KINH ĐẠI THỪA ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 3: VÔ Y HÀNH

(Từ Quyển 3 đến đầu Quyển 5)

Bấy giờ, trong chúng hội có có một vị Đại phạm thiên tên là Thiên Tạng, từ lâu đã gieo trồng căn lành, trụ vào Địa thứ mười, đầy đủ oai đức của Đại Bồ-tát, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay lễ Phật, nói bài tụng:

Biển tuệ chứa công đức
Nay con muốn thưa hỏi
Nguyện xin Phật thương xót
Giải trừ nghi cho con.
Nay chúng con khát ngưỡng
Vị thắng pháp đức tạng thắng
Và vị nghĩa tối thượng
Cả chúng đều muốn nghe.

Phật bảo Đại phạm thiên Thiên Tạng:

–Như Lai cho phép ông được hỏi, tùy theo câu hỏi mà trả lời để làm cho ông hoan hỷ.

Đại phạm thiên thưa:

–Xin vâng, bạch Thế Tôn!

Đại Phạm Thiên nói bài tụng thưa hỏi:

Bậc thông tuệ tu định
An trú không buông lung
Là trụ thắng nghĩa đế
Là chỗ dựa sinh tử.
Ngày đêm nơi nghĩa pháp
Tinh cần tu tụng tập
Là vượt biển phiền não
Là hết đọa đường ác.
Dũng mãnh tu phước đức
Tu định, hướng Niết-bàn
Ở trong đường sinh tử
Đọa hết trong đường ác.
Sát-đế-lợi thông tuệ
Thành tựu mười vương luân
Chìm đắm trong sinh tử
Được chứng đắc quả Phật.
Tâm tạp nhiễm khó phục
Phiền não luôn quấy nhiễu
Làm sao tâm được tịnh
Tu định đắc công đức.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Đại phạm thiên Thiên Tạng:

–Lành thay, lành thay! Ông thật biện tài mới có thể hỏi ta nghĩa này, đối với pháp này ông đã chịu khó học, đối với các hạnh này ông đã được viên mãn. Ở vô số cõi Phật Thế Tôn thời quá khứ, ông đã siêng tu ba nghiệp, làm chánh pháp hưng thịnh, tiếp nối dòng giống Tam bảo. Nay vì lợi ích cho vô lượng chúng sinh lại hỏi Như Lai ý nghĩa thâm sâu như vậy.

Này thiện nam! Có pháp Đại ký biệt gọi là pháp vô y hành. Tất cả chư Phật Thế Tôn đời quá khứ vì muốn giáo hóa các hữu tình làm cho họ nhàm chán, xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết, gìn giữ pháp Đại ký biệt vô y hành. Chư Phật Thế Tôn khắp mười phương trong hiện tại cũng vì muốn giáo hóa các hữu tình làm cho họ nhàm chán xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết gìn giữ pháp Đại ký biệt vô y hành này. Tất cả chư Phật Thế Tôn đời vị lai cũng vì giáo hóa các hữu tình, làm cho họ nhàm chán xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết, giữ gìn pháp Đại ký biệt vô y hành này. Vào thời quá khứ, ông đã được nghe các Như Lai nói pháp Đại ký biệt vô y hành này. Ta ở trong hiện tại này cũng vì giáo hóa các hữu tình, làm cho họ nhàm chán xa lìa pháp sinh tử, làm cho họ đoạn trừ nghiệp phiền não, làm cho mau viên mãn ba thừa, nên giảng thuyết giữ gìn pháp Đại ký biệt vô y hành này. Ông nên lắng nghe, suy nghĩ cho kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt giảng giải.

Lúc bấy giờ Đại phạm thiên Thiên Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con xin muốn nghe.

Phật nói:

–Này Đại phạm! Có mười pháp vô y hành. Người nào tu định mà còn một hạnh thì không thể thành tựu căn lành ở Dục giới, giả sử trước kia đã thành tựu thì nay cũng lại mất đi, làm gì có thể thành tựu định cõi Sắc, Vô sắc, cho đến ba thừa dù đã thành tựu Nhất thừa. Những gì là mười?

  1. Ở đời có một hạng người tuy muốn tu định nhưng thiếu tư duyên hỗ trợ nên sự tìm cầu chỉ thêm nhiễu loạn.
  2. Lại có một hạng người tuy muốn tu định nhưng phạm giới, làm các việc ác.
  3. Lại có một hạng người tuy muốn tu định nhưng tà kiến điên đảo, vọng chấp tốt xấu, thân tâm cứng cõi.
  4. Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng tâm loạn động, không thuận theo Hiền thánh, các căn vọng động.
  5. Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng nói lời ly gián, phá rối hai bên.
  6. Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng nói lời thô ác, hủy nhục Hiền thánh.
  7. Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng nói lời tạp uế và lời dối trá.
  8. Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng ôm lòng tham lam, ganh ghét đối với cái được của người: Như được lợi dưỡng, cung kính thì tâm không vui mừng.
  9. Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng ôm lòng sân giận, đối với các hữu tình thường ganh ghét với họ.
  10. Lại có hạng người tuy muốn tu định nhưng ôm giữ tà kiến, bác bỏ nhân quả.

Này Đại phạm! Ông nên biết, đó là mười pháp vô y hành. Người tu định nào mà còn một pháp thì không thể thành tựu được căn lành ở Dục giới, giả sử trước đây có thành tựu thì nay cũng mất, làm sao có thể thành tựu định sắc, vô sắc, cho đến ba thừa dù đã thành tựu Nhất thừa.

Lại nữa, này Đại Phạm! Lại có mười pháp vô y hành. Người nào tu định mà còn có một pháp thì cuối cùng không thể thành tựu các Tam-ma-địa, giả sử trước đây thành tựu thì nay giảm mất. Những gì là mười?

  1. Tham đắm sự nghiệp.
  2. Tham đắm đàm luận.
  3. Tham đắm ngủ nghỉ.
  4. Tham đắm mưu cầu.
  5. Tham đắm sắc đẹp.
  6. Tham đắm tiếng hay.
  7. Tham đắm hương phấn.
  8. Tham đắm vị ngon.
  9. Tham đắm xúc chạm êm ái.
  10. Tham đắm tầm tứ.

Này Đại Phạm, ông nên biết, đó là mười pháp vô y hành. Người tu định nào mà còn có một pháp, cuối cùng không thể thành tựu các Tam-ma-địa, giả sử trước đây thành tựu thì nay giảm mất. Nếu không thể thành tựu các Tam-ma-địa thì tuy có tu tập các thiện pháp khác, nhưng do nhân duyên mong cầu thọ dụng vật của tín thí, mà phát sinh tâm, tâm sở nên dễ phạm các tội lỗi đối với các quốc vương, đại thần, bị quở trách hoặc bị đánh đập, hoặc bị chặt tay chân. Do nhân duyên này, mà bị bệnh nặng, thường chịu đau khổ, hoặc bệnh mau qua đời, đọa vào một trong ba đường ác, cho đến sinh vào địa ngục Vô gián, như Ôn-đạt-lạc-ca, A-la-trà-để-sa, Cù-ba-lý-ca, Đề-bà-đạt-đa. Những người như vậy bị thoái mất tĩnh lự, cho đến đọa vào địa ngục Vô gián, chịu vô lượng khổ lớn, khó chịu đựng được.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo A-nhã-đa Kiều-trần-na:

–Ta sẽ cho phép các ông Tỳ-kheo tu định ở nơi thanh vắng, ở phòng xá tốt nhất, đồ nằm tốt nhất, thức ăn uống tốt nhất, tất cả việc Tăng chúng đều nên buông xả. Vì sao? Vì các người tu định nếu thiếu các duyên hỗ trợ thì sẽ phát sinh những điều ác cho tâm, tâm sở, không thể thành tựu các Tam-ma-địa, cho đến bị đọa vào địa ngục Vô gián, chịu vô lượng khổ lớn khó chịu đựng. Các vị tu định nếu có đầy đủ các duyên hỗ trợ thì các Tam-ma-địa chưa thành tựu nay sẽ thành tựu, nếu trước đây đã thành tựu thì hoàn toàn không thối mất. Do vậy mà không sinh các pháp ác, nói rộng cho đến tầm, tứ bất thiện, được sinh lên cõi trời, chứng đắc Niết-bàn. Người tu định nếu chưa thành tựu các Tam-ma-địa thì đầu đêm, cuối đêm nên bỏ ngủ nghỉ mà tinh tấn tu học, xa lìa chỗ ồn ào, ít ham muốn, biết đủ, không luyến tiếc, tất cả tham lam, sân giận, che giấu, não hại, kiêu mạn, cao ngạo, tham lam keo kiệt, ganh ghét, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói dối, nói lời tạp uế, vui chơi, buông lung, tất cả đều phải xa lìa. Người thực hành như vậy đều được Thích, Phạm, Hộ thế, Tứ Thiên vương, Chuyển luân vương… khen ngợi, lễ bái, cung kính, phụng sự, cúng dường trăm ngàn na-dữu-đa đồ vật, huống chi là Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, Miệt-đạt-la,… Người chưa đắc định còn được các sự khen ngợi, lễ bái, cung kính, phụng sự, cúng dường, huống chi là người đã chứng đắc Tam-ma-địa.

Bấy giờ, Thế Tôn nói bài tụng:

Tu định nên đoạn hoặc
Và các nghiệp khó đoạn
Nên tu định trên hết
Bậc trí phải cúng dường.

Lúc ấy, Đại phạm thiên Thiên Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Người xuất gia trong Phật pháp, có thể bị Sátđế-lợi, đại thần, quan tể tướng dùng roi, gậy… đánh đập vào thân, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc là quở trách, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng song, điều đó được hay không được?

Phật bảo Đại phạm thiên Thiên Tạng:

–Này thiện nam! Các hữu tình nào ở trong pháp của ta mà xuất gia cho đến cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, hoặc trì giới, hoặc phá giới, thậm chí không có giới pháp, tất cả Trời, Người, A-tố-lạc… nương vào chánh pháp thế tục, dùng roi gậy đánh đập, tra khảo, hoặc nhốt vào lao ngục, hoặc quở mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạt mạng sống còn không được, huống chi là nương vào phi pháp. Vì sao? Vì trừ tất cả người trì giới, đa văn ra, những người xuất gia ở trong chánh pháp ta, nếu có kẻ phá giới, làm các pháp ác, bên trong mục nát như ốc sên, hôi nhơ, thật chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, thật chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, thường bị các phiền não điều phục làm cho điên đảo che mờ. Các Tỳ-kheo xấu ác, phá giới như vậy nhưng còn có thể hướng dẫn cho tất cả Thiên, Long, Dược-xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yếtlộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hộ-lạc-già, Nhân phi nhân được vô lượng kho tàng công đức trân bảo.

Lại nữa, này thiện nam! Ở trong giáo pháp của ta mà xuất gia, tuy phá giới nhưng các hữu tình lại luôn thấy hình tướng người xuất gia đó, nên sẽ phát sinh mười tư duy thù thắng, sẽ được vô lượng công đức báu. Những gì là mười?

Nghĩa là ở trong giáo pháp của ta mà làm người xuất gia, tuy phá giới, nhưng các hữu tình nhìn thấy sinh tư duy thù thắng, ân cần, cung kính nghĩ đến Phật: Do nhân duyên này mà hoàn toàn không tin theo, quy kính các ngoại đạo, tà sư, sách vở, đồ chúng, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

Hoặc có người thấy rồi phát sinh tư duy thù thắng, nhớ nghĩ đến Thánh giới, do đó có thể xa lìa sát sinh, xa lìa sự lấy của không cho, xa lìa dục tà hạnh, xa lìa nói dối, xa lìa uống các thứ rượu, không sống chỗ buông lung cho đến có thể vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghĩ đến bố thí, do đó được quả vị giàu có, thân cận cúng dường bậc chánh chí chánh hạnh, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghĩ đến nhẫn nhục, nhu hòa, chánh trực, do đó, liền có thể xa lìa lời nói ly gián, thô ác, tạp uế, sân hận, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghĩ đến xuất gia, tinh tấn tu hành, do đó có thể từ bỏ gia đình, hướng đến đời sống không gia đình, dũng mãnh tinh tấn tu các hạnh thù thắng, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghĩ đến tĩnh lự, đẳng chí, xa lìa tâm tán loạn, do đó thích ở nơi núi rừng vắng vẻ, ngày đêm tinh tấn tu hành các định, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghĩ đến trí tuệ, do đó ưa thích nghe, đọc tụng chánh pháp, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

Hoặc có người thấy rồi sinh tư duy thù thắng, nghĩ đến gieo trồng thiện căn xuất ly, lời nói nhu hòa, ân thưa hỏi, cho đến lễ sát chân, do đó được sinh vào nhà tôn quý, có uy lực lớn, được vô lượng hữu tình chiêm ngưỡng, cho đến có thể nhập vào thành đại Niết-bàn, không còn các sợ hãi.

(Trong Tạng chỉ thấy có tám tư duy)

Này thiện nam! Ở trong giáo pháp của ta mà xuất gia, tuy phá giới nhưng các hữu tình nhìn thấy được hình tướng người ấy mà phát sinh mười tư duy thù thắng này thì sẽ được vô lượng công đức báu. Do đó, tất cả vua Sát-đế-lợi, đại thần, tể tướng dẫu có dùng roi gậy đánh đập, tra khảo, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc quở trách, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạt mạng sống, quyết định không làm được.

