LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử.
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 5: BỐN PHÁP

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-tử lại bảo đại chúng: Quý thầy nên biết: Đối với bốn pháp, Đức Phật đã thấu suốt hiểu biết rất tường tận đầy đủ, sau đó đem ra giảng dạy chỉ bày cho tất cả hàng đệ tử. Nay chúng ta cần nên hòa hợp kết tập lại, để sau nầy khi Đức Phật đã diệt độ thì không có việc tranh cãi. Và tất cả đều tuân hành giữ gìn giới luật phạm hạnh để đem lại vô lượng lợi lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh hữu tình. Chúng ta nên thương xót hàng trời, người khiến họ thọ hưởng được nhiều nghĩa lý thù thắng và mọi sự lợi ích an lạc đẹp đẽ.

Bốn pháp là gì? Đây là năm bài tụng (Ốt-đà-nam):

Bài tụng thứ nhất nói:

Một: Bốn pháp có mười
Niệm, đoạn, thần, lự, đế
Tưởng, vô lượng, vô sắc
Thánh chủng, quả có bốn.

Có bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, bốn tĩnh lự, bốn Thánh đế, bốn tưởng, bốn vô lượng, bốn vô sắc, bốn thánh chủng, bốn quả Sa-môn.

– Bốn niệm trụ: Thân niệm trụ, thọ niệm trụ, tâm niệm trụ và pháp niệm trụ.

1. Thân niệm trụ là sao?

Đáp: Có mười thứ sắc xứ và pháp xứ thuộc về sắc. Đó gọi là thân niệm trụ.

2. Thọ niệm trụ là sao?

Đáp: Tức là sáu cảm xúc (thọ) của thân, như mắt thấy vật thì sinh ra nhận biết cảm xúc. Cho đến ý xúc pháp sinh ra thọ v.v… Đó gọi là thọ niệm trụ.

3. Tâm niệm trụ là sao?

Đáp: Tức là sáu thức của thân, tức là nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là tâm niệm trụ.

4. Pháp niệm trụ là sao?

Đáp: Thọ uẩn chẳng thâu giữ được pháp vô sắc. Ấy gọi là pháp niệm trụ.

Lại còn, thân vươn lên (tăng thượng) mà sinh ra các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Thế nên gọi là thân niệm trụ. Thọ vươn lên, thì sinh ra các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu, nên gọi là thọ niệm trụ. Tâm vươn lên thì sinh ra các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu, nên gọi là tâm niệm trụ. Pháp vươn lên thì sinh ra các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu, nên gọi là pháp niệm trụ.

Lại còn khi duyên nơi thân tuệ thì gọi là thân niệm trụ. Tuệ duyên nơi thọ thì gọi là thọ niệm trụ. Tuệ duyên nơi tâm thì gọi là tâm niệm trụ. Tuệ duyên nơi pháp thì gọi là pháp niệm trụ.

– Bốn chánh đoạn: Gồm có:

1. Nếu các điều ác bất thiện đã sinh thì phải cố đoạn trừ, luôn luôn khởi sự siêng năng tinh tấn để khuyến khích và gìn giữ tâm như thế mãi.

2. Nếu các điều ác bất thiện chưa sinh thì phải cố sức khiến chúng đừng sinh, luôn luôn siêng năng tinh tấn khuyến khích và gìn giữ tâm như thế mãi.

3. Nếu các điều thiện chưa sinh, thì phải cố gắng khiến chúng sinh ra, luôn luôn siêng năng tinh tấn khuyến khích và giữ tâm như thế mãi.

4. Nếu các điều thiện đã sinh ra rồi thì phải gắng giữ gìn thật bền bỉ không bao giờ xao lãng, phải luôn tu trì bồi bổ khiến các pháp thiện ấy càng rộng lớn gấp bội, để chứng được trí tuệ lớn. Luôn luôn siêng năng tinh tấn khuyến khích và gìn giữ tâm như thế mãi.

– Đối với các pháp xấu xa chẳng thiện đã sinh ra rồi thì phải gắng sức đoạn trừ, nên phải siêng năng tinh tấn mà khuyến khích và gìn giữ tâm như thế mãi. Vậy “Chánh đoạn” là gì? Tức là cắt đứt các pháp bất thiện đã sinh ra và cố gắng hết sức để khởi tu các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu, như thế gọi là chánh đoạn thứ nhất.

– Đối với các ác pháp chưa sinh ra thì phải cố gắng ngăn ngừa đừng để nó sinh ra và phải siêng năng tinh tấn khuyến khích và gìn giữ tâm mãi như thế. Chánh đoạn là gì? Tức là phải ngăn ngừa không để các pháp xấu ác, chẳng thiện sinh ra và phải cố gắng vươn lên khởi tu các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Như thế gọi là chánh đoạn thứ hai.

– Đối với các pháp thiện chưa sinh phải cố gắng khiến cho nó sinh ra, luôn luôn siêng năng tinh tấn mà khuyến khích và giữ gìn tâm mãi như thế. Chánh đoạn là gì? Nghĩa là đối với các pháp thiện chưa sinh ra thì phải cố gắng vươn lên tiến tu các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Như thế gọi là chánh đoạn thứ ba.

– Đối với các pháp thiện đã sinh rồi thì phải giữ gìn thật bền vững không chút xao lãng bỏ quên, phải luôn tu trì bồi bổ khiến các pháp thiện ấy càng rộng lớn gấp bội để được chứng trí tuệ lớn. Luôn luôn siêng năng tinh tấn khuyến khích và giữ gìn tâm như thế mãi. Chánh đoạn là gì? Đối với các pháp thiện đã sinh ra rồi thì càng cố sức vươn lên để tiến tu các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Như thế gọi là chánh đoạn thứ tư.

Bốn thần túc: Gồm có:

1. Thần túc đoạn hạnh thành tựu dục Tam-ma-địa. 2. Thần túc đoạn hạnh thành tựu cần Tam-ma-địa. 3. Thần túc đoạn hạnh thành tựu tâm Tam-ma-địa. 4. Thần túc đoạn hạnh thành tựu quán Tam-ma-địa.

– Thế nào là thần túc đoạn hạnh thành tựu dục Tam-ma-địa?

Đáp: Nghĩa là do dục vươn cao (tăng thượng) mà sinh ra các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Thế nên gọi là thần túc đoạn hạnh thành tựu dục Tam-ma-địa.

– Thế nào là thần túc đoạn hạnh thành tựu cần Tam-ma-địa?

Đáp: Cần (siêng năng) vươn cao sẽ sinh ra các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Thế nên gọi là thần túc đoạn hạnh thành tựu cần Tamma-địa.

– Thế nào là thần túc đoạn hạnh thành tựu tâm Tam-ma-địa?

Đáp: Tâm vươn cao sẽ sinh ra các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Thế nên gọi là thần túc đoạn hạnh thành tựu tâm Tam-ma-địa.

– Thế nào là thần túc đoạn hạnh thành tựu quán Tam-ma-địa?

Đáp: Quán vươn cao sẽ sinh ra các pháp thiện và đạo vô lậu. Thế nên gọi là thần túc đoạn hạnh thành tựu quán Tam-ma-địa.

Bốn tĩnh lự (Thiền): Tức là tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự thứ hai, tĩnh lự thứ ba và tĩnh lự thứ tư.

1. Thế nào là tĩnh lự thứ nhất?

Đáp: Tĩnh lự thứ nhất thâu giữ năm uẩn thiện.

2. Thế nào gọi là tĩnh lự thứ hai?

Đáp: Tĩnh lự thứ hai thâu giữ năm uẩn thiện.

3. Thế nào là tĩnh lự thứ ba?

Đáp: Tĩnh lự thứ ba thâu giữ năm uẩn thiện.

4. Thế nào gọi là tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Tĩnh lự thứ tư thâu giữ năm uẩn thiện.

Bốn Thánh đế: Tức là khổ Thánh đế, khổ tập Thánh đế, khổ diệt Thánh đế, và khổ diệt đạo Thánh đế (đạo đưa đến sự diệt khổ Thánh đế).

1. Khổ Thánh đế là sao?

Đáp: Là chấp chặt vào năm uẩn, tức chấp chặt sắc uẩn, chấp chặt thọ uẩn, chấp chặt tưởng uẩn, chấp chặt hành uẩn, chấp chặt thức uẩn.

Đó gọi là khổ Thánh đế.

2. Khổ tập Thánh đế là sao?

Đáp: Chính các nhân hữu lậu nó chiêu tập tạo nên các khổ.

3. Khổ diệt Thánh đế là sao?

Đáp: Chọn lựa pháp diệt và vô vi, nên gọi là khổ diệt Thánh đế 4. Đưa đạo đến sự diệt khổ Thánh đế là sao?

Đáp: Gồm các pháp hữu học và các pháp vô học là con đường (đạo) đưa đến chỗ diệt khổ.

Bốn tưởng: Gồm có:

  1. Nghĩ tưởng nhỏ.
  2. Nghĩ tưởng lớn.
  3. Nghĩ tưởng vô lượng.
  4. Không có tưởng.

– Nghĩ tưởng nhỏ là sao?

Đáp: Tức là khởi ý (tác ý) suy nghĩ tìm hiểu các sắc nhỏ như nghĩ trước thây ma bầm, nồng nặc, rệu rã, vỡ toáng, sình chương, nghĩ về các hài cốt, sự rục rã của hài cốt, hoặc nghĩ về đất, về nước, về lửa, về gió, hoặc nghĩ về màu xanh, màu vàng, đỏ hoặc trắng, hoặc nghĩ về tai họa tội ác của ái dục, tham dục, hoặc suy nghĩ về các công đức của sự xuất ly (giải thoát)… cùng các thứ đó mà khởi lên các ý tưởng, như tưởng các việc hiện tại, các việc đã qua hay chưa đến. Đó gọi là nghĩ tưởng nhỏ.

– Nghĩ tưởng lớn là sao?

Đáp: Tức tác ý suy nghĩ tìm hiểu một cách rộng rãi về các sắc nhưng không phải to lớn đến không có bến bờ biên vực. Ví như cũng nghĩ về thây chết bầm xanh, nói rộng như trước đã nói. Đó gọi là nghĩ tưởng lớn.

– Nghĩ tưởng vô lượng là sao?

Đáp: Tức là tác ý suy nghĩ, tìm hiểu rộng lớn về các sắc, khối lượng của nó lớn đến vô biên, thí dụ như suy nghĩ về thây chết bầm xanh. Nói rộng như trước, nên gọi là nghĩ tưởng vô lượng.

– Không có nghĩ tưởng là sao?

Đáp: Đây tức là chỉ rõ không có việc nghĩ tưởng chi cả.

Bốn vô lượng: Đó là từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng và xả vô lượng.

1. Từ vô lượng là sao?

Đáp: Tức các thứ từ ái và lòng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như khi người ấy khởi thân nghiệp và ngữ nghiệp hoạt động từ hạnh nhưng đồng thời cũng khởi tâm bất tương ưng hành, có nghĩa là dù thân và ngữ làm hạnh từ nhưng tâm không động, không để ý gì đến, thì đó gọi là từ vô lượng.

2. Bi vô lượng là sao?

Đáp: Tức các thứ bi và lòng thương tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như khi người ấy khởi thân và ngữ nghiệp hoạt động bi hạnh nhưng đồng thời cũng khởi tâm bất tương ưng nghĩa là thân và ngữ làm hạnh bi nhưng tâm không chấp trước để ý đến, thì đó gọi là bi vô lượng.

3. Hỷ vô lượng là sao?

Đáp: Tức là thứ niềm vui tâm vui tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như khi người ấy khởi thân và ngữ nghiệp hoạt động hỷ hạnh, nhưng đồng thời cũng khởi tâm bất tương ưng hành. Nghĩa là thân và ngữ làm hạnh hỷ, nhưng tâm không chấp trước để ý đến, thì đó gọi là hỷ vô lượng.

4. Xả vô lượng là sao?

Đáp: Tức là các thứ xả, và xả tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như khi người ấy khởi thân và ngữ nghiệp hoạt động xả hạnh, nhưng đồng thời cũng khởi tâm bất tương ưng hành. Nghĩa là thân và ngữ làm hạnh xả, nhưng tâm không chấp trước, để ý đến. Đó gọi là xả vô lượng.

Bốn vô sắc:

  1. Không vô biên xứ.
  2. Thức vô biên xứ.
  3. Vô sở hữu xứ.
  4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

– Không vô biên xứ: Tóm lược có hai thứ:

  1. Định.
  2. Sinh.

Hết thảy sinh của thọ, tưởng, hành, thức gọi đó là Không vô biên xứ.

– Thức vô biên xứ là sao?

Đáp: Thức vô biên xứ tóm lược có hai thứ định và sinh. Hết thảy thọ, tưởng, hành, thức của định – sinh thì gọi đó là Thức vô biên xứ.

– Vô sở hữu xứ là sao?

Đáp: Vô sở hữu xứ tóm lược có hai thứ định và sinh. Hết thảy thọ, tưởng, hành, thức của định – sinh thì gọi là Vô sở hữu xứ.

– Phi tưởng phi phi tưởng xứ là sao?

Đáp: Phi tưởng phi phi tưởng xứ tóm lược có hai thứ định và sinh. Nếu hết thảy thọ, tưởng, hành, thức của định – sinh thì gọi đó là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Và có một thứ định khi khởi tâm bất tương ưng hành đó là định diệt tưởng. Đó gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Bốn Thánh chủng:

1. Là như một vị Bí-sô khi có được y phục liền vui mừng cho là đầy đủ rồi, vui, khen ngợi là đủ chẳng cần cầu tìm y phục, khiến cho người đời bàn tán khen chê. Nếu cầu chẳng được thì lại không chịu cam phận, mà lại trông ngóng kiếm tìm, đấm ngực bực tức buồn rầu. Còn như những vị nào khi đã cầu được rồi, đúng pháp thọ dụng, không sinh lòng đam mê, đắm chấp, ham thích, giấu giữ cất chứa. Trong khi thọ dụng, thấy được các lỗi lầm, rồi hiểu biết chỉ mong cầu việc xuất ly giải thoát. Do vậy người nầy được y phục là đáng mừng vui, nhưng không hề ỷ mình mà miệt thị khen chê kẻ khác. Trái lại lúc nào cũng siêng năng tinh tấn chuyên tâm thiền định chánh tri. Đó gọi là sự an trụ vào dòng Thánh (Thánh chủng) cổ xưa.

2. Là như thầy Bí-sô có được việc ăn uống liền sinh vui mừng cho là đủ, như trước đã nói đầy đủ.

3. Là như thầy Bí-sô có được ngọa cụ, giường chiếu liền sinh vui mừng cho là đầy đủ, như trước đây đã nói đầy đủ.

4. Là như thầy Bí-sô đã đoạn hết sự ham muốn vui thích lại siêng năng cầu học các cách đoạn trừ ái lạc, ham thích các vui của tu, siêng năng chuyên cần học tập các cách tu đầy an vui. Như thế người nầy dần dần đạt đến trình độ không cần phải tu phép đoạn ái lạc nữa, cũng không còn phải học hành chi nữa, mà cũng chẳng miệt thị khinh chê ai. Trái lại còn luôn luôn siêng năng khuyến khích tâm mình chú tâm vào chánh tri. Đó gọi là được an trụ vào dòng Thánh cổ xưa.

Hỏi: Thế nào là do các y phục được vui mừng mà được vào dòng Thánh?

Đáp: Khi có được y phục thì vui mừng với sức cố gắng vươn lên để tạo ra vô số pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu, thì đó gọi là do y phục sinh vui mừng mà được vào dòng Thánh.

Hỏi: Khi được ăn uống sinh vui mừng mà được vào dòng Thánh là sao?

Đáp: Khi có được y phục thì vui mừng và với sức cố gắng vươn lên để tạo ra các pháp thiện và đạo vô lậu. Thì đó gọi là do được ăn uống sinh vui mừng mà được vào dòng Thánh.

Hỏi: Khi được ngọa cụ giường nằm sinh vui mừng mà được vào dòng Thánh là sao?

Đáp: Khi có được ngọa cụ giường nằm thì vui mừng và với sức cố gắng vươn lên để tạo ra vô số pháp thiện và đạo vô lậu. Thì đó gọi là do có được ngọa cụ sinh vui mừng mà được vào dòng Thánh.

Hỏi: Thế nào là tu đoạn ái lạc mà được vào dòng Thánh?

Đáp: Khi tu đoạn trừ ái lạc thì càng cố gắng vươn lên sẽ sinh ra các pháp thiện và đạo vô lậu. Thế nên gọi là tu pháp đoạn ái lạc mà được vào dòng Thánh.

Bốn quả Sa-môn: Đó là quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán.

Thế nào là quả Dự lưu?

Đáp: Quả Dự lưu có hai thứ, tức là hữu vi và vô vi, nghĩa là khi chứng quả Dự lưu rồi, nhưng còn học hỏi các pháp, hoặc đã được, đang được hay sẽ được. Đó gọi là quả Dự lưu hữu vi. Còn quả Dự lưu vô vi là khi đó có được trạch diệt, hoặc đã được, đang được hay sẽ được. Đó gọi là quả Dự lưu vô vi.

Quả Nhất lai và quả Bất hoàn cũng như thế.

Hỏi: Thế nào là quả A-la-hán?

Đáp: Quả A-la-hán cũng có hai thứ hữu vi và vô vi. Quả A-la-hán hữu vi, tức là khi chứng quả A-la-hán rồi thì vẫn còn học hỏi các pháp, hoặc đã được, đang được hay sẽ được. Đó gọi là quả A-la-hán hữu vi. Còn quả A-la-hán vô vi tức là khi chứng quả A-la-hán thì có trạch diệt, hoặc đã được, đang được hay sẽ được. Đó gọi là quả A-la-hán vô vi.

Bài kệ tụng (Ốt-đà-nam) thứ hai:

Hai: Bốn pháp có chín
Là chi, tịnh, trí, lực
Xứ, uẩn, y, pháp tích
Còn bốn trí có hai.

Gồm có: Bốn chi Dự lưu, bốn thứ chứng tịnh, bốn thứ trí, bốn thứ lực, bốn thứ xứ, bốn thứ uẩn, bốn thứ y, bốn thứ pháp tích, và trí có hai thứ, còn tám thứ kia mỗi thứ có một thứ.

Bốn chi Dự lưu:

  1. Gần gũi bậc thiện sĩ.
  2. Lắng nghe chánh pháp.
  3. Tác ý (nghĩ ngợi) đúng lý.
  4. Pháp tùy, pháp hành.

– Gần gũi bậc Thiện sĩ là sao?

Đáp: Bậc Thiện sĩ đó là Phật và các đệ tử Phật, hoặc là các Bổđặc-già-la đầy đủ giới và đức, đã lìa hết các lỗi lầm cấu bẩn (các phiền não), hoàn thành các pháp thiện, đủ khả năng tiếp quả vị của Thầy để thành tựu các đức hạnh cao quý. Biết sai, ăn năn chữa lỗi, biết gìn giữ các pháp thiện, ham học tập các điều cần yếu mới lạ, thấy biết đầy đủ mọi việc. Ham suy tư, chọn, thích khen ngợi tán dương, ưa xét nét quan sát, bản tánh thông minh nhanh nhạy, hiểu biết sáng suốt đầy đủ. Có trí tuệ, không còn ham thích mong cầu. Không chìm đắm trong cõi tham vì các tham lam đã sạch. Không đắm chìm trong cõi sân, vì sân giận đã dứt. Không đắm chìm trong chốn si mê vì các si mê đã tiêu trừ. Luôn luôn sống trong cảnh điều hòa thuận hợp, bao giờ cũng trống vắng yên lặng và giải thoát mãi mãi. Đầy đủ các công đức tuyệt diệu cao quý như thế nên gọi là bậc Thiện sĩ. Nếu ai đối với bậc Thiện sĩ đã có đủ các đức tánh đó mà gần gũi phụng sự cung kính cúng dường…, thì gọi là gần gũi bậc Thiện sĩ.

– Lắng nghe chánh pháp là gì?

Đáp: Nghĩa là đối với những chỗ nào chưa hiểu biết sáng tỏ mà được các bậc Thiện sĩ như vừa kể, chánh pháp giải bày chỉ rõ đúng đắn thì gọi là chánh pháp. Những chỗ nào chưa được khai ngộ thấu đáo thì giúp cho khai ngộ hiểu rõ đúng đắn. Do trí tuệ thông suốt với bao nhiêu câu văn ý nghĩa hay ho hấp dẫn, cao siêu tuyệt diệu mà dùng mà mọi phương cách thích hợp khéo léo để vì người khác mà diễn giảng giải bày, sắp đặt, trình bày chỉ dạy cho hiểu biết, lấy vô lượng pháp môn mà trình bày chỉ dạy cho hiểu biết đúng đắn như la khi nói khổ thì đúng là khổ, khi nói về tập thì đúng là tập, diệt thì đúng là diệt, đạo thì đúng là đạo…, các thứ như thế đều gọi là chánh pháp.

Nếu đối với chánh pháp đã nói như thế mà thích chú ý lắng nghe, ham thích tu trì, thích chỗ rốt ráo cùng tột, ưa hiểu biết, thích quan sát tìm hiểu, ham tư duy suy tìm, nghiên cứu, luôn mong ước được thấu suốt mọi lẽ, thích giao tế tiếp xúc, coi quý trọng quả chứng và mong cầu được chứng quả. Vì muốn được nghe chánh pháp nên không sợ gian khổ cay đắng, dễ nhớ chắc mà làm nên luôn sử dụng lỗ tai rất nhiều và đối với pháp âm (tiếng giảng đạo) thì phát triển nhĩ thức thật tinh xảo. Như thế gọi là lắng nghe chánh pháp.

– Tác ý (nghĩ ngợi) đúng lý là sao?

Đáp: Khi tai đã nghe thì nhĩ thức sẽ thấu suốt các nghĩa lý của giáo pháp rất chính xác không hề lầm lẫn. Do nghe hiểu (nhĩ thức) sẽ khiến tâm chuyên chú gom giữ các điều cần thiết rồi khởi ý nghĩ ngợi suy xét chánh tư duy, tâm tánh tỉnh sáng. Như thế gọi là nghĩ ngợi đúng lý.

– Cách đúng theo pháp mà tu hành là sao?

Đáp: Đúng lý mà nghĩ ngợi tác ý sẽ dẫn đến ý niệm xuất ly, xa lìa, là nơi sinh ra các pháp thiện cao cả, tu tập thật bền bỉ chắc chắn siêng năng không gián đoạn, không xao lãng. Như thế gọi là đúng theo pháp mà tu hành.

Bốn thứ chứng tịnh: Như Khế kinh có nói: Nếu đã được thành tựu bốn pháp thì gọi là Dự lưu. Có bốn pháp nào? Đó là: Phật chứng tịnh, Pháp chứng tịnh, Tăng chứng tịnh và giới được bậc Thánh yêu mến.

1. Phật chứng tịnh là sao?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói các thầy Bí-sô nên biết, các đệ tử Phật cần nên nương nhau mà luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, Đức Thế Tôn đây chính là Như Lai, đã chứng quả A-la-hán, Chánh đẳng giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Bạc-già-phạm. Các vị nên lấy hình tướng đó để nghĩ nhớ đến chư Phật. Sự thấy biết là chứng trí căn bản, tương ưng với sự tin tưởng và tính chất của lòng tin. Tính chất của niềm tin hiện tiền được tùy thuận chấp nhận nơi lòng ái mộ và tính chất của lòng ái mộ. Khi nào tâm được lắng yên không còn quấy động nữa thì lúc đó là tâm thanh tịnh, nên gọi là Phật chứng tịnh.

2. Pháp chứng tịnh là sao?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói, các thầy Bí-sô nên biết các hàng đệ tử của Phật cần phải nương nhau mà nghĩ nhớ đến Chánh pháp. Do vì chư Phật thuyết Chánh pháp vô cùng hấp dẫn khéo léo, hiện lúc đó ai nghe thấy được, đều được tươi mát và đúng lúc hướng dẫn những kẻ trí thường gần gũi quan sát sẽ được nội chứng. Các vị nhờ đó mà tùy nay luôn nghĩ nhớ đến chánh pháp. Sự thấy biết là chứng trí căn bản, tương ưng với sự tin tưởng và tính chất của sự tin tưởng, tính chất của niềm tin hiện tiền sẽ tùy thuộc được chấp nhận của sự mến mộ và tính chất mến mộ. Khi nào tâm được lắng yên không còn bị quấy động nữa thì lúc đó tâm được thanh tịnh. Đó gọi là Pháp chứng tịnh.

3. Tăng chứng tịnh là sao?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: Các thầy Bí-sô nên biết, các hàng đệ tử Phật cần phải nương nhau mà nghĩ nhớ đến chư Thánh Tăng. Họ là những hàng đệ tử của Phật đầy đủ các đạo hành nhiệm mầu và hạnh thành thật ngay thẳng, hạnh đúng lý, hạnh pháp tùy pháp, hạnh hòa kỉnh, hạnh tùy pháp. Đối với Tăng ở đây thì có Dự lưu hướng và quả Dự lưu, có hướng Nhất lai và quả Nhất lai, có hướng Bất hoàn và quả Bất hoàn, có hướng A-la-hán và quả A-la-hán. Như thế thì kể chung có bốn đôi và tám cặp Bổ-đặc-già-la, là chúng đệ tử của Phật có đầy đủ giới luật, đầy đủ thiền định, đầy đủ trí tuệ, đầy đủ giải thoát, tri kiến giải thoát đầy đủ, đáng kính mời, đáng phủ phục (rạp mình tôn kính), có vô thượng phước điền rất đáng tôn quý cung kính được mọi người ở thế gian ngưỡng mộ cúng dường. Người ấy nên lấy đó mà tùy theo để nhớ nghĩ đến chư Tăng. Sự thấy biết là trí chứng căn bản, nó tương ưng với sự tin tưởng và tính chất của tin tưởng. Đối với tính chất niềm tin hiện tiền được tùy thuận, được chấp nhận mến mộ và tính chất của mến mộ.

Khi tâm đã lắng yên không bị quấy động nữa thì tâm sẽ thanh tịnh. Đó gọi là Tăng chứng tịnh.

4. Thế nào là giới luật của các Thánh mến thích?

Đáp: Khi thân và ngữ có phép tắc luật nghi vô lậu thì đời sống sẽ thanh tịnh. Đó gọi là chư Thánh thích trì giới.

Hỏi: Vì sao nói là các Thánh mến thích giới luật?

Đáp: Chư Thánh tức là chư Phật và hàng đệ tử Phật các vị ấy đối với giới luật vô cùng mến mộ, hân hoan tin nhận thuận theo không bao giờ dám trái nghịch chống đối. Thế nên gọi là chư Thánh mến thích giới luật. Các hàng Dự lưu thành tựu được bốn việc như thế.

******

– Bốn thứ trí: Tức là pháp trí, loại trí, tha tâm trí và thế tục trí.

1. Pháp trí là gì?

Đáp: Là trí duyên nơi cõi Dục, tạo các hành vô lậu; là trí duyên nơi cõi Dục tạo nhân cho các thứ vô lậu; là trí duyên nơi cõi Dục hành pháp diệt của vô lậu, là trí duyên nơi cõi Dục hành đạo năng đoạn của vô lậu. Lại nữa, trí duyên nơi pháp trí, lĩnh vực pháp trí đó gọi là pháp trí.

