặc là chim đi trên đất, hoặc bay trên không cũng như đi trên đất, đều không phải là pháp giải thoát. Sức thần thông của chư Phật Như Lai đi đâu tùy ý với ba loại ấy. Ba loại ấy là sức thần thông thù thắng vi diệu của bậc Thánh.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét về các loài súc sinh. Thế nào là quán về địa ngục, súc sinh, trời, người, các loài chim bay thú chạy đi dưới nước, đi trên không, đi trên đất?

Vị ấy dùng văn tuệ, quán xét trong địa ngục với vô số khổ não. Có hai loại súc sinh: Có loại thuộc chúng sinh, có loại không thuộc chúng sinh.

Loại thuộc chúng sinh, nghĩa là sinh vào chốn ngục kia bị thiêu đốt khổ não.

Loại không thuộc chúng sinh, là những tội nhân trong địa ngục do tâm điên đảo thấy trên hư không có các loại chim lớn đang bay liệng, vui chơi, tâm liền sinh nhớ nghĩ, muốn sinh vào chốn ấy. Theo tâm niệm đó mà được sinh, làm thân chim bay, chịu đủ khổ não trong địa ngục như trên. Do quả báo của nghiệp ác mà sinh trong địa ngục, thấy những con sư tử hình dáng rất đáng sợ cùng các loài hổ, báo, chim lớn, trùng dữ, trăn, rắn, những con có hình dáng đáng sợ ấy là loại không thuộc về chúng sinh, dùng các sự khủng bố để hại người nơi địa ngục. Loại không thuộc về chúng sinh ấy, do nghiệp đã tạo khiến các tội nhân chịu khổ não cùng tột. Ở trong địa ngục, các súc sinh không chịu khổ não ấy là: sư tử, hổ, báo, trăn, rắn tạo sự não hại.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán về đường của các ngạ quỷ, có những súc sinh bị khổ về đói khát. Vị ấy liền dùng văn tuệ thấy trong đường ngạ quỷ có ba mươi sáu loại sinh trong loài chim bay. Từ trong cõi người chết đi sinh vào loài chim bay thọ thân các loài chim sát hại như chim cắt, cú, dứu, chim ưng. Từ loại chim, chết rồi, sinh vào thế giới của ngạ quỷ, làm thân chim đói, bị đói khát thiêu đốt thân, hay mổ vào mắt ngạ quỷ, móc mắt ra, hoặc phá cho bể đầu để ăn não. Mắt, não, tủy của ngạ quỷ nóng như đồng nung, bị các chúng sinh này cùng nhau đến giành ăn. Đó là do nghiệp ác.

Tỳ-kheo như vậy, quán chim trong cõi ngạ quỷ rồi, liền dùng kệ quở trách:

Nghiệp nóng bị quả nóng
Chịu các khổ não lớn
Thế nên phải lìa bỏ
Nghiệp ác bất thiện ấy.
Chớ nên tạo nghiệp ác
Tham, ganh hủy hoại mình
Nếu ai tạo tham, ganh
Đọa súc sinh, ngạ quỷ.
Cùng sát hại lẫn nhau
Hoặc đánh đập, trói nhốt
Làm súc sinh, ngạ quỷ
Nên xả bỏ ngu si.
Ngu si hoại tâm mình
Bỏ trì giới, bố thí
Bị ái dối mê hoặc
Đọa vào đường súc sinh.
Không biết việc đúng sai
Ăn vật không nên ăn
Làm điều không nên làm
Không hiểu pháp, phi pháp
Năm căn si không hiểu
Chỉ tạo nghiệp súc sinh.

Như vậy là Tỳ-kheo quán xét các loài súc sinh chỉ có một nghiệp. Khi bị trói buộc theo thời gian trong nẻo luân hồi sinh tử, trải qua vô lượng trăm ngàn năm làm thân súc sinh, bị vô lượng trăm ngàn lưới khổ vây bủa cũng là một nghiệp. Nói là một nghiệp súc sinh nhưng có vô số nhân duyên, nối tiếp bị tham dục ràng buộc không gián đoạn. Sinh trong biển lớn sâu mười do-tuần, làm thân loài cá lớn ma-kiệt, hoặc loài ốc, trai, sò, cá đề-di-nghê-la, cá na-cathố… chúng đều sợ hãi lẫn nhau, thường đe dọa tạo mọi sợ sệt làm nhiều dâm dục. Vì ngu si nên làm theo những điều phi pháp, tà hạnh, không biết việc nào nên làm, chỗ nào không nên đi. Sống trong biển lớn bị khổ về nước nóng, luôn lo ngại về đói khát, tàn hại lẫn nhau, khủng bố lẫn nhau. Nếu ai gây nhiều ngu si thì sinh trong biển lớn sâu vạn do-tuần, làm thân độc long sân giận, gây khổ lẫn nhau. Vì tâm sân, tâm loạn mà phun độc tàn hại nhau tạo ra nhiều nghiệp ác. Thành của rồng ở tên là Hý lạc. Thành ấy ngang dọc ba ngàn do-tuần, trong đó có rất nhiều Long vương. Có hai loại Long vương:

  1. Long vương hành theo pháp.
  2. Long vương hành theo phi pháp.

Loại một thì ủng Hộ thế gian. Loại hai thì phá hoại thế gian.

Trong thành đó, chỗ ở của Long vương hành theo pháp không có mưa cát nóng. Còn chỗ ở của Long vương hành theo phi pháp thì thường có mưa cát nóng. Nếu cát nóng dính nơi đỉnh đầu thì nóng như lửa cháy, thiêu đốt cả cung điện và hết thảy quyến thuộc của chúng đều chết sạch. Chết rồi thì sống trở lại.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét về khổ não do mưa cát nóng của thế giới loài rồng. Vì nghiệp gì mà thọ quả báo này?

Vị ấy liền dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia khi làm người là một kẻ ngu si, do tâm sân hận mà thiêu đốt phòng xá của chúng Tăng và xóm làng, thành ấp của người khác. Kẻ ác này sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục chịu vô lượng thống khổ. Ra khỏi địa ngục, sinh vào loài rồng, do đời trước dùng lửa đốt xóm làng người, đốt phòng xá của Tăng mà nay làm thân súc sinh bị cát nóng nung đốt.

Lại nữa, Tỳ-kheo quán thế giới của loài rồng, vì nghiệp gì mà sinh vào chốn đó? Vì nhân duyên gì mà không bị cát nóng đốt, hại?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia do đời trước học các giới tà nơi ngoại đạo thế gian, làm việc bố thí mà không thanh tịnh, tạo bảy thứ bất tịnh như trên đã nói, do tâm sân giận mà nguyện sinh vào loài rồng. Người ấy sau khi qua đời bị đọa vào thành Hý lạc, làm thân Long vương. Sinh vào thành ấy rồi thì tâm sân bớt dần, nhớ nghĩ đến phước đức, tùy thuận thực hành theo chánh pháp, nên thân của Long vương ấy không bị khổ vì cát nóng.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quan sát thế giới của loài rồng. Vì nghiệp gì mà Long vương hành theo pháp sinh vào thành Hý lạc. Thành này hình tướng ra sao?

Vị ấy dùng văn tuệ, quan sát thành Hý lạc, chỗ ở của Long vương hành theo pháp có thành quách bằng bảy báu, với ánh sáng của châu báu bảy màu. Trong những ao nước có đủ các loại hoa như hoa Ưu-bát-la… với thức ăn tô-đà, hưởng đủ hoan lạc, có vòng hoa hương, chuỗi anh lạc, hương bột, hương thoa dùng trang sức nơi thân, có nhiều thần thông, nhớ nghĩ điều gì đều được như ý muốn. Nơi đỉnh đầu của rồng có đầu hình long xà. Các Long vương hành theo pháp ở trong thành ấy gồm: Long vương bảy đầu, Long vương mặt voi, Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đắc-xoa-ca, Long vương Bạt-đà-la (đời Ngụy dịch là Hiền long), Long vương Lô-hê-đa (đời

Ngụy dịch là Xích Long), Long vương Bát-ma-thê, Long vương Vân Man, Long vương A-bạt-đa, Long vương Nhất Thiết Đạo, Long vương Bát-bà-ha (đời Ngụy dịch là Nhẫn Long). Nhờ tâm thiện tùy thuận hành theo chánh pháp mà các loài rồng này có phước đức như vậy. Chúng mưa đúng thời khiến cho năm thứ lúa thóc hoa màu (ngũ

cốc) trong thế gian luôn được mùa dồi dào, an ổn, sung túc, không có những trận mưa đá. Do tin Phật, Pháp, Tăng, thuận hành theo đúng pháp, giữ gìn xá-lợi Phật, nên các Long vương ấy không bị khổ não cát nóng, lại được an vui bậc nhất. Chúng tuôn những trận mưa lành xuống bốn cõi thiên hạ là Diêm-phù-đề, Cù-đà-ni, Phất-bà-đề và Uất-đan-việt. Nếu mọi người thuận theo pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, tu hành theo chánh pháp thì khiến cho Long vương hành theo pháp tăng thêm sức mạnh lớn, nhờ pháp vượt hơn nên tuôn xuống những cơn mưa nhẹ, giúp cho ngũ cốc tốt tươi, có đủ sắc, hương, vị, không có các tai họa, hoa quả dồi dào, các loại hoa tốt đẹp, ánh sáng mặt trời, mặt trăng trong suốt, oai đức sáng sạch. Long vương ấy có phước đức như vậy nên không phun gió độc.

Người ở cõi Diêm-phù-đề có bốn lý do khiến bị chết nhiều:

  1. Đói khát.
  2. Chiến tranh.
  3. Gió độc.
  4. Mưa dữ.

Nếu các thế gian tùy thuận theo đúng pháp mà thực hành, tu các phước đức, thì Long vương hành theo pháp tăng thêm sức mạnh lớn, không bủa mây dữ, tuôn mưa dữ, không có gió độc, các sông nước chảy điều hòa, lúa gạo tốt, nhiều, trái to vị ngọt, đủ sắc hương vị, ăn vào không bệnh, xa lìa các khổ não, đói khát, đầy đủ sắc, lực, bốn đại an ổn, tu hành các nghiệp thiện. Do hành nghiệp thiện nên giữ gìn quả thiện ấy, ruộng vườn xanh tươi, Long vương hành theo pháp tuần tự ủng hộ những chúng sinh thuận theo chánh pháp tu tập nghiệp thiện.

Quán cõi Diêm-phù-đề rồi, vị ấy quán cõi Cù-đà-ni. Long vương thuận theo pháp đã ủng hộ người Cù-đà-ni như thế nào?

Tâm của chúng sinh ở cõi Cù-đà-ni mềm dịu, chỉ có một nghiệp ác là lấy nước đục uống nên bị chết yểu. Long vương thuận theo pháp không mưa nước đục vào cõi này. Người cõi Cù-đà-ni được uống nước trong sạch nên không có bệnh. Đó là nhờ uy lực của rồng.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét Long vương hành theo pháp ở cõi Phất-bà-đề đã đem lại an vui như thế nào?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia ở cõi Phất-bà-đề, nếu nghe tiếng sấm hoặc thấy ánh sáng của sấm, do tâm mềm yếu nên đều bị bệnh khổ. Long vương hành theo pháp ở thế giới ấy không tạo ra tiếng sấm, không phóng ánh sáng của sấm chớp, khiến cho người cõi Phất-bà-đề không gặp bệnh khổ. Đó là uy lực của rồng.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét người ở cõi Uất-đan-việt vì sao bị suy não?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết người ở cõi Uất-đan-việt, nếu gặp mây đen, gió lạnh thổi làm cho hoa thơm không nở. Khi thấy hoa khép lại, người nơi cõi ấy ưu não vì biết mây đen nổi lên. Núi Tănggià-xa có tiếng chim kêu ghê tợn, các thứ tiếng nơi âm nhạc đều nghe rất dở, ở chỗ của rồng ác đều bị suy não như vậy. Long vương hành theo pháp không dùng mây đen gió lạnh thổi dạt vào bốn cõi thiên hạ. Long vương hành theo pháp lấy việc an lạc để làm lợi ích cho chúng sinh.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét thế giới của loài rồng, những rồng ác nào không tùy thuận hành theo pháp?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các rồng ác trong thành Hý lạc không hành theo pháp. Tên của chúng là Long vương Ba-la-ma-thê (đời Ngụy dịch là Não loạn), Long vương Tỳ-khám-lâm-bà (đời Ngụy dịch là Phấn Tấn), Long vương Ca-la (đời Ngụy dịch là Hắc Sắc), Long vương Hầu-lâu-hầu-lâu (đời Ngụy dịch là Đa Thanh), sống nơi thành Hý lạc trong biển.

Vì sao những rồng ác hành theo phi pháp này tăng trưởng sức mạnh? Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh kia do hành pháp bất thiện, không hiếu thuận cha mẹ, không kính các Sa-môn, Bà-la-môn, nên những rồng ác như vậy tăng trưởng sức mạnh, sống trong cõi Diêm-phù-đề mang thân hung tợn, vì tâm ác mà chúng nổi lên mây mưa dữ. Chỗ nào có mưa thì sinh cây độc dữ, gió dữ thổi vào cây, khí độc thì nhập vào nước khiến nước hòa lẫn với chất độc, làm cho tất cả ngũ cốc đều bị thấm độc. Nếu ai ăn vào đều bị bệnh khổ, chất dinh dưỡng của ngũ cốc bị tiêu dần nên con người bị chết yểu. Long vương ác ấy do tâm ác mà giáng xuống những tai họa sát hại lẫn nhau. Vì ác ấy nên người cõi Diêm-phù-đề đều bị hủy diệt. Đó là do rồng hành theo phi pháp tạo ra các điều ác.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét Long

vương có sức mạnh lớn tự tại. Vì sao Long vương hành theo ác phi pháp dùng các thứ suy nạn làm khổ người cõi Cù-đà-ni?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết rồng ác phi pháp ở chốn hiểm trở, núi cao nơi cõi Cù-đà-ni, chúng tuôn những trận mưa lớn làm cho các sông đều ngập, đục. Người cõi Cù-đà-ni nếu ai uống vào thì do nhân duyên này mà bị suy tổn nặng, bị nhiều khổ não. Tỳ-kheo ấy đã thấu rõ đúng như thật khi quán về cõi Cù-đà-ni.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét cõi Phất-bà-đề. Vị ấy dùng văn tuệ, biết mọi người ở thế gian không tu theo chánh pháp, khiến cho thế lực của rồng ác tăng trưởng, tạo sấm sét dữ dội, giống như núi lớn sụp đổ. Người cõi Phất-bà-đề do tâm mềm yếu nên gặp nhiều bệnh khổ. Ánh sáng của sấm chớp tỏa khắp thế giới, giống như lửa đốt cháy dữ dội. Từ trong mây, rồng hiện ra với đôi mắt giống như bánh xe, thân đen, xấu, giống như núi đen. Cổ nó có ba đầu, trổ ra các hoa giống như tướng ngựa, hoặc thân rắn. Hiện ra những thân hung dữ như vậy, khiến cho người ở cõi Phất-bàđề trông thấy đều bị suy não lớn.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét cõi Uất-đan-việt như cõi trời thứ hai. Vì sao rồng ác tạo suy não cho người ở cõi Uất-đan-việt?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết núi Tăng-già-xa ở cõi Uất-đan-việt như trước đã nói. Hoa sen thường nở, mùi thơm tỏa khắp, màu rất tươi đẹp. Người nước ấy ngửi nó, cảm thấy thích thú. Nếu người ở thế gian bất hiếu với cha mẹ, không cúng dường các Sa-môn, Bà-lamôn, bấy giờ Long vương ác do tâm tùy tiện, tăng trưởng thế lực, nổi những đám mây lớn giống như núi đen phủ khắp, che lấp ánh sáng mặt trời, thì hoa sen liền khép lại, không có mùi thơm, mất đi ánh sáng màu vàng ròng. Người cõi Uất-đan-việt thấy hoa khép lại thì buồn rầu lo sợ. Trong mây phát ra gió, thổi các âm thanh loạn xạ không đáng ưa thích. Thế lực của rồng ác trong bốn cõi thiên hạ đã làm suy não người nơi cõi Uất-đan-việt như vậy.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét trong bốn cõi thiên hạ có hơn, có kém. Vị ấy dùng văn tuệ quán sự hoan lạc, an ổn của cõi Uất-đan-việt vượt hơn ba cõi kia. Người cõi Diêmphù-đề hành theo pháp và phi pháp, do đó đối với sự khổ vui có tăng giảm so với ba cõi thiên hạ kia, làm tăng trưởng đất nghiệp, tu hành mười đạo thiện, có Phật ra đời, vì nhân duyên của cõi Diêm-phù-đề nên có bốn thiên hạ. Người cõi Diêm-phù-đề tư duy, tu hành mười đạo nghiệp thiện, lại có thể tu tập phạm hạnh. Trong thế giới ấy, phần nhiều thường tư duy, quan sát về sinh diệt. Nơi tòa kim cương của kim cương ấy, tất cả quốc độ thuộc cõi Diêm-phù-đề và ở thế gian đều không có. Chỗ tòa kim cương ấy rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần, Đức Phật đã an tọa nơi tòa này mà sinh tâm giác ngộ. Vì nhân duyên ấy, Đức Như Lai đã xuất hiện ở cõi Diêm-phù-đề, không ở cõi thiên hạ khác. Vì sao? Vì căn lành đã thành tựu, chứng Phật Bồ-đề. Núi chúa Tu-di hãy còn không thể giữ được, huống chi là đất ở chỗ khác. Vì nhân duyên này mà Phật ở cõi Diêm-phù-đề, không ở cõi khác. Thân người khó được, mà trong cõi Diêm-phù-đề nhờ tạo nghiệp lành nên được sinh nơi cõi người, do đấy mà cõi Diêm-phù-đề là tối thắng bậc nhất trong thiên hạ, chẳng phải cõi thiên hạ khác.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét thế giới của loại rồng. Vì nghiệp gì mà Long vương hành theo phi pháp đã ăn nuốt loài tôm tép, ăn đất cát, hít thở bằng gió?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết chúng sinh kia, khi làm người hay khinh khi, nhục mạ vợ con, một mình ăn món ngon vật lạ, vợ con rất thèm thuồng nhưng người kia vẫn ăn một mình no nê, còn lại thức ăn thừa thải mới đem cho vợ con. Người ác ấy, sau khi qua đời bị đọa làm loài rồng, ăn nuốt tôm tép, ăn cát và thở bằng gió, chịu quả báo tương tự với nghiệp đã tạo.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét thế giới của loài rồng. Vì nghiệp gì mà các loài rồng tuôn mưa? Lại vì nghiệp gì lại giáng xuống các tai họa mưa đá?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết rồng ác này ngậm độc sân giận, không tùy thuận hành theo pháp. Mỗi khi hai Long vương sân giận, tranh chấp thì nổi lên mây mưa dữ tợn, gió độc, giáng tai họa mưa đá khiến cho ngũ cốc tan nát, hư hoại, không thu hoạch được. Cũng do các chúng sinh hành theo phi pháp, khiến rồng ác sân giận cho nên xảy ra tai biến ấy.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét thế

giới của loài rồng. Vì sao chúng tuôn mưa đúng mùa xuống cõi Diêm-phù-đề làm thấm nhuần, tạo lợi ích cho lúa thóc, mía, mè, cây cối, núi rừng, đậu, đại mạch, tiểu mạch, khiến cho mọi hoa màu lúc thóc đều tươi tốt, dồi dào?

Vị ấy dùng văn tuệ thấy Long vương hành theo pháp, tuôn mưa đúng mùa để tạo lợi ích an lạc cho chúng sinh. Cũng do các chúng sinh tùy thuận hành theo chánh pháp mà Long vương hành pháp mưa hợp thời khiến cho đất nước được phồn vinh, an vui.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét tất cả loài rồng ở cung điện, có bao nhiêu rồng sống trong biển và sông nơi các dòng nước?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết cõi Diêm-phù-đề, nếu loài người không thuận hành theo chánh pháp thì có vô lượng rồng ở các dòng nước. Nếu loài người ở cõi Diêm-phù-đề tùy thuận hành theo pháp thì có năm mươi bảy ức rồng ở các dòng nước.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét thế giới của loài rồng. Vị ấy quán thành Hý lạc và rồng ở các dòng nước rồi, lại quán nơi đáy của biển lớn có bao nhiêu chúng sinh hiện sống ở đó.

Vị ấy liền dùng văn tuệ, biết nơi mặt đất trong biển lớn có loài oán địch của chư Thiên là A-tu-la. A-tu-la lược nói có hai loại:

  1. Thuộc về quỷ.
  2. Thuộc về loài súc sinh.

A-tu-la thuộc quỷ là ngạ quỷ thân ma có sức thần thông. Còn A-tu-la thuộc loài súc sinh thì ở nơi đáy biển lớn, cạnh núi Tu-di, nơi vùng thấp của biển rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần. Lược nói có bốn vùng:

Vùng thứ nhất có hai vạn một ngàn do-tuần, là chỗ của A-tu-la vương La-hầu. A-tu-la vương La-hầu này ở trong Dục giới có thể hóa thân lớn nhỏ tùy ý, là do uy lực của người hành thiện hay bất thiện. Bấy giờ, A-tu-la suy nghĩ: “Ta sẽ đến quan sát chỗ vui chơi trong vườn rừng của kẻ địch, cùng các thể nữ dạo xem, tha hồ thọ lạc”. Nghĩ như vậy rồi, A-tu-la liền dùng các loại châu ngọc đại thanh, ngọc Ba-đầu-ma, ngọc quang minh uy đức, hoặc dùng vàng ngọc năm màu, ngọc đỏ, cùng những y phục đủ màu sắc nào xanh, vàng, đỏ, đen, tất cả để tạo vẻ oai nghiêm đẹp đẽ nơi thân, cũng là áo giáp, ánh sáng rực rỡ. Lúc này thân tướng của A-tu-la vương cao lớn như núi chúa Tu-di. Ngọc báu khắp thân phát ra ánh sáng lớn xen đủ màu sắc, nên sinh tâm đại kiêu mạn, cho rằng không ai sánh bằng, muốn các Thiên nữ, các nữ A-tu-la yêu kính thân mình. A-tu-la vương từ trong thành đi ra, thành ấy tên là Quang minh, ngang dọc tám ngàn do-tuần, có vô lượng rừng báu, sông suối, ao hồ, cỏ cây, các loại hoa sen để tạo sự trang nghiêm. Đầu A-tu-la vương đội vòng hoa, thân xoa đủ loại hương thoa, hương bột, từ nơi đây nghĩ đến chốn vui chơi trong vườn rừng của cõi trời. Nếu người nơi cõi Diêmphù-đề không thực hành theo chánh pháp, không hiếu dưỡng với cha mẹ, không kính các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các bậc tôn trưởng, không dựa theo pháp để tu tập, không phụng thờ Tam bảo, không quán các pháp thiện và bất thiện thì uy lực của chư Thiên đều bị giảm sút.

Trời Tứ Thiên vương lần lượt nói với nhau:

–Tất cả hãy chạy tránh xa, coi chừng A-tu-la vương La-hầu là sư tử con đến giết chúng ta.

Nếu người ở cõi Diêm-phù-đề tu hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, cúng dường các vị Sa-môn, Bà-lamôn, tôn kính bậc trưởng lão, thì uy lực chư Thiên được tăng trưởng.

Bấy giờ, Tứ Thiên vương lấy các thứ y phục quý giá mặc vào người, xoa hương thoa, hương bột, lập tức đến chống cự với A-tu-la vương La-hầu sư tử con. Trong hư không tuôn xuống trận mưa đao kiếm, tất cả chúng trời đều sinh tâm vui mừng, đi đến cạnh núi Tu-di la to. Nếu vua trời không xuất hiện mà A-tu-la vương muốn xem vườn rừng vui chơi, thì hàng trăm ngàn tia ánh sáng mặt trời tỏa chiếu lên những vật trang sức nơi thân càng chói lòa, che lấp mắt Atu-la vương, nên không sao thấy được chốn chư Thiên vui chơi, thọ lạc trong vườn kia.

Lúc này A-tu-la vương La-hầu suy nghĩ: “Mặt trời che mắt ta, khiến ta không thể nhìn thấy các thể nữ ở cõi trời. Ta sẽ dùng tay che vòng ánh sáng của mặt trời, như thế mới có thể thấy các Thiên nữ được!”.

