SỐ 158
KINH ĐẠI THỪA ĐẠI BI PHÂN-ĐÀ-LỢI
Hán dịch: Mất tên người dịch – Phụ vào dịch phẩm đời Tần
Việt dịch:  Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN MỘT

Phẩm 3: NHẬP NHẤT THIẾT CHỦNG TRÍ HÀNH ĐÀ-LA-NI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn, khi sắp nói câu “Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni môn” này thì đại địa trong khắp Tam thiên đại thiên thế giới đủ sáu cách chấn động, động cực mạnh, phát ra âm thanh hết sức lớn như khiến núi cao nghiêng ngửa, vọt lên chìm xuống. Lại hiện ra ánh sáng như thế. Ánh sáng này vi diệu, biến khắp mười phương thế giới nhiều hơn số thế giới như cát của sông Hằng. Lúc đó, các núi Tu-di, Thiết vi và Đại thiết vi không còn là vật chướng ngại cho tầm nhìn nữa. Vô số thế giới trong mười phương hiện ra bằng phẳng như lòng bàn tay. Vô số thế giới nơi mười phương an trụ trong đó. Các vị Đại Bồ-tát đã chứng đắc các pháp Tam-muội, Nhẫn nhục, Đà-la-ni nơi vô số thế giới khắp mười phương, nương theo uy lực của Đức Như Lai, bỗng nhiên biến mất khỏi quốc độ của họ và hiện ra nơi thế giới Ta-bà, vào núi Kỳ-xà-quật tới chỗ Đức Thế Tôn cung kính đảnh lễ nơi chân Ngài, dùng vô lượng vô số thần thông của Bồ-tát để cúng dường, rồi ai nấy đều ngồi sang một bên. Vì muốn được nghe pháp môn “Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni” nên vô số chư Thiên nơi các cõi trời thuộc Dục giới, sắc giới và Vô sắc giới cùng đi đến chỗ Đức Phật. Vì muốn được lãnh hội pháp môn “Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni” nên vô số các bộ chúng như: Rồng, Dạ-xoa, A-tu-la, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, cùng đi tới núi Kỳ-xà-quật chỗ Đức Thế Tôn. Vì nhằm thấu đạt pháp môn “Nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni” nên các vị Bồ-tất vân tập đến đây. Tất cả đều thấy Đức Liên Hoa Thượng, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri và đại chúng Bồ-tát vây quanh Ngài ở thế giới Liên hoa.

Lúc này, Đức Thế Tôn bắt đầu thuyết giảng về pháp môn “Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni”. Số Đại Bồ-tát nhiều bằng bảy mươi hai lần số cát sông Hằng chứng đắc Đà-la-ni này, liền thấy được vô số thế giới của chư Phật Thế Tôn trong mười phương. Tất cả đều thấy thế giới trang nghiêm của các Đức Phật thật chưa từng có. Các vị đều đem các thứ thần thông theo diệu lực thệ nguyện của Bồ- tát cúng dường Đức Phật. Đức Phật bảo:

-Này thiện nam, nếu vị Đại Bồ-tát nào tu pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này thì đạt được tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni, được bảy vạn hai ngàn môn Tam-muội, được sáu vạn pháp môn. Vị Bồ-tát chứng đắc Đà-la-ni này rồi thì có được tâm đại từ đại bi. Chứng được Đà-la-ni này rồi thì Đại Bồ-tát thấu tỏ được ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề, đạt Nhất thiết chủng trí, trong đó thâu tóm đầy đủ tít cả giáo pháp của Phật. Các Đức Phật, Thế Tôn khi thật sự giác ngộ môn Đà-la-ni này đều vì chúng sinh thuyết pháp, không vội nhập Niết-bàn.

Này thiện nam, ông phải biết chính oai đức của pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này đã khiến đại địa chấn động, hiện ra ánh sáng vi diệu sáng soi khắp vô lượng vô số thế giới của chư Phật. Do ánh sáng mầu nhiệm tỏa chiếu đến vô lượng vô biên thế giới của chư Phật, nên khiến cho vô lượng vô biên các vị Đại Bồ- tát vân tập nơi đây, vì muốn được nghe pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này. Tất cả thế giới Ta-bà, vô lượng vô biên các bộ chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, A-tu-la, Nhân, Phi nhân nơi các cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc tụ hội ở đây là vì muốn được nghe pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni ấy.

Các vị Bồ-tát vừa nghe được pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này liền chứng được bậc Bất thoái chuyển nơi đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nếu ai biên chép pháp môn ấy thì thường được gặp Phật, nghe pháp, cúng dường chúng Tăng, cho đến khi chứng được Niết-bàn vô thượng.

Nếu có vị Bồ-tát đọc tụng pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này, thì tất cả các trọng tội đều được diệt trừ hết. Khi chuyển sinh sang đời khác được chứng đắc bậc Sơ địa.

Đại Bồ-tát tu tập pháp môn “Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni”, nếu trước đây từng phạm năm tội vô gián thì cũng đều được diệt trừ, khi chuyển sinh sang đời khác được chứng đắc bậc Sơ địa. Nếu vị này không tạo tội vô gián thì tất cả các tội khác của bản thân trong hiện tại cũng đều được dứt trừ hết, khi chuyển sinh sang đời khác sẽ được chứng đắc bậc Sơ địa.

