SỐ 200
SOẠN TẬP KINH MỘT TRĂM TRUYỆN NHÂN DUYÊN
Hán dịch: Đời Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm, người nước Nguyệt chi
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 5

Phẩm 5: NGẠ QUỶ

41- Truyện Bà Phú-Na-Kỳ Bị Đọa Vào Ngạ Quỷ

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương xá.

Khi sắp đến giờ ăn, Tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên trước quán sát chúng sinh trong địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ rồi sau mới ăn. Sở dĩ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên phải quán sát như vậy, vì muốn làm cho chúng sinh nhàm chán sinh tử mà ưa cầu Niết-bàn.

Lúc ấy Mục-kiền-liên thấy một ngạ quỷ, mình mẩy như than cây bị cháy, bụng to như quả núi, cổ họng nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như đao nhọn, lại quấn chằng chịt vào thân thể, giữa chi tiết trong thân đều có lửa bốc ra. Ngạ quỷ kêu la rên rỉ, rong chạy khắp nơi để ăn uống, khổ nhọc suốt ngày nhưng cũng không có.

Ngài Mục-kiền-liên thấy ngạ quỷ, bèn hỏi:

–Ngươi đã gây ra nghiệp gì, mà chịu khổ như vậy?

Ngạ quỷ thưa:

–Nơi có mặt trời thì không cần đèn đuốc. Đức Như Lai Thế Tôn hiện còn tại thế, xin Tôn giả hãy thưa hỏi Ngài, hiện giờ tôi đang đói khát nên không trả lời được.

Ngài Mục-kiền-liên liền đến gặp Phật định hỏi Như Lai ngạ quỷ đã gây ra hành nghiệp gì mà phải chịu khổ như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn ngự giữa đại chúng, đang giảng nói pháp mầu cho trời người nghe. Thấy Mục-liên, Đức Phật hỏi:

–Hôm nay, thầy có thấy điều gì lạ chăng?

Tôn giả Mục-liên thưa:

–Con thấy một ngạ quỷ, thân thể bị cháy, rong chạy khắp nơi. Tôn giả bèn thuật lại sự việc trên cho Phật nghe và hỏi Đức Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, đời trước ngạ quỷ ấy đã gây ra nghiệp ác gì mà phải chịu khổ như thế?

Đức Thế Tôn bảo Mục-liên:

–Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Vào hiền kiếp này, trong thành Xá-vệ có một vị trưởng giả, là người có vô lượng tài sản, của báu, nhiều không thể tính kể, thường sai người giúp việc ép nước mía để bố thí cho mọi người. Bấy giờ, có một vị Bích-chi-phật bị bệnh khát rất nặng, thầy thuốc bảo uống nước mía mới hết bệnh. Vị Bíchchi-phật liền đến nhà trưởng giả để xin nước mía.

Trưởng giả thấy vị Bích-chi-phật oai nghi đỉnh đạc trang nghiêm, sinh tâm rất kính tin, bèn hỏi:

Thưa, Ngài cần gì ạ!

Vị Bích-chi-phật nói:

–Tôi bị bệnh khát rất nặng, cần uống nước mía, nên đến đây định xin.

Trưởng giả nghe nói, trong tâm rất vui mừng, liền bảo vợ là Phú-na-kỳ:

–Tôi có việc gấp định ra đi, vậy bà ở nhà hãy lấy nước mía cúng dường cho Bích-chi-phật.

Người vợ đáp:

–Anh cứ ra đi, em ở nhà sẽ cúng dường.

Khi người chồng đi rồi, người vợ liền lấy bát của vị Bích-chi-phật đến chỗ khuất tiểu tiện vào đó và đổ nước mía lên trên, rồi trao cho vị Bích-chi-phật. Bích-chi-phật nhận bát, biết ngay không phải là nước mía, liền đổ xuống đất, ôm bát không trở về.

Về phần người vợ, sau khi chết đi bị đọa vào loài ngạ quỷ, thường bị đói khát ép ngặt, do nghiệp duyên ấy nên phải chịu khổ như thế.

Đức Phật bảo ngài Mục-liên:

–Thầy nên biết, vợ của vị trưởng giả lúc bấy giờ nay chính là ngạ quỷ Phú-na-kỳ.

Khi Đức Phật nói về việc của ngạ quỷ này thì các Tỳ-kheo dứt bỏ được tâm tham lam, bỏn sẻn, nhàm chán sinh tử, có vị chứng được quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng được quả Tư-đà-hàm, có vị chứng được quả A-na-hàm, có vị chứng được quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc bấy giờ các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, vui mừng thực hành.


42- Truyện Vợ Trưởng Giả Hiền Thiện Bị Đọa Vào Loài Ngạ Quỷ

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trên núi Kỳ-xà-quật, trong thành Vương xá.

Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên ngồi kiết già dưới một gốc cây tư duy quan sát, thấy một ngạ quỷ, mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng to như quả núi, cổ họng nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như đao nhọn, lại quấn chặt thân thể, giữa các chi tiết trong thân đều bị lửa đốt. Ngạ quỷ rên rỉ khóc lóc, chạy rong khắp nơi, tìm kiếm phẩn tiểu để ăn uống, khổ nhọc suốt ngày cũng không có.

Mục-kiền-liên thấy ngạ quỷ liền hỏi:

–Trước kia ngươi đã gây ra hành nghiệp gì, mà phải chịu khổ như vậy?

Ngạ quỷ đáp:

–Trên đời có Đức Như Lai, xin Tôn giả hãy thưa hỏi Ngài. Hiện giờ tôi đang đói khát nên trả không lời được.

Lúc ấy Mục-kiền-liên đến gặp Phật để hỏi lý do là ngạ quỷ đã gây ra nghiệp ác gì mà phải chịu khổ như vậy.

Đức Phật bảo Mục-kiền-liên:

–Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, có một nước tên là Ba-la-nại, đất nước giàu mạnh đời sống nhân dân sung túc, an vui, không có chiến tranh, không có sự tranh giành lẫn nhau.

Bấy giờ, có một trưởng giả tên là Hiền Thiện, bản tánh nhu hòa, kính tin Tam bảo, thường làm việc bố thí; tiếng tăm trưởng giả vang đồn khắp nơi.

