LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Sa-môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…Đời Bắc Lương
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Chương 2: KIỀN-ĐỘ SỬ

Phẩm 3: NGƯỜI

(Từ quyển 34- quyển 36)

Kiết có hai thứ, là kiết do kiến đạo dứt và kiết do tu đạo dứt. Cõi Dục có hai thứ, cõi Sắc có hai thứ, cõi Vô sắc có hai thứ.

Có khi nào kiết, bị tu đạo dứt, kiến đạo cõi Dục dứt, được dứt trừ ngay hay không? Cho đến nói rộng? Chương và giải thích nghĩa của chương, ở đây, nên nói rộng Ưu-ba-đề-xá.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Các phiền não ấy đã là sự ràng buộc lớn trong sinh tử, không có lợi ích, đầy dẫy tai nạn nguy hiểm, giống như kẻ thù ẩn nấp ở cõi Dục, chịu biết bao khổ não cõi Dục, chịu khổ não lớn cõi Sắc, cõi Vô sắc, thường quanh quẩn trong sinh tử, ở chỗ tối tăm trong thai mẹ, bị ép ngặt do sinh tạng, thục tạng. Không biết làm sao tìm kiếm kiết nầy, thấy biết như thật mà dứt trừ chúng. Vì muốn cho biết nhiều, giống như kẻ thù ẩn nấp, không biết, thì sẽ bị chúng hãm hại. Biết thì có thể tránh khỏi, kiết kia cũng giống như vậy. Cho nên phải suy nghĩ, xét lường quán sát những lời nói tốt, cho đến chỗ sinh mà không quên mất. Như Tôn giả Di-đa-đạt-tử, khi mới sinh đã thốt lên lời nói nầy: Kiết có hai thứ: Kiết do kiến đạo dứt và kiết do tu đạo dứt. Cõi Dục có hai, cõi Sắc có hai, cõi Vô sắc có hai.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia lúc mới sinh lại nói như thế?

Đáp: Vì Tôn giả kia lúc còn ở trong thai mẹ, đã bị các thứ khổ ép ngặt mà nghĩ rằng: Vì sao chúng sinh thường ở trong thai mẹ chịu các khổ như thế? Đều do hai thứ kiết nầy. Vì muốn nói đến lỗi lầm tai hại của hai kiết ấy, nên khi vừa mới sinh, liền nói như trên.

Kiết có hai thứ. Cõi Dục có hai, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao gọi là thứ?

Đáp: Trong đây nói nhóm là thứ, như nhóm rất đông Tỳ-kheo, gọi là thứ (loại) Tỳ-kheo. Như nhóm Bà-la-môn, gọi là thứ Bà-la-môn. Kiết kia cũng giống như thế. Nói thứ, cũng có thể nói nhóm, cũng có thể nói bầy đàn. Về nghĩa thật là một, danh có khác nhau, làm sao thấy biết ngay chúng được?

Hỏi: Sao gọi là thấy biết được ngay?

Đáp: Thấy biết được ngay, gọi là cùng lúc.

Làm sao biết?

Đáp: Có kinh nói: Vua Ba-tư-nặc đến chỗ Phật, diện kiến Đức Thế tôn các thứ ngôn luận, ngồi qua một phía, rồi bạch Phật: Tôi nghe Sa-môn Cù-đàm nói rằng: Ở quá khứ, vị lai và hiện tại không có Samôn, Bà-la-môn nào có thể thấy biết đúng như thật tất cả pháp. Nếu nói là thấy biết thì không có việc đó! Sa-môn Cù-đàm hãy nhớ lại xem mình có nói như thế không?

Đức Phật đáp: Ta không nhớ lại!

Nhà vua lại hỏi: Sa-môn Cù-đàm! Ở đời nầy có người không khéo thọ nhận nghĩa văn, nên khi họ nghe khác, vì người khác nói thì khác. Chỉ mong Thế tôn nhớ lại việc nầy mà giải thích cho.

Phật đáp: Ta có nói rằng: Đối với quá khứ, vị lai, hiện tại, không người nào thấy biết như thật được ngay tất cả pháp. Nếu nói thấy biết, được ngay thì không có việc đó. Vì đều phải từ ba A-tăng-kỳ kiếp, dần dần tu hành sáu Ba-la-mật, rồi mới biết, chứ chẳng phải trong nhất thời mà biết. Do việc nầy nên biết được ngay là nhất thời.

Hỏi: Có khi nào kiết, do kiến đạo, tu đạo dứt, được ngay chăng?

Đáp: Được ngay, người phàm phu lìa dục, kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Dục dứt, đều làm một nhóm, như cách cắt cỏ, chín thứ kiết được dứt trừ cùng lúc, dùng đạo vô ngại hạ hạ để dứt trừ kiết phẩm thượng thượng, cho đến dùng đạo vô ngại thượng thượng để dứt trừ kiết phẩm hạ hạ. Người phàm phu dùng kiết phẩm hạ hạ, đối với không có dục kia thối lui, được ngay một thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Dục dứt, thối lui phẩm hạ trung, được ngay hai thứ, cho đến dùng kiết phẩm thượng thượng thối lui, được ngay chín thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Dục dứt.

Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc qua đời, lúc sinh cõi Dục, người phàm phu đã dùng kiết phẩm hạ hạ, cho đến kiết thượng thượng, khiến cho sự sinh nối tiếp nhau, được ngay chín thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Dục dứt, bỏ hay không?

Đáp: Bỏ. Người phàm phu khi lìa ái dục.

Hỏi: Ai Bỏ tức khắc được không?

Đáp: Là người phàm phu khi lìa ái dục, chín thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Dục dứt, đều là một nhóm, như cách cắt cỏ, chín thứ kiết được cắt đứt cùng lúc.

Hỏi: Dùng đạo vô ngại hạ hạ để dứt trừ kiết phẩm thượng, cho đến dùng đạo vô ngại thượng thượng để dứt trừ kiết phẩm hạ hạ, kiết hạ, do kiến đạo, tu đạo dứt, thuộc cõi Dục kia, bỏ tức khắc hay được dần dần?

Đáp: Không được. Vì sao? Vì nếu trước được kiết do kiến đạo dứt trừ, sau được kiết do tu đạo dứt trừ. Nếu trước được kiết do tu đạo dứt trừ, sau được kiết do kiến đạo dứt trừ thì không có việc nầy.

Hỏi: Bỏ dần dần chăng?

Đáp: Bỏ. Đệ tử của Đức Thế tôn trước bỏ kiết, do kiến đạo dứt, sau, bỏ kiết, do tu đạo dứt, kiết, do kiến đạo dứt. Dùng kiến đạo để dứt trừ kiết, do tu đạo dứt, do tu đạo dứt trừ.

Hỏi: Có kiết, bị kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt được tức khắc hay không?

Đáp: Được tức khắc. Người phàm phu lìa ái sắc, đối với không có dục kia thối lui.

Hỏi: Ai được ngay?

Đáp: Người phàm phu khi lìa ái sắc, kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt, đều là một nhóm, như cách cắt cỏ, chín thứ kiết dứt bỏ cùng một lúc. Dùng đạo vô ngại hạ hạ để dứt trừ kiết phẩm thượng thượng, cho đến dùng đạo vô ngại thượng thượng để dứt trừ kiết phẩm hạ hạ, đối với không có dục kia, thối lui. Nếu người dùng kiết phẩm hạ hạ thuộc cõi Sắc thì người đó sẽ được ngay một thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt. Thối lui phẩm trung hạ, được ngay hai thứ, cho đến do kiết phẩm thượng thượng thối lui, được ngay chín thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt. Nếu do kiết phẩm hạ hạ cõi Dục, cho đến kiết phẩm thượng thượng thối lui, thì lúc đó sẽ được ngay chín thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt.

Lại có thuyết nói: Văn ấy nên nói như vầy: Người phàm phu lìa ái sắc, do kiết của địa Phạm thế cõi Dục thối lui.

Không nên nói như thế. Vì sao? Vì trong đây nói với giới được ngay, không nói đối với địa được ngay. Nếu do kiết của đệ Tứ thiền thối lui, thì lúc nầy sẽ được ngay kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt trừ, lúc ở cõi Vô sắc qua đời, sinh xuống cõi Dục, cõi Sắc, sẽ được ngay kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt trừ.

Người phàm phu ở cõi Vô sắc qua đời, sinh trong cõi Dục, cõi Sắc, do kiết phẩm hạ hạ, cho đến kiết phẩm thượng thượng, khiến cho sự sinh nối tiếp nhau, sẽ được ngay chín thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt, là bỏ tức khắc hay chăng?

Đáp: Bỏ, khi người phàm phu lìa ái sắc.

Hỏi: Ai bỏ ngay tức khắc?

Đáp: Người phàm phu khi lìa ái sắc. Kiết do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt trừ, gộp chung thành một nhóm, như cách cắt cỏ, chín thứ kiết được dứt trừ cùng lúc. Dùng đạo vô ngại hạ hạ dứt trừ kiết phẩm thượng thượng. Người phàm phu kia bỏ ngay tức khắc kiết, do kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc dứt trừ, cho đến dùng đạo vô ngại phẩm thượng thượng, để dứt trừ kiết phẩm hạ hạ, bỏ tức khắc kiết, chỗ dứt của kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Được dần dần được không?

Đáp: Không được. Vì sao? Vì không bị kiết trước được kiến đạo dứt trừ, sau được tu đạo dứt trừ.

Hỏi: Bỏ dần dần được không?

Đáp: Bỏ. Đệ tử của Đức Thế tôn, trước bỏ kiết do kiến đạo dứt trừ, sau bỏ kiết do tu đạo dứt trừ. Kiến đạo bỏ do kiến đạo, tu đạo dứt bỏ do tu đạo dứt.

Hỏi: Có khi nào được tức khắc kiết, chỗ dứt trừ của kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Vô sắc hay không?

Đáp: Không được. Vì sao? Vì được ngay là cái được của người phàm phu, không có người phàm phu nào có thể dứt trừ hết kiết cõi Vô sắc, thối lui ở cõi đó, được tức khắc kiết, bị kiến đạo, tu đạo dứt thuộc cõi Vô sắc dứt trừ.

Hỏi: Bỏ tức khắc được không?

Đáp: Không xả. Vì sao? Vì bỏ ngay tức khắc tức khắc là hành động của người phàm phu. Không có người phàm phu nào bỏ ngay tức khắc.

Hỏi: Phiền não cõi Vô sắc được dần dần chăng?

Đáp: Không được. Vì sao? Vì không có chuyện trước kiết, do kiến đạo dứt, sau được kiết do tu đạo đoan, không có việc trước được kiết do tu đạo dứt trừ, sau được kiết do kiến đạo dứt.

Hỏi: Bỏ dần dần phải không?

Đáp: Bỏ. Đệ tử của Đức Thế tôn, trước bỏ kiết do kiến đạo dứt, sau, bỏ kiết do tu đạo dứt. Kiến đạo bỏ kiết do kiến đạo dứt trừ, tu đạo bỏ kiết do tu đạo dứt trừ.

Có hành vi của thế tục.

Hỏi: Người phàm phu khi dùng đạo thế tục để lìa dục, dứt trừ chín thứ kiết, có bao nhiêu đạo vô ngại bỏ, bao nhiêu đạo giải thoát bỏ? bậc Thánh dùng đạo vô lậu dứt trừ chín thứ kiết, có bao nhiêu đạo vô ngại bỏ? Bao nhiêu đạo giải thoát bỏ?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người phàm phu dứt chín kiết, đã dùng ba đạo vô ngại, ba đạo giải thoát để dứt trừ, nghĩa là đạo vô ngại phẩm hạ hạ, đạo giải thoát phẩm hạ hạ, dứt trừ ba thứ kiết phẩm thượng. Đạo vô ngại phẩm trung hạ, đạo giải thoát phẩm trung hạ, để dứt trừ ba thứ kiết của phẩm trung. Đạo vô ngại phẩm thượng hạ, đạo giải thoát phẩm thượng hạ, nhằm dứt trừ ba thứ kiết phẩm thượng hạ. bậc Thánh cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Người phàm phu dứt trừ chín thứ kiết, đã dùng một đạo vô ngại, một đạo giải thoát để dứt. bậc Thánh dứt ttrừ chín thứ kiết, dùng ba đạo vô ngại, chín đạo giải thoát để dứt.

Hỏi: Vì sao người phàm phu dứt bỏ chín thứ kiết, dùng một đạo vô ngại, một đạo giải thoát, còn bậc Thánh dứt trừ chín thứ kiết lại dùng đến chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát để dứt?

Đáp: Vì đạo mà người phàm phu vận dụng chậm lụt đối với pháp trước, không thể quán sát, tư duy, lường xét, mỗi mỗi phân biệt, còn đạo mà bậc Thánh sử dụng mạnh mẽ đối với pháp trước, có thể tư duy, lường xét, quán sát, mỗi mỗi phân biệt.

Hỏi: Nếu nói rằng: Muốn cho người phàm phu là thấp kém mà nói là vượt hơn, muốn cho bậc Thánh vượt hơn mà nói là thấp kém. Vì sao? Vì người phàm phu chỉ dùng một đạo vô ngại, một đạo giải thoát để dứt trừ chín thứ kiết, trong khi bậc Thánh dứt trừ chín thứ kiết, phải dùng chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát để dứt, vậy thì người phàm phu vượt hơn so với bậc Thánh, như con người vì đã uống nhiều chất độc, nên nôn ra cùng một lúc, đâu không thể được?

Lời bình: Nên nói rằng: Để dứt trừ chín thứ kiết, người phàm phu phải dùng chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, bậc Thánh cũng thế.

Hỏi: Nếu người phàm phu dứt trừ chín thứ kiết, đã dùng chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát để dứt. bậc Thánh cũng thế, vậy giữa người phàm phu và bậc Thánh có gì khác nhau?

Đáp: Kiết của người phàm phu do kiến đạo, tu đạo dứt trừ được gộp chung thành một nhóm, như cách cắt cỏ. Với chín thứ kiết cùng lúc, dùng chín đạo vô ngại, ba đạo giải thoát để dứt trừ, của bậc Thánh do kiến đạo dứt trừ chín thứ kiết, dùng một đạo vô ngại, một đạo giải thoát, do tu đạo dứt trừ chín thứ kiết, dùng chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát để dứt. Phàm phu, bậc Thánh khác nhau ở chỗ đó.

Hỏi: Lúc dùng đạo thế tục để dứt trừ kiết, đã dùng bao nhiêu phương tiện, bao nhiêu lần nhập định?

Đáp: Dùng ba phương tiện, ba lần nhập định, dùng phương tiện ban đầu, dùng lần nậhp định đầu để dứt trừ ba thứ kiết phẩm thượng, dùng phương tiện thứ hai, lần nhập định thứ hai, để dứt ba thứ kiết phẩm trung. Dùng phương tiện thứ ba, dùng lần nậhp định thứ ba để dứt bỏ ba thứ kiết phẩm hạ.

Hỏi: Là khởi định để dứt chăng? Hay không khởi định mà dứt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Người phàm phu, không khởi định dứt trừ kiết, bậc Thánh hoặc khởi định, hoặc không khởi định mà dứt.

Lời bình: Nên nói như vầy: Sự việc nầy không nhất định: Người phàm phu hoặc không khởi định, bậc Thánh hoặc khởi định, hoặc không khởi định người phàm phu hoặc khởi định, không khởi định. Bậc Thánh hoặc không khởi định mà dứt kiết.

Lại có thuyết nói: Dứt trừ kiết cõi Dục, không khởi định, dứt trừ kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc khởi định hoặc không khởi định.

Lại có thuyết nói: Đoạn trừ kiết cõi Dục, hoặc khởi định, hoặc không khởi định, dứt kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc, không khởi định.

Lời bình: Việc nầy không nhất định: Dứt trừ kiết cõi Dục, khởi định, không khởi định, dứt trừ kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc, không khởi định, dứt trừ kiết cõi Dục không khởi định, dứt trừ kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc khởi định, không khởi định, đây là nói khi thắng tiến.

Người phàm phu lúc khởi kiết phẩm hạ thối lui, tạo thành ba thứ kiết phẩm hạ. Khi khởi kiết phẩm trung thối lui, là đã thành tựu sáu thứ kiết. Lúc khởi kiết phẩm thượng là đã tạo thành chín thứ kiết. Lúc bậc Thánh khởi kiết phẩm hạ hạ, thối lui, là đã tạo thành kiết phẩm hạ hạ, cho đến khi khởi kiết phẩm thượng thối lui, là đã tạo thành chín thứ kiết.

Lại có thuyết nói: Người phàm phu khi khởi kiết phẩm hạ hạ, cho đến khi khởi kiết phẩm thượng thối lui, là đã tạo thành chín thứ kiết. bậc Thánh như trước đã nói.