Lại nữa, này Đại phạm! Nếu có người nương theo ta mà xuất gia, bị phạm giới làm hạnh ác, bên trong mục nát như ốc sên, hôi dơ, thật chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, thật chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, thường bị các phiền não đánh bại làm cho điên đảo mê mờ. Bí-sô như vậy tuy phá giới, làm các hạnh xấu ác nhưng lại biết làm người bạn lành hiểu biết chỉ bày kho tàng vô lượng công đức cho tất cả Thiên, Long, Dược-xoa, Kiền-đạtphược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hộ-lạc-già, Nhân phi nhân… Bí-sô như vậy, tuy chẳng phải bậc Pháp khí nhưng cạo tóc, mặc áo ca-sa, oai nghi đi đứng giống như các Hiền thánh. Nhờ thấy vị ấy, các căn lành của vô lượng hữu tình đều sinh trưởng, lại có thể chỉ bày cho vô lượng hữu tình hướng đến con đường chánh, sinh cõi trời, Niết-bàn. Vì vậy, nương theo ta mà xuất gia hoặc trì giới, hoặc phá giới cho đến không có giới pháp, ta còn không để cho Chuyển luân thánh vương, các quốc vương, các đại thần nương vào chánh pháp thế gian dùng roi gậy đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc nhốt vào lao ngục, hoặc mắng chửi, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống của họ, huống chi là nương vào phi pháp.

Này Đại phạm! Như vậy Bí-sô phá giới làm việc ác, tuy ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta là thây chết, nhưng vẫn còn một chút thế lực, giới đức của người xuất gia. Ví như con bò, con xạ, sau khi chết tuy là cái xác chết của loài súc sinh, không còn biết gì, nhưng da bò có màu vàng và xạ thì có hương thơm, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Bí-sô phá giới cũng vậy, tuy ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta là thây chết, nhưng vẫn còn một chút uy lực, giới đức của người xuất gia, có thể làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Ví như người đi buôn, vào trong biển lớn, giết một loài trong vô lượng chúng sinh, móc lấy con mắt, đem trái mạt-đạt-na giã nát, trộn lại chế thành thuốc chữa mắt quý báu. Các hữu tình nào bị mù không thấy, cho đến mù khi mới sinh ra, đem thuốc báu này bôi vào mắt người ấy, hoạn nạn đều tiêu trừ, mắt được sáng lại. Bí-sô phá giới cũng vậy, tuy ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta là thây chết, nhưng có oai nghi hình tướng xuất gia, có thể làm cho vô lượng, vô biên hữu tình vừa được thấy họ vẫn còn gặt được Pháp nhãn trí tuệ thanh tịnh, huống chi là còn có thể giảng thuyết chanh pháp cho người khác.

Này Đại phạm! Ví như đốt hương, tuy xác hương bị cháy nhưng hương thơm vẫn tỏa ngát, làm cho người khác được thơm. Bí-sô phá giới cũng vậy, do phá giới nên chẳng phải là ruộng phước tốt, tuy ngày đêm thường bị của tín thí thiêu đốt, sau khi mạng chung tất sẽ đọa vào ba đường ác nhưng nhờ làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình, nghĩa là làm cho nhiều người được ngửi hương thơm nên được sinh cõi trời, Niết-bàn.

Vì thế, này Đại phạm! Bí-sô phá giới như vậy, làm việc xấu ác, nhưng Cư sĩ thì vẫn giữ tâm cung kính cúng dường. Ta hoàn toàn không cho các người tại gia, dùng roi gậy đánh đập, tra khảo thân thể hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc chửi mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống. Ta chỉ cho Tăng chúng thanh tịnh kia khi Bồ-tát hoặc tự tứ, đuổi những vị đó ra khỏi, không cho thọ dụng tất cả những vật dụng cúng dường bốn phương Tăng như thức ăn uống, vật dụng tư riêng. Khi làm tất cả việc Tỳ-nại-da của Sa-môn, phải đuổi các vị đó ra khỏi, không cho ở trong chúng, nhưng ta không cho dùng roi gậy đánh đập, trói buộc, đoạn mạng sống.

Bấy giờ, Thế Tôn nói bài tụng:

Hoa chiêm-bát-ca tuy héo tàn
Nhưng mùi thơm hơn các hoa khác
Bí-sô phá giới làm hạnh ác
Cũng còn hơn các chúng ngoại đạo.

Lại nữa, này Đại phạm! Có năm nghiệp ác, đó là những tội lớn đọa địa vô gián. Những gì là năm?

  1. Cố ý giết cha.
  2. Cố ý giết mẹ.
  3. Cố ý giết A-la-hán.
  4. Tà kiến điên đảo, phá Thanh văn tăng.
  5. Tâm ác làm thân Phật ra máu.

Đó là năm tội, gọi là nghiệp ác tội lớn vô gián. Nếu người nào bị một trong năm tội vô gián này thì không được xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho xuất gia hoặc thọ giới Cụ túc thì họ sẽ phạm tội, nên đuổi người đó ra khỏi pháp của ta. Người như vậy nhưng do có oai nghi hình tướng xuất gia, nên ta cũng không cho dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc chửi mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống.

Lại có bốn tội căn bản nghiệp ác lớn, gần với tội vô gián. Những gì là bốn?

  1. Sinh tâm bất thiện, sát hại Độc giác, là tội căn bản nghiệp ác lớn do giết hại sinh mạng
  2. Tà hạnh với A-la-hán, Bí-sô ni hay tăng, là tội căn bản nghiệp ác lớn do dục tà hạnh
  3. Lạm dụng tài vật cúng dường Tam bảo, là tội căn bản nghiệp ác lớn do lấy vật không cho
  4. Nhận thức điên đảo, phá hoại sự hòa hợp Tăng chúng, là tội căn bản nghiệp ác lớn do nói dối.

Người nào phạm một trong bốn tội căn bản nghiệp ác lớn gần tội vô gián này thì không được xuat gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho họ xuất gia hoặc thọ giới Cụ túc thì họ sẽ mắc tội, nên đuổi người đó ra khỏi pháp của ta. Người như vậy nhưng do có oai nghi hình tướng xuất gia và thọ giới Cụ túc, nên ta cũng không cho dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc quở mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống.

Như vậy, hoặc có tội căn bản chẳng phải tội vô gián, có tội vô gián chẳng phải tội căn bản, có tội căn bản vừa là tội vô gián, có tội chẳng phải là tội căn bản cũng chẳng phải tội vô gián.

Thế nào là tội căn bản vừa là tội vô gián? Nghĩa là trước đã xuất gia thọ giới Cụ túc trong pháp của ta, cố ý giết người đã đạt đến cứu cánh kiến đế (đã chứng ngộ chân lý rốt ráo), như vậy gọi là tội căn bản vừa là tội vô gián. Ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta, người này nên đuổi mau.

Thế nào gọi là tội căn bản chẳng phải tội vô gián? Nghĩa là trước đã xuất gia thọ giới Cụ túc trong giáo pháp của ta, do cố ý giết hại người phàm phu, hoặc dùng phương cách cho người uống thuốc độc, hoặc làm trục thai. Như vậy, gọi là tội căn bản chẳng phải tội vô gián. Người này chẳng nên cho ở chung với Tăng và không cho thọ dụng các vật cúng dường bốn phương Tăng.

Thế nào là tội vô gián chẳng phải tội căn bản? Nghĩa là có người hoặc thọ tam quy, hoặc thọ năm giới, hoặc thọ mười giới, hoặc tạo một tội trong năm tội vô gián. Như vậy là tội vô gián chẳng phải tội căn bản. Người như vậy không nên cho xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho họ xuất gia và thọ giới Cụ túc thì họ bị mắc tội, nên đuổi người ấy ra khỏi giáo pháp của ta.

Thế nào gọi là chẳng phải là tội căn bản, cũng chẳng phải tội vô gián? Nghĩa là có người hoặc thọ tam quy, hoặc thọ năm giới, sinh tâm nghi ngờ Phật, Pháp, Tăng, hoặc quy y theo thầy ngoại đạo, hoặc chấp vào các tướng tốt xấu, hoặc ít hoặc nhiều cúng tế quỷ thần; Hoặc lại có người đối với chánh pháp chư Như Lai thuyết, hoặc chánh pháp tương ưng với Thanh văn thừa, hoặc chánh pháp tương ưng với Độc giác thừa, hoặc chánh pháp tương ưng với Đại thừa mà phỉ báng, ngăn chận, tự mình không tin nhận, còn làm cho người khác nhàm chán, gây chướng ngại người khác đọc tụng ghi chép, thậm chí gây trở ngại một bài tụng chánh pháp. Như vậy, gọi là chẳng phải tội căn bản, cũng chẳng phải tội vô gián, nhưng sinh nghiệp ác đại tội, gần với tội vô gián. Người này nếu chưa sám hối trừ diệt nghiệp ác tội lớn như vậy thì không cho xuất gia và thọ giới Cụ túc. Nếu cho xuất gia và thọ giới Cụ túc thì họ liền mắc tội, nên đuổi người ấy ra khỏi pháp của ta. Nếu đã xuất gia và thọ giới Cụ túc mà phạm tội như vậy, lại không sám hối thì ở trong pháp Tỳ-nại-da của ta, người này nên mau đuổi đi. Vì sao? Vì hai hạng người này có hành động như phá hoại con mắt chánh pháp, có hành động che tắt ngọn đèn chánh pháp, có hành động đoạn tuyệt hạt giống Tam bảo, làm cho chư Thiên và người làm theo những việc vô nghĩa, hạnh khổ, không có lợi ích, đọa vào các đường ác. Hai hạng người này tự mình phỉ báng chánh pháp, lại còn khiến người khác phỉ báng chánh pháp, phỉ báng Hiền thánh, sau khi qua đời sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, trải qua nhiều kiếp phải chịu khổ, không thể thoát khỏi.

Lại nữa, này Đại phạm! Hoặc có pháp thuộc về giá tội, vô y hành; hoặc có pháp thuộc về tánh tội, vô y hành; ở trong tánh tội hoặc có phap căn bản không nên làm theo.

Thế nào là pháp căn bản vô y hành? Nghĩa là có Bí-sô nào làm việc phi phạm hạnh, phạm tội căn bản, hoặc do cố ý giết mạng sống người phàm phu, phạm tội căn bản; hoặc lấy trộm vật chẳng phải của Tam bảo, phạm tội căn bản; hoặc đại vọng ngữ, phạm tội căn bản; hoặc có Bí-sô nào phạm một tội trong bốn tội căn bản thì sự nghiệp mà các Bí-sô làm đều phải nhận sự thiết phục, tất cả vật cúng dường bốn phương Tăng đều không cho thọ dụng, nhưng không được dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt trong lao ngục, hoặc quở mắng, hoặc chặt tay chân, hoặc đoạn mạng sống. Như vậy, gọi là trọng tội căn bản thuộc về tánh tội vô y hành.

Thế nào gọi là tội căn bản? Nghĩa là người nào phạm bốn pháp này, sau khi qua đời sẽ đọa vào các đường ác, đó là tội căn bản đọa các đường ác. Vì vậy gọi là tội căn bản. Thế nên tội căn bản vô gián và gần vô gián là đại tội nghiệp ác cực nặng vô y hành.

Này thiện nam! Ví như hòn sắt, chì, thiếc, ném vào hư không, không thể dừng lâu, nhất định sẽ mau rơi xuống đất. Tạo bốn tội căn bản, năm tội vô gián và gần vô gián, phỉ báng chánh pháp, nghi ngờ Tam bảo, hai hạng người phạm tội này cũng vậy. Người nào phạm một tội trong mười một tội này, sau khi qua đời, không có gì ngăn chận được, nhất định sinh vào đại địa ngục Vô gián, chịu các khổ sở rất đau đớn nên gọi là nghiệp ác đại tội cực trọng vô y hành. Bổ-đặcgià-la nào phạm tội nghiệp ác cực trọng vô y hành này, đối với thân này nhất định không thể đoạn tận cac phiền não, còn không thể thành tựu các Tam-ma-địa, làm sao có thể hướng nhập tánh chánh ly sinh. Người ấy qua đời nhất định sinh vào địa ngục, chịu các khổ lớn.

Lại nữa, này Đại phạm! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào với lòng tin thanh tịnh, quy y giáo pháp của ta, hoặc hướng đến thừa Thanh văn, hoặc hướng đến thừa Độc giác, hoặc hướng đến Đại thừa, mà có lòng tin thanh tịnh xuất gia thọ giới Cụ túc, ở trong pháp của ta đối với các học xứ hết lòng kính trọng, đối với bốn giới tội tánh căn bản kiên cố thì dũng mãnh tinh tấn giữ gìn. Người như vậy thường được tất cả nhân, phi nhân theo ủng hộ, gọi là không dối nhận vật cúng dường của trời, người, đối với ba thừa tùy theo ưa thích mà mau có thể hướng nhập thành biện cứu cánh. Vì vậy, người chân thật mong cầu Niết-bàn thà xả bỏ thân mạng chứ hoàn toàn không hủy phạm bốn pháp này. Vì sao? Vì các hữu tình cần phải nhờ ba nhân sau đây mới được Niết-bàn an vui.