A-tu-la vương liền giơ tay phải che vòng ánh sáng của mặt trời,

mong muốn được thấy sắc đẹp dịu dàng, đáng yêu của các Thiên nữ. Nơi tay phát ra bốn loại ánh sáng, như trước đã nói. A-tu-la vương đang đứng trong biển thì nước ngập tới eo lưng. Ánh sáng của các thứ châu báu đủ màu xanh, vàng, đỏ, đen cùng chiếu khắp. Khi A-tula vương dùng tay che mặt trời thì các Luận sư theo tà kiến trong thế gian đều có những dị thuyết nói là: “A-tu-la vương La-hầu ăn mặt trời”. Nếu mặt trời có màu đỏ, màu đen thì họ lấy hiện tượng ấy mà xem tướng thọ mạng của con người. Các nhà xem tướng không biết quả báo của nghiệp nên nói: “Hoặc là được mùa, sung túc, hoặc sẽ mất mùa, hoặc cho là có họa dữ, tai ương đến vua, hoặc nói là tốt đẹp vui vẻ.

Khi A-tu-la vương lấy tay che mặt trời rồi, thì thấy rõ chỗ vui chơi, ao hồ, vườn cây của chư Thiên. Thiên vương Đế Thích thấy vậy bèn lệnh cho chúng trời lo trang nghiêm cung điện, các Thiên tử thì dùng những vật báu trang sức nơi thân, đi đến chỗ A-tu-la vương Lahầu để chiến đấu. Thấy chúng trời, A-tu-la vương La-hầu liền trở về cung thành.

Lại nữa, Tỳ-kheo làm thế nào để quán về nguyệt thực? Vị ấy dùng văn tuệ biết các vị quan quyến thuộc của A-tu-la vương La-hầu đi trên biển, thấy mặt trăng thường dạo chơi trên đỉnh núi Ưu-đàdiên, trong cõi Diêm-phù-đề. Trăng sáng trong như Tỳ-lưu-ly, tươi đẹp dịu dàng, vượt hơn ánh sáng bình thường cả trăm lần. Các quan quyến thuộc trông thấy rồi, liền đến chỗ A-tu-la vương La-hầu, thưa:

–Bạch đại vương! Mặt trăng tròn đầy, tươi đẹp giống như mặt của Thiên nữ.

Khi đó, nghe nói vậy, A-tu-la vương La-hầu liền sinh tâm ái dục, muốn thấy Thiên nữ nên lập tức đứng dậy, khao khát muốn thấy cho bằng được, A-tu-la vương La-hầu bèn dùng tay che lấy mặt trăng để mong thấy Thiên nữ. Lúc này, A-tu-la vương trang sức nơi thân mình với vô lượng các vật báu, như trên đã nói. Các vị thầy chú thuật trong cõi Diêm-phù-đề chú nguyện:

–Tất cả những thứ xấu ác nơi các xóm làng, thành ấp trong quốc độ sẽ mau diệt trừ, tất cả các thứ xấu ác nơi đất đai trong thế gian sẽ mau được diệt trừ. Tất cả những điều xấu ác trong hàng Bàla-môn sẽ mau được diệt trừ.

Nếu mặt trăng có màu đen, màu vàng thì các thầy xem tướng trong thế gian nói:

–Sẽ được mùa hoặc sẽ mất mùa. Vua sẽ bị hung nguy hoặc được vui vẻ. Binh đao nổi lên dữ dội hoặc không nổi lên, bình yên.

Các cõi Cù-đà-ni, Uất-đan-việt, Phất-bà-đề thì tùy theo vùng thấy mặt trăng bị ăn chứ không phải nói theo tà kiến.

Do nhân duyên này nên mặt trời, mặt trăng bị ngăn che, cho là “Mặt trăng bị ăn”. Lại nữa, nhân duyên thứ hai che lấp mặt trời, mặt trăng: Khi trời tuôn ra những âm thanh lớn vang động khắp A-tu-la vương La-hầu đang ở nơi biển cả.

Bấy giờ, các quan quyến thuộc tâu:

–Đại vương! Thiên chủ Kiều-thi-ca có các công đức của chư Thiên, đầy đủ năm dục, với các quyến thuộc vây quanh, vui vẻ thọ lạc. Ông ta hiện đang ở Thiện pháp đường, trong thành Thiện kiến, trên đỉnh núi Tu-di. Thiên chủ Kiều-thi-ca là chủ của chư Thiên. Đại vương nay được chúng tôi tôn kính, ngài có sức mạnh lớn, thần thông vượt trội hơn Kiều-thi-ca và có thể thống lãnh các quan quyến thuộc đến đánh Thiên chủ, tiêu diệt thành Thiện kiến ấy.

A-tu-la vương nghe lời tâu ấy liền phấn chấn, ra vẻ oai vệ, nổi giận đi ra khỏi thành Quang minh, gầm lên như tiếng sấm sét. Các vị thầy tướng nơi các nước trong cõi Diêm-phù-đề cho là loài thú của cõi trời rống. Họ cho hiện tượng như vậy là phồn vinh, vui vẻ, an ổn không ai bằng; hoặc cho là tai họa bị mất mùa, ngũ cốc hiếm hoi; hoặc bảo là vua sẽ chết; hoặc nói là điều vui, linh ứng tốt đẹp; hoặc cho là binh đao nổi lên, không nổi lên trong cõi nước; hoặc bảo là dân chúng an lạc, không có biến đổi gì; hoặc nói phải trai giới thanh khiết, phải lễ bái thần để cầu phước.

Khi ấy, A-tu-la vương La-hầu suy nghĩ: “Ta lưu giữ các châu báu này lại trong thành để chiếu sáng cho các con ta. Nếu không có châu báu thì không có ánh sáng. Trên trời cũng vậy, có mặt trời, mặt trăng mới có ánh sáng. Nếu không có mặt trời, mặt trăng thì thế gian sẽ tối tăm. Ta nay hãy che mặt trời, mặt trăng lại, khiến cho cả trời đất đều đen tối”. Suy nghĩ như vậy xong, A-tu-la vương đi ra khỏi thành, lấy một tay che lấp vòng ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Những người ngu, các thầy xem tướng trong thế gian đều nói về tai ương và tốt lành, như trước đã nêu. A-tu-la vương lại dùng một tay sờ vào đỉnh núi Tu-di, muốn cùng với chư Thiên chiến đấu một mất một còn.

A-tu-la ấy là súc sinh thiếu trí, thấy các hiện tượng quang minh oai đức, trang nghiêm thù thắng của cõi trời thì tâm sinh nghi ngờ, hối hận, trở về chỗ cũ ở thành Quang minh. Đó là nhân duyên thứ hai khiến mặt trời, mặt trăng bị che lấp, khiến chúng gọi là bị ăn, âm thanh nơi cõi trời gầm vang chấn động.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét dục lạc mà đại vương A-tu-la La-hầu thọ hưởng. Vị ấy dùng văn tuệ, quán bên trong thành nơi A-tu-la ở. Thành được trang nghiêm bằng vô số thứ châu báu, nằm bên cạnh sườn núi Tu-di, sâu hai vạn một ngàn do-tuần, rộng tám ngàn do-tuần, có ao hồ, hoa sen, cây cối tươi tốt, đất bằng vàng ròng, màu giống ánh sáng điện chớp. Cung điện, nhà cửa, lầu gác đều bằng vàng, cây bằng san hô báu treo các linh quý phát ra âm thanh vi diệu, có các thứ âm nhạc tạo mọi vui thích thọ lạc. Trong mỗi mỗi ao đều có những hoa bằng vàng để tôn vẻ trang nghiêm. Có các loài chim như: chim nhạn, chim uyên ương… đều trang sức bằng vàng ròng, ai thấy cũng đều ưa thích, giống các loài chim của chư Thiên. Mỏ chim bằng ma-ni, chúng vui vẻ dạo chơi khắp chốn, có đủ thứ màu sắc của bảy báu có cánh bằng tỳ-lưu-ly xanh, vui đùa vô cùng đáng yêu giữa các lầu gác, lan can; phát ra những âm thanh vi diệu, ai nghe cũng đều vui thích. Tất cả các loại chim khác cũng vậy, đều sạch sẽ, đẹp đẽ. Thành ấy có rất nhiều cây, hoa, hoa sen để tạo sự tươi đẹp và có bốn khu vườn rừng, cây cỏ hoa lá đều bằng vàng ròng, mỗi mỗi khu vườn rừng ngang dọc cả trăm do-tuần. Bốn khu vườn rừng là:

  1. Du hý.
  2. Đam lạc.
  3. Nga trú.
  4. Câu-chỉ-la.

Bốn khu vườn rừng này luôn sáng rỡ tô điểm cho thành. Mỗi khu vườn rừng có ba ngàn loại cây, như cây Theo ý nguyện, màu vàng ròng, như mây như ảnh, cành mềm dẻo, là chỗ của chim đậu, các hoa nở rộ, mùi thơm phảng phất khắp cả do-tuần, có nhiều đàn ong chứa đầy mật ngọt. Hoặc cây kim sắc, cây xuất ra suối rượu, cây Ngưu đầu chiên-đàn hương có màu như mây, cây Thất diệp hương, cây Chỉ-đa-ca, cây Tất-lị-ca, gió thổi nhẹ lay động, cây Mặc trầm thủy, cây Phổ nhãn hương, cây Minh đăng hương, cây Ma-ni hương, cây Hỏa sắc hương… Có đủ loại cây thơm như vậy, hoa luôn nở rộ, lúc nào cũng như mới nở. Lại có nhiều cây ăn quả… Ánh sáng tỏa ra từ là soi bóng xuống các dòng nước để làm tăng vẻ đẹp nơi ao suối, ai trông thấy cũng đều thích thú. Các loại cây ấy có loại mọc ở cõi Diêm-phù-đề, có loại mọc ở cõi Uất-đan-việt, có loại mọc ở thành Quang minh của A-tu-la vương. Cây có hoa, cây có trái, cây có rượu. A-tu-la vương đi dạo khắp nơi, vui vẻ thọ lạc, có các thể nữ vây quanh để mua vui. Đây là phiền não vì nhiễm đắm cái vui vô thường, không lâu bền, mau hư hoại mà lại cho là đất cam lồ, không chết.

A-tu-la vương có bốn thể nữ, tất cả đều do nhớ nghĩ mà có:

  1. Như ảnh.
  2. Chư hương.
  3. Diệu lâm.
  4. Thắng đức.

Bốn thể nữ này có mười hai na-do-tha thị nữ làm quyến thuộc, vây quanh A-tu-la vương, vui vẻ tình tứ, tha hồ thọ lạc, không thể ví dụ được. Do từ chỗ tạo nghiệp đã thành tựu mà A-tu-la vương có vô lượng ức chúng thể nữ vây quanh vui vẻ dạo chơi. Cung điện ngàn cột, phòng xá thẳng hàng, đều bằng châu báu.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp rồi, lại quán xét về A-tu-la vương La-hầu. Do nghiệp báo nào mà có được cảnh giới của A-tu-la? Tạo nghiệp gì mà đạt được quả báo như vậy?

Kệ tụng:

Không nhân, thì không quả
Tạo nghiệp ắt hưởng báo
Như trồng cây được trái
Nghiệp lành sinh trời, người.
Nghiệp lành được quả vui
Thường ở trong trời, người
Nghiệp ác đọa ba đường
A-tu-la thì sao?
Nó đọa đường súc sinh
Vì sao thọ báo vui?
Thiếu trí không hiểu nổi
Vì sao lại như vậy?

Tỳ-kheo tư duy rồi, liền dùng văn tuệ quán xét về kiếp quá khứ xa xưa của A-tu-la. Vị ấy biết A-tu-la tu tập theo pháp của Bàla-môn nên có trí tuệ thông minh bậc nhất, rành rõ các kỹ thuật của thế gian, thích thực hành bố thí, ở nơi giữa đồng hoang bố thí các thức ăn uống, cây trái, suối mát, nước ngọt, phòng xá, giường chiếu. Lại ở ngã tư đường bố thí cho người bệnh, người đi đường, khách buôn, kẻ đui mù, bần cùng; bố thí nhà cửa, thức ăn uống, giường chiếu, tất cả đều đầy đủ, nhưng không chánh kiến. Bấy giờ, ở rừng Di-thê-la có ngôi Tăng-già-lam ngang dọc hai mươi do-tuần, trong chùa ấy có vô lượng trăm ngàn tháp Phật, trang nghiêm bằng bảy báu. Chùa do năm trăm vua lớn như vua Nê-di… cùng nhau xây dựng để tạo phước, ở đó có một tháp, dùng vàng ròng, anh lạc, những vòng hoa đẹp, bảy báu để tôn vẻ nghiêm trang. Các vị vua này đã từng nghe danh hiệu của chư Phật nên vẽ ra hình ảnh Như Lai có nhiều vườn cây, ao hồ, suối mát tươi đẹp, như trên đã nói. Trong cõi Diêm-phù-đề bấy giờ cũng có rừng cây như của vua La-hầu A-tu-la và trang nghiêm tháp Phật, các dòng nước, hoa sen vi diệu, các chim… đều như trên đã nói.

Bấy giờ, có Bà-la-môn tên Bà-lợi, chuyên tụng luận Tỳ-đà, tạo nhiều phước đức. Bà-la-môn ấy dùng bốn ngàn cỗ xe chở các thứ thức ăn uống đến vùng đồng hoang để bố thí cho những người đi đường cần dùng. Ông ta liền thấy một tháp Phật cao hai do-tuần, rộng năm mươi dặm, có kẻ ác dùng lửa đốt tháp rồi bỏ đi. Thấy tháp bị đốt, Bà-la-môn suy nghĩ: “Nay ta hãy gác việc bố thí cầu phước đức này lại để cứu tháp của Như Lai rất là trang nghiêm kỳ diệu, chạm trổ tinh xảo, rộng lớn hiếm có. Ta nên dập tắt ngọn lửa này để tháp không bị cháy hư hoại. Nếu ta không cứu tháp, vua biết được thì sẽ phạt nặng, cho là không có lòng tin chân thật, không có tâm tôn kính”. Suy nghĩ như vậy, ông ta liền dùng bốn ngàn cỗ xe chở nước đến dập tắt ngọn lửa kia. Khi lửa tàn rồi ông ta mỉm cười nói:

–Ta cứu tháp này là có phước đức hay không phước đức? Nếu có phước đức, nguyện đời sau ta được thân tướng cao lớn, trong cõi dục không ai sánh bằng.

Tuy nguyện như thế nhưng ông ta vẫn không tin, không chánh tư duy, cứ thích tranh chấp, không tin nơi chánh nghiệp. Do diệu lực của ruộng phước mà ông ta sinh làm A-tu-la vương trong thành Quang minh.

Lại nữa, Tỳ-kheo quán chỗ ở thứ hai của A-tu-la vương La-hầu như thế nào?

Vị ấy dùng Thiên nhãn với trí tuệ, quán xét chỗ ở thứ hai của A-tu-la vương ngang dọc một vạn ba ngàn do-tuần, có vườn cây, ao tắm với rất nhiều hoa sen, nơi vui chơi có đủ các loại chim khác nhau để tạo sự trang nghiêm. Thành của A-tu-la đất bằng vàng ròng, chỗ nào cũng đầy châu báu ma-ni, ngọc kha bối, nên oai nghiêm, tráng lệ. Có nhiều thể nữ đẹp đẽ, thùy mị đi dạo. Nơi chốn A-tu-la vương La-hầu thống lãnh không có tranh chấp, kiện tụng, theo ý nhớ nghĩ đều có thể đạt được. Cảnh giới của A-tu-la ở có mười ba chốn:

  1. Già mê.
  2. Dũng tẩu.
  3. Ức niệm.
  4. Châu anh.
  5. Phong tuyền.
  6. Xích ngư mục.
  7. Chánh tẩu.
  8. Thủy hành.
  9. Trụ không.
  10. Trụ sơn quật.
  11. Ái trì.
  12. Ngư khẩu.
  13. Cộng đạo.

Nếu mọi người trên thế gian không hiếu dưỡng cha mẹ, không cúng dường các vị Sa-môn, Bà-la-môn, không hành theo chánh pháp, thì chúng các cõi trời tổn giảm, còn chúng A-tu-la thì tăng trưởng.

Còn nếu mọi người trên thế gian cúng dường các Sa-môn, Bà-lamôn, hiếu dưỡng cha mẹ, hành theo chánh pháp thì chúng A-tu-la tổn giảm, chúng trời tăng trưởng. Vì hai nhân duyên là chánh pháp và phi pháp nên khiến cho chư Thiên và A-tu-la tăng trưởng hoặc tổn giảm.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét cảnh giới của A-tu-la vương La-hầu ở, cùng quán các pháp quả báo của nghiệp nơi A-tu-la.

Vị ấy dùng văn tuệ biết chúng sinh kia thấy người bắt cá, đặt lưới bủa vây, ngăn bắt. Vì tạo lợi ích cho chúng sinh, muốn chúng được sống, người kia phá bỏ bờ đập ngăn cá, hoặc dùng uy lực bắt mọi người phải phóng sinh, hoặc vì lợi ích cho mình, hoặc cầu tiếng khen, hoặc vì vua, đại thần mà ngăn chận việc sát sinh, hoặc vì bảo vệ chủng tộc, do đời trước đã học tập, tu hành theo pháp bất sát, nhưng lại không làm những việc thiện. Sau khi qua đời, người kia sinh vào đường A-tu-la, làm thân A-tu-la, thọ mạng lâu dài, trải qua năm ngàn năm. Một ngày đêm của cõi A-tu-la đối với nhân gian là năm trăm năm. Làm thân A-tu-la như vậy đủ năm ngàn năm, thêm ít nhưng giảm nhiều, cũng có những người chết yểu nửa chừng vì tâm ở bậc hạ, bậc trung. Nhờ năng lực của nhân duyên đó mà có thân tướng oai đức, theo nghiệp dẫn đến việc thọ quả báo. Tỳ-kheo nên biết, quán tâm của chúng sinh có nhiều sự tin hiểu khác nhau.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét cõi của A-tu-la vương La-hầu sống nơi đáy biển lớn.

Vị ấy dùng văn tuệ với trí lanh lợi, thanh tịnh bậc nhất, quán vùng thứ hai nơi đất thấp có vùng tên Nguyệt man, dưới chỗ A-tu-la vương La-hầu khoảng hai vạn một ngàn do-tuần, có A-tu-la vương tên Đà-ma-hầu (đời Ngụy dịch là Cốt yết), A-tu-la vương tên Hoa Man, cũng có thành lớn tên Song du hý, ngang dọc tám vạn do-tuần, có vườn rừng tươi tốt, ao tắm trong mát đầy hoa sen để tăng vẻ trang nghiêm, có núi vàng cao vút, thung lũng tối sâu, với nhiều chim thú, xung quanh đều được tô điểm đẹp đẽ. Đất bằng lưu ly xanh, trên đất cỏ mọc xanh rờn, tiếng chim hót phát ra âm thanh hòa nhã. Tất cả chúng A-tu-la đều ở trong thành ấy. Cõi nước phồn vinh, giàu có, an lạc. Cảnh quan xung quanh đều đặc biệt, rất vừa ý. Có rừng cây bảy báu, khu vườn lầu gác đều xinh xắn, như trước đã nói. Các loại cây ở đây đều kỳ lạ, gấp bội ở trước, như cây Na-già-long, cây Vô-ưulong, cây Đà-bà, cây Khư-đề, cây Vô-ưu-lực. Lại có các loại cây vượt hơn các cây trên, như: cây Dạ quang, cây Dạ khai phu, cây Bàcứu-tra, cây Ni-đơn-đa, cây Trùng hoa, cây Phổ ái, cây Tập hoa, cây Phần hoa, cây Nhu nhuyến hoa, cây Ngũ tuế hoa, cây Phong ái lạc hoa, cây Cù-lưu-cù-lưu-âm-thanh, cây Chúng điểu du hý, cây Bạch xỉ, cây Na-la-diệp. Nơi thành Song du hý có bốn ngọn núi màu vàng ròng:

  1. Núi Hoan hỷ.
  2. Núi Kim diễm quang.
  3. Núi Bất kiến đảnh.
  4. Núi Khả ái quang.

Các núi ấy cao rộng năm ngàn do-tuần, có nhiều loại cây, có suối chảy, ao tắm, nước sông trong mát, có nhiều bầy thú khác nhau với đủ thứ màu sắc, tùy theo màu sắc ấy mà cùng nhau dạo chơi, cũng như nhiều thể nữ vui vẻ đi dạo thọ lạc. Nhiều nhà cửa lầu gác đều dùng các vật báu để tô điểm, cùng với các loại cây như ngưu đầu chiên-đàn, gió thổi tỏa mùi thơm lạnh mát, chạm vào thân cảm thấy dễ chịu. Các Thiên nữ thường dạo chơi trong rừng thơm, đùa giỡn để tự vui. Châu báu phát ra ánh sáng không vật gì ngăn che được. Có nhiều loại hoa tươi đẹp dùng để trang sức trên thân, lại có vô lượng trăm ngàn âm thanh của chim khổng tước. Chỗ đại A-tu-la vương thống lãnh, lạnh-nóng luôn thích hợp, điều hòa, mọi người luôn vui vẻ, sống an lạc. Các thứ âm thanh của kỹ nhạc thường hòa tấu cùng với ca múa, vui đùa để tự tạo mọi vui thích. Trong thành Tinh man có con sông lớn rộng năm trăm do-tuần, là sông trong sạch bậc nhất, nước ngọt hơn hết, không có bùn nhơ, không cấu uế ngầu đục, luôn tràn đầy, không hề vơi, xinh đẹp đáng yêu, giống như mặt trăng rằm. Thành Tinh man còn có ao tên Nhất thiết quán kiến có nhiều uy lực, như A-tu-la vương Đà-ma-hầu muốn chiến đấu để biết được thắng bại thì A-tu-la vương này trang bị binh khí, đao gậy đến đứng xung quanh bờ ao, tự nhiên hiện lên thân tướng mình trong ao thì sẽ biết được cuộc chiến đấu thắng hay bại. Ao ấy giống như mặt gương trong sáng, tự thấy rõ mình sẽ bỏ chạy, chư Thiên chắc chắn thắng. Nếu ao ấy hiện lên tướng mình nằm nghiêng thì biết là tướng chết. Lúc này A-tu-la vương Đà-ma-hầu, A-tu-la vương Dũng Kiện, tự thấy thân mình hiện ra trong ao với tướng bỏ chạy, hoặc ngã xuống. A-tu-la vương suy nghĩ: “Sự việc này như thế nào mà trong ao hiện lên tướng như vậy? Ta chiến đấu với chư Thiên mà ta lại thoái chạy và ngã xuống?”. A-tu-la vương liền trở về trú xứ của mình.

Đến mười năm, một trăm năm hay năm trăm năm sau, bấy giờ A-tu-la vương Dũng Kiện đem các binh khí như mâu, giáp… cùng những thứ hương xoa, hương bột, vòng hoa… trang sức nơi thân, đến ao Nhất thiết quán kiến để xem lại mình, vì sao mà phải bị hủy hoại? Khi đó, A-tu-la vương liền thấy trong ao hiện lên cảnh người trong cõi Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn, tu hành theo chánh pháp, thích sinh lên cõi trời, sau khi mạng chung, họ đều sinh vào các cõi trời, cho nên chúng trời được tăng trưởng, còn chúng A-tu-la thì bị tổn giảm dần, do đấy trong ao đã hiện ra lên tướng như vậy.

Bấy giờ, A-tu-la vương Đà-ma-hầu, A-tu-la vương Dũng Kiện suy nghĩ: “Do loài người tu hành, hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn, làm theo chánh pháp, nhờ uy lực đó nên trời đã có sức mạnh hơn cả. Nay ta sẽ tạo những việc không an lạc, không lợi ích cho loài người ở thế gian, để cho chư Thiên giảm kém, còn chúng ta thì được tăng trưởng”.

A-tu-la vương Đà-ma-hầu và Dũng Kiện lại suy nghĩ: “Nhờ vào con người nên chúng trời có được sức mạnh thù thắng. Nay ta phải làm thế nào để cho người ở thế gian mất hết các thức ăn uống, khiến cho cõi trời kia cũng bị hủy hoại, vì con người nhờ ăn uống mà được tồn tại, tu tập hành theo chánh pháp. Nay ta sẽ tìm cách để đoạn mất các thứ thức ăn của họ?”.