Lúc ấy có một Tỳ-kheo đắp y ôm bát đến nhà trưởng giả để khất thực. Nhằm lúc trưởng giả có chút việc gấp phải đi ngay, không thể tự tay cúng dường được, nên ông ân cần dặn vợ:

–Em ở nhà hãy nhớ cúng dường thức uống ăn cho vị Tỳ-kheo này.

Người vợ trả lời:

–Anh chớ lo lắng, em ở nhà sẽ cúng dường.

Nhưng lúc ấy người vợ sinh lòng tham lam, bỏn sẻn tiếc nghĩ rằng: “Nay, nếu ta cho thức ăn thì hôm sau ông ấy sẽ đến nữa. Ôi!

Những hạng người này nhìn thật đáng ghét”.

Nghĩ xong, bà liền gọi Tỳ-kheo vào một căn phòng, rồi đóng cửa nhốt lại, khiến từ sáng đến chiều, Tỳ-kheo không được ăn uống gì cả.

Vì nghiệp duyên ấy, nên trong vô lượng kiếp, bà bị đọa trong loài ngạ quỷ, chịu khổ như vậy.

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Thầy nên biết, người vợ của trưởng giả lúc bấy giờ, nay chính là ngạ quỷ ấy. Vậy, các thầy hãy siêng bố thí, không nên tham lam, bỏn sẻn, nên tu tập như vậy.

Khi Phật nói về việc của ngạ quỷ này, những người trong hội tất cả đại chúng đều dứt bỏ sự tham lam, bỏn sẻn, keo lận; nhàm chán sinh tử. Có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


43- Truyện Nói Về Do Ác Kiến Không Bố Thí Nước Nên Đọa Vào Loài Ngạ Quỷ

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương xá.

Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang ngồi dưới gốc cây thấy một ngạ quỷ mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng to như quả  núi, cổ họng nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như đao nhọn lại quấn chặt vào thân thể, giữa các chi tiết đều bị lửa đốt, môi miệng khô nóng, khát nước gần chết, chạy đến sông suối, thì sông suối đều khô cạn. Dù cho mưa xuống thì nước mưa rơi trên thân ngạ quỷ cũng biến thành lửa đỏ.

Ngài Đại Mục-kiền-liên bèn hỏi ngạ quỷ:

–Trước kia ngươi đã gây nghiệp gì, mà nay phải chịu nỗi khổ này?

Ngạ quỷ đáp:

–Tôi đang bị khát, chịu khổ không thể kể xiết, xin Ngài hãy đến thưa hỏi Phật.

Ngài Mục-kiền-liên liền đến gặp Phật, để hỏi Ngài về việc ấy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang giảng nói pháp mầu thấy cho đại chúng nghe, thấy Mục-kiền-liên đến, Ngài ôn tồn hỏi Mục-kiền-liên có thấy điều gì lạ chăng.

Mục-kiền-liên bạch Phật:

–Vừa rồi con ngồi dưới một gốc cây, thấy có một ngạ quỷ, than thể bị lửa đốt cháy, chạy rong khắp nơi.

Ngài Mục-kiền-liên bèn thuật hết sự việc trên cho Phật nghe và hỏi Ngài ngạ quỷ đã gây ra nghiệp ác gì, mà phải chịu khổ não như thế.

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Nay thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời, hiệu là Ca-diếp.

Bấy giờ, có một vị Sa-môn bị khát nước trong khi đi bộ qua một đoạn đường. Lúc ấy có một cô gái tên là Ác Kiến đang múc nước tại một cái giếng đá bên đường. Vị Sa-môn này đến hỏi cô gái xin nước.

Cô gái ấy đáp:

–Để cho ông chết khát luôn, chứ tôi không bao giờ bố thí nước cho ông, nếu cho ông thì nước còn ít, không đủ mang về.

Lúc ấy vị Sa-môn không xin được nước, tiếp tục lên đường. Cô gái ấy là người tham lam bỏn sẻn, có người đến xin, cũng không bao giờ bố thí. Khi qua đời, cô gái ấy bị đọa vào loại ngạ quỷ. Do nghiệp duyên ấy, cho nên ngày nay Ác Kiến phải chịu khổ não như thế.

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Thầy nên biết cô gái không cho nước lúc bấy giờ, nay chính là ngạ quỷ này.

Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của ngạ quỷ Ác Kiến, các Tỳ-kheo đều dứt bỏ tâm tham lam, bỏn sẻn và nhàm chán sinh tử.

Có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chiphật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


44- Truyện Bàn-Đà-La Bị Đọa Làm Ngạ Quỷ Thân Thể Hôi Thối

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, ở thành Vương xá.

Bấy giờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, gần gến giờ ăn, nên đắp y ôm bát vào thành khất thực, rồi trở về chỗ ở. Thọ trai xong, thu xếp y bát và ngồi kiết già dưới một gốc cây để nhập định.

Ngài Mục-kiền-liên thấy một ngạ quỷ, thân thể hôi thối, không thể đến gần. Ngài Mục-kiền-liên bèn hỏi ngạ quỷ:

–Ngươi gây ra nghiệp gì mà bị quả báo thân thể hôi thối không thể đến gần như vậy?

Ngạ quỷ đáp:

–Xin Ngài hãy đến hỏi Phật, Ngài sẽ giải thích.

Bấy giờ Mục-kiền-liên liền đến gặp Đức Phật. Theo pháp thường của chư Phật thì trước hết là phải hỏi thăm:

–Thầy có thấy điều gì lạ chăng?

Mục-kiền-liên bạch Phật:

–Vừa rồi khi nhập định dưới một gốc cây, con thấy một ngạ quỷ, thân thể hôi thối còn hơn phẩn người, rong chạy khắp nơi tìm phẩn tiểu để ăn uống. Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay ngạ quỷ ấy đã gây ra nghiệp gì, mà phải chịu quả báo như vậy?

Đức Phật hỏi Mục-liên:

–Nay thầy muốn biết về việc ấy không?

Mục-kiền-liên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, con rất muốn nghe.