  1. Nương vào Như Lai làm nhân.
  2. Nương vào Thánh giáo của ta làm nhân.
  3. Nương vào đệ tử của ta làm nhân.

Các loại hữu tình nào nương vào ba nhân này siêng năng tu tập sẽ được Niết-bàn an vui. Người nào phạm bốn pháp nay thì ta chẳng phải là thầy họ, họ chẳng phải đệ tử của ta. Người nào phạm bốn pháp này thì trái vượt giáo pháp thâm sâu rộng lớn mà ta đã tuyên thuyết như: Vô thường, khổ, không, vô ngã, pháp biệt giải thoát tương ưng với lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Nếu vượt qua giáo pháp biệt giải thoát này thì đối với tất cả tĩnh lự, đẳng trì đều mờ mịt không thể nhập được, sẽ bị các phiền não, nghiệp ác trói buộc, cũng chẳng phải là pháp khí trong ba thừa, sẽ đọa vào đường ác chịu các khổ lớn.

Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với giáo pháp biệt giải thoát của ta thuyết ra, chế ra để ngăn ngừa bốn trọng tội căn bản mà thanh tịnh không phạm thì ta là thầy họ, họ là đệ tử của ta, sẽ tùy thuận lời dạy của ta mà an trú hoàn toàn trong giáo pháp của ta, tất cả việc làm cũng đều được thành tựu viên mãn. Vị này an trú hoàn toàn trong giới nên gọi là an trụ hoàn toàn trong tất cả thiện pháp, hoặc gọi là an trú hoàn toàn Thanh văn thừa, hoặc gọi là an trú hoàn toàn Độc giác thừa, hoặc gọi là an trú hoàn toàn ở Đại thừa. Vì sao? Vì nếu ai có thể hộ trì bốn pháp căn bản thuộc tánh tội này thì nên biết vị đó đã tạo lập tất cả thiện pháp thắng nhân hữu lậu vô lậu. Vì thế, hộ trì bốn pháp này gọi là căn bản của tất cả thiện pháp. Như nương vào đại địa, tất cả cây, cỏ, vườn, rừng đều được sinh trưởng; cũng vậy, nương vào sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản, tất cả thiện pháp đều được sinh trưởng.

Như nương vào đại địa, tất cả các núi: Núi Tiểu luân vi, núi Đại luân vi, núi Diệu cao đều được đứng vững; cũng vậy, nương vào sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản, các thừa Thanh văn, thừa Độc giác, Đại thừa Vô thượng đều được an trú. Như nương vào đại địa sẽ tìm được tất cả vị ngon của thế gian; cũng vậy, nương vào sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản sẽ tìm cầu được tất cả niệm, định, Tổng trì, an nhẫn, Thánh đạo cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại như đại địa, đối với các pháp tịnh, bất tịnh đều được giữ gìn bình đẳng, sự hộ trì hoàn hao bốn giới căn bản của các thiện nam, thiện nữ cũng như vậy, đối với bậc Pháp khí hoặc chẳng phải pháp khí đều bình đẳng, không chê bai, không khinh lờn, không tự cao, không quở trách, nêu tội, có thể làm nơi phát sinh của tất cả thiện pháp. Lại như đại địa, tất cả hữu tình đều thọ dụng để được sinh sống tồn tại; sự hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản của các thiện nam, thiện nữ cũng như vậy, đối với chánh pháp do chư Như Lai giảng thuyết, sinh trưởng lòng tin thanh tịnh, hoan hỷ, đối với các hữu tình không có tưởng sai biệt, dùng bốn Nhiếp pháp bình đẳng thu nhận, tất cả hữu tình đều cùng nhau nương vào pháp này, thọ dụng pháp lạc này để được sinh sống tồn tại.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly nghe Phật giảng thuyết liền rời khỏi tòa, sửa y phục, đảnh lễ sát chân Phật, bày áo vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính thưa:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói: Hộ trì hoàn hảo bốn giới căn bản các thiện nam, thiện nữ đối với bậc Pháp khí và chẳng phải pháp khí ấy tâm đều bình đẳng, không chê bai, không khinh lờn, không cao ngạo, không quở trách, nêu tội. Nếu như vậy thì ở đời vị lai có các Bí-sô phá giới làm việc ác, thật chẳng phải Sa-môn mà tự xưng là Samôn, thật chẳng phải là phạm hạnh mà tự xưng là phạm hạnh, các Bísô tăng đối với người này nên làm cách nào quở trách, nêu tội hay đuổi đi?

Phật bảo Tôn giả Ưu-ba-ly:

–Ta hoàn toàn không cho người thế tục ngoại đạo nêu tội Bí-sô phạm tội. Ta còn không cho các Bí-sô tăng không nương vào pháp mà nêu tội, quở trách, nêu tội Bí-sô phá giới, huống chi là đuổi đi. Không nương vào pháp mà nêu tội, quở trách, nêu tội Bí-sô phá giới hoặc đuổi đi thì liền mắc tội lớn.

Này Ưu-ba-ly! Ông nên biết, có mười phi pháp nêu tội, quở trách, nêu tội Bí-sô phá giới liền mắc tội lớn, nhưng người có trí đều không nên làm. Những gì là mười?

  1. Tăng chúng không hòa, mà ở trước quốc vương, nêu tội quở trách, Bí-sô phá giới.
  2. Tăng chúng không hòa, mà ở trước chúng Phạm chí lại, nêu tội quở trách, Bí-sô pha giới.
  3. Tăng chúng không hòa, mà ở trước chúng tể quan lại, nêu tội quở trách, Bí-sô phá giới.
  4. Tăng chúng không hòa, mà ở trước các Trưởng giả, Cư sĩ lại, nêu tội quở trách, Bí-sô phá giới.
  5. Ở trước các người nữ mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới.
  6. Ở trước các người nam mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới.
  7. Ở trước các người tịnh nhân mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới.
  8. Ở trước nhiều Bí-sô, Bí-sô-ni mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới.
  9. Ở trước người oán ghét mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới.
  10. Ôm lòng tức giận mà nêu tội, quở trách, Bí-sô phá giới.

Mười loại này gọi là nêu tội, quở trách phi pháp, Bí-sô phá giới liền mắc tội lớn. Nếu nương vào sự thật mà quở trách, nêu tội còn không nên làm, huống chi là không sự thật. Những người nào làm đều mắc tội lớn.

Lại còn có mười loại nêu tội, quở trách phi pháp, Bí-sô phá giới liền mắc tội lớn, những người có trí không nên làm. Những gì là mười?

  1. Các ngoại đạo khác quở trách, nêu tội Bí-sô.
  2. Bạch y tại gia không giữ giới cấm mà quở trách, nêu tội Bísô.
  3. Người tạo tội vô gián mà quở trách, nêu tội Bí-sô.
  4. Người phỉ báng chánh pháp mà quở trách, nêu tội Bí-sô.
  5. Người hủy nhục Hiền thánh mà quở trách, nêu tội Bí-sô.
  6. Người si cuồng loạn tâm mà quở trách, nêu tội Bí-sô.
  7. Người bị khổ não ràng buộc mà quở trách, nêu tội Bí-sô.
  8. Tịnh nhân bốn phương tăng mà quở trách, nêu tội Bí-sô.
  9. Người giữ vườn rừng mà quở trách, nêu tội Bí-sô.
  10. Bí-sô bị phạt mà quở trách, nêu tội Bí-sô.

Mười loại quở trách, nêu tội phi pháp Bí-sô phá giới này liền mắc tội lớn. Nếu nương vào sự thật mà quở trách, nêu tội cũng không nên làm, huống chi là không sự thật. Những người nào làm theo cũng đều mắc tội lớn.

Lại nữa, này Ưu-ba-ly! Nếu Bí-sô nào hủy phạm giới cấm lại ở chung với Tăng, mà ở trong chúng Tăng có Bí-sô khác oai nghi phép tắc đều đầy đủ, tất cả năm đức đều viên mãn thì nên rời chỗ ngồi, sửa y phục, cung kính đảnh lễ Bí-sô tăng, rồi đến trước Bí-sô phá giới cầu xin cho nêu tội, thưa như vầy:

–Trưởng giả nhớ cho, tôi muốn nêu tội trưởng giả, sự thật chớ chẳng phải hư dối, đúng thời chớ chẳng phải phi thời, nói nhu hòa chớ chẳng phải nói thô ác, tâm Từ chớ không phải sân giận, lợi ích chớ chẳng phải tổn giảm, vì làm cho con mắt pháp, ngọn đèn pháp của Như Lai trụ lâu, hưng thịnh. Trưởng giả nên nghe cho, tôi sẽ như pháp nêu tội trưởng giả. Nếu người ấy chịu, liền nên như pháp, như thật nêu tội. Nếu người ấy không nghe thì nên đảnh lễ vị Tăng Thượng tọa, cung kính thưa:

–Bí-sô này phạm lỗi như vậy, con nương vào năm pháp như thật nêu tội vị ấy.

Khi ấy vị Bí-sô Thượng tọa trong chúng Tăng nên xem xét kỹ người nêu tội, người bị nêu tội và việc phạm tội, thật giả, nặng nhẹ thế nào rồi, dựa vào Tỳ-nại-da (Luật) và Tố-đát-lãm để dùng phương tiện tra hỏi, khuyên lơn, quở trách, dùng bảy pháp thích ứng diệt trừ. Nếu phạm tội nặng nên trị phạt nặng, nếu phạm tội vừa nên trị phạt vừa, nếu phạm tội nhẹ nên trị phạt nhẹ, làm cho họ hổ thẹn, biết sám hối tội đã phạm.

Bấy giờ, Ưu-ba-ly lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bí-sô thật có tạo tội lỗi, ỷ vào thế lực của bạch y hoặc thế lực tài bảo, hoặc thế lực đa văn, hoặc thế lực biện tài, hoặc thế lực đệ tử, dùng các thế lực như vậy lăng nhục, chống cự Tăng chúng, Bí-sô Thượng tọa đem kinh, luật, luận như pháp dạy bảo mà họ không thuận theo, Bí-sô như vậy làm sao trị phạt?

Phật bảo:

–Này Ưu-ba-ly! Bí-sô Thượng tọa thông hiểu ba tạng nên cùng với Tăng chúng sai người đi thưa với quốc vương, đại thần hỗ trợ oai lực, sau đó mới như thật nương theo pháp trị phạt.

Khi ấy, Ưu-ba-ly lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bí-sô tạo tội lỗi kia dùng thế lực tài bảo, hoặc thế lực đa văn, hoặc thế lực biện tài, hoặc dùng các thế lực phương tiện khéo léo, làm cho quốc vương, đại thần kia vui vẻ hùa theo việc phá giới phi pháp của họ, dung túng tội lỗi của Bí-sô xấu ác này, không cho y pháp như thật trị phạt. Lúc này, chúng Tăng nên làm thế nào?

Phật bảo:

–Này Ưu-ba-ly! Nếu Bí-sô kia làm theo pháp không nên làm, ở trong Tăng chúng nếu tướng tội thô trọng chưa biểu lộ rõ thì khi ấy Tăng chúng nên tạm thời để qua một bên. Nếu Bí-sô kia làm theo pháp không nên làm, nếu ở trong Tăng chúng nếu tướng tội thô trọng đã biểu lộ ra thì lúc ấy Tăng chúng nên hòa hợp y theo pháp đuổi ra khỏi Phật pháp.

Này Ưu-ba-ly! Ví như cỏ lúa ở trong ruộng lúa, mầm, cọng, nhánh, lá đều giống như cây lúa nhưng gây hại cho lúa. Khi cây cỏ chưa trổ bông, người nông phu tạm thời để đó, khi trổ bông rồi, người nông phu sợ cỏ làm hư lúa nên nhổ sạch gốc rễ, vứt ra khỏi ruộng. Bísô phá giới làm việc không nên làm cũng vậy, ỷ vào các thế lực bạch y, ở trong Tăng chúng, oai nghi, hình tướng giống như Tăng nhưng làm tổn hại thanh danh chúng Tăng, cho đến lúc thiện thần chưa phát giác ra, ở giữa Tăng chúng tướng tội thô nặng chưa biểu lộ ra thì Tăng chúng nên tạm thời để đó. Nếu vị ấy ở giữa Tăng chúng, các Thiện thần đã phát giác ra, tướng tội thô trọng đã biểu lộ ra thì Tăng chúng nên cùng hòa hợp, y pháp đuổi họ ra khỏi Phật pháp.

Này Ưu-ba-ly! Ví như biển cả không chứa thây chết, chúng đệ tử Thanh văn tăng của ta cũng vậy, không cho thây chết Bí-sô làm việc ác phá giới ở chung.

Bấy giờ Ưu-ba-ly lại thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Bí-sô làm việc ác phá giới kia, bị chúng Tăng hòa hợp đuổi đi rồi, nhưng Bí-sô ác kia lại dùng thế lực tài bảo, hoặc thế lực đa văn, hoặc thế lực biện tài, hoặc dùng các thế lực phương tiện khéo léo làm cho quốc vương, đại thần kia vui vẻ hùa theo việc phá giới phi pháp của họ, dùng các thế lực ấy áp bức chúng Tăng để cho Bí-sô phá giới ấy trở lại sống chung với chúng Tăng, bấy giờ Tăng chúng nên làm thế nào?