Suy nghĩ như vậy xong, hai A-tu-la vương liền đi đến chỗ Long vương xấu ác trong biển. Long vương ác này không tùy thuận hành theo chánh pháp, ngậm độc, nhiều sân, thường gây ra những suy tổn lớn, làm việc gì cũng đều không đem lại lợi ích cho ai cả. Vì thế hai A-tu-la vương tìm tới trú xứ của Long vương Não Loạn, Long Vương Phấn Tấn, Long vương Ca-la… Các Long vương này không tùy thuận hành theo chánh pháp. A-tu-la vương Đà-ma-hầu và Dũng Kiện đã đến chỗ các vua rồng, nói như vầy:

–Ngươi đối với người ở thế gian thích thú nhất là được tự do. Nay con người đã giúp đỡ chúng trời khiến ta bị tổn giảm. Con người nhờ ăn mà được sống, nay ngươi hãy vì ta mà hủy hoại các thức ăn của họ. Nếu ngươi làm như vậy thì con người không còn nữa, khi đã không có dân chúng thì chư Thiên sẽ bị tổn giảm. Cũng như các Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca, là oán thù lớn của ngươi, ta đối với chư Thiên cũng vậy, họ là thù địch của ta, ngươi có thể vì ta mà tiêu diệt loài người?

Lúc ấy, nghe hai A-tu-la vương Đà-ma-hầu và Dũng Kiện nói như vậy rồi, Long vương ác nói:

–Tốt lắm! Tôi sẽ kết bạn với ông, giống như hai cánh giúp đỡ nhau.

Thế rồi Long vương ác vào cung điện, nổi giận làm chấn động cả vùng nước lớn hàng trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, ba trăm dotuần, khiến đất nổi lên trên nước. Do nước chấn động nên mặt đất cũng chấn động. Long vương hành theo phi pháp làm chấn động đại địa như vậy, thì các Luận sư theo tà kiến trong thế gian đều nói:

–Hiện tượng này là đất nước sẽ bị tai họa về mất mùa, hoặc nói là sẽ giàu, vui, hoặc bảo là vua băng hà, đại thần bị tai ương, hoặc nói là điềm lành của vua, hoặc cho là sẽ có đao binh, hoặc nói sẽ được an ổn, hoặc sẽ bị tai họa về lũ lụt, hạn hán.

Các thầy xem tướng nơi thế gian giảng nói về hiện tượng đất bị chấn động như vậy, nhưng họ không biết nguyên nhân của sự chấn động ấy. Lại có một nguyên nhân khác khiến đại địa chấn động, đó là do các chúng sinh hành nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện cũng khiến cho đại địa chấn động. Dưới đất có gió gọi là Trì phong, vì Trì phong động cho nên nước động. Vì nước động nên đại địa động từ năm mươi do-tuần đến một trăm do-tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm do-tuần, tùy chỗ gió rộng hẹp thì nước động cũng như thế. Theo nước rộng hẹp thì đất bị chấn động cũng thế. Vì sao? Vì gió nên nước động, nước động nên đất động.

Vị ấy dùng văn tuệ, Thiên nhãn quán xét: gió giữ nước, nước giữ đất. Vì gió động nên nước động, vì nước động nên đại địa động.

Đó là hai nhân duyên khiến cho đại địa động. Tỳ-kheo quán hai loại động như vậy, nếu nhân duyên thiện gây động thì chúng sinh được giàu, vui, không bị suy hoạn. Nếu chúng sinh tạo ra nhân duyên bất thiện gây động thì chúng sinh có việc bất thiện nổi lên. Thiện hay bất thiện, tất cả nghiệp ấy đều do nhân duyên sinh ra, đều từ nhân mà sinh, chứ không có ai tạo ra cả. Nhân quả giống nhau nên mắc quả báo cũng như vậy. Các thầy tướng theo tà kiến không biết nhân quả nên nói như vầy: Vua trời làm chấn động đất, hoặc nói gió động, hoặc bảo là tai họa hay giàu vui, mất mùa, đói khát, điềm lành, xấu của vua, gió mưa, lũ lụt, hạn hán, binh đao nổi lên hoặc không nổi lên. Bà-la-môn Thiên Ngưu hoặc thiện hoặc ác. Các thầy tướng nơi thế gian xem tướng tốt xấu hay xem tinh tú đều không biết nhân quả, chỉ nói những lời như vậy, nói cả trăm tai họa nhưng không trúng chút nào. Người ngu si đều nói sách vở ấy của ta là hơn hết, không ai sánh bằng.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét các Atu-la vương Đà-ma-hầu, A-tu-la vương Dũng Kiện, các Long vương: Phi Pháp, Não Loạn… Quán xét đầy đủ rồi, vì tạo lợi ích cho tất cả thế gian, vị ấy tư duy: “Vì sao Long vương ác giúp A-tu-la? Do nhân duyên gì mà bị tổn hại không thắng, không làm cho các thế gian suy tổn, hư hoại được?”.

Vị ấy dùng văn tuệ biết người trong cõi Diêm-phù-đề hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các Sa-môn, Bàla-môn và bậc trưởng lão, hoặc vua và đại thần đều hành theo chánh pháp. Lúc này địa thần và các Dạ-xoa… thấy Long vương ác và các A-tu-la vương kia muốn hành theo phi pháp để hủy hoại các thế gian, bèn đi đến biển lớn, chỗ ở của các Long vương Bà-tu-cát, Đứcxoa-ca, nói lại sự việc như vậy. Lại nói với các Dạ-xoa trên không về những sự việc như trên. Các Dạ-xoa hư không nghe địa thần nói rồi, liền vận dụng sức đại thần thông với thân to lớn, giận dữ, miệng phun ra khói, nương hư không đi đến chỗ Tứ Thiên vương, tâu:

–Thiên vương Đề-bà: Long ác Não Loạn đã giúp A-tu-la, nay chúng muốn phá hoại người trong cõi Diêm-phù-đề đang thuận theo chánh pháp tu hành, hiếu dưỡng cha mẹ…. Các Luận sư theo tà kiến nơi cõi Diêm-phù-đề thấy từ miệng của Dạ-xoa kia phun ra khói cho là sao chổi mọc, cho là một trăm lẻ một người con của Diêm-la vương, không biết đó chính là một trăm lẻ một Dạ-xoa đại lực.

Khi ấy, ở thế gian có người thấy, có người không thấy. Các thầy tướng thì nói: “Đó là một trăm lẻ một người con của vua Diêm-la”. Vì họ không nhận biết đúng như thật nên vọng sinh phân biệt như vậy, cho là sao chổi mọc, hoặc nói giàu vui, đói khát, hoặc bảo là điềm xấu – tốt của vua, hoặc cho rằng vua sẽ băng hà, hoặc nói chiến tranh phát khởi, hoặc không phát khởi, hoặc nói: “Bà-lamôn Thiên Ngưu tốt hay không tốt, hoặc cho là tai họa về lũ lụt, hạn hán, hoặc bảo đất nước kia bị suy sụp, hoặc nói đất nước nọ được an lạc. Tuy giải thích đủ kiểu như vậy nhưng đó chỉ là hư vọng, không thật.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét hành động của rồng ác, A-tu-la ác. Vị ấy dùng văn tuệ quán các Dạ-xoa hư không hiện bày sức đại thần thông với thân tướng to lớn tâu với chúng trời về các việc như trên.

Khi ấy, Tứ Thiên vương nói với Dạ-xoa:

–Ngươi đừng lo sợ! Ngươi đừng lo sợ! Chư Thiên chắc chắn sẽ thắng. Chúng A-tu-la yếu đuối, thấp hèn, đâu có thể làm gì được. Vì sao? Vì người nơi cõi Diêm-phù-đề đã tu hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, cung kính các bậc trưởng lão… vì ý nghĩa ấy nên chư Thiên chúng tôi tăng trưởng, A-tu-la tổn giảm sẽ không làm gì được.

Các đại Dạ-xoa hư không có thần thông lớn nghe Tứ Thiên vương nói thì vô cùng vui mừng, còn các rồng ác, A-tu-la ác thì sinh giận dữ. Các Dạ-xoa ấy muốn hạ xuống để đến chỗ Long vương hành theo pháp, Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca… nói rõ nguyên nhân trên. Đám các Dạ-xoa từ hư không hạ xuống, toàn thân sáng rực. Những người thấy tướng ấy đều nói là Ưu-lưu-ca hạ xuống (đời Ngụy dịch là chó trời). Nếu nó hạ xuống vào ban đêm thì người đời đều thấy, còn hạ xuống vào ban ngày thì có khi thấy, có khi không thấy. Dạ-xoa hư không hạ xuống rồi liền vào biển, đến chỗ đại Long vương hành theo pháp nói rõ về nhân duyên trên. Thấy hiện tượng này, các thầy chú thuật theo tà kiến ở thế gian đều có những cách giải thích: Hiện tượng ấy xuất hiện là điềm của sự giàu vui hoặc đói khát. Hoặc cho là vua gặp vận tốt, xấu, hoặc bảo binh đao sẽ nổi lên, hay không nổi lên. Hoặc nói dân chúng chết hay không chết. Hoặc cho Bà-la-môn Thiên Ngưu là thiện hay bất thiện. Tuy giải thích như vậy nhưng không biết về nghiệp quả, theo những thuyết tương tợ đều không chân thật.

Lại nữa, Tỳ-kheo quán ánh lửa của trời Ưu-lưu-ca hạ xuống, lại có nhân duyên. Ưu-lưu-ca hạ xuống là chư Thiên sắp xuất hành, khi ấy cung điện đều theo bên thân, chúng đi rất mau, hai cung điện đều đi nhanh sát vào nhau, khiến lửa bốc cháy, ánh sáng đỏ rực từ trên xuống. Người đời thấy thế thì các nhà chú thuật, chiêm tinh nói như vầy: Thế gian đói khát, hoặc giàu vui. Hoặc cho là vua tốt xấu, tai họa, an lành. Hoặc nói là quốc độ được an ninh, hay bị tiêu hoại. Hoặc bảo các súc vật bị bệnh dịch lưu hành, dân chúng gặp phải bệnh trầm trọng. Hoặc nói người, súc vật đều an ổn, tốt lành. Các nhà tà luận nơi thế gian tuy nói như vậy nhưng không thể biết nhân duyên của hiện tượng ấy, chỉ dựa theo đấy mà nói chứ không biết đến quả báo của nghiệp. Vì sao? Vì tất cả các Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian, hoặc Thiên, Ma, Phạm, hoặc A-tu-la đều không loài nào biết rõ về nhân duyên quả báo của nghiệp rất vi tế như vậy, không thể nào tư duy tận tường về mười nghiệp đạo thiện trong pháp luật của ta. Ngoài Đức Như Lai, không ai có thể hiểu nổi về những điều ấy.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét Dạ-xoa đại lực đi trên hư không. Làm sao có được uy lực lớn để lên cõi trời, có thể đến biển lớn, chỗ của Long vương hành theo pháp?

Vị ấy dùng văn tuệ thấy Dạ-xoa hư không dùng sức thần thông lớn để vào biển, đến chỗ Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đứcxoa-ca là các Đại Long vương tùy thuận Pháp hành, nói như vầy: “Atu-la vương Đà-ma-hầu, A-tu-la vương Dũng Kiện đã đi đến ao Nhất thiết quán kiến để xem thân tướng của mình”, như trên đã nêu đầy đủ.

Lúc ấy, các Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca, các đại Long vương nghe Dạ-xoa nói như vậy rồi, bảo các Dạ-xoa:

–Ta sẽ quở trách Long vương hành theo phi pháp, bắt nó phải hàng phục. Ta sẽ tuôn mưa đúng mùa vào cõi Diêm-phù-đề, làm cho dân chúng trong cõi ấy luôn được mùa, trăm thứ lúa gạo đều dồi dào, muôn người giàu có, an lạc.

Nghe như vậy, Dạ-xoa rất vui mừng, từ giã ra về. Bấy giờ, đại Long vương, các Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca… tự trang sức rồi đến chỗ của Long ác: Rồng ác Phi Pháp, Long vương Não Loạn, Long vương Phấn Tấn, nói:

–Các ngươi làm các việc phi pháp, thích tạo những điều ác. Ta hành theo chánh pháp, ưa tạo những điều thiện. Ngươi không phải là bạn lành của chúng ta. Ngươi nay muốn chiến đấu với ta để quyết thắng bại chăng?

Khi đó, Long vương Não Loạn, Long vương Phấn Tấn… nghe vậy rồi, liền trang sức nơi thân, tạo ra sấm sét chói lòa, sét phát ra lửa, tuôn xuống mưa lớn. Nếu người trong cõi Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, cung kính, tôn trọng các bậc trưởng lão, thì Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đứcxoa-ca liền đạt được sức mạnh thù thắng.

Bấy giờ Long vương Não Loạn, Long vương Phấn Tấn, Long vương ác không thể thực hiện việc hủy hoại, phải trở về, khiến cho nơi cõi Diêm-phù-đề mưa gió đúng thời, dân được giàu vui. Lúc này, các nhà chiêm tinh, thần chú thuật nêu ra những tà thuyết, nói đó là tướng công đức của tám loại sao sáng, tướng công đức của hai mươi tám ngôi sao, nên lúc nào cũng tuôn mưa đúng mùa. Nhờ vào oai lực của Bà-la-môn Thiên Ngưu nên khiến trời mưa, chứ không có nhân duyên nào khác. Nếu người trong cõi Diêm-phù-đề không hiếu thuận, nuôi dưỡng cha mẹ, không cúng dường các Sa-môn, Bà-lamôn, không cung kính, tôn trọng bậc trưởng thượng, không hành theo chánh pháp, thì các Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca, Như Pháp… bị thua nặng. Lúc đó mấy Long vương ác như Não Loạn, Phấn Tấn được sức mạnh lớn, làm mưa trái mùa xuống cõi Diêm-phù-đề gây tai họa về lũ lụt, hạn hán, khiến muôn dân đói khổ. Các nhà xem tướng, xem sao, chú thuật theo tà kiến trong thế gian, nói như vầy: “Đó là do lỗi của tám vùng sao, lỗi của thời tiết, của quái tướng nơi các ngoại đạo…”. Không biết quả báo của nghiệp, không biết do chúng sinh tạo nghiệp ác khiến cho đất nước bị tai họa mất mùa, lại nói khác, chẳng phải là nhận thức đúng đắn. Vì sao? Vì hoặc Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn thế gian, những cảnh giới ấy chỉ có Đức Như Lai và các Sa-môn đệ tử của Như Lai đã nghe giảng nói tướng quyết định về quả báo của nghiệp và các quả báo của nghiệp khác. Ngoài những vị ấy, không ai có thể hiểu rõ về nghiệp.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét chỗ ở của A-tu-la vương Đà-ma-hầu. Nếu Long vương Như Pháp, Long vương Bà-tu-cát được sức mạnh lớn thì Long vương Phi Pháp bị hủy hoại. A-tu-la vương Đà-ma-hầu sống trong thành Tinh man, hoặc ở trong rừng thì tâm hồn tiều tụy, oai đức, ánh sáng cũng đều tổn giảm, xấu hổ, buồn rầu, vào cung điện của mình suy nghĩ như vầy: “Bây giờ ta phải làm sao để phá trừ chư Thiên?”. Suy nghĩ như vậy, A-tu-la vương Đà-ma-hầu liền đi đến chỗ của A-tu-la vương La-hầu nói:

–Này A-tu-la vương! Ông phải mạnh mẽ lên, không được yếu hèn, không bao lâu nữa ta sẽ phá tan chúng trời kia!

Nghe như vậy, A-tu-la vương La-hầu nói với các vị kia:

–Ông đừng buồn rầu, lo sợ, hãy yên tâm! Không bao lâu tôi sẽ phá hoại chúng trời cùng Thiên chủ của họ là Thiên vương Đế Thích kia.

A-tu-la vương Đà-ma-hầu, A-tu-la vương Dũng Kiện nghe nói như vậy thì rất vui mừng, bèn trở về chỗ ở của mình.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp và đã quán thành Tinh man rồi, tiếp đến quán những khu vườn rừng, đất đai khác của A-tu-la vương Đà-ma-hầu.

Vị ấy dùng văn tuệ quán A-tu-la vương Đà-ma-hầu có khu vườn khác ngang dọc một vạn ba ngàn do-tuần, có đủ các phần liên hệ: chỗ vui chơi, vô số các loại chim khác nhau, dòng suối, vườn hoa, ao tắm, hoa sen, chim nhạn, chim uyên ương, hết thảy đều đẹp đẽ, hài hòa, tạo mọi vui vẻ thọ lạc. Vùng đất ấy có bảy khu vườn cây:

  1. Vườn Vân man.
  2. Vườn Thường.
  3. Vườn Hý lạc.
  4. Vườn Quả thường tập.
  5. Vườn Phong nhạc.
  6. Vườn Kỹ nhạc.
  7. Vườn Tạp bảo.

Đó là bảy khu vườn lớn, chỗ ở của A-tu-la vương Đà-ma-hầu có nhiều bạn bè, nhờ nghiệp lực đã tạo nên đều thọ hưởng mọi phú quý, an lạc.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp và quán những quả báo mà A-tu-la vương Đà-ma-hầu đã thọ hưởng. Vì nghiệp gì mà sinh vào chỗ ấy?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết các chúng sinh này đời trước tổ chức hội bố thí lớn, cúng dường ngoại đạo, hành thí bất tịnh, xen tạp, không thuần khiết, dùng thức ăn bố thí cho những người phá giới, chuyên làm việc sai trái, tâm thường suy nghĩ không chân chánh. Bố thí như vậy, sau khi qua đời, người kia sinh trong loài súc sinh, làm thân A-tu-la vương Đà-ma-hầu. Theo nghiệp thượng, trung, hạ nên đưa đến quả báo vui cũng theo thượng, trung, hạ, vì nhân quả giống nhau.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét quả báo nơi nghiệp của A-tu-la vương Dũng Kiện. Do nghiệp báo gì mà được làm A-tu-la vương?

Vị ấy dùng văn tuệ, thấy chúng sinh này khi còn làm người ưa thích làm kẻ trộm cắp, lén lấy trộm vật nơi người khác. Vì suy nghĩ không chân chánh mà bố thí cho ngoại đạo lìa dục đầy đủ các thức ăn uống. Do nhân duyên ấy mà sinh trong loài A-tu-la.

Lại nữa, Tỳ-kheo quán thọ mạng dài, ngắn của A-tu-la vương Đà-ma-hầu. Vị ấy dùng văn tuệ, Thiên nhãn quan sát:

Vị ấy thấy A-tu-la sống sáu ngàn tuổi. Sáu trăm năm trong cõi Diêm-phù-đề là một ngày đêm của cõi A-tu-la Đà-ma-hầu. Thọ mạng như vậy đủ sáu ngàn tuổi, tăng ít giảm nhiều, mạng sống không nhất định. Theo nhân duyên của nghiệp thiện và bất thiện mà thuộc về nghiệp quả trong đường súc sinh, A-tu-la là Địa thứ hai. Quán Địa thứ hai rồi, vị ấy tùy thuận thực hành theo chánh pháp, quán tất cả chúng sinh: Có chúng sinh thuận theo pháp, có chúng sinh ủng hộ chánh pháp, tất cả chúng sinh đều bị chi phối theo sinh tử. Nếu tạo nghiệp lành thì sinh trong cõi trời, người; còn tạo nghiệp ác, bất thiện thì sinh trong địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét sứ giả của trời, nghe Dạ-xoa hư không có thần thông tâu tõ việc ấy rồi thì làm thế nào?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết sứ giả của trời đến chỗ ở của trời Hộ thế Man Trì, nói:

–Chúng A-tu-la không hành theo pháp, đã bảo các rồng ác, vì những người có phước đức, theo pháp hành thiện trong cõi Diêmphù-đề ấy mà làm suy giảm, tổn hại, loạn động, không được lợi ích. Vì sao? Vì sợ những người theo pháp hành thiện ấy, khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời. Chúng nghĩ: Người trong cõi Diêm-phù-đề nhờ ăn uống mà có thể thực hành bố thí, trì giới, đạt trí tuệ, vậy nên đến cõi Diêm-phù-đề giáng xuống những trận mưa dữ để phá hoại lúa thóc hoa màu của muôn dân xứ đó.

Các Dạ-xoa đi trên hư không, thuận theo pháp, đến chỗ tôi (sứ giả) nói:

–Tôi nay nói với ông, nên lần lượt báo cho những chúng trời khác biết như trời Quân Trì, trời Tam không hầu, trời Thường tứ ý, nêu các sự việc như vậy khiến cho hết thảy đều biết.

Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương nghe nói như thế, liền đi đến chỗ Thiên vương Kiều-thi-ca hiện đang ở tại Thiện pháp đường, trong thành Thiện kiến, có đầy đủ công năng của năm dục, các quyến thuộc tâu hết việc như trên. Thiên chủ Kiều-thi-ca nói với Tứ Thiên vương Hộ thế:

–Ông nên đến cõi Diêm-phù-đề quán xét các chúng sinh có lòng tin Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn và các bậc trưởng lão, biết ân, báo ân, thật thà, ngay thẳng, có lòng tin kiên cố, hiếu dưỡng cha mẹ, thọ trì trai giới, không dua nịnh, không dùng cân đấu dối gạt người chăng?

Nghe nói vậy, Tứ Thiên vương Hộ thế vì lợi ích cho chúng sinh nên xuống cõi Diêm-phù-đề, đi từng quốc độ, từng xóm làng, từng thành ấp, doanh trại, mỗi mỗi đều quan sát giáo pháp tu hành của họ, đi thăm khắp mọi miền, vùng. Khi ấy, Tứ Thiên vương Hộ thế thấy người trong cõi Diêm-phù-đề tùy thuận hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, kính tín Tam bảo… Thấy các sự việc ấy rồi, ông bèn đi đến cung điện của hai Long vương trong thành Hý lạc ở biển lớn, thuộc hai Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca, nói như vầy:

–Long vương Pháp hành đừng nên lo sợ! Phi pháp đã tổn giảm, chánh pháp được tăng trưởng, phá trừ sự tối tăm, hiển bày ánh sáng rực rỡ làm chấn động quân ma, chúng trời tăng trưởng. Trời, Người và Long vương thích tu hành chánh pháp, có thể đánh trống pháp, ca tụng pháp âm, làm cho Thiên chúng tăng trưởng lợi ích, còn các ma, Long vương phi pháp và A-tu-la đều bị tổn giảm.

Bấy giờ, các đại Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca nghe vậy thì rất vui mừng, liền nói với Tứ Thiên vương Hộ thế:

–Tôi nay rất mừng cho Thiên vương. Tôi không sợ Long vương phi pháp xấu ác dùng phi pháp hành ác để giúp A-tu-la. Chúng không thể nào làm não loạn chúng sinh hành theo pháp trong cõi Diêm-phù-đề được, cúi xin nhân giả vì tôi mà thưa lên rõ ràng với Thiên vương Kiều-thi-ca.