Hỏi: Vì sao người phàm phu khởi kiết phẩm hạ hạ thối lui, cho đến lúc khởi kiết phẩm thượng thượng thối lui, là đã tạo thành chín thứ kiết. Lúc bậc Thánh khởi kiết phẩm hạ hạ thối lui, là đã tạo thành kiết phẩm hạ hạ. Khi khởi kiết phẩm trung hạ, thối lui là đã tạo thành hai thứ kiết, cho đến khi khởi kiết phẩm thượng thượng thối lui, là đã tạo thành chín thứ kiết phải không?

Đáp: Người phàm phu dùng định thế tục, tự gìn giữ tánh của định ấy yếu kém, bậc Thánh dùng định vô lậu, tự giữ gìn, định đó rất bền chắc. Nên nói rằng: Người phàm phu không uống thuốc độc mà chết.

Lời bình: Nên nói rằng: Người phàm phu khởi kiết phẩm hạ hạ, thối lui, lại tạo thành kiết phẩm hạ hạ, cho đến khởi kiết phẩm thượng thượng thối lui là tạo thành chín thứ kiết.

Hỏi: Nếu vậy thì giữa người phàm phu và bậc Thánh đâu có khác nhau gì nhau?

Đáp: Nếu người phàm phu khởi kiết phẩm hạ hạ, thối lui, là đã tạo thành kiết phẩm hạ hạ, do kiến đạo, tu đạo dứt, cho đến khởi kiết phẩm thượng thượng thối lui, là đã tạo thành chín thứ kiết, do kiến đạo, tu đạo dứt. bậc Thánh lại khởi kiết phẩm hạ hạ thối lui, là đã tạo thành kiết phẩm hạ hạ, do tu đạo dứt, cho đến lúc khởi kiết phẩm thượng thượng thối lui, là đã tạo thành chín thứ kiết được tu đạo dứt trừ, không tạo thành kiết do kiến đạo dứt. Đây là sự khác nhau giữa phàm phu và bậc Thánh.

Bậc Thánh ở cõi Dục có ba việc:

  1. Rốt ráo lìa dục mà qua đời.
  2. Thối lui rồi là qua đời.
  3. Lìa dục dần rồi qua đời.

Người phàm phu có hai việc:

  1. Rốt ráo lìa dục rồi qua đời.
  2. Thối lui rồi rồi qua đời.

bậc Thánh ở cõi Sắc có hai việc:

  1. Rốt ráo lìa ái sắc mà qua đời.
  2. Lìa dục dần, rồi qua đời, không thối lui.

Vì sao? Vì ở cõi Sắc không có người thối lui. Người phàm phu có một sự, là rốt ráo lìa ái sắc mà qua đời, không thối lui. Vì sao? Vì ở cõi Sắc không có sự thối lui, không có ai lìa dục dần mà qua đời.

Hỏi: Vì sao bậc Thánh có lìa dục dần mà qua đời, còn người phàm phu thì không như vậy?

Đáp: Vì bậc Thánh đã dùng đạo vô lậu, tự gìn giữ, đạo ấy rất bền chắc. Người phàm phu dùng đạo thế tục, tự giữ gìn, đạo ấy rất yếu kém.

Lại nữa, vì bậc Thánh thành tựu phần định tuệ, nên dứt dần kiết mà qua đời. Người phàm phu vì không thành tựu phần định tuệ, nên không thể dứt dần kiết mà qua đời.

Lại nữa, bậc Thánh vì thành tựu phần vô lậu, nên dứt dần kiết mà qua đời. Người phàm phu vì không có phần vô lậu, nên không thể dứt bỏ dần kiết rồi qua đời.

Lại nữa, bậc Thánh có sức của nghiệp, sức đạo, vì sức của nghiệp, nên có thể dứt dần kiết mà qua đời, vì sức đạo, nên có thể rốt ráo lìa dục mà qua đời, thì thối lui.

Lại nữa, trong phần bậc Thánh cõi Dục, có người lìa dần dục, nếu dứt ba thứ, bốn thứ kiết, thì gọi là Gia gia. Nếu dứt trừ sáu thứ kiết thì gọi là Tư-đà-hàm. Nếu dứt bảy thứ, tám thứ kiết, thì gọi là một chủng tử. Cho nên thế gian có người lìa dần dục mà qua đời, trong phần vị người phàm phu, trụ tâm nối tiếp nhau, trở lại tạo thành kiết vốn đã dứt trừ.

Lời bình: Không nên nói như thế, như thuyết trước nói là tốt.

Hỏi: Dùng đạo thế tục, khi lìa dục đạo vô ngại có bao nhiêu hạnh, đạo giải thoát có bao nhiêu hạnh?

Đáp: Đạo vô ngại có ba hạnh: hạnh như thô, hạnh khổ, hạnh như thô hư hoại. Đạo giải thoát có ba hạnh, đó là hạnh như chỉ, hạnh diệu, hạnh lìa.

Hỏi: Nếu trong đạo vô ngại có hạnh như thô, thì trong đạo giải thoát kia sẽ có hạnh như chỉ? Nếu trong đạo vô ngại có hạnh khổ, thì trong đạo giải thoát kia sẽ có hạnh diệu? Nếu trong đạo vô ngại có hạnh như thô, hư hoại, thì trong đạo giải thoát kia có hạnh lìa?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Như đã hỏi, nếu đạo vô ngại có hạnh như thô, thì đạo giải thoát kia sẽ có hạnh như chỉ. Vô ngại có hạnh khổ, thì đạo giải thoát kia sẽ phải có hạnh diệu. Nếu đạo vô ngại có hạnh như thô, hư hoại thì đạo giải thoát kia sẽ có hạnh lìa.

Lời bình: việc nầy không nhất định. Nếu có hạnh như thô trong đạo vô ngại, thì ba hạnh trong đạo giải thoát kia sẽ xoay vần hiện ở trước. Nếu trong đạo vô ngại có hạnh khổ, hạnh như thô hoại, thì ba hạnh trong đạo giải thoát sẽ xoay vần hiện ở trước.

Hỏi: Lúc dùng đạo thế tục để lìa ái dục, thì đạo vô ngại vì duyên theo pháp nào? Đạo giải thoát vì duyên theo pháp nào?

Đáp: Chín đạo vô ngại duyên cõi Dục, chín đạo giải thoát duyên Sơ thiền.

Hỏi: Nếu vậy thì với thuyết của Kiền-độ Căn khéo hiểu, như nói:

Có khi nào tư duy pháp cõi Sắc có thể biết cõi Dục chăng?

Đáp: Có thể biết.

Hỏi: Thế nào là không duyên trái ngược, lầm lẫn, hành trái ngược, lầm lẫn. Nếu duyên hạnh trái ngược, lầm lẫn thì sao không có pháp lìa dục, gây ra chướng ngại, khó khăn?

Đáp: Dù khiến cho duyên theo hành trái ngược, lầm lẫn mà không thể vì pháp lìa dục tạo ra chướng ngại. Vì sao? Vì đối với pháp lìa dục kia, đã khéo tu tập con đường tắt, đã thành tựu, như trong kiến đạo, duyên trí nhẫn cõi Dục, về sau duyên trí nhẫn cõi Sắc, cõi Vô sắc hiện ở trước, duyên trí nhẫn cõi Sắc, cõi Vô sắc, về sau duyên trí nhẫn cõi Dục hiện ở trước.

Như vậy, mặc dù duyên hạnh sai trái, lầm lẫn nhưng không vì được chánh quyết định mà tạo ra chướng ngại, khó khăn. Vì sao? Vì đối với kiến đạo kia, đã khéo tu tập con đường tắt đã thành tựu. Pháp lìa dục kia cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát duyên cõi Dục, sau cùng, đạo giải thoát duyên Sơ thiền, như dùng diệt trí, đạo trí lìa ái của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát kia duyên diệt, đạo, sau cùng đạo giải thoát duyên bốn ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Đạo vô ngại kia cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Nếu khi lìa ái dục khởi định, dứt trừ một thứ kiết xong mà vẫn trụ ở một đạo vô ngại kia duyên theo cõi Dục, một đạo giải thoát duyên Sơ thiền. Nếu đã dứt đi hai thứ kiết xong mà trụ ở hai đạo vô ngại kia, thì một đạo giải thoát duyên cõi Dục, một đạo giải thoát duyên Sơ thiền. Nếu cho đến dứt tám thứ kiết rồi nhưng ở tám đạo vô ngại kia thì bảy đạo giải thoát sẽ duyên cõi Dục, đạo giải thoát thứ tám duyên Sơ thiền.

Lại có thuyết nói: Chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát đều duyên cõi Dục, như lúc dùng khổ trí, tập trí lìa ái dục, thì chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát đều duyên cõi Dục. Khổ trí, tập trí kia cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu vậy thì không duyên hạnh sai trái, lầm lẫn đối với pháp lìa dục, không gây ra chướng ngại, khó khăn đối với thuyết của kiền-độ Căn đã nói, làm sao hiểu được? Như nói: Có khi nào suy nghĩ pháp cõi Sắc mà biết được cõi Dục hay không?

Đáp: Biết được.

Đáp: Thuyết nầy, trước đã quán sát phân biệt về thời gian, hành, nghĩa là trước đã tạo ra sự phân biệt, quán sát như thế, cõi Dục là thô, Sơ thiền là chỉ.

Hỏi: Theo thuyết của Kiền-độ Căn nói làm sao hiểu được? Như nói: Có khi nào tư duy pháp cõi Vô sắc, mà biết được cõi Dục hay không?

Đáp: Không thể biết.

Hỏi: Hành cũng là phân biệt, quán sát, mà đối tượng quán là xa, chẳng phải đối với sau quán sát như thế mà có thể lìa dục được sao?

Đáp: Lại có thuyết nói: Chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát đều duyên Sơ thiền.

Hỏi: Nếu vậy thì thuyết của kiền-độ Căn nói là khéo hiểu, như nói: Vả chăng tư duy pháp cõi Sắc có thể biết cõi Dục?

Đáp: Có thể biết, cũng chẳng phải duyên, hành vi sai trái, lầm lẫn.

Hỏi: Thế nào là duyên ở chỗ khác, lìa dục ở chỗ khác?

Đáp: Nếu duyên chỗ khác, lìa dục ở chỗ khác, thì điều nầy cũng không có lỗi, vì như dùng diệt trí, đạo trí duyên diệt, đạo mà lìa dục, do khổ, tập dứt. Chỗ duyên lìa kia cũng giống như thế. Thuyết nói như vậy, đều vì sinh ý giác của đệ tử. Nhưng nghĩa nầy vượt hơn thuyết đầu. Chín đạo vô ngại duyên cõi Dục, chín đạo giải thoát duyên Sơ thiền là tốt đẹp.

Hỏi: Trong đạo vô ngại tu bao nhiêu hạnh, trong đạo giải thoát tu bao nhiêu hạnh?

Đáp: Người phàm phu khi lìa ái dục, trong đạo vô ngại, tu ba hạnh như thô v.v… Trong tám đạo giải thoát, tu sáu hạnh, nghĩa là ba hạnh như thô v.v…, ba hạnh như chỉ v.v… Trong đạo giải thoát sau cùng, thì tu sáu hạnh nầy, cũng tu vô lượng hạnh của Vị chí, Sơ thiền, cho đến lìa ái của Vô sở hữu xứ cũng giống như thế. Lúc bậc Thánh lìa ái dục, đã tu mười chín hạnh trong đạo vô ngại, nghĩa là ba hạnh như thô v.v…, mười sáu hành Thánh hữu lậu, vô lậu. Tu hai mươi hạnh trong tám đạo giải thoát nghĩa là ba hạnh như thô v.v…, ba hạnh như chỉ v.v…, mười sáu hành Thánh hữu lậu, vô lậu. Trong đạo giải thoát sau cùng, tức tu hai mươi hai hạnh nầy, cũng là tu vô lượng hạnh của Vị chí, Sơ thiền.

Lúc bậc Thánh lìa dục của Sơ thiền, đã tu mười chín hạnh trong đạo vô ngại, nghĩa là ba hạnh như thô v.v…, mười sáu hành Thánh chỉ tu vô lậu, chẳng phải hữu lậu. Tu hai mươi hai hạnh trong tám đạo giải thoát, nghĩa là ba hạnh như thô, v.v…, ba hạnh như chỉ, v.v… và mười sáu hành Thánh, chỉ tu vô lậu chẳng phải hữu lậu. Đạo giải thoát sau cùng, tức tu hai mươi hai hạnh nầy, cũng tu vô lượng hạnh của Vị chí, Sơ thiền, cho đến lìa ái của Vô sở hữu xứ cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao bên Sơ thiền, tu hạnh hữu lậu, vô lậu, còn bên địa trên, chỉ tu vô lậu, không tu hữu lậu?

Đáp: Vì bên cạnh Sơ thiền có hạnh Thánh hữu lậu, vô lậu, cho nên

tu. Bên cạnh hạnh trên chỉ có hạnh vô lậu, không có hữu lậu, cho nên chỉ tu hạnh vô lậu.

Lại có thuyết nói: Người phàm phu khi lìa ái dục, tu chín hạnh trong chín đạo vô ngại, nghĩa là ba hạnh như thô v.v…, từ, bi, hỷ, xả quán bất tịnh, niệm an ban. Tu mười hai hạnh trong tám đạo giải thoát, tức chín hạnh trên và ba hạnh như chỉ v.v… Trong đạo giải thoát sau cùng, tức tu mười hai hạnh nầy, cũng tu vô lượng hạnh của Vị chí, Sơ thiền. Lúc bậc Thánh lìa ái dục, đã tu hai mươi lăm hạnh trong đạo vô ngại, nghĩa là ba hạnh như thô v.v…, từ, bi, hỷ, xả, quán bất tịnh, niệm – ban, và mười sáu hành Thánh hữu lậu, vô lậu. Tu hai mươi tám hạnh trong tám đạo giải thoát, tức hai mươi lăm hạnh nầy và ba hạnh như chỉ v.v… Trong đạo giải thoát sau cùng, tức tu hai mươi tám hạnh nầy và tu vô lượng hạnh của Vị chí, Sơ thiền. Bên địa trên, như trên đã nói.

Hỏi: Vì sao bên Sơ thiền, tu các hạnh như thế,v.v… còn bên địa trên thì không tu?

Đáp: Do bên Sơ thiền có các thứ căn thiện, nên tu các hạnh như thế v.v…, còn bên địa trên, vì căn thiện ít, nên không tu các hạnh như thế v.v…

Lại nữa, vì cõi Dục có các thứ phiền não, nên tu các thứ đối trị, còn ở địa trên vì không có các thứ phiền não, nên không cần các thứ đối trị. Các hạnh đã nói trong đây, tồn tại ở hiện tại, đều cùng chuyển vận, gánh vác nặng đồng sở duyên, như trên đã nói.

Hỏi: Đối tượng tu hành của đời vị lai là sở duyên nào?

Đáp: Khi lìa ái dục, người tu ba hạnh như thô v.v…, trong chín đạo vô ngại, duyên với cõi Dục. Người tu ba hạnh như thô v.v… trong tám đạo giải thoát, duyên Sơ thiền cõi Dục, người tu ba hạnh chỉ v.v… duyên Sơ thiền. Người tu ba hạnh như thô v.v… trong đạo giải thoát sau cùng duyên duyên với Sơ thiền, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Khi lìa dục Sơ thiền, tu hành ba hạnh như hạnh thô, v.v… trong chín đạo Vô ngại thì duyên với Sơ thiền. Tu ba hạnh như thô, v.v… trong tám đạo giải thoát thì duyên với Sơ thiền, Nhị thiền. Tu ba hạnh như chỉ, v.v… thì duyên với Nhị thiền. Tu ba hạnh như thô, v.v… trong đạo giải thoát sau cùng thì duyên với ba cõi, tu hạnh như hạnh như chỉ, v.v… thì duyên với Nhị thiền cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lìa dục đệ Nhị thiền, dục đệ Tam thiền, nên tùy tướng nói.

Khi lìa dục đệ Tứ thiền, người tu ba hạnh như thô v.v… trong chín đạo vô ngại, duyên đệ Tứ thiền. Người tu ba hạnh như thô v.v… trong tám đạo giải thoát, duyên đệ Tứ thiền và Không xứ. Người tu ba hạnh như chỉ v.v… duyên Không xứ. Người tu ba hạnh như thô v.v…, ba hạnh như chỉ v.v… trong đạo giải thoát sau cùng duyên Không xứ, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Hỏi: Nếu khi lìa dục của đệ Tứ thiền, người tu ba hạnh như thô v.v… trong tám đạo giải thoát, duyên đệ Tứ thiền và Không xứ. Kinh Thức Thân đã nói, làm sao hiểu? Như nói: Có khi nào tâm lệ thuộc cõi Vô sắc, có thể biết cõi Sắc, cõi Vô sắc hay chăng?