Phật nói:

–Này Ưu-ba-ly! Bấy giờ trong Tăng chúng có Bí-sô trì giới, biết hổ then, vì giữ giới nên không sân giận mắng chửi Bí-sô phá giới, sẽ đứng ra thưa với quốc vương, đại thần, còn nếu sợ sự áp bức không nói được thì nên bỏ chỗ ấy đi đến nơi khác.

*********

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng lại thưa Phật:

–Bạch Thế Tôn! Giả như có cõi nước vào thời năm trược xấu ác không có Phật ra đời, chúng sinh trong cõi đó bị phiền não thiếu đốt, quen làm các hạnh xấu, ngu si, hung ác, khó có thể giáo hóa, dẫn dắt được, đó là vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư sĩ Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-lamôn Chiên-trà-la những người này căn lành ít ỏi, lại không có lòng tin, dua nịnh, ngu si, ngã mạn, cho mình thông minh, không thấy, không sợ quả khổ đời sau, lánh xa Thiện tri thức, thậm chí còn hướng vào địa ngục Vô gián. Những người nay chỉ vì của cải mà kết bè đảng với các Bí-sô phá giới làm việc xấu ác, hỗ trợ nhau làm việc phi pháp, nhất định đều hướng đến địa ngục Vô gián. Nếu có việc này, ta sẽ đến trụ nơi đó, đem giáo pháp của Phật Thế Tôn Như Lai, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình để tất cả đều được pháp vị giải thoát tối thượng vi diệu, dùng phương tiện giáo hóa, hướng dẫn họ thực hành theo. Ta sẽ cứu giúp vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la này, làm cho họ không hướng đến địa ngục Vô gián.

Bấy giờ, Phật bảo Đại Bồ-tát Địa Tạng:

–Này thiện nam! Ở cõi Phật này, vào thời vị lai sẽ có các chúng sinh bị phiền não thiêu đốt, quen làm các việc xấu, ngu si, rất hung ác, khó có thể giáo hóa hướng dẫn, đó là vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư sĩ Chiên-trà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này căn lành ít ỏi, lại không có lòng tin, dua nịnh, ngu si, ngã mạn, cho mình thông minh, lánh xa Thiện tri thức, lời nói không chân thật, không thuận theo lời dạy Thiện tri thức, thường phỉ báng, mắng chửi, hủy nhục giáo pháp chân chánh, do dự, nhận thức điên đảo, không thấy, không lo sợ quả báo đời sau, thường vui và gần gũi làm theo các luật nghi xấu ác, ưa làm việc sát sinh cho đến những tà kiến, lừa dối thế gian, làm cho mình và người đều tổn hại, từ vua Sát-đế-lợi Chiên-tràla cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la này làm hoại loạn chánh pháp của ta. Xuất gia ở trong chánh pháp của ta mà phá hủy giới cấm, ưa kinh doanh nghề nghiệp thế tục. Sát-đế-lợi cho đến Bà-la-môn… kia nếu được cung kính cúng dường thì tham lam lợi dưỡng, mong cầu của cải, lời nói ra mà không thực hành, đem thư từ qua lại, buôn bán, đổi chác, ưa đọc các loại sách vở ở đời, kinh doanh tích chứa của báu, lam ruộng, trồng trọt, gìn giữ vườn nhà, vợ con, tôi tớ, quen làm bói quẻ, bùa chú, dùng chú thuật điều khiển ma quỷ, xem tướng tốt xấu, điều chế thuốc thang để trị bệnh, mong cầu của cải để nuôi sống thân mạng hoặc tham đắm thức ăn, y phục, đồ trang sức báu, siêng kinh doanh công việc thế tục mà hủy phạm giới cấm, làm các việc ác, tiếng nói vang như loa, hành động như chó, thật chẳng phải Sa-môn tự xưng là Sa-môn, thật chẳng phải phạm hạnh tự xưng là phạm hạnh. Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la kia ưa thân cận, cung kính, cúng dường, lắng nghe, lãnh thọ lời dạy của họ. Người phá giới này ưa thân cận, cung kính, cúng dường, lắng nghe, lãnh thọ giáo pháp với Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la. Nếu thấy co người đã xuất gia ở trong giáo pháp của ta đầy đủ giới đức, tinh tấn tu hành, học hạnh Vô học, cho đến về sau chứng đắc qua vị Tối thượng thì Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bàla-môn Chiên-trà-la kia trở lại sinh tâm ganh ghét, không ưa thân cận, cung kính, cúng dường, lắng nghe, lãnh thọ lời dạy bảo của các vị ấy nữa!

Này thiện nam! Ví như có người đi vào hòn đảo báu, vứt bỏ các thứ vàng bạc, trân châu, hoa sen hồng, phiệt-lưu-ly, các thứ châu báu có giá trị lớn mà lấy châu ca-giá. Ở cõi Phật này vào đời vị lai có Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la cũng như vậy. Vào trong đảo báu chánh pháp của ta mà bỏ các nghĩa đế thù thắng: Đầy đủ giới đức, đầy đủ sự hổ thẹn, học bậc Vô học và Thiện tri thức, tinh tấn tu học sáu pháp Ba-la-mật, đủ các công đức của người đệ tử chân chánh; lại ôm lấy các việc phá giới, ưa làm các việc ác, không biết hổ thẹn, lời nói thô tháo, thân tâm kiêu ngạo, xa lìa các bạch pháp, không có tâm Từ bi. Đối với Bí-sô xấu ác cho là ruong phước, cung kính, cúng dường, lắng nghe lời dạy của họ. Thầy và đệ tử xấu ác như vậy nhất định đều hướng đến địa ngục Vô gián.

Này thiện nam! Có mười luân ác, vào đời vị lai ở cõi nước này, các vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan Chiên-trà-la, Cư sĩ Chiêntrà-la, Trưởng giả Chiên-trà-la, Sa-môn Chiên-trà-la, Bà-la-môn Chiên-trà-la, những người này đối với mười luân ác, hoặc có một hoặc có tất cả mười luân ác này thì tất cả căn lành đã tu tập trước đây đều bị thiêu hủy thành tro bụi, không bao lâu sẽ bị thiếu khuyết các bộ phận thân thể, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các thống khổ bức bách khó mà chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián. Những gì là mười?

Bí-sô làm việc ác phá giới này nói với các vị Sát-đế-lợi, Tể quan nhiễm thọ ác kiến những lời phỉ báng các Bí-sô thanh tịnh đang ở nơi thanh vắng: “Các Nhân gia! Bí-sô này ngu si hèn hạ, trá hiện hình tướng để lừa gạt thế gian, vì mong cầu ăn uống, y phục, lợi dưỡng, cung kính, danh dự nên khen mình chê người, ganh ghét, đua tranh, tham loạn, đắm trong danh lợi không biết nhàm chán. Hãy gạt bỏ đi, chớ nên tin theo lời họ nói. Các Bí-sô này chuyên nói dối, xa lìa pháp chân thật. Các người này đều không đắc đạo quả, cũng không xa lìa dục, đoạn tận các lậu, chỉ vì lợi dưỡng, cung kính, danh dự mà ở nơi thanh vắng, tự hiện có oai đức. Các ông cẩn thận, chớ nên cung kính, cúng dường, phụng sự những kẻ dối gạt, chẳng phải ruộng phước chân thật, chẳng phải người hành đạo.”

Khi ấy, Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la đối với các Bí-sô thanh tịnh đang ở nơi thanh vắng đã không phát sinh lòng tin tưởng chân thật hiếm có, không cung kính mà lại còn khinh miệt, không thích thân cận, phụng sự, cúng dường, không ghi nhận nhưng lời các vị ấy nói. Khinh thường, hủy báng các Bí-sô thanh tịnh ở nơi thanh vắng như vậy tức là khinh thường, hủy báng tất cả dòng giống Pháp nhãn Tam bảo.

Bấy giờ, trong nước ấy có chư Thiên, Long, Dược-xoa kính tin Tam bảo không lay động, đối với Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bàla-môn Chiên-trà-la sinh lòng sân giận, bàn bạc với nhau: “Các vị hãy xem các hàng vua Sát-đế-lợi, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Samôn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này đều khinh thường, hủy báng tất cả dòng giống Pháp nhãn Tam bảo, như vậy căn lành sẽ tổn giảm. Do nghe theo bạn ác, tạo các nghiệp tội nên sẽ đọa vào đường ác. Từ nay chúng ta chớ nên ủng hộ hàng Sát-đế-lợi. Chiên-trà-la này ở bất cứ thành ấp nào trên đất nước của họ.”

Nói vậy rồi, tất cả Thiên, Long, Dược-xoa, Thần đều bỏ đi, không ủng hộ Sát-đế-lợi… Chiên-trà-la ở bất cứ thành ấp nào trên đất nước của họ nữa. Tất cả cac pháp khí, ruộng phước chân thật ở trong nước ấy đều ra khỏi nước. Nếu có vị nào ở lại cũng bỏ lơ, không còn hộ niệm.

Bấy giờ, do chư Thiên, Long, Dược-xoa, Thần và các pháp khí, ruộng phước chân thật, đối với Sát-đế-lợi, Chiên-trà-la ở các thành ấp, trên đất nước không còn hộ vệ, không còn hộ niệm, nên trong nước ấy xảy ra việc hai bên bày ra quân trận đấu tranh, giết hại nhau, bệnh tật, ôn dịch, đói kém nhân đó nổi lên. Khi ay các Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Bà-la-môn Chiên-trà-la kia cùng tất cả dân chúng trong nước đều không vui. Trước đây, thương yêu vui vẻ, nay đều xa lìa, bạn bè quyến thuộc trở lại sân giận nhau, mưu toan nghi ngờ nhau, không có lòng Từ bi, ganh ghét, tham lam, keo kiệt, các điều ác lại phát sinh, nghĩa là sát sinh cho đến tà kiến, không biết hổ thẹn là gì, tiêu dùng tất cả vật của chùa tháp, vật của chúng Tăng, chưa bao giờ biết hối lỗi. Hàng vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la thì oán ghét các bậc Trung hiền, ưa thích những kẻ dua nịnh, làm cho quan dân xâm đoạt, giết hại nhau, sân giận, kết oán, tạo ra các cuộc đấu tranh. Khi giao chiến với các nước lân cận khác, quân sĩ nhụt chí bị thua trận. Hàng vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy đau khổ bức bách khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la vì làm theo bạn ác nên căn lành ít ỏi, lại dua nịnh, ngu si, ngã mạn cho mình là thông minh, đối với Tam bảo, tâm không thanh tịnh, không thấy, không sợ quả khổ đời sau. Có hạng người, có chút lòng tin đối với thừa Thanh văn, thật là ngu si mà tự cho là thông minh, đối với pháp Duyên giác thừa và pháp Đại thừa do ta thuyết ra thì chê bai phỉ báng, không cho chúng sinh thọ trì, đọc tụng dù chỉ một bài tụng. Lại có hạng người, có chút lòng tin đối với thừa Duyên giác, thật là ngu si mà tự cho là thông minh, đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Đại thừa do ta thuyết ra thì chê bai phỉ báng, không cho chúng sinh thọ trì, đọc tụng dù chỉ một bài tụng. Lại có hạng người, có chút lòng tin đối với pháp Đại thừa, thật là ngu si mà tự cho là thông minh, đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Duyên giác thừa do ta thuyết ra thì chê bai phỉ báng, không cho chúng sinh thọ trì, đọc tụng dù chỉ một bài tụng.

Những người như vậy gọi là hủy báng chánh pháp của Phật, cũng là trái nghịch với chư Phật ba đời, phá hủy, thiêu đốt tất cả tạng pháp ba đời của chư Phật, làm cho thành tro bụi, đoạn diệt tất cả tám Thánh đạo, hủy hoại mắt pháp vô lượng của chúng sinh. Những Sátđế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la nào đối với pháp Thanh văn thừa, pháp Duyên giác thừa và pháp Đại thừa do Phật thuyết ra, mà làm chướng ngại, ngăn chặn, làm cho hủy diệt, cho đến một bài tụng cũng không còn thì nên biết người này là kẻ không cung kính tất cả dòng giống Pháp nhãn Tam bảo. Do nhân duyên này khiến cho tất cả các vị hộ vệ đất nước, như chư Thiên, Long, Dược-xoa, Thần… càng tin kính Tam bảo, không hề lay động, còn đối với Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm giận dữ, nói rộng là các Sát-đế-lợi Chiêntrà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la kia không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la tùy thuận làm theo các Bí-sô xấu ác phá giới (nói rộng như trên). Ở nước ấy có các bậc Pháp khí, là ruộng phước chân thật mà đối với các Sát-đế-lợi Chiên-trà-la đều bỏ lơ, không hộ niệm. Tuy ở nước ấy nhưng cũng có Sát-đế-lợi nương theo pháp mà trụ, không thích cuộc sống thế gian, cũng không thường đến nha thí chủ, nếu có đến cũng lo giữ gìn lời nói, dẫu có nói cũng không bao giờ hư dối; hoàn toàn không đối mặt với người tại gia để chê bai, hủy báng những người phá giới. Đối với các Bí-sô xấu ác phá giới, hoàn toàn không khinh thường nhưng liền cho dò xét, cũng không hiện tướng để nêu điều sai trái của họ, thường thân cận bậc phước điền, xa lìa những người phá giới. Ngược lại các Bí-sô xấu ác phá giới kia, đối với bậc trì giới chan chánh thì lại sân giận, khinh thường, hủy báng, lăng nhục, trước mặt các Sátđế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la, nam, nữ lớn nhỏ tại gia thì nói những lời dối gạt, dua nịnh, chê bai, phỉ báng các vị trì giới này, làm cho Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Samôn, Bà-la-môn Chiên-trà-la đối với các Bí-sô đệ tử của ta ít đòi hỏi, biết đủ, trì giới, đa văn, biện tài vô ngại sinh tâm sân giận, nói những lời thô lỗ, mắng chửi, bức bách, làm cho tâm buồn rầu, thân không an ổn, hoặc chiếm đoạt y bát và các vật dụng làm cho bị thiếu thốn, hoặc chiếm đoạt vật của bốn phương Tăng không cho thọ dụng, hoặc giam nhốt trong lao ngục, gông cùm, tra khảo khổ sở, hoặc cắt các phần của thân thể, hoặc chặt đầu.