Các đại Long vương nói như vậy rồi, Thiên vương Hộ thế bèn đến chỗ Đế Thích tâu đầy đủ sự việc trên. Nghe những điều ấy, Thiên đế Thích rất vui mừng, nói kệ:

Mâu-ni Chánh Tri nói đạo thật
Ai thực hành được sinh lên trời
Luôn hành bố thí, tu tâm từ
Hộ chúng sinh, nói lời ái ngữ.
Chánh kiến, tâm thanh tịnh, lìa cấu
Phật nói cõi Tam thập tam thiên
Tịnh tu các nghiệp, hành theo đó
Dùng tâm thiện, nương dựa chánh chân.
Từ chỗ vui này đến vui khác
Lại từ chỗ sáng, vào chỗ sáng
Giống như nắng sớm làm hoa sáng
Cũng như đèn này đốt đèn nọ.
Nếu ai muốn được như đèn kia
Chớ hành phóng dật tự hoại tâm
Nếu có thường hành tâm thiện tịnh
Lìa dơ, sáng sạch như châu báu.
Là người trí tuệ, lìa trần cấu
Có thể sinh lên các cõi trời
Nếu người tâm có thể tu hành
Trì giới, tu thiền và Tam-muội.
Là người trí tuệ như vàng ròng
Ắt được sinh lên các cõi trời
Nếu ai lìa bỏ việc sát sinh
Với các chúng sinh khởi tâm Từ.
Tâm thương xót, chất trực, tịch tĩnh
Người ấy được sinh vào cõi trời
Luôn dùng ái ngữ với mọi người
Xa lìa các nghiệp ác, bất thiện.
Không cho nghiệp ác làm bẩn tâm
Người ấy sẽ sinh vào cõi trời
Nếu ai xem vàng như cây cỏ
Quán các ái dục như lửa độc.
Người trí tuệ lìa dục như vậy
Được sinh lên trời hưởng diệu lạc
Ai không bị cảnh dục mê hoặc
Không chạy theo nhân duyên ái dục.
Thoát được lo sợ ba đường ác
Người ấy được sinh lên cõi trời
Thấy ai tranh giành nên hòa giải
Bạn lành, thân tộc và anh em.
Luôn hòa hợp họ đừng tranh cãi
Người ấy sẽ được sinh lên trời
Ai bỏ ác, ra khỏi bùn đục
Luôn đem vui cho mọi chúng sinh.
Lìa cấu, giải thoát, tâm tịch tĩnh
Có thể phá trừ chúng quân ma
Nếu ai điều phục được tâm ý
Không bị tâm ý sai khiến mãi.
Người ấy thanh tịnh phá quân địch
Sẽ được sinh lên các cung trời
Người nào sống thân nghiệp thanh tịnh
Xa lìa các pháp ác, bất thiện.
Lìa dục, tu tập vui thiền định
Người ấy được sinh lên cõi trời
Ai xa bạn bè phóng dật, ác
Dứt trừ ái độc, các phiền não.
Không bị ái dục nữ nhân trói
Người ấy được sinh lên cõi trời
Ai tinh tấn dốc tu pháp Phật
Bố thí, trì giới và thiền định.
Ý chí dũng mãnh, tâm kiên cố
Người ấy được sinh lên cõi trời
Nếu ai đối với các trói buộc
Dùng dao trí chặt bỏ không ngại.
Cắt dây tự tại không bị trói
Người ấy được sinh lên cõi trời
Ai lìa dục cấu, không tham đắm
Diệt các lỗi ác, trừ ái nhiễm.
Dũng cảm lìa cấu, dứt mong cầu
Tự mình ắt được hưởng quả báo
Chúng sinh nào may được làm người
Luôn luôn tu hành các pháp thiện.
Quả báo nghiệp của người thiện ấy
Khiến thế giới trời được tăng trưởng
Nhờ sức người nên trời thắng mạnh
Nhờ trời ủng hộ, người an ổn.
Mỗi bên sức mạnh cùng tăng trưởng
Sống theo chánh pháp, thuận với đạo
Đạo thiện của trời là cõi người
Đạo thiện của người là cõi trời.
Các đường ác hiểm có ba loại
Là nơi cách xa người hành thiện
Ngươi nên dũng mãnh, cần tinh tấn
Nên thích gần gũi Thiện tri thức.
Như vậy thường làm pháp tăng trưởng
Cố gắng chuyên cần lên cõi trời
Pháp là cội gốc của các vui
Nhờ nhân duyên pháp được Niết-bàn.
Pháp thường thức tỉnh người mê ngủ
Pháp là đạo tối thắng bậc nhất.

Thiên chủ Đế Thích dạy bảo như vậy rồi, Tứ Thiên vương Hộ thế vì ủng hộ người cõi Diêm-phù-đề làm tăng trưởng chánh pháp mà được lợi ích nên đi quan sát khắp nơi.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, quán xét tâm hành của trời rồi, bên trong tư duy, tùy thuận theo pháp mà tu hành.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét cõi thứ hai của A-tu-la rồi, tiếp đến quán A-tu-la thuộc cõi thứ ba. Thế nào là A-tu-la thuộc cõi thứ ba?

Vị ấy dùng văn tuệ, thấy cõi thứ ba ở phía dưới cõi thứ hai khoảng hai vạn một ngàn do-tuần, có cõi A-tu-la tên Tu-na-bà, ngang dọc một vạn ba ngàn do-tuần, cây cối tốt tươi, có suối chảy, ao tắm, các loại hoa luôn nở rộ, kỹ nhạc đủ loại luôn hòa tấu. Thành ấy tên là Hàm-tỳ-la, ngang dọc tám ngàn do-tuần, trong thành có Atu-la vương tên Hoa Man, dân A-tu-la tên Du Hý Hành. Thành Hàmtỳ-la của A-tu-la vương kia có đủ loại châu báu để tạo vẻ trang nghiêm, có vườn cây dạo chơi, ao tắm nước trong mát, đủ các loại hoa sen. Chúng A-tu-la dạo chơi khắp trong đó. Thành có bốn khu vườn lớn rộng, vô số hoa luôn nở tươi đẹp cả sáu thời. Bốn khu vườn lớn là:

  1. Linh man: Trên mỗi mỗi cây đều có linh báu phát ra âm thanh vi diệu.
  2. Hoàng man: Cây cối trong vườn đó toàn bằng vàng ròng.
  3. Diễm man: Màu hoa nơi cây trong khu vườn giống như ánh lửa.
  4. Tạp lâm: Có đủ các loại hoa quả để tạo sự trang nghiêm.

Bốn khu vườn này đã tạo nên sự trang nghiêm tráng lệ của thành Hàm-tỳ-la. Nơi chốn vui chơi của A-tu-la ở đây mọi thứ hoan lạc đều giống như ở cõi trời không khác. Dùng các hương xoa, hương bột để xoa rắc lên thân mình, A-tu-la vương thường vui thích dạo chơi, ca múa, nô đùa, có trăm ngàn thể nữ vây quanh hộ vệ. A-tu-la vương Hoa Man thường dạo chơi trong các khu rừng để tự vui, có nhiều châu báu trang sức nơi thân. Đó là chỗ vui chơi của A-tu-la để thọ hưởng hoan lạc.

Bấy giờ, A-tu-la vương Dũng Kiện ở cõi thứ hai, sai sứ tên Diêm-bà, đến chỗ A-tu-la vương Hoa Man, thưa:

–Người cõi Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, biết ân trả ân, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn, hành theo chánh pháp nên các cõi trời có sức mạnh. Ta nay nên đem hết sức lực để phá hoại chánh pháp mà trời, người đang thực hành.

A-tu-la vương Hoa Man ở cõi thứ ba nghe thưa như thế, như trên đã nói, tâm giận dữ, bảo:

–Ta làm thế nào để phá hoại cõi trời, người? Trời, người là oán địch lớn của ta?

Lúc ấy, A-tu-la vương Du Hý ở cõi thứ ba lập tức trang bị các giáp sắt, cầm binh khí đến cung điện Lạc của Long vương. Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca nghe tiếng của A-tu-la thì nổi giận, trên thân phát ra ánh chớp chói lọi làm mưa lửa chớp lớn, có vô lượng trăm ngàn ức rồng từ trong biển hiện ra cùng chiến đấu dữ dội với A-tu-la.

Nếu người cõi Diêm-phù-đề tu hành theo chánh pháp thì rồng chiến thắng, chúng A-tu-la bị thua, chạy tán loạn khắp nơi. Còn như người trong thế gian không thuận theo với chánh pháp thì A-tu-la thắng, chúng rồng bị thua trận. Bị thua trận, rồng đến nói với sứ giả của trời:

–Thưa đại Tiên! Nay tôi bị thua trận, ông nên cố gắng đến tiêu diệt A-tu-la.

Nghe nói như vậy, sứ giả của trời nổi giận, khói từ trong miệng phun ra, đến tâu với Tứ Thiên vương:

–Thưa Thiên vương! Nay A-tu-la chiến thắng, loài rồng bị thua trận.

Các thầy tướng theo tà kiến trong cõi Diêm-phù-đề thấy hiện tượng khói phun đều nói: “Sao chổi xuất hiện, hoặc trúng mùa, hoặc mất mùa, bị lũ lụt, hạn hán”, như trên đã nêu. Đây là nhân duyên thứ hai là sao chổi xuất hiện.

Nếu thiên, long thắng thì tuôn xuống những trận mưa đúng mùa, bệnh dịch không hoành hành, chiến tranh không nổi lên. Các thầy tướng theo tà kiến nói như vầy: “Đó là do sức mạnh của tám vùng sao”. Nói rộng như trên. Nếu mọi người trong thế gian không tu hành theo chánh pháp, không hành theo đúng pháp, không hiếu dưỡng cha mẹ, không cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn, thì A-tu-la chiến thắng. Vì A-tu-la thắng nên tạo các trận mưa không đúng mùa, làm cho muôn dân đói khát, đao binh luôn nổi lên. Các thầy tướng theo tà kiến trong thế gian giải thích: “Đó là do tám vùng sao tạo ra, vì người đời mà nói về lỗi của tinh tú”… nói rộng như trên.

Như vậy, tất cả các ngoại đạo không biết chánh pháp và phi pháp, vì tâm ngu si, suy luận phân biệt, nói không đúng như thật, vì đó chỉ là A-tu-la thắng, Long vương thua.

Bấy giờ, Tứ Thiên vương Hộ thế liền hướng đến bốn Thiên chúng nói kệ:

Pháp thắng, phi pháp thua
Chân thật lìa vọng ngữ
Trời thắng, Tu-la thua
Ánh sáng thắng tối tăm.
Bố thí thắng tham, keo
Giữ giới chớ hủy phạm
Phật thắng, ngoại đạo thua
Bất động thắng thoái chuyển.
Nói thật, đừng dua nịnh
Tâm bi thắng oán thù
Tâm từ thắng sân giận
Thiên vương thắng A-tu-la.
Trên thắng, dưới không tăng
Giàu thắng, không đói khát
Trí thắng, diệt ngu si
Giới pháp diệt các ác.
Tinh tấn trừ biếng trễ
Trượng phu thắng nữ nhân
Trưởng giả thắng tiểu nhân
Nhẫn thắng các sân giận.
Người thắng rồng sai, ác
Ban ngày thắng ban đêm
Trăng thắng các ngôi sao
Ngũ cốc thắng rơm rạ.
Khổ diệt, vui tăng trưởng
Không bệnh, thường an lạc
Dịu dàng thắng thô bạo
Giải thoát trừ các trói.
Giới pháp thắng tất cả
Pháp lành luôn mạnh mẽ
Bất thiện luôn tiêu diệt.

Nói kệ xong, Tứ Thiên vương Hộ thế liền đánh trống trời, nói như vầy:

–Các đại chúng trời, Long vương đã yếu kém, A-tu-la thắng trận.

Nghe như vậy, các chúng trời liền trang bị đầy đủ binh khí, trong chốc lát đã tới biển lớn. Nếu người nơi thế gian hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ các Sa-môn, Bà-la-môn, thì chúng A-tu-la thấy chư Thiên đến, tức thời lui tan trở về cung điện của mình. Còn nếu người trong thế gian không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính thờ các Samôn, Bà-la-môn, trong khoảnh khắc chiến đấu với A-tu-la thì trời cũng chiến thắng, A-tu-la vương Hoa Man thất bại, trở về cung điện của mình.

Tỳ-kheo đã quán xét A-tu-la cùng với trời chiến đấu, thấy như thật rồi thì sinh tâm chán thế gian, tùy thuận tu hành theo chánh pháp

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét về nghiệp báo của A-tu-la vương Hoa Man ở cõi thứ hai đã thọ. Vì nghiệp gì mà sinh vào cõi thứ ba?

Vị ấy dùng văn tuệ, thấy các chúng sinh này nhân ngày tiết hội, cùng nhau đấu bắn, thực hiện những việc cờ kiệu, đánh bạc, nhân việc ấy mà hành thí bất tịnh, không có tâm, không suy nghĩ, cũng không có ruộng phước. Sau khi mạng chung, người ấy bị đọa vào đường ác, sinh làm A-tu-la Du Hý Hành, sống bảy ngàn năm. Bảy trăm tuổi trong cõi người là một ngày một đêm của A-tu-la. Như vậy, A-tu-la thọ mạng bảy ngàn tuổi, cũng có khi chết yểu, mạng sống không nhất định.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét tư duy về A-tu-la vương Hoa Man. Vị ấy dùng văn tuệ biết A-tu-la vương này đã bố thí cho người bệnh phá giới, tâm không suy nghĩ thanh tịnh. Do nghiệp duyên này nên sinh vào loài A-tu-la, ở trong thành Hàm-tỳ-la, làm A-tu-la vương tên Hoa Man. Mùi vị của A-tu-la vương ăn giống như mùi tu-đà của chư Thiên dùng. Tất cả những vật tạo vui thích như trước đã nói.

Đã biết quả báo của nghiệp rồi, Tỳ-kheo lại quán xét cảnh giới thứ tư của A-tu-la.

Vị ấy dùng văn tuệ, thấy dưới cảnh giới thứ ba khoảng hai vạn một ngàn do-tuần, có cảnh giới của súc sinh A-tu-la tên Bất Động. Cảnh giới ấy rộng lớn sáu vạn do-tuần, thành tên Hàm-tỳ-la, ngang dọc một vạn ba ngàn do-tuần, rất tráng lệ đẹp đẽ. A-tu-la vương tên Bát-ha-bà, chúng A-tu-la tên Nhất Thiết Nhẫn. A-tu-la vương này đối với các A-tu-la thì có nhiều quyền lực, mạnh mẽ hơn hết, oai đức sáng tỏ, tự tại, không lo sợ. Đối với Thiên vương Đế Thích, A-tu-la vương này hãy còn không sợ, huống chi là các vị trời khác. Do có uy lực lớn nên luôn buông lung, kiêu mạn, trú xứ là cảnh giới dưới tận cùng, dưới cảnh giới này không còn nơi nào nữa. Đất ở đây đều bằng châu báu ma-ni, cuộc sống luôn vui vẻ, nhộn nhịp, giống như ngày Tết ở thế gian. Vì luôn thích thú tự vui nên A-tu-la vương ấy luôn sinh ái mạn. Nhiều loại hoa sen, suối chảy, ao tắm làm tăng thêm sự trang nghiêm khắp chốn. Thành Hàm-tỳ-la có cung điện bằng bảy báu đẹp đẽ, cách ly kẻ thù địch, luôn gần gũi những bạn thân. Vì không sợ ai cả nên cảnh giới này an vui bậc nhất. Thành Hàm-tỳ-la của cảnh giới thứ tư này cũng rất tráng lệ, tươi đẹp với những vườn cây, ao tắm hoa sen, cùng với cung điện bảy báu uy nghiêm rực rỡ, giống như sao trên trời:

Kệ viết:

Tâm luôn tạo ra hết thảy nghiệp
Do tâm nên có tất cả quả
Những nẻo hành của tâm như vậy
Đưa đến tất cả các quả báo
Tâm là thầy vẽ nên mọi cảnh
Hiện lên các đường vào ba cõi
Bị tâm sai đi khắp các đường
Sống ở chỗ nào cũng cùng cực
Tâm là dây trói gốc giải thoát
Cho nên nói tâm là bậc nhất
Làm thiện luôn luôn được giải thoát
Tạo ác, bất thiện bị trói buộc
Như vậy tâm ý dẫn chúng sinh
Luân hồi đi trong biển ba cõi
Vì sức ái, ngu si luôn trói buộc
Tâm sai khiến chúng sinh luân hồi
Không sao đến được thành Niết-bàn
Như người bị mù đi lạc đường.

Chúng sinh tạo ra tất cả các nghiệp như vậy, nên ở trong thành ấy thọ nhận tất cả quả báo. Ngoài thành Hàm-tỳ-la, cảnh giới thứ tư còn có những vườn cây, ao tắm, sông suối vòng quanh ngang dọc, đủ loại chim chóc, vô số loại hoa. Chúng A-tu-la Nhất Thiết Nhẫn của cảnh giới thứ tư vốn mạnh mẽ, không lo sợ gì và xinh đẹp bậc nhất, trang sức bằng nhiều cách, cùng nhau dạo chơi, không gây ưu phiền, luôn luôn vui vẻ giống như ngày hội. Mỗi chúng như vậy có cả trăm ngàn quyến thuộc vây quanh, thường cùng nhau dạo chơi vui vẻ. Các thể nữ của cảnh giới ấy thân bằng châu báu ma-ni sáng chói, rực rỡ, các A-tu-la vương luôn quý trọng, còn A-tu-la vương Bát-ha-bà thì chiêm ngưỡng không nhàm chán. Tuy hưởng quả báo hoan lạc như vậy nhưng đó là vô thường, luôn bị hư hoại.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét các quả báo mà chúng A-tu-la Nhất Thiết Nhẫn đã thọ. Vì nghiệp gì mà sinh vào xứ này.

Vị ấy dùng văn tuệ, thấy các chúng sinh này khi còn làm người bị tà kiến che lấp tâm tánh, không biết rõ về quả báo của nghiệp, xa lìa Phật, Pháp, Tăng, thấy người trì giới tinh tấn đến khất thực, năn nỉ mãi, người ác kia mới cho một ít. Cho rồi, người ác kia nói:

–Cho ông ăn, tôi đâu có phước đức gì. Chẳng qua vì ngu si mà tôi lấy thức ăn cho ông. Ông là người hạ tiện, không nên xuất gia.

Tôi đem thức ăn cho ông giống như đem hạt giống quăng vào ruộng muối.

Do bố thí một cách cay nghiệt như vậy, nên sau khi qua đời, người ác kia bị đọa vào đường ác. Nhưng vì bố thí dù với tâm bất tịnh nên có chút ít công đức nơi ruộng phước, nên được sinh vào chỗ an vui bậc nhất này, có nhiều châu báu quý đẹp, thọ quả báo súc sinh, sinh vào cảnh giới Bất động làm A-tu-la tên Nhất Thiết Nhẫn, tức là sánh bằng chư Thiên và vượt hơn tất cả A-tu-la vương khác. Tất cả những thứ tạo nên an lạc thảy đều đầy đủ, do bố thí vào ruộng phước nên có được quả báo như vậy, chứ chẳng phải do tâm sinh.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét nghiệp – quả báo của chúng A-tu-la Nhất Thiết Nhẫn. Vì nghiệp gì mà sinh vào cảnh giới của A-tu-la Nhất Thiết Nhẫn?

Vị ấy dùng văn tuệ, biết chúng sinh này tham đắm các món ngon vị lạ nên ở trong rừng để giữ cây, không phải vì chúng sinh mà chỉ để nuôi sống nên cứ làm việc lợi cho mình, không có tâm Từ bi, vì thế mà ở giữ tất cả rừng. Do nhân duyên ấy sau khi qua đời, sinh trong chúng A-tu-la Nhất Thiết Nhẫn.

Lại nữa, Tỳ-kheo biết quả báo của nghiệp, lại quán xét cuộc chiến đấu giữa A-tu-la và chư Thiên.

Vị ấy dùng văn tuệ, quán các Long vương pháp hành trong thành Hý lạc. Trên đảnh Long vương có bảy đầu. Các Long vương ấy tên là: Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương Bạt-đà, Long vương Lâu-hê, Long vương Vân Man, Long vương Bà-đô, Long vương Nhất Thiết Đạo, Long vương Bát-ha-bà, Long vương Bà-lợi-sa. Những Long vương này theo chánh kiến, tùy thuận với chánh pháp, thích từ bỏ sự buông lung… như trên đã nói. Còn những Long vương phi pháp hành ác không thuận theo chánh pháp như: Long vương Bát-ma-thê, Long vương Tỳ-khám-lâm-bà, Long vương Ca-la, Long vương Hầu-lâu-hầu-lâu… đã bị các Long vương như pháp phá trừ, sau đó chúng chạy đến chỗ A-tu-la Song Du Hý thuộc cảnh giới thứ nhất, nói như vầy:

–Hãy đến mau! Hãy đến mau! Các bạn biết không? Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca cùng với Tứ Thiên vương đang phá trừ chúng ta, các ông là bạn thân của chúng tôi, sao không giúp đỡ nhau?

Nghe nói như vậy, A-tu-la vương Du Hý bèn đến thành Quang minh, chỗ của A-tu-la vương La-hầu nói hết sự việc trên. A-tu-la vương La-hầu biết người ở thế gian tu hành theo chánh pháp, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, biết ân, báo ân, liền nói với các Long vương ác Bát-ma-thê…:

–Hãy ở lại một tháng nữa để ngăn cản Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, ta sẽ nói lại với các A-tu-la vương nơi trụ xứ thứ hai, các chúng trời không não loạn các ông đâu. (nói rộng như

trên)

Nghe như vậy, A-tu-la vương Đà-ma-hầu bèn vào thành Tinh man đến chỗ của A-tu-la vương thưa:

–Đại vương! A-tu-la vương La-hầu sai sứ đến nói với tôi là các Long vương như Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca cùng Tứ Thiên vương đã gây não loạn Long vương Bát-ma-thê.

Bấy giờ, A-tu-la vương Dũng Kiện ở cảnh giới thứ hai nghe báo như vậy, liền tự quan sát mình có sức mạnh hay không? Nếu người trong cõi Diêm-phù-đề tu hành theo chánh pháp, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn thì tự biết là mình không có sức mạnh. A-tula vương Dũng Kiện nói với sứ giả của A-tu-la vương La-hầu:

–Trời có sức mạnh lớn. Vì sao? Vì người trong cõi Diêm-phùđề tu hành theo chánh pháp. Ta nay sẽ đến trụ xứ thứ ba để nói hết những sự việc trên cho chúng A-tu-la vương Nhất Thiết Hành biết.

A-tu-la vương Dũng Kiện liền đến nói với chúng A-tu-la ở trụ xứ thứ ba. A-tu-la vương Nhất Thiết Hành nghe như thế rồi liền vào thành Hàm-tỳ-la, đến chỗ A-tu-la vương Hoa Man thuật lại các việc trên.

A-tu-la vương Hoa Man liền quan sát người trong cõi Diêmphù-đề, thấy có người cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn. Sau đó, nói với A-tu-la vương Nhất Thiết Hành:

–Ta sẽ đến nói chúng A-tu-la nơi trụ xứ thứ tư.

Khi ấy, A-tu-la ở cảnh giới thứ ba đến gặp A-tu-la ở cảnh giới thứ tư, nói:

–Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca và Tứ Thiên vương cùng nhau phá trừ các Long vương bạn của tôi. Tôi nay sẽ làm suy não các Thiên chúng kia.

Nghe xong, chúng A-tu-la ở cảnh giới thứ tư liền đến thành Hàm-tỳ-la nói với A-tu-la vương Bát-ha-bà, A-tu-la vương Bát-ha-bà hỏi các A-tu-la:

–Có việc gì mà vội vàng thế?

Chúng A-tu-la liền thuật hết sự việc trên. A-tu-la vương Bátha-bà nói với các A-tu-la:

–Đám A-tu-la vương La-hầu không thể làm gì được đâu. Giả sử Tứ Thiên vương phá trừ hết đám Long vương Bát-ma-thê… thì do người ở thế gian tùy thuận chánh pháp, cúng dường các Sa-môn, Bàla-môn, nhưng chư Thiên thì cũng không làm gì được. Ta có thể phá trừ chúng.

Bấy giờ, A-tu-la vương Bát-ha-bà đến chỗ ở của đại chúng Atu-la nói:

–Hãy nhanh chóng trang bị và sử dụng các thứ binh khí. Ta nay sẽ đến đánh phá quân binh của Tứ Thiên vương và đám Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca.

Khi ấy, các A-tu-la vương với sức mạnh cho là không ai sánh bằng, thống lãnh các đội quân, đến chiến đấu với chúng trời. A-tu-la vương Bát-ha-bà bảo các A-tu-la:

–Nếu các ngươi không dũng cảm, mạnh mẽ thì sao phá trừ được đám Long vương kia, mà ngược lại là tự hại mình. Nay ta sẽ đến đó với sức mạnh của mình để quyết phá tan quân trời, rồng.

A-tu-la vương Bát-ha-bà lại ra lệnh:

–Hãy trang bị đầy đủ các thứ binh khí gấp hơn nữa. Không bao lâu ta sẽ chiến đấu với chư Thiên. Trước đây các ngươi đã thấy rõ chỗ thù địch với họ, không bao lâu chúng sẽ đến đánh chúng ta. Ta đã nói với các A-tu-la rồi, chúng không làm gì được đâu, ta sẽ chiến đấu với chúng.

Biết được sự việc như vậy, các A-tu-la lập tức trang bị đủ các loại binh khí.

