LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử.
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 4: BA PHÁP

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-tử lại bảo đại chúng: Tất cả quý thầy nên biết: Đức Phật tự mình đã thấu suốt về ba pháp, rồi vì các hàng đệ tử đem ra giảng dạy chỉ bày. Chúng ta nay nên hòa hợp mà kết tập lại kỹ lưỡng, để khi Phật diệt độ thì không có sự tranh cãi sau nầy. Và nên khiến mọi người cần hòa thuận tuân giữ pháp luật và phạm hạnh thanh tịnh để tạo lợi lạc lâu dài cho vô số loài hữu tình. Thương xót hàng trời, người ở thế gian, khiến họ thọ hưởng các phước báo an lạc thù thắng.

Ba pháp đó là gì? Có năm bài kệ tụng.

Bài kệ (Ốt-đà-nam) thứ nhất nói:

Ba pháp đầu có mười
Là: căn, tầm, hành, giới
Ba pháp trước có hai
Một pháp sau có bốn.

Có ba căn bất thiện và ba căn thiện, ba tầm bất thiện và ba tầm thiện, ba hạnh ác và ba hạnh diệu. Có nhiều thứ ba giới:

Ba giới: Dục, giận và hại.

Ba giới: Xuất ly, không giận, không hại.

Ba giới: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới.

Ba giới: Sắc, vô sắc và diệt.

Ba căn bất thiện: Đó là tham lam, sân giận, si mê.

Hỏi: Căn bất thiện tham là sao? Tham là gì?

Đáp: Nghĩa là đối với các dục cảnh mà tham lam, ham muốn tất cả, cầm giữ cất giấu, phòng hộ giữ gìn, chấp chặt, mến yêu, ham thích, mê muội, đam mê ham thích, đam mê ham thích khắp cả, rồi trói buộc nội tâm, ước muốn, mong cầu, ham đắm, chiêu tập các khổ, là loài tham lam, thứ sinh ra tham lam…, gọi chung là tham.

Thế nào là căn bất thiện? Tức là sự tham lam nầy có tánh bất thiện vì nó hay gây ra vô số các gốc chẳng thiện khác, nên nó là gốc bệnh, gốc ung nhọt, gốc tên độc, gốc khổ sầu, gốc nhơ nhớp, gốc các tạp nhiễm, gốc chẳng trong sạch, gốc chẳng mát trong. Thế nên gọi là căn bất thiện tham.

Hỏi: Căn bất thiện sân là sao? Sân là gì?

Đáp: Nghĩa là đối với các loài hữu tình muốn gây ra sự tổn hại. Lòng luôn ôm ấp sự tàn hại, muốn gây sự sầu não đau khổ cho mọi người. Đã từng sân giận, sẽ sân giận, hiện đang sân giận, ưa gây tội lỗi, luôn luôn thích gây tội ác, lòng luôn hờn giận cùng cực. Đối với các loài hữu tình luôn trái nhau và đột nhiên lại gây bao khổ nạn tội ác. Đã từng gây tội ác, sẽ gây tội ác và hiện đang gây tội ác. Gọi chúng là sân giận.

Thế nào là căn bất thiện? Nghĩa là sự sân giận nầy có tánh chẳng thiện vì nó gây ra vô số các gốc tội ác chẳng thiện khác. Thế nên nó là gốc bệnh, gốc ung nhọt, gốc tên độc, gốc khổ sầu, gốc nhơ nhớp, gốc các tạp nhiễm, gốc chẳng trong sạch, gốc chẳng tươi mát trong trắng.

Thế nên gọi là căn bất thiện sân.

Hỏi: Căn bất thiện si là sao? Si là gì?

Đáp: Tức là phía trước chẳng biết, phía sau chẳng biết, cả trước sau đều chẳng biết gì. Chẳng biết trong, chẳng biết ngoài, cả trong ngoài đều chẳng biết. Chẳng biết nghiệp, chẳng biết dị thục, chẳng biết cả nghiệp của dị thục. Đối với nghiệp làm thiện cũng không biết, nghiệp tạo ác cũng chẳng hay, cả nghiệp tạo thiện ác cũng chẳng biết gì. Không biết nhân, không biết pháp do nhân sinh ra, không biết Phật, không biết pháp, không biết Tăng. Đối với Khổ không biết, Tập không biết, Diệt không biết, Đạo cũng không biết. Không biết pháp nào có tội, pháp nào không tội, không biết pháp nào thiện, pháp nào bất thiện. Không biết pháp nào đáng tu, pháp nào chẳng đáng tu. Chẳng biết pháp nào thấp kém, pháp nào là cao quý nhiệm mầu. Đen cũng chẳng biết mà Trắng cũng mịt mù. Chẳng hiểu pháp nào là đối địch, pháp nào là duyên sinh. Đối với sáu chỗ xúc chạm cũng không như thật mà biết. Cứ như thế mà hoàn toàn chẳng thấy, chẳng biết, chẳng nhìn xem. Tất cả đều đen tối ngu si, vô minh, mờ mịt. Luôn luôn bị úp chụp buộc ràng trong một màn lưới đen tối, ngu muội ngờ nghệch, vẩn đục đầy cặn cáu. Từ đó phát sinh ra đui mù, vô minh và đần độn vô trí, diệt mất hết trí tuệ sáng suốt, chướng ngại các pháp thiện, khiến không chứng được Niếtbàn. Nó là lậu vô minh, là dòng sông cuồng bạo vô minh, là cái ách vô minh nặng nề, gốc độc vô minh, cành độc vô minh, lá độc vô minh, hoa độc vô minh, quả độc vô minh. Si hết thảy, si cùng cực vẫn là si tàn ác, từ si sinh ra si, từ tàn ác sinh ra tàn ác… Đều gọi chung là si.

Thế nào là căn bất thiện? Vì cái ngu si đó là tánh chẳng thiện, nó gây ra bao nhiêu gốc chẳng thiện khác. Thế nên nó là gốc bệnh, gốc ung nhọt, gốc tên độc, gốc khổ sầu, gốc dơ nhớp, gốc các tạp nhiễm, gốc chẳng trong sạch, gốc chẳng mát trong. Thế nên gọi là căn bất thiện si.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Các ác tham, sân, si
Làm não hại tâm mình
Như ruột cây có sâu
Trái và vỏ đều hư.

Ba căn thiện: Đó là căn thiện không tham, căn thiện không sân giận, căn thiện không si mê.

Hỏi: Căn thiện không tham, thì không tham là sao?

Đáp: Tức không ham cảnh dục, chẳng ngang hàng với kẻ tham, chẳng cất giấu, chẳng canh chừng giữ gìn, chẳng chấp chặt, chẳng mến, chẳng ham, chẳng mê muội, chẳng đam mê ham thích, chẳng đam mê ham thích khắp cả, chẳng trói cột nội tâm, chẳng ước muốn mong cầu, chẳng ham đắm. Chẳng phải khổ tập, chẳng phải là loại tham lam, chẳng phải là thứ sinh ra tham lam… Gọi chung là không tham.

Thế nào là căn thiện? Vì sự không tham nầy là tánh thiện, nó có thể chế tạo ra vô lượng gốc pháp thiện. Thế nên nó không phải là gốc bệnh gốc ung nhọt, không phải là gốc tên độc, gốc nhơ nhớp, không phải là gốc các tạp nhiễm. Nó là gốc trong sạch, là gốc mát mẻ trắng trong. Thế nên gọi là căn thiện không tham.

Hỏi: Còn căn thiện không sân giận là sao? Không sân giận là sao?

Đáp: Không gây tổn hại chúng sinh, không ôm lòng độc hại, không gây rắc rối khổ não cho họ. Không phải đã, sẽ hay đang giận. Không ưa gieo tai họa hay tai họa trầm trọng cho ai. Ý không giận dữ, không làm trái ngược tàn bạo với loài hữu tình. Không muốn gây tai họa cho họ dù đã, đang hay sẽ. Hết thảy việc đó gọi chung là không sân hận.

Thế nào là căn thiện? Không có pháp giận dữ là tánh thiện. Không giận dữ có khả năng làm gốc cho vô lượng pháp thiện. Nên không sân giận sẽ không làm ra gốc bệnh, không làm gốc ung nhọt, gốc tên độc, không phải là gốc nhơ nhớp hay gốc của các tạp nhiễm, mà là gốc trong sạch, gốc tươi mát trong trắng. Thế nên gọi là căn thiện không sân giận.

Hỏi: Căn thiện không si mê là sao? Không si mê là gì?

Đáp: Tức là có trí biết phía trước, có trí biết phía sau, có trí biết cả trước sau, có trí biết trong, trí biết ngoài, trí biết cả trong ngoài. Có trí biết nghiệp, trí biết dị thục, trí biết cả nghiệp của dị thục. Có trí biết nghiệp làm thiện, trí biết nghiệp làm ác, trí biết nghiệp làm thiện ác. Có trí biết nhân biết, nhân sinh pháp, có trí biết Phật, biết Pháp, biết Tăng, có trí biết Khổ, biết Tập, biết Diệt, biết Đạo, có trí biết pháp thiện và pháp bất thiện, trí biết pháp nào có tội pháp nào không tội. Trí biết pháp nào nên tu pháp nào chẳng nên tu, trí biết pháp nào thấp kém, pháp nào cao quý, trí biết pháp nào đen, pháp nào trắng. Trí biết pháp nào có đối địch, pháp nào là duyên sinh. Trí biết sáu chỗ xúc chạm như thật. Trí biết như thế sẽ thấy sáng suốt, hiểu rõ ràng với cái nhìn giải tuệ rực sáng. Nên gọi chung là không si mê.

Thế nào là căn thiện? Không có pháp si mê là tánh thiện, không si mê có khả năng làm gốc cho vô lượng pháp thiện, thế nên pháp đó không phải là gốc bệnh, không làm gốc ung nhọt hay gốc tên độc, không phải là gốc nhơ nhớp hay là gốc các tạp nhiễm, mà nó là gốc trong sạch, gốc tươi mát trắng trong. Thế nên gọi là căn thiện không si mê.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu lìa tham sân si
Thì gọi là bậc trí
Cũng gọi là Thượng sĩ
Tự tâm không não hại
Thế nên phải xa lìa
Tham sân là vô minh
Siêng tu, khởi tuệ sáng
Được mau hết các khổ.

Ba tầm bất thiện: Tức là tầm tham dục, tầm giận hờn và tầm tổn hại.

Hỏi: Tầm tham dục là gì?

Đáp: Tức là tham dục tương ưng với tâm tìm kiếm mong cầu, tìm cầu gần, tìm cầu khắp, tâm sáng tỏ, rất sáng tỏ, sáng tỏ trước mặt rất rõ ràng. Biết suy lường, vạch kế hoạch làm việc biết suy xét phân biệt…, gọi chung là tầm tham dục.

Hỏi: Tầm giận dữ là gì?

Đáp: Tức là sân giận tương ưng với các tìm kiếm mong cầu, tìm cầu khắp, tìm cầu gần. Tâm sáng tỏ, rất sáng tỏ, rõ ràng sáng tỏ trước mặt. Biết suy lường, vạch kế hoạch làm việc, biết suy xét phân biệt gọi chung là tầm giận dữ.

Hỏi: Tầm tổn hại là gì?

Đáp: Tức là sự tổn hại tương ưng với các tâm tìm kiếm tìm cầu. Tìm cầu khắp, tìm cầu gần. Tâm sáng tỏ rất sáng tỏ, sáng tỏ trước mặt. Biết suy lường vạch kế hoạch làm việc, biết suy xét phân biệt. Gọi chung là tầm tổn hại. Đức Thế Tôn nói kệ:

Tầm ác phục chúng sinh
Khiến việc nhơ thấy sạch
Càng thêm lớn tham ái
Cột trói mình thật chặt.

Ba tầm thiện: Đó là tầm xuất ly, tầm không giận dữ và tầm không hại.

Hỏi: Tầm xuất ly là gì?

Đáp: Tức là suy nghĩ tìm xét về các lỗi lầm tai họa do tầm tham dục gây ra. Do vì tầm tham dục là thứ bất thiện, chỉ có đám hạ tiện mới làm theo, còn hết thảy Như Lai, các hàng đệ tử, những bậc hiền quý và các thiện sĩ đều cùng chê trách chán sợ nó, vì nó hại mình, hại người khác và hại tất cả. Nó làm tắt trí tuệ, cản trở đạo phẩm và cả Niết-bàn. Ai có tham dục thì không sinh trí tuệ sáng suốt, không dẫn đến Bồ-đề và không chứng được Niết-bàn. Như thế khi suy xét về các lỗi lầm tai họa của tầm tham dục thì các tâm tìm cầu, tìm cầu khắp, tìm cầu gần, tâm sáng tỏ rất sáng tỏ, rõ ràng trước mặt, rồi suy lường, vạch kế hoạch làm việc và suy xét phân biệt…, nên gọi tầm xuất ly.

Lại còn vì muốn đoạn dứt tầm tham dục nên suy xét các công đức của tầm xuất ly. Vì tầm xuất ly là pháp thiện hơn hết, nên chỉ có các bậc cao quý mới tin hiểu nhớ chắc. Tất cả Như Lai, các hàng đệ tử, các bậc Hiền quý và Thiện sĩ đều cùng ngợi khen, do nó chẳng bao giờ hại mình, hại người hay hại tất cả. Nó cũng không làm mất trí tuệ và không cản trở các đạo phẩm hay Niết-bàn. Ai tuân hành pháp nầy, sẽ phát sinh trí tuệ sáng suốt, dẫn đến quả Bồ-đề và có thể chứng được Niết-bàn. Khi suy xét các công đức của tầm xuất ly, thì các tâm sẽ tìm cầu cho đến phân biệt các việc…, nên gọi là tầm xuất ly.

Lại nữa, suy nghĩ mà thấy tầm tham dục như là bệnh ung nhọt, bị tên độc, gây khổ não là vô thường, khổ, không, vô ngã…, nó chuyển động gây nên bao nhiêu lao khổ nhọc nhằn, mệt mỏi suy yếu rã rời…, vì nó là pháp hư hư hoại. Nó vụt thoáng qua nhanh chóng chẳng hề dừng nghỉ, nó luôn suy tàn rã mục chẳng phải còn hoài. Chẳng thể tin cậy được, vì nó là pháp biến đổi hư hoại. Khi suy nghĩ về tầm tham dục như thế thì các tâm luôn kiếm tìm và đến cả việc phân biệt gọi là tầm xuất ly.

Lại nữa, khi vì muốn đoạn trừ tầm tham dục nên suy nghĩ diệt nó chính là sự tịch tĩnh chân thật. Như thế khi suy nghĩ về đạo diệt kia thì các tâm tìm cầm cho đến phân biệt rõ gọi là tầm xuất ly.

Lại còn suy nghĩ về định tâm xả và đạo tâm xả tương ưng với định là định vô tưởng, định diệt tận và trạch diệt. Khi suy nghĩ như thế thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt rõ ràng đó gọi là tầm xuất ly.

Lại nữa, khi suy nghĩ về xuất ly, và xuất ly tương ưng với: Thọ, tưởng, hành, thức, và khi người ta khởi thân và ngữ nghiệp mà tâm không tương ưng với hành…, thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt rõ gọi là tầm xuất ly.

Hỏi: Còn tầm không giận dữ là gì?

Đáp: Tức là suy nghĩ về tai họa của tầm giận dữ thì thấy giận dữ là pháp chẳng thiện. Chỉ có kẻ hạ tiện mới tin tưởng làm theo. Còn tất cả Như Lai, các hàng đệ tử, các bậc Hiền quý, và Thiện sĩ đều cùng chê trách, chán sợ, vì nó sẽ làm hại mình, hại người khác và hại tất cả. Nó làm mất trí tuệ và làm cản trở các đạo phẩm và Niết-bàn. Những ai ưa giận dữ thì không phát sinh trí tuệ, chẳng dẫn đến Bồ-đề và không chứng được Niết-bàn. Khi suy xét các tai họa của tầm giận dữ gây ra thì các tâm tìm cầu khắp, tìm cầu gần, tâm sáng tỏ, rất sáng tỏ, sáng tỏ trước mặt, rồi suy lường vạch kế hoạch làm việc, suy xét phân biệt… Nên gọi là tầm không giận dữ.

Lại vì muốn đoạn dứt tầm giận dữ, nên suy nghĩ đến các công đức của tầm không giận dữ. Vì tầm không giận dữ là pháp thiện cao quý, nên chỉ các bậc tôn quý tin tưởng thọ trì. Vì thế mà tất cả Như Lai và các hàng đệ tử cùng các bậc Hiền quý, Thiện sĩ đều cùng ngợi khen, do nó chẳng bao giờ làm hại mình, hại người khác hay hại tất cả. Nó cũng không làm mất trí tuệ, chẳng làm chướng ngại các đạo phẩm và quả vị Niết-bàn. Những ai tuân hành pháp nầy thì sẽ phát sinh trí tuệ, dẫn đến Bồ-đề và chứng được Niết-bàn. Khi suy nghĩ về công đức của tầm không giận dữ như thế thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt rõ ràng gọi là tầm không sân dữ.

Lại nữa, khi suy nghĩ thấy tầm giận dữ như bệnh ung nhọt, tên độc, gây khổ não là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nó gây ra biết bao lao khổ nhọc mệt, suy yếu rã rời, vì nó là pháp hư hoại. Nó vụt thoáng qua nhanh chóng chẳng hề dừng nghỉ. Nó luôn suy yếu rã mục chẳng phải còn mãi. Nó chẳng thể tin cậy được, vì nó là pháp biến dịch hư hoại. Khi suy nghĩ các tầm giận dữ như thế, thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt gọi là tầm không giận dữ.

Lại nữa, còn vì muốn đoạn dứt tầm giận dữ nên suy nghĩ diệt nó chính là sự tịch diệt chân thật. Suy nghĩ đạo, ấy là xuất ly chân thật. Khi suy nghĩ Đạo, Diệt, thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt gọi là tầm không giận dữ.

Lại nữa, khi tư duy đến định Từ tâm tận đạo từ tương ưng với định, định vô tưởng, định diệt tận, trạch diệt. Khi các tâm tìm cầu suy nghĩ như thế cho đến phân biệt gọi đó là tầm không giận dữ.

Lại suy nghĩ không giận dữ và không giận dữ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức và người ta khi khởi nghiệp thân và ngữ mà tâm không tương ưng với hành, thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt gọi là tầm không giận dữ.

Hỏi: Tầm không hại là gì?

Đáp: Tức là suy nghĩ tai hại của tầm tổn hại thì thấy nó là pháp chẳng thiện. Chỉ có hạng người thấp kém hạ tiện mới tin tưởng làm theo. Còn tất cả Như Lai, hàng đệ tử, các bậc Hiền quý, Thiện sĩ thì luôn chê trách đáng sợ, vì nó sẽ làm hại mình, hại người, hại tất cả. Nó làm hư mất trí tuệ, làm chướng ngại các đạo phẩm và quả vị Niết-bàn. Nếu ai thường làm việc tổn hại đó thì không phát sinh được trí tuệ sáng suốt, chẳng dẫn đến Bồ-đề, không thể chứng Niết-bàn. Khi suy tư về các tai họa của tầm tổn hại như thế, thì các tâm tìm cầu đến khắp cả, tìm cầu gần, tâm sáng tỏ, rất sáng tỏ, sáng tỏ trước mắt, rồi suy lường vạch kế hoạch làm việc, suy xét phân biệt…, gọi là tầm không tổn hại.