Đáp: Không biết. Trong kinh kia, ngăn một khoảng sát-na, không thường nối tiếp. Nếu trong khoảnh một sát-na mà có thể được cõi Sắc, cõi Vô sắc thì không có việc đó. Đạo giải thoát kia khởi hiện ở trước, người tu hành ở vị lai, hoặc duyên cõi Sắc, cõi Vô sắc là không có việc đó. Đạo giải thoát kia khởi hiện ở trước, người tu hành ở vị lai, hoặc duyên cõi Sắc, hoặc duyên cõi Vô sắc. Cho nên trong một khoảng sátna không biết, thường nối tiếp nhau thì biết. Hai thuyết đều khéo hiểu!

Khi lìa dục của Không xứ, người tu ba hạnh như thô v.v… trong chín đạo vô ngại, duyên với Không xứ. Người tu ba hạnh như chỉ, v.v… duyên với Thức xứ. Người tu ba hạnh như thô v.v… trong tám đạo giải thoát, duyên ở Không xứ, Thức xứ. Người tu ba hạnh như thô v.v…, ba hạnh như chỉ v.v… trong đạo giải thoát sau cùng, duyên thức xứ, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ lìa dục của Thức xứ, lìa dục của Vô sở hữu xứ, nên tùy tướng mạo nói.

Hỏi: Vì sao các hạnh đã tu trong thiền, đều duyên với ba cõi, còn các hạnh đã tu trong Vô sắc, chỉ duyên cõi Vô sắc?

Đáp: Thiền có thể duyên khắp, có thể duyên địa mình, có thể duyên địa dưới, cũng duyên ở địa trên, còn định Vô sắc thì không thể duyên khắp, chỉ có thể duyên địa mình, và duyên địa trên, không duyên ở địa dưới. Do việc nầy, nên các hạnh đã tu trong thiền có thể duyên ba cõi.

Các hạnh đã tu trong Vô sắc, chỉ duyên cõi Vô sắc. Chủng, kiết, do kiến đạo dứt, thuộc cõi Dục đã dứt, là thuộc về quả Sa-môn nào?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Các phiền não, trước phân biệt ở cõi, chưa phân biệt chủng. Nay vì muốn phân biệt chủng, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Chủng loại kiết, do kiến đạo dứt thuộc cõi Dục dứt, không có xứ sởlà thuộc về quả Sa-môn nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, nghĩa là tu-đà-hoàn về quả Tu-đà-hoàn, cho đến A-la-hán thuộc về quả A-la-hán. Không có xứ sở, nghĩa là người phàm phu lìa dục, người lìa dục không có xứ sở, được chánh quyết định. Mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo, người thứ lớp không có xứ sở với hai khoảnh tâm của kiến đạo đế trong kiến đạo. Thời gian như thế v.v… không có xứ sở. Chủng loại kiết, do kiến đạo dứt cõi Dục.

Hỏi: Chủng loại kiết, do tu đạo cõi Dục dứt trừ dứt, không có xứ sở, là thuộc về quả nào?

Đáp: Quả A-na-hàm thuộc về quả A-la-hán. A-na-hàm thuộc về quả A-na-hàm. A-la-hán thuộc về giới của A-la-hán. Không có xứ sở nghĩa là người phàm phu lìa dục, người lìa dục không có xứ sở được chánh quyết định. Người thứ lớp không có xứ sở của mười lăm khoảnh tâm, không được nói là không có xứ sở. Vì sao? Vì khi lìa ái dục, đạo vô ngại sau cùng sẽ dứt trừ kiết mà tu đạo dứt.

Hỏi: Khi đạo giải thoát sinh, tức thuộc về quả A-na-hàm, chủng loại kiết, bị kiến đạo, thuộc cõi Sắc đã dứt, là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Hoặc không có xứ sở, nghĩa là người phàm phu khi lìa ái sắc, người lìa ái sắc không có xứ sở được chánh quyết định. Người thứ lớp không có xứ sở của mười lăm khoảnh tâm, không được nói là không có xứ sở. Vì sao? Vì đạo tỷ nhẫn rốt ráo dứt trừ kiết nầy. Lúc đạo tỷ trí sinh, dứt kia tức thuộc về quả.

Hỏi: Chủng loại kiết, do tu đạo thuộc cõi Sắc dứt trừ, là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Hoặc A-la-hán không có xứ sở, thuộc về quả A-la-hán.

Không có xứ sở nghĩa là người phàm phu lìa ái sắc, người lìa ái sắc không có xứ sở được chánh quyết định, khoảng mười lăm tâm trong kiến đạo, đạo tỷ trí hiện ở trước, người thứ lớp không có xứ sở, khi lìa dục của đệ Tứ thiền, đạo giải thoát sau cùng không có xứ sở, khi lìa ái của Không xứ, không có xứ sở của chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, cho đến khi lìa ái của như vô sở hữu xứ, cũng như thế. Khi lìa ái của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, khi tám đạo vô ngại, tám đạo giải thoát và do tu đạo thuộc cõi Sắc dứt là kiết đã dứt, đã biết, thuộc cõi Vô sắc không có xứ sở.

Chủng loại kiết, do kiến đạo dứt trừ là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn. Bốn quả Sa-môn như trên đã nói, ở đây không nói người phàm phu không xứ sở. Vì sao? Vì không có người phàm phu có thể lìa sự tham ái ở nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Đáp: Người thứ lớp cũng không được nói không có xứ sở. Vì sao?

Vì Đạo tỳ nhẫn rốt ráo dứt kiết nầy. Khi đạo tỷ trí hiện ra trước thì dứt ấy thuộc về quả, kiết chủng mà tu đạo về cõi Vô sắc dứt trừ là lệ thuộc cõi nào?

Đáp: Chỉ thuộc về quả A-la-hán, trong đây người phàm phu không lìa dục, vì sao? Vì không có người phàm phu nào có khả năng lìa ái của Phi phi tưởng xứ. Người thứ lớp cũng không được nói không có nơi chốn. Vì sao? Vì định Kim cương dụ rốt ráo dứt trừ kiết nầy. Lúc tận trí mới sinh, sự dứt trừ của định Kim cương dụ kia thuộc về quả, nghĩa là quả A-la-hán.

Kiết có năm thứ, nghĩa là từ chủng loại, bị kiến khổ dứt cho đến chủng loại là do tu đạo dứt.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước kia đã phân biệt phiền não ở giới có hai thứ, chưa phân biệt năm chủng loại. Nay vì muốn phân biệt, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Chủng loại kiết, do kiến khổ dứt trừ là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Trong đây, không nên nói người phàm phu lìa dục, vì người phàm phu theo thứ lớp, khoảnh nhất tâm lúc kiến khổ (Khoảnh nhất tâm lúc kiến khổ của con người theo thứ lớp), bốn khoảnh tâm khi kiến tập, bốn khoảnh tâm lúc kiến diệt, ba khoảnh tâm khi kiến đạo. Lúc nầy chủng loại kiết, chỗ dứt trừ của kiến khổ, dứt trừ. Sự dứt đó chẳng thuộc về quả.

Hỏi: Chủng loại kiết, do kiến tập dứt là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở như đã nói ở trên. Không có xứ sở: Trong đây không có người phàm phu lìa dục. Khoảnh nhất tâm lúc kiến tập của người theo thứ lớp, bốn khoảnh tâm khi kiến diệt, ba khoảnh tâm khi kiến đạo, lúc chủng loại kiết, mà kiến tập dứt. Sự dứt trừ kiết đó, chẳng thuộc về quả Samôn.

Hỏi: Chủng loại kiết, mà kiến diệt dứt, sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc không có xứ sở: Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, khoảnh nhất tâm của kiến diệt của người thứ lớp, ba khoảnh tâm của kiến đạo là lúc chủng loại kiết, bị kiến diệt dứt. Sự dứt đó chẳng phải thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, do kiến đạo dứt, sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn. Trong đây không nói phàm phu lìa dục, cũng không nói người theo thứ lớp. Vì sao? Vì đạo tỷ trí rốt ráo dứt kiết nầy. Đạo tỷ trí hiện ở trước. Sự dứt đó tức là thuộc về quả.

Hỏi: Chủng loại kiết, do tu đạo dứt, sự dứt trừ kiết đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, cũng không nói người theo thứ lớp. Vì sao? Vì định Kim cương dụ rốt ráo dứt trừ kiết nầy. Lúc đầu tận trí hiện ở trước. Sự dứt trừ kiết đó tức là thuộc về quả, đó là quả A-la-hán.

Kiết có chín thứ: Thứ kiết, mà khổ pháp trí dứt trừ, thứ kiết do khổ tỷ trí dứt trừ, thứ kiết mà tập pháp trí dứt trừ, thứ kiết mà tập tỷ trí dứt trừ, thứ kiết mà diệt pháp trí dứt trừ, thứ kiết mà diệt tỷ trí dứt trừ, thứ kiết àm đạo pháp trí dứt trừ, thứ kiết mà đạo tỷ trí dứt trừ, thứ kiết mà tu đạo dứt trừ.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước đã phân biệt phiền não ở giới, có hai chủng loại, có năm chủng loại, chưa phân biệt chủng loại của chỗ dứt trừ. Nay vì muốn phân biệt, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Chủng loại kiết, chỗ dứt trừ của khổ pháp trí dứt trừ, sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở như trên đã nói. Không có xứ sở, nghĩa là người phàm phu lìa dục, người lìa dục không có xứ sở được chánh quyết định. Mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo, ba khoảnh tâm kiến khổ của người thứ lớp, bốn khoảnh tâm của kiến tập, bốn khoảnh tâm của kiến diệt, ba khoảnh tâm của kiết đạo. Lúc nầy là chủng loại kiết, chỗ dứt trừ của Khổ tỷ trí đã dứt. Sự dứt đó chẳng phải thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, do khổ tỷ trí dứt trừ, sự dứt trừ kiết đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, đã nói như trên. Không có xứ sở: Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, khoảnh một tâm của kiến khổ của người thứ lớp, bốn khoảnh tâm của kiến tập, bốn khoảnh tâm của kiến diệt, ba khoảnh tâm của kiến đạo, là thời gian chủng loại kiết, bị Khổ tỷ trí dứt. Sự dứt đó chẳng thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, bị tập pháp trí dứt trừ, sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, hoặc không xứ sở. Bốn quả Sa-môn như trên đã nói. Không xứ sở là người phàm phu lìa dục. Người lìa dục không xứ sở được quyết định đúng, mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo, người thứ lớp, người không xứ sở kiến tập có ba khoảnh tâm, kiến diệt có ba khoảnh tâm, kiến đạo có ba khoảnh tâm. Lúc ấy, loại kiết do tập pháp trí dứt trừ, sự dứt trừ ấy chẳng thuộc quả Sa-môn, loại kiết do tập tỷ trí dứt trừ, sự dứt trừ ấy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, người lìa dục không có xứ sở được chánh quyết định. Người thứ lớp không có xứ sở của khoảnh mười lăm tâm trong kiến đạo, bốn khoảnh tâm của kiến tập, bốn khoảnh tâm của kiến diệt, ba khoảnh tâm của kiến đạo, lúc nầy chủng loại kiết, bị Tập pháp trí dứt trừ. Sự dứt trừ kiết đó chẳng thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, bị tập tỷ trí dứt, sự dứt trừ kiết đó là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, khoảnh một tâm của kiến diệt của người thứ lớp, , ba khoảnh tâm của kiến đạo, lúc nầy chủng loại kiết, bị tập tỷ trí dứt trừ. Sự dứt đó, chẳng thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, bị đạo pháp trí dứt, sự dứt trừ đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Người phàm phu lìa dục, người lìa dục không có xứ sở, được chánh quyết định, khoảnh mười lăm tâm trong kiến đạo của người thứ lớp không có xứ sở, ba khoảnh tâm của kiến diệt, ba khoảnh tâm của kiến đạo, lúc nầy, chủng loại kiết chỗ dứt trừ của Diệt pháp trí đã dứt. Sự dứt đó, chẳng thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, bị diệt tỷ trí dứt, sự dứt trừ đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, khoảnh một tâm của kiến diệt của người thứ lớp, ba khoảnh tâm của kiến đạo, bấy giờ chủng loại kiết, bị diệt tỷ trí dứt. Sự dứt đó, chẳng thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, bị đạo pháp trí dứt trừ, sự dứt trừ kiết đó là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Người phàm phu lìa dục, người lìa dục không có xứ sở, được chánh quyết định, người thứ lớp không có xứ sở, khoảnh mười lăm tâm của kiến đạo, khoảnh hai tâm của kiến đạo, lúc nầy, chủng loại kiết chỗ dứt trừ của Đạo pháp trí dứt trừ. Sự dứt trừ kiết đó, chẳng thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Chủng loại kiết, do đạo tỷ trí dứt, sự dứt trừ kiết đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn, như trên đã nói. Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, cũng không nói là người của thứ lớp. Vì sao? Vì đạo tỷ trí rốt ráo dứt trừ kiết nầy, đạo tỷ trí hiện ở trước. Sự dứt trừ kiết đó tức là thuộc về quả.

Hỏi: Chủng loại kiết, do tu đạo dứt dứt trừ, sự dứt trừ kiết đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, cũng không nói người của thứ lớp. Vì sao? Vì định Kim cương dụ, rốt ráo dứt trừ kiết nầy. Tận trí đầu tiên hiện ở trước. Sự dứt trừ kiết kia tức là thuộc về quả, nghĩa là quả A-la-hán.

Hỏi: Vì là đạo vô ngại dứt trừ kiết, hay là đạo giải thoát dứt trừ kiết? Nếu đạo vô ngại dứt trừ kiết, thì theo thuyết của văn nầy nói làm sao hiểu? Như nói: Các kiết do thấy khổ mà dứt trừ, kiết ấy có do khổ trí dứt trừ không?

Đáp: Kiết đó do nhẫn khổ dứt trừ.

Các kiết, cho đến kiến đạo dứt trừ, kiết đó có do đạo trí dứt trừ không?

Đáp: Các kiết do nhẫn đạo dứt trừ. Nên nói rằng: Các kiết do đạo vô ngại dứt trừ.

Hỏi: Nếu vậy theo thuyết của Kiền-độ Trí nói thì khéo hiểu, còn văn nầy nói làm sao hiểu? Như nói: Chủng loại kiết, bị khổ pháp trí dứt trừ, cho đến nói rộng?

Đáp: Văn nầy nên nói rằng: Kiết có chín thứ, thứ kiết, do khổ pháp nhẫn dứt trừ, cho đến thứ kiết, do đạo pháp nhẫn dứt trừ, mà không nói là có ý gì?

Đáp: Nhẫn thuộc về trí, là quyến thuộc của trí. Nếu nhẫn mà dứt, thì cũng gọi là trí dứt. Giống như thuộc về người của vua, nếu có làm điều gì thì cũng gọi là vua làm. Nhẫn kia cũng giống như thế.

Lại nữa, đạo vô ngại dứt trừ kiết, đạo giải thoát thì gìn giữ sao cho bất động. Nếu đạo giải thoát không chú trọng gìn giữ thì phiền não lại sinh ra lỗi lầm. Như người trước đánh ngã kẻ thù, nằm sóng sượt dưới đất, một người sau đến, nắm giữ khiến hắn không nhúc nhích. Nếu người đến sau, không cầm giữ lại, thì kẻ thì lại đứng dậy, gây ra lỗi lầm tai hại. Lại như có người từ trong nhà mình đuổi kẻ thù chạy ra, một người đến sau, đóng chặt cổng nhà anh ta lại. Mặc dù một người đuổi kẻ oán ra, nhưng nếu người đến sau, không đóng chặc cổng, thì kẻ oán sẽ trở vào gây nên lỗi lầm tai hại. Cũng như có người trước đựng đầy rắn độc trong chiếc bình, một người đến sau đậy chặt miệng bình lại. Mặc dù một người đã đựng rắn trước, nhưng người đến sau, nếu không bịt chắc miệng bình lại, thì rắn độc sẽ bò ra gây nên. Hai độc kia cũng giống như thế.

Lại nữa, đạo vô ngại dứt trừ kiết, công năng của đạo giải thoát rất nhiều, như thuyết của Kiền-độ Căn đã nói, trong đây lại phân biệt rộng.

Lại nữa, đạo vô ngại dứt trừ kiết. Sự dứt trừ kiết đó là giải thoát đắc, đều sinh chung với giải thoát. Vì đều sinh chung, nên đạo giải thoát cũng được gọi là đạo dứt trừ kiết.

Lại nữa, đạo vô ngại dứt trừ kiết, đạo giải thoát đồng làm chung một việc với đạo vô ngại, vì đồng làm chung một việc, nên đạo giải thoát cũng gọi là đạo dứt trừ kiết.