Này thiện nam! Các ông nên xem các vua Sát-đế-lợi Chiên-tràla cho đến các người Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này thân cận với Bí-sô phá giới làm việc ác, gây nên các tội lớn như vậy, tất sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Các chúng sinh nào tạo năm tội vô gián hoặc phạm giới trọng, hoặc gần với tánh tội vô gián, giá tội còn nhẹ, các vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến những người Sa-môn, Bà-lamôn Chiên-trà-la như vậy thân gần kẻ phá giới, là phạm trọng tội, trái pháp.

Này thiện nam! Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác, tuy phạm trọng tội việt pháp như vậy, nhưng nương vào giáo phap của ta, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, đi đứng oai nghi đồng với các bậc Hiền thánh, ta còn không cho vua, quan, các người tại gia nương vào pháp thế tục dùng roi gậy… đánh đập người ấy, hoặc giam nhốt trong lao ngục, hoac lại quở mắng, hoặc cắt những phần thân thể, hoặc đoạn mạng sống, huống chi là nương vào việc phi pháp. Vua, quan, các người tại gia nếu làm việc này liền mắc tội lớn, nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián. Đối với Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác còn không nên trách phạt như vậy, huống chi là người trì giới chân chánh làm việc thiện.

Này thiện nam! Bí-sô nào phạm một tội trong các tội nặng căn bản, thuộc tánh tội, tuy gọi là Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác nhưng đối với luật nghi đã thọ ở trong Tăng chúng đã hòa hợp với các vị thân giáo vẫn không mất hết, cho đến không bỏ hết các học giới, nên vẫn còn phảng phất hương thơm của bạch pháp; quoc vương, đại thần, các người tại gia không có luật nghi không nên khinh mạn và trách phạt. Bí-sô này, tuy chẳng phải là pháp khí, bỏ mất Thánh pháp, làm ô uế chúng thanh tịnh, phá hoại tất cả pháp sự của Sa-môn, không được thọ dụng vật bốn phương tăng, nhưng đối với luật nghi đã thọ ở trong Tăng chúng đã hòa hợp với các vị thân giáo, vẫn không mất hết nên còn hơn tất cả người tại gia bạch y. Người phạm tánh tội còn nên như vậy, huong là phạm các giá tội nhỏ khác. Vì vậy, không cho quốc vương, đại thần, các người tại gia khinh mạn, trách phạt. Vì sao? Này thiện nam! Vào thời quá khứ có vua nước Ca-sa tên là Phạm Thọ, bảo người Chiên-trà-la (đồ tể):

Có voi chúa lớn tên là Thanh Liên Mục, có đủ sáu ngà, sống ở ven núi Tuyết sơn, ngươi hãy đến đó nhổ ngà voi đem về cho ta. Nếu không được, năm người các ngươi nhất định sẽ chết.

Khi ấy, bọn Chiên-trà-la vì muốn bảo toàn mạng sống nên cầm cung tên, mặc áo ca-sa đỏ giả làm hình tướng Sa-môn, đi đến núi Tuyết sơn, chỗ có voi chúa. Lúc ấy, voi cái trông thấy từ xa có người cầm cung tên đi đến thì kinh sợ, chạy đến chỗ voi chúa thưa: Bạch đại vương! Hiện giờ có người đang rút tên, giương cung đi từ từ hướng về phía chúng ta. Chẳng lẽ chúng ta sắp mất mạng sao?

Nghe nói, voi chúa đưa mắt nhìn và thấy một người cạo tóc, mặc áo ca-sa, liền nói bài tụng bảo voi cái:

Những người mặc ca-sa
Là pháp tướng chư Phật
Người này xa điều ác
Ắt không hại chúng sinh.

Khi ấy, voi cái dùng kệ đáp:

Tuy biết là pháp phục
Nhưng tay cầm cung tên
Tức bọn người xấu xa
Thích ác, không Tư bi.

Voi chúa lại nói kệ:

Thấy tướng áo ca-sa
Biết là gốc Từ bi
Chắc đã quy y Phật
Thương xót các chúng sinh.
Nàng chớ nên hoài nghi
Mà hãy mau nhiếp tâm
Người mặc pháp y này
Muốn vượt biển sinh tử.

Người xấu ac lúc này đã lấy tên độc, giương cung bắn ngay tim voi chúa. Thấy vậy, voi cái kêu khóc thảm thiết, nói bài tụng:

Người mặc pháp phục này
Là đã quy y Phật
Oai nghi tuy tịch tĩnh
Nhưng ôm lòng xấu ác,
Nên mau đạp người ấy
Làm cho hắn chết đi
Trả hết thù oán này
Vì bắn vào voi chúa.

Voi chúa lớn nói bài tụng đáp lại:

Thà mau bỏ thân mạng
Không nên sinh tâm ác
Người kia tuy gian trá
Nhưng còn giống con Phật.
Người trí không vì sống
Mà mất tâm thanh tịnh
Muốn độ các hữu tình
Phải tu hạnh Bồ-đề.

Khi ấy, voi chúa lớn sinh tâm thương xót, đi đến chỗ bọn người xấu ác, hỏi: Các ông cần muốn gì?

Người kia đáp: Tôi muốn được ngà của ngươi.

Voi chúa liền vui vẻ nhổ ngà của mình, bố thí cho người xấu ác kia nói bài tụng:

Tôi đem ngà trắng bố thí ông
Không uất, không hận không tham tiếc
Phước bố thí này, nguyện thành Phật
Diệt bệnh phiền não cho chúng sinh.

Này thien nam! Nên biết, vào thời quá khứ, voi chúa này tuy thọ thân súc sinh, không an vui, nhưng vì mong cầu quả Vô thượng Chánh giác nên xả thân mạng không hối tiếc, cung kính tôn trọng người mặc áo ca-sa, tuy biết người kia la đối thủ mà không báo oán. Tuy nhiên, đời vị lai có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn, những Chiên-trà-la này thật là ngu si, ngã mạn cho là thông minh, dua nịnh, lừa dối thế gian, không thấy, không sợ quả khổ đời sau, đối với người quy y, xuất gia theo chánh pháp của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí thì làm não loạn, quở mắng hoặc dùng roi gậy đánh đập vào thân, hoặc nhốt trong lao ngục, cho đến đoạn cả mạng sống. Những người này ở trong tất cả các đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, mất hết căn lành bị thiêu đốt liên tục, bị tất cả người trí xa lánh. Người ấy đã tạo ra tội nặng như vậy, lại kiêu mạn, lừa dối thế gian, tự xưng: “Chúng ta cũng cầu quả Bồ-đề vô thượng, ta là bậc Đại thừa, sẽ được làm Phật.”

Ở đời vị lai, có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la cũng vậy, đối với người quy y xuất gia theo chánh pháp của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí thì làm não loạn, quở mắng, hoặc dùng dao gậy đánh đập vào thân, hoặc nhốt trong lao ngục, cho đến đoạn mạng sống, những người này ở trong tất cả các đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, nhất định sẽ đọa vào địa ngục Vô gián, mất hết căn lành, bị thiêu đốt liên tục, bị tất cả người trí xa lánh. Người ấy đã tạo ra tội nặng như vậy, lại kiêu mạn, lừa dối thế gian, tự xưng: “Chúng ta cũng cầu quả Bồ-đề vô thượng, ta là bậc Đại thừa, sẽ được làm Phật.” Những người ấy, do làm não loạn người xuất gia nên làm người hạ tiện còn khó được, huống chi là có thể chứng đắc quả Bồ-đề của Nhị thừa, còn quả Vô thượng Đại thừa thì dứt khoát không thể dự phần.

Lại nữa, này thiện nam! Vào đời quá khứ có nước tên là Bàngiá-la, vua hiệu là Thắng Quân thống lĩnh cõi nước ấy. Khi ấy, trong nước có một gò đất lớn tên là Yết-lam-bà, thật là đáng sợ, rất nhiều quỷ Dược-xoa, La-sát ở đó. Người nào trông thấy đều kinh sợ, dựng tóc gáy.

Bấy giờ, trong nước có người bị tội đáng chết, vua sai quan cai ngục trói năm phần thân thể kẻ ấy, rồi đem ném vào gò đất lớn Yếtlam-bà để cho các quỷ ác ăn thịt. Tội nhân nghe vậy, vì muốn bảo toàn mạng sống nên cạo bỏ râu tóc, tìm áo ca-sa. Người ấy tìm được một miếng, tự quấn vào cổ.

Khi quan cai ngục y theo lệnh vua, trói năm phần thân thể tội nhân đem bỏ nơi gò đất rồi trở về. Đến nửa đêm có quỷ mẹ La-sát tên là Đao Kiếm Nhãn cùng với năm ngàn quyến thuộc đi vào gò đất ấy, tội nhân trông thấy rất sợ hãi.

Bấy giờ, La-sát mẹ thấy có người bị trói năm phần thân thể, cạo bỏ râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ liền đi nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay, cung kính nói bài tụng:
Ông hãy tự an vui
Tôi không làm hại ông
Thấy cạo tóc, nhuộm y
Làm tôi nghĩ đến Phật.

Khi ấy, La-sát con thưa với mẹ:

Mẹ ơi! Con đói khát
Thân tâm thật khó chịu
Xin ăn thịt người này
Hết khổ, thân tâm vui.

La-sát mẹ liền bảo con:

Mặc áo ca-sa Phật
Là y tướng giải thoát
Sinh tâm ác với họ
Nhất định đọa vô gián.

Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc, nhiễu quanh bên phải người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính, nói bài tụng:

Sám hối người nhuộm y
Tôi thà với cha mẹ
Tạo thân, miệng, ý ác
Với ông quyết không hại.

Bấy giờ, lại có La-sát mẹ tên là Lư-loa-sỉ, cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh, đi vào gò đất ấy. La-sát mẹ cũng thấy người kia bị trói năm phần thân thể, cạo râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ, liền đi nhiễu quanh bên phải, tôn trọng đảnh le, chắp tay cung kính nói bài tụng:

Ông chớ có sợ tôi
Cổ ông quấn pháp phục
Là y tướng của Phật
Tôi đảnh lễ cúng dường.

Khi ấy, La-sát con thưa mẹ:

Máu thịt người ngon ngọt
Xin mẹ cho con ăn
Để tăng sức thân tâm
Dũng mãnh không biết sợ.

La-sát mẹ liền bảo con:

Hàng trời, người vui sướng
Do cung kính xuất gia
Cúng dường người quấn y
Được vô lượng an vui.

Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc nhiễu quanh bên phải người ấy, ton trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính nói bài tụng:

Tôi cung kính đảnh lễ
Người cạo tóc nhuộm y
Nguyện ở đời vị lai
Thấy Phật sinh tín tâm.

Khi ấy, lại có La-sát mẹ tên là Tông-man-phát, cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh đi vào gò đất. La-sát mẹ cũng thấy người này bị trói năm phần thân thể, cạo râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ, liền nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính nói bài tụng:
Tướng y ca-sa Phật
Người trí nên phụng sự
Nếu hay tu cúng dường
Ắt đoạn các trói buộc.

Lúc đó, La-sát con thưa mẹ:

Thân máu thịt người này
Là thức ăn quốc vương
Xin cho con ăn nuốt
Có sức phụng sự mẹ.

La-sát mẹ liền bảo:

Người nhuộm y thế này
Con chẳng nên ăn họ
Khởi tâm ác với họ
Sẽ chịu khổ rất lớn.

Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc nhiễu quanh bên phải người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính, nói bài kệ:

Ông là dòng giống Phật
Là ruộng phước tốt lành
Nên tôi tu cúng dường
Nguyện dứt các trói buộc.

Khi ấy, có La-sát mẹ tên là Đao Kiếm Khẩu, cũng có năm ngàn quyến thuộc vây quanh, đi vào gò đất. La-sát mẹ cũng thấy người này bị trói năm phần thân thể, cạo râu tóc, quấn mảnh ca-sa đỏ dưới cổ, liền nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính nói kệ:

Nay ông mặc pháp y
Ắt hướng đến Niết-bàn
Nên tôi không hại ông
Sợ chư Phật quở trách.