Lại vì muốn đoạn dứt tầm tổn hại nên suy nghĩ các công đức của tầm không tổn hại, thì thấy tầm không tổn hại là pháp thiện cao quý, chỉ có những bậc cao quý mới tìm hiểu thực hành. Tất cả Như Lai và hàng đệ tử cùng các bậc Hiền quý, Thiện sĩ đều cùng ngợi khen. Vì nó chẳng hại mình, hại người khác, chẳng hại tất cả. Nó chẳng làm mất trí tuệ, chẳng chướng ngại các đạo phẩm và quả vị Niết-bàn. Những ai tuân hành pháp nầy thì phát sinh trí tuệ sáng suốt, dẫn đến giác ngộ và chứng được quả Niết-bàn. Khi suy xét các công đức của tầm không tổn hại thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt rõ gọi là tầm không tổn hại.

Lại nữa, suy xét thấy rằng tầm tổn hại như là bệnh ung nhọt, tên độc, gây khổ não là vô thường, khổ, không, vô ngã…, nó chuyển động gây nên bao lao khổ nhọc nhằn, suy yếu rã rời…, vì nó là pháp hư hoại. Nó vụt thoáng qua nhanh chóng chẳng hề dừng nghỉ. Nó luôn suy tàn rã mục chẳng phải còn hoài. Nó không thể tin cậy được, vì nó là pháp biến đổi hư hoại. Khi suy nghĩ về tâm tổn hại như thế thì các tâm luôn tầm cầu tìm kiếm cho đến phân biệt rõ, đó gọi là tầm không tổn hại.

Lại nữa, vì muốn đoạn trừ tầm tổn hại, nên suy nghĩ đến diệt nó chính là sự tịch tĩnh chân thật, và suy nghĩ đạo ấy thì đó là sự xuất ly chân thật. Như thế khi suy nghĩ về đạo diệt kia thì cái tâm tìm cầu cho đến phân biệt được đó là tầm không tổn hại.

Lại nữa, còn suy nghĩ về định tâm bi và đạo định tâm tương ưng với định là định vô tưởng, diệt, tận định và trạch diệt. Khi suy nghĩ như thế thì các tâm sẽ tìm cầm cho đến phân biệt rõ, đó gọi là tầm không tổn hại.

Lại nữa, khi suy nghĩ về không tổn hại và nó tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, và khi người ta khởi thân về ngữ nghiệp mà tâm lại không tương ưng hành, thì các tâm tìm cầu cho đến phân biệt rõ được gọi là tầm không tổn hại.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Ưa diệt các tầm ác
Siêng tu quán bất tịnh
Luôn nghĩ diệt tham ái
Trói chắc, bị đứt tung.

Ba hạnh ác: Đó là thân làm ác, miệng nói ác và ý nghĩ ác.

Hỏi: Thế nào là thân làm ác?

Đáp: Tức là giết hại, trộm cướp, tà dâm. Lại còn nói: Giết hại, trộm cướp và không phạm hạnh. Cũng nói hết thảy thân nghiệp bất thiện, hết thảy thân nghiệp dẫn đến không đúng lý, hết thảy thân nghiệp gây chướng ngại thiền định. Nói chung là thân làm ác.

Hỏi: Thế nào là miệng làm ác?

Đáp: Tức là nói dối, nói lời ly gián, nói lời dữ dằn thô tục, nói lời nhơ nhớp tội lỗi. Lại nữa hết thảy ngữ nghiệp chẳng thiện, ngữ nghiệp dẫn đến trái chánh pháp, hết thảy ngữ nghiệp gây chướng ngại thiền định. Gọi chung đó là miệng làm ác.

Hỏi: Thế nào là ý làm ác?

Đáp: Tức là tham dục, giận dữ, tà kiến. Lại nữa hết thảy ý nghiệp chẳng thiện, hết thảy ý nghiệp trái chánh pháp, hết thảy ý nghiệp gây chướng ngại thiền định…, gọi chung là ý làm ác. Như Thế Tôn nói kệ:

Nếu thân cứ hành ác
Miệng, ý vẫn hành ác
Chẳng tìm cách đối trị
Tất phải đọa vào địa ngục.

Ba hạnh diệu: Đó là thân làm việc cao quý, miệng làm việc cao quý, ý nghĩ việc cao quý (hạnh cao quý của…).

Hỏi: Thân làm việc cao quý là sao?

Đáp: Tức là lìa bỏ giết hại, lìa bỏ trộm cướp, lìa bỏ tà dâm. Lại nữa cũng là lìa bỏ giết hại, lìa bỏ trộm cướp, lìa bỏ phi phạm hạnh. Lại thân nghiệp hàng Hữu học và thân nghiệp hàng Vô học và các thân nghiệp của hàng không phải học không phải vô học. Gọi chung là thân làm việc cao quý.

Hỏi: Miệng làm việc cao quý là sao?

Đáp: Tức là lìa bỏ nói dối, lìa bỏ nói lời ly gián, lìa bỏ nói lời dữ dằn thô tục, lìa bỏ nói nhớp nhơ. Lại còn có các ngữ nghiệp của hàng hữu học, các ngữ nghiệp của hàng vô học và các ngữ nghiệp của hàng phi học, phi vô học gọi chung là miệng làm việc cao quý.

Hỏi: Ý làm việc cao quý là sao?

Đáp: Tức là không tham, không sân giận mà thấy biết đúng. Lại còn có các ý nghiệp của hàng hữu học, các ý nghiệp của hàng vô học, các ý nghiệp của hàng phi học, phi vô học, gọi chung là ý làm việc cao quý. Như Thế Tôn nói kệ:

Nếu thân tu hạnh quý
Miệng, ý làm hạnh quý
Không duyên trở ngại nào
Được lên trời hưởng phước.

Các lĩnh vực tham dục, giận dữ, tổn hại, các lĩnh vực xuất ly, không giận dữ, không tổn hại…, đúng như pháp uẩn mà luận bàn. Cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc…, cũng luận bàn như pháp uẩn. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu có kẻ biết khắp
Cõi Dục, Sắc, Vô sắc
Vượt nương vào tất cả
Nên chạm vào vô dư.
Thân chứng được cam lồ
Vô lậu chẳng nghĩ bàn
Thế Tôn nói Niết-bàn
Vì ích lợi quần sinh.
 
Cõi Sắc, cõi Vô sắc và diệt giới…, thì cũng nên theo đúng pháp uẩn mà luận bàn. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Chúng sinh ở cõi Sắc
Và ở cõi Vô sắc
Chẳng chứng được pháp diệt
Nhất định có kiếp sau.
Nếu khắc biết cõi Sắc
Chẳng trụ vào Vô sắc
Đến chỗ diệt rốt ráo
Tức giải thoát sinh tử.

Bài kệ (Ốt-đà-nam) thứ hai nói:

Hai, ba pháp có mười
Thế ngôn y, xứ, hành
Tâm số đến thượng tòa
Tụ – cử chẳng giữ ba.

Đây nói về: Có ba đời, ba ngôn y, ba chỗ có sắc, ba thứ hành, ba thứ tâm, ba thứ bổ-đặc-già-la, ba thứ thượng tòa, ba thứ khối, ba việc gây tội, ba thứ không giữ gìn.

Ba đời: Đó là đời quá khứ, đời vị lai và đời hiện tại.

Hỏi: Đời quá khứ là sao?

Đáp: Là các hạnh đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã cùng sinh, đã chuyển đổi, đã đang chuyển đổi, đã tụ tập, đã xuất hiện thì đều tàn tạ theo quá khứ là mất, diệt, lìa, biến là tính chất quá khứ, loại quá khứ đều thuộc đời quá khứ. Đó gọi là đời quá khứ.

Hỏi: Đời vị lai là sao?

Đáp: Là các hạnh chưa khởi, chưa khởi tất cả, chưa sinh ra, hết thảy chưa sinh ra, chưa chuyển đổi, hiện chưa chuyển đổi, chưa tụ họp, chưa xuất hiện, thuộc tánh chưa có, thuộc loại chưa tới, thuộc đời vị lai.

Đó gọi là đời vị lai.

Hỏi: Đời hiện tại thì sao?

Đáp: Tức là các hành đã khởi lên, cùng khởi lên, đã sinh, cùng sinh, đã chuyển, đã chuyển hiện, tụ tập xuất hiện để trụ vào đã tàn tạ, chưa diệt hết, chưa lìa, biến hòa hợp hiện tiền, tính chất hiện tại, loại hiện tại, hiện thuộc về đời hiện tại, nghĩa là đời hiện tại. Đời (thế) là nghĩa thế nào? Đời là chỉ rõ các hành, tăng lời nói.

Ba thứ ngôn y: Tức là quá khứ ngôn y, vị lai ngôn y và hiện tại ngôn y.

Hỏi: Quá khứ dựa vào lời nói là thế nào? Ngôn là gì, y là gì mà nói là quá khứ dựa vào lời nói?

Đáp: Các hành đã khởi, cùng khởi, đã sinh, cùng sinh, đã chuyển đổi, đã hiện chuyển đổi, đã tụ tập, đã xuất hiện, đã tàn tạ, đã qua đi, đã mất hết, chia lìa, biến đổi, tính chất quá khứ, loại quá khứ là thuộc đời quá khứ nên gọi là quá khứ, tức nương vào các hành đã khởi trong quá khứ, mà nói, mà nêu bày bình luận, kêu gọi, tuyên nói, chỉ bày, dạy bảo, khuyên răn. Ý hướng vào lời nói, âm hưởng của lời nói, nghiệp của lời nói, biểu thị của lời nói…, đều gọi là lời nói. Còn như những điều nói ở trước, thì các hành của quá khứ cũng gọi là y (nương tựa). Là nói do có cái gốc nhân của tầm nhìn nên các duyên khởi liên tục phát sinh, có thể làm các sinh duyên tập hợp cùng khởi lên, vì dựa vào hành khởi của quá khứ mà nói. Do đó các hành của quá khứ cũng gọi là quá khứ dựa vào lời nói.

Hỏi: Vị lai dựa vào lời nói là sao? Vị lai ngôn là sao, y là sao mà nói là vị lai ngôn y?

Đáp: Các hành hoàn toàn chưa khởi, hoàn toàn chưa cùng khởi, chắc chắn chưa sinh, cùng chưa sinh chắc chắn, chưa chuyển đổi, chưa chuyển đổi vào hiện tại, chưa tụ tập, chưa xuất hiện là tính chất vị lai, loại vị lai, nó thuộc đời vị lai, nên gọi là chưa tới. Tức dựa vào các hành vị lai khởi lên như thế mà nói năng, có lời nêu bày, bình luận kêu gọi, tuyên nói, chỉ bày, dạy bảo, khuyên răn. Luồng lời nói, âm hưởng của lời nói, nghiệp lời nói, biểu thị của lời nói…, đều gọi là nói. Tức là đều nói trước về các hành vị lai, cũng gọi là nương tựa. Ấy là nói do các gốc nhân của tầm nhìn nên các duyên khởi liên tục phát sinh, vì có thể làm sinh các duyên tập hợp lại cùng khởi lên, vì dựa vào các hành của vị lai mà nói. Do đó các hành của vị lai cũng gọi là vị lai dựa vào lời nói.

Hỏi: Hiện tại dựa vào lời nói là sao? Hiện tại ngôn là sao? Y là sao mà nói là hiện tại ngôn y?

Đáp: Các hành đã khởi, đã cùng khởi, đã sinh, đã cùng sinh, đang chuyển đổi, chuyển đổi ngay trong hiện tại đang tụ tập, đang xuất hiện, đang tạ từ ra đi đã mất hết, đang chia lìa biến đổi hiện thời trước mắt. Nó là tính chất hiện tại, thuộc loại hiện tại, thuộc đời hiện tại. Thế nên gọi là hiện tại. Tức là dựa vào các hành hiện tại đã khởi lên như thế mà nói năng, có lời nêu bày, bình luận, kêu gọi, tuyên nói, chỉ bày, dạy bảo, khuyên răn của lời nói, tâm hưởng của lời nói, nghiệp của lời nói, biểu thị của lời nói…, đều gọi là nói. Còn là điều nói trước các hành hiện tại cũng gọi là nương tựa. Ấy là nói do gốc nhân của tầm nhìn, các duyên khởi liên tục phát sinh. Vì có thể làm sinh các duyên tập họp lại cùng khởi lên, vì dựa vào các hành khởi của hiện tại mà nói. Do đó các hành của hiện tại cũng gọi là hiện tại dựa vào lời nói.

“Không có cái thứ tư, thứ năm vì dựa vào hữu vi mà nói”, nghĩa

là pháp hữu vi chỉ có ba thứ, mà không thể có cái thứ tư, thứ năm. Nếu nói đây là dựa vào tất cả pháp mà nói, thì các pháp vô vi tức là thuộc vào lời nói hiện tại. Lại không có cái thứ tư, thứ năm có thể được, như Đức Thế Tôn nói kệ:

Ưa ngôn tưởng chúng sinh
Luôn trụ vào ngôn tưởng
Chưa biết khắp ngôn tưởng
Vào sinh tử vô cùng
Nếu biết khắp ngôn tưởng
Với nó, không gì vui
Cũng chẳng ưa nói nó
Thường vui tu thiền định
Tịch định luôn siêng năng
Thấy bờ sinh tử hết
Phá tan các quân ma
Vượt sinh tử, đến bờ kia.

Ba sắc xứ: Tức là ba lĩnh vực gồm thâu tất cả sắc. Ba thứ đó là gì?

Đó là:

  1. Là có sắc có thấy có đối.
  2. Là có sắc không thấy có đối.
  3. Là có sắc không thấy không đối.

Thế nào là sắc có thấy có đối? Đó là một lĩnh vực (xứ).

Thế nào là sắc không thấy có đối? Đó là chín lĩnh vực.

Thế nào là sắc không thấy không đối? Đó là phần ít của một lĩnh vực.

Ba thứ hành: đó là hành của thân, hành của miệng, hành của ý.

Hỏi: Hành của thân là gì?

Đáp: Thân cũng gọi là thân hành, nghiệp của thân cũng gọi là thân hành. Hít vào thở ra cũng gọi là thân hành. Theo nghĩa ở đây thì ý muốn nói thân hành là hít thở ra vào. Vì sao? Vì hít vào nghĩa là thở đưa khí từ ngoài vào trong thân, còn thở ra tức là đưa khí từ trong thân ra ngoài. Do cách thế đó mà khiến thân chuyển động thông suốt và được yên ổn bình an. Do đó hít vào thở ra nói là thân hành.

Hỏi: Hành của miệng là thế nào?

Đáp: Lời nói cũng gọi là ngữ hành, ngữ nghiệp cũng gọi là ngữ hành, tầm tứ cũng gọi là ngữ hành. Với nghĩa nầy thì ý muốn nói sự suy xét theo dõi là ngữ hành. Vì sao? Vì cần phải suy xét kỹ lưỡng rồi mới phát ra lời nói. Nói thì đều phải xem xét kỹ lưỡng. Thế nên suy xét được gọi là ngữ hành.

Hỏi: Hành của ý là thế nào?

Đáp: Ý nghĩ cũng là ý hành, ý nghiệp cũng gọi là ý hành, suy nghĩ tư tưởng cũng gọi là ý hành. Theo nghĩa trong đây thì ý nói suy nghĩ tư tưởng là ý hành. Vì sao? Vì nghĩ tưởng và suy xét là pháp tâm sở, nó dựa vào tâm và hệ thuộc vào tâm, nó nương nhờ vào tâm nhưng lại giúp đỡ phò trợ cho tâm. Thế nên nghĩ tưởng suy xét gọi là ý hành.

Ba thứ tâm:

  1. Là tâm dụ như ung nhọt ghẻ lở.
  2. Tâm dụ như ánh chớp.
  3. Là tâm dụ như kim cương.

Hỏi: Tâm dụ như ung nhọt ghẻ lở là sao?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại chúng sinh có bản chất rất hung dữ bạo ác, nói năng dữ dằn thô tục, khi có chút xích mích hay việc buồn khổ nhỏ nhặt nào thì đùng đùng giận dữ, kết oán gây thù, dữ dằn chửi bới hung hăng, khác nào ung nhọt ghẻ lở khi vừa bị vật chạm vào thì vỡ ra, tung chảy máu đầm đìa không thôi. Vì tâm đó cũng vậy, chỉ cần phải chút nghịch duyên là lập tức giận dữ bùng nổ, hận oán triền miên không dứt.

Vì sao coi tâm ấy như là ung nhọt ghẻ lở? Vì tâm ý thức kẻ ấy mới chạm phải chút trái duyên thì lập tức bung ra bao thứ chất dơ bẩn hôi hám…, cho nên gọi là tâm dụ như bệnh ung nhọt ghẻ lở.

******

Hỏi: Tâm dụ như ánh chớp là sao?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói, quý thầy Bí-sô nên biết ở trên đời có một loại chúng sinh thường ở A-lan-nhã, hoặc sống bên các gốc cây, hay ở nơi vắng vẻ, trống trải, siêng năng tu hành và tu rất nhiều, nên chứng được tâm định tịch tĩnh. Vì nương vào tâm định ấy nên dứt được năm phần kết sử thuận hạ, và chứng được quả Bất hoàn, được hóa sinh bậc cao nên được ở cõi trên. Chứng nhập Niết-bàn không còn sinh lại ở cõi Dục nữa. Giống như trời cuối hạ sang đầu thu, trên đám mây đen ngồn ngộn kia có nhiều ánh chớp, điện lóe sáng. Nhưng vừa lóe sáng đó thì vụt tắt ngay. Cũng như có loại chúng sinh như thế, thường ở Alan-nhã cho đến nói rộng. Kẻ ấy có tâm chứng được như ánh điện chớp chăng? Tâm ý thức kẻ ấy đã chứng quả Bất hoàn, tạm thời lóe sáng, nhưng liền vụt tắt ngay. Thế nên gọi là tâm dụ như ánh điện chớp vậy.

Hỏi: Tâm dụ như kim cương là sao?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại chúng sinh thường ở nơi A-lan-nhã, hoặc sống bên các gốc cây hay ở nơi trống vắng. Thường siêng năng tu tập và tu tập thật nhiều cho nên chứng được tâm định tịch tĩnh. Vì nương theo tâm định đó mà dứt hết các lậu hoặc, chứng được giải thoát vô lậu tuệ tâm. Ở trong hiện đời nhờ có thông tuệ cao quý, nên tự chứng biết và có được các công đức viên mãn, tự bảo rằng ta đã chứng biết kiếp sống nầy đã hết, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ nhận kiếp sau nữa. Khác nào chất kim cương không có một tí vật nào mà chẳng cắt đứt, chẳng xuyên thủng, chẳng phá nát ra, những vật đó dù là sắt, ngà, xương hay sò ốc, hoặc sừng, hoặc châu ngọc hay đá rắn… Đó cũng như loại chúng sinh thường nơi A-lan-nhã cho đến nói rộng ra, kẻ ấy đã có được tâm dụ như kim cương.

Vì sao nói tâm kẻ ấy dụ như kim cương? Tâm ý thức của kẻ ấy đã chứng được quả vô học, không còn các phiền não ràng buộc mà cũng không thể hư hoại. Thế nên gọi là tâm dụ như kim cương.

Ba thứ chúng sinh:

  1. Chúng sinh trí tuệ bị che.
  2. Chúng sinh trí tuệ bắp vế.
  3. Chúng sinh trí tuệ rộng lớn.

Hỏi: Thế nào là chúng sinh trí tuệ bị che?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Trên đời có một loại chúng sinh, vì muốn nghe pháp nên quỳ trước Bí-sô, Bí-sô thương tình mà giảng nói cho nghe các pháp chính yếu, chỉ bày các pháp thiện trước, giữa, sau, lời văn và ý nghĩa rất hay đẹp cao quý, thuần nhất đầy đủ, phạm hạnh trong trắng. Nhưng kẻ ấy khi ngồi tại pháp tòa nghe các pháp đã nói đủ các phần: Trước, giữa, sau lại chẳng hiểu gì cả. Vì sao như thế? Là vì người đó không có trí tuệ, giống như một cái bình bị đậy kín, tuy rót rất nhiều nước nhưng chảy vào chẳng được giọt nào. Loại chúng sinh đó, đã quỳ trước Bí-sô để nghe pháp… rộng nói hết sức nhưng kẻ ấy vì không có trí tuệ, nên gọi là chúng sinh trí tuệ bị che kín.