Kiết có mười lăm thứ. Chủng loại kiết, do kiến khổ cõi Dục dứt trừ, cho đến chủng loại kiết, do tu đạo dứt trừ kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước đã phân biệt các phiền não ở giới, hai chủng, năm chủng, chủng đối trị, chưa phân biệt về giới, chủng. Nay vì muốn phân biệt về giới, chủng nên soạn luận nầy?

Hỏi: Chủng loại kiết, do kiến khổ cõi Dục dứt trừ là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Người phàm phu lìa dục, người lìa dục không có xứ sở, được chánh quyết định. Người thứ lớp không có xứ sở của mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo. Ba khoảnh tâm của kiến khổ, bốn khoảnh tâm của kiến tập, bốn khoảnh tâm của kiến diệt, ba khoảnh tâm của kiến đạo, là lúc chủng loại kiết, do kiến khổ cõi Dục, dứt trừ. Sự dứt trừ kiết đó chẳng phải thuộc về quả Sa-môn. Do kiến tập dứt, thuộc cõi Dục, chỗ dứt trừ của kiến diệt, do kiến đạo dứt, do tu đạo dứt, nên theo tướng mạo mà nói.

Hỏi: Chủng loại kiết, chỗ dứt trừ của kiến khổ thuộc cõi Sắc, sự dứt trừ kiết đó là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Người phàm phu lìa ái sắc, người lìa ái sắc không có xứ sở, được chánh quyết định. Người của thứ lớp không có xứ sở của mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo. Khoảnh một tâm của kiến khổ của người thứ lớp không có xứ sở. Một khoảnh tâm của kiến khổ, bốn khoảnh tâm của kiến tập. Một bốn khoảnh tâm của kiến diệt, ba khoảnh tâm của kiến đạo không có xứ sở. Lúc nầy, chủng loại kiết, bị kiến khổ, thuộc cõi Sắc dứt trừ. Sự dứt trừ đó chẳng thuộc về quả Sa-môn, chủng loại kiết, bị kiến tập dứt, kiến diệt, kiến đạo, tu đạo, thuộc cõi Sắc dứt trừ, nên theo tướng mạo mà nói. Chủng loại kiết, do năm chủng cõi Vô sắc, dứt trừ, cũng theo tướng mạo mà nói.

Hỏi: Thân kiến dứt là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc bốn quả Sa-môn không có xứ sở, như trên đã nói. Không có xứ sở: Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, một khoảnh tâm của kiến khổ của người thứ lớp, bốn khoảnh tâm của kiến tập, bốn khoảnh tâm của kiến diệt, ba khoảnh tâm của kiến đạo, thân kiến dứt lúc nầy. Sự dứt đó chẳng thuộc về quả Samôn. Như thân kiến dứt, thân kiến trong phần dưới dứt, cũng nói như thế, giới thủ, nghi dứt trừ.

Hỏi: Sự dứt kiến đó thuộc về quả nào?

Đáp: Bốn quả Sa-môn, bốn quả Sa-môn không có xứ sở như trên đã nói. Trong đây không nói người phàm phu lìa dục, cũng không nói người thứ lớp. Vì sao? Vì Đạo tỷ nhẫn rốt ráo dứt trừ kiết nầy, đạo tỷ trí hiện ở trước. Sự dứt trừ kiết đó là thuộc về quả Sa-môn. Như giới thủ, nghi dứt kiến lưu, kiến ách, kiến thủ. Kiến thủ, thân ràng buộc giới thủ, thân ràng buộc kiến thủ, giới thủ, nghi trong phần dưới, tà kiến trong kiến, kiến thủ, giới thủ, sử kiến, sử nghi, kiết kiến, nói rộng cũng giống như thế.

Hỏi: Căn bất thiện, tham, giận, si và dục lậu dứt, sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-na-hàm, quả A-la-hán, hoặc không có xứ sở, nói rộng như chủng loại kiết, bị kiến đạo, tu đạo dứt, thuộc cõi Dục đã dứt, như dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Phiền não khác tương tự với kiết kia, nên theo tướng mạo của chúng mà nói.

Nghi, cái trong cái, nên nói rộng. Như chủng loại kiết, chỗ dứt trừ của đạo pháp trí đã dứt, kiết phần trên, sẽ nói rộng. Như chủng loại kiết, do tu đạo dứt cõi Sắc, cõi Vô sắc đã dứt.

Hỏi: Sự xúc chạm của mắt, tai, thân, sinh ra ra ái đã dứt là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc A-la-hán không có xứ sở, là thuộc về quả A-la-hán. Không có xứ sở: Người phàm phu đã lìa ái của Phạm thế không có xứ sở. Người lìa ái của Phạm thế, được chánh quyết định. Mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo và người thứ lớp không có xứ sở của Đạo tỷ trí, lúc dứt trừ ái của Sơ thiền, đầy đủ giải thoát sau cùng, dứt của Đệ Nhị thiền, cho đến dứt trừ ái của Vô sở hữu xứ. Chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát lìa ái của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát, lúc nầy, sự xúc chạm của mắt, tai, thân, sinh ái đã dứt trừ. Sự dứt đó chẳng thuộc về quả Sa-môn. Chín mươi tám sử dứt, nói rộng, như chủng loại của mười lăm kiết dứt.

Hỏi: Hướng về chủng loại kiết do người chứng quả Tu-đà-hoàn đã dứt, mà dứt. Sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về không có xứ sở. Vì sao? Vì trước quả Tu-đà-hoàn, thì không có quả nào để gồm nhiếp sự dứt trừ kia. Tu-đà-hoàn thuộc về quả Tu-đà-hoàn, quả Tu-đà-hoàn gồm nhiếp chủng loại kiết, bị kiến đạo dứt ba cõi đã dứt trừ.

Hỏi: Hướng về chủng loại kiết do người chứng quả Tư-đà-hàm đã dứt mà dứt. Sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Tu-đà-hoàn, hoặc không có xứ sở. Quả Tu-đàhoàn gồm nhiếp chủng loại kiết, do kiến đạo dứt ba cõi đã dứt. Không có xứ sở, nghĩa là người của thứ lớp dứt bỏ năm thứ kiết mà cõi Dục đã dứt. Sự dứt đó chẳng thuộc về quả Tu-đà-hoàn. Vì sao? Vì đã chứng đạo quả vượt hơn kia. Như đạo quả vượt hơn kia chẳng thuộc về quả, sự dứt trừ cũng giống như thế. Tư-đà-hàm là thuộc về quả Tư-đà-hàm. Quả Tư-đà-hàm gồm nhiếp chủng loại kiết, mà kiến đạo dứt ba cõi, đã dứt và sáu thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đã dứt.

Hỏi: Hướng về người chứng quả A-na-hàm đã dứt bỏ chủng loại kiết mà dứt, sự dứt đó là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Tư-đà-hàm, hoặc quả Tư-đà-hàm không có xứ sở, gồm nhiếp chủng loại kiết, do kiến đạo dứt ba cõi đã dứt. Và sáu thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đã dứt. Không có xứ sở: Đoạn bảy thứ, tám thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đã dứt.

Hỏi: Hướng về chủng loại kiết người chứng quả A-la-hán đã dứt trừ mà dứt. Sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-na-hàm, hoặc là quả A-na-hàm không có xứ sở, gồm nhiếp chủng loại kiết, do kiến đạo dứt ba cõi đã dứt. Và chín thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đã dứt. Không có xứ sở: Dứt bỏ chín thứ kiết của Sơ thiền, cho đến chín thứ kiết của Vô sở hữu xứ, dứt bỏ tám thứ kiết của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Vì sao? Vì chứng đạo quả vượt hơn. Như đạo quả vượt hơn chẳng thuộc về quả, sự dứt kia cũng thế. Ala-hán thuộc về quả A-la-hán, quả A-la-hán gồm nhiếp hết chủng loại kiết, do kiến đạo, tu đạo dứt của ba cõi.

Hỏi: Như dứt bỏ một thứ kiết, cho đến dứt trừ năm thứ kiết, vì được Đạo tỷ trí, nên gọi là tu-đà-hoàn, dứt năm thứ kiết thuộc cõi Dục, chẳng thuộc về quả Tu-đà-hoàn. Nếu dứt bỏ bảy thứ, tám thứ kiết, thì được chánh quyết định. Lúc được đạo tỷ trí gọi là Tư-đà-hàm, dứt bỏ bảy thứ, tám thứ kiết kia, chẳng phải thuộc về quả Tư-đà-hàm. Nếu lìa ái của Sơ thiền, cho đến lìa ái của Vô sở hữu xứ, thì sẽ được chánh quyết định. Lúc được đạo tỷ trí, gọi là quả A-na-hàm. A-na-hàm kia đã dứt chín thứ kiết của Sơ thiền, cho đến chín thứ kiết của Vô sở hữu xứ, chẳng phải thuộc về quả A-na-hàm. Vì sao nói Tu-đà-hoàn thuộc về quả Tu-đàhoàn? Tư-đà-hàm thuộc về quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm thuộc về quả A-na-hàm. Vì sao không nói? Hay là không có xứ sở chăng?

Đáp: Văn ấy nên nói rằng: Tu-đà-hoàn thuộc về quả Tu-đà-hoàn, hoặc không có xứ sở. Tư-đà-hàm thuộc về quả Tư-đà-hàm, hoặc không có xứ sở. A-na-hàm thuộc về quả A-na-hàm, hoặc không có xứ sở, mà không nói là có ý gì?

Đáp: Thuyết nầy nói con người ràng buộc đủ theo thứ lớp, không nói là người siêu việt.

Kiến đế đầy đủ, đệ tử của Đức Thế tôn chưa lìa ái dục đã dứt, dứt loại kiết do tu đạo thuộc cõi Dục đã dứt. Sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Tư-đà-hàm gồm nhiếp sáu thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đã dứt. Không có xứ sở: Dứt bảy thứ, tám thứ kiết dứt, đã lìa ái dục, chưa lìa ái sắc. Chủng loại kiết, do tu đạo dứt, cõi Sắc đã dứt.

Sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về không có xứ sở, dứt bỏ chín thứ kiết của Sơ thiền, cho đến tám thứ kiết của đệ Tứ thiền đã dứt. Không có xứ sở đã lìa ái sắc, chưa lìa ái Vô sắc dứt. Chủng loại kiết, do tu đạo dứt cõi Vô sắc đã dứt.

Hỏi: Sự dứt đó thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về Không có xứ sở dứt bỏ chín thứ kiết của Không xứ, cho đến dứt tám thứ kiết của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, không có xứ sở.

*******

 

Bốn quả Sa-môn: là Quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-nahàm, quả A-la-hán.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Quả Sa-môn chỉ là vô vi, như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề (Luận sư Phân biệt) nói.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia nói như thế?

Đáp: Vì Tôn giả kia dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta sẽ nói về Sa-môn, quả Sa-môn người Sa-môn.

Hỏi: Sao gọi là Sa-môn?

Đáp: Tám Thánh đạo gọi là Sa-môn.

Hỏi: Gọi quả Sa-môn là thế nào?

Đáp: Là quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán Hỏi: Sao gọi là quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Là dứt hẳn ba kiết.

Hỏi: Sao gọi là quả Tư-đà-hàm?

Đáp: Là dứt hẳn trừ ba kiết, ái, giận, si mỏng dần.

Hỏi: Sao gọi là quả A-na-hàm?

Đáp: Là dứt hẳn năm kiết phần dưới.

Hỏi: Sao gọi là quả A-la-hán?

Đáp: Dứt hẳn tất cả kiết như ái, mạn, si.

Hỏi: Người Sa-môn là sao?

Đáp: Thành tựu các pháp như thế v.v…, gọi là người Sa-môn. Do kinh nầy, nên nói quả Sa-môn chỉ là vô vi.

Vì dứt ý của người nói như thế, cũng nói về quả Sa-môn là hữu vi, vô vi.

Nếu quả Sa-môn chỉ là vô vi, chẳng phải hữu vi thì trái với kinh Phật. Vì kinh nói: Có bốn hướng, có trụ bốn quả. Người trụ quả là trụ quả Sa-môn hữu vi, không trụ nơi quả Sa-môn vô vi.

Hỏi: Lúc nầy cũng trụ trong dứt, như Luận Thi Thiết nói: Người kia trụ trong đoạn không cầu pháp vượt hơn. Người không được khiến được, người không chứng khiến chứng, người không hiểu khiến hiểu?

Đáp: Nói trụ trong đoạn, nghĩa là chẳng phải như người cỡi voi, ngựa, ở trên voi, ngựa, mà chỉ là đối với pháp dứt trừ không thối lui, không tiến tới, nên nói tru trong đoạn. Kinh của Thế tôn cũng có chỗ hoàn toàn nói về quả Sa-môn hữu vi. Như nói: Tỳ-kheo nên biết! Đối với năm căn nầy phải làm sao cho được bén nhạy tăng thượng, thấu suốt đầy đủ, phải được quả A-la-hán câu giải thoát, phải chuyển biến bất như để được tuệ giải thoát, cho đến Kiên tín.

Hỏi: Nếu quả Sa-môn là hữu vi, vô vi, thì kinh Phật làm sao hiểu?

Đáp: Quả Sa-môn là hữu vi, vô vi, kinh Phật chỉ nói vô vi.

Hỏi: Vì sao kinh Phật chỉ nói quả Sa-môn vô vi?

Đáp: Kinh Phật chỉ nói quả Sa-môn, không nói đạo Sa-môn là Samôn cũng là quả Sa-môn.

Lại nữa, kinh nầy chỉ nói quả Bà-la-môn, không nói đạo Bà-lamôn là Bà-la-môn, cũng là quả Bà-la-môn.

Lại nữa, kinh Phật nói quả phạm hạnh, không nói đạo phạm hạnh là phạm hạnh cũng là quả phạm hạnh.

Lại nữa, kinh Phật nói quả, lại không có đạo của quả là quả lại có quả.

Lại nữa Phật nói lìa, không có đạo lìa là lìa, lại có lìa.

Do việc nầy, nên muốn ngăn dứt nghĩa của người khác, vì muốn làm sáng tỏ nghĩa của mình, cho đến nói rộng, nên soạn luận nầy.

Bốn quả Sa-môn: Từ quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán. Thế nào là quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Như Kinh Ba-già-la-na nói: Quả Tu-đà-hoàn có hai thứ: hữu vi và vô vi.

Thế nào là quả Tu-đà-hoàn hữu vi?

Đáp: Khi chứng quả Tu-đà-hoàn, là đã được, nay được, sẽ được các pháp học. Đã được là quá khứ, nay được là hiện tại, sẽ được là vị lai. Đó gọi là quả Tu-đà-hoàn hữu vi.

Thế nào là quả Tu-đà-hoàn vô vi?

Đáp: Khi chứng quả Tu-đà-hoàn thì các kiết đã dứt, đã được, nay đang được, sẽ được, nói rộng như trên.

Hỏi: Đạo hữu vi, là nơi vào tếh gian đã được, nay được, sẽ được, việc nầy có thể như thế. Còn dứt là vô vi không gắn vào đời, đã được, nay được, sẽ được, làm sao có thể như thế?

Đáp: Kinh Ba-già-la-na nên nói rằng: Các kiến đã dứt, nay được, nay hiểu, nay chứng.

Mà không nói là có ý gì?

Đáp: Thuyết nầy nói: Ở trong thân được. Đã được, nghĩa là nói thân quá khứ đã được. Nay được, nghĩa là nói thân hiện tại đang được. Sẽ được, nghĩa là nói thân vị lai sẽ được. Như quả Tu-đà-hoàn, quả Tưđà-hàm, quả A-na-hàm, nói cũng giống như thế.

Quả A-la-hán là thế nào?

Đáp: Quả A-la-hán có hai thứ: Hữu vi, vô vi.

Thế nào là quả A-la-hán hữu vi?

Đáp: Khi chứng quả A-la-hán, là đã được, nay được, sẽ được các pháp Vô học, nói rộng như trên.

Luận Thi Thiết nói: Thế nào là quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Quả Tu-đà-hoàn có hai hạng: hữu vi, vô vi.

Thế nào là quả Tu-đà-hoàn hữu vi?

Đáp: Được quả Tu-đà-hoàn, là quả đạt được nơi sự chứng đắc kia. Đắc nghĩa là chứng được quả Tu-đà-hoàn. Đắc đắc, nghĩa là được cái chứng đắc ấy. Vì được nên gọi là quả, vì được cái chứng đắc, nên gọi là thành tựu. Các học: căn Hữu học, lực học, giới học, căn thiện học, tám pháp.

Các pháp học như thế, v.v…, đó gọi là quả Tu-đà-hoàn hữu vi.

Thế nào là quả Tu-đà-hoàn vô vi?

Đáp: Dứt hẳn ba kiết. dứt các pháp kiết như thế v.v…, dứt trừ tám mươi tám sử, dứt các pháp sử như thế v.v… đó gọi là quả Tu-đà-hoàn vô vi.