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích. Thuở xưa, cách nay vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, tại nước Ba-la-nại có một vị Bích-chi-phật xuất hiện ở đời. Vị Bích-chi-phật trải cỏ, tâm chuyên chú ngồi thiền ở nơi Vắng vẻ. Ngài bị bệnh, thầy thuốc bảo phải ăn thịt mới lành bệnh được.

Lúc ấy Bích-chi-phật nghe thầy thuốc nói, liền vào thành, gặp trưởng giả tên là Cát Thiện, để xin thịt trị bệnh.

Trưởng giả bảo vợ là Bàn-đà-la:

–Tôi có việc gấp, ngay bây giờ phải khởi hành, bà ở nhà hễ vị Bích-chi-phật bệnh kia gì thì bà hãy cho thuốc nấy.

Người vợ trả lời:

–Ông cứ lo việc của mình đi, chớ bận tâm việc nhà. Đối với việc ăn uống thuốc men của Bích-chi-phật đã có tôi đảm đương cúng dường.

Nhưng khi trưởng giả ra đi, Bàn-đà-la ở nhà lại sinh tâm tham lam tiếc rẻ, suy nghĩ rằng: “Bây giờ nếu ta bố thí cho ông ấy, thì ngày mai ông ta lại đến nữa. Hạng người gì thật đáng ghét!”. Nghĩ vậy, bà liền bảo vị Bích-chi-phật đưa bát rồi đem vào chỗ khuất, đại tiện vào rồi phủ đậy lên trên, đem trao cho Bích-chi-phật. Khi nhận, vị Bích-chi-phật biết ngay rằng đó là vật hôi thối, liền đổ xuống đất rồi ôm bát đi.

Do nghiệp ác ấy, nên trong vô lượng kiếp, Bàn-đà-la thường đọa vào loài ngạ quỷ, thân thể hôi thối, không thể đền gần, hay ăn phẩn người mà cho là ngon.

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Thầy nên biết, người vợ trưởng giả đại tiện vào bát bố thí cho vị Bích-chi-phật lúc bấy giờ, nay chính là ngạ quỷ này.

Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của ngạ quỷ ấy, các Tỳ-kheo liền dứt bỏ tâm tham lam bỏn sẻn, nhàm chán sinh tử; có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả Ana-hàm, có vị chứng quả A-la hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


45- Truyện Mục-Kiền-Liên Vào Thành Gặp Năm Trăm Ngạ Quỷ

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, ở thành Vương xá.

Bấy giờ, đã đến giờ khất thực, ngài Mục-kiền-liên đắp y, ôm bát vào thành khất thực.

Khi vào trong thành, Mục-kiền-liên gặp năm trăm ngạ quỷ từ ngoài đi vào. Ngạ quỷ thấy Mục-liên, chúng rất mừng, bèn thưa với ngài Mục-kiền-liên:

–Cúi mong Tôn giả, xin thương xót, hãy nói rõ họ tên chúng tôi cho những người trong thân quyến của chúng tôi biết rằng chúng tôi vì không tu nghiệp không thích bố thí, nên ngày nay phải đọa vào loài ngạ quỷ. Cúi xin Tôn giả bảo họ hãy dùng tài vật sắm sửa thức ăn ngon để thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường. Nếu vật thiếu, xin hãy vì chúng tôi khuyến hóa các đàn-việt để cùng nhau mở hội, giúp cho chúng tôi thoát khỏi thân ngạ quỷ.

Ngài Mục-kiền-liên liền hứa, lại hỏi các ngạ quỷ:

–Đời trước các ngươi đã gây ra nghiệp ác gì mà nay phải chịu quả báo như vậy?

Các ngạ quỷ đều cùng nhau thưa:

–Đời trước chúng tôi đều ở tại thành Vương xá này, là con của trưởng giả, nhưng tánh tính lại kiêu mạn, buông lung, không thích bố thí, tham ưa sự vui thế gian, không tin Tam bảo, không tin là đạo pháp vô lượng. Khi thấy các Sa-môn vào thành khất thực, chúng tôi chẳng những tự mình không bố thí mà còn ngăn cản không cho người khác cúng dường, còn nói: “Mấy đạo nhân này không tự làm ăn sinh sống, chỉ biết trông nhờ nơi bá tánh; nếu hôm nay cho họ thì mai họ lại đến nữa. Thật là những người không bao giờ nhàm chán, không bao giờ thấy đủ.” Do nghiệp duyên ấy, nên khi chết đi chúng tôi phải đọa vào loài ngạ quỷ, chịu tội báo này.

Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên nói với các ngạ quỷ:

–Nay, ta sẽ nói lại với những người bà con của các ngươi, để họ góp sức chung lo việc mở hội cúng dường. Nhưng lúc ấy các ngươi cũng phải đến dự hội.

Các ngạ quỷ đều cùng nhau thưa với Tôn giả:

–Chúng tôi vì tội nghiệp đời trước gây nên, tuy có hình thể, nhưng mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng như núi lớn, cổ nhỏ như cây kim, tóc mọc tua tủa như dao nhọn, quấn chặt vào thân thể, giữa các chi tiết trong thân đều bị lửa đốt, rong chạy khắp nơi tìm thức uống ăn nhưng không được gì. Giả sử thấy được món ăn ngon, chạy đến thì món ăn ấy đều biến thành máu mủ. Vậy với thân hình này làm sao chúng tôi có thể đến nơi mở hội được.

Ngài Mục-kiền-liên liền vì các ngạ quỷ ấy trình bày với các bà con của chúng đầy đủ sự việc trên. Các bà con nghe rồi, họ rất đau buồn, cùng nhau hợp sức vì ngạ quỷ mà mở hội. Khi đã mở hội ngài Mục-kiền-liên nhập định quán sát xem các ngạ quỷ đang ở đâu. Mục-kiền-liên quán sát khắp cả mười sáu nước lớn, kế quán khắp cả cõi Diêm-phù-đề, cả bốn cõi Thiên hạ và môt ngàn thế giới, cho đến cả thế giới Tam thiên đại thiên, cũng không thấy ngạ quỷ đâu cả.

Mục-kiền-liên lấy làm lạ, bèn đến chỗ Đức Phật bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, nay con vì các ngạ quỷ ấy khuyến hóa mọi người và bà con của chúng mở đại hội để tạo phước cứu giúp họ, nhưng con đã quán sát khắp cùng, mà không thấy các ngạ quỷ. Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay các ngạ quỷ ấy, hiện giờ chúng ở đâu?