Vì sao gọi là chúng sinh trí tuệ bị che kín? Vì người đó có loại trí tuệ như thế, nên khi ngồi nghe pháp tại pháp tòa, thì đối với các giáo pháp gồm các phần: Trước, giữa, sau đều muốn nghe hiểu, song với trình độ trí tuệ như thế nên chẳng thể hiểu được gì. Người đó có trí tuệ ấy đã được nghe đủ các phần: trước, giữa sau song rồi, dù rất muốn hiểu được giáo pháp nhưng vì không có tuệ (trí tuệ) nên chẳng hiểu được gì.

Thế nên gọi là chúng sinh tuệ bị che kín.

Hỏi: Thế nào là chúng sinh trí tuệ bắp vế?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: Quý thầy Bí-sô nên biết! Ở đời có một loại chúng sinh vì muốn nghe pháp nên quỳ trước Bí-sô, vị Bí-sô nầy thương xót vì đó mà nói các pháp quan yếu, chỉ bày đầy đủ các pháp thiện đủ các phần, các trình độ trước, giữa, sau với văn nghĩa rất hay, thuần nhất và đầy đủ. Kẻ nghe pháp có phạm hạnh trong trắng ấy khi nghe pháp đủ các phần: Trước, giữa, sau thì đều hiểu rõ. Nhưng từ khi đứng dậy ra về thì sau đó lại quên mất cả. Giống như có một người đặt thức ăn rất ngon lành trên bắp vế, khi vô ý đứng lên thì tất cả thức ăn đều rơi đổ hết. Cũng như thế có một loại chúng sinh được nghe pháp với vị Bí-sô…, sau đó quên mất cả, nên gọi là chúng sinh trí tuệ bắp vế.

Vì sao gọi chúng sinh trí tuệ bắp vế? Khi kẻ ấy ở tại pháp tòa được nghe đủ các phần giáo pháp: trước – giữa – sau, với loại trí tuệ đó nên khi đang ngồi nghe thì đều hiểu rõ. Nhưng khi nghe xong đứng dậy ra về thì các giáo pháp dù trước đó đã hiểu rõ vậy mà sau nầy đều quên mất cả nên coi như vô trí chẳng hiểu được gì, dù trước có hiểu nhưng nay quên cả rồi. Thế nên gọi là chúng sinh trí tuệ bắp vế.

Hỏi: Thế nào là chúng sinh trí tuệ rộng lớn?

Đáp: Như Thế Tôn nói: Các thầy Bí-sô nên biết! Trên đời có một loại chúng sinh, đến ngồi nghe pháp cùng một vị Bí-sô. Vị Bí-sô thương tình nói các pháp chính yếu, chỉ rõ các pháp thiện, trước, giữa, sau, văn nghĩa rất hay, thuần nhất và đầy đủ. Kẻ nghe pháp phạm hạnh trong trắng đó được nghe đủ và hiểu rõ các phần giáo pháp trước, giữa, sau. Khi đứng dậy ra về thì vẫn còn nhớ và hiểu rõ các giáo pháp đủ các phần đã nói, lại hiểu rất tinh xác các nghĩa lý, ý chỉ cao xa. Giống như các thiếu nữ con nhà quý tộc giàu có hoặc hàng Bà-la-môn, hay con các nhà Trưởng giả, cư sĩ…, dùng nước sạch để tắm gội rồi thoa xức các thứ dầu thơm chải cắt tóc tai, trang điểm dung nhan, mặc quần áo đẹp, đeo chuỗi ngọc vòng vàng, để sắc đẹp càng lộng lẫy. Chỉ còn thiếu vành hoa và chiếc mũ đội đầu. Bấy giờ có nhiều kẻ giàu có sang trọng cầm đủ các vành hoa quý đẹp như Ốt-bát-ra, Đởm-bạc-ca v.v… đem dâng cho các nàng tùy ý ưa thích. Khi ấy các cô gái hết sức hãnh diện vui mừng trân trọng nhận lấy các vành hoa cài vắt lên đầu, lòng rất sung sướng hân hoan mãi chẳng quên. Cũng như thế, có một loại chúng sinh được nghe pháp với thầy Bí-sô, hiểu biết đầy đủ các nghĩa thú thù thắng, đó gọi là chúng sinh trí tuệ rộng lớn.

Vì sao gọi là chúng sinh trí tuệ rộng lớn? Vì kẻ đó với trí tuệ ấy khi ở chỗ pháp tòa nghe đủ giáo pháp các phần trước giữa sau, với thứ trí tuệ đó muốn hiểu điều gì thì đều hiểu rõ. Kẻ đó với trí tuệ đó, khi nghe pháp xong đứng dậy ra về thì nhờ có trí tuệ đó mà các pháp đã nói trước giữa sau tất cả đều nhớ và hiểu biết rõ ràng đầy đủ, hiểu cả những nghĩa lý sâu xa cao siêu… Cho nên gọi đó là chúng sinh trí tuệ rộng lớn.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Tuệ che không thông minh
Tuy nhiều phen nghe pháp
Không trí nên chẳng hiểu
Như chế nước bình kín.
Tuệ bắp vế khá hơn
Ngồi nghe dù hiểu rõ
Đứng dậy thì quên hết
Như để cơm trên vế.
Tuệ rộng quý hơn hết
Ngồi nghe hoặc đứng lên
Văn nghĩa đều hiểu đủ
Như gái tóc cài hoa
Đủ biện tài nhớ hiểu
Ưa tu tịnh, bỏ nhiễm
Dứt kiêu mạn, buông lung
Thì lìa các đường ác.

Ba thứ thượng tòa: Đó là thượng tòa lớn tuổi, thượng tòa thế tục và thượng tòa pháp tánh.

Hỏi: Thế nào là thượng tòa lớn tuổi?

Đáp: Có nhiều người đã già cả lớn tuổi, nên gọi là thượng tòa lớn tuổi.

Hỏi: Thế nào là thượng tòa thế tục?

Đáp: Như có nhiều người học đạo mà vốn trước kia là kẻ giàu có, Trưởng giả, người làm luật hay những kẻ nhiều tiền, quả vị cao, hoặc dòng họ lớn, thế lực lớn, bà con và bọn thuộc hạ đông đảo…, hơn ta mọi mặt, nên ta suy tôn là thượng tòa, mà cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen ca tụng… Do lý do đó mà tuy tuổi mới hai mươi, hai mươi lăm tuổi nhưng biết rõ giáo pháp mà có của cải, dòng họ, thế lực lớn lao cao quý, hoặc có bà con và tay chân thuộc hạ đông đảo thì đều hòa hợp mà suy tôn là thượng tòa được cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi. Như các nơi xã ấp, quận huyện, thành đô trong nước mà có những kẻ học rộng tài cao, biết tính toán, luận thuyết giỏi, thơ văn chữ viết, vẽ, in đẹp hoặc tinh xảo khéo giỏi trong mọi ngành nghề, tất cả đều hơn người khác thì cùng hòa hợp mà suy tôn là thượng tòa và được cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Hoặc như trong hàng buôn bán, những kẻ giàu có nhất cũng được mọi người cùng hòa hợp suy tôn là thượng tòa và cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi. Hoặc như các bậc vua chúa, đại thần quan lớn…, cũng được dân chúng cùng cung kính cúng dường tôn trọng khen ngợi. Như chuyện vua Nan-đà cùng muốn đánh nhau với dòng vua tóc dài (Trường Phát) nên chiêu tập Mã thắng vương dòng Sát-đế-lợi đến để ban thưởng tiền của châu báu, khiến họ biểu diễn hết tài nghệ. Khi vua biết mình thua nên bảo với quần thần: Các vị nên biết, ta muốn kính lạy dưới chân Mã thắng vương dòng Sát-đếlợi. Đại thần tâu: Trời chẳng bằng lòng để vua kính lạy dưới chân Mã thắng vương dòng Sát-đế-lợi. Vì sao? Vì bọn ấy vốn là thần dân phải phò tá hầu hạ nhà vua, vua đâu nên lạy dưới chân hàng thần dân được. Các việc như thế nhiều vô số. Nay ý muốn nói dòng vua tóc dài như vua Nan-đà ấy là thượng tòa thế tục.

Hỏi: Thượng tòa pháp tánh là sao?

Đáp: Những bậc trưởng thượng già cả đã thọ giới cụ túc rồi thì gọi là thượng tòa pháp tánh. Ở đây cũng kể các thượng tòa lớn tuổi. Vì sao? Như Phật nói: Kẻ xuất gia thọ giới cụ túc thì nói đó là đời sống chân chánh. Hoặc như các Bí-sô đã chứng quả A-la-hán, dứt hết các lậu hoặc những việc làm đã xong, đã đặt gánh nặng xuống mà được lợi mình, dứt hết các kiết sử phiền não mà được trí chánh giác và giải thoát tâm luôn được tự tại…, đó là ý muốn nói ở đây để chỉ cho thượng tòa pháp tánh.

Như khi Đức Thế Tôn nói về các thượng tòa thì nói kệ:

Tâm động nói thêu dệt
Ý nhiễm nghĩ lung tung
Tuy ẩn lâu rừng thẳm
Chẳng phải chân thượng tòa.
Đủ giới, trí, chánh niệm
Tịch tĩnh, tâm giải thoát
Quan sát đúng các pháp
Đó là chân thượng tòa.

Ba thứ tụ: Tức là tà tánh định tụ, chánh tánh định tụ và bất định tụ.

Hỏi: Tà tánh định tụ là sao?

Đáp: Tức là tạo năm tội đọa vào địa ngục vô gián.

Hỏi: Chánh tánh định tụ là sao?

Đáp: Tức là pháp hữu học và vô học.

Hỏi: Bất định tụ là sao?

Đáp: Tức là trừ bỏ năm tội vô gián, trừ bỏ các pháp hữu lậu và được vô vi.

Ba thứ kể tội: Đó là do thấy mà kể tội, do nghe mà kể tội, do nghi mà kể tội.

Hỏi: Do thấy mà kể tội là sao? Sao là thấy, sao là kể tội, sao là sự, mà nói là do thấy mà kể tội?

Đáp: Thấy, tức là thấy có Bí-sô cố ý giết hại, trộm cướp, làm chẳng đúng phạm hạnh, dâm dục. Biết rõ mà nói, mà dối trá nên nghĩ ra các việc chẳng thiện như: ăn phi thời, uống các thứ rượu, tự tay đào đất, chặt phá cây cỏ, ca múa, đờn địch, đội mão, giắt cài hoa, chơi bời phóng dật… Đó gọi là thấy mà kể tội. Gọi năm thứ kể tội: đó là 1. Xét biết mà kể tội.

  1. Nhớ nghĩ mà kể tội.
  2. Làm pháp yết ma mà kể tội.
  3. Khi Bố sái tha mà lập việc kể tội.
  4. Tự ý nêu thời khắc lập việc kể tội.

Thế nào là xét biết mà kể tội? Nghĩa là xét biết thầy Bí-sô đó mà nói: Cụ thọ (thầy) đã phạm tội đó như thế, cần nên phát lồ chớ nên che giấu. Nếu phát lồ sẽ được an ổn, không phát lồ thị tội càng nặng thêm. Đó gọi là xét biết mà kể tội.

Thế nào là nhớ nghĩ mà kể tội? Nghĩa là có dạy bảo người khác, khiến họ trực nhớ lại, bảo rằng cụ thọ, thầy đã từng phạm tội đó như thế, hãy nên phát lồ, chớ có che giấu, nếu phát lồ thì sẽ được an ổn, không phát lồ tội lại nặng thêm. Đó gọi là nhớ nghĩ mà kể tội.

Thế nào là làm pháp yết ma mà kể tội? Tức là nên bảo rằng: Nầy thầy kia, chớ nên chẳng khiến ta biết mà làm thinh. Thầy hãy ra đây ta sẽ nói với thầy vài lời… Đó gọi là làm pháp yết ma mà kể tội.

Thế nào là khi Bố sái tha mà kể tội? Gọi là khi Bố sái tha mà lập việc kể tội, thì nói như vầy: Chúng Bí-sô đây hãy hòa hợp cùng ngồi xuống đây. Tôi là Bí-sô tên…, nay vì chỗ sai phạm… Đó gọi là khi Bố sái tha mà lập việc kể tội.

Thế nào là tự ý nêu thời khắc lập việc kể tội? Nghĩa là khi tự ý nêu thời khắc kể chỗ sai phạm thì nói thế nầy: Chúng Bí-sô đây nên hòa hợp cùng ngồi xuống đây tự ý mà kể việc. Tôi là Bí-sô tên…, nay tự ý kể các sai phạm của chúng… Ấy gọi là tự ý nêu thời khắc lập nên việc kể tội.

Còn việc kể tội, tức là do thấy việc phạm tội trước đó, nên gọi là sự việc. Như thế là gồm cả việc do thấy mà kể tội.

Hỏi: Thế nào là do nghe mà kể tội? Nghe mà kể tội, thì nghe là sao, kể tội là sao, sự là sao, mà nói là do nghe mà kể tội?

Đáp: Nghe, tức là nghe có thầy Bí-sô nghĩ đến việc giết hại, trộm cướp, làm chẳng hợp phạm hạnh, dâm dục. Biết rõ mà nói lời dối trá, cho nên nghĩ ra các việc chẳng thiện như ăn phi thời, uống rượu, tự tay đào đất, chặt phá cây cỏ, ca múa đờn địch, đổi mão giắt hoa cài tóc, sống buông lung… Đó gọi là do nghe mà kể tội. Tức cũng có năm thứ kể tội như trước đã nói. Còn việc kể tội, thì tức là nghe việc phạm tội từ trước đây nên gọi đó là sự việc. Như thế gộp lại gọi do nghe mà kể tội.

Hỏi: Thế nào là do nghi mà kể tội? Nghi mà kể tội, thì nghi là sao, kể tội là sao, sự việc là sao, mà nói là nghi mà kể tội?

Đáp: Nghi, tức là do năm điều kiện mà sinh ra nghi:

  1. Là do sắc.
  2. Là do thanh.
  3. Là do hương.
  4. Là do vị.
  5. Là do xúc.

Do sắc, thì tức là thấy có thầy Bí-sô lúc phi thời mà vào hoặc ra khỏi thôn xóm, hoặc cùng với người nữ mà vào ra khỏi tòng lâm, hoặc giao du thân thiết với ngoại đạo, hoặc giao du chơi giỡn với bọn phiến đế bán trạch ca, hoặc giao du thân thiết với Bí-sô ni, với dâm nữ, với các chàng trai trẻ, với gái già, với góa phụ…, thấy các việc đáng nghi ngờ như thế, rồi sinh nghi khi nhìn thấy người (cụ thọ) đó hiện làm các việc chẳng tốt đẹp thanh tịnh như thế, đó chẳng phải là Sa-môn, không phải là hạnh tùy thuận. Như thế là Thầy đây nhất định đã phạm tội về trái phạm hạnh. Đó gọi là do sắc mà sinh nghi.

Do thanh mà sinh nghi, nghĩa là nghe việc thầy Bí-sô lúc phi thời mà vào hoặc ra khỏi thôn xóm, hoặc nghe nói cùng người vào và ra khỏi tòng lâm, hoặc nghe nói đã giao du thân thiết với bọn ngoại đạo với bọn phiến đế bán trạch ca, hoặc với Bí-sô ni, hay với dâm nữ, hay trẻ em trai, với gái già hay với quả phụ…, nghe những việc đáng nghi như thế liền sinh nghi thầy nầy đã làm những việc xấu xa không thanh tịnh, không phải hạnh Sa-môn, hạnh tùy thuận. Như vậy Thầy đó nhất định đã phạm tội trái phạm hạnh. Đó là do mà sinh nghi.

Do hương mà sinh nghi là sao? Tức là như có Bí-sô hoặc vì rửa tay hoặc vì rửa mặt hay uống nước hoặc vì một lý do nào đó mà vào chỗ ở của các Bí-sô khác, ở đó có mùi hôi đặc biệt như là mùi của đàn bà con gái, mùi rượu thịt, hay mùi dầu thơm thoa xức, xông xịt, hoặc một thứ mùi thơm hôi nào khác của sự dâm dật…, ấy là do mùi hương mà sinh nghi rằng: Thầy nầy đã đến ở chỗ nào, đã làm các việc xấu xa chẳng thanh tịnh như thế, chẳng phải mùi hương của Sa-môn hoặc hạnh tùy thuận. Nhất định là Thầy đó đã phạm tội trái phạm hạnh. Đó là do hương mà sinh nghi.

Do vị mà sinh nghi là sao? Tức là như có Bí-sô hoặc do rửa tay hay rửa mặt hoặc uống nước, hoặc vì một lý do nào đó phải vào chỗ ở của các Bí-sô khác nên thầy ví đó trong miệng có ngâm nhai những chất có vị đặc biệt như chất đam-bổ-la, long não, đậu khấu, hoặc những chất khác có mùi vị của dâm dật. Thấy vị Bí-sô ấy có mùi vị đó rồi liền sinh nghi rằng vị nầy nay đã nếm các mùi vị chẳng thanh tịnh như thế không phải là mùi vị của Sa-môn, của tùy thuận, nhất định đã phạm tội trái phạm hạnh. Đó gọi là do vị mà sinh nghi.

Do xúc mà sinh nghi là sao? Tức là như có Bí-sô vì rửa tay hoặc rửa mặt, uống nước hoặc vì một lý do nào đó phải vào chỗ ở của các Bí-sô khác, nên thấy vị Bí-sô ấy nằm trên giường có hương thơm, trang sức bằng những lụa là êm ái trơn láng, và gấm vóc nhung lụa trải làm ngọa cụ. Ở hai đầu giường đều có đặt một chiếc gối đỏ và dùng ca lăng già hạt mà phủ lên. Ở chỗ người ấy lại có cô gái trẻ tuổi mỹ miều hoặc nằm hay ngồi. Thấy việc ấy rồi thì nghi rằng: nay thân của người đó đã làm những việc không thanh tịnh không phải là sự xúc chạm của bậc Sa-môn hay hạnh tùy thuận, nhất định là Thầy ấy đã phạm tội trái phạm hạnh. Đó gọi là xúc mà sinh nghi. Đó gọi là vì nghi mà kể tội. Cũng có năm thứ kể tội như trước đây đã nói, ấy gọi là sự kể tội, tức là các sự nghi ngờ phạm tội ở trước thì gọi là sự. Như thế là gộp chung gọi là do nghi mà kể tội.

Ba sự chẳng che giấu: Tức là ba nghiệp của chư Như Lai đều không có lầm lỗi, nào phải che giấu e người khác biết được, cho nên gọi là chẳng lo giữ gìn.

Hỏi: Ba thứ đó là gì?

1. Là hết thảy thân nghiệp của Như Lai luôn hiện hành thanh tịnh, không chỗ nào là chẳng thanh tịnh khi thân nghiệp hiện ra việc gì mà sợ kẻ khác biết được, mới cần phải che giấu giữ gìn.

2. Là hết thảy ngữ nghiệp của Như Lai hiện hành thanh tịnh, không việc gì là không thanh tịnh. Khi ngữ nghiệp hiện ra việc gì mà sợ người khác biết được mới cần phải che giấu giữ gìn.

3. Là hết thảy ý nghiệp của Như Lai hiện hành thanh tịnh, không việc gì là không thanh tịnh. Khi ý nghiệp hiện ra việc gì mà sợ người khác biết được, mới cần phải che giấu giữ gìn.