Quả Tư-đà-hàm là thế nào?

Đáp: Quả Tư-đà-hàm có hai hạng, nghĩa là hữu vi, vô vi, nói rộng như trên.

Sự khác nhau ở đây: Dứt trừ dần ái, giận, si và dứt dần pháp thọ giận dữ.

Thế nào là quả A-na-hàm?

Đáp: A-na-hàm có hai hạng: Hữu vi, vô vi. Về quả A-na-hàm hữu vi, như trên đã nói. Quả A-na-hàm vô vi: Dứt hẳn năm kiết phần dưới, dứt hẳn pháp kiết như thế v.v… dứt hẳn chín mươi hai sử, dứt hẳn pháp sử như thế v.v… Đó gọi là quả A-na-hàm vô vi.

Quả A-la-hán là thế nào?

Đáp: Quả A-la-hán có hai loại: hữu vi và vô vi.

Quả A-la-hán hữu vi là sao?

Đáp: Sự chứng đắc quả A-la-hán và quả đạt được của sự chứng đắc kia. Được, nghĩa là chứng được quả A-la-hán. Đắc đắc, nghĩa là đạt được sự chứng đắc quả A-la-hán kia. Vì được nên gọi là quả. Vì được cái chứng đắc, nên gọi là thành tựu.

Các căn Vô học, lực Vô học, giới Vô học, căn thiện Vô học, mười thứ pháp. Các pháp Vô học như thế v.v…, đó gọi là quả A-la-hán hữu vi.

Thế nào là quả A-la-hán vô vi?

Đáp: Dứt hẳn tất cả phiền não như ái, mạn, si, vượt ngoài tất cả đường, dứt hẳn tất cả con đường sinh tử, dập tắt ba thứ lửa, đã vượt qua bốn dòng chảy (lưu), đập tan các mạn, lìa khát ái, phá tan hang ổ phiền não, rốt ráo vô thượng, vắng lặng vô thượng, an vui vô thượng. Dứt hết ái đạt Niết-bàn vô dục. Đó gọi là quả A-la-hán vô vi. Đây là thể tánh của quả Sa-môn, cho đến nói rộng.

Đã nói thể tánh của quả Sa-môn, về lý do nay sẽ nói:

Vì sao gọi là quả Sa-môn? Quả Sa-môn gọi là nghĩa gì?

Đáp: Thánh đạo, gọi là Sa-môn, quả Thánh kia gọi là quả Samôn:

Hỏi: Thánh đạo gọi là Sa-môn, quả kia là quả Sa-môn. Tám nhẫn trong kiến đạo, gọi là tám trí Sa-môn, là quả Sa-môn hữu vi. Tám thứ kiết đã dứt là quả Sa-môn vô vi. Khi lìa ái dục, chín đạo vô ngại, gọi là Sa-môn. Chín đạo giải thoát là quả Sa-môn hữu vi. Chín thứ kiết đã dứt, gọi là quả Sa-môn vô vi, cho đến lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ cũng giống như thế. Tức là có tám mươi chín quả Sa-môn hữu vi, tám mươi chín quả Sa-môn vô vi. Dùng đời để phân biệt, thì tám mươi chín ở quá khứ, tám mươi chín ở vị lai, tám mươi chín ở hiện tại.

Kinh Ba-già-la-na nói: Thế nào là pháp quả?

Đáp: Tất cả hữu vi và số diệt, hễ có bao nhiêu Thánh đạo, thì có ngần ấy Sát-na, quả Sa-môn hữu vi, hễ có bao nhiêu pháp giải thoát, thì có bấy nhiêu quả Sa-môn. Nếu dùng Sát-na ở thân để phân biệt, thì có vô lượng, vô biên quả Sa-môn. Vì sao kinh Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là Như lai nói lược chưa trọn vẹn, vì người được hóa độ mà nói như thế.

Tôn giả Ba-xa nói: Đức Phật biết rõ về pháp tướng cũng biết thế dụng, còn người khác thì không biết. Nếu pháp thứ lớp nối tiếp nhau để lập quả Sa-môn thì thứ lớp nối tiếp nhau, được gọi là quả Sa-môn.

Lại nữa, lúc nầy, rất dễ thấy, dễ nên bàng: Đây là quả Tu-đà-hoàn, cho đến quả A-la-hán. Khoảng giữa của quả không dễ thấy, không dễ lập bày.

Lại nữa, lúc nầy, hành giả đối với quả, cảm thấy rất hài lòng, vừa ý. Ví như nhà nông lo việc cày bừa, gieo cấy nơi ruộng nương trong sáu tháng, về sau, sẽ thu hoạch được lúa tốt, dự trữ đầy đủ cảm thấy rất hài lòng. Quả vị kia cũng giống như thế.

Lại nữa, lúc nầy, có ba việc:

  1. Được đạo không hề được.
  2. Bỏ đạo đã từng được.
  3. Dứt trừ phiền não, đồng một vị.

Lại nữa, lúc nầy có năm việc:

  1. Được đạo không hề được.
  2. Bỏ đạo đã từng được.
  3. Dứt trừ phiền não, đồng với một vị.
  4. Được ngay tám trí.
  5. Tu mười sáu hành.

Lại nữa, vào lúc nầy là chỗ dừng nghỉ.

Lại nữa, lúc dứt trừ kiết, các việc đều thành. Phương tiện của đạo phương tiện thành. Sự dứt trừ kiết của quả trung gian chưa thành, đạo phương tiện chưa thành.

Lại nữa, lúc nầy, dung nạp rộng tu đạo, còn quả trung gian không dung nạp rộng tu đạo.

Lại nữa, lúc nầy, hành giả khéo nhận biết rõ về công đức, lỗi lầm xấu ác. Biết công đức: Là đạo, quả đạo. Biết lỗi lầm xấu ác: Là pháp sinh tử.

Lại nữa, lúc nầy, hành giả khéo nhận lấy tướng mạo, như người lúc đi giữa đường, không thể khéo nhận lấy tướng mạo của bốn phương. Nếu ngồi một chỗ, thì có thể khéo nhận lấy tướng mạo của bốn phương. Nhận biết công đức, lỗi lầm kia cũng giống như thế.

Lại nữa, lúc nầy hành giả có tùy theo sự thấy biết, giống như có người đang ở giữa thôn xóm, bị người cướp giựt, không có ai đi theo để nhận thấy biết. Nếu ở ngay nơi thôn xóm, bị kẻ gian cướp giựt, sẽ có nhiều người đi theo, thấy, biết.

Lại nữa, lúc ấy hành giả trước rộng tu đạo phương tiện, đứng ở chỗ

bền chắc là quả Tu-đà-hoàn. Rộng tu đạo phương tiện, nghĩa là trước hết vì giải thoát, nên tu bố thí, trì giới, văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Pháp Thế đệ nhất, là chỗ rộng của mười lăm tâm trong kiến đạo. Quả Tư-đà-hàm rộng tu đạo phương tiện, đã nói như trên.

Các việc thiện, lại còn có đạo không hề có: là đạo phương tiện lìa cõi Dục, sáu đạo vô ngại, năm đạo giải thoát.

Quả A-na-hàm, rộng tu đạo phương tiện, như trên đã nói.

Các việc thiện, lại còn có việc không hề có: tức khi lìa ái dục với đạo phương tiện có ba đạo vô ngại, hai đạo giải thoát. Quả A-la-hán, rộng tu đạo phương tiện, như trên đã nói. Các việc thiện, lại còn có việc không hề có: Nghĩa là khi lìa dục của Sơ thiền, có đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, nói cũng giống như thế. Lúc lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ là đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát.

Lại nữa, lúc nầy, hành giả đã dứt trừ tất cả phần sinh, dừng lại tất cả phần sinh. Tu-đà-hoàn trừ bảy phần sinh cõi Dục, mỗi mỗi chỗ sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc đều trừ một phần sinh, tất cả phần sinh còn lại đều được phi số diệt. Tư-đà-hàm trừ hai phần sinh cõi Dục, mỗi chỗ sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều trừ một phần sinh, tất cả phần sinh còn lại, đều được phi số diệt.

Mỗi mỗi nơi sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc thuộc A-na-hàm đều trừ một phần sinh. Ngoài ra, tất cả phần sinh đều được phi số diệt.

Tất cả phần sinh của A-la-hán đều được phi số diệt.

Lại nữa, bấy giờ, hành giả đã chứng ngay kiến đạo, tu đạo, dứt trừ phiền não của ba cõi.

Tu-đà-hoàn chứng ngay kiến đạo, đã dứt trừ phiền não của ba cõi.

Tư-đà-hàm đã chứng ngay kiến đạo, đã dứt trừ phiền não của ba cõi và tu đạo đã dứt trừ sáu thứ phiền não của ba cõi Dục.

A-na-hàm đã chứng ngay kiến đạo, đã dứt trừ phiền não của ba cõi và tu đạo dứt chín thứ phiền não cõi.

A-la-hán đã chứng ngay kiến đạo, tu đạo, đã dứt trừ phiền não của ba cõi.

Lại nữa, quả Sa-môn cội gốc, thối chuyển, không qua đời. Quả trung gian lui sụt thì qua đời.

Lại nữa, vì đối với năm đường, nên nói bốn quả Sa-môn:

Quả Tu-đà-hoàn, đối với đường địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.

Quả Tư-đà-hàm, đối với phần ít cõi người.

Quả A-na-hàm, hoàn toàn đối với cõi người.

Quả A-la-hán đối với cõi trời.

Lại nữa, vì đối với bốn thứ sinh quả Tu-đà-hoàn đối với thấp sinh, Noãn sinh. Quả Tư-đà-hàm đối với phần ít thai sinh, quả A-na-hàm, hoàn toàn đối với thai sinh, quả A-la-hán đối với hóa sinh.

Lại nữa, vì đối với hai thứ tư duy:

  1. Tư duy dứt căn thiện.
  2. Tư duy gây ra nghiệp năm tôi nghịch.

Quả Tu-đà-hoàn đối với tư duy dứt căn thiện.

Quả Tư-đà-hàm đối với tư duy gây ra nghiệp năm nghịch.

Quả A-na-hàm đối với nghiệp báo của chúng sinh.

Quả A-la-hán đối với ấm thọ nhận báo của chúng sinh.

Vì sao? Vì thọ nhận báo thì phải dựa vào ấm.

Lại nữa, đối với ba pháp nên:

Quả Tu-đà-hoàn đối với ba kiết.

Quả Tư-đà-hàm đối với ba căn bất thiện mỏng dần và dục lậu.

Quả A-na-hàm hoàn toàn đối với ba căn bất thiện và dục lậu.

Quả A-la-hán đối với hữu lậu, vô minh lậu.

Lại nữa, đối với bốn lưu nên:

Quả Tu-đà-hoàn đối với kiến lưu.

Quả Tư-đà-hàm đối với phần ít của dục lưu.

Quả A-na-hàm rốt ráo đối với dục lưu.

Quả A-la-hán đối với hữu lưu, vô minh lưu.

Đối với ách cũng giống như thế.

Lại nữa, đối với bốn thủ nên:

Quả Tu-đà-hoàn đối với kiến thủ, thủ giới thủ, thủ.

Quả Tư-đà-hàm đối với phần ít của dục thủ.

Quả A-na-hàm hoàn toàn đối với dục thủ.

Quả A-la-hán đối với ngã ngữ thủ.

Lại nữa, đối với pháp ba lần năm pháp nên:

Quả Tu-đà-hoàn đối với ba kiết trong phần dưới của nghi cái.

Quả Tư-đà-hàm đối với phần ít hai kiết trong phần dưới của cái còn lại.

Quả A-na-hàm hoàn toàn đối với hai kiết trong phần dưới của cái còn lại.

Quả A-la-hán đối với kiết phần trên.

Lại nữa, đối với các kiến và thân sáu ái:

Quả Tu-đà-hoàn đối với năm kiến.

Quả Tư-đà-hàm đối với phần ít của xúc nơi mũi, lưỡi, sinh ái thân.

Quả A-na-hàm hoàn toàn đối với xúc của mũi, lưỡi, sinh ái thân.

Quả A-la-hán đối với ái thân còn lại.

Lại nữa, đối với bảy sử nên:

Quả Tu-đà-hoàn đối với sử kiến, sử nghi.

Quả Tư-đà-hàm đối với sử dục ái, phần ít sử giận dữ.

Quả A-na-hàm, hoàn toàn đối với sử dục ái, sử giận dữ.

Quả A-la-hán đối với sử còn lại.

Lại nữa, đối với chín kiết nên:

Quả Tu-đà-hoàn đối với kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi.

Quả Tư-đà-hàm đối với phần ít kiết giận dữ, kiết ganh tỵ, kiết keo kiệt.

Quả A-na-hàm, hoàn toàn đối với kiết giận dữ, kiết ganh tỵ, kiết keo kiệt.

Quả A-la-hán đối với kiết còn lại.

Lại nữa, vì đối với chín mươi tám sử nên:

Quả Tu-đà-hoàn đối với sử, do kiến đạo ba cõi dứt trừ.

Quả Tư-đà-hàm đối với phần ít sử, do tu đạo cõi Dục dứt trừ.

Quả A-na-hàm hoàn toàn đối với tu đạo cõi Dục dứt trừ.

Quả A-la-hán đối với sử, do tu đạo cõi Sắc, cõi Vô sắc dứt trừ.

Hỏi: Vì sao khi lìa ái cõi Dục, lập hai quả Sa-môn: Quả Tư-đàhàm và quả A-na-hàm, lúc lìa ái cõi Sắc, cõi Vô sắc, thì chỉ lập một quả Sa-môn, đó là quả A-la-hán?

Tôn giả Ba-xa nói: Vì đều do lìa ái của ba cõi, nên lập bốn quả Sa-môn, vì dứt trừ kiết, của kiến đạo ba cõi, nên lập quả Tu-đà-hoàn.

Vì dứt trừ kiết, kiến đạo ba cõi và sáu thứ kiết, của tu đạo cõi Dục, nên lập quả Tư-đà-hàm. Vì dứt trừ kiết, do kiến đạo ba cõi dứt trừ và chín thứ kiết, do tu đạo cõi Dục dứt trừ, nên lập quả A-na-hàm.

Vì dứt trừ kiết, kiến đạo, tu đạo ba cõi, nên lập quả A-la-hán.

Lại nữa, cõi Dục là cõi bất định, chẳng phải cõi tu, chẳng phải địa định, chẳng phải địa lìa dục, nên khi lìa dục cõi Dục, có lập hai quả Samôn. Cõi Sắc, cõi Vô sắc là địa tu, địa định, địa lìa dục, do đó khi lìa ái của các cõi đó chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, cõi Dục khó dứt trừ, khó hủy hoại, khó vượt qua, vì cho nên khi lìa dục cõi Dục, thì lập hai quả Sa-môn. Vì cõi Sắc, cõi Vô sắc trái với cõi Dục nầy, nên khi lìa ái của hai cõi kia, chỉ lập một quả Samôn.

Lại nữa, cõi Dục nặng về lỗi lầm tai hại, nên khi lìa dục cõi Dục, thì lập hai quả Sa-môn. Cõi Sắc, cõi Vô sắc trái với cõi Dục nầy, nên khi lìa ái cõi Sắc, cõi Vô sắc kia, chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, vì cõi Dục nầy là dòng nước chảy xiết khó vượt qua, nên khi lìa dục cõi Dục, thì lập hai quả Sa-môn. Giống như có người vào trong khe núi, sông lớn nước rộng sâu, chảy xiết dễ bị nước cuốn trôi, phải dừng nghỉ nhiều chặng, sau đó mới tìm chỗ cạn lội qua, cũng thế.

Cõi Dục là cõi của dòng chảy cuốn trôi. Như kinh nói: Chủ thôn nên biết! Dòng chảy cuốn trôi là năm dục thượng diệu. Khi lìa bỏ dục ấy, thì lập hai quả Sa-môn. Cõi Sắc, cõi Vô sắc trái với cõi Dục nầy, nên lìa dục của hai cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn!

Lại nữa, các phiền não cõi Dục đã gây ra nghiệp rất nặng, nên cũng phải xem trọng lìa dục cõi ấy, do vậy, phải lập hai quả Sa-môn. Vì như người gánh nặng lên dốc núi đầy gian nan nguy hiểm, phải thường dừng lại nghỉ ngơi, sau đó mới đến chỗ đất bằng. Mặc dù gánh nặng, nhưng vẫn có thể đến được chỗ xa. Cũng thế, các phiền não cõi Dục đã gây ra nghiệp rất nặng, nên cũng xem trọng khi lìa dục cõi Dục, do đó lập hai quả Sa-môn. Cõi Sắc, cõi Vô sắc trái với cõi Dục nầy, nên khi lìa dục cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, cõi Dục là cõi đầy dẫy bùn lầy, cấu uế. Nên khi lìa dục cõi ấy, lập hai quả Sa-môn. Cõi Sắc, cõi Vô sắc trái với cõi Dục nầy, nên khi lìa dục của hai cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn. Ví như cất nhà trên đống phân cấu uế, người ở không ưa. Cũng thế, cõi Sắc, cõi Vô sắc dù rất tốt đẹp, nhưng vì dưới có cõi Dục đầy dẫy bất tịnh, nên các Hiền, Thánh không ưa. Vì cho nên Tôn giả tăng-già-bà-tu nói rằng: Cõi Dục có nhiều lỗi lầm xấu ác, nghĩa là nơi cha, mẹ, anh, em, chị, em, vợ con chết mất, mất hết của cải vật dụng, phải chịu đủ các thứ đau khổ, với bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh: Nên khi lìa dục của xứ nầy, lập hai quả Samôn, cũng không có lỗi.