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Các ngạ quỷ ấy bị gió nghiệp thổi đi, hàng Thanh văn các thầy không thể thấy biết. Tuy nhiên hiện giờ các ngạ quỷ ấy nhờ thầy mở hội thiết cúng, nên tội chướng được tiêu trừ. Ta sẽ làm cho họ đến trong đại hội.

Ngài Mục-kiền-liên liền vì các ngạ quỷ sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng.

Đức Phật dùng thần lực giúp các ngạ quỷ đến trong đại hội, để cho các Bà-la-môn, Sát-lợi và Cư sĩ trong thành Vương xá đều thấy hình dạng xấu xí đáng sợ của loài ngạ quỷ, mà dứt bỏ tánh tham lam, bỏn sẻn, nhàm chán sinh tử. Sau khi chứng kiến hình ảnh đáng sợ ấy, tất cả đều được mở tỏ tâm ý, có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các ngạ quỷ kia nói pháp bằng nhiều  cách cho họ thấy rõ về những lỗi lầm của sự tham lam, bỏn sẻn. Các ngạ quỷ đều sinh tâm kính tin. Ngay đêm ấy, các ngạ quỷ đều chết đi sinh lên tầng trời Đao-lợi.

Khi ấy họ tự nghĩ: “Chúng ta đã làm được việc phước gì mà được sinh lên cung trời Đao-lợi”. Họ liền quán sát, thấy mình trước kia đọa vào loài ngạ quỷ, đã nhờ Tôn giả Đại Mục-kiền-liên mở hội thỉnh Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng cúng dường, nên được sinh lên tầng trời Đao-lợi này vậy.

“Chúng ta phải cùng nhau đến chỗ Ngài Mục-liên để đền đáp công ân”. Nói xong, các Thiên tử đầu đội mũ trời, đeo các chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mỗi vị đều cầm hương hoa, từ cõi trời xuống nhân gian đến cúng dường Đức Phật và Tôn giả Mục-kiền-liên.

Cúng dường xong, các Thiên tử lui lại ngồi sang một bên nghe Đức Phật nói pháp, tâm ý được mở tỏ, tất cả đều có dấu hiệu thấy đạo, nhiễu Phật ba vòng rồi trở về Thiên cung.

Đức Phật bảo ngài Mục-liên:

–Thầy nên biết, năm trăm ngạ quỷ lúc bấy giờ, nay chính là năm trăm vị Thiên tử.


46- Truyện Mẹ Chàng Ưu-Đa-La Bị Đọa Vào Loài Ngạ Quỷ

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, ở thành Vương xá.

Bấy giờ, trong nước ấy có một vị trưởng giả, có vô lượng tài sản của báu nhiều không thể tính kể, ông chọn một cô gái trong một gia đình giàu sang để cưới về làm vợ và thường tấu trổi kỹ nhạc để mua vui cho nàng.

Khi người vợ ấy mang thai, qua mười tháng cưu mang thì sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô đẹp đẽ, trên đời ít có, nên cha mẹ rất hài lòng, đặt tên là Ưu-đa-la.

Khi Ưu-đa-la lớn khôn thì trưởng giả qua đời, Ưu-đà-la tự nghĩ: “Cha mình trước giờ buôn bán để sống, nhờ đó lập nên gia nghiệp, bây giờ ta không nên học theo cách ấy!”. Đối với Phật pháp, Ưu-đa-la  có tâm kính tin và muốn xuất gia, bèn đến xin mẹ đi xuất gia.

Mẹ đáp:

–Cha con đã chết, ngoài con ra ta không còn ai, vậy tại sao con nỡ bỏ ta mà đi xuất gia? Nay ta còn sống, nhất định không cho con. xuất gia nhập đạo, khi ta chết rồi lúc ấy tùy con.

Ưu-đa-la không toại nguyện, trong lòng buồn bã, thưa mẹ:

–Nếu mẹ không cho con xuất gia thì ngay bây giờ con sẽ nhảy xuống vực sâu hoặc uống thuốc độc mà chết.

Mẹ nói:

–Con đừng nói vậy. Tại sao ngày nay con nhất định muốn xuất gia mới được chứ? Thôi từ nay về sau, nếu con muốn thỉnh các Sa-môn, Bà-la-môn,… thì mẹ sẽ sắm sửa các món ăn ngon để tùy ý con cúng dường.

Nghe mẹ nói, Ưu-đa-la an lòng. Sau đó Ưu-đà-la thường thỉnh các Sa-môn và Bà-la-môn về nhà để cúng dường.

Mẹ của Ưu-đà-la thấy các đạo sĩ thường xuyên lui tới, nên bà rất buồn bực và sinh tâm chán ghét, rồi thốt ra những lời độc ác, chửi mắng các Sa-môn, Bà-la-môn:

–Hạng người không chịu làm ăn, chỉ biết trông nhờ vào bá tánh, thật đáng ghét!

Lúc ấy Ưu-đa-la đi vắng, người mẹ bèn đổ thức ăn và nước uống xuống hố bỏ. Khi con về, mẹ liền nói:

–Con đi rồi, mẹ ở nhà sắm sửa thức ăn ngon cúng dường cho các Sa-môn và Bà-la-môn rồi.

Nói xong, bà dẫn con đến chỉ cho thấy chỗ bà đã đổ thức ăn nước uống và nói:

–Mẹ vừa cúng dường xong, các vị mới ra về.

Ưu-đa-la nghe mẹ nói, rất vui mừng. Về sau, người mẹ qua đời bị đọa vào loài ngạ quỷ. Ưu-đa-la được xuất gia, siêng năng tu tập, chứng đắc quả A-la-hán.

Một hôm, khi đang ngồi thiền trong một cái hang bên bờ sông, có một ngạ quỷ miệng mồm khô nóng, đói khát khổ sở đến chỗ vị Tỳ-kheo nói rằng:

–Ta là mẹ của con đây.