Khi ấy, La-sát con thưa với mẹ:

Con thường hút tinh khí
Ăn uống máu thịt người
Cho con ăn người này
Sức lực được đầy đủ.

La-sát mẹ bảo con:
Hại người mặc ca-sa
Và cạo bỏ râu tóc
Ắt đọa ngục vô gián
Chịu khổ lớn lâu dài.

Nghe vậy, La-sát con cùng các quyến thuộc nhiễu quanh bên phải người ấy, tôn trọng, đảnh lễ, chắp tay cung kính, nói kệ:

Chúng tôi sợ địa ngục
Nên không dám hại ông
Sẽ mở trói cho ông
Nguyện thoát khổ địa ngục.

Bấy giờ, mẹ con La-sát cùng quyến thuộc đều phát tâm Từ, mở trói cho người ấy, sám hối tạ lỗi, thăm hỏi vui vẻ, thả cho về. Sáng sớm, người ấy đi nhanh đến chỗ vua, trình bày đầy đủ việc này lên vua. Vua Thắng Quân và các quyến thuộc nghe sự việc này đều kinh ngạc, vui mừng cho là việc chưa từng có, liền lập quy chế truyền lệnh bảo những người trong nước: “Từ nay về sau, ở trong nước ta, nếu có đệ tử của Phật hoặc người trì giới, hoặc người phá giới, thậm chí cho đến người không có giới pháp mà chỉ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, nếu người nào xâm phạm làm hại người ấy sẽ trị phạt bằng tội chết.” Do nhân duyên này, mọi người mến mộ oai đức, dần dần đều quy kính vua Thiệm-bộ châu, đều cùng nhau thành tâm quy y cung kính Tam bảo.

Này thiện nam! Nên biết, La-sát này vào thời quá khứ tuy thọ thân ngạ quỷ không an vui, hút tinh khí của người, ăn uống máu thịt, tâm ác luôn bừng cháy, không có Từ bi mà khi thấy người không có giới đức, chỉ cạo bỏ râu tóc, dùng mảnh ca-sa buộc dưới cổ, liền nhiễu quanh bên phải, tôn trọng, đảnh lễ, cung kính, khen ngợi, không có tâm làm tổn hại. Tuy nhiên vào đời vị lai sẽ có vua Sátđế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này ôm lòng độc ác, không có lòng Từ thương xót, gây tạo tội lớn, đối với Dạ-xoa, La-sát ngu si, ngạo mạn, mất hết căn lành, đối với người xuất gia theo giáo pháp của ta hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì không cung kính, làm não loạn, quở mắng, hoặc dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt vào lao ngục cho đến đoạn cả mạng sống. Người này ở trong tất cả các cõi Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, đoạn mất căn lành, bị thiêu đốt liên tục, bị tất cả người trí xa lánh, nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Xưa có quốc vương tên là Siêu Phước Đức, có người phạm tội đáng tử hình, biết tánh vua nhân từ không nỡ đoạn mạng sống, nên một đại thần có trí tuệ, nhiều mưu kế, đến trước vua tâu: Xin ngài chớ có ưu buồn, thần sẽ không làm cho vua mắc tội sát sinh, không giao cho đao phủ giết người này.

Vị đại thần có trí tuệ mới dẫn người phạm tội đến con voi say hung dữ. Lúc đó, voi say hung dữ dùng vòi cuốn lấy hai chân tội nhân đưa lên hư không, đem hết sức lực muốn đập xuống đất, bỗng thấy người này mặc áo màu đỏ, là áo ca-sa nên sinh tâm tịnh tín, liền đặt người phạm tội xuong đất từ từ, gào khóc, sám hối tạ lỗi, quỳ xuống trước mặt, để vòi sát chân, tâm cung kính chiêm ngưỡng người ấy. Thấy vậy, đại thần chạy về tâu vua. Nghe nói, nhà vua kinh ngạc cho là việc chưa từng có, liền sắc lệnh cho muôn dân trong nước đều phải tôn kính Tam bảo. Nhân đó, vua Thiệm-bộ châu từ bỏ sát sinh.

Này thiện nam! Nên biết, voi say này vào thời quá khứ tuy thọ thân súc sinh không được an lạc nhưng tôn kính áo ca-sa, không gây nghiệp ác. Tuy nhiên, vào đời vị lai sẽ có vua Sát-đế-lợi Chiên-tràla, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này thường ôm lòng độc ác, không có lòng Từ thương xót, gây tạo tội lỗi hơn voi say độc ác, ngu si, ngạo mạn, đoạn mất căn lành, đối với người xuất gia theo giáo pháp của ta, hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải bậc Pháp khí, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì không cung kính, làm não loạn, quơ mắng, hoặc dùng roi gậy đánh đập, hoặc nhốt vào lao ngục cho đến đoạn mạng sống. Người này ở trong tất cả cõi Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại phạm các tội lớn, đoạn mất căn lành, bị thiêu đốt liên tục, bị các người trí xa lánh, nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn… những người Chiên-trà-la này thành tựu luân ác thứ ba như vậy. Do nhân duyên này làm cho những vị ủng hộ đất nước như tất cả Trời, Rồng, Dược-xoa, Thần… càng tin kính Tam bảo, không chút dao động, đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-lamôn Chiên-trà-la những người này sinh tâm sân giận, nói rộng như trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Samôn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi sẽ bị cứng, không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, ở cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-lamôn Chiên-trà-la những người này theo bạn xấu ác, căn lành ít ỏi, nói rộng cho đến không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thấy vật cúng dường cho bốn phương Tăng, nghĩa là các chùa, thất, hoặc vật của chùa, thất, hoặc các vườn rừng, hoặc là vật của vườn rừng, hoặc các trang trại, ruộng đất, hoặc vật của các trang trại, ruộng đất, hoặc lạm dụng của thiện nam, tín nữ, hoặc lạm dụng các loại súc vật, hoặc lấy y phục, thức ăn uống, hoặc lấy giường tòa, đồ nằm, hoặc lấy thuốc men, hoặc lấy các loại vật dụng.

Các vật cúng dường bốn phương Tăng như vậy, các vị đầy đủ giới, phước đức, tinh tấn tu hành, học hạnh Vô học, cho đến chứng đắc quả vị tối thượng, các vị Bí-sô thanh tịnh xứng đáng thọ dụng. Nhưng những người Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-lamôn Chiên-trà-la này dùng thế lực chiếm đoạt, không cho Bí-sô thanh tịnh đủ giới thọ dụng, ngược lại còn đem cho Bí-sô phá giới làm nhưng việc xấu ác kinh doanh tại gia các việc thế tục, họ cùng nhau thọ dụng hoặc thọ dụng một mình, hoặc cùng với người thế tục thọ dụng. Do nhân duyên này làm cho tất cả Trời, Rồng, Dược-xoa ủng hộ đất nước, tin kính Tam bảo không lay động, đối với vua Sátđế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này sinh tâm sân giận, nói rộng như trước. Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiêntrà-la những người này không bao lâu thân thể sẽ thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi sẽ bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai trong cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này theo bạn ác, căn lành ít ỏi, nói rộng cho đến không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thấy người xuất gia trong chánh pháp của ta thông minh, học rộng, đầy đủ, hoặc có thể truyền bá pháp Thanh văn thừa, hoặc có thể truyền bá pháp Độc giác thừa, hoặc có thể truyền bá pháp Vô thượng thừa, làm cho pháp được lưu truyền rộng khắp, đem lại lợi lạc cho chúng hữu tình.

Các người kia đối với các vị Pháp sư này, quở mắng, hủy nhục, phỉ báng, khinh thường, lừa dối, làm bức bách, não loạn Pháp sư, gây chướng ngại chánh pháp. Do nhân duyên này làm cho tất cả các vị ủng hộ đất nước, như Trời, Rồng, Dược-xoa càng tin kính Tam bảo không lay động, còn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm giận dữ, nói rộng như trước.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Samôn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi sẽ bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ sinh vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, trong cõi nước này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la, những người này theo bạn ác, căn lành ít ỏi, nói rộng cho đến không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thấy có vật cúng dường bốn phương Tăng: chùa, thất, trang trại, ruộng đất, người, súc vật, của cải, vật báu, bông hoa, cây ăn trái, cây thuốc nhuộm, cây bóng mát, cây thuốc thơm và các loại vật dụng khác, mà chỉ các đệ tử có đầy đủ giới, phước đức, tinh tấn tu hành, học hạnh Vô học cho đến chứng đắc quả vị Tối thượng, các Bí-sô thanh tịnh mới xứng đáng thọ dụng. Nhưng vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la này dùng thế lực mạnh chiếm đoạt, hoặc tự mình chiếm đoạt, hoặc bảo người khác chiếm đoạt, hoặc tự thọ dụng, hoặc cho người khác thọ dụng. Do nhân duyên này làm cho chư vị ủng hộ đất nước: Trời, Rồng, Dược-xoa càng tin kính Tam bảo không lay động, còn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm sân giận, nói rộng như trước.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Samôn, Bà-la-môn Chiên-trà-la kia không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián.

Lại nữa, này thiện nam! Vào đời vị lai, ở cõi Phật này có vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-lamôn Chiên-trà-la, những người này căn lành ít ỏi, không có tín tâm, dua nịnh, ngu si, ngã mạn cho mình là thông minh, nói không chân thật, xa lìa bạn lành, theo bạn ác, đối với Thánh pháp thì nghi ngờ, không thấy, không sợ quả khổ đời sau, thường thích tập tành gần gũi các luật nghi xấu ác, ưa làm các việc sát sinh cho đến tà kiến, ngạo mạn, dối gạt thế gian, tự xưng ta là người giữ luật nghi.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiêntrà-la này, dùng nhiều phương cách hủy diệt chánh pháp của ta, đối với người xuất gia theo giáo pháp của ta thì sinh tâm giận dữ, quở mắng, hủy nhục, đánh đập, bắt nhốt, cắt bỏ tay chân, các phần thân thể cho đến đoạn mạng sống, không tin nhận giáo pháp của ta nói ra, phá hoại tháp và các chùa, thất, bức bách và đuổi các Bí-sô về với thế tục, gây cản trở việc cạo tóc, mặc áo ca-sa, sai khiến các việc giống như nô bộc. Do nhân duyên này làm cho chư vị ủng hộ đất nước: Trời, Rồng, Dược-xoa càng tin kính Tam bảo không lay động, còn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la thì sinh tâm sân giận, nói rộng như trước.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Samôn, Bà-la-môn Chiên-trà-la không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ sở, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián.

Này thiện nam! Các vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la đối với mười luan ác đã nói trên, hoặc có một luân hoặc có đủ cả thì tất cả căn lành đã tu tập trước đây đều bị thiêu hủy như tro bụi, không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng không nói được, thọ lấy các khổ, đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sinh vào địa ngục Vô gián.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la, Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Samôn, Bà-la-môn Chiên-trà-la, những người này vào đời vị lai làm người hạ tiện còn khó được, huống chi là có thể chứng quả Nhị thừa, còn quả Vô thượng Đại thừa thì dứt khoát không thể nào dư phần. Người ác như vậy danh từ Đại thừa còn khó nghe được, huống chi là có thể chứng quả Vô thượng. Người này cuối cùng chỉ làm tổn hại mình, tổn hại người khác, tất cả chư Phật đều không thể cứu được.

Này thiện nam! Ví như người làm nghề ép dầu mè, mỗi hạt mè đều có sâu, khi dùng bánh xe ép thì dầu chảy ra, ông thử xet xem người ép dầu này mỗi ngày đêm giết biết bao nhiêu là sinh mạng? Giả sử người ép dầu này dùng mười bánh xe ép liên tục suốt một ngày đêm, trong mỗi bánh xe ép dầu có số lượng mè đến ngàn hộc như vậy, liên tục ép dầu đến một ngàn năm, ông xem người ép dầu giết biết bao nhiêu là sinh mạng, mắc tội nghiệp sát sinh có nhiều không?

Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Người này đã giết vô lượng, vô biên, mắc nghiệp tội không thể nói hết, dùng toán số ví dụ cũng không thể được, chỉ có Phật mới hiểu biết, ngoài ra không ai biết được.

Phật bảo:

–Này thiện nam! Ví như có người vì ham nhiều của cải nên lập ra mười nhà dâm, trong mỗi nhà dâm chứa một ngàn dâm nữ, mỗi dâm nữ trang sức mỗi cách, làm nhiều người đam mê, thường làm việc dâm dục. Như vậy liên tục làm đến một ngàn năm, người này mắc tội không thể tính đếm, dùng toán số ví dụ cũng không thể được. Một nhà dâm mắc nghiệp tội bằng tội của người dùng mười bánh xe ép dầu đã nói ở trước.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người vì ham muốn của cải, lập ra mười quán rượu, trong mỗi quán rượu trưng bày đủ thứ, bằng nhiều cách chiêu dụ đến một ngàn người say đắm rượu, uống nhiều, vui chơi suốt ngày đêm không nghỉ. Như vậy liên tục đến một ngàn năm, người này mắc tội không thể nói, tính đếm, dùng toán số ví dụ cũng không thể được. Nghiệp tội của một quán rượu bằng tội của mười nhà dâm đã nói ở trước.

Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người vì ham muốn của cải lập ra mười nhà đồ tể, một ngày đêm mỗi nhà đồ tể giết hại đến một ngàn súc sinh như trâu, dê, lạc đà, nai, gà, chó… Liên tục giết hại như vậy đến một ngàn năm, người này mắc tội không thể nói, tính đếm, dùng toán số ví dụ cũng không thể được. Nghiệp tội của một nhà đồ tể bang tội của mười quán rượu đã nói ở trước.

Vua Sát-đế-lợi Chiên-trà-la cho đến Sa-môn, Bà-la-môn Chiên-trà-la những người này trong một ngày đêm nếu phạm một luân trong mười luân ác ở trước thì mắc tội bằng tội của mười nhà đồ tể đã nói ở trước.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng:

Tội mười xe ép dầu
Bằng mở một nhà dâm
Lập ra mười nhà dâm
Bằng mở một quán rượu
Tội lập mười quán rượu
Bằng một nhà đồ tể
Lập mười nhà đồ tể
Tội bằng một luân ác.

*********

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Địa Tạng hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện, Tể quan chân thiện, Cư sĩ chân thiện, Trưởng giả chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện, những người này bảo hộ tốt cho mình, cũng bảo hộ tốt cho người khác, bảo hộ tốt cho đời sau, khéo ủng hộ Phật pháp. Đối với người xuất gia hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến không có giới, chỉ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa thì khéo bảo hộ, cung kính, ủng hộ, cúng dường khắp. Lại bảo hộ tốt pháp Thanh văn thừa, pháp Duyên giác thừa và pháp Đại thừa, cung kính lắng nghe, tin nhận cúng dường. Đối với các vị an trú Đại thừa, đầy đủ giới phước đức, tinh tấn tu hành cho đến hàng Bổ-đặcgià-la cũng đều khéo giữ gìn, hỗ trợ oai lực của họ, thưa hỏi, lắng nghe, lãnh thọ, vui vẻ bàn luận, xa lìa Bí-sô phá giới, làm hạnh xấu ác. Đối với các vật cúng dường bốn phương Tăng hoàn toàn không để cho người phi pháp thọ dụng hao phí mà siêng năng gìn giữ. Đối với chùa tháp và vật chúng Tăng hoàn toàn không tự mình đoạt lấy, hoặc bảo người khác đoạt lấy; tự mình không thọ dùng, cũng không bảo người khác thọ dùng. Đối với người giảng thuyết giáo pháp ba thừa thì cung kính cúng dường, ung hộ, không để cho người khác phỉ báng, hủy nhục; tôn trọng, an ủi các người xuất gia, tin nhận, hộ trì giáo pháp do Phật thuyết ra, hoàn toàn không phá hoại chùa tháp, luôn luôn hộ trì phòng xá Tăng chúng. Đối với người xuất gia cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa hoàn toàn không làm tổn hại họ. Đối với mười luân ác mình không đắm nhiễm và thường khuyên người khác xa lìa, học đầy đủ chính sách trị quốc của Tiên vương, tiếp nối dòng giống Tam bảo làm cho hưng thịnh, thường ưa thân gần Thiện tri thức, lòng từ vỗ về chăm sóc tất cả dân chúng trong nước, tùy theo chỗ ưa thích mà tìm cách giáo hóa, dẫn dắt làm cho họ bỏ tà đạo, tu hành theo chánh pháp. Vua Sat-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện như vậy, sẽ được bao nhiêu phước đức và diệt trừ bao nhiêu, nghiệp tội?

Phật bảo:

–Này thiện nam! Giả sử có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực, vào đầu ngày dùng bảy thứ báu tích chứa đầy cõi Thiệm-bộ châu, đem cúng dường chư Phật và chúng đệ; giữa ngày cũng dùng bảy thứ báu tích chứa đầy cõi Thiệm-bộ châu, đem cúng dường chư Phật và chúng đệ tử; cuối ngày cũng dùng bảy thứ báu tích chứa đầy cõi Thiệm-bộ châu, đem cúng dường chư Phật và chúng đệ tử. Ngày ngày liên tục cúng dường như vậy cho đến trăm ngàn năm, phước đức người đó có nhiều không?

Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa:

–Bạch Thế Ton! Rất nhiều! Rất nhiều! Người đó tích chứa phước đức vô lượng, vô biên không thể tính đếm, dùng ví dụ toán số cũng không thể được, chỉ có Phật mới biết, ngoài ra không ai có thể biết.

Phật nói:

–Này thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Nếu có vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện nào, đối với mười luân ác mà tự mình không đắm nhiễm, lại thường khuyên người xa lìa mười luân ác thì được phước đức còn hơn phước tích chứa vô lượng, vô biên không thể tính đếm như đã nói ở trước.

Lại nữa, này thiện nam! Giả sử có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, cất chùa đẹp cúng dường bốn phương Tăng, chùa đó rộng lớn bằng bốn đại châu, có đầy đủ phòng xá, giường nằm, y phục, thức ăn uống, thuốc men, đồ dùng tốt nhất để cho chúng đại đệ tử Thanh văn, Bồ-tát của chư Như Lai an trú trong đó, mà tinh tấn tu hành các pháp thiện, ngày đêm không biếng nhác, trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm, cung cấp cúng dường liên tục không gián đoạn, người này tích chứa phước đức có nhiều không?

Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Người này tích chứa phước đức vô lượng, vô biên không thể tính đếm, dùng toán số, ví dụ cũng không thể được, chỉ có Phật mới biết, ngoài ra không ai có thể biết được.

Phật nói:

–Này thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói!

Lại nữa, này thiện nam! Giả sử có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, cất chùa đẹp cúng dường bốn phương Tăng, chùa đó rộng lớn bằng mười bốn đại châu, có đầy đủ phòng xá, giường nằm, y phục, thức ăn uống, thuốc thang, đồ dùng tốt nhất để cho chúng đại đệ tử Thanh văn, Bồ-tát của chư Như Lai an trú trong đó, mà tinh tấn tu hành các pháp thiện, ngày đêm không biếng nhác, trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm, cung cấp cúng dường liên tục không gián đoạn thì người này tích chứa phước đức như vậy có nhiều không?

Đại Bồ-tát Địa Tạng thưa:

–Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, rất nhiều! Người này tích chứa phước đức vô lượng, vô biên không thể tính đếm, dùng toán số, ví dụ cũng không thể được. Chỉ có Phật mới biết được, ngoài ra không ai biết.

Phật nói:

–Này thiện nam! Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như lời ông nói!

Lại nữa, này thiện nam! Giả sư có người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, xây tháp thờ xá-lợi của Phật, cao rộng, tốt đẹp bằng tam thiên đại thiên thế giới như đã nói ở trước… phước xây chùa cúng dường bốn phương Tăng đem so với phước xay tháp thờ xá-lợi của Phật thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cũng không bằng một phần trăm ngàn, cũng không bằng một phần câu-chi, cũng không bằng một phần na-dữu-đa, phần toán, phần số, phần kế, phần dụ, cho đến cũng không bằng một phần ô-ba-ni-sát.

Lại nữa, này thiện nam! Giả sử có những người chứng đắc Bala-mật-đa, đầy đủ tám giải thoát, tĩnh lự, đẳng chí, những đại A-lahán này nhiều như lúa, cỏ, gai, tre, mía, vườn, rừng, đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, nhưng tất cả đều bị trói chặt năm phần thân thể, trải qua trăm ngàn năm, khi ấy có một người xuất hiện ở thế gian, đầy đủ oai lực lớn, ưa làm việc phước đức, mơ trói cho tất cả các vị A-la-hán đó rồi, dùng nước thơm tắm gội, cúng dường y bát, trải qua ngàn năm cung cấp phòng nhà, giường tòa, y phục, thức ăn uống, thuốc thang và các vật dụng tốt đẹp nhất. Khi các vị A-la-hán nay nhập Niết-bàn thì hỏa táng, cúng dường, thâu nhặt xá-lợi, dùng bảy thứ báu tốt nhất để xây tháp, bên trong để xá-lợi, lại đem cờ phướn, lọng báu, hương hoa, kỹ nhạc mà cúng dường. Phước xây tháp thờ xá-lợi của Phật như nói ở trước, đem so với phước mở trói các vị A-la-hán và cúng dường thì không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, cũng không bằng một phần trăm ngàn, cũng không bằng một phần câu-chi, cũng không bằng một phần na-dữu-đa, phần toán, phần số, phần kế, phần dụ, cho đến cũng không bằng một phần ô-ba-ni-sát.

Này thiện nam! Nếu có vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bàla-môn chân thiện nào, tự mình không tập nhiễm mười luan ác, lại thường khuyên người xa lìa mười luân ác thì sẽ được phước đức nhiều hơn phước đức đã nói ở trước vô lượng, vô biên không thể tính đếm. Phát sinh được bao nhiêu phước như vậy thì cũng diệt được bấy nhiêu tội.

Này thiện nam! Vua Sát-đế-lợi chân thiện và các Tể quan, Cư sĩ, Trưởng giả, Sa-môn, Bà-la-môn chân thiện nào, vào đời vị lai, sau năm trăm năm lúc chánh pháp sắp diệt, có thể hộ trì tốt mắt chánh pháp của ta, có thể bảo hộ tốt cho mình, bảo hộ tốt cho người khác, bảo hộ tốt đời sau, bảo hộ tốt giáo pháp của ta. Đối với đệ tử xuất gia hoặc là bậc Pháp khí, hoặc chẳng phải là bậc Pháp khí, cho đến không có giới pháp, chỉ cạo bỏ rau tóc, mặc áo ca-sa, cũng đều phải bảo hộ đầy đủ, cung kính, cúng dường, không làm tổn hại, lại có thể bảo hộ tốt chánh pháp ba thừa. Trong khi lắng nghe, lãnh thọ, cúng dường pháp Thanh văn thừa thì đối với pháp Độc giác thừa và pháp Đại thừa không được sinh tâm phỉ báng, cũng không ganh ghét người tu Độc giác và Đại thừa. Lúc lắng nghe, lãnh thọ, cúng dường pháp Độc giác thừa thì đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Đại thừa không được sinh tâm phỉ báng, cũng không ganh ghét người tu Thanh văn thừa và Đại thừa. Lúc lắng nghe, lãnh thọ, cúng dường pháp Đại thừa thì đối với pháp Thanh văn thừa và pháp Độc giác thừa không được sinh tâm phỉ báng, cũng không ganh ghét người tu Thanh văn thừa và Độc giác thừa. Người này không mong cầu chứng đắc pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, mà chỉ hướng đến mong cầu chứng đắc chánh pháp Đại thừa. An trú trong Đại thừa, đầy đủ giới phước đức, tinh tấn tu hành cho đến an trụ quả vị Bổ-đặc-lặc-già-la cũng thường nên thân cận, phụng sự, tôn kính, cúng dường, thưa hỏi, lắng nghe, lãnh thọ, xa lìa Bí-sô phá giới làm hạnh xấu ác. Đối với các vật cúng dường bốn phương Tăng, hoàn toàn không để cho người phi pháp sử dụng hao phí, mà phải siêng năng gìn giữ. Đối với chùa tháp và vô số các vật cúng dường hoàn toàn không đoạt lấy; cũng không dạy người khác đoạt lấy; không tự sử dụng, cũng không dạy người khác sử dụng. Đối với người thuyết giảng giáo pháp ba thừa thì cung kính, cúng dường, đem năng lực mình bảo hộ, không để người khác phỉ báng, hủy nhục, phải tôn trọng, an ủi các người xuất gia, tin hiểu, bảo hộ thọ trì Thánh giáo của Như Lai, hoàn toàn không phá hoại chùa tháp, phải luôn ủng hộ, giữ gìn chùa của bốn phương Tăng. Đối với các đệ tử xuất gia của ta hoàn toàn không được hủy phạm, khong bắt buộc phải hoàn tục, không đắm nhiễm mười luân ác và thường xuyên khuyên người khác xa lìa mười luân ác, tự mình học chính sách trị nước của Tiên vương, thực hành mười nghiệp đạo thiện, giáo hóa thế gian, thường phải gần gũi các bậc Thiện tri thức, nối tiếp dòng giống Tam bảo làm cho hưng thịnh, bảo hộ tốt mắt chánh pháp không cho đoạn diệt.