2. Loại trí là gì?

Đáp: Là trí duyên nơi cõi Sắc, Vô sắc tạo các hành vô lậu, là trí duyên nơi cõi Sắc, Vô sắc tạo nhân cho các thứ vô lậu; là trí duyên nơi cõi Sắc, Vô sắc hành pháp diệt của vô lậu; là trí duyên nơi vô lậu hành đạo năng đoạn của vô lậu. Lại nữa, trí duyên nơi loại trí, lĩnh vực loại trí, đó gọi là loại trí.

3. Tha tâm trí là gì?

Đáp: Nếu như tu trí thì sẽ thành quả tu (tu để chứng quả). Nếu y chỉ vào tu hành mà chẳng có lỗi lầm, thì có thể biết được tâm và tâm sở của người khác, trong hiện tại là cõi Dục và cõi Sắc hòa hợp và biết được một phần tâm và tâm sở vô lậu của người khác. Thế nên gọi là tha tâm trí (trí biết tâm người khác).

4. Thế tục trí là gì?

Đáp: Là trí tuệ hữu lậu.

Lại có bốn thứ trí: Đó là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí.

Hỏi: Khổ trí là gì?

Đáp: Đó là đối với năm thủ uẩn suy nghĩ nó là vô thường, khổ, không, vô ngã mà khởi lên trí vô lậu. Đó gọi là khổ trí.

Hỏi: Tập trí là gì?

Đáp: Đối với các nhân hữu lậu suy nghĩ về điều kiện sinh của nó mà phát trí vô lậu. Đó gọi là tập trí.

Hỏi: Diệt trí là gì?

Đáp: Nghĩa là đối với các thứ trạch diệt, tư duy suy xét đến cái diệt thanh tịnh mầu nhiệm nhất lìa xa nó, do đó khởi sinh ra trí vô lậu. Đó gọi là diệt trí.

Hỏi: Đạo trí là gì?

Đáp: Nghĩa là đối với đạo vô lậu suy tư con đường ra khỏi (sinh tử) như thế nào, đó là phát sinh ra trí vô lậu. Thế nên gọi là đạo trí.

– Có bốn thứ sức (lực): Đó là sức tin, sức tinh tấn, sức định và sức tuệ.

1. Sức mạnh của lòng tin là gì?

Đáp: Là nương vào chư Phật Như Lai Đại Giác Ngộ (Chánh Đẳng Giác) mà trồng niềm tin trong sạch, nên gốc rễ nó bền vững, tất cả các bậc Sa-môn hay Bà-la-môn cùng các hàng Thiên, Ma, Phạm, hoặc ở các cõi khác (thế gian) đều không thể kéo đổ, cướp đoạt niềm tin ấy được. Đó gọi là sức mạnh của lòng tin.

2. Sức mạnh của tinh tấn là gì?

Đáp: Trừ bỏ điều ác, bất thiện đã có, siêng năng giữ tâm nắm ý chế ngự điều ác, bất thiện chưa có, để nó không được sinh ra.

Siêng năng giữ tâm nắm ý làm cho điều thiện chưa sinh, được sinh. Siêng năng như vậy, làm cho vững bền trụ chắc không quên đối với điều thiện đang có. Tu đầy đủ gấp hai rộng ra để trí chứng được sự thật. Siêng năng giữ tâm nắm ý gọi là sức tinh tấn.

3. Sức thiền định là gì?

Đáp: Nghĩa là phải lìa bỏ tham dục và các điều xấu ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sinh hỷ lạc. Nhập vào Sơ thiền đầy đủ mà trụ, lần lượt cho đến nhập trụ vào đệ Tứ thiền toàn vẹn đầy đủ. Đó gọi là sức thiền định.

4. Sức trí tuệ là gì?

Đáp: Nghĩa là hiểu biết đúng như thật đây là Khổ thánh đế, đây là Khổ tập thánh đế, đây là Khổ diệt thánh đế, đây là Thánh đế chỉ bày đạo là con đường dẫn đến sự diệt khổ. Đó gọi là sức trí tuệ.

Vì sao gọi là “Sức”? Vì nhân có các sức đó, nương vào sức đó, trụ vào các sức đó thì có khả năng cắt đứt, nghiền nát, phá tung tất cả các thứ trói buộc của kiết sư, những quấn thắt của tùy miên, tùy phiền não. Thế nên gọi là sức.

– Bốn xứ: Gồm có tuệ xứ, đế xứ, xả xứ, tịch tĩnh xứ.

5. Thế nào là tuệ xứ?

Đáp: Như trong kinh Biện Lục Giới Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói với Cụ thọ Trì Kiên: Bí-sô nên biết! Lĩnh vực của tuệ cao cả là lậu tận trí. Thế nên các Bí-sô cần phải thành tựu lậu tận trí đó. Nếu thành tựu nó thì gọi là thành tựu lĩnh vực tuệ tối thắng. Do đó gọi là tuệ xứ.

6. Thế nào là đế xứ?

Đáp: Như trong kinh Biện Lục Giới Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm nói với Cụ tho Trì Kiên: Bí-sô nên biết! Lĩnh vực của Đế cao cả, là giải thoát bất động. Đế có nghĩa là pháp đúng như thật, trái với nó là dối trá là hư giả chẳng thật. Thế nên các Bí-sô cần phải thành tựu bất động giải thoát. Nếu thành tựu nó thì gọi là thành tựu lĩnh vực của đế tối thắng.

Đó gọi là đế xứ.

7. Thế nào gọi là xả xứ?

Đáp: Như trong kinh Biện Lục Giới Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm nói với Cụ thọ Trì Kiên: Bí-sô nên biết! Trước hết sự chấp chặc vào vô trí, vô minh nó sẽ đẩy ta ra khỏi con đường chánh pháp. Vậy nay ta cần phải buông bỏ, ném bỏ tất cả những chấp trước giữ chặc ấy đi. Nầy các Bí-sô nên biết, lĩnh của cao cả đó là buông bỏ tất cả mọi thứ nương nhờ, khi ái đã dứt, tập nhiễm đã lìa thì đạt Niết-bàn hằng diệt. Thế nên các Bí-sô nên thành tựu Niết-bàn đó. Khi đã thành tựu nó thì gọi là đã thành tựu lĩnh vực của tối thắng. Thế nên gọi là xả xứ.

8. Tịch tĩnh xứ là gì?

Đáp: Như trong kinh Biện Lục Giới Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm nói với Cụ thọ Trì Kiên: Bí-sô nên biết! Tham lam làm nhơ bẩn và não hại bản tâm khiến không thể giải thoát được. Sân giận và ngu si cũng làm nhơ bẩn và não hại bản tâm khiến không thể giải thoát được. Các Bí-sô nên biết, phải trừ diệt cho thật hết các tham sân si đó đừng để sót tí nào, phải trừ cho hết, phải trừ bỏ quăng ném nó thật xa. Khi ái đã dứt, tạp nhiễm đã lìa, hoàn toàn trống vắng sạch sẽ thì đó gọi là tịch tĩnh vắng lặng chân thật. Thế nên các Bí-sô nên thành tựu tịch tĩnh chân thật đó. Khi đã thành tựu nó thì gọi là đã thành tựu được lĩnh vực của tịch tĩnh tối thắng. Đó gọi là tịch tĩnh tịnh xứ.

– Bốn thứ uẩn: Gồm có giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn và giải thoát uẩn.

1. Giới uẩn là sao?

Đáp: Như trong kinh Biện Tam Uẩn Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Các Bí-sô nên biết! Ta nói giới luật bậc hữu học, hoặc giới luật bậc vô học, hay tất cả giới luật khéo chẳng học chẳng vô học thì đều là giới uẩn. Đó gọi là giới uẩn.

2. Định uẩn là sao?

Đáp: Như trong kinh Biện Tam Uẩn Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Các Bí-sô nên biết! Ta nói hoặc thiền định bậc hữu học, hoặc thiền định bậc vô học, hoặc tất cả thiền định khéo chẳng học chẳng vô học thì đều là định uẩn. Thế nên gọi là định uẩn.

3. Tuệ uẩn là sao?

Đáp: Như trong kinh Biện Tam Uẩn Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Các Bí-sô nên biết! Ta nói tuệ bậc hữu học, hoặc tuệ bậc vô học, hoặc tất cả tuệ khéo chẳng học chẳng vô học thì đều là tuệ uẩn cả.

Thế nên gọi là tuệ uẩn.

3. Thế nào gọi là giải thoát uẩn?

Đáp: Như trong kinh Biện Tam Uẩn Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Các Bí-sô nên biết! Ta nói giải thoát bậc hữu học, hoặc giải thoát của bậc vô học, hoặc tất cả giải thoát khéo chẳng học chẳng vô học thì đều là giải thoát uẩn. Thế nên gọi là giải thoát uẩn.

Bốn thứ y (nương nhờ): Gồm có:

  1. Suy nghĩ chọn lựa một cách nên tránh xa.
  2. Suy nghĩ chọn lựa một cách nên thọ dụng.
  3. Suy nghĩ chọn lựa một cách nên trừ bỏ.
  4. Suy nghĩ chọn lựa một cách nên chịu đựng.

– Thế nào là suy nghĩ chọn lựa một cách nên tránh xa?

Đáp: Như trong kinh Phòng Chư Lậu Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Các thầy Bí-sô cần phải phán xét, suy nghĩ chọn lựa…, các cách tránh xa các loài voi hung, ngựa dữ, trâu điên, chó dữ, trâu nước hung bạo v.v… Phải xét biết mà tránh xa các cây độc, gai độc, hầm hố, bờ vực, hang sâu, giếng, hầm xí, sông sâu v.v… Phải nên suy xét mà tránh xa các việc hung dữ, hành động cử chỉ bạn ác, các đám bạn bè xấu xa làm ác, chỗ sống của tội ác, các ngọa cụ xấu ác, cần phải lánh xa. Các ngọa cụ xấu ác, tức là khi thọ dụng thứ ngọa cụ đó thì bậc trí giả và các bạn đồng tu phạm hạnh đáng lẽ chẳng đáng phân biệt, suy lường, nghi kỵ…, lại sinh ra phân biệt, suy lường, nghi kỵ, ngờ vực. Nên Ta nói đó là cái ngọa cụ xấu ác. Các thầy Bí-sô cần phải lánh xa nó đi… Như thế gọi là suy nghĩ chọn một pháp nên lánh xa.

– Thế nào là suy nghĩ chọn một cách nên thọ dụng?

Đáp: Như trong kinh Phòng Chư Lậu Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Này các thầy Bí-sô cần phải phán xét, suy nghĩ chọn lựa kỹ một cách về sự thọ dụng. Phải nên đúng như pháp mà thọ dụng y phục. Đó chẳng phải vì muốn dũng kiện, vì kiêu ngạo hách dịch, vì sắc đẹp, vì thân hình oai vệ…, mà chỉ vì muốn che chắn nóng lạnh, ngăn ngừa rắn rít ruồi muỗi châm chích cắn mổ và nhất là để che chắn hình hài xấu xa đáng mắc cỡ này mà thọ dụng y phục này. Các thầy cũng nên xét biết, suy tính chọn lựa cách đúng như pháp mà ăn uống. Ăn uống đây chẳng phải là để dũng kiện, hay vì kiêu ngạo hay vì nhan sắc thân hình đẹp đẽ oai vệ…, mà chỉ vì muốn giữ cho hình hài này tạm sống qua ngày, thoát được cái đói khát, an tâm tu trì phạm hạnh, tránh thọ nhận cái cũ (đói khát), chẳng dám thọ nhận cái mới để sống đời sống không lỗi lầm vô tội và được trụ vào an lạc. Các thầy cũng nên suy xét chọn lựa cách dùng ngọa cụ đúng pháp là không phải vì dũng kiện, vì kiêu ngạo hay sắc đẹp của mặt mày, thân hình oai vệ…, mà chỉ ngăn ngừa gió mưa lạnh nóng và cốt để ngồi thiền định đạt đến chỗ tịch tĩnh an ổn cao quý nhất.

Các thầy cũng nên suy xét chọn lựa cách dùng thuốc men đúng pháp là không phải vì sự dũng kiện, vì kiêu ngạo, vì nhan sắc đẹp đẽ, thân hình oai vệ…, mà chỉ muốn trị các bệnh đang hành hạ hoặc ngăn ngừa các bệnh tật để thân tâm an ổn mà tu nghiệp thiện. Đó gọi là suy nghĩ chọn lựa một cách nên thọ dụng đúng pháp.

– Thế nào là suy xét chọn lựa một cách nên trừ bỏ?

Đáp: Như trong kinh Phòng Chư Lậu Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Này các thầy Bí-sô, ai đã khởi các thứ tầm như tham dục, giận dữ gây tổn hại…, thì chớ nên giấu giếm, hãy nên mau mau đoạn trừ cho thật hết, hãy ói mửa ra, hãy trừ khử tiêu diệt chúng đừng để sót. Đó là suy xét chọn lựa một cách nên trừ bỏ.

– Thế nào là suy xét chọn lựa một cách nên chịu đựng?

Đáp: Như trong kinh Phòng Chư Lậu Ký Biệt, Đức Bạc-già-phạm có nói: Các thầy Bí-sô cần phải cố gắng nỗ lực siêng năng, mạnh mẽ gắng sức, chẳng nên lìa mình ra khỏi cỗ xe pháp thiện, cho dù như thân ta máu thịt khô kiệt, chỉ còn da xương chằng chịt mà tạm sống. Nếu chánh pháp cao cả kia chưa ngộ được thì phải siêng năng cố gắng mãi không ngừng. Như khi quá cố gắng mà thân tâm có mệt mỏi thì cũng không vì thế mà trễ nãi biếng lười. Phải trân mình chai lì chịu đựng được các thứ lạnh nóng đói khát rắn rít ruồi muỗi gió mưa bão táp… Rồi lại phải ráng chịu đựng bao cay đắng mà kẻ khác hành hạ, làm nhục, cả đến giết hại… Đó gọi là suy xét chọn lựa một cách nên chịu đựng.

Bốn thứ pháp tích: Tức là: 1. Vô tham pháp tích; 2. Vô sân pháp tích; 3. Chánh niệm pháp tích; 4. Chánh định pháp tích.

1. Không tham pháp tích là sao?

Đáp: Không tham tức là đối với các dục cảnh không tham, đều không ham muốn, rộng nói cho đến chẳng phải thuộc loại tham lam, chẳng phải là thứ sinh ra tham lam…, nên gọi là không tham. Pháp tích thì không tham cũng gọi là pháp mà cũng gọi là tích (dấu vết). Thế nên gọi là không tham pháp tích.

2. Không sân pháp tích là sao?

Đáp: Không sân giận, tức là đối với các loài hữu tình không cố ý gây tổn hại. Không ôm lòng tàn độc nên chẳng muốn gây buồn lo đau khổ cho ai. Rộng nói cho đến chẳng từng gây tai họa, sẽ gây tai họa hoặc đang gây tai họa cho ai. Thế nên gọi là không sân giận. Còn pháp tích thì không sân giận cũng gọi là pháp và cũng gọi là tích. Thế nên gọi là không sân giận pháp tích.

3. Chánh niệm pháp tích là sao?

Đáp: Chánh niệm nghĩa là nương tựa vào pháp thiện do xuất ly và xa lìa sinh ra. Các ý nghĩ tùy theo chỗ và việc mà ghi nhớ. Rộng nói cho đến tâm có trí nhớ rất sáng suốt. Đó gọi là chánh niệm. Còn pháp tích thì chánh niệm cũng gọi là pháp và cũng gọi là tích, cũng gọi là pháp tích. Thế nên gọi là chánh niệm pháp tích.

4. Chánh định pháp tích là gì?

Đáp: Là nương vào pháp thiện do xuất ly và xa lìa sinh ra, các định khiến cho tâm luôn được an trụ. Rộng nói cho đến khi tâm chuyên chú vào một cảnh. Đó gọi là chánh định. Pháp tích: Nghĩa là chánh định cũng gọi là pháp, cũng gọi là tích, cũng gọi là pháp tích. Thế nên gọi là chánh định pháp tích.

– Bốn pháp chứng được:

  1. Hoặc có pháp do thân chứng được.
  2. Có pháp do niệm chứng được.
  3. Có pháp do mắt chứng được.
  4. Có pháp do tuệ chứng được.

– Pháp do thân chứng được là gì?

Đáp: Tức là tám thứ giải thoát, là thân chứng được.

– Pháp do niệm chứng được là gì?

Đáp: Tức là các việc thuộc các đời trước, là niệm chứng được.

– Pháp do mắt chứng được là gì?

Đáp: Tức là các việc sinh tử mà mắt chứng được.

– Pháp do tuệ chứng được là gì?

Đáp: Đó là các trí lậu tận thì tuệ cần nên chứng.

Bài tụng Ốt-đà-nam thứ ba nói:

Ba: Bốn pháp có chín,
Hạnh, tu, nghiệp, thọ, ách,
Ly hệ và bộc lưu,
Thủ, hệ mỗi thứ bốn.

Gồm có: Bốn thứ hạnh, bốn thứ tu định, bốn thứ nghiệp, bốn thứ pháp thọ, bốn thứ ách, bốn thứ ly hệ, bốn thứ bộc lưu, bốn thứ thủ và bốn thứ thân hệ.

– Bốn thứ hạnh:

  1. Khổ trì thông hạnh.
  2. Khổ tốc thông hạnh.
  3. Lạc trì thông hạnh.
  4. Lạc tốc thông hạnh.

– Khổ trì thông hạnh là gì?

Đáp: Khi thiền định chẳng thâu giữ được phần thô (hạ phẩm) của năm căn, nên gọi là Khổ trì thông hạnh.

– Khổ tốc thông hạnh là gì?

Đáp: Khi thiền định chẳng thâu giữ được phần tế (thượng phẩm) của năm căn.

– Lạc trì thông hạnh là gì?

Đáp: Khi thiền định thâu giữ được phần thô (hạ phẩm) của năm căn.

– Lạc tốc thông hạnh là gì?

Đáp: Khi thiền định thâu giữ được phần tế (thượng phẩm) của năm căn.

– Bốn thứ hạnh:

  1. Hạnh chẳng chịu đựng được.
  2. Hạnh chịu đựng được.
  3. Hạnh điều phục.
  4. Hạnh tịch tĩnh.

– Hạnh chẳng chịu đựng được là sao?

Đáp: Nghĩa là chẳng thể chịu đựng được các thứ lạnh nóng đói khát rắn rít ruồi muỗi mưa gió khi gặp phải v.v… Lại cũng không thể chịu đựng nổi việc bị người khác tạo nên sự cay đắng khổ sở cho thân thể như bằng cách chửi mắng đánh đập hành hạ hay giết chết v.v… Các thứ như thế chẳng thể chịu đựng được, nên gọi là hạnh chẳng chịu đựng được.

– Hạnh chịu đựng được là sao?

Đáp: Nghĩa là có thể chịu đựng được các thứ lạnh nóng đói khát rắn rít ruồi muỗi mưa gió v.v… khi gặp phải. Lại cũng có thể chịu đựng được khi bị người khác làm nhục chửi mắng hành hạ đánh đập hay giết chết. Những việc như thế gọi là hạnh chịu đựng được.

– Hạnh điều phục là sao?

Đáp: Thí dụ khi mắt thấy sắc thì chuyên tâm giữ ý lại, canh chừng giữ gìn nhãn căn, kìm giữ điều phục làm chủ tâm mình. Không để cho nó khởi lên các thứ phiền não và các nghiệp ác. Cũng như khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm, ý hiểu pháp v.v…, thì kịp thời giữ gìn tâm ý, ngăn ngừa canh chừng giữ gìn nhĩ căn v.v…, cho đến ngăn ngừa giữ gìn ý căn, kìm giữ, điều phục làm chủ tâm mình không để cho nó khởi lên các thứ phiền não và các nghiệp ác. Đó gọi là hạnh điều phục.

– Hạnh vắng lặng tịch tĩnh là sao?

Đáp: Nghĩa là bốn thứ niệm trụ, bốn thứ chánh đoạn, bốn thứ thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi Thánh đạo, bốn thứ thông hạnh, bốn thứ pháp tích… Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na…, đó gọi là hạnh tịch tĩnh vắng lặng.

Hỏi: Vì sao lại nói đó là hạnh tịch tĩnh?

Đáp: Vì chính các hạnh đó mà rèn luyện tu tập hoặc thực hiện thật nhiều thì có thể khiến cho các tham dục, sân giận, ngu si, kiêu mạn v.v…, đã sinh ra thì phải bị tiêu trừ yên lặng trống vắng và vô cùng vắng lặng. Thế nên gọi là hạnh vắng lặng tịch tĩnh.

– Bốn thứ tu định:

1. Nếu tu định mà tu tập rèn luyện và làm việc thật nhiều thì đời này sẽ được trụ vào pháp an lạc.

2. Nếu có tu định mà tu tập rèn luyện và làm việc thật nhiều thì sẽ chứng được tri kiến thù thắng nhất.

3. Nếu có tu định mà tu tập rèn luyện và làm việc thật nhiều thì sẽ chứng được tuệ phân biệt thù thắng nhất.

4. Nếu có tu định mà tu tập rèn luyện và làm việc thật nhiều thì các lậu đều dứt hết.

– Vì sao mà tu định có tu tập rèn luyện, làm việc nhiều thì đời này sẽ được trụ vào pháp lạc?

Đáp: Ở bậc sơ thiền đã thâu giữ được pháp ly sinh hỷ lạc, tâm hoàn toàn chuyên chú vào một cảnh. Tu tập bền bỉ, lúc nào cũng siêng năng chuyên cần tu tập không một giây phút xao lãng. Thế nên gọi là tu định mà tu tập và làm được nhiều việc thì đời này trụ vào pháp lạc.

– Thế nào là tu định mà tu tập rèn luyện, làm việc thật nhiều sẽ chứng được tri kiến tối thắng?

Đáp: Đối với tưởng quang minh mà chuyển hoàn toàn tâm vào một cảnh, cứ thế mà tu tập rèn luyện bền bỉ, siêng năng tu tập mãi chẳng một giây phút xao lãng thì sẽ chứng được tri kiến cao cả nhất.

– Thế nào là tu định mà tu tập rèn luyện làm việc thật nhiều thì sẽ chứng được tuệ phân biệt cao cả nhất?

Đáp: Nếu đối với thọ tưởng mà tầm xét và quan sát kỹ mà đi đến tâm chuyên nhất vào một chỗ (nhất tâm bất loạn). Cứ thế mà tu tập bền bỉ, siêng năng tu tập mãi chẳng một phút xao lãng thì gọi là tu định mà tu tập và làm được nhiều việc thì sẽ chứng được tuệ phân biệt tối thắng.

– Thế nào là tu định mà tu tập rèn luyện và làm được khá nhiều việc thì các lậu đều dứt trừ hết?

Đáp: Đệ Tứ thiền gồm thâu cả thanh tịnh, xả, niệm, câu hành, đạo quả A-la-hán không gián đoạn và luôn nhất tâm bất loạn, cứ như thế mà tu tập rèn luyện bền bỉ, luôn luôn siêng tu mãi chẳng hề xao lãng. Thế nên gọi là tu định mà rèn luyện tu tập và làm việc thật nhiều, các hoặc lậu dứt sạch.

Như trong kinh Ba La Diễn Noa, Đức Bạc-già-phạm nói kệ:

Đoạn dục tưởng lo sợ,
Lìa hôn trầm, mê ngủ,
Và trạo cử, ố tác,
Được xả niệm thanh tịnh.
Pháp luân là cao tột,
Được chánh trí giải thoát,
Ta nói vô minh dứt,
Được thắng tuệ phân biệt.

– Bốn thứ nghiệp: Gồm có:

  1. Nghiệp của dị thục đen của đen.
  2. Nghiệp của dị thục trắng của trắng.
  3. Nghiệp của dị thục đen trắng trắng đen.
  4. Nghiệp của dị thục chẳng phải trắng chẳng phải đen, có khả năng dứt được các nghiệp.

– Thế nào là nghiệp dị thục đen của đen?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói với thầy Bố-thích-noa, người giữ câu chi giới về bò: Tất cả nên biết kỹ lưỡng! Ở đời có loại Bổ-đặc-già-la tạo các hành thân, ngữ, ý gây tổn hại. Khi đã gây các hạnh tổn hại đó rồi liền chứa nhóm tích tụ làm tăng trưởng sự tổn hại. Khi đã chứa nhóm tăng trưởng tổn hại thì gây tổn hại cho tự thể, khi tự thể mình bị tổn hại thì gây tổn hại cho cả thế gian. Khi thế gian đã bị tổn hại rồi thì gặp va chạm, gây tổn hại va chạm, khi va chạm đã bị tổn hại rồi thì gặp thọ gây tổn hại thọ. Thật là một mực chẳng đáng ưa, chẳng đáng vui, chẳng đáng mừng, chẳng vừa ý. Như các loại hữu tình Na lạc già sinh ra từ các loại đó rồi cũng gặp các xúc, thọ như thế v.v… Thế nên Ta nói các loại hữu tình đó tự mình tạo nghiệp. Tất cả hãy nên biết: Đó là nghiệp dị thục đen của đen.

Tạo các hành thân, ngữ, ý gây tổn hại là gì? Là tạo các hành thân, ngữ, ý chẳng thiện. Ở nghĩa trong này ý nói các hành thân, ngữ, ý chẳng thiện đó tức là các hành thân, ngữ, ý gây tổn hại. Khi đã tạo các hành thân, ngữ, ý gây tổn hại rồi thì chứa cất và làm tăng trưởng thêm sự tổn hại, có nghĩa là tạo các hành thân, ngữ, ý chẳng thiện rồi thì gây tạo thêm ra các pháp chẳng xa lìa. Nghĩa ở đây là khi nói gây tạo thêm các pháp chẳng xa lìa thì chỉ cho việc tích tụ chứa nhóm thêm nhiều sự tổn hại. Khi chứa nhóm thêm nhiều sự tổn hại thì sẽ gây tổn hại cho tự thể của mình. Có nghĩa là khi gây tạo thêm lớn các pháp chẳng xa lìa rồi thì sẽ bị quả báo đọa vào địa ngục. Nghĩa ở đây ý nói: Bị đọa vào địa ngục tức là chỉ cho việc tự thể bị tổn hại. Tại sao như thế? Nghĩa là khi ở trong đó rồi thì mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm, ý hiểu pháp. Tất cả đều không vừa ý, ý không vui, không phải vừa ý, không có tướng vừa ý, không có tướng bình đẳng, luôn không bình đẳng… Do các sự kiện như thế mà phải chịu khổ sầu.

Khi đã rước hại cho tự thể thì sẽ sinh tổn hại cả thế gian. Có nghĩa là khi gây nhân địa ngục thì tất phải bị đọa vào địa ngục. Ý nói đọa vào địa ngục ở đây là chỉ việc tổn hại thế gian. Vì sao thế? Nghĩa là khi đọa vào địa ngục rồi thì mắt thấy sắc…, cho đến ý hiểu pháp, tất cả đều chẳng vừa ý thỏa lòng, rộng nói cho đến chẳng bình đẳng và không có tướng bình đẳng…, do các sự kiện đó mà luôn thấy đau khổ.