Lúc đó, A-tu-la vương Đại Lực Ba-la-ha-bà tự dùng sức mạnh với tâm không sợ sệt, chẳng cần lượng sự hơn kém nơi mình và người, đi ra khỏi thành tìm đến thành Hàm-tỳ-la thuộc cảnh giới thứ ba, tới chỗ A-tu-la vương Hoa Man.

Lúc này, A-tu-la vương Bát-ha-bà cùng với vô lượng ức na-dotha A-tu-la đến nói với A-tu-la vương Hoa Man:

–Nhanh lên! Nhanh lên! Chúng ta có thể phá tan các Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca và Tứ Thiên vương.

Nghe như thế, A-tu-la vương Hoa Man nói với các quân binh:

–Bây giờ không phải lúc chúng ta chiến đấu. Vì sao? Vì người ở cõi Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các Sa-môn, Bàla-môn, tu hành theo chánh pháp, do đó mà chúng trời đang có sức mạnh lớn, nên không phải là lúc chúng ta chiến đấu.

A-tu-la vương Bát-ha-bà nghe A-tu-la vương Hoa Man nói như vậy, liền bảo:

–Nhanh lên, nhanh lên! Đám các Long vương Bà-tu-cát, Đứcxoa-ca và chúng trời, riêng một mình ta cũng có thể phá tan được, huống gì là có thêm các ông là bạn của tôi.

Nghe A-tu-la vương Bát-ha-bà nói thế, oai lực của A-tu-la vương Hoa Man lớn mạnh thêm, lòng rất vui mừng, cùng với vô lượng ức na-do-tha A-tu-la của mình đi đến cảnh giới thứ hai.

Khi ấy, các A-tu-la vương Bát-ha-bà, Dũng Kiện và Hoa Man kéo nhau đi đến nói với A-tu-la vương La-hầu:

–Nhanh lên, nhanh lên! Hãy vì chúng tôi mà chiến đấu để phá tan chư Thiên.

A-tu-la vương La-hầu nói với các A-tu-la kia:

–Bây giờ không phải là lúc thích hợp để chúng ta chiến đấu. Vì sao? Vì người ở cõi Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn, nên được sinh lên cõi trời, khiến chúng trời có được sức mạnh lớn, nên không thể chiến đấu với trời. Này các A-tula vương, hiện tại không phải là thời điểm thích ứng.

Các A-tu-la vương nói A-tu-la vương La-hầu:

–Nhanh lên, nhanh lên! Chúng ta đến đây là để chiến đấu phá tan chư Thiên.

A-tu-la vương La-hầu liền tùy thuận theo ý của các A-tu-la kia xuất binh kéo đến biển lớn nói với Long vương ác Bát-ma-thê:

–Các A-tu-la vương nay muốn phá tan các Long vương Bà-tucát, Đức-xoa-ca.

Nghe lời nói ấy, Long vương Bát-ma-thê rất vui mừng liền đến nói với Long vương Bà-tu-cát và Đức-xoa-ca:

–Bạn ta đã đến rồi, ngươi hãy mau ra đây, ta với các ngươi có thể chiến đấu ở bất cứ nơi chốn nào.

Long vương Bà-tu-cát và Long vương Đức-xoa-ca liền ra khỏi thành, đến chiến đấu với Long vương ác Bát-ma-thê. Long vương phi pháp bị đánh phá liền kéo quân lui về. Lúc này có vô lượng ức A-tula vội vàng đuổi theo để chiến đấu với Long vương. Long vương Bàtu-cát, Long vương Đức-xoa-ca lại ra khỏi thành của mình và ở trên biển đánh với kẻ địch. Chiến trận diễn ra hết sức dữ dội: Trên hư không, hoặc tuôn mưa lửa dữ, hoặc tuôn mưa dao mác để công phạt nhau, rồi bị ái độc tự đốt cháy. Vì ngu si mà chúng đánh nhau như vậy. Nếu người ở cõi Diêm-phù-đề tu hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn thì một mình Long vương Pháp hành có thể phá tan tất cả quân A-tu-la. Nếu người ở thế gian ít hành theo chánh pháp thì A-tu-la thắng, Long vương Pháp hành sẽ thua.

Lúc rồng bị thua trận, chúng liền đi đến nói với sứ giả trời, nói rằng:

–Nhanh lên, nhanh lên! Tất cả chúng A-tu-la đều đến đánh chúng tôi. Chúng tôi đã chiến đấu với họ, cuối cùng bị thua, không sao thắng nổi.

Nghe nói vậy, sứ giả trời cấp tốc sử dụng tất cả binh khí, đến nói với Long vương Bà-tu-cát và Đức-xoa-ca:

–Nghe các ông bị A-tu-la vương đánh phá, nên tôi đến để giúp các ông đánh dẹp quân A-tu-la.

Nói xong, sứ giả trời cùng Long vương đến chiến đấu với quân A-tu-la. Lúc này, A-tu-la vương La-hầu biết sự việc nên cũng đi đến biển lớn dàn trận giao chiến với trời. Nếu như người trong thế gian thuận theo chánh pháp để tu hành thì sứ giả trời có thể phá tan quân A-tu-la một cách nhanh chóng.

Sau khi bị phá tan, A-tu-la trở về cung thành của mình. Bấy giờ, chúng A-tu-la ở cảnh giới thứ hai nghe biết sự việc ấy liền nói với quân binh:

–Các ông đừng sợ, ta hãy còn sống thì sẽ phá tan chúng trời kia, các ông có gì mà phải lo sợ.

Lúc ấy, A-tu-la vương liền đi nhanh đến chỗ sứ giả của trời nổi binh chiến đấu. Khi giao chiến nơi biển lớn, trời lại đánh thắng, đã phá tan chúng A-tu-la. Quân A-tu-la bị thiệt hại nặng. Chúng A-tu-la ở cảnh giới thứ ba nghe họ bị thua trận, liền kéo quân đến chiến đấu với trời. Cuộc chiến tàn hại lẫn nhau lại càng ác liệt.

Lúc ấy, trời bị thua, liền đi đến chỗ của trời Ca-lưu của Tứ thiên Hộ thế, nói như vầy:

–Thiên vương Đề-bà! Hãy mau đánh đuổi chúng A-tu-la vì chúng đã nhiễu loạn chúng ta.

Trời Ca-lưu nghe tâu bèn sử dụng các binh khí, tức tốc đi đến chỗ A-tu-la. Thấy chúng trời đến, A-tu-la càng nổi giận, đùng đùng đi thật nhanh đến giao chiến với chúng trời Ca-lưu và việc đánh nhau càng thêm dữ dội. Những trận chiến ác liệt nhất trong thế gian cũng không bằng trận chiến giữa chúng trời và A-tu-la này. Nếu mọi người trong thế gian thuận theo chánh pháp mà tu hành, thì trời Calưu sẽ thắng trận, A-tu-la bị phá tan.

Như thế là chư Thiên cùng với vô lượng chúng A-tu-la chiến đấu nơi biển lớn như vậy thật không thể nào ví dụ được. Có thắng có bại là do sức mạnh từ nhân duyên của chánh pháp và phi pháp, chứ chẳng phải từ nơi sức mạnh của chính mình, như trời Ca-lưu đã phá tan quân địch.

Bấy giờ, trời Hộ thế đến nói với Thiên chúng cõi trời Man trì. trời Man trì, trời Ca-lưu và sứ giả trời cùng vô số chúng của Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca nhóm họp lại một chỗ. Khi đó, A-tu-la vương La-hầu ở thành Quang minh, A-tu-la vương Song Du Hý ở cảnh giới thứ nhất, A-tu-la vương Đà-ma-hầu cùng với vô lượng ức na-do-tha a-tăng-kỳ chúng A-tu-la hợp lại thành một đại quân để chiến đấu với chúng trời. Trận chiến này rất là khủng khiếp. Nếu người ở thế gian thuận theo chánh pháp mà tu hành thì chúng trời thắng trận, quân A-tu-la bị phá tan. Tất cả đều do oai lực của chánh pháp khiến cho chúng trời được thắng, không phải do phi pháp mà được. Nếu người nơi thế gian không thuận theo chánh pháp để tu hành thì A-tu-la thắng trận. Tứ Thiên vương Hộ thế thấy sự việc ấy rồi, bèn đi đến chỗ của trời Thường tứ ý, nói:

–Hãy trang bị mau lên! Quân A-tu-la đã đánh thắng chúng trời rồi.

Trời Thường tứ ý nghe như thế rồi, bèn cùng vô lượng trăm ngàn Thiên chúng mang tất cả binh khí đi đến biển lớn để chiến đấu với A-tu-la, kêu la vang dội trong biển lớn, mong sao mau phá tan hết quân A-tu-la. Hai bên chiến đấu rất lâu và ác liệt với vô số khổ não. A-tu-la bị trời phá tan nên chạy đến chỗ A-tu-la vương La-hầu nói hết mọi việc trên. A-tu-la vương La-hầu an ủi:

–Các ông đừng lo sợ! Với sức mạnh của ta tất có thể phá tan được chúng trời. Sức trời yếu kém, sức ta rất mạnh, nhất định sẽ thắng họ, các ông hãy trở lại quyết chiến đấu.

Nghe A-tu-la vương La-hầu nói, các A-tu-la bèn kéo quân trở lại chiến đấu với chúng trời. Chư Thiên và A-tu-la lại giao chiến dữ dội, vô số dao mác đánh, chém, va chạm vào nhau thật là ác liệt. Bấy giờ, A-tu-la vương Song Du Hý ở cảnh giới thứ nhất, A-tu-la vương Đà-ma-hầu ở cảnh giới thứ hai cùng đương đầu chiến đấu với chúng trời. Nếu người ở thế gian không thuận theo chánh pháp để tu hành thì A-tu-la chiến thắng, chúng trời thất bại. Còn như người ở thế gian tu hành theo chánh pháp thì chúng trời thắng trận, quân Atu-la bị bại. Như vậy, chánh pháp là cờ thắng trận của chúng trời, chánh pháp là bậc nhất, vì chánh pháp có khả năng cứu giúp mọi người, còn hành theo phi pháp thì không thể nào cứu được. Vì tất cả A-tu-la đều hành theo phi pháp, trời suy nghĩ: “A-tu-la vương làm não loạn chúng ta, nên chúng không thắng trời được, không sánh bằng chúng trời. Vì sao? Vì người ở cõi Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, hành theo chánh pháp, cung kính các bậc trưởng lão có đức độ, tu tập thanh tịnh thực hành các pháp bát quan trai, bố thí, trì giới, tu phước, không buông lung, không gần bạn ác, thì khi qua đời, những người ấy được sinh lên cõi trời, còn A-tu-la thì theo phi pháp, không có chánh pháp để cứu độ”.

Tất cả trời suy nghĩ như vậy rồi, bèn cùng sứ giả trời, trời Man trì, trời Thường tứ ý và hết thảy Thiên chúng cầm cờ thiên pháp của trời đuổi thật nhanh theo quân A-tu-la và nói:

–Này chúng A-tu-la, hãy dừng lại mau! Ta đang ở trong cõi trời, cớ sao các ngươi cứ đến nhiễu loạn luôn như thế? Sức của các ngươi không thể nào thắng nổi chúng trời đâu, dù các ngươi có binh lính hùng mạnh bậc nhất cũng không thể thắng. Vì muốn phá tan quân binh của các ngươi nên ta đến đây. Các ngươi có tâm xấu ác với chúng trời nên các ngươi không về được cung thành của mình. Các ngươi do không hành theo chánh pháp nên không được an vui, không được tịch tĩnh.

Nói xong, chúng trời đi thẳng đến chỗ quân A-tu-la. Tất cả đều dũng mãnh với những trận mưa dao, mác dữ dội. Long vương Bà-tucát tuôn mưa lửa đỏ rực xuống quân A-tu-la. Lúc ấy, chúng A-tu-la kêu các Long vương ác Bát-ma-thê… nói:

–Các ông là bạn của tôi, hãy đến chiến đấu để dập tắt trận mưa lửa của đại Long vương Bà-tu-cát và Đức-xoa-ca.

Nghe vậy, Long vương Bát-ma-thê liền đi thật nhanh đến chỗ Long vương Bà-tu-cát. Bấy giờ hai bộ rồng cùng tuôn mưa lửa dữ thiêu đốt nhau. Trời và A-tu-la chiến đấu càng lúc càng dữ dội. Sau đó, trời thắng trận và đã phá tan quân A-tu-la, khiến họ cùng nhau dẫn quân chạy về chỗ A-tu-la vương La-hầu với bộ dạng âu sầu, tiều tụy, xin cầu cứu. Thấy thế, A-tu-la vương La-hầu an ủi:

–Các ngươi đừng lo sợ gì cả, vì đã có ta đây. Riêng mình ta hãy còn không sợ trời Đế Thích, huống chi là còn có các ngươi theo trợ lực. Chúng trời yếu kém, không thể làm gì được, thì có gì mà các ngươi phải sợ sệt! Ta sẽ nói với các đại tiên: A-tu-la vương Dũng Kiện, A-tu-la vương Hoa Man, A-tu-la vương Bát-ha-bà Tỳ-ma-chấtđa-la… Sau đó, ta sẽ đích thân đến đánh với chúng trời.

Nói rồi, A-tu-la vương La-hầu liền đến nói với các A-tu-la của cảnh giới thứ ba:

–Tất cả chúng trời, trời Tứ Thiên vương cùng tập hợp với nhau đến đây đánh phá A-tu-la chúng ta. Nay các ông hãy suy nghĩ, tìm cách gì để dẹp tan các chúng trời?

Các A-tu-la trả lời:

–Chúng ta hãy trang bị binh khí đầy đủ, sẵn sàng chiến đấu với Thiên vương Đế Thích trời Tam thập tam. Nay ông xuất binh, trời sẽ thất bại, A-tu-la ta sẽ thắng trận.

A-tu-la vương La-hầu liền dẫn binh đi đánh các chúng trời! Các chúng A-tu-la nói với A-tu-la vương La-hầu:

–Đại vương! Trời có sức mạnh lớn! Trời có sức mạnh lớn! Chúng ta không thể chiến đấu với họ được đâu.

A-tu-la vương La-hầu bèn đi đến chỗ các chúng trời, tuôn mưa dao, mác để chiến đấu. Khi đó, thấy A-tu-la tuôn mưa dao, mác thì chúng trời sai rồng mưa lửa dữ đến thật nhanh để phá dẹp quân của A-tu-la vương La-hầu. Cuộc chiến càng kịch liệt không thể kể xiết. Nếu người nơi cõi Diêm-phù-đề tùy thuận hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, cung kính các bậc trưởng lão, thì chúng trời được thắng lợi, quân A-tu-la thất bại. Còn như người ở thế gian không thuận theo chánh pháp để tu hành… thì chúng trời thất bại, quân A-tu-la thắng trận. Như vậy, tất cả đều do sức mạnh của chánh pháp và phi pháp mà trời và A-tu-la đánh nhau có thắng, có bại. Nếu A-tu-la thắng thì chúng trời bị thua to. Tất cả chúng trời cùng tâu:

–Đề-bà, Đề-bà! Nên nghĩ nhớ đến chánh pháp, vì nhờ có chánh pháp nên chúng trời được thắng lợi. Nhờ có chánh pháp mà chúng trời được tăng trưởng. Cho nên, này chư Thiên, phải có lòng cung kính, tư duy luôn nhớ nghĩ về chánh pháp.

Sau đó, tất cả chúng trời cùng đi đến chỗ quân của A-tu-la và luôn luôn nhớ nghĩ đến chánh pháp. Nhờ đó được pháp ủng hộ, oai đức sáng tỏ, tất cả đều tăng trưởng hơn một trăm lần lúc trước. Thấy chúng trời có oai đức sáng rỡ như vậy, quân của A-tu-la đều khiếp sợ, A-tu-la vương nói:

–Vì đâu các ngươi khiếp sợ đến như vậy? Oai đức của trời làm sao sánh bằng chúng ta, cả dao mác, binh khí chiến đấu cũng không bằng chúng ta. Nay đây vì sao các ngươi lại quá khiếp sợ?

Nghe A-tu-la vương an ủi, các quân binh đều cố gắng hết sức lực. Lúc đó, A-tu-la vương La-hầu quay lại chỗ chúng trời. Chúng trời nhờ có sức mạnh của chánh pháp nên vội vàng tiến đến chỗ Atu-la quyết tâm giao chiến. Trong hàng ngũ của A-tu-la, A-tu-la vương Đại Lực La-hầu giống như núi chúa Tu-di thứ hai. Chúng trời nhờ uy lực của chánh pháp mà đánh phá được quân A-tu-la vương La-hầu. Như vậy, trong các sự cứu giúp thì chánh pháp là bậc nhất. Trong tất cả ánh sáng, ánh sáng của chánh pháp là hơn hết.

Thấy quân binh của mình đều bị thất bại, A-tu-la vương La-hầu khiếp sợ, bèn an ủi chúng A-tu-la:

–Này các chúng A-tu-la, đừng có sợ hãi! Trượng phu sao mà yếu hèn giống như chim, như quạ vậy? Cứ nghĩ đến bản thân mình thì làm sao dũng mãnh như đại trượng phu? Các ông cần phải hiểu biết thấu rõ về luận pháp thì không có gì phải lo sợ. Các ông cũng đã từng thấy có vô số quân binh bị phá trừ, tan rã, thì có gì phải buồn lo?

Nghe A-tu-la vương La-hầu an ủi, các A-tu-la rất vui mừng, tăng lòng kiêu mạn, quay lại chiến đấu với chúng trời. Tâm kiêu mạn, A-tu-la vương La-hầu đứng trước quân binh của mình, tất cả Atu-la đều nương nhờ vào A-tu-la vương La-hầu để được ủng hộ, vì Atu-la vương La-hầu là bậc tối cao của họ.

Như thế là hết thảy A-tu-la đều hướng tới chỗ của Tứ Thiên vương. Tất cả A-tu-la đều dựa vào sức mạnh của A-tu-la vương Lahầu mà có khí lực. A-tu-la vương La-hầu đang đi trước đám quân binh, sức mạnh của vương ấy có thể phá tan Thiên chủ Kiều-thi-ca, huống hồ là Tứ Thiên vương!

Hai bên cùng nhau đối địch, tuôn những trận mưa dao mác, mưa đá tảng lớn, giống như ngọn núi lớn từ trên hư không rơi xuống để hủy hoại chúng trời. Thấy vậy, trời Hộ thế nói lời chúng trời:

–A-tu-la vương La-hầu tuôn mưa núi đá lớn. Các ngươi hãy tuôn mưa đao, kích, mâu, giáo, đừng để chúng trời phải bị thua trận.

Nói xong, trời Hộ thế cùng chúng trời dốc sức đánh nhau ác liệt với A-tu-la vương La-hầu. Mưa đao, mưa đá từ trên không rớt xuống biển lớn, khiến nước bắn tung tóe. Trời tuôn mưa đao kiếm làm tổn hại vô số trăm ngàn loài chúng sinh trong biển, hoặc chết, hoặc sợ hãi chạy trốn, khắp biển lớn đều nổi lên đầy những bèo bọt. Các chúng trời và A-tu-la khác trông thấy cuộc chiến đấu ác liệt này đều nghĩ: “Thật là một trận chiến chưa từng có!”.

Cuộc chiến như vậy, cứ kéo dài mãi không dừng. Nếu người trong thế gian tu hành theo chánh pháp, thì cho dù tất cả chúng A-tula có nhiều kỹ thuật về đao, giáo, mâu, kiếm, mạnh mẽ, không sợ gì cả, cũng bị chúng trời phá tan trong chốc lát. Nếu người trong thế gian không thuận theo chánh pháp thì A-tu-la vương La-hầu đánh thắng chúng trời. Cho nên chánh pháp là bậc nhất, chánh pháp là tối thắng. Tất cả các pháp đều có nhân duyên.

Sau khi A-tu-la vương La-hầu bị thất bại nặng nề, thì mất hết sức lực, còn các A-tu-la đều đau buồn, chán nản, không muốn chiến đấu nữa. Thấy quân binh buồn bã, tiều tụy, không còn tinh thần chiến đấu, A-tu-la vương La-hầu nói:

–Này các A-tu-la, chớ có đau buồn khiến tâm yếu đuối. Đừng có lo sợ gì cả! Nếu ta và các ngươi về cung thành cũ thì sẽ sống không an vui. Do đó các ngươi đừng trông mong trở về chốn ấy. Hãy mạnh mẽ, oai hùng lên để tăng thêm sức mạnh, trở lại chiến trường, đừng quay về chốn cũ nữa!

Nghe nói như vậy, chúng A-tu-la đều quay trở lại chỗ Tứ Thiên vương để tiếp tục chiến đấu. Những trận mưa đá lớn, sấm sét trút từng cơn mưa, mây đen mù mịt, ai thấy cũng đều rợn người. Sau đó, trời lại chiến thắng, quân A-tu-la bị thất bại.

Tất cả A-tu-la suy nghĩ: “Trời có sức mạnh lớn. Ta nên đến thành Tinh man của cảnh giới A-tu-la thứ hai để cầu A-tu-la vương cứu giúp có được lợi ích an lạc để đánh thắng các chúng trời”.

A-tu-la vương của thành ấy tên Dũng Kiện, vị này rất mạnh mẽ, dũng cảm, đã từng chiến đấu trăm ngàn lần với chúng trời, cho đến thắng luôn cả Thiên chủ Kiều-thi-ca Đề-bà. A-tu-la vương này giỏi hơn hết thảy.

Suy nghĩ như vậy xong, tất cả A-tu-la cùng nhau đến gặp A-tula vương Dũng Kiện, thưa:

–A-tu-la vương, chúng trời có sức mạnh lớn, A-tu-la vương La-hầu đã chiến đấu với họ nhưng không thể nào thắng trận. Bây giờ đại vương hãy mau đến đó, đem sức mạnh của mình để cứu giúp, giúp đỡ chúng A-tu-la tăng thêm khí thế. Nếu đại vương khởi binh thì cả Thiên chủ Đế Thích cũng không thắng được quân A-tula, huống chi là các chúng trời khác. Đại vương đã từng đánh bại các chúng trời trong các trận chiến, là người nổi tiếng nhất trong hàng A-tu-la. Đại vương hãy mau thống lãnh binh chúng, dương oai diệu võ chiến đấu phá tan chúng trời. Trước kia, đại vương đã phá trừ tay kim cương của họ cả trăm ngàn lần. Nay đây, giữa các chúng trời, đại vương hãy dùng sức dũng mãnh biểu dương oai phong của mình.

Nghe nói vậy, A-tu-la vương Dũng Kiện liền đến gặp A-tu-la vương Hoa Man và Tỳ-ma-chất-đa Bát-ha-bà, nói:

–Chúng trời đã thắng, họ đã phá tan A-tu-la vương La-hầu và quân binh của ông ta. Bây giờ các ông hãy nghe tôi đến chiến đấu với chúng trời, nhất định tôi sẽ chiến thắng.

A-tu-la vương Hoa Man, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa Bát-habà nói với A-tu-la vương Dũng Kiện:

–Hãy đi mau, hãy đi mau! Là bạn của ông, tôi có thể phá tan các chúng trời. Nếu ông giúp đỡ cho A-tu-la vương La-hầu thì có thể đánh bại được tất cả chúng trời, huống chi là Tứ Thiên vương.

Nghe như vậy, A-tu-la vương Dũng Kiện liền đến chỗ của Atu-la vương La-hầu để trợ chiến khiến chúng A-tu-la rất vui mừng, làm tăng thêm sức mạnh. A-tu-la vương Dũng Kiện mang đủ binh khí như đao, mâu, tên, giáo, đi thẳng đến chỗ chúng trời để chiến đấu, tên bắn ra như mưa. Lúc ấy, chúng trời thấy hai A-tu-la này dẫn đại quân đến, liền nói:

–A-tu-la ấy luôn không biết xấu hổ, cứ đến làm nhiễu loạn chúng trời, thật là đồ súc sinh! Ta luôn đánh thắng các ngươi, vậy mà các ngươi vẫn còn đến, không chịu khuất phục.

Nói xong, chúng trời dốc sức đôn đốc quân binh, khí giới, ai nấy đều mạnh mẽ quyết giao chiến với A-tu-la. Thấy chúng trời, Atu-la vương Dũng Kiện, A-tu-la vương La-hầu, nói:

–Chúng trời các ngươi hãy xuống đây để giao chiến với ta. Ta sẽ cùng các ngươi dàn trận để tranh tài cao thấp.