Như vậy, Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện, do đầy đủ các công đức này mà danh tiếng không hư vọng, được thọ nhận bổng lộc của dân chúng trong nước, tất cả Trời, Rồng, Dượcxoa, Quỷ thần cho đến Yết-tra bố-đát-na… đều sinh tâm vui mừng, thương xót, ủng hộ, tất cả bậc Pháp khí là ruộng phước chân thật, cũng sinh hoan hỷ, Từ bi hộ niệm. Do nhân duyên này làm cho đất nước và các hữu tình phát triển, hưng thịnh, an lạc, phồn vinh. Quân lính các nước lân cận không thể chiếm lấn, giết hại, mà còn kính phục, mến mộ hiền đức, tự đến xin quy hàng. Nhờ siêng năng tu tập nghiệp thiện này nên chấm dứt đường ác, tăng trưởng nhân trời người, bảo hộ thân mạng làm cho được sống lâu, tự mình diệt trừ các phiền não, cũng khiến cho người diệt trừ, gìn giữ đạo Bồ-đề, hành sáu pháp Ba-la-mật, phá trừ tất cả tà kiến, đường ác, không bao lâu thoát khỏi biển sinh tử, thường xa các bạn ác, gần gũi các bạn lành, sinh ở nơi nào cũng thường gặp chư Phật, Bồ-tát cung kính cúng dường, chưa từng rời bỏ, không bao lâu tùy tâm ưa thích từng mỗi người đều an trụ cõi Phật, chứng đắc đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc bấy giờ trong chúng hội, tất cả Thiên đế và các quyến thuộc, cho đến tất cả Tất-xá-giá-đế và quyến thuộc đều đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ở cõi Phật này vào đời vị lai, sau năm trăm năm, lúc chánh pháp sắp diệt, các vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện nào, tự xa lìa mười luân ác, hoặc khuyên người khác xa lìa mười luân ác, bảo hộ mình và người, bảo hộ đời sau, hộ trì chánh pháp, nối tiếp dòng giống Tam bảo, làm cho hưng thịnh, không để đoạn diệt. Tóm lại là như Phật đã nói ở trước, những người này đối với giáo pháp ba thừa cung kính lắng nghe, lãnh thọ, hoàn toàn không che giấu, đối với người tu ba thừa thì ủng hộ, cúng dường, không quấy nhiễu, đối với vật của Tam bảo thì siêng năng gìn giữ không để hao phí thì quyến thuộc chúng con sẽ đem hết năng lực ủng hộ vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện làm cho mười pháp tăng trưởng.

Mười phap đó là:

  1. Tuổi thọ tăng trưởng.
  2. Không có hoạn nạn không tăng trưởng.
  3. Không có bệnh tật không tăng trưởng.
  4. Quyến thuộc tăng trưởng.
  5. Của cải tăng trưởng.
  6. Vật dụng tăng trưởng.
  7. Quyền lực tăng trưởng.
  8. Tiếng khen tăng trưởng.
  9. Bạn lành tăng trưởng.
  10. Trí tuệ tăng trưởng.

Bạch Thế Tôn! Vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện kia, tự mình xa lìa mười luân ác, khuyên người xa lìa mười luân ác, đầy đủ các công đức như nói ở trước, chúng con ủng hộ người ấy, nhất định họ sẽ được tăng trưởng mười pháp trên.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện nào thành tựu công đức như đã nói ở trước, quyến thuộc chúng con sẽ đem năng lực ủng hộ, làm cho họ xa lìa mười pháp sau. Mười pháp đó là:

  1. Xa lìa tất cả oan gia thù địch.
  2. Xa lìa tất cả cảnh chẳng đáng ưa thích: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
  3. Xa lìa tất cả tật bệnh, ghẻ lở.
  4. Xa lìa tất cả ác kiến tà chấp.
  5. Xa lìa sự quay về nương vào tất cả tà vọng.
  6. Xa lìa tất cả tai họa yêu quái.
  7. Xa lìa tất cả nghề nghiệp xấu ác.
  8. Xa lìa tất cả những hiểu biết xấu ác.
  9. Xa lìa tất cả nhà ở chỗ bun nhơ.
  10. Xa lìa tất cả nạn chết yểu trái thời.

Bạch Thế Tôn! Sát-đế-lợi chân thiện cho đến Bà-la-môn chân thiện kia nếu thành tựu các công đức đã nói ở trước, chúng con sẽ ủng hộ người ấy, nhất định họ sẽ được xa lìa mười pháp trên.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có Sát-đế-lợi chân thiện nào tu tập đầy đủ các công đức như đã nói ở trước và được viên mãn thì quyến thuộc chúng con sẽ siêng năng ủng hộ, làm cho nhà vua cùng các quyến thuộc và tất cả muôn dân trong nước ấy được xa lìa mười pháp.

Những gì là mười pháp?

  1. Xa lìa tất cả giặc oán thù ngoài nước.
  2. Xa lìa tất cả người oán thù trong nước.
  3. Xa lìa tất cả quỷ thần hung ác.
  4. Xa lìa tất cả nan hạn hán.
  5. Xa lìa tất cả các nạn lụt lội.
  6. Xa lìa tất cả tai hại về nóng, lạnh, mưa to gió lớn trái trời, sương muối, mưa đá.
  7. Xa lìa tất cả sao xấu biến quái.
  8. Xa lìa tất cả đói khát mất mùa.
  9. Xa lìa tất cả bệnh chết trái trời.
  10. Xa lìa tất cả ác kiến, tà chấp.

Bạch Thế Tôn! Nếu vua Sát-đế-lợi chân thiện kia tu tập đầy đủ các công đức như đã nói ở trước và được viên mãn thì quyến thuộc chúng con sẽ siêng năng ủng hộ, làm cho vua đó cùng quyến thuộc và tất cả dân chúng trong nước ấy nhất định được xa lìa mười pháp trên.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi các Thiên đế và quyến thuộc của họ, cho đến tất cả Tất-xá-giá-đế và quyến thuộc của họ:

–Lành thay, lành thay! Các ông đã phát được thệ nguyện như vậy, việc này các ông hoàn toàn nên làm. Nhờ nhân duyên này làm cho các ông được an lạc lâu dài.

Lúc bấy, giờ Đại phạm Thiên Tạng lại thưa Phật:

–Bạch Thế Ton! Xin Thế Tôn cho phép con vì tất cả vua Sátđế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai mà nói thần chú: “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni”. Nhờ năng lực của thần chú “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni” này, làm cho tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai không bị tất cả giặc oán thù, bạn xấu ác chế phục, có thể làm cho tất cả giặc oán thù, bạn xấu ác tự nhiên thoái chuyển, khéo léo gìn giữ tốt ba nghiệp thân, miệng, ý, thường được các người trí khen ngợi, xa lìa các điều ác, hay làm các việc lành, thường xa lìa tất cả ngoại đạo, tà giáo. Đối với Đại thừa luôn luôn tinh tấn tu hành, dũng mãnh, kiên cố, có khả năng giáo hóa vô lượng hữu tình, không nương vào người khác, tự nhiên và khéo léo để có thể tu hành đủ sáu pháp Bala-mật quý báu thâm sâu, xa lìa tất cả sân giận, tham lam, ganh ghét, phiền não trói buộc, thường được tất cả nhân, phi nhân cung kính hộ niệm, những gì đã có được đều không quên mất, không bỏ các hữu tình, ưa hành bốn Nhiếp pháp, không xa lìa pháp khí phước điền.

Phật bảo Thiên Tạng:

–Ta cho phép các ông vì tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai mà nói thần chú: “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni”. Nhờ thần lực của chú này làm cho tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai không bị giặc oán thù, bạn xấu ác chế phục, nói rộng ra cho đến không xa lìa hết thảy chư Phật và đệ tử của Phật.

Lúc ấy, Đại phạm Thiên Tạng liền nói thần chú “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni”:

–Đát điệt tha mâu ni vị lộc, mâu na yết lạp phiệt, mâu ni hột lê đạt duệ, mâu ni lô ha tì triết lệ, mâu na hạt lật chế, mâu ni cấp mê, thúc ngật la bác sai, bát la xa bác sai, mật la bác sai, tao thích bà hột lật đế, đố thích noa hột lật triết lệ, bát đát la xoa hột lật đế, cụ cụ noa mật lệ, ba phiệt xoa tát lệ, át nộ ha kỳ nê phiệt, mâu ni bát tháp phiệt, ta ha.

Đại phạm Thiên Tạng nói bài chú này rồi lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn và đại chúng tùy hỷ với thần chú đại Đà-la-ni mà con vừa nói.

Đức Thế Tôn bảo:

–Lành thay, lành thay!

Tất cả đại chúng cũng đồng nói:

–Lành thay, lành thay!

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Đại Mục-kien-liên và Đại Bồ-tát Di-lặc:

–Này thiện nam! Các ông đều nên thọ trì, gìn giữ thần chú: “Hộ quốc bất thoái luân tâm đại Đà-la-ni” của Đại phạm Thiên Tạng vừa nói, truyền lại cho tất cả vua Sát-đế-lợi chân thiện ở cõi nước này vào đời vị lai để tự họ lãnh thọ, hộ trì và làm cho lưu truyền rộng rãi. Nhờ nhân duyên này, mà các vua Sát-đế-lợi chân thiện kia cùng các quyến thuộc và tất cả muôn dân trong nước ấy được lợi ích an lạc, thường chuyển bánh xe chánh pháp, danh tiếng vang xa, oai đức lừng lẫy, diệt trừ tà kiến, thiết lập chánh kiến, giữ gìn mắt chánh pháp, nối tiếp hạt giống Tam bảo làm cho hưng thịnh, không để bị diệt, giáo hóa vô lượng, vô biên hữu tình được an trú trong Đại thừa, có đức tin vững chắc, viên mãn lâu dài, có thể tu đủ sáu pháp Ba-la-mật, diệt trừ chướng ngại, mau đến cứu cánh.

Nói rồi, Đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này nên nói kệ:

Khi Đại phạm Thiên Tạng
Thưa hỏi Lưỡng Túc Tôn
Lợi căn các hữu tình
Ưa tu phước, định, tụng.
Thành tựu pháp tuệ vương
Vươn lên hay chìm đắm
Trong ba việc tu tập
Trừ hoặc không thoái chuyển.
Thế Tôn bảo Thiên Tạng:
Nếu phạm vô y hành
Tuy Giác tuệ nhạy bén
Vẫn đọa ngục vô gián.
Có trí không chân chánh
Ưa hành mười luân ác
Đoạn mất các căn lành
Cũng mau đến địa ngục.
Thiền định diệt phiền não
Không nghe việc phước tụng
Vì muốn cầu Niết-bàn
Thường nên tu tĩnh lự.
Bậc trí siêng tinh tấn
Hộ trì chánh pháp ta
Do tin kính ca-sa
Vượt qua biển phiền não.
Ưa ở chỗ thanh vắng
Nhưng không xa đồng loại
Kính trì giới, tu định
Vượt qua biển các cõi
Tin kính khắp ba thừa
Làm chánh pháp hưng thịnh.
Cúng dường người nhuộm y
Thành tựu biển công đức
Thâu phục tâm khó điều
Không nêu tội Bí-sô.
Tu Thánh chúng, biết đủ
Sẽ thành Lưỡng Túc Tôn
Xa lìa Bí-sô ác
Thân cận bậc Thánh hạnh.
Không lạm dụng vật Tăng
Mau chứng quả Bồ-đề
An lạc trong ba cõi
Hoàn toàn nhờ Tam bảo.
Người mong cầu an lạc
Thường cúng dường Tam bảo
Cấp cho Trà-la vương
Kết bạn Bí-sô ác.
Có lỗi với Tam bảo
Mau đọa ngục vô gián
Tội mười xe ép dầu
Bằng tội một nhà dâm.
Tội mười nhà dâm kia
Bằng tội một quán rượu
Tội đặt một quán rượu
Bằng một người đồ tể
Tạo mười nhà đồ tể
Bằng một tội vua ác.
Các quốc vương chân thien
Làm hưng thịnh chánh pháp
Cúng dường khắp ba thừa
Thành tựu biển công đức.
Bảy báu đầy Thiệm-bộ
Cúng dường Phật và Tăng
Phước người đó tích chứa
Không bằng hộ Phật pháp.
Cất chùa cúng Phật, Tăng
Lớn bằng mười bốn châu
Phước người đó tích chứa
Không bằng hộ Phật pháp.
Xây tháp thờ xá-lợi
Lớn bằng ba ngàn cõi
Phước người đó tích chứa
Không bằng hộ Phật pháp.
Mở trói A-la-hán
Cúng dường, cung cấp đủ
Không chướng ngại chánh pháp
Phước này hơn phước kia.
Trong ngàn câu-chi kiếp
Người trí siêng tu định
Phát sinh tuệ thù thắng
Không bằng hộ chánh pháp.
Các quốc vương chân thiện
Xa lìa mười luân ác
Hộ trì chánh pháp ta
Và người mặc ca-sa.
Không phỉ báng pháp ta
Người và pháp ba thừa
Nghe pháp cúng dường khắp
Hộ trì người thuyết pháp.
Không hao vật Tam bảo
Không ngăn mặc ca-sa
Kính bậc khí, chẳng khí
Phước hơn, không ai bằng.
Như năm mặt trời hiện
Biển lớn đều khô cạn
Hộ chánh pháp như vậy
Làm khô cạn phiền não.
Như lúc có phong tai
Các núi đều hư hoại
Hộ chánh pháp như vậy
Mau diệt trừ phiền não.
Như lúc nạn thủy tai
Đại địa đều cuốn trôi
Hộ chánh pháp như vậy
Làm hoại quả không ưa.
Như hạt châu như ý
Tùy sở nguyện viên mãn
Pháp ba thừa như vậy
Làm mãn nguyện chúng sinh.
Như gặp được bình báu
Hết nghèo, được giàu có
Gặp Phật pháp như vậy
Diệt hoặc, chứng Bồ-đề.
Như ánh trăng ngày rằm
Chiếu sáng khắp hư không
Người hộ chánh pháp này
Trí tuệ thông pháp giới.
Như hư không bình đẳng
Không vật, không hình tướng
Người hộ chánh pháp này
Biết các pháp một vị.
Như ánh sáng mặt trời
Trừ bóng tối thế gian
Người hộ chánh pháp này
Thường chiếu khắp thế gian.