Nó sinh tổn hại thế gian rồi thì sẽ gặp các xúc tổn hại, nghĩa là khi đọa vào địa ngục thì tất phải gặp xúc ở địa ngục. Ý nói địa ngục đây là chỉ việc bị tổn hại.

Khi gặp xúc tổn hại rồi thì tất phải nhận tổn hại, nghĩa là khi gặp

xúc loại đó thì phải có cái thọ loại đó. Khi xúc thuận hợp với khổ thì thọ cũng phải khổ. Do đó nên nói gặp xúc có tổn hại rồi thì có thọ tổn hại, chẳng thế nào có việc vui thích, đáng ham muốn, vừa ý thỏa lòng cả, là với thọ khổ đó thì tất cả chúng sinh đều không thể nào ham thích vui mừng vừa ý cả. Do đó cho nên nói là luôn luôn chẳng đáng ham thích và vừa lòng.

Như loài hữu tình Na-lạc-ca, đây là chỉ cho loài hữu tình thế gian gây tội ác đáng bị đọa vào địa ngục. Do đó mà nói như loài hữu tình Na-lạc-ca.

Nó do loại này sinh ra loại đó, là loài hữu tình gây tạo các việc có nhân duyên đó thì phải sinh như thế. Do đó mà nói nó thuộc loại nào thì sinh ra loại đó.

Khi đã sinh rồi thì gặp xúc loại đó, nghĩa là sinh ra ở địa ngục thì gặp xúc ở địa ngục. Do đó mà nói đã sinh ra rồi thì gặp xúc loại đó.

Thế nên Ta nói các loài hữu tình chính mình gây tạo các nghiệp.

Nghĩa là giả sử hoặc có tạo các hành thân khẩu ý có tổn hại, hoặc không tạo, hoặc có chứa nhóm thêm các tổn hại, hoặc không có chứa nhóm, hoặc có chứa nhóm thêm lớn các tổn hại thì chiêu cảm tự thể bị tổn hại hoặc không chứa nhóm thì tự thể không bị tổn hại, nếu tự thể bị tổn hại thì gây tổn hại cho thế gian, hoặc tự thể không tổn hại thì không gây tổn hại cho thế gian. Nếu đã sinh tổn hại thế gian thì gặp xúc tổn hại, hoặc không gây tổn hại thế gian thì không gặp xúc tổn hại. Nếu gặp xúc tổn hại thì bị tổn hại, hoặc không gặp xúc tổn hại thì không gặp tổn hại, chẳng cần phải nói.

Thế nên Ta nói các loài hữu tình đó tự mình tạo nghiệp, vì gây tạo các hành thân-khẩu-ý có tổn hại, thì tích chứa thêm lớn các sự tổn hại. Nếu chẳng tạo các hành thân, ngữ, ý tổn hại thì làm sao tích chứa thêm lớn các thứ tổn hại được? Còn như chứa nhóm thêm lớn các sự tổn hại thì tất phải gây tổn hại cho tự thể. Còn nếu chẳng chứa nhóm thêm các tổn hại thì làm sao gây tổn hại cho tự thể được? Còn như đã gây tổn hại cho tự thể thì sẽ sinh tổn hại cho thế gian. Nếu chẳng gây tổn hại cho tự thể thì làm sao gây tổn hại cho thế gian được? Còn như đã gây tổn hại cho thế gian thì phải gặp xúc tổn hại, nếu chẳng gây tổn hại thế gian thì làm sao gặp xúc tổn hại được. Còn như gặp xúc tổn hại thì tất phải nhận thọ tổn hại, nếu chẳng gặp xúc tổn hại thì đâu có nhận thọ tổn hại được? Chính điều này mới đáng nói, đáng để ý. Thế nên, Ta nói các loài hữu tình đó chính mình tạo nghiệp. Đó gọi là nghiệp dị thục đen của đen, nghĩa là chính nghiệp này là xấu ác chẳng thiện cho nên chiêu cảm nghiệp dị thục xấu xa chẳng vui vẻ ưa thích được vậy!

– Thế nào là nghiệp dị thục trắng của trắng?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói với thầy Bố-thích-noa, người giữ câu chi giới về bò. Tất cả nên biết ở đời có loại Bổ-đặc-già-la tạo ra các hành thân, ngữ, ý không tổn hại, nó tạo ra các hành thân, ngữ, ý không tổn hại rồi thì chứa nhóm tăng thêm các thứ không tổn hại. Khi đã chứa nhóm các thứ không tổn hại rồi thì có được tự thể không tổn hại. Khi có được tự thể không tổn hại rồi thì không sinh tổn hại cho thế gian. Khi đã sinh ra không tổn hại thế gian thì gặp xúc không tổn hại. Khi gặp xúc không tổn hại thì nhận được thọ không tổn hại. Thế là cứ một mực mến thích vui vẻ mừng rỡ và thỏa ý vừa lòng. Đây chính là các hữu tình ở các cõi trời không cần phải ăn uống. Nó từ loại này, nên sinh ra loại đó. Đã sinh rồi thì gặp xúc loại đó. Thế nên Ta nói các loại hữu tình đó tự mình tạo nghiệp, tất cả nên biết, đó là nghiệp dị thục trắng của trắng.

Tạo hành thân, ngữ, ý không tổn hại là tạo các hành thân, ngữ, ý tốt lành, nghĩa trong này ý nói hạnh thiện của thân, ngữ, ý tức là các hạnh không tổn hại của thân, ngữ, ý. Nó tạo ra các hành thân, ngữ, ý không tổn hại rồi thì chứa nhóm thêm các thứ không tổn hại, là tạo các hành thân, ngữ, ý tốt lành rồi thì gây tạo thêm lớn các pháp xa lìa, tức là nói chứa nhóm thêm lớn các thứ không tổn hại.

Chứa nhóm thêm lớn các thứ không tổn hại rồi thì sẽ được cái tự thể không tổn hại là gây tạo thêm lớn các pháp xa lìa được sinh vào cõi Sắc. Ý trong này nói cõi Sắc là chỉ cho tự thể không có tổn hại. Vì sao như thế? Vì khi đã trụ ở đó thì mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân đụng chạm, ý hiểu việc (pháp) thì tất cả đều vừa ý, chẳng thể không vừa ý được, tất cả đều vui, đều đúng ý, đều bình đẳng, mà không thể nào không vui, không đúng lý, không bình đẳng được, chính sự kiện đó nên toàn là vui vẻ thỏa lòng.

Nó đã được tự thể không tổn hại nên sinh ra thế gian không tổn hại, nghĩa là đã chiêu cảm có cõi Sắc rồi thì sẽ sinh lên cõi trời thuộc Sắc giới. Ý ở đây nói cõi trời thuộc Sắc giới chính là thế gian không tổn hại đó. Vì sao như thế? Vì sinh vào cõi trời thuộc Sắc giới, thì mắt thấy sắc cho đến. ý biết pháp tất cả đều vừa ý, rộng nói cho đến tướng bình đẳng đều được bình đẳng. Do sự kiện này nên hoàn toàn nhận được sự vui mừng vừa ý.

Do sinh ra thế gian không tổn hại nên gặp được xúc không tổn hại, nghĩa là khi sinh ở cõi trời thuộc Sắc giới rồi thì gặp xúc ở cõi Sắc. Ý ở đây nói xúc cõi trời thuộc Sắc giới là xúc không tổn hại.

Khi nó gặp xúc không tổn hại thì sẽ nhận được thọ không tổn hại, là gặp được loại xúc như thế thì nhất định nhận được thọ (cảm xúc) như thế, tức là xúc đã thuận vui thì thọ cũng vui sướng. Do đó mà nói gặp xúc không tổn hại thì nhận được thọ không tổn hại.

Như thế là cứ một mực mến thích, vui mừng, thỏa ý, nghĩa là với thọ vui sướng đó thì vô lượng loài hữu tình nào cũng đều mến thích, vui vẻ, vừa ý. Do đó nên nói tất cả đều một mực vui thích thỏa lòng.

Như các loài hữu tình ở các cõi trời không ăn uống, nghĩa là nói thế gian hướng về cõi Sắc. Do đó nên nói loài hữu tình chư Thiên không cần ăn uống.

Nó do loại này thì sinh ra loại đó, nghĩa là chính các sự việc của loài hữu tình đó có nhân duyên đó mà sinh ra như vậy. Do đó nên nói nó do loại nào thì sinh ra loại đó.

Sinh ra gặp xúc loại đó, nghĩa là đã sinh vào cõi Sắc thì gặp xúc của cõi Sắc. Do đó mà nói đã sinh ra rồi thì lại gặp xúc của loại đó.

Thế nên Ta nói loài hữu tình đó tự mình tạo nghiệp, nghĩa là giả sử như tạo các hành thân, ngữ, ý không tổn hại, hoặc chẳng tạo các hành thân, ngữ, ý không tổn hại, thì đều chứa nhóm thêm nhiều các thứ không tổn hại. Nếu chứa nhóm thêm nhiều các thứ không tổn hại, thì sẽ chiêu cảm tự thể không tổn hại, hoặc chẳng chiêu cảm được tự thể không tổn hại. Nếu như có được tự thể không tổn hại hoặc chẳng có được tự thể không tổn hại thì sẽ sinh ra thế gian không tổn hại, hoặc chẳng sinh ra thế gian không tổn hại. Nếu đã sinh ra thế gian không tổn hại, hoặc chẳng sinh ra thế gian không tổn hại thì sẽ gặp được xúc không tổn hại hoặc chẳng gặp xúc không tổn hại. Nếu gặp được xúc không tổn hại, hoặc chẳng gặp xúc không tổn hại thì sẽ nhận được thọ không tổn hại. Điều này chẳng đáng nói.

Thế nên Ta nói các loài hữu tình đó tự mình tạo nghiệp. Vì nếu tạo các hành thân, ngữ, ý không tổn hại, thì chứa nhóm tăng thêm các thứ không tổn hại. Chẳng tạo các hành thân, ngữ, ý không tổn hại thì chẳng chứa nhóm thêm nhiều các thứ không tổn hại, thì có được tự thể không tổn hại. Nếu chẳng chứa nhóm thêm các thứ không tổn hại thì cũng chẳng có được tự thể không tổn hại. Nếu cảm được tự thể không tổn hại thì sinh ra thế gian không tổn hại. Không cảm được tự thể không tổn hại thì cũng không sinh ra thế gian không tổn hại. Nếu sinh ra thế gian không tổn hại thì gặp được xúc không tổn hại, còn như chẳng sinh ra thế gian không tổn hại thì cũng chẳng gặp được xúc không tổn hại. Nếu gặp được xúc không tổn hại thì nhận được thọ không tổn hại. Còn như không gặp được xúc không tổn hại thì cũng không nhận được thọ không tổn hại. Đây là điều đáng nói, thế nên Ta nói các loài hữu tình đó tự tạo nghiệp.

Đó gọi là nghiệp dị thục trắng của trắng, nghĩa là các nghiệp tốt lành này chiêu cảm được quả dị thục đáng vui mừng mến thích.

– Thế nào gọi là nghiệp dị thục trắng đen của trắng đen?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói với thầy Bố-thích-noa, người giữ câu chi giới về bò: Tất cả nên biết! Ở đời có một loại Bổ-đặc-già-la tạo ra các hành thân, ngữ, ý có tổn hại và không tổn hại. Nó tạo ra các hành thân, ngữ, ý có tổn hại và không tổn hại rồi thì chứa nhóm thêm nhiều các pháp tổn hại và không tổn hại. Nó chứa nhóm thêm nhiều các pháp tổn hại và không tổn hại rồi liền chiêu cảm tự thể có tổn hại và không tổn hại. Khi nó đã chiêu cảm tự thể có tổn hại và không tổn hại thì nó sẽ sinh ra cõi thế gian có tổn hại và không tổn hại. Khi đã sinh ra cõi thế gian có tổn hại và không tổn hại thì sẽ gặp được xúc có tổn hại và không tổn hại. Khi đã được cái xúc có tổn hại và không tổn hại thì nhận được cái thọ có tổn hại và không tổn hại. Nó xen vào nhau lẫn lộn như loài hữu tình vừa là người vừa là một phần trời pha lẫn vào. Do loại này mà sinh ra loài đó. Đã sinh rồi thì sẽ gặp loại xúc đó. Thế nên Ta nói, loài hữu tình đó do chính mình tạo nghiệp. Tất cả đều nên biết đó là nghiệp dị thục trắng đen của trắng đen.

Tạo ra các hành thân, ngữ, ý có tổn hại và không tổn hại, là tạo ra các hành thân, ngữ, ý có thiện và chẳng thiện. Ý ở đây nói tạo ra các hành thân, ngữ, ý có thiện và chẳng thiện thì gọi là tạo ra các hành thân, ngữ, ý tổn hại và không tổn hại. Tạo ra các hành thân, ngữ, ý có tổn hại và không tổn hại rồi thì chứa nhóm tăng thêm nhiều các thứ tổn hại và không tổn hại đó, nghĩa là đã tạo ra các hành thân, ngữ, ý thiện và chẳng thiện rồi thì tạo tác tăng thêm các pháp xa lìa và chẳng xa lìa. Nghĩa trong này, ý nói gây tạo thêm nhiều các pháp xa lìa và chẳng xa lìa thì gọi là chứa nhóm thêm nhiều các thứ tổn hại và không tổn hại đó. Chứa nhóm thêm nhiều các thứ tổn hại và không tổn hại ấy rồi thì chiêu cảm được tự thể tổn hại và không tổn hại đó, nghĩa là gây tạo thêm nhiều các pháp xa lìa và chẳng xa lìa rồi thì liền chiêu cảm được cõi Dục của người và trời. Ý ở đây nói cõi Dục của trời và người thì gọi là tự thể có tổn hại và không tổn hại. Vì sao? Ấy là vì khi trụ ở trong cõi đó thì mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm và ý biết pháp, tất cả có khi là vừa ý có khi chẳng vừa ý, ý vui và cũng có khi ý chẳng vui, có tướng vừa ý, mà có khi có tướng không vừa ý, có khi bình đẳng tự nhiên mà cũng có khi chẳng tự nhiên bình đẳng… Do các sự kiện như thế mà hoặc vui hoặc buồn lẫn lộn.

Khi chiêu cảm được tự thể tổn hại và không tổn hại thì sẽ sinh ra cõi thế gian tổn hại hoặc không tổn hại, có nghĩa là chiêu cảm được ở trong cõi Dục của trời và người rồi thì chắc chắn sẽ sinh vào cõi Dục đó. Ý ở đây nói cõi Dục của trời và người thì gọi là thế gian tổn hại hoặc không tổn hại. Vì sao? Vì khi đã sinh làm trời và người trong cõi Dục rồi thì mắt thấy sắc…, cho đến ý biết pháp tất cả đều là hoặc vừa ý hoặc chẳng vừa ý, rộng nói cho đến được bình đẳng tự nhiên hoặc chẳng bình đẳng tự nhiên. Do các sự kiện đó mà có vui khổ xen lẫn nhau. Khi sinh cõi thế gian có tổn hại hoặc không tổn hại thì sẽ gặp xúc có tổn hại hoặc không tổn hại, có nghĩa là khi sinh vào cõi Dục của trời và người rồi thì gặp xúc ở cõi Dục của trời và người. Ý ở đây nói cái xúc cõi Dục của trời và người thì đó là cái xúc có tổn hại và không tổn hại.

Khi gặp xúc có tổn hại và không tổn hại rồi thì sẽ nhận được thọ có tổn hại và không tổn hại, có nghĩa là với loại xúc như thế thì nhất định phải nhận được loại thọ như thế. Khi xúc đã thuận khổ và lạc thì tất nhiên thọ cũng phải khổ và lạc. Do đó cho nên nói gặp xúc có tổn hại hay không tổn hại rồi thì sẽ nhận được thọ có tổn hại và không tổn hại, xen lẫn vào đó, có nghĩa là khổ và vui nó xen lẫn vào nhau mà hiện ra ngay trong khi đó. Do đó nên nói là nó chen nhau, xen lẫn vào nhau.

Do loại này thì sinh ra loại đó, nghĩa là các sự việc mà loài hữu tình đó y vào thì có nhân đó duyên đó mà sinh ra nó. Do đó mà nói do loại này sinh ra loại đó.

Khi đã sinh ra rồi thì sẽ gặp xúc loại đó, nghĩa là khi sinh vào cõi Dục của trời và người rồi thì sẽ gặp xúc ở cõi Dục của trời và người. Do đó mà nói khi sinh ra rồi thì sẽ gặp xúc loại đó.

Thế nên Ta nói các loài hữu tình đó tự mình tạo nghiệp có nghĩa là giả sử: Nếu như tạo các hành thân, ngữ, ý có tổn hại và không tổn hại, hoặc chẳng tạo ra các hành thân, ngữ, ý có tổn hại và không tổn hại thì đều chứa nhóm thêm nhiều các thứ tổn hại hoặc không tổn hại, hoặc chẳng chứa nhóm thêm nhiều thứ có tổn hại hoặc không tổn hại. Nếu chứa nhóm thêm nhiều các thứ tổn hại hoặc không tổn hại, hoặc không chứa nhóm thêm nhiều các thứ tổn hại hoặc không tổn hại, thì sẽ chiêu cảm được tự thể có tổn hại hoặc không tổn hại, hoặc không chiêu cảm được tự thể có tổn hại hoặc không tổn hại. Nếu đã có được tự thể tổn hại, hoặc không tổn hại, hoặc chẳng có được tự thể tổn hại, hoặc không tổn hại thì sẽ sinh ra cõi thế gian có tổn hại hoặc không tổn hại, hoặc chẳng sinh ra cõi thế gian tổn hại hoặc không tổn hại. Nếu đã sinh ra cõi thế gian có tổn hại và không tổn hại, hoặc không sinh ra cõi thế gian tổn hại hoặc không tổn hại thì sẽ gặp được các xúc tổn hại hoặc không tổn hại, hoặc không gặp các xúc tổn hại hoặc không tổn hại. Nếu gặp các xúc tổn hại hoặc không tổn hại, hoặc không gặp được các xúc tổn hại hoặc không tổn hại thì nhận được thọ tổn hại hoặc không tổn hại. Đây thì chẳng cần phải nói.

Thế nên Ta nói các loài hữu tình ấy tự mình đã tạo các nghiệp.

*****

Vì nếu tạo ra các hành thân, ngữ, ý có tổn hại và không tổn hại thì chứa nhóm thêm nhiều các pháp tổn hại và không tổn hại, còn nếu chẳng tạo các hành thân, miệng, ý tổn hại hoặc không tổn hại thì chẳng chứa nhóm thêm nhiều các pháp tổn hại và không tổn hại. Nếu đã chứa nhóm thêm nhiều các pháp tổn hại và không tổn hại thì chiêu cảm được tự thể tổn hại và không tổn hại. Còn nếu chẳng chứa nhóm thêm nhiều các pháp tổn hại và không tổn hại thì chiêu cảm được tự thể tổn hại và không tổn hại, sẽ sinh ra cõi thế gian tổn hại và không tổn hại. Còn nếu chẳng chiêu cảm được tự thể tổn hại và không tổn hại thì chẳng sinh ra cõi thế gian tổn hại và không tổn hại. Nếu đã sinh ra cõi thế gian tổn hại và không tổn hại thì sẽ gặp được xúc tổn hại và không tổn hại. Còn nếu chẳng sinh ra cõi thế gian tổn hại và không tổn hại thì chẳng gặp được xúc tổn hại và không tổn hại. Nếu đã gặp được xúc tổn hại và không tổn hại thì sẽ nhận được thọ tổn hại và không tổn hại. Nếu không gặp được xúc tổn hại và không tổn hại thì cũng không nhận được thọ tổn hại và không tổn hại. Thế nên Ta nói các loài hữu tình ấy tự mình tạo nghiệp.

Thế nên gọi là nghiệp dị thục trắng đen của trắng đen, nghĩa là nghiệp này thiện hoặc chẳng thiện, chiêu cảm được dị thục đáng mến thích và chẳng đáng mến thích.

– Thế nào là không có nghiệp dị thục chẳng đen cũng chẳng trắng là nghiệp có thể diệt hết các nghiệp?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói với thầy Bố-thích-noa, người giữ câu chi giới về bò: Tất cả nên biết, hoặc có thể diệt hết được các nghiệp suy nghĩ dị thục đen của đen (toàn đen), hoặc có thể diệt hết được các nghiệp dị thục trắng của trắng (toàn trắng), hoặc có thể diệt hết được các nghiệp suy nghĩ dị thục đen trắng của đen trắng. Đó gọi là có thể diệt hết các nghiệp không còn nghiệp dị thục chẳng đen chẳng trắng.

Chẳng đen ở đây, nghĩa là nghiệp này chẳng phải như nghiệp chẳng thiện. Vì chẳng có ý là đen mà nói là đen, nên gọi là chẳng đen.

Chẳng trắng, nghĩa là nghiệp này chẳng phải như nghiệp thiện hữu lậu. Do vừa ý với trắng mà nói là trắng, cho nên bảo là chẳng trắng.

Không phải là dị thục, nghĩa là nghiệp này chẳng phải như ba nghiệp trước có thể chiêu cảm đến dị thục, cho nên gọi là không phải nghiệp dị thục.

Hay diệt hết các nghiệp, nghĩa là nghiệp này học và suy nghĩ thì có thể hướng đến sự tổn giảm. Vì sao? Nghĩa là nếu học và suy nghĩ mà có thể hướng đến (bị) sự tổn giảm thì đối với nghiệp trước có thể dứt hết, khắp hết và theo đó mà được hết vĩnh viễn. Với nghĩa trong này thì ý gọi đó là nghiệp có thể diệt hết các nghiệp. Do đó nên nói không có nghiệp dị thục chẳng đen chẳng trắng là nghiệp có thể diệt hết các nghiệp.

Bốn thứ pháp thọ: Gồm có:

  1. Có pháp thọ có khả năng cảm được dị thục hiện tại vui, sau khổ.
  2. Có pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại khổ, sau vui.
  3. Có pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại khổ, sau khổ.
  4. Có pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại vui và sau vui.

– Thế nào là pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại vui, sau khổ?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Như có một loại Bổ-đặc-già-la cùng với niềm vui sướng mà giết hại, trộm cướp, dâm dục, tà hạnh, nói dối, nói lời ly gián, nói lời hung ác, nói lời cấu uế, tham dục, sân giận, tà kiến. Nó giết hại…, cho đến tà kiến, lấy các việc đó làm điều kiện mà được vui sướng. Nhưng các thứ thân vui, tâm vui như thế đều là việc chẳng thiện. Cuối cùng bị các thứ bất thiện đó thâu giữ điều khiển nên nó làm chướng ngại các trí tuệ sáng suốt, nó chướng ngại các thứ giác ngộ, tức là nó chướng ngại Niết-bàn. Thế nên gọi là pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại vui, sau khổ.

– Thế nào là pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại khổ, sau vui?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Như có một số Bổ-đặc-già-la cùng với buồn khổ mà từ bỏ việc giết hại, bỏ trộm cướp, bỏ dâm dục, tà hạnh, lìa bỏ nói dối, nói ly gián, nói lời hung ác, nói lời cấu uế, không tham không sân giận và chánh kiến. Họ lìa bỏ giết hại cho đến chánh kiến, lấy đó làm điều kiện mà bị đau khổ buồn rầu. Các thứ khổ của thân tâm như thế là điều thiện. Loại tốt lành rốt ráo đó thâu giữ điều khiển nên có thể dẫn đến trí tuệ sáng suốt (thông tuệ), chứng được giác ngộ và đạt đạo Niết-bàn. Thế nên gọi là pháp thọ có khả năng chiêu cảm hiện tại khổ, sau vui.

– Thế nào là pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại khổ và sau cũng khổ?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Có một loại Bổ-đặc-già-la cùng với khổ buồn và chuyên giết hại trộm cướp, dâm dục, tà hạnh hoặc nói dối, nói lời ly gián, nói lời hung ác, nói lời cấu uế, hoặc tham dục giận dữ và tà kiến. Người này lấy giết hại…, cho đến tà kiến làm điều kiện cho sự buồn khổ. Và các sự đau khổ của thân và tâm như thế đều lại là chẳng thiện, khi bị các điều chẳng thiện này thâu giữ điều khiển tất sẽ gây chướng ngại cho trí tuệ sáng suốt, chướng ngại cho giác ngộ và cả đạo quả Niết-bàn. Thế nên gọi là pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại khổ và sau cũng khổ.

– Thế nào là pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại vui và sau cũng vui?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Có một số Bổ-đặc-già-la rất vui mừng sung sướng khi lìa dứt giết hại, trộm cướp, dâm dục tà hạnh, hoặc lìa bỏ nói dối, nói ly gián, nói lời hung ác, nói lời cấu uế, vui sướng khi không còn tham lam sân giận và được chánh kiến. Người này lìa bỏ giết hại… cho đến được chánh kiến, lấy đó làm điều kiện mà được vui vẻ sung sướng. Và các thứ vui sướng của thân tâm như thế đều là tốt lành. Khi các sự tốt lành này thâu giữ điều khiển thì sẽ dẫn đến trí tuệ sáng suốt, chứng được giác ngộ và Niết-bàn. Thế nên gọi là pháp thọ có khả năng chiêu cảm dị thục hiện tại vui và sau này cũng vui.

Có bốn thứ ách: Đó là ách dục, ách hữu, ách kiến, ách vô minh.

1. Thế nào là ách dục?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Có rất nhiều phàm phu ngu si, bọn dị sinh dốt nát không học, đối với dục thì chiêu tập gây tạo các thứ chết chóc mất mát, các tai họa làm hại cho giải thoát (xuất ly) làm mất trí tuệ không biết đúng như thật. Đối với dục mà có những tính chất như vừa kể thì gồm có các thứ như tham dục, tình dục, thân thiết dục, ái dục, lạc dục (ham vui), muộn dục (buồn thương mê muội) đam mê ham thích, ham vui mừng, ham cất giấu, ham đua đòi hùa theo…, các thứ đó nó trói chặt tâm mình. Nên gọi là ách dục.

2. Thế nào là ách hữu?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các loài phàm phu ngu si và bọn dị sinh thất học đối với các hữu thì chiêu tập gây tạo các thứ mất mát chết chóc, các tai họa làm hại sự giải thoát, làm mất trí tuệ không biết đúng như thật. Các thứ hữu có tính chất như vừa kể thì gồm có các thứ như: Có tham, có tình dục, có thân thiết, có yêu thương, có vui sướng, có mê mẩn, có đam mê, có ham thích, có mừng vui, có chứa cất, có hùa theo (bắt chước)… Những thứ đó nó trói chặt tâm mình.

Nên gọi là ách hữu.

3. Thế nào là ách kiến?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các hàng phàm phu ngu si và bọn dị sinh thất học đối với sự thấy biết thường chiêu tập gây tạo các thứ chết chóc mất mát, gây các tai họa cho sự giải thoát làm mất trí tuệ không biết đúng như thật… Đối với các thấy biết mà có những tính chất như vừa kể trên thì gồm có các thứ như: Thấy chấp vào tham lam, duyên nơi tình dục, duyên nơi sự thân thiết, duyên nơi sự yêu thương, duyên nơi vui sướng, duyên nơi mê mẩn, duyên nơi đam mê, duyên nơi ham thích, duyên nơi vui mừng, duyên nơi chứa chấp, duyên nơi hùa theo… Những thứ đó nó trói chặt tâm mình nên gọi là ách kiến.