Tỳ-kheo lấy làm lạ nói:

Lúc còn sống mẹ tôi thường ưa bố thí, vì sao ngày nay lại đọa vào loài ngạ quỷ, phải chịu quả báo này?

Ngạ quỷ đáp:

–Vì mẹ tham lam, bỏn sẻn không chịu cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, vì thế mà phải chịu làm thân ngạ quỷ. Trong suốt hai mươi năm mẹ không được ăn uống gì cả, giả sử có đi ra sông, suối hay ao hồ uống nước, thì nước đều khô cạn, hoặc có đến cội cây có trái thì cây liền khô héo. Mẹ bị đói khát nóng bức ép ngặt, không thể nói cho hết được.

Tỳ-kheo hỏi ngạ quỷ:

–Do đâu mà đến nỗi như vậy?

Ngạ quỷ đáp:

–Tuy ta bố thí như tâm thường bỏn sẻn. Đối với các Sa-môn, Bà-la-môn không có tâm cung kính, lại còn nhục mạ, nên ngày nay phải chịu quả báo này. Nếu thầy thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường và sám hối, hồi hướng công đức cho ta thì chắc chắn ta sẽ thoát khỏi thân ngạ quỷ.

Lúc ấy thầy Tỳ-kheo nghe mẹ nói, vô cùng đau xót, bèn khuyến hóa các thí chủ sắm sửa thức ăn ngon thỉnh Đức Phật, chư Tăng cúng dường. Sau khi cúng dường xong, ngạ quỷ kia liền hiện thân tại pháp hội để tỏ bày tội lỗi sám hối.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói pháp cho ngạ quỷ này nghe bằng mọi cách. Ngạ quỷ sinh tâm hổ thẹn. Ngay trong đêm ấy ngạ quỷ qua đời, lại thọ thân khác, đọa vào loài ngạ quỷ biết bay, đầu đội mão trời, cổ đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể lại đến chỗ Tỳ-kheo thưa:

–Ta cũng chưa thoát được thân ngạ quỷ, một lần nữa thầy hãy khuyến hóa các thí chủ thiết lễ cúng dường, sắm sửa các thứ giường ghế, mùng mền để cúng dường chư Tăng khắp nơi hồi hướng công đức cho ta, thì ta mới thoát được thân ngạ quỷ.

Thầy Tỳ-kheo nghe mẹ nói lại khuyến hóa thí chủ sắm sửa đầy đủ thức uống ăn và giường ghế, mùng mền để cúng dường chư Tăng khắp nơi.

Sau khi cúng dường xong, ngạ quỷ hiện thân trước đại chúng, lại sám hối. Ngay trong đêm ấy ngạ quỷ chết đi, được sinh lên tầng trời Đao-lợi. Liền nghĩ rằng: “Không biết ta đã gieo trồng phước đức gì mà được sinh lên tầng trời này?”. Bèn quán sát biết rằng nhờ người con là Tỳ-kheo đã sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng hồi hướng công đức cho mình mà được thoát thân ngạ quỷ, sinh lên cõi trời. Vậy nay mình phải đền đáp ân đức của Đức Phật và vị Tỳ-kheo.

Nghĩ xong, vị trời này liền đội mũ trời, đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, mang hương hoa đến cúng dường Đức Phật và người con Tỳ-kheo.

Cúng dường xong, vị trời lui lại ngồi sang một bên, nghe Đức Phật nói pháp, tâm ý được mở tỏ, chứng được quả Tu-đà-hoàn, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại cõi trời.

Khi Đức Phật nói về việc mẹ chàng Ưu-đa-la, các Tỳ-kheo đều dứt bỏ tâm tham lam, bỏn sẻn và nhàm chán sinh tử; có vị chứng được quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


47- Truyện Ngạ Quỷ Sinh Ra Đã Bị Mù

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ Tôn giả A-nan đắp y, ôm bát vào thành khất thực, gặp một ngạ quỷ mình mẩy như thân cây bị cháy, bụng to như núi, cổ họng nhỏ như cây kim, bị mù từ lúc sinh ra, bị các loài quạ, cú, thứu, điêu…cắn mổ; lại còn tự đánh mình rồi lớn tiếng kêu la, không lúc nào ngừng.

A-nan hỏi ngạ quỷ:

–Đời trước ngươi gây ra nghiệp ác gì, mà nay chịu khổ như vậy?

Ngạ quỷ đáp:

–Nơi có mặt trời thì không cần đèn đuốc. Trên đời có Như Lai, xin Tôn giả hãy đến hỏi Ngài.

Bấy giờ, A-nan liền đến gặp Phật, bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, vừa rồi con vào thành khất thực, thấy một ngạ quỷ chịu khổ não dữ dội, không thể nói hết được.

Ngài A-nan liền trình bày hết sự việc cho Phật nghe và bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay đời trước ngạ quỷ kia đã gây ra nghiệp ác gì mà nay chịu thọ quả báo như thế?

Đức Phật bảo A-nan:

–Ông hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại, có Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, theo thứ lớp Ngài đến vườn Nai, bấy giờ có một phụ nữ đang mang thai. Khi thấy Đức Phật Thế Tôn, phụ nữ ấy sinh tâm rất kính tin.

Đủ mười tháng, người phụ nữ sinh được một bé gái, dung mạo xinh đẹp khác thường mọi người đều kính quý. Bé gái dần dần khôn lớn.

Một hôm, cô gái ấy đến chỗ Phật, nghe Phật nói pháp, sinh kính tin. Khi trở về nhà cô thưa với cha mẹ:

–Xin cha mẹ bằng lòng cho con được xuất gia.

Lúc ấy cha mẹ cố ngăn cản, nhưng không thể làm cho cô từ bỏ ý định. Sau đó cô xuất gia làm Tỳ-kheo-ni.

Vị Tỳ-kheo-ni được cha mẹ xây dựng cho một ngôi chùa, lại thỉnh các Tỳ-kheo-ni về ở chung chùa. Hôm ấy, vị Tỳ-kheo-ni con của trưởng giả, đối với Giới luật có hủy phạm chút ít, nên bị các Tỳ-kheo-ni đuổi ra khỏi chùa. Tỳ-kheo-ni rất hổ thẹn, không dám về nhà, phải ở nhờ nhà người khác, cô sinh tâm giận dữ nói:

–Ngôi chùa đó là của ta, ta cư trú trong đó, nay tại sao các người lại đuổi ta để mình ở như thế?