Đáp: Thân nghiệp hiện hành thanh tịnh, tức là lìa giết hại, lìa trộm cắp, và lìa dâm dục tà hạnh. Lại còn gọi là: Lìa bỏ giết hại, lìa bỏ trộm cắp, lìa bỏ trái phạm hạnh. Lại còn thân nghiệp hiện hành thanh tịnh có học, thân nghiệp hiện hành thanh tịnh vô học và thân nghiệp hiện hành thanh tịnh khéo phi học phi vô học. Gọi chung là thân nghiệp hiện hành thanh tịnh. Ý ở đây muốn nói về nghĩa là Như Lai có thân nghiệp hiện hành thanh tịnh vô học và có thân nghiệp hiện hành thanh tịnh khéo phi học phi vô học. Như Lai đã thành tựu thân nghiệp hiện hành thanh tịnh rất đầy đủ viên mãn toàn vẹn, cho nên nói Như Lai có thân nghiệp hiện hành thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là Như Lai có thân nghiệp hiện hành không có chỗ nào là không thanh tịnh?

Đáp: Thân nghiệp hiện hành không thanh tịnh, đó là giết hại, trộm cướp, dâm dục tà hạnh. Lại còn giết hại, trộm cướp, trái phạm hạnh. Lại còn, có thân nghiệp chẳng thiện, có thân nghiệp dẫn đến chỗ phi lý (chẳng đúng chánh lý), có thân nghiệp gây chướng ngại cho thiền định. Gọi chung đó là thân nghiệp hiện hành không thanh tịnh. Đối với thân nghiệp hiện hành không thanh tịnh nầy thì Như Lai đã đoạn dứt, đã biết khắp, giống như tiêu diệt rễ cỏ dại và chặt ngọn cây đa la, khiến nó chết tiệt, không còn sống lại nữa. Do đó Như Lai không cần che giấu, cất giữ, che chắn… “Chớ để người khác thấy được thân nghiệp nhơ bẩn ô uế của ta”. Cho nên nói Như Lai luôn luôn hiện hành thân nghiệp đều là thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là Như Lai có ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh?

Đáp: Ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh đó là lìa các sự nói dối, nói ly gián, nói hung dữ thô tục, nói dơ bẩn. Lại còn có ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh có học, có ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh vô học và có ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh khéo phi học phi vô học. Nói chung là ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh.

Ý ở đây là nói về nghĩa Như Lai có ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh vô học và có ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh khéo phi học phi vô học. Như Lai đã thành tựu đầy đủ vẹn toàn cái ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh. Cho nên nói Như Lai có ngữ nghiệp hiện hành thanh tịnh.

Hỏi: Vì sao nói Như Lai luôn luôn hiện hành ngữ nghiệp đều là thanh tịnh?

Đáp: Ngữ nghiệp hiện hành chẳng thanh tịnh, đó là nói dối, nói ly gián, nói dữ dằn thô tục, nói nhơ bẩn. Lại còn có ngữ nghiệp chẳng thiện, có ngữ nghiệp dẫn đến việc phi lý, có ngữ nghiệp làm chướng ngại thiền định. Gọi chung là ngữ nghiệp hiện hành không thanh tịnh. Đối với ngữ nghiệp hiện hành không thanh tịnh đây thì Như Lai đã đoạn dứt, đã biết khắp (biết rõ tất cả). Giống như phá rễ cỏ dại hay chặt ngọn cây đa la, khiến nó chết tiệt không còn sinh lại nữa. Do đó Như Lai không cần che giấu, cất giữ, che chắn… “Chớ để người khác thấy được ngữ nghiệp dơ bẩn nầy của ta”. Cho nên nói Như Lai có ngữ nghiệp luôn hiện hành thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là có ý nghiệp hiện hành thanh tịnh?

Đáp: Ý nghiệp hiện hành thanh tịnh, đó là không tham, không sân giận và nghĩ đúng. Lại còn có ý nghiệp hiện hành thanh tịnh có học, có ý nghiệp hiện hành thanh tịnh vô học và có ý nghiệp hiện hành thanh tịnh khéo phi học phi vô học. Gọi chung là ý nghiệp hiện hành thanh tịnh. Ý ở đây là muốn nói về nghĩa Như Lai có ý nghiệp hiện hành thanh tịnh vô học và có ý nghiệp hiện hành thanh tịnh khéo phi học phi vô học. Như Lai đã thành tựu đầy đủ toàn vẹn cái ý nghiệp hiện hành thanh tịnh. Cho nên nói Như Lai có ý nghiệp hiện hành thanh tịnh.

Hỏi: Vì sao Như Lai luôn luôn có ý nghiệp hiện hành đều là thanh tịnh?

Đáp: Ý nghiệp hiện hành chẳng thanh tịnh, tức là gồm tham lam, sân giận và tà kiến. Lại còn có ý nghiệp chẳng thiện, có ý nghiệp dẫn đến phi lý, có ý nghiệp làm chướng ngại thiền định. Gọi chung là ý nghiệp hiện hành chẳng thanh tịnh.

Đối với ý nghiệp nghiệp hiện hành không thanh tịnh đây thì Như Lai đã đoạn dứt, đã biết rõ tất cả. Giống như phá rễ cỏ dại hay chặt ngọn cây đa la, khiến sau nó chết tiệt không còn sinh lại nữa. Do đó Như Lai không cần che giấu, giấu giếm ngăn che giữ gìn… “Chớ để người khác thấy được ý nghiệp dơ bẩn nầy của ta. Cho nên nói Như Lai có ý nghiệp luôn hiện hành đều là thanh tịnh”.

Bài kệ tụng thứ ba nói:

Ba: ba pháp có chín
Là ba ái, lậu, cầu
Và có – hắc ám thân
Sợ, các: Thọ khổ kiêu.

Gồm có: Ba thứ ái, ba thứ lậu, ba thứ cầu, ba thứ hữu, ba thứ thân đen tối, ba thứ sợ, ba thứ thọ, ba thứ tánh khổ, ba loại kiêu mạn.

Ba thứ ái: Đó là ái dục, ái sắc, ái vô sắc.

Hỏi: Ái dục là thế nào?

Đáp: Nghĩa là đối với các dục có những cái tham nào thì đều tham lam ham muốn tất cả, rồi sinh ra nắm giữ, chứa cất, giấu giếm, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt. Đó gọi là ái dục.

Lại còn bị ràng buộc trong cõi Dục cùng các thứ: mười tám giới, mười hai xứ và năm uẩn nếu có những cái tham nào thì đều tham lam ham muốn tất cả, rồi nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê chấp trước, yêu mến, dính chặt… Đó gọi là ái dục.

Lại còn, dưới kể từ địa ngục Vô gián, trên đến cõi trời Tha-hóatự-tại, gồm thâu cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức…, có những cái tham nào đều tham tất, rồi nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt. Đó gọi là ái dục.

Hỏi: Ái sắc là sao?

Đáp: Nghĩa là đối với các sắc, có những cái tham nào đều tham lam, ham muốn tất cả, rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt… Đó gọi là ái sắc. Lại còn bị ràng buộc trong cõi Sắc cùng với mười bốn giới, mười xứ và năm uẩn nếu có những cái tham nào thì đều tham tất cả, rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt… Đó gọi là ái sắc. Lại còn, dưới từ cõi trời Phạm chúng, trên lên đến cõi trời Sắc cứu cánh, gồm thêm cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có những cái tham nào đều tham tất, rồi nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt. Đó gọi là ái sắc.

Hỏi: Ái vô sắc là sao?

Đáp: Nghĩa là đối với các thứ: Vô sắc có những cái tham nào đều tham lam ham muốn tất cả, rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt… Đó gọi là ái vô sắc. Lại còn bị ràng buộc trong cõi Vô sắc cùng với hai xứ, bốn uẩn, trong đó có những cái tham nào thì đều tham tất, rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt… Đó gọi là ái vô sắc.

Lại nữa, như cõi Dục và cõi Vô sắc thì nhất định các chỗ nơi thứ bậc trên dưới cao thấp có sai khác nhau, không thể lẫn lộn nhau được. Còn ở cõi Vô sắc thì không giống nhau như thế, nhưng đối với những cái cần phải nương nhờ y chỉ thì nhất định là phải có nương nhờ y chỉ nên sinh ra các sự hơn kém mà nói có trên dưới. Do đó mà dưới từ cõi trời Không vô biên xứ, trên lên đến cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, gồm thâu các thứ thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó có những cái tham nào thì đều tham tất, rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt… Đó gọi là ái vô sắc. Như Thế Tôn nói kệ:

Những kẻ nào có ái
Nhiều đời luôn lưu chuyển
Nhiều phen khổ trong thai
Lẫn quẩn nơi các cõi.
Kẻ nào đoạn hết ái
Dòng thác lũ ngừng chảy
Vì không ái trợ lực
Chẳng xoay vòng kiếp sau.

Lại có ba thứ ham thích (Ái):

  1. Là ham thích dục.
  2. Là ham thích sự có.
  3. Là ham thích sự không có.

Hỏi: Ham thích dục là sao?

Đáp: Đối với các dục trong đó có những thứ tham nào đều ham thích ưa muốn tất cả rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt… Đó gọi là ham thích dục.

Hỏi: Ham thích sự có là sao?

Đáp: Đối với cõi Sắc và Vô sắc có những cái tham nào đều ham thích ưa muốn tất cả rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu dính chặt… Đó gọi là ham thích sự có.

Hỏi: Ham thích sự không có là sao?

Đáp: Tức là mừng vui với sự không có. Đối với không có, nếu có những cái tham nào thì đều ham thích ưa muốn tất cả, rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt… Đó gọi là ham thích sự không có. Điều nầy như thế nào? Thí dụ như có người luôn luôn bị các sự sợ hãi lo lắng bứt ngặt, gây khổ sầu, và bị các nỗi buồn rầu đau khổ bứt ngặt gây khổ…, nên luôn luôn có cảm giác khổ sở. Do đó mà nghĩ: Làm thế nào thân ta khi chết rồi thì tan mất, dứt hết không có gì nữa thế là dứt hẳn các bệnh há chẳng sung sướng vui lắm sao? Thế là người vui với sự không có. Cho nên trong không có thì có nhiều ham thích ưa muốn rồi sinh ra nắm giữ, cất giấu, giữ gìn, đam mê, chấp trước, mến yêu, dính chặt. Thế nên gọi là ham thích sự không có.

Như Thế Tôn có nói kệ:

Kẻ nào còn chấp ái
Tâm tham có, không có
Ma ách đóng ách vào
Thân luôn không an lạc.
Xoay vòng trong các cõi
Sinh ra rồi già, chết
Như nghé con ham sữa
Theo mẹ bú mãi thôi.

Ba thứ lậu: Đó là dục lậu, hữu lậu, và vô minh lậu.

Hỏi: Dục lậu là sao?

Đáp: Trừ cõi Dục bị cột chặt vào vô minh, còn các cõi Dục khác thì bị ràng buộc do tùy miên và tùy phiền não, nên gọi là dục lậu.

Hỏi: Hữu lậu là sao?

Đáp: Trừ cõi Sắc và Vô sắc bị cột chặt vào vô minh, còn các cõi Sắc và Vô sắc khác bị ràng buộc do tùy miên và tùy phiền não, nên gọi là hữu lậu.

Hỏi: Vô minh lậu là sao?

Đáp: Cả ba cõi đều ngu mê không có trí tuệ, đó gọi là vô minh lậu.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu Bí-sô đã đoạn
Lậu dục, hữu, vô minh
Các lậu đã dứt hẳn
Nhập Niết-bàn không bóng.

Ba thứ cầu mong: Đó là cầu mong dục, cầu mong hữu và cầu mong phạm hạnh.

Hỏi: Cầu mong dục là sao?

Đáp: Trụ ở cõi Dục thì đối với các pháp ở cõi Dục, pháp nào chưa được thì mong cho được. Các thứ cầu mong tùy theo đó mà mong cầu, mong cầu đều nhau (bình đẳng), sợ mà cầu, vui mà cầu mong, suy nghĩ mà mong cầu, siêng mà mong cầu v.v… Đó gọi là mong cầu dục.

Hỏi: Cầu mong hữu là sao?

Đáp: Trụ ở cõi Sắc và Vô sắc thì đối với các pháp ở cõi Sắc và Vô sắc, pháp nào chưa được thì mong cầu cho được. Các thứ cầu mong đó…

cho đến siêng năng mong cầu. Đó gọi là mong cầu sự có (Hữu).

Hỏi: Cầu mong phạm hạnh là sao?

Đáp: Nghĩa là hai thứ giáo hội thì nói là phạm hạnh, tám chánh đạo cũng gọi là phạm hạnh. Với nghĩa trong đây thí ý nói về tám chánh đạo phạm hạnh. Đối với tám chánh đạo có những cái nào chưa được thì mong cho được, các thứ cầu mong…, cho đến siêng năng mà cầu, thì đó gọi là mong cầu phạm hạnh.

Lại còn dục cầu thì không phải là mong cầu sau khi chết rồi sẽ được sinh lên các cõi, mà là đối với cuộc sống hiện tại thì ham thích các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, y phục, ăn uống, giường nằm (ngọa cụ), thuốc men, tiền bạc, vật dụng hằng ngày…, thứ nào chưa được thì mong cho được. Các thứ cầu mong…, cho đến siêng cầu, đó gọi là dục cầu.

Còn hữu cầu (mong cầu các hữu), tức là có năm thứ uẩn chấp. Tức là sắc uẩn chấp, thọ uẩn chấp, tưởng uẩn chấp, hành uẩn chấp, thức uẩn chấp. Ví dụ có loại người nghĩ: Làm thế nào mà ở đời vị lai ta sẽ có được các loại sắc, thọ, tưởng, hành, thức như thế. Người ấy sau khi chết rồi sẽ sinh lên các cõi đó, và với năm uẩn sắc, thọ v.v… đó mà có các mong cầu…, cho đến siêng năng cầu mong… Đó gọi là hữu cầu.

Còn mong cầu phạm hạnh là sao? Tức là từ pháp thế đệ nhất khi hướng đến khổ pháp trí nhẫn thì có cầu mong phạm hạnh cũng chẳng phải có phạm hạnh. Vì sao như thế? Là vì phạm hạnh chính là tám chi Thánh đạo (tám chánh đạo). Khi đó đối với phạm hạnh thì chưa được hoặc chưa gần được, chưa có, chưa hiện có. Khi từ khổ pháp trí nhẫn hướng đến khổ pháp trí thì có mong cầu phạm hạnh liền có phạm hạnh. Vì sao? Vì phạm hạnh là tám chánh đạo. Bấy giờ, đối với phạm hạnh thì đã được, đã gần được, đã có, đã hiện có. Như thế, nếu từ khổ pháp trí hướng đến khổ loại trí nhẫn, rồi từ khổ loại trí nhẫn hướng đến khổ loại trí, và từ khổ loại trí hướng đến tập pháp trí nhẫn, rồi từ tập pháp trí nhẫn hướng đến tập pháp trí, rồi từ tập pháp trí hướng đến tập loại trí nhẫn, rồi từ tập loại trí nhẫn hướng đến tập loại trí, và từ tập loại trí hướng đến diệt pháp trí nhẫn, rồi từ diệt pháp trí nhẫn trí hướng đến diệt pháp trí, rồi từ diệt pháp trí hướng đến diệt loại trí nhẫn, rồi từ diệt loại trí nhẫn hướng đến diệt loại trí, và từ diệt loại trí hướng đến đạo pháp trí nhẫn, rồi từ đạo pháp trí nhẫn, hướng đến đạo pháp trí, và từ đạo pháp trí hướng đến đạo loại trí nhẫn, rồi từ đạo loại trí nhẫn hướng đến đạo loại trí, và từ đạo loại trí hướng đến đạo loại trí. Hoặc khi hướng đến các trí vô lậu khác thì có mong cầu phạm hạnh liền có phạm hạnh. Vì sao? Vì tám chi Thánh đạo nói là phạm hạnh. Nên lúc đó đối với phạm hạnh thì đã được, đã gần được, đã có, đã hiện có.

Lại còn, nếu là đạo ở thế gian, khi đã chứng được quả Nhất lai hay quả Bất hoàn thì có mong cầu phạm hạnh thì chẳng có phạm hạnh. Vì sao? Vì phạm hạnh là tám chi Thánh đạo. Bấy giờ đối với phạm hạnh vẫn chưa được, chưa gần được, chưa có, chưa hiện có. Nếu đối với đạo vô lậu mà chứng được quả Dự lưu, hoặc khi chứng được các quả vị Nhất lai, Bất hoàn và A-la-hán thì có mong cầu phạm hạnh liền được phạm hạnh. Vì sao? Vì phạm hạnh là tám chi Thánh đạo. Bấy giờ, đối với phạm hạnh là đã được, đã gần được, đã có, đã hiện có. Như Thế Tôn nói kệ:

Đủ niệm định chánh tri
Chân đệ tử chư Phật
Chánh biết cầu đạo Thánh
Trọn chẳng cầu việc khác.
Nếu mong cầu đã dứt
Thánh đạo cũng tuyệt đường
Bí-sô mong cầu dứt
Nhập Niết-bàn không bóng.

Ba thứ hữu: Đó là dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu.

Hỏi: Dục hữu là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thuộc cõi Dục mà chấp làm điều kiện, thì sẽ có được cái nghiệp của dị thục đó, gọi là Dục hữu.

Hỏi: Sắc hữu là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thuộc cõi Sắc mà chấp làm điều kiện, thì sẽ có được cái nghiệp của dị thục đó, gọi là sắc hữu.

Hỏi: Vô sắc hữu là gì?

Đáp: Nếu nghiệp thuộc cõi Vô sắc mà chấp làm điều kiện, thì sẽ có được cái nghiệp của dị thục ấy, đó gọi là vô sắc hữu.

Ba thứ thân hắc ám: Đó là thân hắc ám quá khứ, thân hắc ám vị lai và thân hắc ám hiện tại.

Hỏi: Thân hắc ám quá khứ. Quá khứ là gì, hắc ám là gì, thân là gì, mà gọi là thân hắc ám quá khứ?

Đáp: Quá khứ, nghĩa là các hành đã khởi, cùng khởi lên, đã sinh, đều cùng sinh ra, đã chuyển, đã hiện chuyển, đã tụ tập, đã xuất hiện, đã từ tạ ra đi, qua đi, diệt mất, chia lìa, biến đổi thuộc tánh quá khứ, loại quá khứ, thuộc đời quá khứ, nên gọi là quá khứ.

Hắc ám là gì? Nghĩa là đối với các hạnh quá khứ mà phát khởi các thứ mong cầu các thứ tuệ hiểu biết lạ lùng khác nhau. Nói rộng cho đến thứ tên độc của nghi ngờ do dự. Đó gọi là hắc ám.

Còn thân là gì? Có người nói nghi tương ưng với vô minh thì gọi là thân. Ở nghĩa trong đây thì nghi gọi là thân. Tại sao? Vì hắc (đen) là ngu si vô trí, do hắc nên có ám nên gọi là hắc ám. Đây là nghi, tức là bỏ cái đen tối nầy mà gọi là thân. Cho nên nói thân hắc ám quá khứ.

Hỏi: Thân hắc ám vị lai. Vị lai là gì, hắc ám là gì, thân là gì mà gọi là thân hắc ám vị lai?

Đáp: Vị lai: Nghĩa là các hành chưa khởi, cùng chưa khởi lên, chưa sinh cùng chưa sinh ra, chưa chuyển, hiện chưa chuyển, chưa tụ tập, chưa xuất hiện, thuộc tánh vị lai, loại vị lai, thuộc đời vị lai. Thế nên gọi là vị lai.

Hắc ám (đen tối) là gì? Nghĩa là đối với các hành vị lai mà phát khởi các thứ mong cầu các thứ tuệ hiểu biết lạ lùng khác nhau. Rộng nói cho đến thứ tên độc của nghi ngờ do dự. Đó gọi là hắc ám.

Còn thân, tức là thuyết nói khi tương ưng với vô minh gọi là thân. Theo nghĩa đó thì nghi là thân. Vì sao? Là vì đen là ngu si vô trí, do đen nên có tối. Đây tức là nghi, do đen tối đó mà gọi là thân. Cho nên nói là thân hắc ám vị lai.