4. Thế nào là ách vô minh?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các loài phàm phu ngu si, đám dị sinh thất học đối với sáu thứ xúc (sắc, thanh, hương…) thường chiêu tập gây tạo các khổ ách. Đối với sáu thứ chạm xúc đó mà đam mê chấp trước, vô minh ngu si không trí tuệ nên tùy miên càng thêm lớn. Thế nên gọi là ách vô minh. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Hữu tình mang ách dục,
Ách hữu, kiến tương ưng,
Do ngu si dẫn đầu,
Chìm mãi trong sinh tư.

Bốn thứ cởi trói (ly hệ):

  1. Thoát khỏi ách dục.
  2. Thoát khỏi ách hữu.
  3. Thoát khỏi ách chấp giữ.
  4. Thoát khỏi ách vô minh.

– Thế nào là cởi trói (thoát khỏi) ách dục?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử học rộng của Phật lìa xa các thứ dục chiêu tập gây tạo sự chết chóc mất mát, gây tai họa cho giải thoát, để có trí tuệ biết đúng như thật. Đối với các thứ dục như: Tham dục, tình dục, thân thiết dục, ái dục, lạc dục, tham mê mẩn, đam mê ham thích, ham mừng vui, ham cất giấu, ham hùa theo… Tất cả các thứ đó không hề gây vướng bận ràng buộc tâm mình. Thế nên nói là thoát khỏi ách dục.

– Thế nào là thoát khỏi ách hữu?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử học rộng của Đức Phật thường lìa xa các thứ có chiêu tập gây tạo các thứ chết chóc mất mát, gây tai họa cho sự giải thoát, để có trí tuệ biết đúng như thật. Đối với các thứ có (hữu) như có tham, có tình dục, có thân thiết, có yêu thương, có vui sướng, có mê muội, có đam mê, có ham thích, có mừng vui, có cất chứa, có hùa theo… Tất cả những thứ có đó không hề gây vướng bận ràng buộc tâm mình. Thế nên nói là thoát khỏi ách có.

– Thế nào là thoát khỏi ách kiến?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử học rộng của Đức Phật thường lìa xa các thứ chấp giữ mà nó chiêu tập gây tạo ra các thứ chết chóc mất mát, gây tai họa cho sự giải thoát, để có trí tuệ biết đúng như thật. Đối với các thứ thấy như chấp giữ tham lam, chấp giữ tình dục, chấp giữ thân thiết, chấp giữ yêu thương, chấp giữ vui sướng, chấp giữ mê mẩn, chấp giữ đam mê, chấp giữ ham thích, chấp giữ mừng vui, chấp giữ chất chứa, chấp giữ hùa theo… Tất cả những thứ thấy chấp giữ đó không hề gây vướng bận ràng buộc tâm mình. Thế nên nói là thoát khỏi ách chấp giữ.

– Thế nào là thoát khỏi ách vô minh?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Các hàng đệ tử học rộng của Đức Phật thường biết đúng như thật và sáu thứ chạm xúc gây ra các thứ chết chóc mất mát, gây tai họa cho giải thoát. Các thứ chấp trước đam mê do ngu si vô minh vô trí đối với sáu thứ xúc chạm đó không hề làm vướng bận hoặc ràng buộc tâm mình. Thế nên gọi là thoát khỏi ách vô minh. Như Đức Thế Tôn có nói kệ:

Nếu đoạn ách dục hữu,
Và vượt khỏi ách kiến,
Xa lìa ách vô minh,
Liền được vui an ổn.
Ở trong pháp hiện tại,
Chứng vắng lặng vĩnh viễn,
Xa lìa hết thảy ách,
Tất chẳng đến đời sau.

Bốn dòng thác:

  1. Dòng thác dục.
  2. Dòng thác hữu.
  3. Dòng thác kiến.
  4. Dòng thác vô minh.

– Thế nào là dòng thác dục?

Đáp: Trừ cõi Dục bị ràng buộc với các nhận thức (kiến) vô minh, còn các cõi Dục khác thì bị sự ràng buộc thật chặt của tùy miên và tùy phiền não. Thế nên gọi là dòng thác của dục.

– Thế nào là dòng thác của hữu?

Đáp: Cõi Sắc và Vô sắc trói buộc với các nhận thức vô minh. Còn các cõi Sắc và Vô sắc khác thì bị sự ràng buộc thật chặt của tùy miên và tùy phiền não. Thế nên gọi là dòng thác của hữu.

– Thế nào là dòng thác của kiến?

Đáp: Gồm có năm thứ:

  1. Chấp giữ có thân.
  2. Chấp giữ thiên lệch một bên.
  3. Chấp giữ tà kiến.
  4. Kiến thủ có chấp trước.
  5. Giới cấm thủ.

Đó là năm thứ kiến. Vì thế nên gọi là dòng thác kiến.

– Thế nào là dòng thác của vô minh?

Đáp: Cả ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc đều ngu si không có trí tuệ. Cho nên gọi là dòng thác của vô minh.

Bốn thứ chấp giữ:

  1. Chấp giữ dục.
  2. Chấp giữ kiến.
  3. Chấp giữ giới cấm.
  4. Chấp giữ lời mình.

– Thế nào là chấp giữ dục?

Đáp: Trừ các chấp giữ và các chấp giữ giới cấm ở cõi Dục này, thì những trói buộc chặt chẽ của tùy miên và tùy phiền não ở các cõi Dục khác đều gọi là chấp giữ dục.

– Thế nào là chấp giữ kiến?

Đáp: Có bốn thứ chấp giữ:

  1. Thân kiến.
  2. Biên kiến.
  3. Tà kiến.
  4. Kiến thủ.

Cả bốn thứ kiến đó gọi chung là kiến thủ.

– Thế nào là chấp giữ giới cấm?

Đáp: Như có một số điều răn cấm, nếu ai giữ đúng các điều răn cấm này thì sẽ được thanh tịnh, sẽ được giải thoát, sẽ được ra khỏi, sẽ được thoát khỏi khổ vui, sẽ vượt khỏi bến bờ của vui khổ. Còn trái lại đối với giới mà sai lầm cho rằng giữ gìn hoặc một hai điều, hoặc giữ đầy đủ tất cả các điều răn cấm do họ đặt ra đó để được thanh tịnh, được giải thoát, được ra khỏi, được thoát khỏi khổ vui, được vượt ra thoát vòng vui khổ…, đó gọi là giới cấm thủ.

– Thế nào là Chấp giữ lời mình?

Đáp: Trừ cõi Sắc và Vô sắc bị trói buộc với các chấp sai lầm và chấp giữ giới cấm, thì những cột chặt do tùy miên và tùy phiền não ở các cõi Sắc và Vô sắc khác đều gọi là chấp giữ lời mình. Bốn thứ trói buộc thân: Đó là 1. Tham trói buộc thân.

  1. Sân giận trói buộc thân.
  2. Chấp giới cấm trói buộc thân.
  3. Chấp đây là thật trói buộc thân.

– Thế nào là tham trói buộc thân?

Đáp: Tham, tức là đối với các thứ tham của dục cảnh mà tham muốn cho đến các loại tham, các thứ sinh ra tham…, đó gọi là tham. Còn thân bị trói buộc, nghĩa là khi các thứ tham đó chưa bị cắt đứt, chưa được biết khắp. Đối với mọi loài hữu tình, mọi thứ thân, mọi thứ nhóm họp tụ tập, mọi thứ có được…, thì đều lấy tự thể làm nhân làm duyên mà trói buộc. Hoặc là trói buộc riêng lẻ, hoặc buộc dính chùm vào nhau, buộc tiếp nối mãi, buộc như thế càng chắc càng lâu. Giống như một người thợ khéo kết tóc hay đám học trò ông ta gom các thứ hoa để trước mặt rồi lấy một sợi chỉ tơ dài chắc mà xâu kết lại thành các thứ tràng hoa để cài lên tóc. Các thứ hoa đó thì dùng một sợi tơ để làm điều kiện mà xâu kết dính chặt vào nhau. Hoặc buộc riêng lẻ, buộc dính chùm, buộc kế tiếp mới tạo nên một tràng hoa đẹp. Sự tham lam ở đây cũng thế, vì chưa đoạn trừ hết, chưa biết khắp, nên đối với mọi thứ hữu tình, mọi thứ thân, mọi thứ nhóm họp, tụ tập, mọi thứ có được, thì lấy tự thể làm điều kiện mà buộc vào nhau, hoặc buộc riêng lẻ, buộc dính chùm, buộc kế nhau mới bền chắc lâu dài. Thế nên gọi là tham trói buộc thân.

– Thế nào là sân giận trói buộc thân?

Đáp: Sân giận, tức là cố ý gây tổn hại cho loài hữu tình. Rộng nói cho đến hiện đang gay tai họa tội ác, đó gọi là sân giận. Còn thân bị trói buộc thì như vừa mới nói.

– Thế nào là chấp giữ giới cấm trói buộc thân?

Đáp: Sự chấp giữ giới cấm và sự trói buộc thân thì như trước đã nói rồi.

– Thế nào là chấp đây là thật trói buộc thân?

Đáp: Chấp đây là thật nghĩa là hoặc chấp có ta và cõi thế gian này còn hoài, cho rằng điều này đúng thật còn các ý khác đều sai lầm. Hoặc chấp có ta và cõi thế gian này không thường còn, cho rằng chỉ điều này là thật, còn các ý khác đều sai lầm hư vọng.

Hoặc chấp ta và cõi thế gian này cũng thường mà cũng không thường, chỉ điều này là thật, còn các điều khác là sai lầm giả tạo.

Hoặc chấp ta và cõi thế gian này có giới hạn, chỉ có điều này là thật, còn các điều khác là sai lầm giả tạo.

Hoặc chấp ta và cõi thế gian này là không có giới hạn, chỉ có điều này là thật còn các điều khác là sai lầm giả tạo.

Hoặc chấp ta và cõi thế gian này có giới hạn mà cũng không có giới hạn, chỉ điều này là thật, còn các điều khác là sai lầm giả tạo.

Hoặc chấp mạng sống tức là thân, chỉ điều này là thật, còn các điều khác là sai lầm.

Hoặc chấp mạng sống là khác với thân, chỉ điều này là thật, các điều khác là sai lầm.

Hoặc chấp là Như Lai chết rồi thì có, chỉ có điều này là thật, các điều khác là sai lầm.

Hoặc chấp Như Lai chết rồi là chẳng phải có, chỉ có điều này là thật, các điều khác là sai lầm.

Hoặc chấp Như Lai sau khi chết rồi thì cũng có cũng chẳng có, chỉ điều này là thật, các điều khác là sai lầm.

Hoặc chấp Như Lai chết rồi thì chẳng phải có cũng chẳng phải không có, chỉ có điều này là thật, các điều khác là sai lầm. Cứ như thế…, còn gọi điều này là đúng thật sự nói về trói buộc thân, nghĩa là “Chấp điều này là đúng thật”, chưa được đoạn trừ, chưa được biết khắp, đối với mọi loài hữu tình v.v…, như trước đã nói rõ. Nên gọi là trói buộc thân.

Bài kệ tụng (Ốt-đà-nam) thứ tư nói:

Bốn: bốn pháp có mười,

Là đại chủng, thật, trụ, Ái không nên hỏi đến, Thí, nhiếp, sinh tự thể.

Gồm có: Bốn thứ đại, bốn cách ăn, bốn thứ thức trụ, bốn thứ ái, bốn thứ chẳng nên làm mà làm, bốn thứ ký vấn, bốn thứ thí, bốn thứ nhiếp sự, bốn cách sinh, bốn cách được tự thể.

Bốn thứ đại: Tức là đất, nước, lửa, gió. Bốn thứ này đã nói trong pháp uẩn, về phần sáu giới trước đây rồi.

Bốn cách ăn:

  1. Đoàn thực hoặc thô hay tế.
  2. Xúc thực.
  3. Ý thực.
  4. Thức thực.

– Thế nào là đoàn thực hoặc thô hay tế?

Đáp: Vì phần ăn chính là điều kiện để giúp nuôi sống các cơ quan (căn) và thân thể (tứ đại) thêm lớn, lại thấm nhuần tươi nhuận, giúp đầy đủ vui vẻ khắp trong cơ thể và bảo vệ, chuyển đổi, lưu thông, giữ gìn nơi nào cần thiết, đó gọi là đoàn thực.

Vì sao lại nói việc ăn thô tế? Đó là căn cứ vào thức ăn cần thiết để nuôi sống các loài hữu tình, các thứ đó hoặc lớn nhỏ, sẽ lần lượt trình bày.

Việc ăn thô tế là gì? Như loài thú Đăng-kỳ-la thì ăn thô, loài thú Ni-dân-kỳ-la thì ăn tế. Nhưng loài Ni-dân-kỳ-la lại ăn thô, loài thú Nêdi là ăn tế. Loài Nê-di lại ăn thô, loài cá Quy-tùy là ăn tế. Loài cá Quytùy thì ăn thô, loài trứng sinh trong nước là ăn tế. Cũng như voi, ngựa, trâu thì ăn thô, loài dê, nai, heo thì ăn tế. Loài dê, nai, heo ăn thô, loài dã can (chồn) chó thì ăn tế. Rồi loài dã can, chó lại ăn thô, còn loài nhạn, khổng tước (công) là ăn tế. Và loài nhạn, khổng tước lại ăn thô, còn các loài trùn sống trên đất lại ăn tế. Còn như các loài ăn các thứ cây cối, cành lá, hạt v.v… thì ăn thô, so với loài ăn cơm, cháo là tế. Loài ăn cháo lại ăn thô hơn, loài ăn dầu, sữa thì ăn tế.

Lại như các loài hữu tình dùng miệng, mỏ, lưỡi để lấy thức ăn mà nhai gặm, nhấm, nuốt đó là thức ăn to, thô. Nhưng đối với các loài hữu tình còn nằm trong thai, trong trứng chỉ hút lấy các chất nước bổ dưỡng từ cuống rốn vào để nuôi thân thể thì đó là thức ăn nhỏ tế.

Lại còn có các loài hữu tình ăn rồi lại có tiểu tiện và phóng uế thì đó là ăn thô. Trái lại các loài ăn rồi mà không có phóng uế thì là ăn tế. Như có loài ăn mùi vị thơm tô đà, tuy có ăn nhưng không có phóng uế.

Như thế mà kể ra nên có thức ăn thô tế.

– Thế nào là xúc thực?

Đáp: Như có loài lấy sự tiết rỉ ra và đụng chạm làm điều kiện để nuôi lớn các cơ quan và thân thể, lại cũng làm thấm nhuần cơ thể cho đến giữ gìn v.v…, thì đó gọi là xúc thực.

Việc xúc thực này như thế nào? Như các loài ngan, ngỗng, nhạn, khổng tước, anh vũ (vạc), yểng, sáo, nhồng, yến, ly hoàng, mạng, mạng v.v… Khi đã đẻ trứng thì luôn luôn ấp ủ che chở, luôn giữ cho ấm áp khiến sinh ra sự đụng chạm vui vẻ. Nếu các trứng được sinh ra mà không được luôn luôn ấp ủ che chở giữ ấm khiến có sự đụng chạm vui vẻ thì trứng ấy sẽ bị ung thối. Còn như ấp ủ che chở giữ ấm luôn thì trứng sẽ phát triển nở con… Các loài như thế gọi là xúc thực (ăn bằng sự ấp ủ đụng chạm).

– Thế nào là ăn bằng ý nghĩ?

Đáp: Như có loài do sự nảy ra ý tưởng, sự nghĩ nhớ làm điều kiện (duyên) để nuôi lớn các cơ quan và thân thể càng phát triển. Lại cũng có thể thấm nhuần tươi nhuận khắp nơi, cho đến giữ gìn duy trì sự sống thì đây là ăn bằng ý nghĩ.

Việc ăn bằng ý nghĩ này như thế nào? Như các loài cá Quy-tùy, loài Thất-thủ-ma-la-bộ-lư-ca v.v… (các loài rùa, ba ba, vích) lên bờ đào cát đẻ trứng và lấp cát lại rồi bò xuống nước. Nếu các trứng này luôn nhớ mẹ không bao giờ quên thì sẽ không bị ung thối. Còn như không nghĩ nhớ đến mẹ thì đều bị thối rữa. Các loài đó thì gọi là ăn bằng ý nghĩ.

– Thế nào là ăn bằng thức?

Đáp: Nếu như có loài do sự tiết lộ ý thức làm điều kiện để nuôi lớn các cơ quan và phát triển thân thể. Và cũng lại tự thấm nhuần khắp nơi…, cho đến giữ gìn duy trì sự sống…, thì gọi là ăn bằng thức.

Việc ăn bằng thức như thế nào? Như trong kinh Phả Lặc Lư Na Ký, Đức Thế Tôn có dạy: Nầy thầy Phả Lặc Lư Na! Nên biết việc ăn bằng thức có thể khiến khởi sinh có đời sau. Các loài như thế gọi là ăn bằng thức.

Bốn thứ thức trụ: Đó là sắc thức trụ, thọ thức trụ, tưởng thức trụ và hành thức trụ.

Thế nào là sắc thức trụ?

Đáp: Như các sắc hữu lậu tùy thuận theo các thứ mà chấp trước. Đối với các sắc đó, trong các đời hoặc quá khứ, hiện tại hay vị lai mà tâm ý thức khởi lên các thứ ham muốn về tham, sân hay si, hoặc tùy theo mỗi mỗi tâm sở đều có tùy phiền não tham dự vào, thì đó gọi là sắc thức trụ.

Các thứ thọ, tưởng, hành thức trụ cũng đều giống như thế mà suy ra.

Bốn thứ ái: Tức là có bốn thứ:

1. Có Bí-sô hoặc Bí-sô ni v.v…, nhân ham thích y phục, nên lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ thì trụ, đáng cầm giữ thì cầm giữ.

2. Có Bí-sô hoặc Bí-sô ni v.v…, nhân ham thích ăn uống, nên lúc đáng sinh thì sinh, đáng trụ thì trụ, đáng cầm giữ thì cầm giữ.

3. Có Bí-sô hay Bí-sô ni v.v…, nhân ham thích ngọa cụ, nên lúc đáng sinh liền sinh, lúc đáng trụ thì trụ, đáng cầm giữ thì cầm giữ.

4. Có Bí-sô hay Bí-sô ni v.v…, nhân ham thích việc có và không, nên lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ và đáng cầm giữ liền cầm giữ.

– Thế nào là có Bí-sô, Bí-sô ni v.v…, nhân ham thích y phục mà lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ và đáng cầm giữ liền cầm giữ…?

Đáp: Y phục nói ở đây, đó chính là các lông thú dệt thành, hoặc do phiến na, hay cỏ gai, hay sợi gai dệt thành, hoặc là Kiện-cổ-la, hoặc sợi tơ tằm, sợi bông vải hay dạ nỉ tạo thành, hoặc do Kiều-châm-bà, hay Đột-lủ-la, hoặc A-giá-lạn-đà may thành. Còn y phục tiếng gọi chung các thứ để che thân như áo choàng, áo khoác, áo mặc ngoài, mặc trong, áo lá và quần đơn, quần kép, quần ngắn quần dài, khố khậu để che chắn… Đối với các thứ y phục như thế mà tham lam ham thích cất chứa giữ gìn, chấp chặt mến yêu mê mẩn… Thế nên nói Bí-sô, Bí-sô ni nhân ham thích y phục nên lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ và đáng cầm giữ liền cầm giữ.

– Thế nào là Bí-sô và Bí-sô ni nhân ham thích ăn uống, nên lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ và lúc đáng cầm giữ liền cầm giữ?

Đáp: Ăn uống nói ở đây, tức là năm thứ đáng ăn và năm thứ để dùng bữa. Năm thứ đáng ăn đó là củ, rễ, thân, cây, đọt, lá, rau, hoa và quả hạt… Còn năm thứ dùng bữa là cơm, cháo, bún khô, cá thịt và canh thịt… Với các thức ăn như thế mà tham lam ham muốn rồi chứa cất giữ gìn, chấp chặt, ưa thích mê mẩn… Thế nên nói Bí-sô hay Bí-sô ni nhân ham thích ăn uống nên lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ thì trụ và đáng cầm giữ thì cầm giữ.

– Thế nào là Bí-sô và Bí-sô ni nhân ham thích ngọa cụ mà lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ, đáng cầm giữ thì cầm giữ?

Đáp: Ngọa cụ nói ở đây có nghĩa là: Nhà cửa, phòng xá, đền đài, lầu cát, hành lang rộng dài, mái hiên, công viên, hang hốc, mái tranh vách đất hoặc sảnh đường lộng lẫy, hoặc am thất lợp cỏ lá hay hang hố bằng đất đá.

Ngọa cụ còn có nghĩa là giường chõng, nệm thảm, tấm lụa trải giường, mền đơn mền kép, bằng len dạ nỉ nhung lụa gấm, hoặc vải thô vải gai, gối nằm, gối ôm, và các thứ ghế đẳng sạp gụ v.v… Các thứ như thế mà ham thích rồi chứa cất giữ gìn mê đắm yêu thích mê mẩn. Thế nên gọi Bí-sô, Bí-sô ni nhân ham thích ngọa cụ mà lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ, đáng cầm giữ liền cầm giữ.

– Thế nào là Bí-sô, Bí-sô ni nhân ham mê có và không có mà lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ và đáng cầm giữ thì cầm giữ?

Đáp: Cái có ở đây tức là năm thứ uẩn, tức là chấp chặt vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Còn không có tức là năm thủ uẩn trong tương lai sẽ đoạn diệt. Như có một số người nghĩ: Ta mong ở kiếp sau sẽ sinh ra có đủ năm uẩn. Lại có một số người khác lại nghĩ tôi mong rằng sau khi chết thì năm uẩn của tôi sẽ diệt mất. Như thế đối với có và không có mà tham lam ham muốn rồi cất giấu giữ gìn đắm trước yêu thích mê mẩn. Thế nên gọi Bí-sô, Bí-sô ni nhân ham thích có và không có mà lúc đáng sinh liền sinh, đáng trụ liền trụ, đáng cầm giữ thì cầm giữ vậy.

Bốn thứ chẳng đáng làm mà cứ làm:

  1. Tham dục chẳng đáng làm mà cứ làm.
  2. Sân giận chẳng đáng làm mà cứ làm.
  3. Ngu si chẳng đáng làm mà cứ làm.
  4. Sợ hãi chẳng đáng làm mà cứ làm.

– Thế nào là tham dục chẳng đáng làm mà cứ làm?

Đáp: Như một loại người là thân giáo sư, hoặc Quỹ phạm sư (thầy luật sư) hoặc ngang hàng với thân giáo sư hoặc luật sư, và họ cùng nhau giao tế chơi thân như bạn bè… Trong khi đó ở trong Tăng chúng có sự tranh cãi, kẻ ấy nghĩ: Nếu ta cùng các sư trưởng nói trên mà giao du làm bạn thì bị rơi vào phi pháp. Còn nếu không cùng làm bạn với các thầy thì lại mang tiếng là bất nghĩa. Dầu nghĩ như thế, song vẫn bị tham dục sai khiến thúc đẩy cho nên vẫn khởi lên các hành động và lời nói (thân ngữ) ác. Thế nên nói vì tham dục chẳng đáng làm mà vẫn cứ làm.

– Thế nào là sân giận chẳng đáng làm mà cứ làm?

Đáp: Như có một số người có kẻ oán thù ghen ghét, ở trong chúng ta có sự tranh cãi. Người ấy nghĩ: Nếu ta giúp đỡ kẻ oán thù ghen ghét ta thì lòng chẳng thích, nhưng nếu không giúp đỡ thì trái đạo lý. Tuy là nghĩ thế, nhưng vì bị sân giận sai khiến thúc đẩy che lấp lý trí nên vẫn khởi lên hành động và lời nói xấu ác. Đó gọi là vì sân giận chẳng đáng làm mà vẫn cứ làm.

– Thế nào là ngu si chẳng đáng làm mà cứ làm?

Đáp: Như có một loại người có bẩm tánh ngu độn hoặc là thân giáo sư hay thầy mô phạm (luật sư), hoặc ngang hàng (giống như) thân giáo sư hay thầy mô phạm, hoặc cùng họ giao tế thân thiết như bạn bè. Khi đó ở trong chúng Tăng có sự tranh cãi và người ấy nghĩ: Ta nay chẳng biết thế nào phải trái tốt xấu, vậy cần phải cùng làm bạn nhờ sự giúp đỡ của các thân giáo sư v.v… Nhưng vì kẻ ấy bị ngu si che lấp lý trí, sai khiến thúc đẩy, nên vẫn khởi lên các hành động và lời nói xấu ác. Đó gọi là vì ngu si chẳng đáng làm mà cứ làm.

– Thế nào là sợ hãi chẳng đáng làm mà cứ làm?

Đáp: Như có một số người là bạn bè của vua chúa, bạn bè của các đại thần quan chức lớn hoặc bè bạn với đám giặc cướp. Khi ở trong chúng Tăng có việc tranh cãi thì người ấy tự nghĩ: Nếu ta nay không chịu giúp đỡ kẻ có thế lực thì vì lý do ấy ta có thể bị mất tất cả danh lợi, bị mất y bát, và có thể mất cả mạng. Vì thế nhất định là ta cần phải giúp đỡ hùa theo với những kẻ có thế lực. Ấy là do người này bị sợ hãi che lấp lý trí, nó sai khiến thúc đẩy, nên vẫn khởi lên các hành động và lời nói xấu ác. Đó gọi là vì sợ hãi chẳng đáng làm mà cứ làm. Như Đức Thế Tôn có nói kệ:

Kẻ có tham sân si,
Và sợ nên trái pháp,
Lo sợ mất danh lợi,
Như đêm có chút trăng.

Bốn cách thưa hỏi ghi nhớ:

  1. Nên một mực thưa hỏi ghi nhớ.
  2. Nên phân biệt thưa hỏi ghi nhớ.
  3. Nên vấn nạn thưa hỏi ghi nhớ.
  4. Nên buông xả sự thưa hỏi ghi nhớ.

– Thế nào là nên một mực thưa hỏi ghi nhớ?

Đáp: Như có kẻ thưa hỏi: Đức Thế Tôn có phải là Như Lai, A La

Hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm chăng?

Pháp của Phật nói thật là tốt lành khéo léo. Hiện đời này có sự thanh lương, hướng dẫn hợp thời thì những kẻ trí gần gũi quan sát sẽ được tâm chứng chăng? Các đạo hạnh nhiệm mầu đầy đủ của các đệ tử Phật, có phải là các hạnh ngay thẳng chánh trực, là hạnh đúng chân lý, là hạnh pháp tùy pháp, là hạnh hòa kính, là hạnh tùy pháp chăng? Khổ, tập, diệt, đạo có phải là Thánh đế chăng?

Tất cả hành đều là vô thường chăng? Tất cả hành đều là vô ngã chăng? Niết-bàn có phải là tịch diệt chăng? Như thế mà một mực thưa hỏi ghi nhớ vô số các pháp môn như Thế Tôn có phải là Như Lai A-lahán chăng? Rộng nói cho đến Niết-bàn có phải là tịch tĩnh vắng lặng chăng v.v…? Thế nên gọi là cứ một mực thưa hỏi ghi nhớ.