Lại nữa, do cõi Dục có thân nam, thân nữ, nên khi lìa dục cõi ấy, lập hai quả Sa-môn. Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, chỉ có thân nam, nên khi lìa dục của hai cõi đó, chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, ở cõi Dục có căn nam, căn nữ, nên khi lìa dục cõi ấy, lập hai quả Sa-môn. Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, không có căn nam, căn nữ, nên khi lìa dục của hai cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, cõi Dục có hai thứ phiền não, đó là bất thiện, vô ký nên khi lìa dục cõi đó, lập hai quả Sa-môn. Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc chỉ có một thứ phiền não, đó là vô ký, nên khi lìa dục của hai cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn. Như bất thiện, vô ký, sinh có báo, không báo, hai quả, một quả, tương ưng với không hổ, không thẹn, không tương ưng với không hổ, không thẹn, phải biết cũng giống như thế.

Lại nữa, do cõi Dục có những lỗi lầm của căn ưu, căn khổ, không hổ, không thẹn, ganh tỵ, keo kiệt, ăn uống, yêu, dâm dục, khát ái, các cái, năm dục như thế v.v…, nên khi lìa dục cõi đó, lập hai quả Sa-môn, Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc không có các lỗi như thế, nên khi lìa dục của hai cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn.

Hỏi: Sa-môn của Thánh đạo, vì là quả của bậc Thánh, nên gọi là quả Sa-môn. Nếu do đạo vô lậu, đạt được quả Sa-môn, thì có thể như vậy. Nếu do đạo thế tục mà được quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm thì sao có thể như thế?

Đáp: Như dùng đạo vô lậu để lìa ái dục, theo thứ lớp lập quả Tưđà-hàm, quả A-na-hàm. bậc Thánh dùng đạo thế tục để lìa ái dục, cũng theo thứ lớp lập ra quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm.

Tôn giả tăng-già-bà-tu nói: Dùng đạo thế tục để dứt trừ kiết là đạo vô lậu, tu hai quả Sa-môn ở vị lai, là quả của đạo vô lậu đó.

Không nên nói như thế. Vì sao? Vì đạo vị lai không thể có chỗ tạo tác.

Lại có thuyết nói: dùng đạo thế tục hiện tiền dứt trừ kiết là đạt được đạo vô lậu, sinh trong mọi lúc, không có dứt đứt hai quả Sa-môn, tức là quả kia. Không nên nói như thế. Vì sao? Vì chẳng phải quả kia.

Lại có thuyết nói: Định Kim cương dụ là Sa-môn thật nghĩa, vì chứng chung kiến đạo, tu đạo của ba cõi, đã dứt phiền não, đạt giải thoát, tức là quả Sa-môn kia.

Lời bình: Vì theo phần nhiều, nên gọi là quả Sa-môn. Quả của Thánh đạo nhiều, chứ chẳng phải quả của đạo hữu lậu nhiều. Nếu do đạo thế tục mà được quả Tư-đà-hàm, thì kiết, do kiến đạo ba cõi dứt, đã được dứt là quả Sa-môn. Sáu thứ kiết do tu đạo dứt, thuộc cõi Dục, đều là quả của đạo thế tục. Nếu dùng đạo thế tục để được quả A-na-hàm, thì kiết, do kiến đạo ba cõi dứt, đã được dứt là quả Sa-môn. Chín thứ kiết, do tu đạo cõi Dục dứt trừ, đã được dứt là quả của đạo thế tục.

Cho nên, phải biết, vì theo phần nhiều, nên gọi là quả Sa-môn.

Hỏi: Bốn quả Sa-môn, có bao nhiêu quả là giả danh? Bao nhiêu quả là thật nghĩa?

Đáp: Hai quả là giả danh: quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, hai quả là thật nghĩa: quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán.

Hỏi: Vì sao hai là giả danh, hai là thật nghĩa?

Đáp: Do hai quả nầy hoặc dùng đạo thế tục để đạt được, hoặc dùng đạo vô lậu để đạt được, quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán đều dùng đạo vô lậu đạt được.

Lại nữa, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm do đạo thế tục giả danh đạt được nên quả cũng là giả danh. Quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán không do đạo giả danh đạt được, nên gọi là thật nghĩa.

Lại nữa, vì đạo thế tục, đạo vô lậu được, nên gọi là giả danh.

Lại có thuyết nói: Hai quả là thật nghĩa: quả A-na-hàm, quả A-lahán. Vì sao? Vì Phật, Bích-chi Phật, Thanh văn, đều được hai quả nầy.

Hỏi: Vật ngoài, hoặc được quả nhiều, hoặc được quả ít. Pháp dứt thì không như thế. Vì sao nói là quả?

Đáp: Vì phương tiện, nên nói là quả. Hành giả ở trong phòng nhà, vắng lặng nơi núi cao, đối với các vật ăn uống, giúp cho sự sống, đều biết lường tính, thọ nhận pháp một, bảy, sáu, bảy, pháp Đảnh an thiền, trấn hành thiền, nhờ vào sức tinh tiến kiên cường, nên sinh ra pháp như thế. Bấy giờ Sư kia dùng lời nói an ủi sâu xa: Lành thay! Lành thay! Ông đã hành theo chánh phương tiện, nên nay được quả nầy.

Ví như nhà nông đã bỏ công sức, cày bừa gieo cấy nơi ruộng nương trong tháng sáu, về sau thu hoạch được lúa tốt, chứa để thâu giữ. Các nông phu cũ an ủi người mới: Lành thay! Lành thay! Ông đã siêng năng, khó nhọc suốt tháng sáu, nay mới được kết quả nầy. Quả kia cũng giống như thế.

Hỏi: Bốn quả Sa-môn nầy, bao nhiêu quả là quả thiền? Bao nhiêu quả là quả của định Vô sắc? Bao nhiêu quả là quả của thiền cội gốc? Bao nhiêu quả là quả của biện thiền? Bao nhiêu quả là quả của định Vô sắc cội gốc? Bao nhiêu quả là quả của biện định Vô sắc? Bao nhiêu quả là quả của kiến đạo? Bao nhiêu quả là quả của Tu đạo? Bao nhiêu quả là quả của Nhẫn? Bao nhiêu quả là quả của Trí? Bao nhiêu quả là quả của Pháp trí? Bao nhiêu quả là quả của Tỷ trí? Bao nhiêu quả là quả của phần pháp trí? Bao nhiêu quả là quả của phần tỷ trí? Bao nhiêu quả là quả của đạo hữu lậu? Bao nhiêu quả là quả của đạo vô lậu? Bao nhiêu quả là quả của thiền?

Đáp: Bốn quả là quả của thiền và quả quyến thuộc.

Bao nhiêu quả là quả của định Vô sắc?

Đáp: Một là quả của định Vô sắc, nghĩa là quả A-la-hán.

Bao nhiêu quả là quả của bên thiền cội gốc?

Đáp: Hai. Đó là quả A-na-hàm, quả A-la-hán.

Bao nhiêu quả là quả của thiền biên?

Đáp: Bốn: Nghĩa là Biên Sơ thiền, chẳng phải bên thiền khác.

Bao nhiêu quả là quả của định Vô sắc cội gốc?

Đáp: Một, đó là quả A-la-hán

Bao nhiêu quả là quả của bên định Vô sắc?

Đáp: Không có.

Bao nhiêu quả là quả của kiến đạo?

Đáp: Ba, trừ quả A-la-hán.

Bao nhiêu quả là quả của Tu đạo?

Đáp: Ba, trừ quả Tu-đà-hoàn.

Bao nhiêu quả là quả của Nhẫn?

Đáp: Ba, trừ quả A-la-hán.

Bao nhiêu quả là quả của Trí?

Đáp: Ba, trừ quả Tu-đà-hoàn.

Bao nhiêu quả là quả của Pháp trí?

Đáp: Ba, trừ quả Tu-đà-hoàn.

Bao nhiêu quả là quả của Tỷ trí?

Đáp: Một, đó là quả A-la-hán.

Bao nhiêu quả là quả của phần pháp trí?

Đáp: Ba, trừ quả Tu-đà-hoàn.

Bao nhiêu quả là quả của phần tỷ trí?

Đáp: Bốn.

Bao nhiêu quả là quả của đạo thế tục?

Đáp: Hai: Quả Tư-đà-hàm và quả A-na-hàm.

Bao nhiêu quả là quả của đạo vô lậu?

Đáp: Bốn.

Kinh Phật nói: Vua A-xà-thế, con của bà Vi Đề Hy ở nước Magià-đà, đi đến chỗ Phật, trán lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một phía, bạch Phật: Thế tôn vì con lập bày quả Sa-môn hiện pháp, có thể được chăng?

Phật đáp: Có thể được.

Phật bảo vua: Nay ta hỏi ông tùy ý của ông mà đáp. Ý ông nghĩ sao? Nếu kẻ hầu cận, của Đại vương và các tôi tớ là những kẻ không tự tại, thấy đại vương bước lên cung điện cao, với năm thứ nhạc tự vui chơi, thọ hưởng các thứ hoan lạc, bèn nghĩ: Ta cũng là người, nhưng Vua do tu phước đức nhiều, nên bước lên cung điện cao, năm thứ dục lạc tự vui chơi, thọ các khoái lạc. Chúng ta cũng nên tu các nghiệp phước. Tin hiểu nhà chẳng phải nhà, nên cạo râu tóc, bỏ nhà, xuất gia!

Thời gian sau, kẻ tôi tớ ấy xuất gia, tu hành mười điều thiện: Từ không sát sinh cho đến chánh kiến. Một người hầu khác của vua ở bên ngoài chứng kiến việc trên, hoặc đến tâu vua: Muôn tâu Đại vương! Kẻ tôi tớ, hầu cận đại vương, kẻ không tự tại, đã cạo bỏ râu tóc, xuất gia, học đạo, tu hành mười điều thiện. Nay đại vương nên đem hắn ta trở lại làm kẻ sai khiến của đại vương như trước. Vậy, đại vương có y như lời tâu ấy, đem tôi tớ trở lại để phục dịch, có y lời dẫn đến đó chăng?

Bạch không! Con nên đến đó để chứng kiến, gần, cung kính. Như người ấy, ngày trước đã lẽ kính, đón rước con. Nay con cũng phải lễ kính, đón rước, cung kính người ấy trở lại. Con phải trọn đời cung cấp cho người ấy các thứ vật dụng giúp ích cho cuộc sống như: Y phục, thức ăn uống, phòng nhà, giường nằm, các vật dụng can cho sự sống!

Đại vương nên biết, các việc như vậy, há chẳng phải quả Sa-môn hiện pháp đó sao?

Vua bạch Phật: Thật như lời bậc Thánh dạy bảo.

Hỏi: Quả Sa-môn có bốn. Nay vì sao nói năm quả Sa-môn?

Đáp: Đây là quả công dụng gần của người xuất gia. Như kinh Sư Tử Hống lại nói: Xứ nầy có Sa-môn thứ nhất, Sa-môn thứ hai, Sa-môn thứ ba, Sa-môn thứ tư, chẳng phải kẻ Không hành của Bà-la-môn, Samôn ngạo đạo khác. Các thầy cần tạo nên tiếng gầm của sư tử như thế.

Xứ nầy có Sa-môn đầu tiên, cho đến Sa-môn thứ tư:

Sa-môn đầu tiên là tu-đà-hoàn, Sa-môn thứ hai là Tư-đà-hàm, Samôn thứ ba là A-na-hàm, Sa-môn thứ tư là A-la-hán.

Tôn giả Ba-xa nói: Phật, Thế tôn trước kia đã nói pháp cội gốc theo thứ lớp: Sa-môn đầu tiên là A-la-hán, Sa-môn thứ hai là A-nahàm, Sa-môn thứ ba là Tư-đà-hàm và Sa-môn thứ tư là tu-đà-hoàn.

Kinh Tu-bạt-đà-la lại nói: Tu-bạt-đà-la nên biết! Nếu ở xứ nầy có tám Thánh đạo, thì có quả Sa-môn đầu tiên, cho đến quả Sa-môn thứ tư.

Hoặc có thuyết nói: Ở đây nói bốn hướng là Sa-môn:

Sa-môn đầu tiên là hướng chứng quả Tư-đà-hàm, Sa-môn thứ hai, là hướng chứng quả Tu-đà-hoàn. Sa-môn thứ ba là hướng chứng quả Ana-hàm, Sa-môn thứ tư là hướng chứng quả A-la-hán.

Tôn giả Ba-xa nói: Trong đây nói bốn hướng, bốn quả là Sa-môn. Như nói: Tu-bạt-đà-la nên biết! Nếu ở chỗ có tám Thánh đạo, thì phải biết, nói hướng, tức là có Sa-môn đầu tiên, cho đến Sa-môn thứ tư, phải biết là nói về quả.

Kinh Thuần-đà lại nói: Có bốn Sa-môn, không có Sa-môn thứ năm. Bốn Sa-môn là:

  1. Sa-môn Thắng đạo.
  2. Sa-môn thuyết đạo.
  3. Sa-môn đạo mạng.
  4. Sa-môn quá đạo.

Sa-môn thắng đạo: là Phật, Thế tôn. Vì sao? Vì Phật có trí Tự nhiên. Bích-chi Phật cũng vậy.

Sa-môn thuyết đạo: như Tôn giả Xá-lợi-phất v.v… Vì sao? Vì theo Phật chuyển pháp luân. Các Thanh văn Vô học khác cũng vậy.

Sa-môn đạo mạng: là như Tôn giả A-nan. Vì sao? Vì Tôn giả Anan là Hữu học, cũng giúp người khác trụ trong pháp Hữu học, học rộng, giữ giới đầy đủ. Các Thanh văn Hữu Học khác cũng vậy.

Sa-môn quá đạo: Như kẻ tên cướp Ma Ha La.

Hỏi: Sa-môn như kinh Sư Tử Hống nói, Sa-môn như kinh Tu-bạtđà-la nói, và Sa-môn như kinh Thuần-đà nói, có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Kinh Sư Tử Hống nói là Sa-môn trụ quả. Kinh Tu-bạt-đà-la nói là Sa-môn trụ hướng, Kinh Thuần-đà nói là Samôn ở hướng, trụ quả.

Lại có thuyết nói: Kinh Sư Tử Hống, kinh Tu-bạt-đà-la nói là Samôn trụ quả, kinh Thuần-đà nói là tất cả Sa-môn.

Lại có thuyết nói: Kinh Sư Tử Hống, kinh Tu-bạt-đà-la nói là Samôn bậc Thánh. Kinh Thuần-đà nói là Sa-môn phàm phu, bậc Thánh.

Lại có thuyết nói:: Kinh Sư Tử Hống, kinh Tu-bạt-đà-la nói là Samôn Hữu học, Vô học. Kinh Thuần-đà nói là Sa-môn Hữu Học, Vô học, phi học phi Vô học.

Lại có thuyết nói:: Kinh Sư Tử Hống, kinh Tu-bạt-đà-la nói là Samôn tịnh giới. Kinh Thuần-đà nói là Sa-môn giới tịnh và giới bất tịnh.

Lại có thuyết nói: Sa-môn như kinh Sư Tử Hống đã nói, thì kinh Tu-bạt-đà-la, kinh Thuần-đà nói cũng vậy. Như Sa-môn kinh Tu-bạtđà-la nói, kinh Sư Tử Hống, kinh Thuần-đà nói cũng vậy. Như Sa-môn mà kinh Thuần-đà đã nói, kinh Sư Tử Hống, kinh Tu-bạt-đà-la nói cũng vậy.

Hỏi: Nếu vậy thì thuyết nầy làm sao hiểu được? Như nói: Tạo nên tiếng gầm của sư tử như thế. Trong chúng nầy của ta có Sa-môn đầu tiên, cho đến Sa-môn thứ tư, Đức Thế tôn cũng nói người ác giới, phá các oai nghi, xa lìa pháp thiện mà là sư tử gầm sao?

Đáp: Cũng nói.vì sao? Vì người kia dù phá giới, nhưng không phá kiến, dù phá phương tiện, nhưng không phá tâm trông mong.