Hỏi: Thân hắc ám hiện tại. Hiện tại là gì, hắc ám là gì, thân là gì mà nói là thân hắc ám hiện tại?

Đáp: Hiện tại, nghĩa là các hành đang khởi, cùng khởi lên, đã sinh, cùng sinh đang chuyển đổi, hiện đang chuyển, đang trụ ở tụ tập và xuất hiện, đang từ tạ ra đi, đang diệt mất, đang chia lìa biến đổi hòa hợp ở hiện tiền, thuộc tánh hiện tại, loại hiện tại, thuộc đời hiện tại. Đó gọi là hiện tại.

Hắc ám là gì? Nghĩa là đối với các hành hiện tại mà khởi lên các thứ mong cầu các thứ tuệ hiểu biết khác lạ. Nói rộng cho đến thứ tên độc của nghi ngờ do dự đó là hắc ám.

Còn thân, tức là có thuyết nói nghi tương ưng với vô minh gọi là thân theo nghĩa đó thì nghi là thân. Vì sao? Đen tức là ngu si vô trí, do đen nên có tối. Nên nói là đen tối (hắc ám). Đây tức là nghi, tức là do đen tối nầy mà gọi là thân. Cho nên nói thân hắc ám hiện tại.

Ba thứ sợ hãi: Đó là sợ bệnh, sợ già, sợ chết.

Hỏi: Sợ bệnh là gì?

Đáp: Bệnh là: Thí dụ như đau đầu v.v… Như trong pháp uẩn mà nói gọi là bệnh. Sợ là sao? Như có một số người thấy người khác bệnh thì hết sức run sợ, tự nghĩ: Thân ta cũng là phận đó, cũng có tính chất đó, cũng hiện tượng đó. Và chưa thể vượt qua hiện tượng đó nên họ hết sức sợ sệt hãi hùng, sợ đến sởn gai ốc, dựng tóc gáy! Đó gọi là sợ. Do bệnh mà sợ hãi nên gọi là sợ bệnh.

Hỏi: Sợ già là sao?

Đáp: Già là tóc bạc, rụng v.v…, nên theo pháp uẩn mà bàn, đó là già. Sợ là sao? Như có người thấy người khác già khụ thì hoảng sợ… Nói rộng ra như sợ dựng tóc gáy. Đó là sợ. Do vì già mà sợ hãi, nên gọi là sợ già.

Hỏi: Sợ chết là thế nào?

Đáp: Chết là sao? Là mọi người mọi vật đang sống hoạt động, tụ họp, dời đổi…, lại bỗng dưng trở nên bất động chết mất hư hoại nên bàn về chết chóc theo pháp uẩn mà bàn đó gọi là chết. Sợ là sao? Như có số người thấy người khác chết đi thì hoảng vía, nói rộng ra như sợ đến dựng tóc gáy. Đó gọi là sợ. Do chết chóc mà sợ hãi, nên gọi là sợ chết.

Như Thế Tôn nói kệ:

Các dị sinh tuy sợ
Những thứ bệnh, già, chết
Mà chẳng thể như thật
Chán sợ về thân nầy
Ta vì chán thân nầy
Hiểu sâu hiện tượng đó
Nên chẳng ham ở lâu
Mau nhập vô dư y
Ta xét thấy mọi thứ
Tuổi trẻ không bệnh, chết
Bệnh, già, chết hủy hoại
Chỉ xuất ly an ổn
Ta đã luôn siêng năng
Thấu suốt đường rốt ráo
Nên chẳng ham theo dục
Buông xả, tu phạm hạnh.

*****

Ba thứ thọ nhận: Thọ nhận vui, thọ nhận khổ, thọ nhận chẳng khổ, chẳng vui.

Hỏi: Thọ nhận vui là gì?

Đáp: Tức là tiếp xúc thọ nhận các điều thuận vui nên khiến thân và tâm đều vui mà nhận đều xúc cảm. Đó là cảm xúc vui. Lại còn khi tu Sơ thiền, Nhị thiền và Tam thiền thì cũng có những cảm giác, cảm xúc vui của thân và tâm như thế. Nên gọi là thọ nhận vui.

Hỏi: Thọ nhận khổ là gì?

Đáp: Tức là tiếp xúc thọ nhận các điều thuận khổ nên khiến thân và tâm đều khổ mà nhận đều cảm xúc. Đó là cảm xúc khổ.

Hỏi: Thọ nhận chẳng khổ chẳng vui là gì?

Đáp: Tức là tiếp xúc thọ nhận các điều thuận với chẳng khổ chẳng vui khiến thân và tâm buông xả, không nhận đều, không phải không nhận đều cảm xúc. Như Thế Tôn nói lời kệ: Đủ niệm, định, chánh tri

Chân đệ tử chư Phật
Nên biết đúng các thọ
Khiến mọi tham chẳng sinh.
Đối các thọ và đạo
Đều khiến thảy mất dần
 Bí-sô hết các thọ
Là Niết-bàn vô ảnh.

Ba thứ tánh khổ: Tức là tính chất khổ khổ, tính chất hoại khổ và tính chất hành khổ.

Hỏi: Thế nào là tính chất khổ khổ?

Đáp: Các hành ở cõi Dục do khổ chồng lên nhau nên phải khổ.

Hỏi: Thế nào là tính chất hoại khổ?

Đáp: Các hành ở cõi Sắc do hoại khổ nên có khổ.

Hỏi: Thế nào là tính chất hành khổ?

Đáp: Các hành ở cõi Vô sắc do hành khổ nên có khổ.

Lại còn các hành nào chẳng vừa ý là do khổ khổ cho nên có khổ. Còn các hành nào vừa ý mà bị hoại khổ cho nên có khổ. Còn các hành nào thuận với việc buông xả mà do hành khổ nên có khổ.

Lại còn, nếu có cảm xúc khổ, nếu pháp đó tương ưng thích hợp, nếu pháp đó đều có, nếu từ nó sinh ra, nếu như những cái đó khiến mình không mến thích được quả dị thục…, thì đó là do khổ mà có khổ

Nếu có các cảm xúc vui, nếu pháp đó tương ưng thích hợp, nếu pháp đó đều có, nếu từ nó sinh ra, nếu các thứ đó khiến không thể mến thích được quả dị thục, ấy là do hoại khổ nên có khổ.

Nếu cảm xúc chẳng khổ chẳng vui, nếu pháp đó tương ưng thích hợp, nếu pháp đó đều có, nếu từ nó sinh ra, nếu các thứ đó chẳng phải đáng ưa chẳng phải không đáng ưa quả dị thục. Ấy là do hành khổ cho nên có khổ.

Hỏi: Lại còn tính chất khổ khổ là thế nào?

Đáp: Các thân xác nầy mà có đây là do khổ khổ mà khổ. Vì sao?

Vì chính từ thân nầy mà có già, bệnh, chết và biết bao nhiêu thứ khổ.

Hỏi: Còn tính chất hoại khổ là sao?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói như tình bè bạn thắm thiết, tình ruột thịt thân yêu và bao nhiêu cảnh vật, bao sự việc rất hợp ý vui lòng… Nếu khi gặp phải sự biến đổi hư hoại, hoặc gặp phải sự hủy báng chê bai, khinh chê miệt thị… Rồi thì phát sinh ra bao nhiêu sầu khổ đau buồn, bi thương nhục nhã. Chính lúc đó là do hoại khổ tạo ra khổ.

Hỏi: Tính chất của hành khổ là sao?

Đáp: Trừ tính chất khổ khổ và tính chất hoại khổ, tất cả các hành hữu lậu đều thuộc về hành khổ mà có khổ.

Ba thứ kiêu ngạo:

  1. Kiêu ngạo vì ta hơn.
  2. Kiêu ngạo vì ta bằng họ.
  3. Kiêu ngạo vì ta thua kém.

Hỏi: Vì ta hơn mà kiêu ngạo là sao?

Đáp: Như có người nghĩ: Kể ra về giống nòi, hình dạng, nghề nghiệp, sự khéo léo, tiền của, địa vị, tuổi thọ, sức khỏe…, của ta, dù nhìn chung hay riêng biệt, tất cả đều vượt hơn người ấy. Do đó mà khởi lên kiêu ngạo phách lối. Đã kiêu ngạo sẽ càng kiêu ngạo hơn mãi, lòng luôn tự cao tự đại luôn vênh váo, cậy thế, miệt thị khinh thường tất cả.

Đó là kiêu ngạo vì ta hơn.

Hỏi: Kiêu ngạo vì ta bằng họ là sao?

Đáp: Như có người nghĩ: Kể ra về giống nòi, hình dáng, nghề nghiệp, tài nghệ, tiền của, địa vị, tuổi thọ, thế lực, sức khỏe…, của ta, dù nhìn chung hay riêng biệt, tất cả đều ngang bằng với kẻ đó. Do một lý do riêng mà khởi lên kiêu ngạo, đã kiêu ngạo rồi thì sẽ càng phách lối hơn lên, lòng luôn tự cao tự đại, luôn vênh váo, cậy thế, miệt thị coi thường tất cả. Đó là kiêu ngạo vì ta bằng họ.

Hỏi: Kiêu ngạo vì ta thua kém là sao?

Đáp: Như có người nghĩ: Kể về giống nòi, hình dáng, nghề nghiệp, tài nghệ, tiền của, địa vị, tuổi thọ, sức khỏe, thế lực…, của ta, dù nhìn chung hay riêng biệt thì ta đều thua hẳn cả. Nhưng vì một lý do riêng mà khởi lên lòng kiêu ngạo, đã kiêu ngạo thì lại càng kiêu ngạo phách lối hơn lên, lòng luôn tự cao tự đại, luôn vênh váo cậy thế, miệt thị coi thường tất cả. Đó là kiêu ngạo vì ta kém thua.

Bài kệ thứ tư nói (Ốt-đà-nam):

Bốn: Ba pháp có mười
Là: Lửa, phước, dục, lạc
Và tuệ, căn, mắt, phục
Sáu một, lửa tuệ hai.

Có ba thứ lửa, ba phước nghiệp, ba dục sinh, ba lạc sinh, ba thứ tuệ, ba thứ căn, ba thứ mắt, ba thứ phục, lửa tuệ mỗi thứ có hai, còn sáu thứ khác mỗi thứ có một.

Ba thứ lửa: Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si.

Hỏi: Lửa tham là sao?

Đáp: Nghĩa là đối với sự tham lam trong các cảnh dục mà ham thích ham muốn tất cả rồi sinh ra giấu cất, giữ gìn, chấp chặt, yêu thích, mê mẩn lo lắng đam mê, tự cột trói nội tâm, ước muốn, mong cầu, ham thích. Là nơi chiêu tập các khổ, nó là loại tham lam, thứ sinh ra tham lam. Gọi chung là tham lam. Tham ái nầy, che chắn ngăn lắp mà phát sinh ra các thứ bứt rứt nóng nảy cho thân và tâm, hoặc cả thân tâm, nó thiêu đốt thân hoặc tâm hoặc cả thân tâm, nó não hại phá rối thân hoặc tâm hoặc cả thân tâm. Do bị tham ái nó cột trói ràng rịt nên suốt cả ngày đêm luôn luôn gặp bao nhiêu thứ buồn rầu phiền muộn chẳng vui thích, chẳng thỏa lòng với quả dị thục. Thế nên gọi là lửa tham.

Hỏi: Lửa sân giận là sao?

Đáp: Là cố ý muốn làm tổn hại loài hữu tình, lòng luôn ôm mối

tàn độc thích gây đau buồn cho mọi người. Đã sân giận, đang giận và sẽ giận dữ mãi. Thích gây ra tội ác tai họa, lại càng hừng hẩy tạo thêm. Lòng mãi giận dữ hung ác, nên lại càng trái khuấy dữ dằn gây tai họa cho mọi người. Đã gây tai họa, sẽ gây tai họa và hiện đang gây tai họa. Gọi chung là giận. Giận nầy che chắn ngăn lấp mà phát sinh ra các thứ bứt rứt nóng nảy cho thân hoặc tâm hoặc cả thân tâm, nó thiêu đốt não hại thân hoặc tâm hoặc cả thân tâm. Do vì bị sân giận cột trói ràng rịt nên suốt cả ngày đêm luôn luôn gặp bao thứ buồn rầu phiền muộn, chẳng vui thích, chẳng thỏa lòng với quả dị thục. Đó là lửa sân.

Hỏi: Lửa si mê là thế nào?

Đáp: Nghĩa là đối với phía trước hay phía sau, hoặc cả hai phía trước sau chẳng biết gì. Nói rộng ra là cho đến thuộc loại si mê, thứ sinh ra si mê, đều gọi chung là si. Ngu si nầy che chắn, ngăn lắp mà phát sinh ra các thứ bứt rứt nóng nảy cho thân hoặc tâm hoặc cả thân tâm, nó thiêu đốt, não hại quấy nhiễu cho thân hoặc tâm hay cả thân tâm. Lại bị sự ngu si trói cột ràng buộc nên suốt cả ngày đêm luôn luôn gặp bao thứ buồn rầu phiền muộn, chẳng vui thích, chẳng thỏa lòng với quả dị thục. Đó gọi là lửa si. Như Thế Tôn nói kệ:

Có nhiều kẻ ngu si
Lửa đốt tham sân si
Đắm mê các cảnh dục
Hại đời, ghét pháp Phật.
Ba lửa độc thiêu đốt
Nếu chẳng biết như thật
Bèn tham đắm có thân
Chẳng đến được tịch diệt.
Tà quấy ngăn lối đi
Đọa vào ba đường dữ
Luân hồi, chịu khổ não
Chẳng thoát khỏi lưới ma.
Đệ tử bậc Chánh giác
Suốt đêm ngày siêng năng
Từ tuệ diệt tưởng xấu
Cùng dập tắt ba lửa.
Do đó vào Thánh đạo
Hàng phục các quân ma
Chứng được hai Niết-bàn
Mát mẻ không lậu hoặc.

Có ba thứ lửa: Đó là lửa nên phụng sự, lửa nên ban thí cấp dưỡng, lửa nên cúng dường.

Hỏi: Thế nào là lửa nên phụng sự?

Đáp: Cha mẹ là những người đáng được thờ kính phụng sự, như Đức Thế Tôn đã nói với thầy Bà-la-môn có thân hình cao đẹp. Thế nào là lửa nên phụng sự? Nghĩa là, ở đời thì cha mẹ những kẻ đáng được hưởng thụ mọi sự cung phụng đầy đủ, vui vẻ của con mình. Và tùy lúc, tùy nơi mà cung phụng không lầm lỗi trái ý. Thế nào là người con dùng mọi thứ đầy đủ và vui vẻ tùy lúc tùy nơi mà cung phụng không trái ý là lửa nên phụng sự? Nghĩa là chàng trai trẻ dòng dõi ưu tú do sức của cần mẫn siêng năng, của đôi tay chân mạnh mẽ, của mồ hôi nước mắt và máu mà họp pháp tạo ra những của cải tiền bạc, các sự đầy đủ vui vẻ, tùy lúc tùy nơi mà phụng dưỡng thờ kính không lỗi lầm trái ý cha mẹ. Vì sao gọi là lửa đáng nên phụng sự? Tức do cha mẹ sinh ra, và nuôi lớn người trai trẻ ấy nay được thành đạt, thế nên chư Phật nói cha mẹ rất đáng được phụng sự thờ kính cung phụng.

Hỏi: Thế nào là lửa nên ban thí cấp dưỡng?

Đáp: Ấy là vợ con, nô tỳ kẻ giúp việc và bè bạn, phải được chủ nhà ban thí cấp dưỡng, như Thế Tôn đã nói với thầy Bà-la-môn có thân hình cao lớn. Thế nào là lửa ban thí cấp dưỡng? Tức là ở đời thì có vợ con nô tỳ kẻ giúp việc và bè bạn phải được gia chủ tùy lúc tùy nơi mà ban thí cung cấp mọi thứ đầy đủ và vui vẻ không lỗi lầm nghịch ý. Vì sao chủ nhà phải dùng các thứ đầy đủ và vui vẻ mà tùy lúc tùy nơi không lỗi lầm trái ý mà cung cấp ban thí lửa đang cung cấp ban thí? Nghĩa là chàng trai trẻ dòng dõi kia do sức của siêng năng với đôi tay chân mạnh mẽ và với mồ hôi nước mắt và cả máu để tạo ra của cải tiền bạc một cách hợp pháp mà cung cấp đầy đủ và vui vẻ, tùy lúc tùy nơi không hề lỗi lầm trái ý cho vợ con, nô tỳ kẻ giúp việc và cả bạn bè. Vì sao gọi là lửa cung cấp ban thí? Nghĩa là chàng trai trẻ dòng dõi kia khi ở nhà hãy đúng pháp mà phụng sự không lỗi lầm trái ý vợ con như dạy bảo chỉ vẻ cách làm việc, các việc nên làm, khiến cho không lỗi lầm thiếu hụt và hoàn thành nhanh chóng. Thế nên chư Phật nói là vợ con, nô tỳ kẻ giúp việc và bè bạn là lửa nên cung cấp ban thí.

Hỏi: Thế nào là lửa đáng nên cúng dường?

Đáp: Các bậc Sa-môn Bà-la-môn chân chánh đáng được các thí chủ cung kính cúng dường như Đức Thế Tôn đã nói với thầy Bà-la-môn có thân hình cao lớn. Vì sao gọi là lửa đáng nên cúng dường? Nghĩa là các bậc Sa-môn Bà-la-môn nếu đã lìa bỏ tham lam hoặc đã tu hành điều phục thói tật tham lam, hoặc đã lìa bỏ sân giận hay tu hành điều phục thói tật sân giận, hoặc đã lìa bỏ si mê hay đang tu hành điều phục thói tật si mê. Các bậc Sa-môn Bà-la-môn như thế đáng thọ hưởng các vui vẻ đầy đủ của thí chủ tùy lúc tùy nơi mà cúng dường không trái lý. Vì sao thí chủ dùng các thứ đầy đủ vui vẻ để tùy lúc tùy nơi mà cúng dường đúng lý tức lửa đáng cúng dường? Ấy là vì chàng trai trẻ dòng dõi kia do sức luôn siêng năng, sức của đôi tay chân khỏe mạnh hay sức của mồ hôi nước mắt và máu để tạo ra các của cải tiền bạc một cách hợp pháp mà có đầy đủ các thứ vui tươi để tùy lúc tùy nơi mà cúng dường không nghịch lý lỗi lầm các bậc Sa-môn Bà-la-môn như đã nói trước đây. Vì sau gọi là lửa đáng nên cúng dường? Vì chàng trai trẻ dòng dõi ấy đáng nên cúng dường các bậc A-la-hán và những bậc hữu học, chính họ là ruộng phước chân chánh ở thế gian để các thí chủ ở đó mà gieo trồng cây phước đức, để chiêu cảm được quả dị thục giàu sang hạnh phúc ở đời nầy và đời khác cũng như quả giải thoát. Thế nên chư Phật nói các bậc Sa-môn chân chánh, Bà-la-môn chân chánh là lửa đáng cúng dường.

Các loại lửa khác ở thế gian, chẳng đáng phụng sự, cung cấp ban thí và cúng dường, vì nó không thể giúp các loài hữu tình có được các quả báo cao quý. Thế nên Đức Thế Tôn nói kệ:

Bậc trí giỏi đúng pháp
Thờ cúng ba thứ lửa
Sinh vui vẻ trên đời
Chứng giải thoát hết khổ.

Có ba sự phước nghiệp: Đó là sự phước nghiệp bố thí, sự phước nghiệp trì giới và sự phước nghiệp tu hành.

Hỏi: Sự phước nghiệp bố thí: Thí là gì, phước là gì, nghiệp là gì, sự là gì mà gọi là sự phước nghiệp bố thí?