Giả sử chẳng thể tu tập, chẳng thể đọc tụng, cũng không được nghe pháp mà chỉ dùng tơ lụa màu làm y phục cúng dường vị Pháp sư thuyết giảng pháp môn ấy thì người này được các Đức Phật Thế Tôn hiện tại trụ thế trong hằng hà sa số thế giới nơi phương khác đều khen ngợi: Lành thay! Chư Phật Thế Tôn kia cũng thọ ký cho người ấy quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vị Bồ-tát hiến cúng y phục bằng lụa màu ấy chẳng bao lâu sẽ được quả vị Nhất sinh bổ xứ Pháp vương tử, thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng.

Như vậy nếu người đem hương cúng dường thì chẳng bao lâu sẽ được hương Tam-muội vô thượng, đem hoa cúng dường thì chẳng bao lâu sẽ được hoa trí tuệ vô thượng. Nếu có người đem vật báu cúng dường Pháp sư, thì chẳng bao lâu sẽ được vật báu là ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề.

Thiện nam tử, pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la- ni ấy có nhiều lợi ích đối với các vị Đại Bồ-tát như thế. Vì sao? Vì trong đó thuần nói về pháp tạng của Bồ-tát. Vì pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni giúp cho Bồ-tát đạt được biện tài không thể kể xiết, lại được bốn pháp mầu vi diệu.

Thiện nam tử, bấy giờ Đức Như Lai Nguyệt Thượng đem pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni truyền trao cho Bồ-tát Hư Không Ấn, tức thì đại địa cũng lại chấn động, hiện rõ ánh sáng chói lọi. Vô lượng vô biên thế giới của chư Phật trong mười phương được ánh sáng nhiệm mầu ấy tỏa khắp nơi mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay. Các vị Bồ-tát tập hợp ở trong đó đều thấy được các Đức Phật Thế Tôn nơi vô lượng vô biên thế giới khắp mười phương. Như vậy, vô số Bồ-tát nơi vô lượng cõi Phật trong mười phương lại đến thế giới Chiên-đàn, cung kính cúng dường, thân cận Đức Như Lai Nguyệt Thượng vì muốn được nghe pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni.

Thiện nam tử, khi ấy Đức Như Lai Nguyệt Thượng là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri bảo các vị Đại Bồ-tát:

-Này các thiện nam tử, Ta nghe có vị Đại Bồ-tát là hàng Nhất sinh bổ xứ trong mười tiểu kiếp đã nhập Tam-muội Diệt tâm này. Còn các vị Đại Bồ-tát kia thì theo Đại Bồ-tát Hư Không Ấn, trong mười tiểu kiếp để nghe pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni ấy, là Pháp tạng của Bồ-tát. Ớ trong mười tiểu kiếp đó, các Đại Bồ-tát đã thấy chư Phật Như Lai hiện tại trụ thế trong vô sốcõi Phật khắp mười phương, đều theo các Ngài phát tâm thanh tịnh, thành tựu được căn lành. Các vị Bồ-tát kia bèn đem vô sô thứ thần thông của Bồ-tát cúng dường Đức Như Lai Nguyệt Thượng rồi bạch Phật:

-Thưa Đức Thế Tôn, Đại Bồ-tát Hư Không Ấn kia, khi hết mười tiểu kiếp thì sẽ chuyển chánh pháp luân vô thượng chăng?

Phật bảo:

-Đúng vậy! Đúng vậy! Này thiện nam, sau khi trải qua đủ mười tiểu kiếp Đại Bồ-tát Hư Không Ấn sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngay vào đêm thành Phật ấy, Ngài đã vì các vị Bồ-tát chuyển bánh xe Chánh pháp. Trong số đó có các Bồ- tát, qua suốt mười tiểu kiếp đã từng theo Ngài để nghe pháp môn Nhập nhât thiết chủng trí hành Đà-la-ni, thành tựu được căn lành. Bồ-tát Hư Không Ấn khi thành Bậc Chánh Giác Vô thượng liền ngay nơi đêm ấy chuyển bánh xe Chánh pháp, bánh xe Bất thoái chuyển, bánh xe tối thượng, khiến cho vô số na-do-tha trăm ngàn Bồ-tát trụ nơi bậc Bất thoái chuyển. Các vị Bồ-tát đó, trong mười tiểu kiếp theo Ngài nghe thuyết giảng pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni, bấy giờ đều được quả vị Nhất sinh bổ xứ. Còn các vị Bồ-tát chỉ được lãnh hội một ít pháp môn ấy thì đều được chứng đắc quả vị Thập trụ, không còn thoái chuyển nơi đạo quả Bồ-đề Vô thượng, bấy giờ đều đạt được đầy đủ môn Đà-la-ni này. Lúc đó Đức Phật Nguyệt Thượng là Bậc Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, vì các vị Đại Bồ-tát thị hiện vô sô” các thứ thần thông biến hóa của chư Phật rồi, lại vì Bồ-tát Hư Không Ấn thị hiện pháp tam-muội tên là Na-la-diên, khiến cho Bồ-tát kia thọ thân Kim cang. Hiện tam-muội Trang nghiêm quang khiến dù chưa chuyển pháp luân, nhưng trong mười tiểu kiếp, Bồ-tát kia đã vì các vị Bồ- tát giảng nói pháp môn Nhập nhất thiết chủng hành Đà-la-ni ấy. Các thế giới của Phật đều thấy Ngài hiện thân Phật với tướng tốt sáng ngời. Hiện tam-muội Kim cang luân khiến ngồi nơi tòa Bồ-đề, chưa chuyển pháp luân nhưng Bồ-tát kia đã vì các vị Bồ-tát thuyết giảng vô số các pháp. Hiện tam-muội Luân mang, khiến chuyển pháp luân, khi ấy có vô số ức na-do-tha trăm ngàn chúng sinh đạt được bậc Bất thoái chuyển. Bồ-tát Hư Không Ấn đã biết rõ việc chuyển pháp luân, nên cùng các vị Bồ-tát cúng dường Đức Thế Tôn xong rồi đều trở về nơi đài báu cửa mình. Ngay đêm ấy Đức Như Lai Nguyệt Thượng, là Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri liền nhập Niết-bàn vô dư. Các vị Bồ-tát ở đây lo việc cúng dường xá-lợi của Đức Thế Tôn, xong xuôi các vị lại lên đài báu. Còn các vị Bồ-tát khác thì trở về nơi quốc độ cũ. Riêng vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đã nhập tam-muội Diệt tâm thì trong mười tiểu kiếp luôn tịch nhiên an trụ. Bấy giờ, Bồ-tát Hư Không Ấn liền vì các vị Đại Bồ-tát, trong mười tiểu kiếp, thuyết giảng đủ các pháp môn, khiến cho chúng Bồ- tát vun trồng được các căn lành. Đại Bồ-tát ấy đêm qua đã thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác liền ngay sau đấy chuyển pháp luân hiện đại thần thông khiến cho vô số na-do-tha trăm ngàn chúng sinh trụ nơi bậc Bất thoái chuyển đối với đạo Bồ-đề Vô thượng. Tiếp đến, lại thuyết giảng pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni, khiến cho tám mươi na-do-tha trăm ngàn vị Bồ-tát chứng được “Vô sinh pháp nhẫn”, chín mươi hai ức chúng sinh chứng đạt được bậc Bất thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, bảy mươi hai na-do-tha trăm ngàn Bồ-tát chứng đắc pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này, vô số chư Thiên, người đời, phát tâm cầu đạo Bồ-đề Vô thượng.