Vì sao lại bảo rằng cứ một mực thưa hỏi ghi nhớ? Vì với cách thưa hỏi như thế mà một mực ghi nhớ thì có thể có được (dẫn đến) các nghĩa lý lợi ích, dẫn đến các pháp thiện, có thể dẫn đến phạm hạnh, có thể dẫn đến sự thông tuệ (trí tuệ hiểu biết sáng suốt), có thể giác ngộ và chứng được Niết-bàn. Nên gọi đó là cách một mực thưa hỏi ghi nhớ.

– Thế nào là nên phân biệt mà thưa hỏi ghi nhớ?

Đáp: Nếu có người hỏi: Thế nào gọi là pháp? Khi có lời hỏi này thì nên phân biệt mà ghi nhớ. Vì pháp có nhiều thứ, hoặc thời quá khứ, hiện tại hay vị lai, hoặc tốt lành, hoặc xấu ác, hoặc vô ký, hoặc liên hệ với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc học, vô học, phi học phi vô học, hoặc thấy pháp đoạn (sự đoạn diệt), hoặc tu pháp đoạn, hoặc chẳng phải pháp đoạn. Các pháp như thế v.v… có vô lượng pháp môn, nên cần phân biệt mà ghi nhớ. Thế nên gọi là nên phân biệt mà thưa hỏi ghi nhớ.

Vì sao nên phân biệt thưa hỏi mà ghi nhớ? Vì với cách thưa hỏi mà phân biệt ghi nhớ thì có thể dẫn đến các nghĩa lý lợi ích, có thể dẫn đến các pháp thiện, có thể dẫn đến phạm hạnh, có thể dẫn đến trí tuệ hiểu biết sáng suốt (thông tuệ), có thể giác ngộ và chứng được Niết-bàn.

Nên gọi đó là nên phân biệt mà thưa hỏi ghi nhớ.

– Thế nào nên cật vấn thưa hỏi mà ghi nhớ?

Đáp: Như có người hỏi: Vì tôi mà nói pháp, vậy xin cho phép tôi được gạn hỏi (cật vấn) để ghi nhớ. Pháp có nhiều thứ vậy nay ông nói pháp nào? Là pháp quá khứ, hiện tại hay vị lai? Là pháp thiện, hay pháp xấu ác hay vô ký (chẳng thiện chẳng ác), là có liên hệ đến các cõi Dục, cõi Sắc, hay Vô sắc, là có học, vô học hay phi học phi vô học, là có thấy pháp đoạn diệt, tu pháp đoạn diệt, hay chẳng phải pháp đoạn diệt. Cứ các pháp như thế có vô lượng pháp môn, nên gạn hỏi lại mà ghi nhớ. Đó gọi là nên gạn hỏi lại để ghi nhớ.

Vì sao phải gạn hỏi lại mà ghi nhớ? Vì với cách gạn hỏi cật vấn lại để ghi nhớ thì có thể dẫn đến các nghĩa lý lợi ích, có thể dẫn đến các pháp tốt lành, có thể dẫn đến phạm hạnh, có thể dẫn đến trí tuệ hiểu biết sáng suốt (thông tuệ), có thể được giác ngộ và chứng được Niếtbàn. Cho nên nói là nên gạn hỏi lại mà ghi nhớ.

– Thế nào là buông bỏ sự thưa hỏi và ghi nhớ?

Đáp: Như có người hỏi: Thế gian có thường còn hoài chăng, hay vô thường hay chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường chăng? Thế gian có giới hạn hay không giới hạn? Hay cũng có giới hạn mà cũng không giới hạn chăng? Hay chẳng phải có giới hạn mà cũng chẳng phải không giới hạn chăng? Mạng sống có phải là thân, hay là khác thân? Như Lai chết rồi vẫn còn có, hay chẳng phải có? Hay là cũng có mà cũng chẳng phải có? Hay là chẳng phải có cũng chẳng phải chẳng có…? Đối với các thứ như thế chẳng đúng lý mà hỏi thì nên buông bỏ đừng ghi nhớ chi cả. Nghĩa là nên nhớ điều này: Phật nói sự thưa hỏi này là không nên ghi nhớ. Vì thường hay vô thường thì đều chẳng đúng chân lý. Thế nên nói buông bỏ khỏi ghi nhớ.

Vì sao sự thưa hỏi này nên buông bỏ khỏi ghi nhớ? Vì buông bỏ lối hỏi ấy mới có thể dẫn đến các nghĩa lý lợi ích, có thể dẫn đến các pháp tốt lành, có thể dẫn đến Phạm hạnh, có thể phát sinh ra trí tuệ sáng suốt (thông tuệ), nó chứng được giác ngộ và Niết-bàn. Thế nên nói cái hỏi này thì nên buông bỏ không cần nhớ. Đức Thế Tôn có nói kệ:

Cứ một mực hỏi nhớ,
Nên phân biệt hỏi nhớ,
Nên gạn hỏi ghi nhớ,
Nên buông xả ghi nhớ.
Với bốn cách hỏi đó,
Biết cách mà ghi nhớ,
Sẽ hiểu nghĩa, pháp thiện,
Và phạm hạnh cao khiết.
Cao sâu đều hàng phục,
Biết cả nghĩa, phi nghĩa,
Buông cả nghĩa, phi nghĩa,
Xét rõ là bậc trí.

Có bốn thứ bố thí:

  1. Có việc bố thí, người cho thanh tịnh, kẻ nhận không thanh tịnh.
  2. Có việc bố thí, người nhận thanh tịnh, kẻ cho không thanh tịnh.
  3. Có việc bố thí, người cho và kẻ nhận đều thanh tịnh.
  4. Có việc bố thí, người cho kẻ nhận đều không thanh tịnh.

– Thế nào là có việc bố thí mà người cho thanh tịnh, kẻ nhận không thanh tịnh?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói các thầy Bí-sô nên biết! Như có người làm việc bố thí, giới hạnh thanh tịnh, tuân hành các điều răn cấm đầy đủ. Sống có quan sát suy tư và đạt được kết quả thấy biết, nếu y vào sự thấy biết đúng đắn đó mà nói như thế…, thì nhất định đó là có bố thí và đạt được quả dị thục. Trái lại người nhận của và pháp bố thí lại không tuân hành giới luật, sống không đúng phạm hạnh thanh tịnh. Như thế quyết định là việc bố thí đó sẽ không thâu đạt được quả dị thục. Thế nên nói có việc bố thí mà người cho thì thanh tịnh còn kẻ nhận thì không thanh tịnh.

Vì sao trong việc bố thí này thì người cho là thanh tịnh, kẻ nhận lại không thanh tịnh? Các giáo pháp chi phần và các của cải tiền bạc nuôi sống khi đem bố thí cần phải được hợp pháp. Trong khi các chi phần và của cải bố thí của người bố thí thì đã tu tập thành tựu. Còn các thứ chi phần giáo pháp của cải của người nhận đáng lẽ phải được tu tập đầy đủ thì lại không được thành tựu. Do đó mà trong việc bố thí này thì người cho là thanh tịnh, mà kẻ nhận lại không thanh tịnh.

– Thế nào là có việc bố thí mà người nhận được thanh tịnh, còn người bố thí lại không thanh tịnh?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói các thầy Bí-sô nên biết! Nếu có người làm việc bố thí nhưng không tuân hành các giới luật, phạm hạnh không được thanh tịnh, không nương vào sự quan sát thấy biết nên không có kết quả thấy biết. Nếu y vào việc thấy biết như thế mà nói, thì nhất định đó là không có việc bố thí và không đạt được quả dị thục. Trong khi người nhận lại tuân hành luật pháp, sống theo phạm hạnh thanh tịnh. Có nương vào sự quan sát thấy biết và có kết quả thấy biết. Nếu y vào việc thấy biết đó mà nói thì nhất định đó là có bố thí và đạt được quả dị thục. Thế nên gọi là người nhận thì thanh tịnh còn người cho lại không thanh tịnh.

Vì sao trong việc bố thí này người nhận thì thanh tịnh mà người cho lại không thanh tịnh? Vì các giáo pháp (chi phần) và của cải đem bố thí cần phải được tu tập đúng pháp. Các chi phần của cải của người cho chẳng phải tu tập được thành tựu, còn các chi phần và của cải của người nhận thì có tu tập được thành tựu. Thế nên việc bố thí này thì người nhận thanh tịnh còn người cho không thanh tịnh vậy.

– Thế nào là có việc bố thí mà cả kẻ thí và người nhận đều được thanh tịnh?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói các thầy Bí-sô nên biết! Nếu có kẻ bố thí đều tuân giữ giới luật, sống đời phạm hạnh thanh tịnh. Có nương vào sự quan sát thấy biết và đạt được kết quả của sự thấy biết đó. Nếu y vào sự thấy biết đó mà nói thì nhất định đó là có bố thí và có đạt được quả vị Phật. Còn người nhận của bố thí cũng tuân giữ giới luật, sống đời phạm hạnh thanh tịnh. Có nương vào sự quan sát thấy biết và đạt được kết quả của sự thấy biết đó. Nếu y vào việc thấy biết đó mà nói thì nhất định đó là có bố thí và có đạt được quả dị thục. Thế nên nói việc bố thí này cả người cho và kẻ nhận đều được thanh tịnh.

Vì sao việc bố thí này cả người cho và kẻ nhận đều được thanh tịnh? Các thứ giáo pháp chi phần và các của cải của người cho đều được tu tập rèn luyện và các chi phần của cải ấy đều được thành tựu. Còn các chi phần và của cải của người nhận cũng có tu tập rèn luyện và cũng được thành tựu. Thế nên nói trong việc bố thí này cả người cho và kẻ nhận đều được thanh tịnh.

– Thế nào là có việc bố thí mà người cho và kẻ nhận đều không được thanh tịnh?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói các thầy Bí-sô nên biết! Nếu có người bố thí mà không tuân giữ giới luật, không sống đời phạm hạnh thanh tịnh. Không nương vào sự quan sát thấy biết và không đạt được kết quả của sự thấy biết đó. Y vào sự thấy biết đó mà nói thì quyết định là không có sự bố thí và không đạt được quả dị thục. Còn người nhận của bố thí cũng chẳng tuân giữ luật pháp, chẳng sống đời phạm hạnh thanh tịnh, không nương vào sự quan sát thấy biết và không đạt được kết quả của sự thấy biết đó. Y vào sự thấy biết đó mà nói thì quyết định đó là có bố thí và có đạt được quả dị thục. Thế nên nói có việc bố thí mà cả người cho lẫn người nhận đều không thanh tịnh.

Vì sao việc bố thí này cả người cho và người nhận đều không thanh tịnh? Vì các chi phần giáo pháp và của cải của người cho cần phải được tu tập rèn luyện, nhưng các chi phần và của cải ấy chẳng được thành tựu cũng như các chi phần và của cải của người nhận cũng không được tu tập rèn luyện thành tựu. Thế nên nói trong việc bố thí này cả người cho và người nhận đều không được thanh tịnh vậy.

Như Đức Thế Tôn có nói kệ:

(Kẻ) cho dư giới, nhận thiếu (giới),
Thanh tịnh mà chứng pháp,
Tín nghiệp quả dị thục,
Chỉ kẻ thí: thanh tịnh.
(Kẻ) cho thiếu giới, nhận đủ (giới),
Chẳng tịnh, thành phi pháp,
Chê nghiệp quả dị thục,
Chỉ kẻ nhận là tịnh.
Kẻ cho, nhận đều thiếu (giới),
Chẳng tịnh đều phi pháp,
Chê nghiệp quả dị thục,
Ta nói quả không lớn.
(Kẻ) cho, nhận đều đủ giới,
Thanh tịnh mà chứng pháp,
Tin nghiệp quả dị thục,
Ta nói có quả lớn.
Tin nghiệp quả dị thục,
Tôn trọng việc bố thí,
Cha mẹ và con cái,
Bậc trí đều ngợi khen.
Thân, ngữ, ý không chấp,
Tu hạnh diệu Sa-môn,
Chẳng mong mình giàu sang,
Vẫn rộng thí kẻ khác.
Các cõi đều lìa dục,
Thí xong cũng lìa dục,
Ta nói thí như thế,
Tột bậc của tài thí.

******

Bốn thứ nhiếp sự:

  1. Bố thí nhiếp sự.
  2. Ái ngữ nhiếp sự.
  3. Lợi hành nhiếp sự.
  4. Đồng sự nhiếp sự.

– Thế nào là bố thí nhiếp sự?

Đáp: Bố thí nói ở đây, nghĩa là người thí chủ bố thí cúng dường cho các Sa-môn, Bà-la-môn, những kẻ nghèo khổ, người tu hành khổ hạnh, kẻ ăn xin v.v… các thứ ăn uống, thuốc thang, y phục, tràng hoa cài tóc, các chất thơm để thoa xức, nhà cửa phòng ốc, ngọa cụ đèn đuốc cùng các thứ cần dùng. Đó là bố thí.

Lại như Đức Thế Tôn nói với Trưởng giả Thủ: “Này Trưởng giả! Nên biết trong các thứ bố thí thì pháp thí là tối thượng”. Đó là bố thí.

Còn nhiếp sự, là do việc bố thí này mà thân cận gần gũi thâu nhiếp khiến cho mọi người cùng thân thiết yêu mến nghe lời nhau. Như thế là bố thí cho các loài hữu tình thì có thể gần gũi thâu nhiếp khiến mọi người cùng thân thiết mến yêu phục tùng nhau. Thế nên gọi là bố thí nhiếp sự.

– Thế nào là ái ngữ nhiếp sự?

Đáp: Ái ngữ nói ở đây có nghĩa là lời nói vui vẻ, thú vị hấp dẫn, mặt mày tươi tắn dễ nhìn, lời nói êm ái không buồn phiền hờn giận, luôn luôn mỉm cười trước khi cất tiếng. Trước hết nên nói lời vui vẻ an vui vỗ về, nói lời êm ái dễ mến hấp dẫn quyến rũ mọi người. Thí dụ nói: Quý vị mới đến đây việc đời có dễ chịu chăng? Có luôn được an lạc chăng? Các việc ăn uống y phục ngọa cụ, tiền của và các thứ vật dụng khác có khó khăn lắm chăng? Các việc như thế nên dùng lời thăm hỏi an ủi đem an ổn vui vẻ đến cho mọi người nên gọi là lời dẫn dụ (thiện lai ngữ). Những điều vừa nói ở đây hoặc nói ở trước thì gọi chung là ái ngữ cả.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói với ông Trưởng giả Thủ: “Nên biết trong các lời nói thì ái ngữ là quý báu cao cả nhất đó”, nghĩa là khuyên bảo hướng dẫn các Thiện nam tín nữ cùng bà con quyến thuộc hãy lắng tai chú ý nghe pháp, luôn luôn diễn giảng pháp mầu, lúc nào cũng tìm cách khuyên răn dạy bảo, luôn luôn phải có một định hướng, một lý tưởng để thực hiện hoàn thành (quyết trạch). Đó gọi là ái ngữ.

Còn nhiếp sự, tức là do ái ngữ đối với tất cả mà có thể gần gũi thâu nhiếp khiến mọi người đều thân thiết tuân phục mến yêu nhau. Như thế mà dùng cách ái ngữ đối với tất cả chúng hữu tình để thực hiện sử dụng các mục đích trên. Thế nên gọi là ái ngữ nhiếp sự.

– Thế nào là lợi hành nhiếp sự?

Đáp: Lợi hành nói ở đây nghĩa là khi có người lâm phải trọng bệnh hoặc chẳng may gặp phải những tai ách khốn đốn khổ sở không ai cứu giúp…, thì liền khởi lòng từ bi mà đến nơi thăm viếng, dùng hành động và lời nói với mọi phương cách khéo léo mà nuôi nấng phụng dưỡng săn sóc chăm nom, hay tìm phương cách cứu giúp để cho thoát khỏi. Ấy gọi là lợi hành.

Lại như Đức Thế Tôn nói với ông Trưởng giả Thủ: “Nầy Trưởng giả! Ông nên biết lợi hành là một phương cách quý báu cao cả nhất. Vì đối với kẻ chẳng có lòng tin, chẳng biết tin, hiểu điều phải trái thì nên khuyên dụ hướng dẫn thâu phục, xây dựng lòng tin cho họ được đầy đủ vẹn toàn. Nếu gặp kẻ phá giới thì với lợi hành sẽ khuyên bảo khuyến dụ xây dựng cho họ có giới hạnh đầy đủ. Còn gặp kẻ keo kiệt tham lam thì cũng tìm cách khuyến dụ xây dựng cho lòng bố thí rộng lớn. Khi gặp kẻ đần độn ngu si có trí tuệ xấu tệ thì cũng tìm cách khuyến dụ xây dựng cho họ một trí tuệ sáng suốt tròn đầy… Các việc như thế đều gọi là lợi hành”.

Nhiếp sự là sao? Nghĩa là do sự lợi hành này đối với mọi người mà có thể gần gũi thâu nhiếp khiến ai cũng tuân phục mến yêu nhau. Như thế mà dùng lợi hành đối với mọi người để đạt các kết quả trên và khiến mọi người đều thương yêu tuân phục. Thế nên gọi là lợi hành nhiếp sự.

– Thế nào là đồng sự nhiếp sự?

Đáp: Đồng sự nói ở đây nghĩa là rất chán ghét sự giết hại. Tìm mọi cách khéo léo giúp đỡ bạn bè để họ cùng chừa bỏ sự giết hại. Lại cũng rất chán ghét sự trộm cướp, và khéo léo giúp đỡ bạn bè để họ cùng tránh bỏ việc trộm cướp. Đối với dâm dục tà hạnh cũng rất là chán ghét, nên tìm cách giúp bạn bè cùng tránh bỏ. Đến như việc nói dối cũng rất ghét, việc uống các thứ rượu cũng rất ghét, nên tìm cách khéo léo giúp bạn bè cùng từ bỏ. Các việc như thế v.v… đều gọi là đồng sự.

Lại như Đức Thế Tôn nói với ông Trưởng giả Thủ: “Nầy Trưởng giả! Ông nên biết đồng sự là phương cách quý báu cao cả nhất, nghĩa là các quả A-la-hán, Bất hoàn, Nhất lai và Dự lưu đều cùng làm việc đồng sự này cả nên gọi là đồng sự”.

Còn nhiếp sự là sao? Nghĩa là do đồng sự này đối với mọi người mà có thể gần gũi thâu nhiếp khiến ai cũng tuân phục mến yêu nhau. Như thế mà dùng đồng sự, đối với mọi người để đạt kết quả trên và khiến mọi người cùng thương yêu tuân phục. Thế nên gọi là đồng sự nhiếp sự, như Đức Thế Tôn nói kệ:

Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành cùng đồng sự,
Như đúng chỗ nên nói,
Gồm thâu cả thế gian.
Bốn nhiếp sự như thế,
Nếu thế gian không có,
Thì con đối cha mẹ,
Cũng chẳng có hiếu dưỡng.
Vì có các nhiếp sự,
Mà có pháp tùy chuyển,
Nên kẻ được đại thể,
Thấy có ích nên nói.

Bốn loài (bốn cách sinh): Đó là noãn sinh, thai sinh, thấp sinh và hóa sinh.

1. Thế nào là noãn sinh? (Sinh từ trứng)

Đáp: Nghĩa là trước hết ở trong trứng, vỏ trứng bao bọc sau đó mới phá vỡ trứng mà chui ra. Đây là như các loài nào? Đó là như các loài vịt, ngỗng, chim chóc, chim sẻ, nhồng sáo, anh vũ (vẹt, két) chim yến, ly hoàng, mạng mạng v.v… Các thứ chim, và một loài rồng (bò sát thằn lằn), khủng long có cánh, cùng một loài người, và có nhiều sinh vật cũng đẻ trứng…, tức là đầu tiên thì ở trong trứng, vỏ trứng ràng rịt bao bọc, sau đó mới phá vỡ trứng mà chui ra, đều gọi là noãn sinh (sinh từ trứng).

2. Thế nào là thai sinh?

Đáp: Nếu các loài sinh vật sinh bằng thai, thì đầu tiên ở trong bào thai nằm trong tử cung, sau đó mới phá bọc nước mà chui ra. Đây là như loại nào? Đó là như các loài voi ngựa, lạc đà, lừa, dê, nai, trâu nước, heo v.v.. và một loài rồng, một loài có cánh, một loài quỷ, một loài người và cũng có nhiều sinh vật khác sinh bằng thai. Tức là đầu tiên ở trong bào thai, nằm trong tử cung, sau đó mới phá bọc nước mà chui ra… thì đều gọi là thai sinh.

3. Thế nào là thấp sinh (sinh nơi ẩm thấp, ướt át)?

Đáp: Như các loài sinh vật xoay vần ở nơi ấm áp, xoay vần nơi thấm đượm, xoay vần tụ họp, hoặc tập hợp ở chỗ phân dơ, hay nơi nước đọng, hoặc hầm xí cấu uế, hay chỗ thịt cá sình thối, hoặc cơm cháo đổ ngoài đất hay các bụi rậm cỏ rác, hoặc nương chốn rừng rậm, hay cỏ ướt, hoặc nương vào các đống lá trong hang hố, hay ao đầm, vũng hồ hay sông suối, biển cả hoặc nơi đất ẩm ướt…, mà sinh ra. Đây là như các loại nào? Đó là như các loại: Dế mèn, bướm ngài, ruồi muỗi, mối ve, các trùng trong cây gai v.v…, và có một loại rồng, một loại có cánh, một loại người và các loài sinh vật khác thường bu quanh (xoay vần) chỗ ấm áp, rộng kể cho đến nương vào biển cả hoặc nơi đất ẩm ướt…, mà sinh ra, đều gọi là thấp sinh.

4. Thế nào là hóa sinh?

Đáp: Như có các loài sinh vật có các bộ phận (chi phần) đều đầy đủ, các cơ quan (căn) không thiếu sót, nhưng không có chỗ dựa, nương vào ánh sáng mà sinh ra. Đây là như loài nào? Đó là tất cả các loài Trời, các loài ở địa ngục, các loài trung hữu thân, và có một phần rồng, một phần có cánh, một phần quỷ, một phần người. Lại có các loài sinh vật khác, các bộ phận đầy đủ, các cơ quan không thiếu sót, không có chỗ nào dựa, nương vào ánh sáng mà sinh ra, thì đều gọi là hóa sinh.

Có bốn thứ được tự thể (mạng sống):

1. Có được tự thể, chỉ tự mình hại mình, không do người khác hại.

2. Có được tự thể chỉ do người khác hại, chẳng phải mình tự hại;

3. Có được tự thể, mà mình và người đều hại.

4. Có được tự thể mình và người khác đều không thể hại.

– Thế nào là có được tự thể, chỉ tự mình hại mình chứ không do người khác hại?

Đáp: Nếu như có các loài hữu tình chính mình có thế lực mạnh có thể tự hủy mạng sống mình mà kẻ khác dù có thế lực mạnh vẫn không giết được họ. Đây là thế nào? Như có cõi Dục có nhiều kẻ do ham vui chơi mà quên nghĩ nhớ đến các trời. Hoặc khi đi dạo chơi vì quá vui thú, trải qua thời gian quá lâu nên thân thể mệt mỏi và ý niệm quên mất. Do nguyên cớ này mà phải chết. Hoặc có cõi Dục với người ôm lòng giận dữ các trời. Hoặc trong khi giận dữ lại vô cùng bực tức buồn khổ, trừng mắt nhìn nhau mãi rất lâu, do đó mà đành bỏ mạng. Lại có các loài hữu tình khác nữa tự mình có thể giết chết lấy mình chứ không có quyền lực nào có thể giết chết được họ. Thế nên nói là có được tự thể chỉ tự hại mình, chứ không do kẻ khác hại.

– Thế nào là có được tự thể chỉ do người khác hại mà mình không tự hại?

Đáp: Nếu có các loài hữu tình tự mình không có thế lực mạnh để tự hủy, nhưng kẻ khác có thế lực mạnh sẽ làm hại mạng sống mình. Việc này ra sao? Như loài sinh vật đang ở trong trứng hay nằm trong bào thai (còn là bào thai) của mẹ, hoặc là Yết-thích-lam, Át-bộ-đàm, Bế-thi, Kiện-nam, hoặc Bát-la-xa-khư…, các căn chưa đầy đủ, hoặc chưa hoàn hảo (thục). Hoặc có các loài hữu tình khác tự mình không có sức lực tự hại mạng mình, nhưng kẻ khác có thế lực mạnh làm hại mạng sống mình…, thì gọi là có được tự thể chỉ do người khác hại mà mình không tự hại.

– Thế nào là có được tự thể mà mình và người đều hại?

Đáp: Như có các loài hữu tình có thế lực mạnh có thể tự hủy mà cũng có thể giết chết kẻ khác được. Đây là loài nào? Tức là các loài như voi, ngựa, lạc đà, trâu, bò, lừa, dê, nai, trâu nước v.v… Lại có các loài hữu tình khác tự mình có thể tự giết hại mạng mình mà cũng giết hại được kẻ khác được. Đó gọi là có tự thể mà mình và người đều hại được.

– Thế nào là có tự thể mà cả mình và người đều không thể hại được?

Đáp: Như có các loài hữu tình tự mình không có thế lực mạnh để tự hủy mà cũng không thể giết hại người khác được. Đó là những loài nào? Đấy là các trời cõi Sắc và Vô sắc, các loài hữu tình đang trụ vào định vô tưởng, định diệt tận và từ định, hay các loài hữu tình đang trụ vào đời sống (hữu) sau cùng, Phật khiến Phật thọ ký (ký) cho các vua Chuyển luân Thánh vương và mẹ Luân vương đang mang thai. Hoặc thân sau cùng của Bồ-tát và mẹ của Bồ-tát khi đang mang thai Ngài. Con ông Trưởng giả Căng-kỳ-la-ốt-đát-la-bà-la-ni-tư, con ông Trưởng giả thành Vương-xá là Da-xá đồng mạng, Long vương Ai-la-phạt-noa, Long vương Thiện trụ, Mã vương Ba-la-hô, Diễn Ma vương v.v… và tất cả những địa ngục. Lại các loài hữu tình khác tự mình không thể giết hại mình hoặc giết hại người khác được. Đó gọi là có được tự thể mà mình và người đều không hại được. Bài kệ (Ốt-đà-nam) thứ năm:

Năm: Bốn pháp có tám,
Là lưu, lợi, thứ, khổ,
Bốn ác, diệu, ngữ, hạnh,
Bốn phi và bốn Thánh ngôn.

Gồm có: Bốn thứ hạnh thuận lưu Bổ-đặc-già-la, bốn thứ hạnh tự lợi Bổ-đặc-già-la, bốn thứ từ tối đến nơi tối Bổ-đặc-già-la, bốn thứ tự khổ Bổ-đặc-già-la, bốn thứ hạnh Ác ngữ, bốn thứ hạnh Diệu ngữ, bốn phi Thánh ngôn, bốn Thánh ngôn.

Bốn thứ hạnh thuận lưu Bổ-đặc-già-la:

  1. Hạnh thuận lưu Bổ-đặc-già-la.
  2. Hạnh nghịch lưu Bổ-đặc-già-la.
  3. Tự trụ Bổ-đặc-già-la.
  4. Đáo bỉ ngạn Bổ-đặc-già-la.