Đáp: Nghĩa là thí chủ bố thí cho các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, những kẻ nghèo khổ, tu khổ hạnh và kẻ ăn xin các thứ như: thức ăn, thuốc men, y phục, hoa cài đầu, các chất thơm để thoa xức, hoặc nhà cửa phòng ốc, giường nằm, ngọa cụ, đèn đuốc mọi thứ vật dụng…, đó là những vật bố thí.

Lại do thân mà bố thí, nghĩa là hoặc bố thí thân, bố thí việc làm của thân nghiệp, hoặc bố thí mà mình buông xả. Do miệng mà bố thí, nghĩa là bố thí lời nói, bố thí ngữ nghiệp, hoặc bố thí vật mà mình buông xả. Do ý mà bố thí, nghĩa là bố thí tâm ý, bố thí ý nghiệp hoặc bố thí tâm buông xả. Đó gọi là bố thí các loại.

Phước là sao? Nghĩa là bố thí đều các hạnh của thân và lời nói đều có khuôn phép và đời sống thanh tịnh, gọi đó là phước. Còn nghiệp là sao? Nghĩa là bố thí đều là hạnh của các tư tưởng, suy nghĩ, đang suy nghĩ, đã suy nghĩ, các loại suy nghĩ tạo nên ý nghiệp. Đó là nghiệp. Còn sự, thì đó là người bố thí, kẻ nhận và vật bố thí, đó gọi là sự.

Trong đây thì vật bố thí (loại thí) gọi là thí loại, cũng gọi là phước, là nghiệp, là sự. Còn phước ở đây thì gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, là sự, là loại bố thí. Còn nghiệp thì gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, là vật thí, là phước. Ở đây chỉ có sự thì gọi là sự mà thôi.

Hỏi: Sự phước nghiệp trì giới: Giới loại là gì, phước là gì, nghiệp là gì, sự là gì mà gọi là: Sự phước nghiệp trì giới?

Đáp: Các thứ giới tức là: Từ bỏ giết hại, từ bỏ trộm cướp, lìa dâm dục tà hạnh, lìa nói dối, lìa bỏ uống chất Tốt-la-mê-lệ-gia-mạt-đà, buông lung chốn rượu chè…, đó gọi là các thứ giới (giới loại). Phước, tức là trì giới thì đều là các hạnh của thân và miệng đều có khuôn phép, đời sống thanh tịnh. Đó là phước. Nghiệp, trì giới đều là hạnh của các sự suy nghĩ, hiện đang suy nghĩ, đã suy nghĩ, các loại suy nghĩ tạo nên ý nghiệp. Đó là nghiệp. Còn sự, tức là ngăn ngừa, giữ gìn, ngăn cấm hoặc từ bỏ giết hại thì đó là sự lìa bỏ giết hại. Nếu ngăn cấm hoặc lìa bỏ trộm cướp, thì đó là sự lìa bỏ trộm cướp. Còn nếu ngăn cấm hoặc lìa bỏ tà hạnh thì đó là sự lìa bỏ tà hạnh. Nếu ngăn cấm lìa bỏ nói dối thì đó là sự lìa bỏ nói dối. Nếu ngăn cấm lìa bỏ việc uống Tốt-la-mê-lệ-gia mạt-đà, phóng dật chốn rượu chè thì tức là sự lìa bỏ uống các thứ rượu. Đó gọi là sự.

Ở đây giới loại thì gọi là giới loại, cũng gọi là phước, là nghiệp, là sự, là giới loại. Còn nghiệp ở đây cũng gọi là nghiệp, là phước, là sự, là giới loại. Và sự ở đây cũng gọi là sự, là giới loại, là phước, là nghiệp.

Hỏi: phước nghiệp tu hành: Tu loại là gì, phước là gì, nghiệp là gì, sự là gì mà gọi là Sự phước nghiệp tu hành?

Đáp: Các thứ tu hành tức là Từ, Bi, Hỷ, Xả bốn thứ tâm vô lượng. Đó gọi là tu loại. Phước là bốn thứ vô lượng đó đều là các hạnh của thân và miệng có khuôn phép và đời sống thanh tịnh, đó gọi là phước. Còn nghiệp, tức là thứ vô lượng đó đều là hạnh của các tư tưởng suy nghĩ, hiện đang suy nghĩ, đã suy nghĩ, các thứ suy nghĩ tạo nên ý nghiệp, đó gọi là nghiệp. Còn sự, nghĩa là các sự duyên đến để khởi lên bốn thứ vô lượng tâm, đó gọi là sự. Ở đây thì phước cũng gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, là sự, là tu loại. Còn nghiệp gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, là phước, là tu loại. Riêng sự đây chỉ gọi là sự mà thôi. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Bậc trí nương vào pháp
Siêng học thí, giới, tu
Khiến thế gian không khổ
Nhận ba thứ quả vui.

 

Ba thứ dục sinh: Có các loại chúng sinh (hữu tình) ham thích thọ nhận các dục cảnh đẹp đẽ hiện tiền, vì ở trong các dục cảnh hiện tiền, họ được giàu sang tự tại, gọi đó là người có toàn là người có một phần trời đó là dục sinh thứ nhất (cõi Dục).

Có các loài hữu tình lại ưa thích tự mình hóa ra các dục cảnh đẹp đẽ. Vì ở trong các dục cảnh đẹp đẽ tự hóa đó, họ trở nên giàu sang tự tại, gọi đó là cõi trời Lạc-biến-hóa, đó là dục sinh thứ hai.

Có các loài hữu tình lại ưa thích các biến hóa dục cảnh đẹp đẽ của người khác, nó đối với các dục cảnh đẹp đẽ vì trong đó họ trở nên giàu sang tự tại, nên gọi là cõi trời Tha-hóa-tự-tại, đó là dục sinh thứ ba.

Các loài hữu tình nói ở đây, là các hữu tình theo nghĩa đế nghĩa thắng, thì không nắm bắt được, chẳng thể gần được, nó không có, cũng chẳng hiện hữu, mà chỉ là các uẩn, giới và xứ. Do các ý tưởng nghĩ ra nên giả đặt gọi đó là hữu tình là Na-la ý, sinh bé thơ, mạng là sống, nuôi dưỡng là sĩ phu, Bổ-đặc-già-la…, do đó nên nói có các loại hữu tình ưa thích hưởng thụ cảnh vui hiện tiền. Còn các dục cảnh đẹp đẽ, đó tức là những loài hữu tình luôn thích thọ hưởng những thứ đã được cất giấu, giữ gìn, chất chứa, tụ tập, gởi gấm, đặt để… và tùy theo gốc của nó mà sinh ra các dục cảnh hiện tiền.

Trong các dục cảnh đẹp đẽ hiện tiền họ giàu sang tự tại, tức là các loài hữu tình đó đối với các thứ thọ hưởng được cất chứa giữ gìn chứa nhóm gởi gắm, đặt để, tùy gốc của nó sinh ra các dục cảnh hiện tiền, thì có quyền được tùy ý thọ hưởng.

Nói toàn là người là chỉ cho tất cả người.

Một phần trời là chỉ bốn cõi trời dưới của cõi Dục.

Số một, tức là tùy theo sự tính đếm dần dần liên tục theo thứ tự thì đó là chỗ ở số một.

Dục sinh, là cõi Dục mà sinh ra.

Lại còn, có các loài hữu tình, tức là nói các loài hữu tình đó nếu theo nghĩa đế, nghĩa thắng thì không thể nắm bắt được, nói rộng như trước.

Ưa thích hưởng thụ các dục cảnh đẹp đẽ tự mình biến hóa đó, tức là cõi trời Lạc-biến-hóa có thể biến hóa tạo ra các nghiệp loại như thế và chính do các nghiệp đó mà tùy ý thích có thể biến hóa ra các thứ vật dụng kể cả nam nữ để mà vui chơi. Hoặc thiên nữ thì hóa làm thiên nam để tự đùa vui, hoặc thiên nam cũng hóa làm thiên nữ để tự vui đùa.

Đối với các dục cảnh đẹp đẽ do tự biến hóa ra họ được sung sướng tự tại, nghĩa là cõi trời Lạc-biến-hóa tạo tác tăng thêm các nghiệp loại như thế là do các nghiệp ấy họ tùy thích biến hóa ra nam nữ các thứ rồi có quyền được tự do tùy ý hưởng thụ.

Nói “Cõi trời Lạc-biến-hóa” là chỉ cõi trời biến hóa ra mọi thứ vui. “Là bậc thứ hai” (Dục sinh thứ hai) tức là tùy theo sự tính đếm dần dần liên tục theo thứ tự, thì đây là bậc thứ hai.

“Dục sinh” đây là cõi Dục mà sinh ra.

Lại còn có các loài hữu tình, gọi các loài hữu tình nếu theo nghĩa đế nghĩa thắng thì không thể nắm bắt được, nói rộng như trước.

Ưa thích thọ hưởng các dục cảnh do người khác biến hóa ra thì nghĩa là cõi trời Tha-hóa-tự-tại tạo ra tăng thêm các nghiệp loại như thế và do các nghiệp đó cùng với các trời Tha-hóa-tự-tại, tuy là đồng một loại thân ở chung một cõi, đồng một cuộc sống, đồng một đường hướng tiến tới, nhưng có cao thấp hơn kém khác nhau. Các người ở cõi trời thấp kém thì phải biến hóa đủ mọi thứ; sắc, thanh, hương vị, xúc các dục cảnh đẹp đẽ để cho các người ở cõi trời cao hơn hưởng thụ sử dụng.

Đối với các dục cảnh đẹp đẽ do người khác biến hóa ra thì họ trở nên giàu sang tự tại, có nghĩa là cõi trời Tha-hóa-tự-tại phải tạo ra tăng thêm các nghiệp lợi như thế và do các nghiệp đó mà tùy sở thích khiến các người ở các cõi trời thấp kém phải tạo tác, biến hóa ra các thứ sắc, thanh, hương vị, xúc, các dục cảnh đẹp đẽ để người ở các cõi trời cao hơn có quyền được tự do tùy ý thọ hưởng sử dụng cảnh ấy. Thí dụ như trời Phạm thiên tuy là đồng một loại đồng ở một cõi, đồng một đời sống, đồng một nơi tiến tới… Nhưng lại có hơn kém cao thấp khác nhau. Như cõi trời Phạm chúng thì thấp kém, còn cõi trời Phạm phụ thì cao hơn. Cõi trời Tha-hóa-tự-tại thiên cũng vậy, tạo tác tăng thêm các nghiệp loại như thế, và họ do nghiệp đó… như trước đã nói rộng. Gọi Tha-hóatự-tại thiên, là chỉ rõ tất cả Tha-hóa-tự-tại thiên vậy. Còn “là bậc thứ ba” (Đệ tam dục sinh), tức là tùy theo sự tính đếm dần dần liên tục theo thứ tự thì nó thuộc bậc thứ ba. Dục sinh, tức là ở cõi Dục mà sinh ra.

Ba thứ lạc sinh:

1. Có các loài hữu tình ly sinh hỷ lạc, nên khắp thân họ đều được nhuần thắm, đều được vui thích, đều được đầy đủ. Khi thấm nhuần đến đầy đủ đã xong thì được trụ vào an lạc mãi. Đó là cõi trời Phạm chúng, là lạc sinh số một.

2. Có các loài hữu tình từ định sinh hỷ lạc thì thân họ nhuần thắm khắp các vui đó đều được vui thích, đều được đầy đủ. Khi thấm nhuần đến đầy đủ đã xong thì được trụ vào an lạc mãi. Đó là cõi trời Cực quang tịnh, là lạc sinh thứ hai.

3. Có các loài hữu tình đã lìa tất cả mọi sự vui mừng ham thích nên khắp thân đều được nhuần thắm, đều được vui thích, đều được đầy đủ. Khi thấm nhuần đến đầy đủ đã xong thì được trụ vào an lạc mãi. Đó là cõi Biến tịnh, là lạc sinh thứ ba.

Trong đây nói các loài hữu tình, nghĩa là các loài hữu tình theo nghĩa đế nghĩa thắng thì chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể gần được, không phải có, cũng không phải hiện hữu, mà chỉ là các uẩn, giới và xứ. Nhưng do tư tưởng nghĩ ra mà giả đặt tên gọi là hữu tình, là Na-la ý sinh bé thơ, mạng là sống, nuôi dưỡng là sĩ phu, Bổ-đặc-già-la. Do đó cho nên nói các loài hữu tình.

Tức như là thân, thì thân gọi là thân, thân nghiệp cũng gọi là thân, thân căn cũng gọi là thân, năm căn có sắc cũng gọi là thân, bốn đại hợp nhau cũng gọi là thân. Theo nghĩa trong đây, là thân do bốn đại hợp nhau, cho nên nói tức như là thân.

Ly sinh hỷ lạc: Tức là từ bậc sơ thiền, tức là đã có được cái vui bình nhiên (bình đẳng tự nhiên) thế nên gọi là ly sinh hỷ lạc, nên khắp thân đều được thấm nhuần vui đó. Vui thích và đầy đủ, là ở cõi trời Phạm chúng đối với ly sinh hỷ lạc kia, tùy ý muốn mà được, không chút khó khăn cực khổ chi. Khi có ly sinh hỷ lạc đó rồi thì muốn khởi là khởi, muốn sinh là sinh các sự tụ tập xuất hiện, nên có thể khiến cho thân do bốn đại hợp thành đó khắp chỗ của thân đều được nhuần thắm, đều vui thích, đều đầy đủ. Khi đã nhuần thắm đến đầy đủ rồi thì sẽ được trụ vào an lạc. Thân và tâm không khổ não tức là trụ vào an lạc.

Như trong kinh Phân Biệt Sinh Ký, Thế Tôn có nói: “Các thầy Bísô nên biết, như người tu thiền định thì từ cõi nầy chết đi sẽ được sinh lên cõi trời Phạm chúng mà nhiều lần được ly sinh hỷ lạc”. Trước đây khi trụ họ vào Sơ thiền thì cũng đã được nhiều lần được ly sinh hỷ lạc. Ly sinh hỷ lạc đã nhận được trước hay sau thì không có gì lạ lùng hay sai khác nhau cả. Nếu như y vào thiền định, nghĩa là trước đây có ở trong bậc Sơ thiền, còn như có luyện tập tu hành, có làm rất nhiều việc thì sau nầy sẽ sinh lên cõi trời Phạm chúng. Cả hai thứ ly sinh hỷ lạc đó, phẩm loại chúng giống nhau. Trời Phạm chúng cũng chỉ có bậc Sơ thiền. Còn trời Phạm chúng là số một, là theo sự tính đếm dần dần liên tục theo thứ tự thì nó ở hàng thứ nhất.

Lạc sinh, nghĩa là khi ở chỗ nầy sinh ra mà lớn lên, hưởng được nhiều vui vẻ an ổn, lìa sự khổ vui, chỉ ưa thích hưởng được các sự vui mà thôi cho nên gọi là lạc sinh (đời sống vui).

Lại còn nói có các loài hữu tình, tức là theo nghĩa đế nghĩa thắng thì loài hữu tình là chẳng thể nắm bắt được như trước đã nói rộng.

“Tức như thị thân” là thân gọi là thân, cho đến nói rộng. Còn “Thiền định sinh hỷ lạc” nghĩa là khi nhập nhị thiền thì được vui bình đẳng tự nhiên, các thọ nhận đều thâu giữ. Thế nên nói thiền định sinh vui mừng. Khắp thân đều được thấm nhuần, đều vui thích, đều đầy đủ, tức là cõi trời Cực quang tịnh. Đối với định sinh hỷ lạc nầy tùy ý muốn mà có được, không khó khăn nhọc nhằn chi. Định nầy sinh ra vui mừng đó rồi thì muốn khởi là khởi, muốn sinh là sinh các sự tụ tập xuất hiện, nên có thể khiến cho thân do bốn đại hợp thành đó, khắp thân đều được thấm nhuần, đều vui thích, đều đầy đủ. Khi đã thấm nhuần cho đến đầy đủ rồi thì sẽ được trụ vào an lạc. Nghĩa là ngay lúc đó do định mà sinh vui mừng, thân tâm không khổ não tức là trụ vào an lạc.

Như trong kinh Phân Biệt Sinh Ký, Thế Tôn có nói: “Các thầy Bí-sô nên biết, như kẻ tu thiền định thì từ cõi nầy chết đi sẽ được sinh lên cõi trời Cực quang tịnh, nhiều lần được hưởng định sinh vui mừng”. Trước đây khi trụ vào Nhị thiền, thì họ cũng nhiều lần được định sinh niềm hoan lạc. Định sinh niềm hoan lạc đã nhận được trước hay sau, không có gì lạ lùng hay sai khác nhau. Y vào thiền định nên gọi trước đây có ở trong bậc Nhị thiền, còn như có luyện tập tu hành, có làm rất nhiều việc thì sau nầy sẽ sinh lên cõi Trời Cực quang tịnh. Cả hai thứ hưởng được định sinh hoan lạc đó, phẩm loại chúng giống nhau. Cực quang tịnh thiên là cũng chỉ cho bậc Nhị thiền. Còn nói cõi Trời Cực quang tịnh là bậc thứ hai ấy, là tùy theo sự tính đếm dần dần liên tục theo thứ tự thì nó ở hàng thứ hai.

Lạc sinh (đời sống vui) nghĩa là khi ở chỗ nầy sinh ra và lớn lên thì hưởng được nhiều vui vẻ an ổn, lìa sự khổ vui, chỉ ưa thích hưởng được các sự vui mà thôi, nên gọi là lạc sinh (đời sống vui).

Lại còn nói các loài hữu tình, nếu theo nghĩa đế nghĩa thắng thì không thể nắm bắt được họ như trước đã nói rộng.

Còn “Tức như thị thân” là thân gọi là thân, cho đến như rộng nói. Còn ly sinh hỷ lạc là khi nhập Tam thiền thì được vui bình đẳng tự nhiên, các thọ nhận đều nhiếp giữ. Thế nên gọi là ly sinh hỷ lạc. Còn khắp thân đều được thấm nhuần, đều vui thích, đều đầy đủ, đó là cõi trời Biến tịnh. Đối với ly sinh hỷ lạc nầy tùy ý muốn mà có, không khó khăn nhọc nhằn chi, tức là vui lìa hoan lạc nầy muốn khởi thì khởi, muốn sinh là sinh, các sự tụ tập xuất hiện, nên có thể khiến cho thân do bốn đại hợp thành, khắp thân đều được thấm nhuần, đều vui thích, đều đầy đủ. Khi thấm nhuần cho đến đầy đủ đã xong thì sẽ được trụ vào an lạc, là ngay lúc đó do ly sinh hỷ lạc, thân tâm không còn khổ não tức là trụ vào an lạc.

Như trong kinh Phân Biệt Sinh Ký, Thế Tôn có nói: “Các thầy Bísô nên biết! Như người tu thiền định, từ cõi nầy chết rồi sẽ sinh lên cõi trời Biến tịnh nhiều lần được hưởng vui ly sinh hỷ lạc”. Trước đây khi trụ vào Tam thiền, thì họ cũng đã nhiều lần hưởng được ly sinh hỷ lạc. Vui ly sinh hỷ lạc đã nhận được trước hay sau thì không có gì lạ lùng hay sai khác nhau. Nếu như y vào thiền định, nghĩa là nên gọi trước đây có ở trong bậc Tam thiền, còn như có luyện tập tu hành, có làm rất nhiều việc thì sau nầy sẽ sinh lên cõi trời Biến tịnh. Cả hai thứ ly sinh hỷ lạc, phẩm loại đều giống nhau. Gọi Biến tịnh là cũng chỉ cho bậc Tam thiền. Còn nói Biến tịnh là bậc thứ hai, thì đó là theo sự tính đếm dần dần liên tục theo thứ tự, thì nó ở hàng thứ ba

Lạc sinh là khi ở chỗ nầy sinh và lớn lên thì hưởng được nhiều vui vẻ an ổn, lìa sự khổ vui, chỉ ưa thích hướng được các sự vui mà thôi, nên gọi là lạc sinh (đời sống vui).