Nếu người khác hỏi về việc là tốt hay không tốt?

Đáp: không tốt.

Là việc Sa-môn nên làm hay không nên làm?

Đáp: không nên làm việc nầy.

Là có báo hay không có báo?

Đáp: Có báo.

Báo nầy, là có thể thọ nhận đường ác hay không?

Là thọ nhận trong đường ác hay thọ nhận trong cõi người, cõi trời?

Đáp: Là thọ nhận trong đường ác

Là thân mình thọ nhận, hay thân người thọ nhận?

Đáp: Là thân mình thọ nhận, chẳng phải thân người thọ nhận.

Vì là lỗi của thầy hay là lỗi của kinh?

Đáp: Chẳng phải là lỗi của thầy, cũng chẳng phải lỗi của kinh, mà là lỗi của chính mình. Chánh kiến như thế, là không ngu đối với nhân duyên, tức không có trong chín mươi sáu thứ đạo. Cho nên Đức Thế tôn đã gầm lên tiếng gầm của Sư tử ở trong chúng nầy.

Kinh Phật nói: Thế gian có ba người, được gọi là có nhiều kế hoạch nơi việc làm. Việc họ đã làm, không dễ gì có thể báo đáp. Nếu suốt đời đem y phục, thức uống, ăn, tùy bệnh cho thuốc, mà cúng dường thì cũng không thể đền đáp hết. Thế nào là ba? Như có người vì người khác nói pháp, khiến người kia tin hiểu nhà chẳng phải nhà, rồi bỏ nhà, xuất gia. Đó gọi là người đầu tiên, phần nhiều có việc làm, không dễ gì có thể báo đáp.

Kế, lại có người vì người khác giảng nói pháp, khiến người khác có thể biết pháp chứa nhóm đều là tướng Diệt, đối với các pháp xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Việc làm của người ấy không dễ gì có thể đền đáp, cho đến nói rộng.

Kế, lại có người vì người khác giảng nói pháp, có thể khiến cho người khác dứt hết hữu lậu, trở thành tâm vô lậu, được tuệ giải thoát, được tự thân giải thoát, tác chứng. Việc làm của người nầy không dễ gì có thể báo đáp, cho đến nói rộng.

Hỏi: Như dạy người khiến thọ giới Ưu-bà-tắc, người ấy cũng được gọi là người thường có việc làm không dễ gì báo đáp. Vì sao trong đây không nói?

Đáp: Nên nói mà không nói, phải biết là thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì giới xuất gia là nhân quả, nên giới xuất gia là nhân của giới Tỳ-kheo, là quả của giới Ưu-bà-tắc.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, gọi là chỉ dạy người khác vào pháp giả danh. Vào pháp có hai thứ:

  1. Vào pháp giả danh.
  2. Vào pháp thật nghĩa.

Vào pháp giả danh là Cạo bỏ râu tóc, xuất gia. Vào pháp thật nghĩa là trụ trong pháp Thế đệ nhất, nhập khổ pháp nhẫn.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, tức là chỉ dạy người khác thoát khỏi các khổ bị phục dịch bị sai khiến.v.v…

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, cứu giúp họ thoát ly các khổ hiện hữu và không bao lâu, cũng sẽ được xa lìa các khổ về sinh, già, bệnh, chết.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, tức là khiến cho người được hiện pháp lạc, chẳng bao lâu, họ cũng sẽ được vui tự tại.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, thì giả gọi là pháp xuất thế gian của Phật, chẳng bao lâu họ cũng sẽ đạt được thật nghĩa, là pháp xuất thế gian của Phật.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, chính là chỉ dẫn cho người khác về ba giới, ba thân, ba học, ba tu, ba tịnh, ba đạo, ba địa, ba căn, ba thứ Bồ-đề.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, tức được đạo giải thoát quyết định. Như nói: Nếu người nào có thể cạo bỏ râu tóc, xuất gia thì người đó chắc chắn thấy biết pháp bốn chân đế.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, tức là chỉ bảo người khiến cho thân họ ít việc. Thân ít việc thì có thể sinh tâm ít việc. Thân xa, tâm xa, thân tịnh, tâm tịnh, thân tốt đẹp, tâm tốt đẹp, thân đoan nghiêm, tâm đoan nghiêm cũng giống như thế.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, thì chính là chỉ dạy người cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa. Cạo bỏ râu tóc thì có thể sinh ra tịch tĩnh, mặc áo cà sa thì lìa bỏ điều ác.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, thì khiến cho người được nghiệp vô tận, của cải vô tận, nghiệp không có lỗi, của cải không có lỗi.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, sẽ khiến cho họ suốt đời giữ giới, tịnh tu phạm hạnh như Thương-khư, Chư-lợi.

Thương-khư, Chư-lợi là nghĩa gì? Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Có hai vị tiên:

  1. Tên Thương-khư.
  2. Tên Chư-lợi.

Đều tịnh tu phạm hạnh, đầy đủ oai nghi, người tại gia không thể thực hành. Như vẽ trên ngọc kha, gió thổi, trời nắng gay gắt không thể làm cho tiêu mòn. Người tại gia tu hành phạm hạnh, không thể như thế, như nét vẽ trên vỏ sò đều hiện rõ.

Người tại gia tu hành phạm hạnh không thể như thế. Như A-nahàm, giống như có vợ con, nuôi vật thuộc số chúng sinh, số phi chúng sinh, phàm phu, bậc Thánh không khác nhau.

Lại nữa, nếu chỉ dạy người xuất gia, tức là chỉ cho người biết việc của Đế-thích, Chuyển luân Thánh vương, vua Diêm-la đã mong muốn.

Hỏi: Vì sao chỉ dạy người xuất gia, dẫn đến hai quả, nhưng chỉ nói là quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán?

Đáp: Đã nói ở trong nghĩa nầy. Vì sao? Vì xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, ba quả có thể như thế. Người bị ràng buộc đủ, người lìa dục dần, người lìa dục hẳn, được chánh quyết định, đều gọi là xa trần, lìa cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.

Lại nữa, vì hiện bày chỗ bắt đầu và sau cùng: Bắt đầu là quả Tuđà-hoàn, sau cùng là quả A-la-hán. Như bắt đầu, sau cùng, mới nhập, đã độ, phương tiện rốt ráo, nói cũng giống như thế.

Lại nữa, hai quả nầy hoàn toàn là do đạo vô lậu đạt được, chẳng phải đạo hữu lậu. Hai quả do đạo hữu lậu, vô lậu đạt được. Như đạo hữu lậu, vô lậu, đạo giải thoát, đạo ràng buộc cũng giống như thế.

Lại nữa, hai quả nầy đều vượt qua người cõi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, được quả Tu-đà-hoàn. Vượt qua kiết, do kiến đạo nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ dứt trừ, mới được quả A-la-hán vượt qua kiết, do tu đạo nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ dứt trừ, mới được.

Lại nữa, từ môn hiện có hiện tóm lược nầy nên có quả Sa-môn, hoặc do kiến đạo mà được, hoặc do tu đạo mà được. Nếu nói về quả Tuđà-hoàn, phải biết là đã nói kiến đạo được. Nếu nói về quả A-la-hán, nên biết là đã nói tu đạo được. Như kiến đạo, tu đạo, kiến địa, địa tu, vị tri dục tri căn, tri căn, nói cũng giống như thế.

Lại nữa, có quả Sa-môn, hoặc nhân nơi kiến đạo đã dứt hết kiết mà lập, hoặc nhân tu đạo đã dứt hết kiết mà lập. Như chỗ dứt kiến đạo duyên với phiền não không thực có, duyên với phiền não thực có. Nhẫn đối trị phiền não, trí đối trị phiền não cũng giống như thế.

Lại nữa, đã nói trong nghĩa nầy. Vì sao? Vì tất được, nên nếu được quả Tu-đà-hoàn, tất được quả Tư-đà-hàm. Nếu được quả A-la-hán, thì là do quả A-na-hàm.

Tu-đà-hoàn thành tựu các pháp Hữu học. Pháp đó thuộc về quả Tu-đà-hoàn?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước đã nói về quả Sa-môn vô vi. Nay vì muốn nói về quả Sa-môn hữu vi, vô vi, nên soạn luận nầy.

Tu-đà-hoàn đã thành tựu các pháp Hữu học, pháp đó có thuộc về quả Tu-đà-hoàn hay không?

Đáp: Có khi thuộc có khi không thuộc.

Thế nào là thuộc?

Đáp: Quả Tu-đà-hoàn hữu vi được rồi không mất. Được nghĩa là Tín giải thoát được các căn của Tín giải thoát. Kiến đáo được các căn của Kiến đáo. Không mất nghĩa là Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, không mất các căn của Tín giải thoát.

Thế nào là không thuộc?

Tu-đà-hoàn tiến tới trước, được các căn vô lậu thù thắng vô diệu. Tiến tới trước, nghĩa là đạo phương tiện, sáu đạo vô ngại, năm đạo giải thoát.

Đạo tiến tới trước như thế v.v… đã có pháp Hữu học, thành tựu Tuđà-hoàn, pháp đó chẳng thuộc về quả Tu-đà-hoàn. Vì sao? Vì đạo tiến tới trước chẳng thuộc về quả.

Nếu pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp ấy là học chăng?

Đáp: Hoặc là học, hoặc là phi học phi Vô học.

Thế nào là học?

Đáp: Là quả Tu-đà-hoàn hữu vi, nghĩa là Đạo tỷ trí và quyến thuộc.

Thế nào là Phi học phi Vô học?

Là quả Tu-đà-hoàn vô vi. Nghĩa là dứt kiết, do kiến đạo ba cõi dứt trừ.

Tư-đà-hàm thành tựu các pháp Hữu học, pháp ấy thuộc về quả Tư-đà-hàm chăng?

Đáp: Có khi thuộc về, có khi không thuộc về.

Thuộc về là sao?

Đáp: Là quả Tư-đà-hàm hữu vi đã, được rồi không mất. Được nghĩa là Tín giải thoát được các căn của Tín giải thoát, Kiến đáo được các căn của Kiến đáo. Không mất nghĩa là Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, nên không mất các căn của Tín giải thoát.

Không thuộc về quả Tư-đà-hàm là sao? Tiến tới trước, đã được các căn vô lậu vi diệu thù thắng. Tiến tới trước, nghĩa là đạo phương tiện, ba đạo vô ngại, hai đạo giải thoát.

Pháp Hữu học, hiện có của đạo tiến tới trước như thế v.v… đã thành tựu Tư-đà-hàm. Pháp đó chẳng thuộc về quả Tư-đà-hàm. Vì sao?

Vì đạo tiến tới trước không thuộc về quả.

Nếu pháp thuộc về quả Tư-đà-hàm, thì pháp đó là Hữu học?

Đáp: Có khi là học, có khi là Phi học phi Vô học.

Học nghĩa là quả Tư-đà-hàm hữu vi.

Hoặc là đạo tỷ trí và quyến thuộc. Hoặc là đạo giải thoát thứ sáu và quyến thuộc.

Thế nào là Phi học Phi Vô học?

Đáp: Là quả Tư-đà-hàm vô vi. Nghĩa là kiết, do kiến đạo ba cõi dứt trừ và sáu thứ kiết, do tu đạo cõi Dục dứt trừ.

A-na-hàm thành tựu các pháp Hữu học, pháp đó thuộc về quả Ana-hàm chăng?

Đáp: Có khi thuộc về, có khi không thuộc về.

Thế nào là thuộc về?

Đáp: Là quả A-na-hàm hữu vi được rồi không mất. Được nghĩa là Tín giải thoát được các căn của Tín giải thoát. Kiến đáo, được các căn của Kiến đáo. Không mất, nghĩa là Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, không mất các căn của Tín giải thoát.

Thế nào là không thuộc về?

A-na-hàm tiến tới trước, được các căn vô lậu, mầu nhiệm, thù thắng. Tiến tới trước, nghĩa là đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, lìa dục của Sơ thiền, cho đến tám đạo giải thoát, chín đạo vô ngại, đạo phương tiện lìa ái của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Tất cả Pháp Hữu học được đạo tiến tới trước như thế v.v…, A-nahàm thành tựu. Pháp đó chẳng thuộc về quả A-na-hàm. Vì sao? Vì đạo tiến tới trước chẳng thuộc về quả A-na-hàm.

Nếu pháp thuộc về quả A-na-hàm, pháp đó là Hữu học chăng?

Đáp: Có khi là học, có khi là Phi học phi Vô học.

Thế nào là Hữu học?

Đáp: Là quả A-na-hàm hữu vi, hoặc là Đạo tỷ trí và quyến thuộc.

Hoặc là giải thoát thứ chín và quyến thuộc.

Thế nào là Phi học phi Vô học?

Đáp: Là quả A-na-hàm vô vi, là kiết, do kiến đạo ba cõi dứt trừ và chín thứ kiết, do tu đạo cõi Dục dứt trừ.

A-la-hán thành tựu các pháp Vô học, pháp đó là thuộc về quả Ala-hán phải chăng?

Đáp: Đúng vậy. Vì sao? Vì tất cả đạo phương tiện, của A-la-hán,

đạo vô ngại, đạo giải thoát, đạo tiến tới, đều thuộc về quả A-la-hán.

Nếu pháp thuộc về quả A-la-hán, thì pháp ấy là Vô học chăng?

Đáp: Có khi là Vô học, có khi là phi học phi Vô học.

Vô học là thế nào?

Đáp: Là quả A-la-hán hữu vi, tận trí, vô sinh trí, Vô học đẳng kiến và quyến thuộc.

Thế nào là Phi học phi Vô học?

Đáp: Là quả A-la-hán vô vi, kiết, do kiến đạo, tu đạo của ba cõi, dứt trừ.

Tu-đà-hoàn đã thành tựu các pháp vô lậu, pháp đó thuộc về quả Tu-đà-hoàn chăng?

Đáp: Có khi thuộc về có khi không thuộc.

Thế nào là thuộc?

Đáp: Là quả Tu-đà-hoàn được rồi thì không mất. Được là Tín giải thoát được quả Tu-đà-hoàn nơi tánh của Tín giải thoát. Kiến đạo được quả Tu-đà-hoàn của tánh Kiến đáo. Kiết, do kiến đạo ba cõi dứt trừ. Không mất, nghĩa là Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, là quả Tu-đà-hoàn không mất tánh của Tín giải thoát.

Không thuộc là sao? Sự tiến tới trước của quả Tu-đà-hoàn được các căn vô lậu vi diệu thù thắng, do đạo phương tiện, sáu đạo vô ngại, năm đạo giải thoát. Đạo tiến tới như thế v.v… và dứt dần kiết, được tác chứng. Nghĩa là năm thứ kiết, do tu đạo cõi Dục, dứt trừ. Như đạo tiến tới trước chẳng thuộc về quả, dứt kia cũng thế.

Tu-đà-hoàn đã thành tựu phi số diệt. Diệt nầy chẳng phải quả Tuđà-hoàn. Vì sao? Vì phi số diệt là vô ký, mà quả Tu-đà-hoàn là thiện.

Nếu pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, thì pháp đó là vô lậu chăng?

Đáp: Đúng thế! Vì sao? Vì quả Tu-đà-hoàn hữu vi, quả Tu-đàhoàn vô vi đều là vô lậu.

Tư-đà-hàm đã thành tựu các pháp vô lậu, pháp đó thuộc về quả Tư-đà-hàm chăng?

Đáp: Có khi thuộc về, có khi không thuộc về.

Thế nào là thuộc về?

Đáp: Là quả Tư-đà-hàm được rồi không mất. Được, nghĩa là tánh của Tín giải thoát được quả Tư-đà-hàm của Tín giải thoát. Kiến đáo được quả Tư-đà-hàm của tánh Kiến đáo. Kiết do kiến đạo ba cõi, đã dứt trừ và sáu thứ kiết, do tu đạo cõi Dục, dứt trừ. Không mất, nghĩa là Tín giải thoát không chuyển căn tạo ra Kiến đáo, là quả Tư-đà-hàm không mất tánh của Tín giải thoát.

Thế nào là không thuộc về? Sự tiến tới trước của quả Tư-đà-hàm được các căn vô lậu mầu nhiệm thù thắng do đạo phương tiện, ba đạo vô ngại, hai đạo giải thoát. Đạo như thế v.v… và dứt dần kiết, được tác chứng. Nghĩa là hai thứ kiết, do tu đạo cõi Dục, dứt trừ. Như đạo tiến tới trước chẳng phải thuộc về quả Tư-đà-hàm, Đoạn cũng giống như thế.

Quả Tư-đà-hàm đã thành tựu phi số diệt. Diệt nầy chẳng phải quả Tư-đà-hàm. Vì sao? Vì phi số diệt là vô ký, còn quả Tư-đà-hàm là thiện.

Nếu pháp thuộc về quả Tư-đà-hàm, thì pháp đó là vô lậu phải chăng?