– Thế nào là hạnh thuận lưu Bổ-đặc-già-la?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại Bổ-đặc-già-la quen sống theo các thói dục, gây tạo các nghiệp xấu ác chẳng thiện. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la hạnh thuận lưu.

Vì sao gọi là hạnh thuận lưu Bổ-đặc-già-la? Ái dục là dòng thác sinh tử, loại Bổ-đặc-già-la này thuận theo dòng đó mà đi. Chúng mạnh dạn đi vào chốn ấy vì đó là lối mòn chúng thường qua lại, là nơi in dấu chân quen thuộc của chúng. Cho nên gọi là hạnh thuận lưu Bổ-đặc-giàla (Bổ-đặc-già-la xuôi dòng).

– Thế nào hạnh nghịch lưu Bổ-đặc-già-la?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại Bổ-đặc-già-la thấy rõ tính chất hung tợn dữ dằn của tham sân si, luôn luôn ghê tởm sợ hãi tai họa của tham sân si nên thường sinh lòng lo lắng buồn khổ. Do chúng luôn luôn chán sợ lo lắng cho nên bao giờ cũng ân cần siêng năng tu tập cho mãi đến hơi thở cuối cùng, lúc nào cũng thuần nhất vẹn toàn, luôn sống đời phạm hạnh trong trắng. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la ngược dòng (hạnh nghịch lưu).

Vì sao gọi là Bổ-đặc-già-la ngược dòng? Ái dục là dòng thác sinh tử. Loại Bổ-đặc-già-la này đã dứt trừ được ái dục, cho nên chỉ tùy thuận mà đi vào chốn ấy. Nơi ấy cũng là con đường mà họ thường qua lại và nơi in dấu chân quen thuộc. Cho nên gọi đó là Bổ-đặc-già-la ngược dòng.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la tự trụ?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại Bổ-đặc-già-la thường ở nơi A-lan-nhã hoặc trú nơi cội cây, hay ở những nơi yên tĩnh vắng vẻ, thường rèn luyện tu tập, làm vô số các hạnh, luôn tư duy suy tìm chân chánh, nên chứng được định tâm yên vắng tịch tĩnh. Do định tâm này mà đoạn trừ được năm phần dưới của kiết sử (phần thô) và sẽ được hóa sinh, tức là ở ngay trong cõi sinh tử mà chứng được Niết-bàn. Chẳng còn phải sinh lại trong cõi Dục này nữa. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la tự trụ.

Vì sao gọi là Bổ-đặc-già-la tự trụ? Loại Bổ-đặc-già-la này ở trong cõi hóa sinh mà chứng được Niết-bàn, chẳng còn sinh trở lại cõi Dục này nữa. Cho nên gọi là Bổ-đặc-già-la tự trụ.

– Thế nào gọi là Bổ-đặc-già-la đáo bỉ ngạn?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại Bổ-đặc-già-la thường ở nơi A lan nhã hoặc trú bên gốc cây, hay ở những chốn yên tĩnh vắng vẻ, thường rèn luyện tu tập, làm vô số các hạnh. Luôn tư duy suy tìm chân chánh, nên chứng được định tâm yên vắng tịch tĩnh. Chính do định tâm này mà dứt sạch tất cả lậu hoặc, chứng được vô lậu. Tâm trí đã giải thoát. Ở trong hiện đời mà chứng được trí tuệ sáng suốt. Nhận biết đầy đủ các môn, thấu suốt tất cả các pháp một cách đúng đắn chân thật. “Đời sống của ta đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc đã làm xong, không thọ thân sau”. Thế nên gọi là Bổ-đặcgià-la đáo bỉ ngạn.

Vì sao gọi là Bổ-đặc-già-la đáo bỉ ngạn? Có thân sinh tử nên gọi là bờ này. Khi các ái dục đã dứt, lìa bỏ tất cả nhiễm trước phiền não, chứng được Niết-bàn tịch diệt miên viễn…, gọi đó là bờ kia. Loại Bổđặc-già-la này đã dứt ái, lìa nhiễm, yên lặng vĩnh viễn. Thế nên bờ Niết-bàn kia đã tới được, đã lên được, đã sờ chạm được rồi. Do đó gọi là Bổ-đặc-già-la đáo bỉ ngạn (giác ngộ). Như Đức Thế Tôn có nói kệ:

Chưa diệt lìa ái dục,
Chết chìm trong ái dục,
Ta bảo là thuận dòng,
Luôn luôn chịu sinh tử.
Nếu trụ vào chánh niệm,
Chẳng nhiễm thói ái dục,
Lo lắng lìa xa dục,
Ta bảo là ngược dòng.
Đoạn dứt năm phiền não,
Luôn đoạn trừ năm pháp,
Tâm được định cao cả,
Ta bảo là tự trụ.
Khắp các pháp hơn kém,
Giải thoát, không còn chi,
Kẻ trí đã giải thoát,
Ta bảo đến bờ kia.

Bốn thứ Bổ-đặc-già-la tư lợi:

  1. Bổ-đặc-già-la có hạnh tự lợi, không có hạnh lợi tha.
  2. Bổ-đặc-già-la có hạnh lợi tha, không có hạnh tự lợi.
  3. Bổ-đặc-già-la có cả hạnh tự lợi và lợi tha.
  4. Bổ-đặc-già-la không có hạnh tự lợi và hạnh lợi tha.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la có hạnh tự lợi, không có hạnh lợi tha?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại Bổ-đặc-già-la có khả năng và tính chất hiểu biết nhanh chóng, thẩm định đúng đắn chắc thật tất cả các pháp thiện. Do hiểu biết thấu đáo cặn kẽ các nghĩa lý của các giáo pháp, nên siêng gắng tu tập rèn luyện đầy đủ các hạnh thiện như hạnh pháp tùy pháp, hạnh hòa kính, hạnh tùy pháp v.v…, nhưng vì cách nói năng diễn giảng chưa khéo léo hấp dẫn, trình bày lời văn nghĩa lý chưa được sáng sủa toàn vẹn. Người này chưa thành tựu được lời nói của bậc thượng thủ là lời nói hoa mỹ, lời nói rõ ràng, không tối nghĩa tối ý, lời nói dễ hiểu; người này có lời nói không có căn cứ, không chính xác, lời nói không dứt khoát, nói lòng vòng… Ngay cả khi muốn chỉ rõ nghĩa lý cho người khác hiểu thì cũng không thể trình bày, hướng dẫn chỉ dạy được, không thể khuyến khích, an ủi ủy dụ, hay ngợi khen kẻ khác bằng những lời, những cách an ủi khuyến khích ngợi khen khéo léo đúng chỗ đúng lúc, đúng ý. Chỉ biết tu tập các pháp thiện mà thôi chứ không thể diễn giảng thuyết pháp cho bốn chúng, mọi người được. Thế nên gọi là Bổ-đặc-già-la có hạnh tự lợi, không có hạnh lợi tha.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la có hạnh lợi tha, không có hạnh tự lợi?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại Bổ-đặc-già-la đối với các pháp thiện thì không có khả năng hiểu biết nhanh chóng, thẩm định sáng suốt được. Đối với các pháp, người này cũng không biết được nghĩa lý cũng chẳng hiểu rõ các pháp. Lại chẳng chịu cố gắng rèn luyện tu tập các hạnh pháp tùy pháp, hạnh hòa kính, hạnh tùy pháp… Trái lại phần nói năng lời lẽ thì hết sức khéo léo, nghĩa lý đầy đủ. Người này cũng thành tựu được lời nói của hàng thượng thủ lãnh đạo với lời hoa mỹ, lời tuyệt diệu, lời rõ ràng dễ hiểu dễ nhớ, lời nói không cần lợi dưỡng, lời nói không lòng vòng. Ngay như khi muốn đem nghĩa lý chỉ dẫn cho mọi người hiểu biết thì đều có thể trình bày, hướng dẫn, khích lệ, an ủi và ngợi khen khéo léo. Đối với việc tu trì các pháp thiện thì có thể diễn giảng thuyết pháp cho bốn chúng nghe hiểu. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la làm lợi cho người, không làm lợi cho mình.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la làm lợi mình, lợi người?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một hạng Bổ-đặc-già-la có khả năng thấu hiểu nhanh chóng và thẩm định đúng đắn các pháp thiện. Người này thấu suốt nghĩa lý và rành rẽ các pháp. Lại luôn cố gắng tu tập rèn luyện đủ các hạnh như hạnh pháp tùy pháp, hạnh hòa kính, hạnh tùy pháp và nói năng lời lẽ rất khéo léo hấp dẫn, nghĩa lý đầy đủ… Người này cũng thành tựu được lời nói của hàng thượng thủ lãnh đạo, với lời nói hoa mỹ tuyệt diệu, lời rõ ràng dễ hiểu dễ nhớ, lời nói không cần lợi dưỡng, lời nói không lòng vòng… Ngay như khi muốn đem nghĩa lý chỉ dẫn cho mọi người hiểu biết thì đều có thể trình bày, hướng dẫn, khích lệ, an ủi hoặc ngợi khen rất khéo léo. Đối với việc tu trì các pháp thiện thì cũng có thể diễn giảng thuyết pháp cho bốn chúng cùng nghe hiểu. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la làm lợi mình, lợi người.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la cả hạnh tự lợi và lợi tha đều không có?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một hạng Bổ-đặc-già-la không hiểu biết nhanh chóng cũng không thẩm định đúng đắn các pháp thiện. Do không biết pháp, nghĩa pháp nên không thể siêng năng tu tập rèn luyện các hạnh như hạnh pháp tùy pháp, hạnh hòa kính, hạnh tùy pháp và nói năng lời lẽ không được khéo léo, trình bày nghĩa lý cũng thiếu sót không trọn vẹn, cũng không thành tựu được lời nói của hàng thượng thủ, lời nói hoa mỹ, tuyệt diệu. Và cách trình bày vẫn không rõ ràng, dễ hiểu dễ nhớ. Cho đến việc muốn chỉ bày cho người khác chút đỉnh nghĩa lý thì cũng không thể nào trình bày hướng dẫn khuyến khích an ủi hay khen ngợi được. Đối với các pháp thiện để tu trì cũng không thể nào trình bày thuyết giáo cho ai điều chi. Đó là Bổ-đặc-già-la mà cả hạnh tự lợi và lợi tha đều không có.

Có bốn loại Bổ-đặc-già-la từ chỗ tối đến chỗ tối: Ấy là:

  1. Loại Bổ-đặc-già-la từ chỗ tối đến chỗ tối.
  2. Loại Bổ-đặc-già-la từ chỗ tối đến chỗ sáng.
  3. Loại Bổ-đặc-già-la từ chỗ sáng đến chỗ tối.
  4. Loại Bổ-đặc-già-la từ chỗ sáng đến chỗ sáng.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la từ chỗ tối đến chỗ tối?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một hạng Bổ-đặc-già-la chẳng may sinh vào gia đình bần tiện nghèo hèn gọi là nhà chiên đà la hay nhà Bổ-yết-bà, hoặc trong các gia đình thợ thuyền, gia đình kỹ nhạc, hoặc thuộc một chủng loại khác mà hết sức bần cùng, khốn khổ, hạ tiện. Luôn luôn cơm ăn áo mặc đều thiếu thốn, tâm thần lại xấu xí, hèn mọn nên ai cũng khinh khi nhờm tởm. Do đó mọi người gán cho cái tên là tối đen. Người này từ chỗ xấu xa đen tối đó mà tạo ra các hành động việc làm lời nói và ý nghĩ đều xấu hết. Vì tạo các nghiệp ác đó nên khi chết rồi thì bị đọa vào các đường dữ, sinh vào chốn địa ngục. Nên biết hạng Bổ-đặc-già-la như thế giống như người từ chốn tối tăm này lại đến chỗ tối tăm khác, từ hầm xí dơ bẩn thối tha này lại rơi vào hầm tiêu hôi hám khác, từ dòng thác lũ cuồng bạo này lại lặn hụp vào dòng thác lũ kinh hồn khác. Mới vừa thoát khỏi chốn lao tù này lại chui ngay vào ngục thất kiên cố khác. Khác nào lấy chất máu mủ thối tha này để rửa chất máu mủ hôi tanh kia. Từ thân bần tiện khốn cùng này mà tạo ra các tội ác, các nghiệp chẳng thiện thì cũng giống như thế. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la từ chỗ tối đến chỗ tối.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la từ chỗ tối đến chỗ sáng?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một hạng Bổ-đặc-già-la sinh vào chốn bần tiện gọi là Chiên-đà-la, rộng nói cho đến gọi là tối đen. Những người ấy từ chỗ tối tăm đó mà tạo ra các nghiệp hạnh tốt đẹp về thân, ngữ, ý. Do nhân duyên tốt đẹp đó, sau khi chết được sinh lên các cõi thiện như được sinh lên các cung trời. Nên biết loài Bổ-đặc-già-la như thế giống như người từ đất lên ngồi trên ghế, từ ghế lên ngồi trên tòa, từ tòa lên ngồi trên kiệu, trên xe, từ xe lên ngồi trên ngựa, từ ngựa lên ngồi trên voi, từ voi lên ngự trên điện. Từ thân bần cùng hạ tiện mà tạo ra các hạnh nghiệp tốt đẹp thì cũng như thế. Đó gọi là Bổ-đặc-già-la từ chỗ tối đến chỗ sáng.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la từ chỗ sáng đến chỗ tối?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một số hạng Bổ-đặc-già-la sinh vào nhà giàu sang gọi là gia đình dòng dõi Sát-đế-lợi, hoặc dòng dõi Bà-la-môn, hoặc dòng dõi Trưởng giả, hoặc các dòng dõi cư sĩ lớn, hoặc một trong những dòng dõi lớn khác. Trong gia đình có đủ các thứ ngọc báu, y phục thức ăn đồ uống, đầy tớ kẻ hầu, voi ngựa, trâu dê, kho tàng, tiền của, thóc lúa cùng tất cả vật dụng cần thiết khác đều đầy đủ. Người trong nhà thì hình tướng đẹp đẽ đoan chính, nói năng oai vệ ai cũng kính mến gọi là sáng. Nhưng kẻ này từ chỗ sáng rỡ đó, tạo ra các hạnh xấu xa độc ác của thân, ngữ, ý. Do các nghiệp này, mà khi chết bị đọa vào các đường dữ, bị nhốt vào địa ngục. Nên biết loại Bổ-đặc-già-la này giống như người từ đền thờ bước xuống ngồi voi rồi xuống ngồi ngựa, rồi ngồi kiệu xe, rồi ngồi xuống tòa, ngồi ghế và xuống đất mà nằm! Từ thân giàu sang mà tạo ra các hạnh ác cũng giống như thế. Đó là loại Bổ-đặc-già-la từ chỗ sáng đến chỗ tối.

– Thế nào là Bổ-đặc-già-la từ chỗ sáng đến chỗ sáng?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một số Bổ-đặc-già-la sinh vào nơi giàu sang tức là như gia đình dòng dõi Sát-đế-lợi, rộng kể cho đến gọi là sáng. Người này từ chỗ sáng mà tạo ra các hạnh nghiệp tốt đẹp của thân, ngữ, ý và chính vì các hạnh thiện đó mà được sinh vào các chốn tốt đẹp như ở các cõi trời chẳng hạn. Vậy nên biết loại Bổ-đặc-già-la như thế giống như người từ ghế này sang ngồi ghế khác, từ ngựa sang ngựa, từ voi sang voi, từ điện này đi đến đền kia. Tức là từ thân giàu sang rồi phát sinh các hạnh thiện tốt đẹp thì cũng như thế. Đó là Bổ-đặc-già-la từ chỗ sáng này đến nơi sáng khác.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

1. Có những kẻ nghèo hèn,
Không lòng tin, giận dữ,
Tham lam ưa làm ác,
Ưa vọng tưởng tà kiến.
Thấy Sa-môn, Phạm chí,
Kẻ đủ giới đa văn,
Không kính còn chê mắng,
Nói ta chẳng cúng thí.
Chê thí nhận vật thí,
Họ tùy nghiệp sinh tử,
Đọa đường ác địa ngục,
Là từ tối sang tối.
2. Có những kẻ bần tiện,
Có lòng tin không giận,
Biết hổ thẹn, chánh kiến,
Ưa thí, lìa tham lam.
Thấy Sa-môn, Phạm chí,
Kẻ đủ giới đa văn,
Vui mừng mà đón tiếp,
Cung kính và cúng dường.
Khen thí nhận vật thí,
Họ tùy nghiệp sinh tử,
Sinh cõi là thiên cung,
Là từ tối sang sáng.
 
3. Có những kẻ giàu sang,
Không tin lại giận dữ,
Tham lam ưa làm ác,
Mê vọng tưởng tà kiến.
Thấy Sa-môn Phạm chí,
Kẻ đủ giới đa văn,
Chẳng kính còn chê cười,
Nói ta không cúng thí.
Chê thí nhận vật thí,
Họ tùy nghiệp sinh tử,
Đọa đường ác địa ngục,
Là từ sáng sang tối.
 
4. Có những kẻ sang giàu,
Có lòng tin, không giận,
Biết hổ thẹn, chánh kiến,
Ưa thí, lìa tham lam.
Thấy Sa-môn Phạm chí,
Kẻ đủ giới đa văn,
Vui mừng đến đón tiếp,
Cung kính và cúng dường.
Khen thí nhận vật thí,
Họ tùy nghiệp sinh tử,
Sinh cõi thiện cung trời,
Là từ sáng đến sáng.

Bốn loại Bổ-đặc-già-la tự làm khổ: Gồm có:

  1. Loại Bổ-đặc-già-la tự làm mình khổ nhưng không làm khổ kẻ khác.
  2. Loại Bổ-đặc-già-la làm kẻ khác khổ nhưng không làm mình khổ.
  3. Loại Bổ-đặc-già-la tự làm mình và kẻ khác đều khổ.
  4. Loại Bổ-đặc-già-la không làm khổ mình và người khác.

– Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la (chúng sinh) tự làm khổ mình nhưng không làm người khác khổ?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một số chúng sinh sống cuộc sống theo cách tu hành khổ hạnh. Như sống trần truồng không mặc quần áo, không ở trong nhà cửa, dùng tay bốc ăn vốc uống chẳng cần đồ đựng. Khi ăn thì ngồi chung trong đống gươm đao gậy gộc, nồi chảo, bồn chậu. Không phải chó nhưng cứ ngồi xổm trước cửa mà chờ chực xin ăn, chẳng kể ruồi bu kiến đậu, bất kể dơ bẩn, vụn nát, ràng rịt cột chặt hay che đậy…, có người trao cho thức ăn thì cũng chẳng thèm nói đến đây đi, đi hay đứng lại. Hạng người này chỉ nhận thức ăn từ người không mang thai, không phải mới sinh đẻ, không phải đàn bà cho con bú. Không tạo ra cũng không làm hư hỏng vật gì cả. Không ăn thịt, không ăn cá hay thịt phơi khô, cũng không uống rượu hay các thứ nước uống. Hoặc không ăn uống chi cả, hoặc ăn một lần, hai lần, ba lần, bốn, năm, sáu, bảy lần…, hoặc chỉ xin ăn một nhà, hai nhà, ba nhà, hoặc bốn, năm, sáu, bảy nhà; hoặc chỉ ăn một nắm, hai nắm, ba nắm, hoặc bốn, năm, sáu, bảy nắm mà thôi. Hoặc ăn cách một ngày, cách hai ngày, ba, bốn, năm, sáu, bảy ngày; hoặc cách nửa tháng hay một tháng ăn một lần. Hoặc chỉ ăn rau cỏ hoặc ăn phân bò, ăn trái cây hoa cỏ, hay ăn vỏ trấu lúa lép, hay ăn gạo tẻ hoặc lúa mạch (bột mì) hay đậu lỗ, hoặc ăn các thứ rễ cây hay các loại củ nơi đồng trống, hoặc ăn các thứ quả rơi lá rụng… Còn như việc mặc thì chỉ mặc sô gai, vải thưa xấu hay cỏ tranh, cỏ bồ, hoặc mặc thứ lụa lộc, hay áo vải thô bằng lông, hoặc len dạ dệt bằng bông, hay mặc da thú, hay lông chim hoặc dùng các sợi tre trúc đan nhau, hoặc dùng cỏ cây mà mặc.

Về tóc tai thì có người để tóc dài, hoặc cuộn tóc bồng lên trên đầu, hoặc búi lại thành những búi nhỏ hoặc lớn. Có người thì để râu mà cạo tóc, có người lại cạo râu mà để tóc, hoặc râu tóc cùng để, hoặc cùng cạo sạch cả. Có người không cạo mà nhổ, hoặc chỉ nhổ tóc hoặc râu, hoặc râu tóc đều nhổ cả.

Có người thì luôn đưa hai tay lên trời, có kẻ cứ mãi kiễng một chân mà đứng. Có kẻ chỉ thích đứng hoài, kẻ khác thì nằm mãi trên giường. Người lại ngồi xoạc đùi ra mà tu khổ hạnh, có người nằm trên gai, hoặc nằm trên tro bụi, hoặc nằm trên mấy khúc cây ngắn (chày) hoặc trên mấy tấm ván, hoặc lấy phân bò bôi trên đất rồi nằm lên, hoặc có người thích thờ lửa, có khi mỗi ngày cúng thờ đến ba lần. Có người thích nằm trên nước (bơi ngửa trên nước), mỗi ngày bơi đến ba lần. Có kẻ co một chân nhảy cò cò mà đi, bửa sau đổi chân khác. Có vô số sự cố gắng chịu khổ như thế, chính mình tự hành hạ mình làm khổ lấy mình. Đó là loại chúng sinh tự làm khổ mình, nhưng không làm khổ người khác.

Tại sao loại chúng sinh đó lại tự làm khổ mình mà không làm khổ người khác? Vì họ tự làm khổ để tự sinh sống. Nên gọi tên như thế.

– Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la (chúng sinh) làm khổ người khác mà chẳng tự làm khổ mình?

Đáp: Như những kẻ giết mổ heo, dê, gà, vịt…, hoặc bắt chim bắt cá hoặc săn thú, hoặc làm giặc, hoặc là kẻ cầm đầu (lái) thái thịt làm nem, chả hoặc làm nghề yếm mạch hay tên tù coi ngục, hoặc nấu thịt chó, hoặc đặt bẫy lưới. Đó là loại chúng sinh làm khổ kẻ khác nhưng chẳng làm khổ mình.

Vì sao loại chúng sinh đó gọi là loại chúng sinh làm khổ người khác mà chẳng làm khổ mình? Do họ làm khổ kẻ khác là để sinh sống cho nên gọi tên như thế.

– Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la tự làm khổ mình mà cũng làm khổ người khác?

Đáp: Như có vị vua chủ tế lễ, khi muốn cúng tế dâng lễ thì trước hết trong nội thành phải xây dựng trang trí cái đàn tràng để cúng tế rồi dùng các thứ dầu và sữa, kem thoa khắp thân thể, xõa tóc để lộ đỉnh đầu, mình mặc lớp da nai đen, tay cầm sừng nai chà khắp thân thể. Hoặc khi cúng thờ lửa, hoặc khi tế lễ trời thì ở trên đàn tràng mà nhịn đói tự đày đọa thân mình. Rồi lấy chất vàng hòa với sữa trâu mẹ và nghé con, tạo nên một chất sữa đặc biệt dùng để cúng tế thần lửa và tế trời. Sau vị chủ tế thì đến vua, hoàng hậu, các vị đại thần tể tướng, rồi kế đó là các bà con thân thích ở trong đàn tràng cúng tế cùng giết hại các loài trâu chúa, trâu nước, trâu cái (trâu mẹ) trâu nghé và các thứ gà, vịt, heo, dê, các loài thú…, và mắng chửi trách cứ hình phạt khủng bố bà con thân thích các kẻ hầu cận (tả hữu) khiến họ phải khóc lóc buồn rầu lo lắng sầu than. Đó gọi là loại chúng sinh tự làm khổ mình và làm khổ cả người khác.

Vì sao loại chúng sinh đó lại tự làm khổ mình và làm khổ người khác? Họ làm như thế vì để sinh sống. Thế nên gọi là kẻ tự làm khổ mình và làm khổ người khác.

– Thế nào là loại Bổ-đặc-già-la không làm khổ mình và cũng chẳng làm khổ ai?