Sau đó, cô bèn đi nói những lỗi xấu của các Tỳ-kheo-ni cho các trưởng giả cư sĩ nghe:

–Các người ấy giống như ngạ quỷ, không chịu làm ăn sinh sống mà chỉ biết trông nhờ vào bá tánh. Ta thề kiếp sau không thấy bọn họ nữa.

Thề như vậy rồi, về sau Tỳ-kheo-ni qua đời bị đọa vào loài ngạ quỷ sinh ra đã bị mù hai mắt.

Đức Phật bảo A-nan:

–Thầy nên biết, con gái của vị trưởng giả xuất gia nhập đạo; vì bị đuổi khỏi chùa nên dùng lời độc ác để phỉ báng các Tỳ-kheo-ni lúc ấy, nay chính là ngạ quỷ sinh ra đã bị mù kia vậy.

Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên của ngạ quỷ sinh ra đã bị mù thì các Tỳ-kheo đều giữ gìn ba nghiệp, thân, miệng, ý, nhàm chán sinh tử; có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


48- Truyện Trưởng Giả Nhã-Đạt-Đa Vì Tham Lam Nên Bị Đọa Vào Loài Ngạ Quỷ

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả, tên là Nhã-đạt-la, có vô lượng tài vật của báu, tôi tớ, voi ngựa trâu dê nhiều không thể tính kể.

Một hôm, trưởng giả rời thành ra ngoài dạo chơi thưởng ngoạn phong cảnh, khi đến tinh xá Kỳ hoàn, trưởng giả thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng soi khắp như trăm ngàn mặt trời, trang nghiêm thân Ngài, trưởng giả sinh tâm rất kính tin đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên để nghe Phật nói pháp. Trưởng giả vui mừng, trở về từ giã gia đình và bà con để cầu xin nhập đạo. Được gia đình và bà con chấp nhận, trưởng giả trở lại bạch Phật xin được xuất gia.

Lúc ấy Đức Phật bèn gọi:

–Lành thay, Tỳ-kheo!

Trưởng giả, râu tóc tự nhiên rụng, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn.

Những người trong thân tộc và dân chúng thấy Nhã-đạt-la là con nhà giàu sang mà xuất gia học đạo, nên tranh nhau cúng dường y bát và các vật cần dùng. Nhã-đạt-la được cúng dường sinh tâm tham, bỏn sẻn không cúng dường lại cho những vị đồng tu phạm hạnh. Về sau, khi qua đời, Nhã-đạt-đa bị đọa vào loài ngạ quỷ, trở lại giữ y bát.

Chúng Tăng thấy Nhã-đạt-đa chết, bèn mở cửa phòng định lấy y bát và đem thi hài làm phép yết-ma hỏa táng thì thấy một ngạ quỷ mình mẩy như thân cây bị cháy, hình dạng rất đáng sợ đang giữ lấy y bát này nên chẳng ai dám đến gần. Các Tỳ-kheo thấy vậy, liền trở về bạch Phật và thuật lại sự việc trên.

Bấy giờ, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đến căn phòng ấy, Ngài bảo ngạ quỷ:

–Sao ngươi không biết hổ thẹn, trước kia ngươi đã xuất gia nhập đạo, cũng vì tham đắm lợi dưỡng, không chịu bố thí, nên mới đọa vào loài ngạ quỷ có thân hình xấu xí. Vì sao ngươi đã không biết hổ thẹn mà còn trở lại ôm giữ y bát làm gì.

Đức Phật quở trách tham lam bỏn sẻn có nhiều tội lỗi, chính điều này làm cho chúng sinh đọa vào đường ác. Đức Phật nói pháp cho ngạ quỷ nghe bằng mọi cách. Tâm ý được mở tỏ, ngạ quỷ rất hổ thẹn, liền lấy bát cho chúng Tăng. Nửa đêm hôm ấy ngạ quỷ chết đi lại đọa vào loài ngạ quỷ biết bay, thân tướng đẹp đẽ khác thường, đeo các thứ chuỗi anh lạc, trang nghiêm thân thể, thân phát ra ánh sáng chiếu khắp tinh xá Kỳ hoàn, bay lên không trung chẳng khác gì các vị trời, đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi lui lại ngồi sang một

bên. Đức Phật liền nói pháp cho ngạ quỷ nghe bằng nhiều cách. Vị ấy tâm ý mở tỏ, vui mừng lui ra.

Sáng hôm sau, các Tỳ-kheo thưa hỏi Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, đêm qua có ánh sáng chiếu khắp Kỳ hoàn, đó là Phạm vương, Đế Thích, bốn vị Thiên vương và hai mươi tám bộ Quỷ thần tướng hay là các vị Đại Bồ-tát từ các nơi đến nghe pháp?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Chẳng phải Đế Thích, Phạm vương hay hai mươi tám bộ các Thần vương mà là một vị trưởng giả rất giàu có trong thành Xá-vệ xuất gia nhập đạo, gần đây mạng chung bị đọa vào loài ngạ quỷ biết bay, nay đem hương hoa đến cúng dường Ta. Ánh sáng này từ than ngạ quỷ ấy phát ra.

Khi Đức Phật nói về truyện nhân duyên ngạ quỷ, các Tỳ-kheo  đều dứt bỏ tâm tham lam bỏn sẻn, nhàm chán sinh tử; có vị chứng quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


49- Truyện Ngạ Quỷ Tự Ăn Thịt Năm Trăm Ngạ Quỷ Con Do Nó Sinh Ra

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, trong thành Vương xá.

Bấy giờ, Tôn giả Na-la-đạt-đa mặc y, ôm bát vào thành khất thực. Khi Tôn giả trở về nơi cũ để thọ trai xong, từ xa nhìn thấy tinh xá Kỳ hoàn toàn một màu đỏ như máu. Tôn giả lấy làm lạ, liền đến xem; thấy một ngạ quỷ da thịt tiêu hết, chỉ còn bộ xương, trong một ngày đêm sinh ra được năm trăm ngạ quỷ con, gầy còm ốm yếu, không có khí lực. Trong khi ngạ quỷ sinh con thì tay chân rụng rời, bị đói khát hành hạ, vừa sinh ra con nào thì liền ăn thịt con nấy mà không bao giờ no.