Bấy giờ, Bồ-tát Giải Oán bạch Phật:

-Thưa Đức Thế Tôn, Bồ-tát phải đầy đủ các pháp nào để được môn Đà-la-ni này?

Phật đáp:

-Bồ-tát phải đạt đủ bốn pháp mới chứng đắc môn Đà-la-ni này. Bốn pháp đó là gì? Bồ-tát an trụ nơi bốn Thánh chủng, tức là tùy theo chỗ có được về y phục, thức ăn uống, chỗ ở, đồ nằm, thuốc men, luôn vui vẻ biết đủ. Bồ-tát có đủ bốn pháp ấy thì tu tập được môn Đà-la-ni này.

Đại Bồ-tát lại phải đạt đủ năm pháp mới tu tập được pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni.Những gì là năm pháp? Đó là: Tự mình trì giới Ba-la-đề-mộc-xoa, để tự chế ngự, giữ gìn oai nghi đầy đủ, cho đến dù phạm một lỗi nhỏ cũng cảm thấy rất sợ hãi. Đã được như vậy rồi, gặp người không trì giới thì khuyên bảo khiến họ trì giới và an trụ trong sự giữ giới đó. Gặp người không có chánh kiến thì khuyên bảo họ an trụ nơi chánh kiến. Gặp kẻ không có oai nghi thì khuyên bảo họ sống có oai nghi, an trụ trong đó. Gặp chúng sinh có tà ý thì đem chánh ý khuyên bảo để họ theo an trụ trong ấy. Đốì với người tu học theo Thanh văn, Bích-chi-phật, thì đem đạo quả Bồ-đề Vô thượng khuyến hóa khiến họ an trụ nơi đạo quả ấy. Đại Bồ-tát gồm đủ năm pháp này thì đạt được pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni.

Bồ-tát lại còn gồm đủ sáu pháp nữa mới đạt được môn Đà-la-ni này. Sáu pháp đó là gì? Mình đã tích lũy được nhiều hiểu biết, thấy người ít hiểu biết thì khuyến trợ khiến họ đạt được nghe rộng, hiểu nhiều. Tự mình không tham lam keo kiệt, đối với chúng sinh keo kiệt thì đem hạnh bố thí khuyến hóa khiến họ thực hành, an trụ với pháp ấy. Không gây não hại cho chúng sinh mà dùng pháp vô úy cứu giúp kẻ sợ hãi khiến họ được giải thoát. Không dối trá, dua nịnh mà luôn luôn an vui với nẻo tịch tĩnh. Bồ-tát có đầy đủ sáu pháp này thì đạt được pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni.