Đáp: Đây chính là chư Như Lai, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh

Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm xuất hiện ra đời nói chánh pháp giảng dạy chỉ bày các điều thiện đủ mọi trình độ từ thấp, trung bình đến cao. Văn chương nghĩa lý rất tuyệt, nhất quán đầy đủ vẹn toàn, phạm hạnh thanh tịnh trong trắng. Toàn thể thiện nam tín nữ khi nghe các pháp đó thì khởi lòng tin tưởng thanh tịnh sâu xa. Khi đã tin tưởng thanh tịnh rồi thì suy tư tìm hiểu thấy rằng nếu ở nhà thì vô số sự việc vô nghĩa cấu uế nó bức bách trói buộc giam nhốt như chốn lao tù, còn khi xuất gia thì như dạo chơi thăm thú chốn đồng hoang bát ngát hay giữa khoảng không mênh mông, vì đã lìa xa mọi điều nói năng tạp nhạp… Kẻ nào còn ham mê bận bịu gia đình nhà cửa thì không thể nào suốt đời hết mình siêng năng tu tập rèn luyện một cách tinh thuần trọn vẹn đức phạm hạnh thanh tịnh trắng trong. Vì thế từ nay ta cần phải tin tưởng chánh pháp cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa. Lìa bỏ đời sống bận bịu gia đình, lên đường gia nhập vào cuộc du hành khắp chốn… Sau khi tính suy cặn kẽ thì bao nhiêu tài sản địa vị bà con thân thuộc dù nhiều hay ít, lớn bé đều từ bỏ xa lìa. Rồi do tâm chánh tín mà cạo bỏ râu tóc khoác áo cà sa, xa lìa cuộc sống gia đình bận bịu, gia nhập vào đoàn du tăng khất sĩ. Khi đã xuất gia thì thọ trì tuân giữ giới hạnh thanh tịnh, siêng năng giữ gìn các luật lệ thích hợp (biệt giải). Các pháp tắc tuân hành đều toàn vẹn đầy đủ, thế nên dù một lỗi lầm bé nhỏ cũng hết sức kiên dè lo lắng giữ gìn. Ở nơi nào có diễn giảng dạy học đều tìm tới xin thọ giáo hết lòng. Không bao giờ sát sinh hại vật, xa hẳn các thứ binh khí dao gậy, có lòng từ bi tràn trề, luôn xấu hổ xét lỗi mình. Đối với các sinh vật từ loài trứng kiến hạ đẳng bé xíu cũng hết lòng thương xót, chẳng hề gây tổn hại, vì đã quyết dứt hẳn sự giết hại. Cũng không hề trộm cướp, trái lại còn ưa thích làm việc bố thí. Đối với các vật được cúng dường bố thí trong sạch thì lượng sức mình mà thọ dụng. Đối với các vật dụng đang có không hề mê đắm nhiễm trước. Luôn luôn giữ gìn tự thể mình lúc nào cũng thanh tịnh không lỗi lầm tội lỗi, vì đã quyết dứt hẳn sự trộm cướp. Bỏ hẳn việc dâm dục tà hạnh, luôn tu tập rèn luyện phạm hạnh và các hạnh cao xa, các hạnh nhiệm mầu, để tâm trí luôn được thanh khiết trong sạch, mà xa hẳn mùi dơ của dâm dục, vì đã quyết lìa hẳn lối sống trái phạm hạnh. Từ bỏ không bao giờ nói dối, chỉ thích nói lời thành thực, những lời đúng đắn chắc thật, lời đáng tin, lời đáng tuân hành thừa nhận, những lời lẽ không bao giờ gây hiểu lầm tranh cãi, vì quyết dứt hẳn lời dối trá. Và không bao giờ nói lời ly gián và phá hoại kẻ khác. Chẳng chọc bị thóc thọc bị gạo, chẳng đem lời hai bên nói xấu nhau mà nói cho nhau nghe. Trái lại thường tìm cách kết hợp lại những kẻ đã chia lìa. Những kẻ nào đã thuận thảo mến thương nhau thì càng giúp cho thêm gắn bó bền chặt. Luôn luôn thích nói lời kết hợp mà chẳng khi nào nói lời phân cách hai bên, vì đã quyết lìa bỏ nói lời ly gián. Lại bỏ hẳn nói những lời dữ dằn thô tục. Không bao giờ nói lời thô tục dữ dằn, cũng không gây sự khổ sở khiến người khác hờn ghét nhau. Do đó cũng khiến nhiều người không mến, không thích, không mừng, không vui… làm chướng ngại sự tu tập thiền định, quyết định phải dứt bỏ hẳn những lời nói độc ác dữ dằn thô tục đó. Trái lại chỉ nói những lời lẽ ôn tồn êm ái dịu dàng vừa tai ưng ý và vui vẻ, hoa mỹ khéo léo nhưng thanh tịnh vẹn toàn. Lời nói rõ ràng dễ hiểu khiến mọi người thích nghe, không cần lợi dưỡng, không nói lòng vòng khiến mọi người đều ham thích vui mừng. Với lời nói khéo léo hoa mỹ cuốn hút hấp dẫn có một sức đặc biệt thúc đẩy mọi người hăng hái tu tập các thiền định, ấy là do đã quyết dứt bỏ lời nói dữ dằn thô tục, lại thêm không bao giờ nói lời cấu uế tạp nhạp. Khi nói thì đúng lúc đúng nơi, còn trình bày giáo pháp với nghĩa lý cao siêu, chân thật, tịch tĩnh…, một cách lớp lang thứ tự, có nguyên cớ sự kiện đầy đủ, đúng lý hợp lẽ, không lẫn lộn tạp nhạp, không lỗi lầm cấu uế. Do đó mà dẫn đến các nghĩa lý rất ích lợi cần thiết. Đó là quyết ý dứt hẳn lời nói cấu uế tạp nhạp. Ngoài ra còn không tham dự vào các việc buôn bán, tráo đấu, sửa cân, ăn gian, cân, đong, đo đếm…, cũng không nuôi súc vật như voi, ngựa, trâu, lừa, gà, heo, chó…, cả đến những kẻ hầu hạ giúp việc, đầy tớ trai gái lớn bé mà kết làm bạn bè thân thuộc. Cũng không nhận chứa cất lúa thóc, đậu nếp v.v…, cho đến vàng bạc châu báu cũng chẳng cất giữ. Không ăn sai buổi (sau giờ ngọ) hoặc ăn một thứ duy nhất. Không đúng chỗ đúng lúc thì không bao giờ bước chân đến. Cả khi nói năng hay im lặng đều không gây sự hiểu lầm nghi kỵ bàn luận khen chê dị nghị. Mặc thì chỉ thích vải gai thưa xấu cốt để che thân, còn ăn thì chỉ dùng vừa đủ cho qua cơn đói khát. Phàm khi đi hay ngơi nghỉ thì y bát vẫn ở bên mình, như loài chim kia đôi cánh vẫn dính sát vào thân dù bay hay đậu. Chính các việc như vừa kể mà người này đã thành tựu được uẩn giới luôn luôn kín đáo giữ gìn căn môn, và an trụ vào chính niệm. Do sức chính niệm này mà hàng phục làm chủ được tâm mình. Cho nên dù mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi thơm thối, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm, ý biết các pháp… Nhưng chẳng hề chấp tướng, không mê đắm vào các thứ đẹp đẽ vừa ý. Trong những trường hợp như thế luôn vững vàng tuân hành giới pháp chặt chẽ, ngăn chận triệt để không để cho tâm tự do phát triển các sự u sầu tham muốn hay các lỗi xấu xa chẳng thiện khác… Người này đã đạt được phần giới hạnh sâu kín nên luôn luôn ngầm giữ gìn các căn môn.

Dẫu rằng có đủ mọi việc nói năng đi đứng tới lui co duỗi cúi đầu ngẩng mặt, đắp y mang bát…, nhưng bao giờ cũng trụ vào chánh niệm, chánh tri; do người này đã thành tựu được giới hạnh sâu kín thanh tịnh, lúc nào cũng ngầm kín giữ gìn căn môn kiểm soát ý thức, luôn luôn trụ vào chánh niệm chánh tri, cho nên dù ở chỗ nào trong thành ấp thôn xóm, từ sáng tinh sương khi đắp y ôm bát là đã giữ gìn phòng hộ các căn, ý thức luôn an trụ trong chánh niệm, luôn giữ gìn oai nghi cử chỉ động tác, luôn luôn tìm học tu hành và khất thực… Mỗi khi khất thực trở về, ăn xong thì rửa bát, rửa tay chân sạch sẽ, xong rồi thì mang tọa cụ đến nơi A-lan-nhã hoặc nơi núi non, đồng trống vắng vẻ, tránh xa các loài ác thú hay mọi người đông đảo, chỉ chọn những nơi vắng vẻ yên tĩnh, những nơi chỉ có đám phi nhân trú ngụ, rồi đến bên gốc cây to mà trải tọa cụ ngồi kiết già, lưng thật ngay thẳng. Bây giờ dẹp hết mọi điều nghĩ ngợi, dẹp hết các duyên tạp loạn rồi chuyên chú vào một điểm ở trước mặt như đầu chót mũi chẳng hạn. Tâm chuyên chú lìa bỏ các lỗi lầm tham lam, sân giận, hôn mê ngủ gục hoặc thân mãi cử động nhúc nhích, tâm nghĩ xằng bậy lung tung hoặc nghi ngờ do dự… Các thứ tùy phiền não đó nó phá hoại dữ dội các pháp thiện, nó khiến cho sức trí tuệ suy yếu, kém sáng suốt không thể chứng được Niết-bàn mà phải lặn hụp hoài trong biển sinh tử. Vì lý do đó ta phải cố gắng lìa bỏ tham dục và mọi ác pháp chẳng thiện cho đến nhập định từ Sơ thiền đến Tứ thiền. Người này do tâm thiền định, yên tĩnh tuyệt vời cao cả như thế, nên các lỗi lầm cấu uế đều sạch hết, trở nên thuần khiết trắng trong, không còn sót tí nào tùy phiền não. Luôn êm ái dịu dàng trụ vào vô động, tâm trí hướng về sự diệt hết các lậu hoặc để được trí tuệ sáng suốt. Cho nên thấy biết đúng như thật, đây là Khổ thánh đế, đây là Tập thánh đế, đây là Diệt thánh đế và đây là Đạo dẫn đến diệt thánh đế. Vì thấy như thế, biết rõ như thế nên tâm được giải thoát khỏi các dục lậu, các hữu lậu và vô minh lậu. Khi đã giải thoát được các thứ đó rồi thì sẽ biết đúng như thật rằng đời sống của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không có thân sau. Thế nên gọi là loại Bổ-đặc-già-la (chúng sinh) không làm khổ mình cũng chẳng làm khổ ai.

Vì sao loại chúng sinh này gọi là không tự làm khổ mình cũng chẳng làm ai khổ? Loại này làm như thế là để nuôi sống mạng mình, thế nên gọi là loại Bổ-đặc-già-la không tự làm khổ mình cũng chẳng làm khổ ai.

*****

Bốn hạnh ác về lời nói:

  1. Nói dối.
  2. Nói ly gián.
  3. Nói lời dữ thô tục.
  4. Nói lời bẩn thỉu.

– Thế nào là hạnh xấu nói dối?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Hoặc ở trước chỗ cần lời nói thành thật, hoặc ở giữa đại chúng, ở trước nhà vua, ở trước quan tòa, ở tại nhà bạn bè…, muốn nhờ mình làm chứng về sự thực, nên có lời nói: “Này chàng trai hiền lành, gắng mà nhớ kỹ, nếu biết thì nói, không biết thì đừng nói, nếu thấy sao thì nói vậy, không thấy thì đừng nói”.

Khi được hỏi điều ấy thì người này, lại có chuyện không biết nhưng cứ nói là biết, hoặc biết nhưng nói không biết. Không thấy vẫn nói là thấy, hoặc thấy nhưng bảo là không thấy. Người này nói như thế là vì chính mình, vì người khác hoặc vì tiền của quyền lợi, cho nên dù biết đúng biết rõ những mà vẫn nói dối.

Ở đây nói về việc nói dối đó, có nghĩa là không bao giờ lìa bỏ việc nói dối, không tìm cách đoạn trừ, không hề biết chán ghét ghê tởm, luôn luôn sống trong sự nói dối, lấy làm hãnh diện vì hoàn thành xuất sắc tài nghệ nói dối. Đó gọi là có nói dối.

Hoặc ở trước chỗ cần nói thành thực, nghĩa là như ở chốn thôn quê, ở chỗ thành ấp hay nơi kinh đô các đại quốc cần lời nói thành thực để thẩm tra thì hoặc là gặp mặt rồi nói nhau, hoặc là hòa hợp (đồng ý xác định như thế) hoặc việc xảy ra trước mắt. Đó gọi là ở trước chỗ cần lời nói thành thật.

Hoặc ở giữa đại chúng như trước số đông hàng Sát-đế-lợi, hàng Bà-la-môn, hàng Trưởng giả, hoặc hàng Sa-môn…, gọi đó là đại chúng. Cũng gặp gỡ mà hỏi hay xác định, hoặc xảy ra trước mắt như trước…

Hoặc ở trước nhà vua. Có nghĩa là có các quốc vương, các đại thần quan lớn ngồi bao quanh cũng gặp gỡ, hòa hợp, chuyện xảy ra trước mắt…

Hoặc ở tại tòa án, quan tòa (quan cầm luật) nghĩa là ở giữa chỗ tụ họp đông đảo bàn thảo nghị luận của các nhà cầm luật hoặc cùng gặp gỡ, hòa hợp hay việc xảy ra trước mắt…

Hoặc tại nhà bạn bè, nghĩa là có đông đảo bạn bè tụ họp để bàn luận, cùng gặp gỡ hòa hợp hoặc việc xảy ra trước mắt…

Vì muốn nhờ mình làm chứng về sự thật nên có lời hỏi ấy, nghĩa là mời thỉnh khuyến khích người ấy nên nói rất thành thật chắc chắn. Vì muốn quyết đoán sự phải trái đúng sai nên mọi người đều cùng xét hỏi: “Này chàng trai hiền lành ngay thẳng, hãy nên nhớ thật kỹ, biết sao nói vậy, không biết thì đừng nói bậy, thấy sao nói vậy, không thấy chớ nói càn”. Nghĩa là bảo nên nhớ kỹ theo đúng cảnh vật mà nói thật để làm bằng chứng rõ ràng sáng tỏ, do đó khuyên nên nói thật đối với các việc đã thấy nghe hiểu biết thế nào thì nên trình bày đầy đủ. Còn các việc nào chẳng thấy nghe hiểu biết thì xin chớ trình bày xác định nhầm lẫn. Cho nên bảo rằng: Này chàng trai trẻ hiền lành gắng nhớ thật kỹ, biết sao nói vậy, không biết chớ nói càn, thấy sao bảo vậy, không thấy đừng nói bậy. Nhưng người kia khi nghe hỏi lời ấy thì không biết vẫn nói là biết, hoặc biết nói là không biết. Không thấy mà vẫn bảo là thấy, hoặc thấy nhưng lại nói không thấy.

Trong này nói về chẳng biết mà nói là biết, nghĩa là các điều mà nhĩ thức nhận được, nhĩ thức hiểu biết được thì nói là sự nghe biết, thật ra nhĩ thức của người ấy chưa nghe chưa biết, mà lại che giấu ý tưởng đó, sự nhận hiểu thấy biết đó, sự thành thật ngay thẳng đó…, mà nói là tôi đã có nghe, thì đây gọi là chẳng biết mà nói biết. Còn biết mà nói chẳng biết, nghĩa là nhĩ thức của người đó đã nhận được, hiểu biết được, nhưng lại che giấu ý tưởng đó, sự nhận hiểu thấy biết đó, sự thành thật ngay thẳng đó, mà bảo rằng tôi chẳng nghe chi cả. Đó đều gọi là biết mà nói chẳng biết.

Còn chẳng thấy mà nói thấy nghĩa là những thứ nhận được và hiểu biết của nhãn thức mà che giấu ý tưởng đó, sự nhận hiểu thấy biết đó, sự thật đó, rồi nói tôi chẳng thấy. Như thế gọi là thấy mà nói không thấy. Người ấy hoặc với chính mình, hoặc vì người khác, hoặc vì tiền của quyền lợi, nên dù biết đúng biết rõ nhưng lại cứ nói dối.

Trong này nói về việc người đo vì mình mà nói dối nghĩa là: Như có một người vừa trộm cướp và bị bắt giải lên vua. Vua đích thân tra hỏi này gả kia! Chính nhà ngươi trộm cướp vật này phải không? Người ấy thầm nghĩ nếu cứ thưa thật thì lỡ vua giận dữ phạt tội nặng thêm như đánh đập cùm trói hoặc đuổi ra khỏi nước, hoặc tịch thu tất cả tài sản, hoặc giết chết luôn thì sao? Do đó ta phải tự giấu, giấu tất cả, chôn chặt, chối phăng tất cả và nhất định là phải nói dối mới mong thoát được tai họa, hình phạt. Nghĩ thế rồi, liền tâu cùng vua: “Thật tình tôi không hề trộm cắp vật đó, mong bệ hạ sáng suốt thấu soi, tôi thật không phải kẻ trộm”. Đó là nói dối vì chính mình.

Hoặc vì người khác mà nói dối: Như có một người bạn của mình là kẻ trộm cắp (giặc cướp) bị bắt giải lên vua. Vua đích thân tra hỏi nhưng không tìm ra sự thật. Muốn có chứng cớ đầy đủ rõ ràng nên sai người gọi đến hỏi: Bạn nhà ngươi có phải là tên giặc cướp chăng? Người này nghĩ thầm rằng: Nếu ta nói thật thì nhà vua sẽ nổi giận, sẽ khiến bạn ta gặp phải hình phạt nặng nề, hoặc bị đánh đập bắt giữ, trói cột, hoặc bị đuổi ra khỏi nước, hoặc bị tịch thu sản nghiệp, có khi còn bị giết chết là khác. Nay ta hãy vì bạn ta mà giấu giếm chôn chặt, chối phăng tất cả…, cần phải nói dối mới mong thoát được hình phạt. Nghĩ rồi liền tâu vua: Mong bệ hạ sáng suốt chiếu soi, bạn tôi không phải là tên giặc cướp, anh ấy không lấy của cải tiền bạc này. Như vậy là nói dối vì người khác.

Hoặc vì tiền của quyền lợi mà nói dối, như có một người lòng đầy tham dục, tự nghĩ: Ta phải bày đặt ra những mánh khóe nói dối gạt để làm phương cách vơ vét mà hưởng thọ, biết bao nhiêu thứ hấp dẫn của sắc, thanh, hương, vị, xúc nào là y phục, thức ăn uống, ngọa cụ, thuốc men và vô số tiền của vật dụng khác… Nghĩ rồi liền ra sức tìm kiếm. Lý do đó mà cố tình nói dối. Đó là vì tiền của quyền lợi mà nói dối.

Biết rõ, biết đúng mà nói dối, là xét đoán quyết định xong thì cứ nói hoài nói mãi, cách nói đó là chỉ rõ nói dối. Đó là biết đúng mà nói dối chẳng lìa bỏ nói dối, nghĩa là đối với tâm ác độc, tâm chẳng thiện khi khởi lên các việc làm ác chẳng thiện sẽ bị sự nói dối chi phối điều khiển, thế mà chẳng chịu lìa bỏ tiêu trừ, chẳng ghê tởm chán ghét, chẳng chịu ngơi nghỉ đừng làm. Cứ như thế mà nói, nói ngâm nga bình luận, tiếng nói, sự bày tỏ bằng lời nói (ngữ lộ), nghiệp của lời nói, biểu thị của lời nói v.v…, đó là hạnh xấu ác của lời nói.

– Thế nào cái xấu của lời nói ly gián?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Kẻ nói lời ly gián, tức là đem lời nói của người này đến nói với người kia, đem lời nói của người kia đến nói với người này để phá hoại cả hai bên. Nếu hai bên đang thuận thảo hòa hợp nhau thì khiến họ chỏi nhau, xa lìa nhau. Khi đã trái lìa nhau thì khiến họ phải vĩnh viễn cách biệt nhau. Nhiều kẻ ham thích sự ly gián, nói lời ly gián, chẳng bao giờ bỏ dứt lời ly gián”.

Trên đây là nói kẻ nói lời ly gián, nghĩa là chẳng lìa bỏ, chẳng chịu tìm cách tiêu diệt lời ly gián, chẳng chán ghét kinh tởm lời ly gián, luôn sống trong sự ly gián và hoàn thành tuyệt hảo nghệ thuật ly gián. Đó gọi là kẻ nói lời ly gián.

Nghe lời người này đến nói với người kia là để phá hoại người này, nghĩa là nghe lời nói nào của người này có ý phá hoại, có ý không chắc (nói chơi), có ý vô tình không dè dặt, có ý không vui v.v…, liền đem nói với người kia. Khi nghe được những lời đó rồi thì đâm ra nghịch thù phản nhau. Đó là nghe lời người này đến nói với người kia là để phá hoại người này.

Còn nghe lời người kia đến nói với người này là để phá hoại người kia, nghĩa là nghe người kia nói có những lời nào có ý hợp với sự phá hoại, hợp với sự không chắc, không e dè giữ ý tứ, có ý không vui liền đem nói với người này, khiến người này nghe rồi thì đâm ra nghịch thù phản nhau. Đó là nghe lời người kia đến nói với người này là để hại người kia.

Nếu hai bên đang thuận thảo hòa hợp nhau thì khiến họ trái xa nhau, nghĩa là hai bên đang hòa thuận vui vẻ, mến thích không tranh cãi nhau thì cứ tới lui cả hai bên rồi tìm đủ mọi cách phá hại khiến họ trái nghịch thù ghét nhau vậy.

Khi đã trái nghịch nhau rồi thì khiến họ lìa nhau vĩnh viễn, nghĩa là khi hai bên đã trái nghịch nhau thì cứ tới lui cả hai bên rồi bảo nhau rằng: Mấy ông nghịch nhau, xa nhau mà càng tốt đấy! Vì sao như vậy? Vì các ông càng ngày càng chê bai chống báng nhau thì khi nói ra còn ai tin được nữa, rồi ngăn cản việc học hành nghe pháp, hao tổn mất mát trí tuệ… Cho nên thà là xa nhau luôn đi càng tốt. Thế là hai bên trái nghịch xa lìa nhau vĩnh viễn.

Ưa thích sự ly gián, nghĩa là khi thấy hai bên đã trái nghịch xa nhau rồi lại càng thích thú khoái chí, cho nên không bao giờ chán ghét, không bao giờ lìa bỏ sự ly gián cả.

Nói lời ly gián, nghĩa là luôn luôn giảng giải, trình bày, chỉ bảo, đề cao lời nói ly gián.

Chẳng lìa bỏ lời ly gián, nghĩa là tâm ác độc, tâm chẳng thiện, luôn quái ác, khi khởi lên các hạnh nghiệp độc ác chẳng thiện thì nó thâu gồm cả lời nói ly gián. Thế mà chẳng bao giờ lìa bỏ đoạn trừ chán ghét ghê tởm và ngưng nghỉ lời nói ly gián. Cứ thế mà nói năng, ngâm nga, bình luận phát âm (ngữ âm) bày tỏ lời nói, hoạt động nói năng (ngữ nghiệp) biểu thị của lời nói… Đó là hạnh xấu của lời ly gián.

– Thế nào là cái xấu của lời dữ, thô tục?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Có người nói lời dữ thô tục là khi người này phát biểu nói năng thì sẽ gây bao nhiêu buồn rầu ray rứt thắc mắc, khiến người khác phải đắng cay đau khổ giận hờn. Với những lời nói ấy không ai có thể yêu mến thích thú vui vẻ mừng rỡ được mà khiến tâm hồn phải quay cuồng điên loạn, làm chướng ngại sự tu trì giải thoát. Luôn luôn nói lời hung dữ cộc cằn thô tục chẳng hề chừa bỏ”.

Trong này nói về lời nói dữ thô tục đó, có nghĩa là không hề lìa bỏ lời nói dữ dằn thô tục, không tìm cách diệt trừ, không hề chán ghét ghê tởm, luôn luôn sống trong lời nói dữ thô bạo và hoàn thành cách thức sử dụng lời lẽ dữ thô bạo. Nên gọi đó là nói lời dữ thô tục.

Khi người này phát ngôn thì gây bao nhiêu buồn khổ, nghĩa là những lời nói ra rất hung dữ thô tục. Còn gây ray rứt thắc mắc cưỡng ép nghĩa là lời nói ra chẳng linh hoạt dịu dàng êm ái cũng không thuận hợp cùng ai.

Khiến người khác phải đắng cay, nghĩa là lời nói ra khiến kẻ nghe không có lợi ích vui vẻ chi.

Khiến người khác phải giận hờn, nghĩa là lời nói ra trước hết khiến mình phải giận hờn sầu não lo âu mà cũng khiến người khác tức giận.

Không ai (chúng sinh) có thể yêu mến thích thú vui vẻ mừng rỡ. Nghĩa là lời nói ra khiến nhiều người đều không yêu mến thích thú vui vẻ mừng rỡ.

Khiến tâm hồn luôn quay cuồng bấn loạn, làm chướng ngại sự tu trì giải thoát, nghĩa là những lời nói ra khiến tâm hồn xáo động bấn loạn buồn lo đen tối không được an ổn yên tĩnh, nên gọi là làm chướng ngại sự tu trì giải thoát.

Luôn nói lời dữ dằn thô bạo, nghĩa là thường xuyên diễn giải trình bày, chỉ bảo đề cao lời nói dữ dằn thô bạo.

Chẳng lìa bỏ lời hung ác cộc cằn, nghĩa là tâm ác độc, tâm chẳng thiện, khi khởi lên các hạnh nghiệp (hành động) độc ác chẳng thiện thì nó gồm cả lời nói hung ác cộc cằn. Thế mà chẳng chịu lìa bỏ, đoạn trừ, chán ghét ghê tởm và ngưng nghỉ lời nói ác độc thô bạo. Cứ thế mà nói năng, ngâm nga, bình luận, phát âm bày tỏ lời nói, sinh hoạt nói năng (ngữ nghiệp) và biểu thị lời nói. Đó là cái xấu của lời nói ác độc thô bạo lỗi lầm.

– Thế nào là cái xấu của lời nói cấu uế lộn xộn?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Việc nói lời cấu uế tạp nhạp, tức là nói không đúng lúc, không đúng sự thực chân chánh. Lời nói vô bổ không có giáo pháp, không nghĩa lý, lời nói không tịch tĩnh. Nói không có thí dụ, không giải thích đầy đủ, không tương ưng, không cùng loại gần nhau, lộn xộn lung tung không có phép tắc giáo pháp thứ tự dẫn đến sự vô nghĩa trái lý. Luôn luôn nói lời cấu uế lỗi lầm lộn xộn, chẳng hề lìa bỏ”.

Trong này nói về lời nói cấu uế lầm lỗi lộn xộn, có nghĩa là không chịu lìa bỏ lời cấu uế lầm lỗi lộn xộn, không tìm cách đoạn trừ, không hề chán ghét ghê tởm, luôn sống trong cảnh nói lời cấu uế lầm lẫn lộn xộn, thành tựu một cách tuyệt hảo nghệ thuật nói lời cấu uế lầm lẫn lộn xộn… Nên gọi đó là lời nói cấu uế lầm lẫn lộn xộn.

Nói không đúng lúc (phi thời), nghĩa là lời nói trái thời chẳng phải lúc, không đúng tiết mục, phân đoạn của nó.

Lời nói không thực, là lời nói ra không thành thực, không đúng sự thực.

Lời nói không chân chánh, là lời nói ra hư vọng, luôn đổi khác.

Lời nói vô bổ không có giáo pháp, vô nghĩa lý, là lời nói ra được trình bày tuyên nói, chỉ bày mở rộng giảng giải toàn là những việc không đúng giáo pháp chân chánh. Lời nói này cũng là vô nghĩa lý, không bổ ích.., dù được trình bày mở rộng tuyên nói đầy đủ…

Lời nói không vắng lặng, là những điều nói ra không hề dùng trí tuệ để suy xét kỹ càng trước rồi căn cứ vào đó mà nói.

Lời nói không thanh tịnh, là nói nhiều nói mãi, hết ra lệnh chỉ bảo việc này đến bàn luận huyên thuyên việc khác, lộn xộn tạp nhạp vô ích.

Những điều nói ra đều không có thí dụ, không giải thích kỹ lưỡng rõ ràng, đầy đủ.

Lời nói ra không tương ưng, là nghĩa chẳng ứng hợp với văn, không tương ưng với nghĩa.

Lời nói không gần nhau, là lời nói trước sau không liên tục, ý nghĩa khác nhau hoặc trái nhau.

Lời nói lộn xộn lung tung, là lời nói bất nhất, khi thì nói thế này, lúc thì nói thế khác không nhất định. Nếu lời nói thuần nhất không thay đổi thì không gọi là lời lộn xộn lung tung.

Lời nói vô bổ không có giáo pháp, là lời nói vượt ra ngoài các pháp Tố-đát-lãm và Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma.

Lời nói dẫn đến việc vô nghĩa, là lời nói dẫn đến vô số những việc không có lợi ích, không cần thiết.

Nói lời lầm lỗi cấu uế lộn xộn, tức là nói nhiều lần, giảng giải chỉ bày toàn là những lời lẽ lộn xộn lầm lỗi cấu uế.

Không lìa bỏ lời nói tạp uế (lầm lỗi cấu uế lộn xộn): Nghĩa là khi tâm độc ác chẳng tốt lành khởi lên, thì bao nhiêu hạnh xấu ác chẳng thiện gồm cả lời nói cấu uế lầm lỗi lộn xộn, nhưng chẳng chịu xa lìa từ bỏ, chẳng tìm cách diệt trừ, không chán chê ghê tởm hay dừng lại đừng nói nữa… Cứ như thế mà nói năng ngâm nga bình luận phát ra tiếng ra lời, phô bày biểu thị, hoạt động nói năng (ngữ nghiệp). Nên gọi là cái xấu của lời cấu uế lộn xộn.

Bốn thứ lời nói tốt đẹp: Tức là không nói dối, không nói lời ly gián, không nói lời dữ dằn thô bạo và không nói lời lỗi lầm lộn xộn cấu uế.