Lúc ấy Tôn giả Na-la-đạt-đa hỏi ngạ quỷ:

–Ngươi đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay phải chịu quả báo đau khổ như vậy?

Ngạ quỷ đáp:

–Xin Tôn giả hãy hỏi Đức Phật Thế Tôn, Ngài sẽ nói cho Tôn giả nghe.

Bấy giờ, Na-la-đạt-đa liền đến gặp Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui lại đứng sang một bên. Theo pháp thường của chư Phật thì trước hết là hỏi thăm.

Đức Thế Tôn hỏi:

–Nay thầy có thấy điều gì lạ chăng?

Na-la bạch Phật:

–Vừa rồi, khi con đang đi trông thấy một ngạ quỷ, trong một ngày đêm sinh ra năm trăm ngạ quỷ con, vì quá đói khát nên sinh con rồi ăn thịt con. Bạch Thế Tôn, chẳng hay đời trước ngạ quỷ này đã  gây ra nghiệp ác gì mà nay phải chịu quả báo như vậy?

Đức Phật bảo Na-la-đạt-đa:

–Nếu thầy muốn biết, hãy dốc lòng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Trong hiền kiếp này, tại nước Ba-la-nại có một vị trưởng giả, vang bạc, châu báu, tôi tớ, voi ngựa trâu dê nhiều không thể tính kể.

Trưởng giả ấy chỉ có một vợ mà không có con, cầu xin với Thần linh, để mong được sinh con nhưng không được.

Lúc ấy trưởng giả cưới thêm một cô gái trong dòng họ, không bao lâu, trưởng giả được biết cô vợ sau đã có thai. Vợ cả hay tin, sinh lòng ganh tị, bà âm thầm dùng thuốc độc làm trụy thai vợ nhỏ.

Lúc ấy những người bà con của vợ nhỏ đến hành hung, họ dung gậy gộc, tay chân để hỏi vợ cả có làm việc ấy không. Vợ cả nửa muốn nói thật vì sợ bị chết bởi đòn roi, nửa không dám nói vì sợ cũng bị tra khảo đau đớn vô cùng. Trong lúc bị dồn ép bức bách ấy, bà mới thề liều rằng:

–Nếu tôi thật sự có làm cô ấy trụy thai, thì khi chết tôi sẽ đọa vào loài ngạ quỷ, một ngày một đêm sinh năm trăm ngạ quỷ con, sinh con ra lại ăn thịt con mình và không bao giờ biết no.

Bà thề thốt như vậy rồi bỏ đi.

Đức Phật bảo Na-la-đạt-đa:

–Thầy nên biết, người vợ cả thời ấy, vì sinh lòng ghen ghét làm trụy thai người khác, rồi dối trá thề thốt đọa vào loài ngạ quỷ, nên nay phải thọ quả báo như vậy.

Khi nghe Đức Phật dạy tâm ganh ghét có nhiều tội lỗi, làm cho chúng sinh đọa vào đường ác, các Tỳ-kheo tâm ý được mở tỏ, có vị quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng quả Tư-đà-hàm, có vị chứng quả A-na-hàm, có vị chứng quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


50- Truyện Chàng Diêm-Ba-La Giống Ngạ Quỷ

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong giảng đường Trùng các, bên bờ sông Di-hầu, thành Tỳ-xá-ly.

Bấy giờ, trong thành có một vị trưởng giả tên là Già-la. Ông kén chọn người xứng đáng phù hợp để cưới làm vợ và thường tấu trổi âm nhạc để mua vui cho nàng.

Sau đó, người vợ mang thai, tự nhiên có mùi hôi thối, không ai có thể tới gần. Trưởng giả hỏi vợ:

–Trước kia nàng không có như vậy, tại sao nay lại có mùi hôi thối như thế?

Vợ đáp:

–Đó là do hành nghiệp của đứa con trong bụng em gây ra khiến cho như thế.

Mang thai đủ mười tháng, người vợ sinh được một bé trai, chỉ có da bọc xương, ốm yếu gầy gò, không ai muốn nhìn, lại khi sinh ra mình mẩy dính đầy phẩn uế. Đứa trẻ dần dần khôn lớn, nhưng không muốn ở nhà mà chỉ thích đi tìm đồ phẩn uế, không chịu dứt bỏ.

Cha mẹ và bà con thấy nó như vậy không muốn thấy mặt; bèn đuổi nó đi thật xa để khỏi gần gũi. Người con ra đi, tìm phẩn uế làm thức ăn. Dân chúng thấy vậy, bèn đặt tên là quỷ Diêm-ba-la.

Bấy giờ, trong nước có bọn ngoại đạo, tình cờ đi đường gặp Diêm-ba-la, họ khen tốt lắm. Diêm-ba-la nghe khen, mừng vui khôn xiết, bèn nói với các ngoại đạo:

–Xin các vị hãy rủ lòng thương cho tôi được nhập đạo.

Khi ấy, các ngoại đạo liền cho Diêm-ba-la xuất gia. Họ bảo Diêm-ba-la phải khỏa thân, bôi tro vào mình, tu theo tịnh hạnh. Diêm-ba-la tuy là ở trong đạo, nhưng lại ưa thích những nơi có phẩn uế dơ bẩn. Các ngoại đạo thấy vậy đều quở trách, có khi họ dùng roi đánh đập và nói rằng:

–Ông là người, tại sao lại ưa thích chỗ bất tịnh như vậy. Diêm-ba-la thường bị các ngoại đạo trách mắng hoặc đánh đập bèn bỏ ra đi, đến sống một mình thỏa thích tại hố nước bên bờ sông.

Lúc ấy tại bờ sông, lại có năm trăm ngạ quỷ đang sống ở đó, thấy Diêm-ba-la đến với thân hình rất hôi thối, nên chúng chỉ ở bên trong, chẳng dám gần gũi, nhưng Diêm-ba-la thường tự khen ngợi mình với các quỷ:

–Tôi ở tại nhân gian thường bị quở trách, đánh đập rất khổ sở.