Hai A-tu-la vương trù tính như vậy, liền đi thật nhanh đến chỗ Tứ Thiên vương quyết chí đánh thắng kẻ địch. Nếu mặt trời ở sau chúng trời tức là ở trước mặt chúng A-tu-la. Vì ánh sáng mặt trời chiếu vào mắt chúng A-tu-la, nên họ không thể nào hại chúng trời, cũng không sao tuôn mưa đao, gậy, kiếm, mác. Mắt họ không sao nhìn thẳng vào chúng trời, nên nói với nhau là ánh sáng ấy quá chói lòa chiếu vào mắt họ, nên không thể nào chiến đấu với chúng trời được.

Khi ấy, A-tu-la vương La-hầu liền lấy một tay che ánh sáng mặt trời. Đây là nguyên nhân thứ ba về nhật thực. Người đời thấy vậy, vì tâm ngu si nên nói với nhau:

–Hôm nay mặt trời bị ăn.

Hoặc nói đất nước sẽ được mùa, mất mùa, lũ lụt, hạn hán, vua có việc lành, dữ, tai họa, an lành, dân chúng bị bệnh dịch, hoặc không hề gì.

Tất cả điều này là không có thực, chỉ do vọng tưởng phân biệt, lời nói của kẻ ngu si vì không nhận biết đúng như thật. A-tu-la vương La-hầu ngăn che ánh sáng mặt trời, rồi nói với A-tu-la vương Dũng Kiện:

–Bây giờ thì chúng ta thấy chúng trời dễ dàng rồi. Chúng ta có thể dùng dao, kiếm, các thứ vũ khí, binh lính để đánh phá chúng trời.

Lúc này, A-tu-la vương Dũng Kiện chạy lên phía trước, vội vàng đuổi theo chúng trời và tuôn mưa dao mác. Thấy vậy, chúng trời liền sử dụng đủ các khí cụ để chiến đấu, rồi cùng chạy thật nhanh đến chỗ A-tu-la vương Dũng Kiện và tuôn mưa dao, kiếm, mâu, giáo để đánh lại, cùng hướng đến trời Man trì. Thấy vậy, Thiên chúng trời Man trì khen ngợi:

–Hay quá, hay quá! Này các A-tu-la vương, chúng trời của ta luôn đánh thắng các ngươi, sao các ngươi không biết xấu hổ, không biết chán nản? Ta nhờ vào sức mạnh của chánh pháp, hành đúng chánh pháp, nương tựa vào chánh pháp, tu tập theo chánh pháp, không lìa bỏ chánh pháp, cho nên chúng tôi đã chiến thắng. Các ngươi vì nhiều lòng tham sân, đắm vướng của cải nơi người khác để mong về phần mình, luôn luôn tham cầu. Các ngươi không tu hành theo chánh pháp. Chúng trời tùy thuận với mười đạo nghiệp thiện mà sao các ngươi cứ đến quấy nhiễu, phá hoại? Ánh sáng luôn phá tối tăm, cho nên sức mạnh của ánh sáng luôn vượt trội hơn hết.

Nghe chúng trời nêu bày như vậy, A-tu-la vương Dũng Kiện nói:

–Cần gì các ngươi phải nói nhiều như thế? Ta thấy các ngươi chiến thắng là vì có oai đức của thần thông, còn chúng ta thì chỉ dựa vào sức của chính mình để đánh nhau với chúng trời. Vì thấy oai đức của chúng trời hơn hết nên bọn ta không thể thắng nổi.

Nói xong, A-tu-la vương Dũng Kiện bèn đi thẳng lên phía trước hướng tới trời Man trì. Thấy vậy, chúng trời Man trì liền tuôn mưa đủ loại cung tên bắn vào chúng A-tu-la, không chỗ nào xen hở cả. Cùng lúc, phía trên đầu A-tu-la vương Dũng Kiện lại có mưa xuống vô số dao, kiếm. Trời Man trì nói với chúng A-tu-la:

–A-tu-la! Vì sao các ngươi lắm lòng tham lam vậy? Các ngươi gây ra nghiệp ác để rồi tự hủy hoại chính mình. Vì sao lại gây chiến với trời? Phi pháp không thể nào phá hoại chánh pháp được. Ta đã không làm suy não các ngươi, cớ sao các ngươi cứ đến quấy nhiễu chúng trời?

Mặc dù trời Man trì đã nêu bày như thế, nhưng chúng A-tu-la vẫn đuổi theo chúng trời. Bấy giờ, trời Man trì nói với Long vương Bà-tu-cát và Đức-xoa-ca:

–A-tu-la vương Dũng Kiện này thật là kiêu mạn, tự ỷ mình có sức mạnh nên khó mà chế ngự được. Nay các ông hãy giáng mưa lửa dữ xuống chúng A-tu-la để cho họ mất hết sức lực, bị phá trừ mà rút về.

Nghe xong, Long vương Bà-tu-cát và Đức-xoa-ca liền ở trên hư không tuôn mưa lửa dữ dội xuống thiêu đốt các Long vương ác Bátma-thê… Long vương Bà-tu-cát lại chạy thật nhanh lên phía trên Atu-la vương Dũng Kiện phóng ra sấm sét, mưa lửa dữ mù mịt tấn công quân A-tu-la. Bị rồng phun lửa dữ, A-tu-la vương nổi giận đùng đùng, tay bưng núi đá lớn khoảng tám trăm dặm quăng vào chỗ trời Man trì. Lúc ấy, trời Ca-lưu bất chợt nhìn thấy, liền mưa lửa dữ thiêu rụi núi đá kia. Thấy núi đá bị cháy rụi, A-tu-la vương mất hết sức lực. A-tu-la vương Dũng Kiện nói với chúng trời:

–Núi này bị cháy rụi, ta sẽ ném núi khác vào các ngươi.

Nói xong, A-tu-la vương Dũng Kiện tay bưng núi lớn khác ném vào chúng trời. Chúng trời nói với A-tu-la:

–Ngươi đã không có chánh pháp mà còn tạo ra phi pháp nên ngươi không thể thắng ta được đâu, vì ta sống trong chánh pháp, còn các ngươi thì sống trong phi pháp.

Chúng trời đã chê bai chúng A-tu-la như thế.

Nghe vậy, A-tu-la vương La-hầu liền dẫn quân binh chạy nhanh đến phía chúng trời. Thấy thế, chúng trời cũng ào tới giao chiến với A-tu-la và hai bên dùng đủ thứ binh khí như dao, mác công phạt nhau kịch liệt.

Nói pháp rồi, trời thành tâm nhớ nghĩ, quy y Tam bảo và tiến thẳng về phía quân A-tu-la. Thấy chúng trời đến, tất cả đám A-tu-la đều rút quân, phân tán làm trăm ngàn ngả để lui hết xuống biển. Rồng phi pháp Bát-ma-thê ác nói với A-tu-la:

–Chớ có lo sợ, chớ có lo sợ! Nay các ông bỏ tôi rồi thì định đi đâu? Tôi có thể ngăn cản Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đứcxoa-ca, còn riêng ông một mình chiến đấu với chúng trời để đánh thắng chúng. Nếu sợ hãi, sao trước đây ông đi một mình ra khỏi thành để đến nơi này? Ngươi không tự xét kỹ về sức của mình mạnh hay yếu, tại sao lại gây oán thù với chúng trời. Nếu ngươi bỏ oán thù thì nên trở về cung thành của ông đi. Long chúng của chúng tôi không đi đâu cả, vì Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca là oán địch của tôi, làm sao tôi đi được.

Nghe nói như vậy, các A-tu-la trở lại giao chiến với chúng trời. Khi đó, các Long vương ác không thể nào ngăn cản được chúng Long vương như pháp, nên trong tức khắc, quân A-tu-la bị tan rã, rút về dưới biển, vào cung thành của mình. Thấy quân binh của mình thất bại trở về, A-tu-la vương sai một A-tu-la đến nói với A-tu-la vương Hoa Man ở cảnh giới thứ ba:

–Thưa đại vương! Xin hãy nhanh lên. Trời có sức mạnh lớn đã đánh thắng tất cả quân A-tu-la đã tan thành bốn ngả để chạy trốn. Đại vương, trước đây ông đã từng đánh với chúng trời và được nổi tiếng là anh dũng. Nay cũng vậy, ông có cách gì để phá tan chúng trời? Nếu đại vương đến, cả Thiên chủ Đế Thích còn không thể nào thắng được, huống chi là các chúng trời khác.

Nghe vậy, A-tu-la vương Hoa Man suy nghĩ tính kế, rồi cùng với vô số ức chúng A-tu-la hộ vệ, sử dụng tất cả binh khí như dao, mác, giáo, mâu, trang bị vào thân rất đầy đủ, rồi đi đến nơi để tiếp tục chiến đấu. Vừa đi vừa hô to, dõng dạc, âm thanh vang dội khắp bốn phương. Thấy việc này, A-tu-la vương La-hầu nói với A-tu-la vương Dũng Kiện:

–A-tu-la vương Hoa Man đến đây là để làm cho chúng ta tăng thêm sức mạnh mà phá tan chúng trời. Các ông nay nên trở về đi. Atu-la vương Hoa Man đến, tôi có sức mạnh lớn rồi.

Quân binh nghe vậy liền trở lại giao chiến với chúng trời. Bấy giờ, Tứ đại Thiên vương nói với chúng A-tu-la:

–Các ngươi thuộc pháp súc sinh nên trời luôn chiến thắng, phá tan các ngươi. Vậy mà các ngươi cứ quay trở lại. Các ngươi vì ngu si đã làm thiệt hại quân binh của mình.

Nói vậy rồi, Tứ Đại vương hướng đến quân A-tu-la rượt đuổi thật nhanh. Thấy chúng trời đã đến, A-tu-la vương Hoa Man nói với quân binh của mình:

–Các A-tu-la đừng lo sợ, hãy chiến đấu với chúng trời. Sao các ngươi không hợp lại để đánh lại chúng trời? Đừng có khiếp sợ vì đã có ta đây rồi! Riêng một mình ta cũng có thể đánh tan chúng trời, huống chi còn có A-tu-la vương Dũng Kiện là bạn thân của ta, A-tula vương La-hầu sư tử con cũng là bạn của ta! Các ngươi cứ chiến đấu, đừng nên lo sợ! Hãy làm tăng oai lực để phá tan chúng trời, khiến A-tu-la lớn mạnh, được chiến thắng. Hãy dốc hết sức thật dũng mãnh để chiến đấu với họ.

Ra lệnh như vậy rồi, A-tu-la vương Hoa Man liền cùng các Atu-la khác đến chỗ trời Man trì, trời Thường tứ ý, trời Ca-lưu, trời Tam không hầu, chỗ của các vị trời này đất toàn bằng lưu ly. Các trời đều rất thích thú, nói:

–Chúng tôi không cần trời Tam thập tam của Thiên chủ Đế Thích để có thể luôn phá tan quân A-tu-la. Nhờ sức mạnh của chánh pháp, lấy chánh pháp làm bạn.

Bấy giờ, A-tu-la ở trong biển lớn đều lên hết trên biển và tập trung lại, chuẩn bị chiến đấu với trời. Lúc này chúng trời thấy quân binh A-tu-la tập hợp rồi, nên cùng bàn luận:

–Tất cả đám A-tu-la vương Hoa Man ở cảnh giới thứ ba có sức mạnh lớn, chúng đều tập hợp đến cả đây.

Nói xong, chúng A-tu-la đều kéo đến chỗ chúng trời. Thấy vậy, chúng trời nói với A-tu-la:

–Hãy đến đây đừng hòng phá được chúng trời. Ta đã có sức mạnh lớn. Vì sao? Vì người ở cõi Diêm-phù-đề tùy thuận tu hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các Sa-môn, Bàla-môn, vui thích chánh pháp, tu hành theo pháp lành, nên sau khi qua đời, họ được sinh lên cõi trời, thế nên ngày nay chúng ta thắng các ngươi, vì có được uy lực mạnh lớn bậc nhất, không ai sánh bằng. Chúng trời của chúng ta là như pháp, thuận theo chánh pháp mà tu hành, không làm não loạn các ngươi. Các ngươi hành theo phi pháp, luôn não loạn chúng trời.

Mặc dù chúng trời nói vậy, nhưng chúng A-tu-la không chấp nhận lời nói ấy, liền xuống chiến đấu với chúng trời. Ngay khi đó, chúng trời hiện ra đầy khắp hư không, ào xuống đánh quân A-tu-la. Hai bên giao chiến với nhau, âm thanh làm chấn động cả biển lớn, làm cho cá, rùa, ba ba, cá đại ma kiệt, cá na-ca thố đều hoảng sợ chạy tán loạn thành trăm ngàn ngả. Chúng trời tiến đánh dữ dội tạo ra những trận mưa binh khí nào mâu, giáo, kích. Trời và A-tu-la chiến đấu kịch liệt như vậy. Bấy giờ, A-tu-la vương Hoa Man nói với chúng trời:

–Những trận chiến trước đây ta không đến kịp lúc nên để cho các ngươi phá tan. Nay ta đã đến đây rồi, ta sẽ đánh dẹp bọn ngươi. Riêng một mình ta cũng có thể đánh bại trời Đế Thích, huống chi là chúng trời Tứ Thiên vương các ngươi. Thế nên nay ta có thể phá tan chúng trời các ngươi.

Nói vậy, A-tu-la vương Hoa Man liền đi đến chỗ trời Man trì. Thấy A-tu-la vương Hoa Man đến, trời Ca-lưu liền đi tới chỗ A-tu-la vương Hoa Man. Chúng A-tu-la đánh phá quân của trời Ca-lưu bằng cách đứng bên biển cả bưng các tảng đá lớn vuông bốn trăm dặm, hoặc ba trăm, hai trăm, một trăm dặm, hoặc một do-tuần đang cháy dữ dội, quăng vào chúng trời Ca-lưu. Chúng trời thấy vậy, liền quy y Tam bảo, tư duy nhớ nghĩ đến chánh pháp, rồi dùng cung tên bắn lại, khiến các núi đá ấy nát vụn như cát, rơi xuống biển. Thấy việc làm không có công hiệu, chúng A-tu-la liền lấy kích lớn đến đối đầu đánh với chúng trời. Từ hư không, chúng trời tuôn mưa đá kim cương làm nát vụn đao kích của chúng A-tu-la. Quân A-tu-la thất bại tan tác. Khi ấy, A-tu-la vương Dũng Kiện chạy trở lại chỗ trời Thường tứ ý để chiến đấu. A-tu-la vương lấy một ngọn núi Đại vi tên là Ba-lợikhư ngang rộng năm trăm do-tuần, nói với chúng trời:

–Nay ta sẽ phá tan chúng trời các ngươi. Hết thảy bọn trời kia, ta sẽ cho chúng ngươi xuống hầu vua Diêm-la.

Nói xong, A-tu-la vương tiến thẳng tới chỗ trời Thường tứ ý. Lúc này, trời Hộ thế thấy việc này liền đón lấy ngọn núi Đại vi đánh vào ngực A-tu-la. Quân A-tu-la trong tức khắc liền bị phá tan, nên rút hết xuống biển lớn, trở về chốn cũ. Quân binh trời thấy A-tu-la rút lui thì quân của A-tu-la vương Đà-ma-hầu đều chạy tán loạn, khiếp sợ suýt chết, chen nhau trở về trú xứ. A-tu-la vương La-hầu và quân binh của mình đi thật nhanh về phía cõi trời Tam không hầu, tự dùng sức của mình để chiến đấu với chúng trời. Chư Thiên thấy vậy, liền từ phía trên đầu A-tu-la vương La-hầu tuôn mưa lửa dữ cháy rực thiêu đốt quân A-tu-la. A-tu-la và quân binh bị bại trận vội rút chạy hết xuống biển. Thấy quân A-tu-la đã bỏ chạy, chúng trời rất vui mừng, còn A-tu-la vương thì âu sầu xơ xác, sức mạnh của kẻ trượng phu đều bị tan hoại, phải chạy về biển, bước vào cửa thành mong được cứu giúp, mong có chỗ nương tựa.

Chúng trời biết binh chúng A-tu-la đã rút hết xuống biển, nên liền trở về đỉnh núi cũ, nói:

–Mặc dầu ở trên núi Tỳ-lưu-ly nhưng chúng trời vẫn sợ các Atu-la quay lại. Vì sao? Vì trong số A-tu-la vương có A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà, có sức mạnh lớn, tối thắng bậc nhất, có thể cứu giúp tất cả chúng A-tu-la nhưng chưa tới đây. Nếu A-tu-la vương ấy bị thất trận thì tất cả A-tu-la cũng đều bị phá tan.

Nói xong, hết thảy chúng trời đều vui mừng, khí lực tăng trưởng. Chúng trời cùng nhau nhìn ra xa, thấy quân binh A-tu-la quyết chí đánh nhau với chúng trời. Lúc này các Long vương Pháp hành là Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca đã phá tan quân của Bát-ma-thê. Số binh chúng bị thương còn lại đều chạy về thành Hý lạc cầu cứu A-tula vương Bát-ha-bà hòng đánh phá chúng trời nên nói:

–Hãy cứu giúp chúng tôi! Nếu không thể phá tan chúng trời thì họ lại thắng trận, khiến cho chúng trời tăng trưởng. Bạn của A-tu-la là Long ác Bát-ma-thê đang ở trong thành sầu khổ hết mực, quân binh A-tu-la cũng sầu khổ, buồn bã.

Bấy giờ, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la nghe A-tu-la vương Hoa Man, A-tu-la vương Dũng Kiện, A-tu-la vương La-hầu ở cảnh giới thứ ba bị thua trận tan tác, mất hết sức lực. Khi đó, có A-tu-la tâu với A-tu-la vương Bát-ha-bà:

–Quân chúng bị phá tan hết cả, không ai có thể cứu được. Chỉ đại vương là người gồm đủ sức mạnh có thể cứu giúp quân binh kia.

A-tu-la vương Bát-ha-bà nói:

–Ngươi hãy mau mau quan sát xem ba A-tu-la vương kia hiện nay đang ở đâu?

A-tu-la thưa:

–Hiện nay tất cả đều bị chúng trời đánh bại và đã lui về nơi đáy biển lớn, tất cả đều mất hết uy lực, nên trở về trông mong đại vương Bà-la-ha-bà cứu giúp. Các vị đó rất xấu hổ, ở tạm ngoài cửa không dám vào thành.

Nghe như thế, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà nói với A-tu-la kia:

–Trong lúc các A-tu-la chiến đấu với chúng trời thì Thiên chủ Thích-ca có ở đó không?

A-tu-la thưa:

–Thiên chủ chưa bao giờ đến đó.

A-tu-la vương Bát-ha-bà đùng đùng nổi giận, mắt đỏ như máu, toàn thân rung động, nhìn A-tu-la nói:

–Chỉ Tứ Thiên vương thôi mà phá tan ba cõi của A-tu-la, khiến các A-tu-la phải mất hết khí lực. Quân A-tu-la còn lại chẳng làm gì được vì bị chúng trời kia đánh tan. Nay ta sẽ đến tiêu diệt tất cả cõi trời.

A-tu-la vương Bát-ha-bà nói xong, các A-tu-la đều có thêm oai lực. A-tu-la vương ra lệnh cho quân chúng:

–Hãy mau đánh trống ra lệnh, ta đích thân đem quân binh đến đánh chúng trời, khiến chúng phải bị tan tác, suy não, cả vua Đế Thích cũng vậy. Một mình ta có thể đánh thắng chúng được rồi. Nay chúng trời phá tan chúng A-tu-la, ta không thể ngồi yên mà nhìn. Nếu không có ta thì có thể nói là chư Thiên có uy lực lớn, nhưng ta vẫn còn đây thì làm sao chúng trời có thể tăng sức mạnh để mong đoạt con gái A-tu-la của ta.

Nói vậy rồi, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà đánh trống đại chiến, nói với chúng A-tu-la:

–Hãy trang bị nhanh lên. Ta nay muốn đánh các chúng trời để cho chúng A-tu-la được lớn mạnh.

Ra lệnh xong, A-tu-la vương Bát-ha-bà đích thân dẫn theo một trăm ngàn cỗ xe với vô lượng trăm ngàn ức quân A-tu-la uy quang như mặt trời. Lúc mới xuất phát, tất cả sông núi nơi đại địa như núi Càn-đà-la, núi chúa Tu-di đều chấn động mạnh. Ngay cả tòa ngồi của Thiên chủ Đế Thích trên Thiện pháp đường trong thành Thiện kiến cũng lay động không đứng yên.

Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích suy nghĩ: “Chỗ ngồi của ta bị lay động, chắc chắn là A-tu-la vương quyết chiến đấu với chúng trời,

nên khiến chỗ ta ngồi mới bị lay động như vậy.” Thế rồi, trời Đế Thích nói với chúng trời:

–Nếu A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la khởi binh thì núi chúa Tu-di, hang sâu, vườn rừng đều chấn động mạnh. Chúng trời Tam thập tam các ngươi hãy mau mau trang bị đầy đủ binh khí đợi A-tu-la vương kia đến. A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà nổi dậy, đến đánh phá chúng trời, nay ta cũng đích thân cỡi voi Y-la-bà-na cùng với các chúng trời đến nơi ấy để chiến đấu. Vì sao? Vì ta thấy chúng trời có khả năng chiến đấu với A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đala Bát-ha-bà.

Thiên chủ Đế Thích nói xong, thì tất cả Thiên chúng trên Thiện pháp đường, trong thành Thiện kiến, mỗi mỗi thiên cung đều được ra lệnh: Rời khỏi thành Thiện kiến để quyết chiến đấu với Atu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà. Nghe xong, tất cả chúng trời đều vào rừng Chất-đa-la lấy tất cả binh khí. Vườn này đều có đầy đủ những dụng cụ chiến đấu. Bấy giờ, có cả trăm ngàn ức, vạn ức chúng trời chen nhau vào rừng ấy lấy tất cả dụng cụ chiến đấu. Tiếng binh khí va chạm vào nhau giống như tiếng sóng gầm, tất cả đều tấp nập, bụi tung đầy cả hư không. Thiên chúng đông đảo ấy, có chúng đi trên hư không, có chúng đi trên sườn núi, hoặc trong hang núi, cả thảy đều dàn khắp trận chiến, không có chỗ nào thiếu hở. Lại có các chúng trời đang dạo chơi trong rừng, nghe tiếng trống liền chạy tới rừng Chất-đa-la, bỏ qua những sự vui chơi, liền sử dụng binh khí, hết thảy hàng trăm vạn ức chúng trời đều cùng chiêm ngưỡng Thiên vương Đế Thích.

Thấy chúng trời như vậy, Thiên vương Đế Thích rất vui mừng, ngồi nơi bảo điện tráng lệ, được trang nghiêm bằng bảy báu, châu ngọc, vàng ròng, tỳ-lưu-ly, pha lê, xa cừ, ca la, ma-ni cùng dây lưới báu trời treo các linh báu đẹp đẽ, khác lạ. Do Đế Thích tạo tác nghiệp thiện theo đấy mà hưởng phước báo nên có được cung điện thù thắng này. Ánh sáng nơi thân Đế Thích hiện rõ, lộ ra oai đức không ai sánh bằng. Các chúng trời đứng đầy khắp nơi đỉnh, nơi sườn núi chúa Tu-di, hoặc ở trên hư không, cả thảy hàng trăm ngàn chúng đều cùng chiêm ngưỡng Thiên vương Thích-ca. Họ đang đợi xem Thiên chủ chiến đấu với A-tu-la vương. Ai nấy đều suy nghĩ, đặt ra các phương cách. Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích nói với ngự quan:

–Này hiền sĩ, ông hãy đến nói với voi trắng sáu đầu Y-la-bà-na vì nó có đầy đủ mọi năng lực của loài rồng lớn. Ta sẽ cỡi voi ấy để dẹp tan quân A-tu-la.

Nghe vậy, ngự quan liền đến ao hoa sen Như ý, nơi đây voi trắng sáu đầu Y-la-bà-na đang dạo chơi cùng với bầy voi. Vị quan hầu nói với voi con:

–Thiên chủ Thích-ca muốn cỡi voi báu để xua đuổi quân A-tula.