– Ba thứ tuệ đầu: Đó là tuệ do nghe mà có, tuệ do suy tư mà có, tuệ do tu mà có.

Hỏi: Thế nào là tuệ do nghe mà có?

Đáp: Nhưng vì nghe, nương vào nghe, do nghe mà lập nên. Cho nên ở đó có khả năng thấu triệt hiểu biết đúng đắn tự tại nhất. Việc đó như thế nào? Ví như có vị Bí-sô hoặc thọ trì các pháp như Tố-đát-lãm, Tỳ-nại-da hay A-tỳ-đạt-ma, hoặc nghe bậc thân giáo sư dạy bảo, hay thầy luật sư, thầy mô phạm nói, hoặc các lời giảng xoay vần truyền trao nhau mà nói, hoặc nghe theo lý nhất như mà nói. Đó gọi là nghe.

Nhân nghe đó, dựa vào nghe đó, do nghe đó mà lập nên. Do đó đối với mọi điều đều thấu triệt hiểu biết đúng đắn tự tại, nên gọi là tuệ do nghe mà có.

Hỏi: Thế nào là tuệ do suy tư mà có?

Đáp: Nhân suy nghĩ, dựa vào suy nghĩ, do suy nghĩ mà lập ra, nên nó có khả năng thấu triệt hiểu biết đúng đắn tự tại nhất. Việc đó như thế nào? Nghĩa là có người đúng theo lý nhất như mà suy tư, mà biên chép, suy đoán, tính toán, ấn định, hoặc suy nghĩ về nghiệp của các việc đã làm…, đó gọi là suy nghĩ.

Nhân suy tư đó, nương vào vào suy tư đó, do suy tư đó mà lập ra, nên có khả năng thấu triệt hiểu biết đúng đắn tự tại mọi vấn đề, nên gọi là tuệ do suy tư mà có.

Hỏi: Thế nào là tuệ do tu mà có?

Đáp: Nhân tu, nương vào tu, do tu mà lập ra nên có khả năng thấu triệt hiểu biết đúng đắn tự tại nhất. Việc đó như thế nào? Nghĩa là như theo phương tiện khéo léo hiệu quả nhất mà siêng năng tu tập các đạo, lìa mọi lỗi lầm ô nhiễm. Do sự tu hành lìa nhiễm, mà từ bỏ được ái dục và các pháp xấu ác, chẳng thiện, lại có suy tìm (tầm) và quán xét kỹ lưỡng (tứ) lìa các động cơ sinh ra các niềm hoan lạc mà trụ vào Sơ thiền một cách hoàn hảo đầy đủ. Kể rộng ra cho đến việc trụ vào Tứ thiền một cách hoàn toàn đầy đủ…, thì đó gọi là tu.

Nhân tu đó, nương vào tu đó, do tu đó mà lập ra, nên đều thấu triệt hiểu biết đúng đắn tự tại mọi chỗ. Nên gọi là tuệ do tu mà có vậy. Có người nói: Đây cũng gọi là tuệ do tư duy suy tư mà có chưa đúng: Vì sao? Vì chỉ dựa vào pháp đặc biệt (Pháp bất cộng) của pháp Phật mà tu hành thì mới gọi được là do tu mà thành được tuệ. Nay ở đây có nghĩa là dựa vào các điều đã kể mà khởi lên cái tuệ tịch tĩnh, thì đều gọi là tuệ do tu mà có.

– Ba thứ tuệ sau: Đó là tuệ của hàng hữu học, tuệ của hàng vô học và tuệ của hàng chẳng phải hữu học, chẳng phải vô học.

Hỏi: Thế nào là tuệ của hàng hữu học?

Đáp: Học là tác ý, tương ưng, là với phép chọn lựa thì phải chọn lựa thật kỹ lưỡng, vô cùng kỹ lưỡng để hiểu rõ, hiểu tất cả, hiểu gần, hiểu khắp hết. Và thấu suốt các điều quan yếu, phán xét định lượng kỹ lưỡng sáng suốt. Dùng hoạt động của tuệ hiểu biết thông suốt Tỳ-bátxá-na. Đó gọi là tuệ của hàng hữu học.

Hỏi: Thế nào là tuệ của hàng vô học?

Đáp: Với hàng vô học mà tác ý, tương ưng, là đối với pháp chọn lựa kể dài đến Tỳ-bát-xá-na, thì đó gọi là tuệ của hàng vô học.

Hỏi: Thế nào là tuệ của hàng phi học, phi vô học?

Đáp: Nghĩa là với hữu lậu mà tác ý tương ưng. Nghĩa là đối với pháp chọn lựa kể dài đến Tỳ-bát-xá-na, thì đó gọi là tuệ của hàng phi học, phi vô học.

– Ba thứ căn: Đó là căn chưa biết sẽ biết, căn đã biết và căn biết đầy đủ. Dựa vào pháp uẩn mà luận sâu xa rộng về các tướng của chúng, như Đức Thế Tôn nói kệ:

Học là học các căn
Luôn theo đạo chính trực
Thường siêng năng tinh tấn
Giữ gìn kỹ tâm mình.
Tuệ căn đầu không dứt
Sinh tuệ căn thứ hai
Còn tuệ căn thứ ba
Giải thoát rồi mới có.
Ngôi giải thoát chẳng động
Các kiết sử dứt hết
Căn vô lậu tròn đầy
Ưa ngăn trừ các căn.
Trụ sâu vào tịch diệt
Nhận giữ thân sau cùng
Hàng phục chúng quân ma
Chứng thường lạc rốt ráo.

– Ba thứ nhãn: Đó là nhục nhãn (mắt trần), thiên nhãn, Thánh tuệ nhãn.

Hỏi: Nhục nhãn (mắt trần) là sao?

Đáp: Đó là do xương thịt, máu sạch của bốn đại tạo ra, gồm có nhãn giới, nhãn xứ và nhãn căn, nên gọi là nhục nhãn.

Hỏi: Thiên nhãn (mắt trời) là sao?

Đáp: Chẳng do các thứ xương thịt màu tạp nhạp, mà phải thật sạch của bốn đại tạo nên, gồm có: nhãn giới, nhãn xứ và nhãn căn, nên gọi là thiên nhãn.

Hỏi: Thánh tuệ nhãn là sao?

Đáp: Tức là các thứ tuệ hữu học, tuệ vô học, cùng tất cả các thứ tuệ phi học, phi vô học. Đó gọi là Thánh tuệ nhãn.

Thế Tôn có nói kệ:

Nhục nhãn là kém nhất
Thiên nhãn có khá hơn
Thánh tuệ nhãn quý nhất
Ba thứ đó khác nhau
Tuệ thiện ở thế gian
Có khả năng lựa chọn
Học, không học, biết đúng
Hết sinh, già, bệnh chết
Đại giác cõi trời người
Danh xưng rất cao xa
Đều do tuệ chứng nhanh
Diệu giác trang nghiêm thân.

– Ba thứ nương nhờ: Gồm có: Nương nhờ nghe, nương nhờ lìa bỏ, nương nhờ tuệ.

Hỏi: Nương nhờ nghe là sao?

Đáp: Là nghe học nhiều, nhớ chắc, chứa nhóm các điều nghe thấy. Các pháp thiện được nói ra, đủ các phần trước giữa sau với lời lẽ nghĩa lý cao siêu khéo léo, thuần nhất, đầy đủ, phạm hạnh trong sạch…, với các pháp như thế thì nên lắng nghe thật kỹ lưỡng đầy đủ rồi ghi nhớ thật chính xác đầy đủ rõ ràng các lời giảng dạy đó và chuyên tâm suy xét phán đoán tìm hiểu cặn kẻ để thấu suốt triệt để các nghĩa lý cao sâu. Thế nên gọi là nghe. Nhân nghe đó, nương cái nghe đó, do xây dựng nghe như thế, cho nên có thể đoạn trừ tất cả các pháp xấu xa bất thiện mà khéo tu các pháp thiện. Đó gọi là nghe, cũng gọi là nương nhờ, cũng gọi là nương nhờ sự nghe học. Đó gọi là nương nhờ nghe.

Hỏi: Nương nhờ sự lìa bỏ là sao?

Đáp: Tức là lìa bỏ ái dục, các điều xấu xa bất thiện, có tìm tòi suy xét (tầm) có quán xét (tứ) lìa bỏ cái gốc sinh ra niềm vui hoan lạc mà trụ vào sơ thiền một cách hoàn mãn (đầy đủ) rộng kể cho đến đệ tứ thiền…, đó gọi là sự lìa bỏ. Nhân lìa bỏ đó, nương vào sự lìa bỏ đó, do xây dựng sự lìa bỏ như thế, nên có thể đoạn trừ được các pháp chẳng thiện và giỏi tu các pháp thiện. Đó gọi là sự lìa bỏ, cũng gọi là nương

nhờ, sự nương nhờ lìa bỏ, cho nên gọi là nương nhờ sự lìa bỏ Hỏi: Nương nhờ tuệ là sao?

Đáp: tức là hiểu biết như thật đây là khổ thánh đế, đây là Tập thánh đế, đây là sự diệt khổ thánh đế, đây là con đường đến đạo diệt khổ thánh đế. Đó gọi là tuệ. Nhân tuệ đó, y vào tuệ đó và xây dựng tuệ như thế, cho nên có thể đoạn trừ các pháp chẳng thiện và khéo tu các pháp thiện. Đó gọi là tuệ, cũng gọi là nương nhờ, hay nương nhờ vào tuệ. Do đó gọi là nương nhờ tuệ, như Đức Thế Tôn nói kệ:

Nương nghe là kém nhất
Nương lìa thì khá hơn
Nương tuệ là tối thắng
Sức tinh tấn đầy đủ.
Luôn nhập định lạc tịnh
Biết thế gian sinh diệt
Giải thoát với tất cả
Tất sang đến bờ kia.
Bài tụng thứ năm:
Năm: Ba pháp có mười
Là học, tu, trụ, định
Đạo, tịnh, mặc, tăng thượng
Vô thượng và ba minh.

Gồm có: ba thứ học, ba thứ tu, ba thứ trụ, ba thứ định, ba thứ thị đạo, ba thứ thanh tịnh, ba thứ tịch mặc, ba thứ vô thượng và ba thứ minh.

– Ba thứ học: Gồm có giới học tăng thượng, tâm học tăng thượng, tuệ học tăng thượng.

Hỏi: Giới học tăng thượng là sao?

Đáp: Tức là an trụ vào giới luật đầy đủ, giữ gìn các luật nghi giải thoát đặc biệt. Các pháp tắc luật lệ ra làm tất cả đều đầy đủ đúng đắn cho nên dù một lỗi lầm rất nhỏ mà coi như một đại sự lo lắng mãi khôn nguôi. Chỗ nào học được đều luôn đến cầu học. Đó gọi là giới học tăng thượng.

Hỏi: Tâm học tăng thượng là sao?

Đáp: Tức là lìa các ái dục, các pháp xấu xa chẳng thiện, luôn luôn tìm tòi (tầm) và suy xét (tứ) để lìa cái gốc sinh ra niềm hoan lạc mà nhập vào định sơ thiền một cách hoàn mãn trọn vẹn. Rộng kể cho đến nhập trụ vẹn toàn vào cả đệ Tứ thiền. Đó gọi là tâm học tăng thượng.

Hỏi: Tuệ học tăng thượng là sao?

Đáp: Tức là đúng như thật mà hiểu biết đây là khổ thánh đế, đây là Thánh đế chiêu tập khổ. Đây là Thánh đế sự diệt khổ, đây là Thánh đế đạo (con đường) dẫn đến sự diệt khổ. Đó gọi là tuệ học thêm cao (tăng thượng) Thế Tôn đã nói kệ:

Bí-sô đủ ba học
Ưa tu hành đúng lý
Giới – Tâm – Tuệ thêm lên
Luôn liên tục hiện hành.
Đầy đủ sức tinh tấn
Và sáng đầy thiền định
Luôn gìn giữ các căn
Siêng tu, chẳng buông lung.
Ngày sao đêm cũng vậy
Đêm vậy ngày cũng thế
Trước sao sau cũng vậy
Sau sao trước cũng thế.
Dưới trên như thế nào
Trên dưới cũng như vậy
Nương nhờ mọi chỗ tốt
Do định chẳng phóng dật.
Đây nói là học đạo
Chẳng phóng túng, mà trụ
Do hay hiểu, giỏi xả
Nên được tâm giải thoát.
Đời bảo là bậc giác
Dũng mãnh đến bờ giác
Hạnh sáng đều tròn đầy
Luôn trụ chỗ không quên.
Mạng căn không nối tiếp
Ái dứt nên giải thoát
Như đèn lửa Niết-bàn
Tâm giải thoát rốt ráo.

– Ba thứ tu: Đó là tu giới, tu định và tu tuệ.

Hỏi: Tu giới là sao?

Đáp: Nghĩa là đối với các giới luật cao quý nên gần gũi rèn tập thật nhiều, liên tục ân cần quý trọng siêng năng tu hành chẳng ngơi nghỉ. Đó gọi là tu giới.

Hỏi: Tu định là sao?

Đáp: Tức là đối với các pháp thiền định cao quý nên gần gũi rèn tập thật nhiều liên tục ân cần quý trọng và siêng năng tu hành không ngơi nghỉ. Đó gọi là tu định.

Hỏi: Tu tuệ là sao?

Đáp: Tức là đối với các trí tuệ cao quý nên gần gũi rèn tập thật nhiều, liên tục ân cần quý trọng và siêng năng tu hành không ngơi nghỉ. Đó gọi là tu tuệ. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Khéo tu giới – định – tuệ
Đến rốt ráo tận cùng
Đã dứt hẳn các hữu
Không lỗi cũng chẳng lo.
Thoát khỏi các chấp trước
Đủ định lợi tuệ sâu
Vượt khỏi cảnh giới ma
Như mặt trời chiếu khắp.

*****

– Ba thứ trụ: Thiên trụ, Phạm trụ, Thánh trụ.

Hỏi: Thiên trụ là gì?

Đáp: Nghĩa là bốn thứ thiền (tĩnh lự). Bốn pháp nào? Nghĩa là lìa ái dục, các pháp xấu xa bất thiện có tầm, có tứ, lìa sự sinh ra vui mừng.

Khi nhập sơ thiền đầy đủ mà trụ. Rộng nói cho đến nhập vào Tứ thiền đầy đủ mà trụ. Như Đức Thế Tôn đã nói cho thầy Bà-la-môn Phệna-bổ-lê: “Nầy Phạm chí nên biết! Như khi Ta nhập tứ thiền ở thế gian, thì cứ chăm chỉ theo một thứ thiền định tĩnh lự mà thực hành. Khi đó thì ta thiên trụ (ở cõi trời) mà thực hành. Như khi ta ở thế gian mà trụ nhập vào tứ thiền, cứ tùy theo một thứ thiền mà trụ nhập kể cả khi đi, đứng, ngồi nằm. Chính khi đó ta là thiên trụ mà trụ dù có đi, đứng, ngồi nằm. Như vậy khi ở thế gian ta trụ vào tứ thiền thì cứ một thứ thiền định tĩnh lự mà gần gũi luyện tập nhiều lần ân cần quý trọng liên tục, siêng tu không ngơi nghỉ. Đó gọi là Thiên trụ”.

Hỏi: Phạm trụ là thế nào?

Đáp: Tức là bốn thứ vô lượng. Bốn thứ vô lượng là gì? Đó là TừBi-Hỷ-Xả, như Đức Thế Tôn đã nói với thầy Bà-la-môn Phệ-na-bổ-lê: “Nầy Phạm chí nên biết! Như khi Ta tu bốn thứ tâm vô lượng, thì cứ chuyên tâm vào một thứ tâm vô lượng mà thực hành. Chính khi đó mà ta phạm trụ (trụ vào thanh tịnh) mà thực hành. Như khi ta tu bốn tâm vô lượng thì ta cứ chuyên tâm vào một thứ vô lượng tâm mà thực hành kể cả khi đi, đứng, ngồi nằm. Chính khi đó ta là phạm trụ mà trụ dù có đi, đứng, ngồi, nằm, như vậy khi đó ta cứ một thứ vô lượng tâm mà gần gũi luyện tập nhiều lần ân cần quý trọng liên tục, siêng tu mãi không ngơi nghỉ. Đó gọi là Phạm trụ”.

Hỏi: Thánh trụ là thế nào?

Đáp: Tức là đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo… Như Thế Tôn đã nói với thầy Bà-la-môn Phệ-na-bổ-lê: “Nầy Phạm chí nên biết! Như ở trong những pháp thiện sinh ra từ ý niệm xuất ly, xa lìa, thì ta theo một pháp thiện ấy mà thực hành. Chính khi đó ta là Thánh trụ (trụ vào thánh vị) mà thực hành. Như ta dùng pháp thiện sinh ra từ xuất ly, xa lìa, chuyên tâm vào một pháp thiện đó mà trụ, kể cả việc đi, đứng, ngồi nằm. Chính khi đó ta là Thánh trụ mà trụ hoặc đi, đứng, ngồi nằm. Như vậy ta cứ chuyên tâm pháp thiện do xuất ly, xa lìa sinh ra ấy mà gần gũi rèn tập nhiều lần, ân cần quý trọng liên tục, siêng tu mãi không ngơi nghỉ. Đó gọi là Thánh trụ”.

– Ba thứ định: Định có tầm có tứ, định không tầm chỉ có tứ, định không có tầm tứ.

Hỏi: Thế nào là định có tầm có tứ?

Đáp: Nếu định mà có đủ cả tầm và tứ, thì tầm khởi lên, tứ cũng sẽ khởi lên, tầm tương ưng, tứ cũng sẽ tương ưng. Nương vào tầm tứ mà chuyển tâm trụ vào đó. Và rộng nói cho đến khi tâm chỉ chú vào một cảnh. Thì đó gọi là định có tầm có tứ.

Hỏi: Thế nào là định không có tầm chỉ có tứ?

Đáp: Nếu định mà không có tầm, chỉ có tứ thì không có tầm khởi, chỉ có tứ khởi, và tầm không tương ưng mà chỉ có tứ tương ưng thôi. Khi tầm đã thôi dứt ngơi nghỉ thì chỉ có y vào tứ mà chuyển tâm trụ vào thôi. Và rộng nói cho đến khi tâm chỉ chú vào một cảnh. Đó gọi là định không tầm có tứ.

Hỏi: Thế nào là định không có tầm và tứ?

Đáp: Nếu định mà không có cả tầm và tứ, thì chẳng phải tầm hay tứ khởi, mà tầm và tứ cũng không tương ưng. Nếu tầm và tứ đều đã thôi dứt ngơi nghỉ thì tâm cũng trụ vào đó. Rộng nói cho đến khi tâm chỉ chú vào một cảnh. Đó gọi là định không tầm không tứ.

– Ba thứ chỉ bày:

  1. Do thần thông biến hóa chỉ bày.
  2. Do tâm ghi nhớ chỉ bày.
  3. Do lời dạy răn chỉ bày.

Hỏi: Do thần thông biến hóa chỉ bày là sao? Thần thông biến hóa là gì, chỉ bày là gì mà nói là dùng thần biến để chỉ bày?

Đáp: Thần thông biến hóa, tức là các loại thần thông biến hóa

đang biến, đã biến, sẽ biến, tức có thể biến một thành nhiều, hoặc nhiều thành một, hoặc rõ ràng hoặc kín đáo, hoặc biết, hoặc thấy…, như mọi ngăn cản của tường vách, núi non, sông biển…, thân vẫn đi qua được hết. Như thế nói rộng và kể đến hiện ra thân các trời thần chuyển biến tự do. Đó gọi là thần thông biến hóa.