Nay ở đây, tôi không còn bị mắng nhiếc đánh đập, thật là sung sướng.

Nhưng các ngạ quỷ thấy Diêm-ba-la hôi thối dơ bẩn, nên họ đều bỏ đi. Lúc ấy Diêm-ba-la nói với các ngạ quỷ:

–Thân hôi thối của tôi nhờ các anh mà sống được vài ngày, nay các anh lại bỏ tôi mà đi, từ nay về sau tôi biết sống sao đây?

Diêm-ba-la nói xong, trong lòng rất khổ não, buồn rầu đến nỗi ngã quỵ xuống đất.

Bấy giờ Đức Thế Tôn sáu thời trong một ngày đêm thường quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào độ được, Ngài liền đến hóa độ.

Phật thấy Diêm-ba-la mất hết bạn bè, ưu sầu khổ não, Ngài liền đến chỗ hố nước nói pháp, khiến Diêm-ba-la vui mừng.

Diêm-ba-la thấy Phật Thế Tôn các căn vắng lặng, ánh sáng quang minh chiếu soi như trăm ngàn mặt trời trang nghiêm thân Ngài nên rất vui mừng và gieo năm vóc sát đất, bạch:

–Bạch Đức Thế Tôn, trong thế gian này, những người thấp hèn như con có được xuất gia hay không?

Đức Phật đáp:

–Trong giáo pháp của Ta, không có người cao quý hay thấp hèn nào mà không được xuất gia.

Diêm-ba-la nghe Phật dạy, bèn bạch:

–Cúi xin Thế Tôn từ bi thương xót cho con được xuất gia.

Khi ấy Thế Tôn liền giơ cánh tay phải màu vàng ròng và gọi:

–Lành thay, Tỳ-kheo!

Diêm-ba-la, râu tóc tự rơi rụng, thân mặc pháp phục, liền thành Sa-môn, oai nghi đỉnh đạc giống như một vị Tỳ-kheo đã có mười hai tuổi hạ không khác.

Sau khi nhờ ân Phật được xuất gia, Diêm-ba-la liền ở trước Đức Phật nói kệ:

Nay được nhờ ân Phật
Vừa ý, như sở nguyện
Trừ bỏ thân hôi thối
Được thành vị Sa-môn.

Đức Phật bảo Diêm-ba-la:

–Giờ đây, trong giáo pháp của Ta, thầy đã được xuất gia, vậy hãy siêng năng tu tập, giữ gìn tâm ý.

Không bao lâu, Diêm-ba-la chứng đắc quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu phép thần thông và tám pháp giải thoát, được các trời người kính ngưỡng.

Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Đức Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-kheo Diêm-ba-la này đời trước đã gây ra nghiệp ác gì, mà nay phải chịu tội báo như vậy, lại do nhân duyên gì được gặp Đức Phật Thế Tôn và rồi đắc quả A-la-hán.

Lúc ấy Đức Thế Tôn nói kệ cho các Tỳ-kheo nghe rằng:

Trước gieo nghiệp thiện, ác
Trăm kiếp cũng không mất
Vì nhân duyên tội nghiệp
Nay chịu quả báo này.

Các Tỳ-kheo nghe Phật nói kệ xong, lại bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay việc ở quá khứ như thế nào?

Cúi mong Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được biết.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích. Trong hiền kiếp này, lúc ấy con người sống lâu bốn vạn tuổi. Tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời, hiệu là Ca-la-ca-tôn-đà. Ngài cùng các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, đến nước Bảo điện, nhà vua nghe tin Phật đến, trong lòng rất vui mừng, liền cùng các quan ra khỏi thành đón rước, vua quan cùng đảnh lễ dưới chân Phật rồi quỳ thẳng chắp tay, thỉnh Phật:

–Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi thương xót nhận bốn thứ cúng dường của con trong ba tháng.

Đức Phật liền chấp nhận. Sau khi biết Đức Phật đã chấp nhận, vua liền vì Đức Phật và Tỳ-kheo Tăng cho xây dựng phòng ốc, rồi thỉnh một Tỳ-kheo làm trụ trì để trông coi việc Tăng.

Một hôm, vị trụ trì có việc đi vắng. Lúc ấy có một vị Tỳ-kheo La-hán vào chùa, oai nghi khoan thai rất đáng chiêm ngưỡng. Các thí chủ của vị trụ trì bèn mời Tỳ-kheo ấy vào nhà tắm để tắm rửa. Sau đó, Tỳ-kheo lại xoa dầu thơm lên người.

Khi vị trụ trì trở về, thấy vị Tỳ-kheo này xoa dầu thơm lên mình, liền sinh lòng ganh ghét, rồi dùng lời lẽ độc ác mắng nhiếc Tỳ-kheo:

–Ông là người xuất gia, sao lại làm như vậy? Chẳng khác nào  bôi phẩn người lên mình.

Vị La-hán nghe vị trụ trì nói vậy, sinh tâm thương xót. Vị La-hán bỗng vọt lên không trung, hiện ra mười tám thứ thần biến. Lúc ấy vị trụ trì thấy sự thần biến, rất sinh tâm hổ thẹn và hướng về vị La-hán để sám hối tội lỗi. Do nghiệp duyên ấy nên trong năm trăm đời khi sinh ra, thân Diêm-ba-la thường hôi thối, không ai dám đến gần.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vị trụ trì đã dùng lời lẽ ác độc mắng nhiếc vị La-hán lúc bấy giờ nay chính là Tỳ-kheo Diêm-ba-la vậy. Nhưng nhờ lúc ấy đã từng xuất gia và hướng về La-hán sám hối tội lỗi, cho nên nay gặp Ta, được xuất gia và đắc đạo.

Khi Đức Phật nói truyện nhân duyên của Diêm-ba-la, các Tỳ- kheo đều giữ gìn ba nghiệp thân, miệng, ý; dứt bỏ tâm ganh ghét, nhàm chán sinh tử; có vị chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, có vị chứng đắc Tư-đà-hàm, có vị chứng đắc quả A-na-hàm, có vị chứng đắt quả A-la-hán, có vị phát tâm Bích-chi-phật, có vị phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.