1. Thế nào là hạnh tốt lành khi lìa bỏ lời nói dối?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Cần (có việc) phải đoạn trừ và lìa bỏ hẳn sự nói dối. Phải nói đúng thật (đế ngữ), phải nói những lời nói vui vẻ, thành thực đáng tin cậy, có bảo đảm và không gây sự hiểu lầm tranh cãi trên cuộc đời này. Như thế là không nói dối”.

Trong này nói về đoạn trừ và lìa bỏ nói dối. Có nghĩa là đoạn dứt sự nói dối, lìa bỏ hẳn, chán ghét ghê tởm an trụ trong chỗ không nói dối, không bao giờ cố ý thành tựu việc nói dối. Đó gọi là đoạn trừ lìa bỏ sự nói dối.

Nói lời đúng thực (đế ngữ), tức là lời nói đúng thực không phải là chẳng đúng thực, chân chánh thành thực và đều chân chánh thành thực. Chẳng hư vọng, dời đổi khác lạ thì gọi là lời nói đúng thực.

Lời nói vui vẻ thành thực, đáng tin cậy, có bảo đảm, không gây hiểu lầm tranh cãi ở thế gian này. Có nghĩa là do nói lời đúng thực mà hoặc là chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn hoặc các hàng trời, người, chúng sinh khác đều tin cậy, hoàn toàn sống trong cảnh thuận hòa không hề tranh cãi. Những lời như thế, tức là luôn luôn tuyên bố nói năng, diễn giảng chỉ dẫn trình bày không hề dối trá.

Lìa bỏ sự nói dối, nghĩa là đối với các thiện tâm và tâm điều hòa êm ái dịu dàng khi khởi lên thì gồm nhiếp cả sự lìa bỏ sự nói dối, không còn phải lo đến việc lìa bỏ, đoạn trừ, chán ghét, ghê tởm hay chẳng dừng nghỉ sự nói dối. Cứ như thế mà nói năng, ngâm nga bình luận, phát âm, phát biểu, trình bày và hoạt động về ngữ nghiệp…, thế nên gọi là không nói dối (lìa bỏ sự nói dối).

2. Thế nào là hạnh tốt lành không nói lời ly gián?

Đáp: Như Đức Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Có việc đoạn trừ và lìa bỏ hẳn sự nói lời ly gián, là vì không muốn phá hại ai. Nên chẳng nghe lời người này mà đến nói với người kia, hay nghe lời người kia mà đến nói với người này. Trái lại nếu ai đã trái nghịch nhau thì đến tìm cách giúp cho hai bên được hòa hợp. Còn ai đã hòa thuận hảo hợp rồi thì càng khiến cho thêm bền chắc. Khi nói những lời vui vẻ mến thích thương yêu hòa thuận nhau thì đó là lìa bỏ sự nói lời ly gián”.

Trong này nói về việc đoạn trừ, lìa bỏ nói lời ly gián…, nghĩa là phải diệt trừ, lìa bỏ, chán ghét ghê tởm, không sống trong môi trường của sự ly gián, cũng như không bao giờ tạo thành cách thức ly gián. Thế nên gọi là đoạn trừ, lìa bỏ sự nói ly gián.

Chẳng muốn phá hoại ai, nghĩa là chỉ muốn có sự hòa hợp, nên chẳng nghe lời người này rồi đến nói với người kia.

Vì không muốn phá hại người này, nghĩa là nghe người này nói những điều gì hợp với ý phá hại hoặc lời không chắc chắn hợp ý, không e dè giữ ý tứ, có ý không vui…, thì chẳng nên nói với người kia, đừng để cho người ấy nghe rồi liền nhân đó mà nghịch thù phản nhau. Đó là chẳng nghe lời người này mà đem nói với người kia. Vì không phá hại người này nên chẳng nghe lời người kia đem nói với người này.

Vì không phá hại người kia, có nghĩa là khi nghe lời người kia nói có những ý gì hợp với sự phá hại, hợp với sự không chắc, hợp với sự không dè dặt ý tứ, hợp với sự không vui…, rồi tránh không đem nói cho người này. Chớ nên để người này nghe rồi liền nhân đó mà nghịch thù phản nhau. Đó gọi là không nghe lời người kia mà đem nói với người này.

Vì để phá trừ việc khiến hai bên thù nghịch không hòa thuận cùng nhau, là qua lại hai bên đang thù nghịch nhau và tìm mọi phương cách giúp họ hiểu biết thông cảm cùng nhau để đi đến sự hòa hợp thuận thảo, thương yêu vui vẻ với nhau. Khi ai đã vui vẻ hòa thuận nhau rồi thì khiến họ càng thêm khắng khít bền chặt mãi, nghĩa là qua lại hai bên liên hệ với nhau khiến họ vui vẻ yêu mến không tranh cãi nhau. Thí như bảo: Quý hóa vô cùng, nếu quý vị đã thuận hòa vui vẻ hiểu nhau không còn tranh cãi… Vì sao? Nếu các vị luôn thấy được và khen ngợi sự đẹp đẽ sở trường của nhau thì sự nói năng thuyết giảng sẽ càng đầy đủ hoàn hảo, lòng tin tưởng của mọi người càng thêm thanh tịnh, và sự trì giới đa văn (học), hạnh bố thí (buông xả) và trí tuệ sẽ phát triển tốt, do đó không có gì để trái nhau, tranh cãi nhau thế là quá hay! Cả hai bên nghe xong thì cùng trở nên hòa hợp thuận thảo vui vẻ không còn tranh cãi nhau nữa. Thế nên nói đã hòa thuận khiến thêm bền chặt.

Mến yêu vui vẻ hòa hợp nhau, là hai bên hòa thuận vui vẻ không tranh cãi lại càng thêm thương mến khắng khít vui vẻ hơn, không hề chán, không hề rời nhau.

Nói những lời như thế, là trong mọi lúc nói năng diễn giảng chỉ bày đều không hề đụng đến lời ly gián. Lìa bỏ hẳn lời ly gián nghĩa là tâm lúc nào cũng điều hòa thuận hợp dịu dàng nhu hòa. Các hạnh thiện dịu dàng nhu hòa đều lìa bỏ lời nói ly gián, cho nên không cần phải để ý đến việc lìa bỏ, đoạn trừ, chán ghét ghê tởm và phải dừng nghỉ đừng nói lời ly gián. Cứ như thế mà nói năng ca ngâm bình luận, phát âm, lên tiếng biểu lộ, chỉ bày và hoạt động về ngữ nghiệp. Cho nên gọi là hạnh tốt lành của lời nói không ly gián.

3. Thế nào là hạnh tốt lành của sự không nói hung bạo thô ác?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Có người đoạn trừ, lìa bỏ hẳn lời nói hung bạo thô ác, là khi người ấy lên tiếng, phát ngôn thì không có lỗi lầm mà lại vui tai mát lòng với tất cả các điều cao siêu hay ho và đẹp đẽ rõ ràng sáng sủa, dễ hiểu, thích nghe, dễ nhớ, đáng quý chuộng, không vướng mắc và tất cả ai cũng yêu mến, hân hoan, mừng rỡ…, cho nên tâm không bị loạn động, rất thuận lợi cho việc tu trì…, hãy nên nói những lời lìa bỏ sự thô bạo hung ác như thế”.

Trong này khi nói: Có người đoạn trừ, lìa bỏ hẳn lời nói thô bạo hung ác, thì có nghĩa là phải lìa bỏ hẳn đoạn trừ, chán ghét ghê tởm, không sống trong môi trường và hoàn thành tuyệt diệu nghệ thuật về lời nói hung bạo dữ dằn.

Người đó khi lên tiếng thì không lỗi lầm, là những lời nói ra không khúc mắc cong queo dơ bẩn, xấu xa, cũng không ngang tàng cương ngạnh, nên gọi là không lầm lỗi.

Vui tai, tức là những lời nói ra khiến người nghe được nhiều lợi ích an lạc.

Mát lòng, tức là những lời nói ra khiến tâm trí được thoát khỏi tất cả mọi trói buộc che lấp của tùy phiền não và trụ vào an ổn, yên tịnh.

Cao siêu, tức là lời nói như thành quách cung điện. Người ở trong cung thành (chốn kinh đô) nói ra thì có giá trị cao quý hơn, đặc biệt hơn lời nói của những người trong các thành ấp khác. Lìa bỏ lời nói hung bạo dữ dằn cũng thế. Nghĩa là nó cao quý giá trị đặc biệt hơn các lời nói khác.

Lời nói hay đẹp, tức là lời nói không sơ sài, thưa thớt hoặc quá chằng chịt rắc rối, không quá sâu kín cũng không lắm lộ liễu.

Lời nói rõ ràng sáng sủa, là lời nói không quá hấp tấp vội vàng, cũng không ậm à dai nhách.

Lời nói dễ hiểu, tức là lời nói giản dị dễ hiểu dễ nhớ.

Lời nói thích nghe, tức là lời nói ôn tồn dịu dàng, lưu loát hấp dẫn lôi cuốn điều hòa hợp lý.

Lời nói đáng chuộng, tức là lời nói đáng quý chuộng cúng dường.

Lời nói không có ý định, tức là lời nói ra không mang cầu danh lợi.

Tất cả ai cũng mến thích mừng vui, là khi nói ra thì khiến đông đảo người nghe đều mừng vui mến thích.

Lời nói khiến tâm trí không xáo động, là lời nói ra khiến tâm luôn được yên tịnh, không xáo động lăng xăng cũng không buồn lo phiền giận (trược).

Lời nói thuận lời cho việc tu trì, là khi lời nói ra thì người nghe xong tâm trí luôn được yên tịnh không còn bị xáo động lăng xăng, cũng không buồn lo phiền giận.

Cứ như thế mà nói năng, tức là trong mọi lúc nói năng, diễn giảng hướng dẫn chỉ bày đều không bao giờ dùng lời dữ dằn thô bạo.

Lìa bỏ lời dữ dằn thô bạo, nghĩa là khi khởi các tâm thiện, tâm ôn tồn hiền dịu thì bao gồm cả cách nói năng không có lời dữ dằn thô bạo, lại khéo léo dịu dàng. Vì đã lìa bỏ lời thô bạo dữ dằn nên chẳng cần phải để ý đến việc phải lìa bỏ đoạn trừ chán ghét ghê tởm và chấm dứt…, lời nói thô bạo dữ dằn. Cứ như thế mà nói năng, ngâm nga bình luận phát âm lên tiếng, biểu lộ trình bày và các hoạt động về ngữ nghiệp… Thế nên gọi đó là hạnh tốt lành của không nói lời dữ dằn thô bạo.

4. Thế nào là hạnh tốt lành không nói lời lỗi lầm cấu uế lộn xộn?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết! Có người lìa bỏ, đoạn trừ lời nói lỗi lầm, cấu uế lộn xộn. Nghĩa là khi người đó nói là nói thành thật chân chánh, lời nói có giáo pháp có nghĩa lý, có vắng lặng có yên đẹp, có thí dụ có giải thích, có ứng hợp tương ưng và gần gũi giống nhau, không lẫn lộn, xáo động mà có phép tắc dẫn đến nghĩa lý tốt lành. Đó là lìa bỏ lời nói lỗi lầm, cấu uế lộn xộn”.

Trong này nói về có người lìa bỏ, đoạn trừ lời nói lỗi lầm, cấu uế lộn xộn, có nghĩa là phải lìa bỏ đoạn trừ, chán ghét ghê tởm và không có ý thành tựu tuyệt diệu nghệ thuật nói lời lỗi lầm, cấu uế lộn xộn.

Người ấy nói đúng lúc, nghĩa là nói đúng lúc, không trái thời mà đúng thời tiết có phần đoạn nhiều ít nhanh chậm…

Nói lời thành thật, tức là lời nói ra đúng sự thật lìa bỏ lời không thật. Lời nói chân chánh, thành thật tức là không hư vọng trống rỗng, không biến dời khác lạ.

Lời nói có giáo pháp (đúng pháp), là lời nói ra khi trình bày, diễn giảng chỉ bảo mở rộng…, toàn là đúng theo chánh pháp.

Lời nói có nghĩa lý, tức là lời nói ra khi diễn giảng trình bày chỉ bảo, mở rộng…, thuần là những điều có nghĩa lý bổ ích.

Lời vắng lặng (tịch) là lời nói ra nhắc nhủ những người trí trước hết phải suy nghĩ cặn kẽ rồi mới nói chớ không hờ hững nói càn.

Lời nói yên đẹp, là lời nói vắng tắt hàm xúc, không nói huyên thuyên, chỉ bảo bày vẻ lộn xộn nhiều chuyện.

Lời nói có thí dụ có giải thích, tức là có so sánh thí dụ, và có giải thích những chỗ khó hiểu hay dễ làm.

Lời nói có tương ưng, là lời nói ra có nghĩa hợp với văn, tương ưng với nghĩa.

Lời nói gần nhau, tức là lời nói tiếp nối liên tục, nhất quán có ý nghĩa không khác nhau.

Lời nói không lẫn lộn, nghĩa là lời nói ra toàn thuần nhất, cố định không lẫn lộn. Nếu những lời nói ra bất nhất, khi thế này khi thế khác không cố định thuần nhất thì gọi là lời nói rối loạn.

Lời nói có giáo pháp (đúng pháp) nghĩa là lời nói không vượt ra ngoài các pháp Tố-đát-lãm, Tỳ-nại-da và A-tỳ-đạt-ma…

Lời nói có nghĩa lý, tức là lời nói dẫn đến những việc có ý nghĩa lợi ích cần thiết.

Cứ như thế mà nói, nghĩa là trong mọi lúc nói năng diễn giảng, hướng dẫn chỉ bày đều không bao giờ dùng lời lầm lỗi cấu uế lộn xộn.

Khi đã xa lìa loại lời nói đó rồi thì tâm thiện, tâm ôn tồn dịu dàng khởi lên, tất sẽ khéo léo thực hành sự dịu dàng ôn tồn êm ái và lìa hẳn lời nói lầm lỗi cấu uế lộn xộn. Cho nên không cần phải lìa bỏ, không phải đoạn trừ, không phải chán ghét ghê tởm, không phải chấm dứt…, không nói lời lầm lỗi cấu uế lộn xộn. Cứ như thế mà nói năng ngâm nga bình luận phát âm lên tiếng biểu lộ, chỉ thị và hoạt động về ngữ nghiệp… Thế nên gọi là hạnh tốt lành không nói lời lầm lỗi cấu uế lộn xộn.

Bốn lời không phải Thánh nói:

  1. Chẳng thấy mà nói thấy
  2. Chẳng nghe mà nói nghe
  3. Chẳng hiểu mà nói hiểu
  4. Chẳng biết mà nói biết.

– Thế nào là không phải lời Thánh nói: Chẳng thấy mà nói thấy?

Đáp: Khi nhãn thức có thâu nhận có hiểu biết việc gì đó thì gọi là “Có thấy”. Nhưng có khi đang thật có nhãn thức đó mà lại không thâu nhận được gì, chưa hiểu biết được gì, rồi lại che giấu ý nghĩ đó cùng những cái nhận đó, cái thấy đó, sự thực đó…, mà nói: “Tôi đã thấy”. Đó gọi là không thấy mà nói thấy, thì chẳng phải là lời Thánh nói. Nhưng nếu khi đã có thật thấy rồi mà khởi ý nghĩ là chẳng có thấy và che giấu ý tưởng đó, cái nhận đó, cái thấy đó, sự thật đó mà nói “Tôi đã thấy”. Thì ở trường hợp này tuy gọi là chẳng phải lời Thánh nói, nhưng không gọi là chẳng thấy mà nói thấy, vì thật sự người đó đã có thấy rồi.

– Thế nào là không phải lời Thánh nói: Không nghe mà nói nghe?

Đáp: Khi nhĩ thức có thâu nhận có hiểu biết việc gì đó thì gọi là có nghe. Nhưng có khi đang thật có nhĩ thức đó mà lại không thâu nhận không hiểu biết được gì, rồi lại che giấu cái ý nghĩ đó và những cái nhận thức đó, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói tôi đã nghe. Đó gọi là chẳng phải lời Thánh nói. Không nghe mà nói là nghe. Nhưng nếu khi đã có thật nghe rồi mà khởi ý nghĩ là chẳng có nghe và che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức đó cái thấy biết về sự việc đó. Như thế tuy gọi là không phải Thánh nói, nhưng lại không gọi là không nghe mà nói là nghe, vì thật sự người đó đã có nghe rồi.

– Thế nào là không phải lời Thánh nói: Chẳng hiểu mà nói hiểu?

Đáp: Khi ba thức có thâu nhận có hiểu biết thì gọi là có biết. Nhưng có khi đang thật có ba thức mà lại không thâu nhận không hiểu biết được gì, rồi lại che giấu cái ý nghĩ đó và cái nhận thức đó, cái thấy biết đó, sự thật đó. Như thế gọi là chẳng phải Thánh nói, không hiểu mà nói là hiểu, rồi che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức đó, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói là ta đã biết. Như thế tuy gọi là không phải là Thánh nói, nhưng cũng chẳng gọi là chẳng biết mà nói biết, vì người đó thật ra đã biết rồi.

– Thế nào là không phải lời Thánh nói: Không biết mà nói là biết?

Đáp: Khi ý thức có thâu nhận, có hiểu biết thì nói là có biết. Nhưng có khi đang thật có ý thức đó mà lại không thâu nhận không hiểu biết chi cả, rồi lại che giấu cái ý nghĩ đó, cái nhận thức đó, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói: “Tôi đã biết”. Như thế chẳng phải lời Thánh nói: Không biết mà nói là biết. Còn khi thật có biết rồi, nhưng lại khởi cái tưởng chẳng biết, rồi che giấu cái ý tưởng đó, cái nhận thức đó, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói tôi đã biết. Như thế tuy gọi không phải là Thánh nói, nhưng cũng chẳng gọi là không biết mà nói là biết, vì thật ra người ấy đã biết rồi.

Bốn lời Thánh nói: Không thấy nói là không thấy, không nghe nói là không nghe, không hiểu nói là không hiểu, không biết nói là không biết.

1. Thế nào là không thấy nói là không thấy, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi nhãn thức có thâu nhận có hiểu biết thì gọi là “Có thấy”. Nhưng có khi có nhãn thức đó mà lại chẳng thâu nhận hiểu biết chi. Người này chẳng giấu giếm ý tưởng đó, cái nhận thức đó, cái thấy biết đó, sự thật đó… mà nói là “Tôi không thấy”, thì đó là không thấy nói là không thấy, là lời Thánh nói. Nhưng khi đã thật có thấy rồi, và lại khởi cái tưởng chẳng thấy, thì người này cũng không giấu giếm ý nghĩ đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó và nói tôi chẳng thấy. Như thế tuy gọi là lời Thánh nói, mà cũng không gọi là không thấy mà nói không thấy, vì người đó đã thật có thấy rồi.

2. Thế nào là chẳng nghe nói là chẳng nghe, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi nhĩ thức có thâu nhận và hiểu biết thì nói là có nghe. Nhưng có khi thật có nhĩ thức nhưng chẳng thâu nhận hiểu biết chi. Người ấy chẳng che giấu ý tưởng này, cái nhận thức này, cái thấy này, sự thật này mà nói “Tôi chẳng nghe”, như thế là không nghe thì nói không nghe, là lời Thánh nói. Nhưng có khi đã thật có nghe nhưng lại khởi ý tưởng (nghĩ) mình chẳng nghe thấy chi. Người này cũng chẳng hề che giấy ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói là tôi chẳng thấy nghe chi. Như thế tuy gọi là lời Thánh nói, nhưng không gọi là chẳng nghe mà nói chẳng nghe, vì thật ra anh ta đã có nghe thấy rồi.

3. Thế nào là chẳng hiểu nói là chẳng hiểu, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi ba thức thâu nhận hiểu biết thì gọi là có hiểu. Nhưng có khi đầy đủ cả ba thức mà chẳng thâu nhận hiểu biết chi. Người này cũng chẳng che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói “Tôi chẳng hiểu gì cả”. Như thế gọi là chẳng hiểu nói là chẳng hiểu, là lời Thánh nói. Nhưng có khi lại thật có biết rồi lại nghĩ không biết, nhưng người này không hề giấu giếm ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói tôi chẳng hiểu biết chi cả. Như thế tuy nói là lời Thánh nói, nhưng không gọi là chẳng hiểu mà nói là chẳng hiểu, vì thật ra anh ấy đã thật có hiểu rồi.

4. Thế nào là chẳng biết nói là chẳng biết, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi ý thức có thâu nhận và hiểu biết thì nói là “có biết”. Nhưng có khi dù có ý thức nhưng lại không có thâu nhận hiểu biết chi. Người này cũng chẳng che giấu, ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thực đó mà nói: “Tôi không hiểu biết chi cả”. Như thế thì nói chẳng biết nói là chẳng biết, là lời Thánh nói. Nhưng có khi lại thật có biết rồi, nhưng lại nghĩ không biết. Và người này cũng chẳng che giấu cái ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thực đó, và nói: “Tôi chẳng thấy biết chi cả”. Như thế thì tuy nói là lời Thánh nói, nhưng không gọi là chẳng biết nói chẳng biết, vì người này thật ra đã có biết rồi.

Lại có bốn thứ chẳng phải lời Thánh nói: Đó là thấy nói không thấy. Nghe nói không nghe. Hiểu nói không hiểu. Biết nói không biết.

1. Thế nào là chẳng phải lời Thánh nói: Thấy nói không thấy?

Đáp: Khi nhãn thức có thâu nhận hiểu biết thì nói là “Có thấy”. Nhưng có khi có nhãn thức thật sự thâu nhận hiểu biết nhưng lại che giấu ý tưởng này, cái nhẫn này, cái thấy biết này, sư thật này mà nói: “Tôi chẳng thấy”. Như thế gọi là chẳng phải lời Thánh nói, thấy nói chẳng thấy. Nhưng lại có khi thật chẳng thấy mà lại nghĩ là có thấy. Người này không che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó và nói là “Tôi chẳng thấy chi cả”. Như thế, tuy nói chẳng phải lời Thánh nói, nhưng chẳng gọi là thấy mà nói không thấy, vì thật ra anh ta chẳng thấy chi cả.

2. Thế nào là nghe nói không nghe, chẳng phải lời Thánh nói?

Đáp: Khi nhĩ thức có thâu nhận và hiểu biết thì gọi là có nghe. Nhưng có khi thật có nhĩ thức có thâu nhận hiểu biết, mà lại che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó, và nói là “Tôi chẳng nghe thấy chi cả”. Như thế thì gọi là nghe mà nói là không nghe, mà lại nghĩ là không nghe. Người này không che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thực đó và nói là “Tôi chẳng nghe thấy chi cả”. Như thế, tuy gọi chẳng phải lời Thánh nói, nhưng cũng chẳng nói là nghe mà nói chẳng nghe, vì thật sự người đó chẳng có nghe.

3. Thế nào là hiểu mà nói không hiểu, chẳng phải lời Thánh nói?

Đáp: Khi ba thức có thâu nhận và hiểu biết thì gọi là “Có hiểu”. Nhưng có khi thật có ba thức và lại đã có thâu nhận và hiểu biết, nhưng lại che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó và nói “Tôi chẳng hiểu chi cả”. Như thế thì gọi là hiểu mà nói không hiểu, không phải là lời Thánh nói. Nhưng có khi thật chẳng hiểu chi mà lại tưởng là đã hiểu. Người này che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó và nói: “Tôi chẳng hiểu chi cả”. Như thế, dù gọi là không phải lời Thánh nói, nhưng không thể gọi đó là hiểu mà nói là chẳng hiểu, vì thật ra anh ta chẳng hiểu chi cả.

4.Thế nào là biết mà nói chẳng biết, không phải lời Thánh nói?

Đáp: Khi ý thức có thâu nhận và hiểu biết thì nói là: “Có biết”. Nhưng có khi là thật có ý thức có thâu nhận và hiểu biết mà lại che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó và nói: “Tôi chẳng biết chi cả”. Như thế là biết mà nói chẳng biết là không phải lời Thánh nói. Nhưng có khi thật chẳng biết chi mà lại có ý tưởng đã biết. Người này lại che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó và nói: “Tôi chẳng biết chi cả”. Như thế tuy nói là chẳng phải lời Thánh nói, nhưng cũng không gọi là biết mà nói chẳng biết, vì người này thật sự chẳng biết chi cả.

Lại có bốn lời Thánh nói: Đó là thấy thì nói thấy, nghe thì nói nghe, hiểu thì nói hiểu và biết thì nói biết.

1. Thế nào là thấy thì nói thấy, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi nhãn thức có thâu nhận, có hiểu biết thì gọi là “Có thấy”. Nhưng có khi nhãn thức có thâu nhận và hiểu biết. Người này chẳng che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó…, mà nói: “Tôi đã có thấy”. Như thế là thấy thì nói là thấy, là lời Thánh nói. Nhưng có khi thật chẳng thấy mà lại có ý tưởng là đã thấy. Người này không che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó và nói là “Tôi đã thấy rồi”. Như thế, tuy nói là lời Thánh nói, nhưng không gọi là thấy thì nói thấy, vì anh ta thật ra chẳng thấy chi cả.

2. Thế nào là nghe thì nói nghe, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi nhĩ thức có thâu nhận và hiểu biết thì nói là “Có nghe”. Nhưng có khi nhĩ thức thật có thâu nhận và hiểu biết. Người này cũng chẳng che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó, và nói là “Tôi đã nghe rồi”. Như thế gọi là nghe thì nói nghe, là lời Thánh nói. Nhưng có khi thật chẳng có nghe chi mà tưởng là đã nghe. Người này cũng không che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó, và nói là “Tôi có nghe rồi”. Như thế tuy nói là lời Thánh nói, nhưng không thể gọi là nghe thì nói nghe. Vì người này thật ra chẳng nghe thấy chi cả.

3. Thế nào là hiểu thì nói hiểu, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi ba thức có thâu nhận và hiểu biết thì gọi là có hiểu. Nhưng có khi thật có ba thức thật có thâu nhận có hiểu biết và người ấy chẳng giấu giếm ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó mà nói: “Tôi đã hiểu”. Như thế thì gọi là hiểu thì nói hiểu, là lời Thánh nói. Nhưng có khi thật chẳng hiểu chi, mà tưởng là đã hiểu. Song người này cũng chẳng che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó, mà nói: “Tôi đã hiểu rồi”. Như thế thì tuy gọi là lời Thánh nói, nhưng không thể gọi là hiểu thì nói là hiểu, vì thật ra người này chẳng hiểu biết chi cả.

4. Thế nào là biết thì nói biết, là lời Thánh nói?

Đáp: Khi ý thức có thâu nhận và có hiểu biết thì gọi là có biết. Nhưng có khi ý thức thật có thâu nhận có hiểu biết, mà người này cũng chẳng che giấu ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó, mà nói là: “Tôi đã hiểu”. Như thế thì gọi là biết thì nói biết, là lời Thánh nói. Nhưng có khi thật chẳng biết chi, mà tưởng là biết. Song người này chẳng giấu giếm ý tưởng đó, cái nhận thức, cái thấy biết đó, sự thật đó, mà nói: “Tôi đã biết”. Như thế thì tuy gọi là lời Thánh nói, song chẳng thể bảo là biết thì nói biết, vì anh này thật ra chẳng hiểu biết chi cả.