Voi con nghe vậy liền nói với voi báu. Voi Y-la-bà-na nghe lệnh bèn cùng người giữ voi đến chỗ của ngự quan, rồi tới Thiện pháp đường, quan hầu vào thưa Đế Thích:

–Thiên vương, voi báu bậc nhất nay đã đến rồi, xin thưa Thiên vương rõ.

Lúc này, Thiên chủ Đế Thích liền dùng sự nhớ nghĩ hóa voi báu này có trăm đầu, mặt mày sáng sủa, sạch sẽ, mỗi đầu có mười ngà thảy đều trắng sạch, trên mỗi ngà có mười ao hoa, trong mỗi ao hoa có ngàn hoa sen, mỗi hoa sen có mười đài hoa, mỗi đài hoa có trăm cánh, trong mỗi cánh hoa có trăm ngọc nữ dùng năm loại âm nhạc để ca hát vui chơi, phát ra âm thanh thánh thót không gì sánh bằng. Y-la-bà-na là voi báu thù thắng như vậy, được Thiên vương Đế Thích biến hóa khiến thân to lớn cả ngàn do-tuần, màu sắc đẹp, trắng tinh, không gì hơn. Đế Thích cỡi lên mình voi để đến phá tan quân A-tu-la. Vô số các loại kỹ nhạc được tấu lên, hoặc có ca múa, hoặc có vui đùa, hoặc hò reo, kêu gọi, hết thảy đều hiện rõ uy đức đẹp đẽ khác lạ, rồi lần lượt rời khỏi thành Thiện kiến. Chúng trời thấy vậy liền ngự trên các bảo điện đủ màu sắc khác nhau và trang bị binh khí. Những kỹ nhạc, ca múa, đùa vui phát ra âm thanh vang động dồn dập khiến chư Thiên cùng nhau vui mừng, sung sướng, thấy Thiên chủ Đế Thích, họ càng vui vẻ gấp bội.

Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích ngồi ngay thẳng trên mình voi báu. Chỗ của vua ngồi nhờ diệu lực của công đức hợp thành, có vô lượng chúng trời vây quanh, oai nghiêm bậc nhất, các chúng trời khác cũng vây quanh bên Đế Thích. Ánh sáng của Thiên chủ cõi trời Tam thập tam sáng hơn trăm ngàn ánh sáng mặt trời, tỏa chiếu đầy cả hư không. Tiếng các kỹ nhạc hòa tấu vang khắp hai vạn do-tuần, dội xuống đến chỗ chiến đấu của A-tu-la. Lúc này, Tứ Thiên vương Hộ thế phát ra âm thanh lớn, bay lên hư không, đến chỗ Thiên chủ Đế Thích và gặp Thiên chủ cõi trời Tam thập tam ở giữa hư không, thưa:

–Thưa Thiên vương! A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-

bà quyết đánh phá chúng trời, làm cho tất cả nơi chốn trong biển lớn đều náo loạn không yên, đến nỗi khiến cả trăm ngàn ngọn núi đều lay động. Chúng A-tu-la ra oai, vui mừng phát ra tiếng rất đáng sợ. Các loài cá và rồng nhỏ trong biển lớn đều mất hết sức lực. Vô số chúng sinh như quỷ La-sát nhỏ, quỷ Tỳ-xá-già đều bỏ mạng. Long ác hành theo phi pháp Bà-la-ma-thê thì vui mừng hả hê gầm hét như sấm động. Còn các Long vương pháp hành: Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca thì âu sầu, lo lắng, tự giữ lấy thân mạng. A-tu-la vương Tỳ-ma-chấtđa-la ra khỏi nước, khiến cho sáu vạn núi chân kim Tu-di Lâu đều chấn động, tất cả chúng sinh quanh đấy đều khiếp sợ. Còn trời Man trì, trời Thường tứ ý, trời Ca-lưu, trời Tam không hầu đều ái ngại lo sợ, bất an, sai tôi đến gặp đại Thiên vương. Thiên vương nên chỉ ra phương cách để phá tan ba cảnh giới của quân A-tu-la kia. Đó là Atu-la vương La-hầu, A-tu-la vương Hoa Man và A-tu-la vương Dũng Kiện, khiến chúng đều bị thất bại tan rã.

Đế Thích nghe xong, nói với trời Hộ thế:

–Ta đã biết trước cả rồi. A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bátha-bà xuất binh làm não loạn cõi trời. Ta nay muốn xuống để bẻ gãy quân A-tu-la ấy cứu giúp chúng trời. Ta vì chánh pháp mà cứu giúp, hành theo chánh pháp. Pháp là cờ thù thắng, nên luôn cầu chánh pháp, ham thích chánh pháp, lìa bỏ phi pháp. Nhờ công đức này mà có thể phá tan quân A-tu-la, nhất định ta sẽ chiến thắng, chúng không thắng nổi ta đâu, đừng lo sợ gì cả! Ta nay đem đại quân đến chỗ A-tu-la, các ngươi chớ lo lắng. Vì sao? Vì người ở cõi Diêm-phùđề hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn, các bậc trưởng lão, biết ân, báo ân, tu hành theo chánh pháp, giữ gìn chánh pháp, vui vẻ trong chánh pháp, tin thờ chánh pháp, cúng dường các bậc tu phạm hạnh, biết quả báo của nghiệp, đối với sáu ngày trai giới, tự mình đều giữ trọn vẹn, thường hành bố thí, trì giới, tu phước, phát huy trí tuệ. Ta thường nhớ nghĩ và tu hành theo chánh pháp, vâng giữ và hành trì giới pháp. A-tu-la kia không hành theo chánh pháp nên chúng rất sợ hãi.

Nói xong, Thiên chủ Đế Thích đến đỉnh núi Tỳ-lưu-ly, trụ xứ của Tứ Thiên vương. Thấy Tứ Thiên vương, Thiên chủ Đế Thích nói với các chúng trời:

–Này Tứ Thiên vương Hộ thế, hãy tập hợp lại nơi đây để cùng nhau đánh dẹp quân A-tu-la.

Tứ Thiên vương Hộ thế thưa:

–Các chúng trời này thuộc quyền thống lãnh của Thiên vương, được Thiên vương ủng hộ, nương dựa vào Thiên vương nên không sợ A-tu-la và quân binh của chúng.

Chủ trời Tam thập tam nghe vậy thì rất vui mừng khen ngợi Thiên vương:

–Thiên vương luôn chiến thắng, chúng trời luôn chiến thắng.

Khen ngợi xong, trời Tam thập tam đến chỗ Tứ Thiên vương. Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích thống lãnh chúng trời với vô lượng trăm ngàn cung điện vây quanh. Thiên vương Đế Thích cỡi Tượng vương trắng lớn Y-la-bà-na, như trên đã nói. Thân tướng của Thiên chủ Đế Thích rất oai nghiêm, đẹp đẽ, ánh sáng của bảy báu rực rỡ giống như ánh chớp tỏa khắp hư không, vô lượng tiếng nhạc tưng bừng vang động khắp mười phương, trăm ngàn Thiên chúng hoan hỷ vây quanh ở núi Tu-di, chúng Càn-thát-bà tạo thêm vẻ trang nghiêm cho chư Thiên. Tiên thánh ca tụng, khen ngợi không gì sánh bằng, luôn cùng nhau thọ lạc. Đó là quả phước của nghiệp thiện nơi họ đã tạo nên đạt được an lạc bậc nhất.

Lúc này, Tứ Thiên vương thấy Thiên chủ Đế Thích đích thân lâm trận nên rất vui mừng. Thiên chủ Đế Thích nói với Tứ Thiên vương:

–Nay ta đến đây để hợp sức đánh bại quân A-tu-la, các ông đừng lo sợ, đại quân của chúng trời đều tập hợp về đây đông đủ.

Nghe vậy, Tứ Thiên vương vui mừng, tâu:

–Thưa Thiên vương, riêng một mình tôi cũng có thể đánh tan quân A-tu-la, huống chi có Thiên vương đến đây. Đại binh đều tập hợp sẵn sàng theo lệnh, nhờ có Thiên vương mà tôi không sợ A-tu-la chút nào cả.

Nói xong, Tứ Thiên chúng liền vây quanh rồi đứng qua một bên Đế Thích, xem xét phía quân địch là các A-tu-la vương Tỳ-machất-đa-la, A-tu-la vương La-hầu, A-tu-la vương Dũng Kiện, A-tu-la vương Hoa Man. Nơi thân của Tứ Thiên vương thảy đều chỉnh tề với áo giáp kim cương của trời, tay cầm vũ khí với tâm niệm quyết đánh thắng quân A-tu-la. Các Long vương pháp hành như Bà-tu-cát, Đứcxoa-ca ở nơi điện báu uy nghiêm đẹp đẽ, tâm ý sẵn sàng chiến đấu, đứng qua một bên để chiêm ngưỡng Thiên chủ Đế Thích, đợi ban lệnh để phụng hành. Các Long vương đều nhìn xuống biển.

Bấy giờ, bốn A-tu-la vương bỗng nhiên đi ra, có vô số trăm ngàn quân binh vây quanh, tay cầm những khí cụ chiến đấu, nhắm phía trước tiến tới, không ngó hai bên, mặc dù có trăm ngàn ức đại chúng vây quanh. Tất cả núi Tu-di lưu đều chấn động. Trong số các A-tu-la vương thì bốn A-tu-la vương này là có sức mạnh hơn hết, lại hiểu rõ về kỹ thuật chiến đấu. Chúng ra khỏi nước giống như núi chúa Tu-di thứ hai, có các Long ác hành phi pháp Bát-ma-thê Tỳma-chất-đa-la Bát-ha-bà cùng đi đến chiến trường. Binh chúng chư Thiên hiện ra đầy khắp cả hư không, còn quân A-tu-la thì đầy khắp trên biển cả, chuẩn bị trận đánh nhau lớn với chúng trời, nên đều suy nghĩ, muốn đứng qua một bên để xem trận chiến sắp diễn ra.

Khi ấy Tứ Thiên vương, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương Bà-tu-cát, thưa Đế Thích:

–Thưa Thiên vương! Quân A-tu-la đang đứng ở phía trước chúng ta, vì sao Thiên vương không ra lệnh cho chúng tôi xung trận?

Thiên chủ Đế Thích nói với Thiên chúng và các Long vương:

–Nay ta sẽ sai Tứ Thiên vương Hộ thế xuống cõi Diêm-phù-đề quán xét các chúng sinh có hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính các Samôn, Bà-la-môn, tùy thuận tu hành theo chánh pháp chăng, thì có thể phá tan quân A-tu-la. Trời nhờ có chánh pháp ủng hộ, nương dựa vào chánh pháp. Do chánh pháp tăng trưởng nên chúng trời cũng được tăng trưởng, chánh pháp tổn giảm thì chúng trời cũng tổn giảm. Ta nay sai các ông xuống cõi Diêm-phù-đề đến thế giới của loài người xem rõ tình hình.

Nói xong, Thiên chủ Đế Thích liền ra lệnh cho Tứ Thiên vương:

–Ông hãy mau mau xuống cõi Diêm-phù-đề quán xét các chúng sinh, xem họ có tùy thuận theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính cúng dường hàng Sa-môn, Bà-la-môn, các bậc trưởng lão, tự mình giữ gìn trai giới, hành bố thí, trì giới, không buông lung, tùy thuận theo chánh pháp không?

Nghe xong, trong khoảnh khắc như mũi tên bắn, Tứ Thiên vương Hộ thế đã tới cõi Diêm-phù-đề, đến từng trụ xứ, từng xóm làng, thành ấp, doanh trại, ngả đường, từng quốc độ, xem xét hết thảy đều thấy dân chúng cõi Diêm-phù-đề hiếu dưỡng cha mẹ, cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn và các bậc trưởng lão, tất cả ai nấy đều như pháp tu hành. Thấy vậy, Tứ Thiên vương Hộ thế rất vui mừng, chỉ trong giây lát đã về tới chỗ Đế Thích, vô cùng hoan hỷ, thưa:

–Thật đáng vui mừng, thưa Thiên chủ Thích-ca! Vì người nơi cõi Diêm-phù-đề tu hành theo chánh pháp, hiếu dưỡng với cha mẹ, cung kính các Sa-môn, Bà-la-môn và các bậc trưởng lão, hành bố thí, tu đức, làm cho chúng trời được tăng trưởng, quân A-tu-la tổn giảm.

Nghe xong, Thiên chủ Đế Thích càng hoan hỷ bội phần, nói với Tứ Thiên vương Hộ thế:

–Tất cả chúng trời hãy nên vui mừng, ta nay sẽ đánh tan quân A-tu-la. Vì sao? Vì người ở cõi Diêm-phù-đề phần nhiều đều tu phước đức.

Chúng trời nghe vậy đều thích thú, khiến sức lực tăng thêm gấp mười lần lúc trước, cùng tâu Thiên vương:

–Vì sao chưa ban lệnh xung trận? Chúng ta đã nhờ vào oai lực của Thiên vương nên sẽ đánh bại kẻ thù, khiến cho chúng trời thắng lớn.

Thiên chủ Đế Thích nói với các Long vương Đức-xoa-ca, Bàtu-cát:

–Các ông hãy tiến quân thật nhanh đến chỗ Long vương phi pháp Bát-ma-thê ấy, đừng đến nơi dàn quân của A-tu-la vương Tỳma-chất-đa-la.

Nghe xong, các Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca liền tiến quân thật nhanh đến chỗ quân rồng phi pháp Bát-ma-thê, bạn của Atu-la, tuôn mưa lửa dữ. Lúc ấy, A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bátha-bà liền sai Bát-ma-thê phóng ra tia chớp cháy rực, nhưng tất cả rồng ác trên thân đều bị lửa đốt cháy, chịu mọi thứ khổ não, chỉ trong khoảnh khắc đã bị phá tan, lui chạy nhanh đến báo cho quân A-tu-la:

–Nếu quân phân tán ra thì không thể thắng quân binh đông đảo của kẻ thù được! Tất cả nên tập hợp lại để chiến đấu mới mong thắng được.

Nói vậy rồi, các Long ác liền chạy đến chỗ hai Long vương Bà-tu-cát, Đức-xoa-ca. Thấy Long ác đến, Long vương Bà-tu-cát nói với Long vương Đức-xoa-ca:

–Do tâm xấu ác sân giận mà chúng đến đây. Chúng ta sẽ làm suy não chúng để chúng không dám trở lại nữa. Nếu không trừng trị thích đáng thì chúng cứ luôn đến não loạn chúng ta như vậy.

Nói xong, Long vương Đức-xoa-ca liền đi nhanh đến chỗ Long vương Bát-ma-thê, từ trên hư không mưa xuống vô số lửa dữ, phóng ra khói lửa thiêu đốt Long ác ấy. Bị thiêu đốt, Long ác bèn rút chạy đến chỗ A-tu-la để mong được cứu sống. Thấy sự tình này, A-tu-la vương La-hầu nói:

–Loài rồng này bị thua trận nên rút chạy về đây. Chúng tôi làm sao bỏ các ông cho đành!

Nói rồi, A-tu-la vương La-hầu ra sức chạy tới. Thấy A-tu-la vương La-hầu đến, trời Ca-lưu cũng tiến ra để giao chiến. Thật là ác liệt! Giống như bên bờ dốc hiểm, các A-tu-la nhỏ ở nơi biển lớn đều điếc cả tai, hoặc có tên khiếp sợ đến nỗi mất mạng. Từ không trung lại tuôn mưa đao rơi xuống tới tấp cả trăm ngàn vạn số. Khi chiến đấu như vậy, nếu chúng trời bị chém đứt tay chân thì liền mọc ra, hoàn toàn vô sự, toàn bộ thân hình cũng như thế, không mệnh hệ gì, sắc tướng không thay đổi, vẻ đẹp đều như cũ, chỉ trừ khi nào bị chặt đầu hoặc đứt nửa thân mình. Trời và A-tu-la oán thù nhau, chiến đấu như vậy, nếu A-tu-la bị chúng trời chém đứt thì không mọc ra lại, cũng như con người, phải chịu các thống khổ, chứ không như cõi trời. Bấy giờ, trời Ca-lưu cùng A-tu-la vương La-hầu chiến đấu dữ dội. Trời Ca-lưu lại lấy vô số núi lớn đổ tuôn xuống chỗ quân A-tu-la, khiến mặt trận của kẻ địch bị phá vỡ, tan rã thành trăm ngàn phần. Thấy quân mình bị phá tan, A-tu-la vương La-hầu liền dùng núi lớn rộng ba trăm do-tuần khiến chạy ào đến chỗ chúng trời. Trời Ca-lưu thấy vậy liền giương cung lắp tên cũng chạy tới bắn vào núi khiến tan tành như cát vụn rớt xuống biển, rồi từ hư không lại mưa đao xuống. Quân A-tu-la thấy vậy, do tâm súc sinh ít mạnh mẽ nên càng khiếp sợ, bèn chạy tới chỗ quân của A-tu-la vương Dũng Kiện. A-tula vương Dũng Kiện thấy binh chúng thoái lui, liền nói:

–Đại vương La-hầu này chỉ có thân to, nhưng trống rỗng, không có chút sức lực nào cả, bị trời đánh bại phải chạy đến đây để mong được cứu giúp, thật giống như đám A-tu-la tầm thường không khác. Vì không có sức mạnh, chứ nếu có thì chỉ một thân ấy cũng có thể phá trừ được tất cả chúng trời. Thân ấy như núi Tu-di chúa thứ hai, trời Ca-lưu này dũng mãnh bậc nhất, có thể chống cự lại thân to lớn ấy, nhưng không thể hủy hoại được.

Nói xong, A-tu-la vương Dũng Kiện liền cùng với chúng Đàma-hầu chạy đến chỗ trời Ca-lưu để tiếp tục đánh nhau. Chúng trời thấy vậy liền nói với trời Man trì:

–Xin đến mau! Xin đến mau! A-tu-la vương Dũng Kiện đang thống lãnh đại quân A-tu-la đến chỗ chúng ta.

Nghe vậy, trời Man trì liền cho quân tiến thật nhanh đến chỗ của A-tu-la vương Dũng Kiện và La-hầu. A-tu-la vương La-hầu cùng với A-tu-la vương Dũng Kiện lại trang bị cẩn thận, quay trở lại chỗ chúng trời chiến đấu với trời Ca-lưu. Nhớ đến thù oán từ xưa, hai Atu-la vương bèn dùng núi đá lớn ném về phía kẻ địch. Trên không vẫn mưa đao, tên và nhiều loại khí giới và ném cây to tung kín khắp hư không, chẳng còn thấy nhau được. Trong hàng trăm ngàn trận đánh nhau, không trận nào dữ dội bằng trận chiến này. Những bộ phận trên thân của chúng trời nếu có bị hại thì lại mọc ra, như trên đã nói, còn quân A-tu-la thì không như vậy, cũng như pháp của loài người. Các quân binh thuộc chúng trời thì chỉ khi nào bị chặt đầu thì mạng không giữ được, nếu bị chém giữa eo lưng thì cũng không sống được.

Lúc này, chúng trời bị tổn giảm thì ít mà chúng A-tu-la bị tiêu diệt thì nhiều. A-tu-la đã bị chúng trời phá tan, quân binh còn lại thì rút lui xuống biển hầu mong được cứu giúp. Chúng trời bèn kêu to, quân A-tu-la nghe tiếng ấy đều mất hết oai lực, mạng sống càng trở nên mỏng manh, còn A-tu-la vương La-hầu, A-tu-la vương Dũng Kiện thì chạy về thành cũ, nhưng đứng ngoài cửa, không dám vô.

Bấy giờ, A-tu-la vương Hoa Man ở cảnh giới thứ ba thấy các Atu-la vương La-hầu, Dũng Kiện bị chúng trời đánh bại nên nói với quân lính:

–Quân của chúng ta đã đến hết đây rồi. Hãy chuẩn bị chiến đấu với chúng trời. Chúng ta có sức mạnh lớn, trời đâu làm gì ta được!

Nói xong, A-tu-la vương Hoa Man cùng quân mình chạy đến chỗ chúng trời và tập hợp số tàn quân của A-tu-la vương La-hầu, Dũng Kiện, tất cả trở lại quyết đánh với chúng trời. Chúng nói với nhau:

–Vì sao dối xưng là A-tu-la vương mà lại tháo chạy tán loạn? Chính bản thân mình không có sức mạnh, lại không có tài chiến đấu, ngay cả binh đao tốt cũng không có. Giả sử có về đến cung thành thì bị vợ con hủy nhục.

Nói xong, khí lực của chúng A-tu-la phục hồi mạnh mẽ, thân như núi lớn, tay cầm binh khí tiến nhanh như gió hướng tới chỗ chúng trời để quyết đấu. Lúc ấy, thiên sứ và trời Man trì, trời Thường tứ ý, trời Ca-lưu cùng nhau bàn bạc:

–Tất cả quân A-tu-la đều đã tập hợp lại, đang tiến đến chỗ chúng ta. Chúng ỷ vào sức mạnh của mình mà sinh tâm kiêu mạn, không biết sức lực hơn hẳn của trời.

Nói xong, chư Thiên cùng tiến về phía quân A-tu-la giao chiến. Phía trên cao nào mưa núi lớn, mưa đá tảng, đao kích, lại cùng đánh chém, giết hại nhau vô số, bức bách nhau vô số, thật là ác liệt, thây chết nằm khắp trên biển. Hai bên cứ ùa vào đánh chém nhau bằng mọi cách, không thể nói hết. Rồng cùng với rồng cũng đánh nhau kịch liệt.

Thấy vậy, Thiên chủ Đế Thích nói với chúng trời Tam thập tam:

–Hãy chuẩn bị đầy đủ và nhanh lên. Tất cả quân A-tu-la đều đã đến đây, chỉ trừ A-tu-la Bát-ha-bà. Ta sẽ cỡi voi trắng sáu ngà Yla-bà-na để đến chiến đấu với A-tu-la vương Bát-ha-bà.

Nói với chư Thiên xong, Thiên chủ Đế Thích khích lệ voi chúa trắng Y-la-bà-na:

–Bây giờ ta cỡi ngươi đến dẹp tan A-tu-la vương Tỳ-ma-chấtđa-la và quân binh của hắn.

Rồi Thiên chủ Đế Thích tay cầm chày kim cang, xem xét khắp trận chiến đang diễn ra, thấy chúng trời đại thắng, quân A-tu-la thua to rút chạy, khí thế của chúng trời vô cùng mạnh mẽ, Thiên vương Đế Thích rất mừng vui sung sướng. Khi ấy, A-tu-la vương Bát-ha-bà thấy sự tình này, suy nghĩ: “Vô lượng ức na-do-tha quân binh của nơi ba cảnh giới của A-tu-la đang chiến đấu đều mất hết dũng khí và đã bị phá tan như trước.

Tất cả những hình ảnh thấy ở ao Nhất thiết quán đều không sai, đúng như thật không chút hư dối. Nay ta sẽ đến để phá tan Thiên chủ Đế Thích và các chúng trời”.

A-tu-la vương Bát-ha-bà suy nghĩ xong, chúng trời đã kéo đến nơi cửa vào đáy biển. Bấy giờ A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bátha-bà hết sức giận dữ, khiến các núi lay động, nước trong biển bắn tóe lên. Ánh sáng của mặt trời trên đỉnh núi đều biến thành màu đỏ. Quân binh A-tu-la nơi đáy biển chúng trời thắng trận, quân A-tu-la bỏ chạy tan tác, nên cũng chạy hết xuống biển, không ai còn sức lực, cũng không ai cứu giúp được, nên tất cả đều hỗn loạn. Chúng trời la hét dữ dội khiến hết thảy quân A-tu-la đều mất hết khí thế. Chúng nói với nhau:

–Ta nay không còn sức lực nữa. Không ai cứu giúp cả.

Có A-tu-la nói:

–Đừng sợ! Đừng sợ! Hãy quay lại chiến đấu, đừng chạy nữa!

Vừa nói xong, bỗng thấy mưa đá từ trên đỉnh núi ào xuống đánh vào quân A-tu-la. Chúng trời rất vui, la hét:

–Hãy bắt lấy A-tu-la, hãy bắt lấy hết quân binh A-tu-la! Hãy giết hết loài súc sinh phi pháp hành ác kia, vì chúng luôn đến quấy nhiễu đánh phá chúng ta. Chúng không thể chiến đấu nổi, vì chúng nhát như chim, quạ, không có ý chí dũng mãnh, không biết sử dụng tốt đao kích, nên chúng phải bị thua trận, khiến không dám quay lại nữa. A-tu-la này chiến đấu không biết thời cơ.