Bồ-tát đạt đầy đủ các pháp như thế là đã thâu tóm đủ tất cả! Rồi phải an trụ nơi chốn vắng lặng yên tĩnh trong bảy năm, ngày đêm sáu thời luôn điều phục thân ý, chuyên tâm đọc tụng lời chú này. Khởi đầu buổi trì tụng phải niệm chư Phật hiện tại khắp mười phương. Sau bảy năm, Đại Bồ-tát kia đạt được pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni ấy. Đã được môn Đà-la-ni như vậy thì đạt được tuệ nhãn Thánh minh, nhìn thấy chư Phật Thế Tôn hiện tại trụ thế trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương thị hiện hào quang sáng rỡ. Thấy chư Phật thị hiện thần thông rồi, thì Bồ-tát ấy sẽ được tám vạn bốn ngàn môn Đà-la-ni, được bảy vạn hai ngàn môn tam-muội, được sáu vạn pháp môn khác nữa. Đại Bồ-tát đã chứng đắc pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này, thì sẽ được tâm đại Từ, đại Bi. Nếu đã được môn Đà-la-ni ấy thì Đại Bồ-tát giả như có phạm năm tội vô gián, khi bỏ thân này thì tội ấy liền tiêu trừ, có luân chuyển đến ba đời thì các tập khí còn sót lại cũng đều dứt sạch, được chứng đắc quả vị Thập địa. Còn như Bồ-tát không tạo tội vô gián thì các tội khác đều tiêu trừ hết, chuyển đổi sang đời khác thì đạt quả vị Thập địa, chẳng bao lâu được ba mươi bảy pháp trợ đạo Bồ-đề, thành Nhất thiết chủng trí.

Thiện nam tử, pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni này tạo nhiều ích lợi lớn lao như thế đối với các vị Đại Bồ-tát, chắc chắn giúp cho các Đại Bồ-tát được thấy chư Phật Thế Tôn thị hiện thần thông, đạt được niềm vui nơi Thánh pháp như thế, có được đầy đủ thần thông như vậy. Các Đại Bồ-tát đem những thứ này cúng dường chư Phật Thế Tôn trong hằng hà sa số thế giới, lại đến chỗ chư Phật để nghe thuyết giảng vô số các pháp, được Tam-muội, Nhẫn nhục, Đà-la-ni, rồi trở về cõi này.

Thiện nam tử, pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni ấy đem lại nhiều lợi ích cho các vị Đại Bồ-tát như vậy, diệt trừ các nghiệp chướng, thêm lớn căn lành.

Lại có vị Bồ-tát nói:

-Thưa Thế Tôn, trong thời quá khứ, ở chỗ chư Phật Thế Tôn hiện đang trụ thế nhiều bằng chín lần số cát sông Hằng, chúng con đã được nghe môn Đà-la-ni này. Có vị Bồ-tát nói số chỗ được nghe đó bằng hai lần số cát sông Hằng, có vị lại nói bằng ba lần, có vị lại nói bằng bốn lần, có vị lại nói bằng năm lần, có vị lại nói bằng sáu lần, có vị lại nói bằng bảy lần, có vị lại nói bằng tám lần, có vị lại nói bằng chín lần… Nói như thế này: “Thưa Thế Tôn, trong quá khứ, ở chỗ chư Phật Thế Tôn hiện đang trụ thế nhiều bằng chín lần số cát sông Hằng, chúng con đã được nghe môn Đà-la-ni ấy”.

Đại Bồ-tát Di-lặc nói:

-Thời quá khứ, cách đây mười hằng hà sa số kiếp, có đại kiếp tên là San-đề-lam, cõi Phật ấy tên là Nhất thiết anh lạc nghiêm sức. Bấy giờ có Phật danh hiệu là Ta-lân-đà-la-xà gồm đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, có vô số ức na-do-tha trăm ngàn Tỳ-kheo, vô số vị Bồ-tát như vậy luôn vây quanh Ngài. Đức Phật Ta-lân-đà-la-xà đã thuyết giảng pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni ấy. Con đã từng theo Ngài được nghe pháp môn Đà-la-ni ấy, tu hành đầy đủ, trong vô số kiếp như vậy. Lại trải qua vô số a-tăng-kỳ chư Phật Thế Tôn quá khứ, chư Phật Thế Tôn hiện đang trụ thế, con đã dùng vô số a-tăng-kỳ thần thông của Bồ-tát cúng dường chư Phật Thế Tôn đó. Nơi trú xứ của mỗi mỗi vị Phật ấy, con đã gieo trồng vô số vô lượng a-tăng-kỳ không thể kể xiết các căn lành phước đức. Do căn lành này mà nhiều ngàn chư Phật đã thọ ký cho con. Con còn đợi lúc để thực hiện bản nguyện nên trụ lâu ở thế gian, không vội thành tựu đạo quả Bồ-đề Vô thượng trước. Hôm nay, Đức Thế Tôn thọ ký cho con ngôi vị Pháp vương tử là giao cho con xâu chuỗi báu giải thoát là quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Di-lặc:

-Đúng vậy! Đúng vậy! Này Di-lặc A-dật-đa, như ông đã nói, nơi trú xứ của Đức Ta-lân-đà-la-xà Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, ông đã được nghe pháp môn Nhập nhất thiết chủng trí hành Đà-la-ni ấy. Này Bồ-tát Di-lặc, như có ai muốn thành tựu quả vị Chánh giác Vô thượng thì ở trong mười đại kiếp ấy ông đã có thể khiến họ thực hiện đầy đủ ý nguyện của Bậc Như Lai. Như thế thì sẽ mau chóng đạt Bát-niết-bàn vô thượng để nhập Niết-bàn vô dư. Này Bồ- tát Di-lặc, họ còn phải chờ thời thích hợp để thực hiện bản nguyện nên ông đã an vui trụ thế lâu dài. Này Bồ-tát Di-lặc, ông nay hãy đến nơi Ta để nhận ngôi vị Pháp vương tử!