Chỉ dẫn là sao? Nghĩa là có thầy Bí-sô tuy đã rõ biết các thứ thần thông biến hóa nhưng không để cho ai thấy biết cả. Thì đó gọi là thần biến tự tại chứ không gọi là chỉ dẫn. Như nếu Bí-sô nào rõ biết các thứ thần thông biến hóa mà lại khiến cho người khác đều thấy biết được cả, thì gọi là thần biến tự tại mà cũng gọi là chỉ dẫn. Thế nên khi nói là có thần thông biến hóa chỉ dẫn, thì cần phải khiến cho người khác thấy tất cả, hiểu biết tất cả rồi tùy theo đó mà điều phục dạy dỗ, thì mới gọi là thần biến, cũng gọi là chi dẫn. Do đó mà nói do thần thông biến hóa chỉ dẫn, chỉ bày.

Hỏi: Do tâm ghi nhớ chỉ bày: Tâm ghi nhớ là sao? Chỉ bày là sao mà nói tâm ghi nhớ chỉ bày?

Đáp: Tâm ghi nhớ, như Thế Tôn đã dạy: Các thầy Bí-sô nên biết, có một loại người hoặc do xem thấy hình tướng hoặc do nghe nói năng rồi tùy theo đó mà ghi nhớ tâm người khác, ý nó như vầy, như kia, ý nó thay đổi ra sao, hoặc nhớ các việc quá khứ, vị lai, hoặc đang xảy ra, hoặc nhớ các việc làm, các lời nói đã lâu. Hoặc chỉ nhớ chút ít thì gọi là tâm ghi nhớ. Hoặc nhớ được nhiều thì gọi là pháp tâm sở. Các thứ ghi nhớ tất cả như thật thì đều là như thật.

Hoặc có một loại người chẳng do xem tướng, hay nghe nói mà vẫn ghi nhớ được tâm người khác. Nhưng ấy là do thiên thần hoặc ma quỷ (phi nhân) nghe tiếng nói nên ghi nhớ được tâm người khác, ý nói thế nầy thế kia, ý nó thay đổi ra sao, nói rộng như trước đã kể.

Hoặc có một loại người chẳng do thiên thần hay phi nhân nghe tiếng nói mà ghi nhớ được tâm kẻ khác, song chính là do nội tâm thấy biết tâm tánh của người có các nghĩ ngợi suy tư (tầm tứ) nên ghi nhớ tâm người khác, ý nói thế nầy thế kia biến đổi ra sao…, nói rộng như trước.

Lại có một loại người chẳng phải do nội tâm biết rõ tánh tình của người khác có suy tư nghĩ ngợi gì. Song do hiện thấy tâm tánh đang trụ vào Tam-ma-địa không tầm không tứ. Thấy rồi thì nghĩ: Như thế là vị nầy đã không tầm tứ, ý hạnh rất mầu nhiệm. Như thế vị nầy khi xuất định cứ nên khởi ý như thế, tầm tứ như thế, những điều ghi nhớ tất cả như thật đều là như thật.

Như thế là vị đó từ đó xuất định sẽ khởi ý như thế, tầm tứ như thế các điều ghi nhớ tất cả là như thật thì đều là như thật. Đó gọi là tâm ghi nhớ

Chỉ dẫn là sao? Nghĩa là như có vị Bí-sô tuy do xem tướng hoặc do nghe nói năng rồi ghi nhớ tâm người khác, rộng nói cho đến: Vị nầy như thế từ định xuất ra sẽ khởi ý như thế, tầm tứ như thế. Các điều ghi nhớ tất cả là như thật thì đều là như thật. Nếu chẳng để cho người khác biết thì đó gọi là tâm ghi nhớ tự tại chẳng gọi là chỉ dẫn. Còn như có Bí-sô do xem tướng hoặc do nghe nói năng rồi tùy theo đó mà ghi nhớ tâm người khác. Nói rộng cho đến như thế là vị nầy từ đây xuất định, tất sẽ khởi ý như thế, tầm tứ như thế. Các điều ghi nhớ tất cả là như thật thì đều là như thật, lại còn khiến cho người khác biết được, thì đó gọi là tâm ghi nhớ tự tại (do ở mình) cũng gọi là chỉ dẫn. Thế nên nói tâm ghi nhớ chỉ dẫn. Điều cần là phải khiến cho người khác thấy tất cả, biết tất cả hiểu tất cả rồi tùy theo mà dạy dỗ điều phục, thì mới gọi là ghi nhớ, cũng gọi là chỉ dẫn. Do đó mà gọi là do tâm ghi nhớ mà chỉ bày.

Hỏi: Do răn dạy chỉ bày: Răn dạy là sao, chỉ dẫn là sao mà gọi là do răn dạy mà chỉ bày?

Đáp: Răn dạy, như Thế Tôn nói: “Nầy các Bí-sô nên biết! Như có Bí-sô vì người khác nói, đây là Khổ thánh đế cần phải biết rõ. Đây là khổ tập (sự gây khổ) Thánh đế phải diệt cho hết. Đây là khổ diệt (sự hết khổ) Thánh đế cần nên chứng. Đây là Đạo dẫn đến sự diệt khổ Thánh đế, cần phải tu tập. Đó gọi là răn dạy”.

Chỉ dẫn (bày) là sao? Nghĩa là có Bí-sô tuy cũng vì người khác nói đây là khổ Thánh đế, cần phải biết cặn kẽ. Đây là sự gây khổ Thánh đế cần phải diệt cho hết. Đây là sự diệt hết khổ cần phải chứng. Đây là Đạo dẫn đến sự diệt khổ cần phải tu hành. Nhưng khi người ấy nghe xong thì lại không chấp nhận cho đó là đúng thật chẳng có được trí tuệ để quan sát các việc ở đời. Nên chỉ gọi đó là lời răn dạy tự tại, chứ không gọi là chỉ dẫn.

Nếu có Bí-sô có khả năng vì người khác nói: Đây là khổ Thánh đế, nên hiểu biết cặn kẻ… cho đến đây là Đạo dẫn đến sự diệt khổ Thánh đế, cần phải tu tập, nhưng lại khiến mọi người khi nghe xong thì liền chấp nhận cho là đúng thật và có được trí tuệ quan sát mọi việc ở đời đúng đắn, nên gọi là sự răn dạy tự tại cũng gọi là sự chỉ bày. Thế nên nói do răn dạy chỉ bày là phải khiến người khác thấy tất cả, hiểu tất cả để tùy theo đó mà răn dạy điều phục họ, nên mới gọi là sự răn dạy cũng gọi là chỉ bày. Do đó mà nói do răn dạy mà chỉ bày.

– Ba thứ thanh tịnh: Thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh và ý thanh tịnh.

Hỏi: Thân thanh tịnh là gì?

Đáp: Đó tức là không giết hại, không trộm cướp, không dâm dục tà hạnh, hoặc nói là lìa giết hại, lìa trộm cướp, lìa phi phạm hạnh. Lại còn có các thân nghiệp hạng có học, có thân nghiệp hạng vô học và có các thân nghiệp hạng khéo phi học phi vô học. Tất cả như thế gọi là thân thanh tịnh.

Hỏi: Ngữ thanh tịnh là gì?

Đáp: Tức lìa lời nói dối, lời ly gián, lời thô tục dữ dằn, lời cấu uế, lại còn có các ngữ nghiệp hạng có học, các ngữ nghiệp hạng vô học và các ngữ nghiệp khéo phi học phi vô học. Tất cả như thế gọi là ngữ thanh tịnh.

Hỏi: Ý thanh tịnh là gì?

Đáp: Tức là không tham lam, không sân giận, thấy biết đúng. Lại còn có các ý nghiệp hạng có học, có các ý nghiệp hạng vô học và có các ý nghiệp khéo phi học phi vô học. Tất cả như thế gọi là ý thanh tịnh.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thân, ngữ, ý thanh tịnh
Ta nói vô lậu tịnh
Gọi thanh tịnh vẹn toàn
Tịnh được các thứ ác.

– Ba thứ vắng lặng (Tịch mặc): Đó là thân vắng lặng, ngữ vắng lặng, ý vắng lặng.

Hỏi: Thân vắng lặng là sao?

Đáp: Tức là phép tắc luật nghi của thân thuộc loại không học, nên gọi là thân vắng lặng.

Hỏi: Ngữ vắng lặng là sao?

Đáp: Tức là phép tắc luật nghi của ngữ thuộc loại không học, nên gọi là ngữ vắng lặng.

Hỏi: Ý vắng lặng là sao?

Đáp: Tức là phép tắc luật nghi của ý thuộc loại không học, nên gọi là ý vắng lặng. Như Thế Tôn nói kệ:

Thân, ngữ, ý vắng lặng
Ta nói vô lậu lặng
Gọi vắng lặng vẹn toàn
Vắng lặng các thứ ác.

– Ba thứ vươn lên (tăng thượng): Đó là đời vươn lên, tự mình vươn lên, pháp vươn lên.

Hỏi: Đời vươn lên là sao?

Đáp: Như Thế Tôn có nói: “Có các Bí-sô thường ở A-lan-nhã, hoặc ngụ bên gốc cây hay ở chỗ vắng vẻ đã học những giáo pháp đáng học hỏi, nên nghĩ: Cõi thế gian nầy có rất nhiều người tập hợp, và chắc chắn ở những chỗ đông đảo đó phải có nhiều trời thần. Các vị nầy có thiên nhãn và trí biết rõ lòng dạ người khác, dầu gần hay xa đều thấy rõ ràng, tâm ai xấu tốt cao thấp đều am tường, nay nếu ta nghĩ ngợi (tầm tứ) các việc chẳng thiện, tất nhiên là các đam mê chấp trước bất thiện sẽ đeo bám vào tâm ta. Nếu các thiên thần chư Thiên thấy biết ta như thế tất sẽ cùng bảo nhau: Hãy xem anh hiền lành kia, đã từng chán đời kính đạo mà xuất gia, tại sao nay lại nghĩ ngợi chi các điều xằng bậy bất thiện để cho các đam mê chấp trước ác kia có dịp bám chắc vào. Lại trong cõi thế gian đây nơi đại chúng thường tụ họp đó thì hoặc hiện có chư Phật và các hàng đệ tử của Ngài hoặc đã có thiên nhãn và trí thấu hiểu lòng người khác, dù gần hay xa thảy đều biết rõ, tâm ai tốt xấu cao thấp cũng am tường. Nay nếu ta nghĩ ngợi lung tung đến các điều chẳng tốt lành để bị các đam mê chấp trước ác kia nó bám chặt. Tất nhiên chư Thánh chúng sẽ thấy biết ta. Biết rồi sẽ cùng bảo nhau: Hãy nhìn kỹ người trai trẻ hiền lành kia, đã từng chán đời tự tin đạo xuất gia, tại cớ sao nay lại nghĩ ngợi những điều chẳng tốt lành để các đắm mê chấp trước xấu xa quấy nhiễu ta. Và lại nghĩ: Các người trong thế gian dù có thấy biết ta như nhưng đâu bằng chính ta tự phán xét hiểu biết. Vậy nay ta cần phải tự xét nét chớ nên sinh ra các nghĩ ngợi xằng bậy bất thiện như thế, để bị các đam mê chấp trước kia chi phối. Người ấy nhân đó tự xét biết tìm hiểu theo dõi mình, rồi siêng năng tinh tấn tu tập hơn lên khiến thân tâm tiến đến chỗ nhẹ nhàng thư thái, xa lìa các hôn trầm mê muội mà trụ vào chánh niệm, tâm chí quyết một điều là chế phục sự ngu si dốt nát. Do thế gian giúp sức vươn lên như thế nên đoạn trừ được các pháp bất thiện khéo tu các pháp thiện. Như thế là nhờ sức thế gian (đời) vươn cao mà khởi lên các pháp thiện hữu lậu hoặc đạo vô lậu. Thế nên gọi là đời vươn lên”.

Hỏi: Tự mình vươn lên là sao?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: “Có những Bí-sô thường ở nơi A-lannhã, hoặc tạm trú bên gốc cây hay ở chốn vắng vẻ, đã học các pháp đáng học hỏi, nên nghĩ: Ta nay đã chán đời tục tin đạo, xuất gia, chẳng nên sinh ra các nghĩ ngợi lung tung về các điều xằng bậy bất thiện, để cho các đam mê chấp trước chi phối ta. Hãy luôn luôn nên tự xét nét, chớ nên nghĩ ngợi lung tung xằng bậy như thế, để cho các thứ đam mê ham thích xấu kia lôi cuốn ta. Do đó người ấy tự theo dõi xét nét mình, rồi siêng năng tiến tu để thâm tâm được khinh an thoải mái, lìa mình ra hôn trầm mê muội, an trụ vào chánh niệm định tâm một hướng chế ngự ngu si. Ấy là do sức vươn cao của chính mình, nên có thể cắt đứt các pháp bất thiện, giỏi tu các pháp thiện. Như thế là do chính sức vươn cao của chính mình mà có thể khởi lên các pháp thiện hữu lậu hoặc đạo vô lậu. Đó gọi là tự mình vươn lên”.

Hỏi: Pháp vươn lên là sao?

Đáp: Như Thế Tôn đã nói: “Có nhiều thầy Bí-sô sống nơi A-lannhã hoặc ở bên gốc cây nơi thanh vắng, đã từng học các pháp đáng học nên nghĩ: Tất cả pháp mà chư Như Lai bậc Chánh Đẳng Giác nói là khéo nói những gì hiện thấy. Đây là lìa mình ra khỏi nhiệt não đúng lúc. Các bậc trí đến quan sát và thưởng thức thì nội tâm đều chứng ngộ. Chánh pháp như thế, ta đều hiểu biết, không nên sinh nghĩ ngợi lung tung các việc chẳng tốt lành, khiến các đam mê ham thích xấu quấy nhiễu ta. Do đó người ấy tự xét hiểu mình rồi, siêng năng tiến tu khiến thân tâm khinh an thoải mái, xa lìa các hôn trầm mê muội và an trụ vào chánh niệm, định tâm một mực, chế ngự ngu si đần độn. Chính nhờ sức vươn cao của chánh pháp, nên có thể cắt đứt các điều xấu bất thiện và khéo tu các pháp thiện. Như thế là do chính sức vươn cao của chánh pháp, có thể khởi lên các pháp thiện hữu lậu hoặc đạo vô lậu. Đó gọi là pháp vươn cao”. Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Kẻ sống không có trí
Ưa làm các nghiệp ác
Họ giỏi tự thấu suốt
Như thật và hư vọng.
Bậc hiền thiện chứng được
Chẳng nên tự khinh mình
Tự tỉnh ác của mình
Có lỗi, không giấu giếm.
Đời hiện có thiên thần
Phật và đệ tử Phật
Luôn thấy biết kẻ ngu
Gây tạo các nghiệp ác.
Đó là đời vươn cao
Mình và pháp vươn cao
Giỏi trừ pháp chẳng thiện
Tu hành làm theo pháp.
Ta nói kẻ mạnh mẽ
Khéo hàng phục quân ma
Vượt sinh già bệnh chết
Chứng tịch diệt mãi mãi.

– Ba thứ vô thượng: Đó là hạnh vô thượng, trí vô thượng và giải thoát vô thượng.

Hỏi: Hạnh vô thượng là sao?

Đáp: Tức là vô học tám chi Thánh đạo (Tám Thánh đạo) Hỏi: Trí vô thượng là sao?

Đáp: Tức là tám thứ trí vô học gọi là trí vô thượng.

Hỏi: Giải thoát vô thượng là sao?

Đáp: Tức là tận trí và vô sinh trí thì gọi là giải thoát vô thượng.

– Ba minh: Là vô học ba minh:

  1. Trí sáng của bậc vô học tùy sức mà nhớ về đời trước.
  2. Trí sáng của bậc vô học về sinh tử.
  3. Trí sáng của bậc vô học về lậu tận.

Hỏi: Thế nào là trí sáng của bậc vô học tùy sức mà nhớ về đời trước?

Đáp: Như nhớ biết đúng như thật các sự việc đời trước, nghĩa là nhớ biết các việc đời quá khứ đúng như thật, hoặc một đời, hay mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, hoặc nhiều trăm ngàn, nhiều ngàn đời, nhiều trăm ngàn đời. Hoặc kiếp hoại hay kiếp thành, hoặc kiếp hoại và thành, hoặc nhiều kiếp hoại, nhiều kiếp thành, hoặc kiếp hoại thành. Đối với các loài hữu tình sống trong các đời đó, tên gì họ gì, dòng họ nào, ăn những thức ăn gì, đau khổ vui sướng ra sao, sống già hay trẻ, hưởng thọ được nhiều ít khi nào thì chết…, và ta cũng vậy, chính ta hoặc mọi người, sống nơi khác chết rồi sinh lên nơi nầy, hoặc ở nơi nầy sinh lên chỗ khác, cho đến hình dạng, cách nói năng, việc làm…, với bao nhiêu thứ của các đời trước đó, chỉ cần một ý nghĩ là ta biết thật rõ ràng đầy đủ đúng y như thật. Đó gọi là trí sáng của bậc vô học tùy sức nhớ mà biết việc đời trước. Vì sao gọi là minh? Tức là trí thấy biết rõ ràng các việc ở đời trước một cách liên tục đó là minh.

Hỏi: Thế nào là trí sáng của bậc vô học về sinh tử?

Đáp: Do thiên nhãn thanh tịnh mà nhìn thấy suốt tất cả mọi người. Thấy rõ các loài hữu tình lúc mới sinh, lúc chết hay hình dạng đẹp, xấu hoặc giỏi, cao sang hay thấp kém, dở dốt, hoặc sinh vào cõi cao quý hay bị đọa vào chốn ác đạo. Các loài hữu tình đó có thân, miệng, ý đã làm các điều tội lỗi xấu ác gì, hoặc khởi lên tà kiến, có những quan điểm nhận xét bậy bạ, hoặc chê bai chống báng Thánh tăng, các bậc hiền sĩ. Do các tà kiến sai quấy, gây nghiệp tạo nhân, do các nguyên nhân đó mà sau khi chết rồi tất phải rơi vào đường dữ đọa vào địa ngục. Và cũng có các loài hữu tình có thân, ngữ và ý đã thành tựu các hạnh tốt đẹp thanh tịnh nhiệm mầu, phát khởi chánh kiến là những tư tưởng, nhận thức sáng suốt, gây tạo nghiệp thân. Do nhân duyên đó mà khi chết rồi thì được sinh lên các cõi thiện như các cõi trời. Tất cả các loại nghiệp quả tốt, xấu sai khác nhau của tất cả chúng sinh thì đều biết đúng như thật. Thế nên gọi là trí sáng của bậc vô học về sinh tử. Minh ở đây là sao? Là trí hiểu biết các nghiệp quả của mình, đó gọi là minh.

Hỏi: Thế nào là trí sáng của bậc vô học về lậu tận?

Đáp: Tức là biết đúng như thật đây là khổ Thánh đế, đây là nhân gây khổ Thánh đế, đây là sự diệt hết khổ Thánh đế và đây là Đạo dẫn đến sự diệt khổ Thánh đế. Đúng như thật mà biết như thế, thấy như thế, biết rõ các tâm giải thoát, như tâm đã giải thoát các dục lậu, tâm đã giải thoát các hữu lậu. Ta biết một cách đúng như thật: “Đời sống của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau”. Thế nên gọi là trí sáng của bậc vô học về lậu tận. Minh ở đây nghĩa là gì? Tức là trí biết các lậu hoặc đã dứt hết thế nên gọi là minh. Như Thế Tôn nói kệ:

Mâu-ni biết đời trước
Thấy các cõi tốt xấu
Hiểu sinh tử đã hết
Được trí tuệ rốt ráo.
Biết tâm hằng giải thoát
Khỏi tham sân… các lậu
Thành tựu ba thứ minh
Gọi là đủ ba minh.