Tất cả chúng trời đều vui mừng như vậy rồi cùng nhau hướng đến đánh dẹp quân A-tu-la. Khi chiến đấu, chúng trời sân giận thì mắt đỏ ngầu giống như ráng đỏ. Lại tuôn mưa đao, kích, mưa lửa dữ, giống như những trận mưa lớn vào mùa thu. Chúng trời đánh tan quân A-tu-la như thế.

Khi ấy, A-tu-la vương Bát-ha-bà ngồi trên điện có trăm ngàn vòng với vô lượng ức A-tu-la tùy tùng vây quanh. A-tu-la vương Bátha-bà mưa các loại đao, kích, dùng tay bưng núi lớn khoảng một dotuần, cho tới năm do-tuần, ném mạnh về phía chúng trời. A-tu-la vương La-hầu thấy sự việc ấy nên khí lực phục hồi lại ngay, nên dẫn quân quay lại chiến đấu. A-tu-la vương Bát-ha-bà an ủi quân binh:

–Đừng sợ hãi! Đừng sợ hãi! Ta nay đến đây là để phá tan hết thảy chúng trời để chúng phải thua trận. Các ngươi chớ sợ sệt, các Atu-la vương cũng đừng khiếp sợ. Nếu các ngươi trở về cung thành cũ, đến chỗ vợ con thì làm sao dám xưng mình là bậc trượng phu? Thật ra các ngươi không có chút dũng mãnh nào cả, chỉ dối xưng mình là trượng phu thôi!

Nói vậy rồi, A-tu-la vương Bát-ha-bà tiến quân nhanh về phía chúng trời. Thấy vậy, chúng trời cũng cho quân ào đến thật nhanh. Hai bên giao chiến với nhau thật dữ dội, la hét vang dội, làm chấn động cả khe suối, hang hẻm trong núi Tu-di lưu.

Bấy giờ, A-tu-la vương La-hầu chạy đến chỗ trời Ca-lưu, A-tula vương Dũng Kiện tay cầm kích lớn chạy tới chỗ trời Man trì, A-tula vương Hoa Man thì tay bưng núi lớn khoảng ba do-tuần chạy lại nơi chúng trời Tam không hầu và sứ giả trời. Trận chiến ác liệt đã diễn ra như vậy, hết thảy chúng sinh chỉ nghe nói cũng đều rợn người, huống chi là chính mắt trông thấy. A-tu-la vương Bát-ha-bà lại muốn mau chóng đánh tan chúng trời giống như gió thổi mây, vì tự ỷ mình có sức mạnh lớn nên không sợ kẻ địch. Lúc ấy, Tứ Thiên vương thấy quân binh rối loạn liền đến thưa với Thiên chủ Đế Thích chủ trời Tam thập tam:

–Thưa Thiên vương, chúng trời chiến đấu một mình, e bị quân A-tu-la đánh thắng. Thiên vương! Xin hãy mau mau đến đó, đừng để chúng trời bị tiêu diệt mà lũ súc sinh kia lại thắng. Thiên vương, xin hãy nhanh lên! Tất cả chúng trời ở đây xin hãy rời Thiện pháp đường và tiến quân thật nhanh!

Nghe nói như thế, tất cả chúng trời cõi Tam thập tam đều tiến nhanh đến chỗ A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà cùng tuôn mưa đao, tên. Phía trên trời Tam thập tam thì A-tu-la vương Bát-habà đang tuôn mưa núi đá lớn đầy khắp hư không. Hết thảy quân binh hai bên đều hợp lại để chiến đấu, la hét dữ dội. Mỗi bên đều cho rằng quân mình thắng trận. Chiến đấu như thế khiến cho trăm ngàn núi va vào nhau, bị đánh tan nát vụn như bụi tung khắp hư không, cả ngàn do-tuần. Trong đám mây bụi mù này lại thay nhau nào mưa tên, nào mưa núi, giống như mưa vào mùa thu, làm cho vô số ức chúng A-tu-la bị tiêu diệt không trở về được. Nơi chúng trời cũng có rất nhiều người bị chết. Đám A-tu-la nhút nhát vì lo giữ thân mạng nên kéo chạy về cung thành cũ, quân thất trận còn lại cũng đã vào thành hết cả. Lúc ấy, các phụ nữ A-tu-la đến hỏi:

–Hiện nay chồng tôi ở đâu?

A-tu-la trả lời:

–Quân A-tu-la chiến đấu với chúng trời và đã đánh tan kẻ địch. Mọi người nên vui mừng, không bao lâu họ sẽ về tới nơi.

Các người vợ A-tu-la liền đến đến ao Nhất thiết quán để xem xét quân A-tu-la. Họ thấy chúng trời thắng trận, quân A-tu-la bị tan rã, thây chết nằm ngỗn ngang, số còn sống thì chạy tứ tung. Thấy vậy, các người vợ đau buồn sầu não té quỵ trên đất, khóc lóc, kêu gào thảm thiết, đấm ngực la hét, bức tóc, đánh vào thân, nước mắt ràn rụa. Thấy hình ảnh chồng chết trong ao, các bà vợ càng thêm sầu não. Trời và A-tu-la đã đánh nhau kịch liệt như vậy, còn A-tu-la vương Bát-ha-bà cùng với vô số ức A-tu-la theo hộ vệ đi đến chỗ Đế Thích. Thấy thế, Đế Thích nói với chúng trời:

–Nay quân A-tu-la này lại quay đến đây chiến đấu với chúng ta, thật khó có thể chế ngự được chúng. Chúng ta hãy lấy chánh pháp làm bạn để phá sạch quân địch, giống như ánh sáng trừ tối tăm.

Nói xong, Đế Thích cỡi voi chúa trắng Y-la-bà-na. Voi ấy đi rất nhanh, giống như tên bắn, có cả chúng trời Thiện pháp theo hộ vệ từ trên cao hạ xuống, thẳng tới chỗ quân A-tu-la, nhổ hết các cây cối to lớn, quăng vào đầu của quân A-tu-la, lại ném đá tảng lớn, mưa tên lớn vào chỗ A-tu-la vương Bát-ha-bà. Lúc này, A-tu-la vương Bát-ha-bà cỡi xe lớn tiến đánh Thiên chủ Đế Thích. Trời Đế Thích nói với A-tu-la vương Bát-ha-bà:

–Ngươi là đồ súc sinh, trụ vào đạo phi pháp. Ngươi đi đến đâu ta cũng sẽ đánh thắng, khiến ngươi phải quay về dưới biển.

Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà nói với Thiên chủ Đế Thích:

–Ta sẽ đánh bại ngươi và cả chúng trời nữa.

Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà bèn lấy núi vàng lớn khoảng năm trăm do-tuần ném mạnh vào chúng trời. Thấy núi vàng bay đến, voi chúa trắng Y-la-bà-na phun ra gió dữ thổi vào núi ấy làm cho nó tan nát như cát và rơi xuống biển. A-tu-la vương thấy núi vàng bị nát vụn, lại lấy núi bằng kim cương khoảng năm trăm do-tuần quăng vào trời Đế Thích. Lúc ấy, voi chúa trắng Y-la-bà-na bèn dùng vòi đón lấy, đánh trở lại vào ngực A-tu-la vương Bát-ha-bà khiến tướng A-tula phải nhào lộn. Thấy vậy, trời Tam thập tam la to:

–Súc sinh kia, ngươi đã bị Thiên vương đánh bại, bị voi trắng đánh khiến phải đảo lộn, huống chi là Đế Thích tay phóng chày kim cang.

Nghe nói vậy, tất cả chúng trời liền cùng ào đến chỗ quân Atu-la. Có trời lấy đá tảng lớn, có trời dùng cây lớn hoặc núi lớn, kích lớn, mâu lớn, hoặc làm sấm sét nổi lửa mịt mù. Hoặc cầm lưỡi lê chém đâm, cầm đao luân, đao kích đánh phá. Có trời đi trên hư không, có trời cầm cung tên, cầm núi Vi, cầm xoa, có trời theo pháp để chiến đấu, có trời theo đạo lý, vâng giữ, hoặc dối gạt, hoặc chiến đấu bằng lửa, bằng nước, bằng cưa, bằng móng tay, bằng xe, hoặc la to khiến người nghe không thể chịu nổi. Hoặc lấy chân đạp, hoặc chiến đấu bằng tay. Những loại binh khí như vậy đều có đầy đủ nơi thân. Đế Thích đốc thúc và tất cả chúng trời cùng nhắm đến chỗ quân A-tu-la. Thấy chúng trời cầm tất cả binh khí ào đến thì các Atu-la vương Bát-ha-bà, La-hầu, cũng tiến quân lại chỗ Đế Thích. Chúng trời thấy bốn A-tu-la vương cùng tiến tới chỗ Thiên chủ Đế Thích, nên thảy đều chuẩn bị để xung trận. Thiên chủ Đế Thích tự xem qua chúng trời, liền nói với A-tu-la:

–Đám súc sinh các ngươi vì sao mà ngu si như vậy, không hiểu biết gì cả? Hết thảy sức mạnh của A-tu-la không bằng sức lực của một vị trời. Chỉ một trời Tam thập tam cũng có thể phá tan quân binh các ngươi. Vì sao? Vì trời có sức mạnh lớn của chánh pháp, còn các ngươi thì không có. Pháp và phi pháp cách nhau rất xa, giống như ánh sáng mặt trời so với chốn tối tăm. Như lấy lời nói thật so với lời nói hư dối. Như núi Tu-di đem so với các núi nhỏ. Như lấy pháp giải thoát so với sự trói buộc. Như tăng trưởng so với tổn giảm. Như bạn lành so với oán thù. Như lấy nước cam lồ so với thuốc độc. Như giữa trưa so với chiều tối. Như chân châu so với thứ ngọc giả. Như giàu sang so với nghèo khổ. Giống như đi sứ so với ở một chỗ. Như ánh sáng đom đóm so với ánh sáng mặt trời. Như kẻ không chân so với gió mạnh. Như vậy, giữa hai bên đã cách nhau rất xa. Như người mù so với người mắt sáng. Như lấy đường gập ghềnh so với đường bằng phẳng. Như đem ngoại đạo so với Như Lai. Giống như hư không so với mặt đất. Như lấy một niệm so với một kiếp. Ngươi với ta cách xa một trời một vực cũng như vậy. Ngươi không thuận theo chánh pháp, còn ta thì kính trọng chánh pháp. Ngươi là kẻ ngu si, còn ta thì có trí tuệ. Ngươi không tu phước, còn trời tu hành theo phước đức. Ngươi là súc sinh, ta là trời trong sạch. Nếu biết như vậy rồi, ngươi không nên chiến đấu với ta nữa.

Nói xong, Đế Thích liền khiến voi chúa Y-la-bà-na hướng đến A-tu-la nói kệ:

Chánh pháp thắng phi pháp

Nói thật thắng nói dối Trí tuệ thắng ngu si Trời thắng A-tu-la.

Nói vậy xong, Thiên chủ Đế Thích bèn hóa thành voi Y-la-bàna hướng tới quân A-tu-la, vượt qua nhanh như gió, cầm ngàn chày kim cương nhọn, khiến quân A-tu-la hoảng sợ, nhưng không có tâm giết hại. Thấy Thiên chủ Đế Thích, quân A-tu-la cũng tiến tới thật nhanh. Bấy giờ, Tứ Thiên vương, chúng trời Tam thập tam cũng đều tụ hội đầy đủ. Trời và A-tu-la giao chiến, hai bên đều hy vọng mình thắng trận nên chém giết lẫn nhau. Quân A-tu-la có tên bị thương hoặc bỏ mạng, có tên nhút nhát lùi chạy về, có tên ở lại xem, có tên khởi ý nghĩ muốn trở về, có tên tức giận hoặc si loạn, sợ hãi. Thiên chủ Đế Thích liền biến hóa khiến A-tu-la chỉ thấy voi chúa trắng Yla-bà-na, trên mỗi mỗi đầu có ngàn vị Đế Thích, trong tay đều cầm chày kim cương ngàn mũi nhọn. Tất cả binh khí cũng như các ao sen như trước đã nói. Trong ao sen có vô lượng ngàn ức Thiên vương Đế Thích. Voi Y-la-bà-na hóa làm mười đầu, trên mỗi mỗi đầu có ngàn ao tắm, trong mỗi mỗi ao tắm có ngàn hoa sen, mỗi mỗi hoa sen có trăm đài hoa, mỗi mỗi đài hoa có ngàn cánh. Mỗi đài hoa nơi đầu voi có trăm ngàn ức Thiên vương Đế Thích cầm ức na-do-tha loại vũ khí, kiếm báu kim cương, không có chỗ xen hở. Thấy sự việc biến hóa như vậy, quân A-tu-la khiếp sợ suýt chết, suy nghĩ: “Thiên chủ Đế Thích đầy khắp hư không, không có chỗ trống, tay cầm những loại khí giới nào dao, mác, thân tướng oai vệ mạnh mẽ, với đủ loại binh khí kia thật đáng kinh sợ”. Suy nghĩ như thế, A-tu-la càng sợ hãi nên chạy vội xuống nước. Quân binh của trời Đế Thích cũng đầy khắp ở biển lớn. Bấy giờ, A-tu-la tuy sợ hãi khiếp vía nhưng cũng cùng nhau nói với A-tu-la vương Bát-ha-bà:

–Đại vương A-tu-la, đừng sợ sệt! Chúng ta có thể đánh thắng được Thiên vương Đế Thích.

Nghe thế, A-tu-la vương Bát-ha-bà chạy thật nhanh đến chỗ voi chúa trắng Y-la-bà-na. Y-la-bà-na tức khắc dùng vòi quấn lấy thân A-tu-la vương quay tròn trên hư không giống như người lắc linh, đến khi kẻ địch gần chết mới chịu thả. Khi được thả ra, nghỉ một chút, Atu-la vương Bát-ha-bà nói với chúng A-tu-la:

–Một người không thể đánh bại Đế Thích, phải tận lực hết cả sức mạnh của A-tu-la để đánh thắng địch thủ.

Khi ấy, bốn A-tu-la vương liền tiến quân đến chỗ voi chúa Yla-bà-na. Đế Thích thấy vậy liền phóng mưa đá kim cương đánh vào quân A-tu-la khiến chúng phải tháo chạy, chỉ trừ là không bị giết. Bấy giờ, A-tu-la mưa vô số núi lớn, đao, kiếm, mâu xuống chỗ quân của Thiên vương, giống như mưa vào mùa hè, nhưng thân Thiên vương vẫn oai nghiêm không bị thiệt hại gì cả. Thiên vương cùng Atu-la giao chiến dữ dội như vậy, các chúng trời khác thấy thế bèn chạy đến trợ chiến. Quân A-tu-la lại ào theo chúng trời để giao chiến, gây ra vô số não loạn. Cảnh tượng thật khủng khiếp, náo động tột cùng.

Chúng trời và A-tu-la đánh nhau dữ dội như vậy, với vô số khí giới được sử dụng, vô số chiến thuật được áp dụng để giành thắng lợi. Tuy thấy vô số chúng A-tu-la đang ở trước mặt mình, nhưng Thiên chủ Đế Thích không giết, chỉ muốn xua tan khiến chúng phải tháo chạy mà thôi. Lúc này, A-tu-la vương Bát-ha-bà Tỳ-ma-chấtđa-la và quân binh thua chạy tán loạn tìm người cứu giúp, tìm nơi nương tựa, rồi trở về nơi biển lớn, chỉ tới cửa thì đã mất hết sức lực. A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la Bát-ha-bà cỡi xe trăm ngàn căm để chống địch, ra lệnh cho ba A-tu-la vương kia chạy trước để làm cho chúng trời phải sợ sệt, hỗn loạn. Lúc đó, Thiên vương Đế Thích nói với voi chúa trắng Y-la-bà-na:

–Hãy mau mau đuổi theo A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la. Vì kiêu mạn, chúng tự cho mình có sức mạnh, ngươi hãy nhanh chóng tiến đánh dẹp sạch xe trăm ngàn căm của hắn đang cỡi. Bậc Đại tiên đã giảng dạy giới “không sát sinh” là đường vào Niết-bàn. Lời dạy này rất đúng, vì chúng sinh đều yêu mến thân mạng mình, nên đừng giết hại họ. Ngươi hãy mau đến đó phá hủy xe của hắn tan ra làm trăm ngàn mảnh.

Nghe lệnh xong, voi chúa trắng Y-la-bà-na liền biến hóa thân mình nhanh như gió thổi, đã ào tới biển lớn. A-tu-la vương Bát-ha-bà Tỳ-ma-chất-đa-la thấy vậy càng sợ hãi, ở nơi đáy biển đi ra thật nhanh, nhưng chẳng còn sức lực nào để tấn công. Nhờ khí lực mạnh mẽ, voi chúa Y-la-bà-na xông tới chỗ Bát-ha-bà đoạt lấy xe, khiến vua A-tu-la phải rớt khỏi xe và văng ra ngoài. Voi Y-la-bà-na hiện ra trước mặt A-tu-la vương Bát-ha-bà và bẻ nát xe báu kia, giống như bẻ củi khô mục. Lúc ấy, A-tu-la vương Hoa Man cũng mất hết sức lực, suýt chết và nghĩ đến vợ con nên vội vàng chạy xuống cửa biển. A-tu-la vương Dũng Kiện cũng chạy trốn dưới nước, ẩn vào cửa cung để mong thoát mạng. Còn A-tu-la vương La-hầu cũng phải lẫn trốn, chui vào cửa, cả ba đều mong thoát chết. Tuy có thân tướng to lớn, nhưng cả chúng A-tu-la đều không còn khí lực. Thấy chúng A-tu-la bị thất bại, chúng trời rất vui mừng, nói:

–Quân A-tu-la đã bị phá tan, tháo chạy hết cả!

Chúng trời trời thấy vậy, đều nói:

–Chúng ta sẽ đi xuống cửa của chúng để quan sát xem đám Atu-la bị thua trận tan tác ra sao.

Các trời đều đi thật nhanh xuống biển, thấy quân A-tu-la bị tan tác giống như gió mạnh thổi tan mây nổi. Thấy vậy, Thiên chủ Đế Thích nói với chúng A-tu-la:

–Vì sao các ngươi tự mình gây ra việc xấu ác này, làm cho vô số chúng A-tu-la phải mất mạng? Các ngươi gây oán thù với chúng trời thật chẳng lợi ích gì. Vì người trong cõi Diêm-phù-đề đều thuận theo chánh pháp tu hành. Do loài người tu thiện nên chúng trời có sức mạnh. Nếu loài người hành bất thiện thì trời bị tổn giảm. Các ngươi không biết thời cơ cứ gây oán thù với ta, đâu có ích lợi gì! Các ngươi muốn đánh chúng trời nhưng ngược lại chỉ tự mình chuốc lấy thảm hại.

Nghe vậy, chúng A-tu-la đều lặn xuống nước để mong được sống. Thiên chủ Đế Thích bèn ra lệnh:

–Chúng trời hãy lui binh, trở về trụ xứ của mình. Quân A-tu-la đã mất hết khí lực cả rồi, chỉ còn mạng sống nhỏ nhoi. Hãy tha cho chúng.

Chúng trời thưa Thiên vương:

–Đám A-tu-la này không thể chế ngự được, không biết lượng sức mình, không xét kỹ sức người. Chúng ta nên quay lại đánh tan, khiến chúng không còn trở lại cõi trời quấy phá, có thế chúng ta mới hưởng trọn an lạc, không khổ não về A-tu-la nữa. Bọn A-tu-la này vì sao cứ muốn làm não hại những người tu hành theo chánh pháp? Nếu ta không trả thù thì quyết không trở về.

Nói xong, chúng trời đều mang theo tất cả khí giới nào dao, gậy, mâu, giáo… tiến quân thật nhanh đến chỗ quân A-tu-la, tạo mọi uy hiếp, khiến chúng càng bị tán loạn, nhưng không giết chết. Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích khởi tâm Từ bi, sợ A-tu-la vương Bát-ha-bà kinh hãi mà chết, nên nói với chúng trời:

–Các ngươi phải nên khởi phát lòng Từ bi.

Nói xong, Thiên chủ Đế Thích cùng tất cả chúng trời ở Thiện pháp đường trở về thiên cung. Thấy Thiên chủ Đế Thích lui quân, Tứ đại Thiên vương bèn nói với chúng trời Tam thập tam:

–Thiên vương đã lui binh, các ngươi cũng nên trở về.

Được thắng trận lớn, tất cả chúng trời đều vui mừng, cùng trở về trụ xứ. Thiên vương Đế Thích cỡi voi chúa trắng Y-la-bà-na, được chư Thiên trời Tam thập tam hết lời ca tụng, khen ngợi. Sau đó tất cả cùng đến cõi trời thứ hai (trời Đao-lợi), tới Thiện pháp đường, còn các chúng trời khác đều về bổn cung. Tất cả chúng trời đều đặt áo giáp vào rừng Tập điện. Voi chúa Y-la-bà-na hiện nguyên hình như cũ và vào ao hoa sen thuộc thế giới trời để hưởng năm dục lạc. Công năng của năm dục chư Thiên luôn được thọ hưởng, nên họ hay cùng nhau vui chơi trong vườn, ao. Long vương Bà-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca đánh thắng quân A-tu-la rồi, lòng rất vui mừng, trở lại thành Hý lạc. Quân binh A-tu-la bị thất bại thân thể bị tàn hại, nên cúi đầu xấu hổ trước mọi người thân. Còn các người nữ thì cũng rất khổ não nên đi đến chỗ A-tu-la. A-tu-la vương La-hầu nói với các Atu-la bị thua trận:

–Trước đây ta đã chẳng từng nói với các ngươi đừng chiến đấu với chúng trời đó sao? Vì người ở cõi Diêm-phù-đề thuận theo chánh pháp, hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính cúng dường các Sa-môn, Bà-lamôn và các bậc trưởng lão, nên A-tu-la bị tổn giảm. Ta đã nói rồi mà các ngươi không chịu nghe, cho nên ngày nay mới chịu quả ác này, khiến cho chúng trời sát hại vô số A-tu-la của ta.

Có A-tu-la nói với A-tu-la vương La-hầu:

–Đại vương nói rất đúng, vì không nghe lời dạy bảo, chiến đấu không đúng thời nên ngày nay phải chịu quả ác như vậy.

A-tu-la Đà-ma-hầu nói:

–Vì nghiệp đã thành thục, khiến chúng ta không trở về được, sinh tâm ý như thế nên phải chịu quả ác này.

Thay phiên nhau nêu bày rồi, mỗi A-tu-la vương đều trở về địa phận của mình. A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa-la đến cảnh giới thứ tư, vào thành cũ, cảm thấy rất xấu hổ, cúi đầu sầu não, còn các thể nữ vây quanh cũng buồn bã đau khổ. Các Long ác Bát-ma-thê… đều mất hết khí lực, trở về thành Hý lạc. Như vậy, ái độc đã hủy hoại chúng sinh, sát hại nhau mà luân hồi trong thế gian không chút an vui. Các đệ tử của Phật nên quán xét như vậy rồi, xa lìa được ý dục.

Lại nữa, người tu hành trong tâm quan sát chánh pháp, tùy thuận tu hành. Tỳ-kheo này đã quán xét như vậy rồi, đạt được Địa thứ mười bảy, tâm luôn ưa thích quán xét về đệ nhất thật đế.

Bấy giờ, Dạ-xoa trên đất liền biết được sự việc này nên rất vui mừng, liền nói với Dạ-xoa hư không. Dạ-xoa hư không cũng vui mừng tâu với trời Hộ thế. Như vậy, lần lượt cho đến trời Thiểu tịnh, tất cả đều nói như vầy: “Trong cõi Diêm-phù-đề có thiện nam ở xóm làng…, tên… với lòng tin nên xuất gia, cạo bỏ râu tóc, đắp pháp y, lìa bỏ cảnh giới ma, tránh xa phiền não, nhàm chán sinh tử. Quán xét như vậy rồi, vị ấy đạt được Địa thứ mười bảy”.

Chư Thiên nghe rồi thảy đều hoan hỷ nói:

–Tỳ-kheo như vậy là trời trong cõi trời, đã làm tổn giảm quân ma, tăng trưởng lợi ích cho chư Thiên.