Khi ấy, Đức Thế Tôn quan sát khắp đại chúng Đại Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, các chúng Trời, Rồng, A-tu-la, Dạ-xoa, La-sát, Càn-thát-bà, người và không phải người… xong xuôi và ngay lúc đó liền nói lời chú:

Đát đa la phù di – Đàn đa phù di – Đàm ma đà phù di gia đế phù di – Tất di – Li đế phù di – Ba la nhã phù di – Tỳ xá già la trệ – Phù di – Ba la đế tam tỳ – Đại phù di – A-súc soa ba phù di – Cát lược ba la bá – Phế phù di – Tam ma đa ba lị sai mộ tỳ – Xoa phù di xa đế – Xoa na phù di – Tam mâu xà tỳ mâu xà – Ba la mâu xà tỳ – Xá gia la đạt xá bà đế tỳ xá thác – Đế la na – Già già la già la bà mẫu xa – Bà ma tỳ ma đế – Dũ ba ế la – Yên la già trí xà lại thác mục la bà thi – Tăng già la ma – Y đế chu la bà đế – Di xí văn đà la – Đà ha la bà đế – Ba la nhã phù đa ha – Đại ca la di đa – Sa độ sa bàn đa y la dạ ni la dạ a hầu sa thác – A dà la trí a – Lê tha Bà đế – cầu lưu bà đế đế ê na đề phàm – A ca na bà đế bà ca na đế sa di đế tỳ sa bà yên trà thác – Bà la pha thác la đát đa la cưu lưu sư tịch – Đâu lưu sư ma – La lưu sư – Ma la lưu tha – Tha lưu đề tát bà đa – tát bà đa tát bà đa – Chá a ni lâu đà địa a tha – Đa ê pha la – Bà hầu pha la tát đa – Pha la thất thát bà đề.

Đức Thế Tôn vì chư Thiên nói câu chú giải thoát của Mười hai nhân duyên này. Sáu mươi na-do-tha chư Thiên được kiến giải về Thánh đế.

Hằng pha lam ương già la pha – La la la pha – A la pha ni – la hô la – Bà bà đa phiêu – Y đàm lam – Nê xà ma pha – Lam na mẫu đà – Viêm tỳ đắc già ba la – Nhã già ca a nậu tỳ lê – Đế già ca – Xà nậc già ca la.

Do câu chú giải thoát này mà mười ức na-do-tha chư Thiên phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, liền được bậc Bất thoái chuyển.

Ba thi tô ma đố a nô ma đố  a cưu ma đố  thi đà bà cú ma đa la la tha a xá la – Tỳ ba la bà tha y – Xá hi đa – Tu ni ma – Đê sai ma đế – A lư câu át – Quy giác sư na.

Do câu chú giải thoát này mà sáu vạn bốn ngàn Rồng phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng liền được bậc Bất thoái chuyển.

Tu bà xoa – Tu bà bà bà la ma tha na – A la trụ bà già la trụ già bà la trụ, già la diệu xoa – Tất đại ma đế – Ta mạn đa ố xoa bà lệ ngô thác ca lư – Ma ha bà lệ minh xà a lư đà la na – Ngô già lặc xoa – Cưu đà xoa tỳ lưu tư – Tỳ lưu tư mục khư – Xa đế kha tất đa xa đế bà lê – A tu lộ – Tỳ na tu lộ – Ba la ma địa.

Nhờ câu chú giải thoát này mà mười hai ức Dạ-xoa phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, đều được bậc Bất thoái chuyển.

Át lị thế côn lê lệ nậc trí thế san trí thế – Già trí ninh – Na già mễ – A la bị – A đà mễ – Ma đế mễ san nậc ha thủ lệ – Đà-la-ni dạ a bê – Thi đa tát nhân đà là tát đề bà – Tát na già – Tát dạ A-tu-la đề bà na già nậc lưu đế ba lị – Ba la nậc lưu đế la tỳ tất nặc lưu đế – Ba la nhã – Ba lị ba la ma già – Đế trực lực – Đế la tỳ phất bà chỉ bị – Thị nỉ bị tát già lị đa bàn đa – A tỳ đế – Na bàn đa – Thủ la bàn đa – Chỉ lị na – Tỳ lê xà bàn đố – Tỳ đà bàn đế tỳ tam bà kỳ vị già văn đà la đạt xá ba lị yết ma nậc xoa – Ba la xú. Thập ô ha la nô đề là bà đầu – Tu la văn đà – La na già văn đà la – Dạ-xoa văn đà la, khô la – Xoa tứ văn a la – Bị đề di – Đa bệ đa đa bệ uất xuất nỉ – Na nỉ bà la khư trệ na na đế Đà-la-ni da a ty xa đa đề xá luân đà nỉ bà giá luân địa xả phá thâu đà nỉ bà chỉ ba lị yết ma – Ba la nhã – Phù địa tất vật đế ma đế – Già đế trực lực đế – Già na ba – La đế tát la na phù xà địa da già kiết lị – Thủ nhã đa già kiết lị – Bà da.

Nhờ câu chú giải thoát này mà năm vạn sáu ngàn A-tu-la phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không thoái chuyển đôi với tâm đã phát ấy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Vô Úy Địa:

-Thiện nam tử, chư Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời là điều hết sức khó có, đạt đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến do tu tập câu chú này cũng rất là khó. Nên lấy lợi ích cho chúng sinh để thành tựu công đức của Bồ-tát.

Này thiện nam tử, Như Lai lúc thực hành hạnh nguyện Bồ-tát, bố thí, làm việc thiện, nhẫn nhục, tinh tân, thiền định, trí tuệ luôn đầy đủ, thân cận hàng ức na-do-tba trăm ngàn Đức Phật, hoặc thực hành bố thí, trì giới, hoặc thực hành phạm hạnh, hoặc tu tập, hoặc tinh tấn nhẫn nhục tu tập thành tựa thiền định, gần gũi học hỏi bậc Trí đa văn, cả ngần thứ ấy nghiệp thiện đầy đủ. Do đó nay ta chứng được Vô thượng trí.

Này thiện nam tử, khi Như Lai thực hành đạo Bồ-tát, thì trong cả ức trăm ngàn ức na-do-tha kiếp, miệng Ta không phạm bốn lỗi: không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói lời thô ác, không nói hai lưỡi. Do nhân duyên này mà Ta thành tựu được “tướng lưỡi rộng dài”.

Này thiện nam tử, những điều Như Lai đã giảng nói trọn không hư dốì.

Lúc này Đức Thế Tôn từ nơi bảo tòa thị hiện thần thông nhập vào pháp Tam-muội gọi là “Tập nhất thiết phước đức”, hiện ra “tướng lười rộng dài” tự che khắp mặt mình, từ tướng lưỡi rộng dài ấy phóng ra mười ức đạo hào quang. Các đạo hào quang mầu nhiệm này tỏa chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới: Các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, trời không đâu là không soi tới. Chúng sinh ở địa ngục bị thiêu đốt, do ánh sáng này soi đến khiến có gió mát thổi lên nên tạm thời thọ nhận được sự an lạc. Ớ trong cõi địa ngục mỗi mỗi chúng sinh đều được thấy hóa thân của Như Lai nơi trước mặt mình, đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, cùng tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm. Những chúng sinh trong cõi địa ngục ấy được thấy Phật nên có đủ sự an lạc khiến họ đều tự nghĩ: “Nhờ vị Đại sĩ này nên nay chúng ta được vui vẻ an lạc”. Suy nghĩ như thế, nên đối trước Như Lai họ đều phát sinh tâm ái mộ cung kính, hoan hỷ. Đức Như Lai bảo họ:

-Này các chúng sinh, các ngươi nên niệm như thế này: Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng, tất khiến cho các người có thể được yên ổn trong đêm dài tăm tối.

Nghe lời dạy của Phật xong, những người nơi cõi địa ngục kia liền chắp tay niệm lớn: “Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng”. Chúng sinh trong địa ngục ấy nhờ căn lành này liền bỏ được nghiệp nơi địa ngục, hoặc sinh lên cõi trời, hoặc sinh làm người. Nếu là chúng sinh trong địa ngục Hàn băng thì được gió ấm thổi tới… cho đến được sinh trong loài người. Cũng như thế, các loài ngạ quỷ bị sự đói khát đốt cháy thân thể, khi hào quang của Phật chiếu đến rồi thì lửa đói khát liền tiêu tan, được thọ hưởng an lạc. Mỗi một ngạ quỷ đều thấy hóa thân của Phật hiện ra trước mặt mình, với ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân và tám mươi vẻ đẹp tự trang nghiêm thân. Các ngạ quỷ được thấy Phật rồi thì tâm vô cùng hoan hỷ nên đối trước Đức Như Lai họ đều vui vẻ, yêu quý cung kính. Đức Phật theo ngôn ngữ của họ mà giáo hóa. Do căn lành ấy, đến khi xả bỏ thân mạng, các ngạ quỷ có thể sinh lên cõi trời, có thể sinh làm người. Cũng giống như vậy, Ngài hóa độ các loài súc sinh, cho đến hàng người, trời. Lúc này, vô số các vị trời, người, cùng đến chỗ Đức Như Lai, ngồi sang một bên lắng nghe thuyết pháp và ngay khi ấy có vô số chư Thiên, người đời, phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng, lại có vô số Bồ-tát chứng đắc Tam- muội, Nhẫn nhục, Đà-la-ni.

Xà lê ni – Ma ha xà lê ni – Vực sí lệ – Phục sí lệ – Tam bát đà – Ma ha tam bát đà – Đề diễm át đế già trí thác sí – Tha la tha sí – A tứ ma ca tứ – Thi lê di lê đế lị – Lâu lâu sí ma ha lâu lâu sí – Xà duệ đột lâu xà duệ – Xà da ma đế – Chiến đế xa đâu lậu – Niết già đa nỉ – A mâu lệ mâu la ba lị sân nỉ – Ma la tê nhã tỉ đa la – Ta nỉ mục đế – Đa ba lị du địa – A tì đế ta dạ – Mộ già nỉ – Ta la ưu ha la nỉ – Đàn đa tỳ trệ – Tỳ trệ bà lâu đa dương ni già la ha bà nê nam – Đạt ma bà nê na – Tăng già la ha lặc xoa – Đạt ma bà nê nam. Đây là câu chú giải hiện về Tứ niệm xứ.

Phật-đà ba la ca xa duệ – A ma ma mĩ – Ma ma a chi chí – Át thế – Át tha nỉ chí – La nỉ lư ca trí – Mục đế na đà – Đà ba lị bà bà nỉ. Đây là câu thần chú giải hiện về Tứ thánh chủng.

Bà sa thế – Ba sa nỉ đà lệ – Đà la ba đế, cữu tất đế – Mục bị mục bà ba la bị – Mê đế lệ – Tu ma bà đế – Phỉ đế chỉ đế – Ca lâu nại uất nê xoa duệ – Tất phú đế ưu côn hựu – Tam bát nỉ – A lặc sí – Bà la lễ khứ kỳ – Khứ nhĩ a mâu lệ – Mâu la du nỉ. Đây là câu chú giải hiện về Tứ Vô úy.

Đát pha la – A già la pha la – A nặc pha la nặc la phả tam mục đa – A mục đa niết mục đa – A bãi tỳ nại tỳ mục đế bà nỉ – Tỳ la pha la a diên đại – Y tỳ trĩ đế tỳ trĩ – uất lôn độ – Đâu trưng la đâu lam a hưng tam ma y đệ đa bà pha đế bà đa đế bà tát – Ba lộ ca, a tra ca lệ – A ca lệ tần đại a phù ta lệ tra tha muội đế – Tỳ xa già la bà đế – Át pha la già pha la. Đây là câu chú giải hiện về ‘Tứ ủng hộ”.

Xà tra đa a ni thi la bà bà đa bộ – Y đàm pha lệ ni da – Ma pha lam tam mỗ đà na dạ – Tỳ phù xá ba xà tô ma đậu – A miễn ma đố – A cưu ma đố – di tha bà đế muội đa la tha – Đà xá bà la tỳ ba la bà đà y xá hi đa tu ni khứ ma nê sai – Kỷ na ma đế a lư cú – A nê đâu sắt nam tát đê ma đế ba la xuyết – Ba nại Phật-đà – Phật lâu bà ba – La ha lệ. Đây là câu chú giải hiện về “Tứ chánh đoạn”.

An nhĩ ma nhĩ – Ma nỉ ma ma nỉ – Chỉ lệ chỉ lệ đế xa – Dương trừ dương đa tỵ chiên đế – Mục đế úc đa mê – Tam mê ni tam mê tam ma tam mê xoa duệ – Ô xoa duệ – Át kỳ chiên đế xa mỹ sắt đế – Đà la nỉ a lư già bà tế – Yết la đa na bà la đế – Yết la thấp di bà đế xà na bà đế – Nỉ lâu bà đế nỉ lâu bà đế – Xoa dạ nậc đà lệ xa nỉ – Lư ca bà la nê bà nậc đạt lê xa nậc. Đây là bổn câu chú giải hiện về “Tứ biện”.

Già thấu a bà ta nậc đà – Lê xa nỉ xa na lư – Ca đà đố ba la bà ta đế – Tát thiên dần nê lị da phù ma đế ca lan đế – Ta-bà Ta-bà bà ma tát bị ba la tha bặc xoa duệ gia lệ cù ca trà – Bà đà nỉ lô ca miễn đà lị xá na tỳ phục. Đây là câu chú giải hiện về “Tứ thần túc”.

A già lệ phù địa đà đà đà ba già lệ bà nỉ hột – Lật na tất địa kim – Tỳ để ni trĩ tam bút trí ba lị ca tứ lỵ tô di chiên địa đà đà già già a già già lệ a ba lệ tỳ chí bà lệ nậc – Ba lệ ba la già già lệ ba la ba lệ – A na dạ a na dạ a tiện tế ca ca la di – Ba la bà tỳ nỉ ca la di ni già tế – Già la già la di na do đế. Đây là câu chú giải hiện về Căn, Lực.

Phí sư bệ – Tô phí – Sư bệ dỗ – Ma ba lị ha lệ – A bà duệ – Thùy lâu chỉ lệ chi ca la – Lặc ta a đà ma tất đố đế – Đế lệ – Ma ma lệ bát già thất thi lệ lô ca tả tỳ nhã nỉ na dạ – Ta kỳ lị thi đế – Già diêm đế – Sa thất chiên địa na. Đây là câu chú giải hiện về “Thất giác ý”.

Già ca la bà thị – Lệ bà đế – Già sí lệ – Già ca la đà lệ – Đà già sí lệ đà lệ – Mục lê ê lệ – Ê lệ đà lệ – A lưu bá bà địa – Hưu hưu lệ – Da tha thị đa già – Tần bà lệ da tha – Ba lân già điệt nê – Lị xá dạ tha bà dạ sĩ lị phú xá đế âm, ám lưu quát tỳ tỵ tinh tấn âm, ghâu lệ đạo âm, giới âm, định âm, tuệ giải thoát âm, giải thoát tri kiến âm, tinh tú âm, nguyệt âm, nhật âm, Đức Phật đã nói lên các âm thanh như vậy…

Át phù đa – Di la phù đam – Tam Phật đàm a phù đàm – Y ha phù đàm – Đát đa la phù đàm – Nậc hàm già ma mục lệ – A la pha – Đà la pha – Mạn đồ lê – Mạn đồ nỉ đát đa la – Lam đa lâu mạn già – Già la nị – Mâu trí nị – Tam ba la mâu trí nị – Già nại ba lăng già ma miễn miễn – Ni lâu bà na xa nỉ na xa bà đà nậc chí chí đế chí chí – Ma dư bà dật – Trừng gia ma bà lệ – Ma lệ ha – Đa ninh bà liễm bà lê tần địa tần lệ tần lệ úc sa lê xa la nỉ đà la ninh – Bà la bà đế – Bà lam na tra di tỳ đầu đầu ma – Bà la khâu mạn bà la ha – Ma già lê na – Nhân đà la bà nậc đề đề la xà nậc – Ma ê thi ba la la la nậc – Bà ma sổ dương – A la ni – Di y già sĩ lặc xoa sĩ lị sư già – Nặc già la pha chỉ – Chiên A la tu lệ – Tát bà tu lam – A bà lam bất na – Gia nê diêm bát nê đa – A di na kiền nê đa – Diệm bà tế ca kiền đà lệ đà lệ – A đa la trà ha nậc – Ma già la – Tần lô ha nậc – Tứ đàm mạn đế – Tỳ lô già ma đế – Phật-đà nê – Sư hi đế – Đà-la-ni mục xí. Đây là câu chú giải hiện về “Thập lực”.

Đát đa la phù di – Đàn đa phù di – Đàm ma đà phù di già đế phù di tất di – Li đế phù di – Ba la nhã phù di tỳ xá già la trệ phù di – ba la đế tam tỳ đại phù di – A-súc xoa ba phù di – Kiết lược ba la giác phế phù di – Tam ma đa ba lị ta mộ tì xoa phù di – Xà đế xoa na phù di – Tam mâu xà – Tì mâu xà – Ba la lao xa tì xá già la đạt xá bà đế – Tỳ xá thác đế la na già già la – Già la ta mẫu xa bà đa tì ma đế dũ bà – Ê la yên la già mạo – Xà lại thác mục la bà thi tăng già la ma – Y đế chư la bà đế di xí văn đà la đà ha la bà để ba la nhã phù đa ha đại – Ca la di đa – Sa độ sa bàn đa y la dạ – Thi la dạ ni la dạ – A hầu ta thác – A văn đà la mạo – A lê tha ta đế – cầu lưu bà đế – Đế ê na đề phiếm – A ca na bà đế bà ca na đê – Sa di đế – Tì sa bà yên trà thác – Bà la pha thác – La đát đa la – Cưu lưu sư ma đâu lưu sư ma – La lưu sư ma la hưu tha tha – Lưu đề tát bà đa tát bà đa tát bà đa giá – A ni lâu đà – Tha ha – Tha đa ê pha la – Bà hầu pha la – Tát đa pha la – Thất thác bà đế.

Đức Thế Tôn vì chư Thiên nói câu chủ giải hiện về mười hai nhân duyên này khiến cho sáu mươi na-do-tha chư Thiên được hiểu rõ Thánh đế.

Đát pha lam – Ương già pha lam – La la pha – a – la pha ni la phù la – Bà bà đa phiếu y, đàm lam ni xà phế pha lam na mẫu đà viêm tỳ phù già – Ba la nhã già ca a nậu tì lị đế già ca – Xà nậc già ca la.

Do câu chú giải thoát này mà mười ức na-do-tha chư Thiên phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng và liền được bậc Bất thoái chuyển.

Ba thi tô ma đố – A nô ma đố – – A cưu ma đố – Thi đà bà cú ma đa la tha – Tha a xá la – Tì ba la ba tha y xá hi đa – Tu ni ma – Thánh ta na ma đế – A lô câu át trĩ giác sư na.

Do câu chú giải thoát này mà sáu vạn bốn ngàn Rồng phát tâm cầu đạo quả Chánh giác Vô thượng, liền được bậc Bất thoái chuyển.

Tu bà xoa tu bà ta – Bà la ma đà – Na a la trụ – Bà già la trụ – Già bà la trụ – Già la diệu xoa – Tất đại ma đế – Ta mạn đa sơ – Ố xoa bà lệ – Hầu thác ca lô – Ma ha bà lệ – Ô xà đà lô đà la na – Sĩ già lặc xoa cưu đà – Xoa tì lưu bá – Tì lưu bá mục khứ – Xa đế ha tất đa – Xa đế bà lệ – A tu lộ – Tì na tu lộ – Ba la ma địa.

Nhờ câu chú giải thoát này mà mười hai ức Dạ-xoa phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng và đều được bậc Bất thoái chuyển.

Át lị thế – Tì lê lệ nậc trí thế – San trí thế – Già trí ninh – Na ca mễ – A la bại – A đà mễ – A la bị – A đà mễ – Ma đế mễ san nậc ha – Thủ lệ – A la ni dạ a – Tì thi đa tát nhân đà la tát đề bà tát na già tát dạ a – Tu la đề bà – Na già nậc lưu đế ba lị bà la – Nậc lưu đế la tì tất nậc lưu – Đế ba la nhã ba lị – Bà la – Ma già đế trực lục – Đế là – tỳ phất bà chỉ bị thị nỉ bị tát già lị đa bàn đa – A tì tha na bàn đa thủ la bàn đa – Chỉ lị na tì lị xà bàn đố – Tì đà bàn đế – Tì tam bà kỳ mạt già xoa đà la – Đạt – Hàm ba lị yết ma nậc xoa ba la… thập ô ha la nô – Đề là bà đậu – Tu la văn đà la – Na già văn đà la! Dạ-xoa văn đà la – Kiết la xoa tứ văn đà la bị đề di đa bệ đa đa bệ uất suất nỉ na di – Bà la khử trệ na na đế Đà-la-ni dạ a ti xa da – Đề xá du đà nỉ bà chá – Du địa xả phá du đà nỉ – Bà chỉ ba lị – Yết ma ba la nhã – Phù địa tất vật đế ma đế già đế trực lực đế già na na ba la đế tát la na- Phù xà địa da già kiết lị thủ nhã đa già kiết lị bà da.

Nhờ câu chú giải thoát này mà năm vạn sáu ngàn A-tu-la phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề Vô thượng khổng thoái chuyển đối với tâm đã phát ấy.