Đáp: đúng thế! Vì sao? Vì quả Tư-đà-hàm hữu vi, quả Tư-đà-hàm vô vi, đều là vô lậu.

A-na-hàm thành tựu các pháp vô lậu, pháp ấy có thuộc về quả Ana-hàm chăng?

Đáp: Có khi thuộc về, có khi không thuộc về.

Thế nào là thuộc về?

Đáp: là quả A-na-hàm đã được không mất. Được, nghĩa là Tín giải thoát được quả A-na-hàm nơi tánh của Tín giải thoát. Kiến đáo được quả A-na-hàm, của tánh Kiến đáo. Kiết, do kiến đạo ba cõi đã dứt và chín thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đã dứt. Không mất, nghĩa là Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo. Quả A-na-hàm không mất tánh của Tín giải thoát.

Thế nào là không thuộc về?

Đáp: Sự tiến tới trước của A-na-hàm đã được các căn vô lậu mầu nhiệm thù thắng do chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát, đạo phương tiện lìa ái của Sơ thiền như vậy cho đến tám đạo giải thoát, chín đạo vô ngại, đạo phương tiện lìa ái của phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Đạo như thế v.v… và dứt dần kiết, được tác chứng. Nghĩa là lìa ái của bảy địa và tám thứ ái của phi tưởng, Phi phi tưởng. Như đạo tiến tới trước, chẳng thuộc về quả. dứt kia cũng vậy.

A-na-hàm đã thành tựu phi số diệt, nói rộng như trên.

Nếu pháp thuộc về quả A-na-hàm, pháp đó là vô lậu chăng?

Đáp: Đúng thế, nói rộng như trên.

A-la-hán thành tựu các pháp vô lậu, pháp đó thuộc về quả A-lahán hay chăng?

Đáp: Có khi thuộc về, có khi không thuộc về.

Thuộc về là sao?

Đáp: Quả A-la-hán đã được không mất. Được nghĩa là thời giải thoát được tánh của thời giải thoát. Phi thời giải thoát được tánh của phi thời giải thoát. Kiết, do kiến đạo, tu đạo của ba cõi dứt trừ. Không mất, nghĩa là thời giải thoát, không chuyển căn, tạo ra phi thời giải thoát.

Quả A-la-hán không mất tánh của thời giải thoát.

Không thuộc về là sao?

Đáp: A-la-hán đã thành tựu phi số diệt, đối với pháp như thế, được phi số diệt. Nghĩa là hữu lậu trói buộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, và pháp vô lậu phi số diệt. Diệt nầy chẳng phải quả A-la-hán. Vì sao? Vì phi số diệt là vô ký còn quả A-la-hán là thiện.

Nếu pháp thuộc về quả A-la-hán, pháp đó là vô lậu chăng?

Đáp: Đúng vậy. Vì sao? Vì quả A-la-hán hữu vi, quả A-la-hán vô vi đều là vô lậu.

Tu-đà-hoàn đã thành tựu các pháp, pháp ấy thuộc về quả Tu-đàhoàn chăng?

Trong đây, hỏi về pháp chuyển tăng. Trước hỏi về học, kế, hỏi về Vô học, nay hỏi không nhất định: Tu-đà-hoàn đã thành tựu các pháp, pháp ấy thuộc về quả Tu-đà-hoàn chăng?

Đáp: Hoặc các pháp đã thành tựu quả Tu-đà-hoàn, pháp đó không thuộc về quả Tu-đà-hoàn.

Thế nào là pháp đã thành tựu Tu-đà-hoàn, pháp ấy không thuộc về quả Tu-đà-hoàn.

Đáp: Tu-đà-hoàn tiến tới trước, đã được các căn vô lậu vi diệu thù thắng và dứt dần kiết, được tác chứng. Tu-đà-hoàn đã thành tựu phi số diệt, cũng thành tựu các pháp hữu lậu. Nghĩa là các pháp thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn một. Thiện là số phương tiện thiện, sinh đắc thiện. Nhiễm ô, nghĩa là nhiễm ô, do tu đạo nơi ba cõi dứt trừ. Vô ký không ẩn một là báo oai nghi, công xảo.

Các pháp như thế v.v… Tu-đà-hoàn thành tựu, không thuộc về quả Tu-đà-hoàn.

Thế nào là pháp thuộc về quả Tu-đà-hoàn, pháp đó chẳng phải Tu-đà-hoàn đã thành tựu?

Đáp: Không được quả Tu-đà-hoàn, được rồi liền mất, không được, nghĩa là Tín giải thoát không được quả Tu-đà-hoàn nơi tánh của Kiến đáo. Kiến đáo không được quả Tu-đà-hoàn nơi tánh của Tín giải thoát. Được rồi liền mất, nghĩa là Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, tức là quả Tu-đà-hoàn mất tánh của Tín giải thoát.

Thế nào là pháp thành tựu Tu-đà-hoàn, pháp ấy cũng thuộc về quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Là được quả Tu-đà-hoàn, không mất, nói rộng như trên.

Thế nào là pháp Tu-đà-hoàn không thành tựu, pháp ấy không thuộc về quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Dứt trừ từng ấy việc trên.

Nếu pháp đã được gọi tên, đã nói đến, nghĩa là đã tạo ra các câu thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Chưa gọi là chưa nói, nghĩa là tạo ra câu thứ tư. Pháp đo là gì?

Đáp: Có ba thứ: Thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn một. Thiện có hai thứ: Vô lậu, hữu lậu.

Vô lậu nghĩa là tất cả đạo vô lậu trên, dưới.

Hữu lậu, nghĩa là phương tiện thiện, lìa dục thiện và sinh sắc thiện, hoặc vốn không được, hoặc được rồi mất.

Nhiễm ô: Sự nhiễm ô, do kiến đạo ba cõi, tu đạo cõi Dục dứt trừ.

Tu-đà-hoàn đã dứt: Vô ký không ẩn một, nghĩa là báo oai nghi, công xảo. Pháp Tu-đà-hoàn đã không thành tựu: tất cả tâm biến hóa.

Các pháp như thế v.v… vì đã tạo ra câu thứ tư, nên nói là dứt trừ từng ấy việc trên.

Như Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm cũng giống như thế.

A-na-hàm đã thành tựu các pháp, các pháp đó có thuộc về quả Ana-hàm chăng? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Thế nào là pháp thành tựu A-na-hàm, pháp đó chẳng thuộc về quả A-na-hàm?

Đáp: A-na-hàm tiến tới trước, được các căn vô lậu, mầu nhiệm, thù thắng và đã dứt trừ kiết, được tác chứng. A-na-hàm đã thành tựu phi số diệt, nói rộng như trên.

A-na-hàm đã thành tựu các pháp hữu lậu khác, pháp đó là gì?’ Đáp: Pháp đó có ba thứ: Thiện, nhiễm ô, không ẩn một. vô ký. Thiện, là phương tiện thiện, sinh đắc thiện, lìa dục thiện. Nhiễm ô, nghĩa là sự nhiễm ô, do tu đạo, thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc dứt trừ. Vô ký không ẩn một, nghĩa là báo của oai nghi, công xảo, tâm biến hóa.

Như A-na-hàm đã thành tựu. Thế nào là pháp thuộc về quả A-nahàm, pháp đó chẳng thành tựu A-na-hàm?

Đáp: Không được quả A-na-hàm, được rồi mà mất. Không được, nghĩa là Tín giải thoát không được quả A-na-hàm nơi tánh của Kiến đáo. Kiến đáo không được A-na-hàm nơi tánh của Tín giải thoát. Được rồi mất: Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, quả A-na-hàm mất tánh của Tín giải thoát.

Thế nào là pháp thành tựu A-na-hàm, pháp đó thuộc về quả Ana-hàm?

Đáp: Là được quả A-na-hàm không mất. Được, nghĩa là Tín giải thoát được quả A-na-hàm nơi tánh của Tín giải thoát. Kiến đáo được quả A-na-hàm của tánh Kiến đáo. Kiết, do kiến đạo ba cõi đã dứt. Chín thứ kiết, do tu đạo cõi Dục dứt trừ. Không mất là Tín giải thoát không chuyển căn tạo ra Kiến đáo, là quả A-na-hàm không mất tánh của Tín giải thoát.

Thế nào là pháp chẳng phải A-na-hàm thành tựu? Pháp ấy cũng chẳng thuộc về quả A-na-hàm?

Đáp: Trừ từng ấy việc trên.

Nếu pháp đã được gọi tên đã nói đến, nghĩa là tạo ra các trường hợp thứ nhất, thứ hai, thứ ba, chưa gọi chưa nói, nghĩa là tạo ra trường hợp thứ tư, pháp đó là gì?

Đáp: Pháp đó có ba thứ: Thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn một. Thiện: Vô lậu, hữu lậu. Vô lậu là Đạo vô lậu của cõi thượng cõi hạ. Hữu lậu là phương tiện thiện, sinh đắc thiện, lìa dục thiện, hoặc vốn không được hoặc được rồi mất. Nhiễm ô là sự nhiễm ô, mà kiến đạo ba cõi dứt trừ, là sự nhiễm ô, do tu đạo dứt cõi Dục dứt trừ. Vô ký không ẩn một là báo của oai nghi, công xảo, tâm biến hóa. Vốn không được, được rồi liền mất. Các pháp như thế v.v… tạo ra trường hợp thứ tư, nên nói là trừ ngần ấy việc trên.

A-la-hán thành tựu các pháp, pháp đó thuộc về quả A-la-hán chăng? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Thế nào là pháp do A-la-hán thành tựu. Pháp ấy chẳng thuộc về quả A-la-hán?

Đáp: A-la-hán đã thành tựu phi số diệt, nghĩa là thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn một. A-la-hán đối với pháp nầy được phi số diệt, A-la-hán đã thành tựu pháp hữu lậu. Pháp nầy có hai thứ: thiện và vô ký không ẩn một. Thiện là phương tiện thiện, sinh đắc thiện, lìa dục thiện. Vô ký không ẩn một là báo của oai nghi, công xảo, tâm biến hóa nơi A-la-hán đã thành tựu.

Thế nào là pháp thuộc về quả A-la-hán? Pháp ấy chẳng phải Ala-hán thành tựu?

Đáp: A-la-hán vốn không được, được rồi liền mất. Không được: nghĩa là Thời giải thoát không được quả A-la-hán nơi tánh của phi thời giải thoát. Phi thời giải thoát không được quả A-la-hán của tánh giải thoát. Được rồi liền mất: Thời giải thoát chuyển căn tạo ra Bất thời giải thoát, quả A-la-hán mất đi tánh của Thời giải thoát.

Thế nào là pháp A-la-hán thành tựu, pháp đó thuộc về quả A-lahán?

Đáp: Quả A-la-hán được rồi không mất. Được là Thời giải thoát được quả A-la-hán nơi tánh của Thời giải thoát. Bất thời giải thoát được quả A-la-hán nơi tánh của Bất thời giải thoát. Kiết, do kiến đạo, tu đạo dứt ba cõi dứt trừ. Không mất là A-la-hán của Thời giải thoát không chuyển căn, tạo ra Bất thời giải thoát, quả A-la-hán không mất tánh của Thời giải thoát.

Thế nào là pháp không thành tựu A-la-hán? Pháp đó chẳng thuộc về quả A-la-hán?

Đáp: Trừ ngần ấy việc trên.

Nếu pháp đã xưng, danh đã nói: Tạo ra các trường hợp thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Chưa xưng, chưa nói: tạo ra trường hợp thứ tư, pháp đó là gì?

Đáp: Pháp đó có ba thứ: Thiện, nhiễm ô và vô ký không ẩn một. Thiện là Phương tiện thiện, lìa dục thiện, sinh đắc thiện. A-la-hán vốn không được, được rồi liền mất. Nhiễm ô: Sự nhiễm ô, do kiến đạo, tu đạo nơi ba cõi dứt trừ. Vô ký không ẩn một: Báo của oai nghi, công xảo, tâm biến hóa.

A-la-hán vốn không được, được rồi bèn mất: Các pháp như thế v.v…, vì tạo ra trường hợp thứ tư, nên nói là trừ ngần ấy việc trên.

Hỏi: Tín giải thoát có chuyển căn, tạo ra Kiến đáo hay không? Nếu chuyển biến, thì trong Kiền-độ Căn vì sao không nói? Như nói: Nếu bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu thì phải chăng căn đó đều từ quả đến quả?

Đáp: Nếu từ quả đến quả, thì đều bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu.

Có khi nào bỏ căn vô lậu, được căn vô lậu, mà chẳng phải từ quả đến quả chăng?

Đáp: Có được đạo chánh quyết định, lúc Tỷ trí hiện tiền, A-la-hán Thời giải thoát chuyển căn, tạo ra pháp bất động.

Tôn giả kia đâu có nhọc mệt gì mà không nói Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo? Nếu Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo thì văn nầy đã nói, làm sao hiểu được? Như nói: nếu không được quả Tu-đà-hoàn, được rồi liền mất. Nếu Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, thì sao lại nói được rồi lại mất? Theo thuyết của Kiền-độ Trí nói làm sao hiểu được , như nói: Tu-đà-hoàn đối với ba tam-muội nầy, vị lai đều sẽ thành tựu, quá khứ đã diệt không mất, hiện tại, hoặc hiện ở trước, hoặc Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, thì đã diệt tam-muội rồi, làm sao mất? Với Luận Thức Thân nói, làm sao hiểu được ? Như nói: Tâm Vô học quá khứ được tạo ra ba trường hợp gọi là đã biết, không gọi là nay biết, không gọi là sẽ biết. Trong đây, thành tựu đã biết về tên gọi là nói là A-la-hán thời giải thoát, thối chuyển tạo ra Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, lại được quả A-la-hán. Nay không thành tựu, không sẽ thành tựu đạo Thời giải thoát?

Đáp: Nên nói rằng: Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo.

Hỏi: Nếu vậy thì thuyết sau nói khéo hiểu nhưng vì sao trong Kiền-độ Căn không nói?

Đáp: Đoạn văn kia nên nói như vầy: Được chánh quyết định, đạo tỷ trí hiện ở trước, Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, Thời giải thoát chuyển căn tạo ra bất động.

Lẽ ra phải nói như thế, mà không nói là có ý gì?

Đáp: Vì biểu hiện cho chỗ bắt đầu và sau cùng. Bắt đầu là Đạo tỷ trí, sau cùng là Thời giải thoát chuyển căn tạo ra pháp bất động. Như bắt đầu sau cùng, đầu tiên nhập đã độ phương tiện, rốt ráo cũng giống như thế.

Tôn giả tăng-già-bà-tu nói: Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, đến khi được quả Tư-đà-hàm, cũng gọi là đắc quả, cũng gọi là chuyển căn. Lúc được quả A-na-hàm, vừa gọi là đắc quả, vừa gọi là chuyển căn.

Hỏi Nếu vậy, thì khi được quả Tu-đà-hoàn, sao không gọi là chuyển căn? Lúc được quả A-la-hán, sao không gọi là chuyển căn?

Đáp: Vì ra khỏi cõi Dục thì là pháp cũ, không có chúng sinh, không từng không ra ngoài cõi Dục. Cho nên, khi lìa dục cõi Dục kia, được hai quả Sa-môn, vừa gọi là đắc quả, vừa gọi là chuyển căn. Ra khỏi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, chẳng phải thường pháp cũ, không có chúng sinh từng qua khỏi. Cho nên, khi lìa dục cõi Dục, được hai quả Sa-môn, chỉ gọi là đắc quả, không gọi là chuyển căn.

Hỏi: Như ông đã nói: Khi được quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, vừa gọi là đắc quả, vừa gọi là chuyển căn, việc nầy có thể như thế. Thối lui pháp, chuyển căn, tạo ra pháp ghi nhớ, cho đến cùng trụ chuyển căn, tạo ra khả năng tiến tới, vì sao trong đây không nói? Người kia đã tạo ra lời đáp: Đã nói trong nghĩa nầy. Vì sao biết? Vì thối lui pháp, khi chuyển căn, tạo ra pháp ghi nhớ, sẽ được căn khi pháp ghi nhớ, không xả căn của thối pháp, cho đến cùng trụ chuyển căn, lúc tạo ra năng lực tiến tới, sẽ được căn có thể tiến tới, không xả bốn thứ căn, tiến tới chuyển căn, lúc tạo ra pháp bất động, được căn bất động không xả năm thứ căn.

Người kia không nên nói rằng! Vì sao? Vì không có một người mà thành tựu hai căn, huống chi là nhiều người?

Lại có thuyết nói: Tín giải thoát bất chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, cho nên trong Kiền-độ Căn không nói.

Hỏi: Nếu vậy theo thuyết của Kiền-độ Trí nói làm sao hiểu được?

Đáp: Văn kia nên nói rằng: Ba tam-muội của Tu-đà-hoàn ở vị lai sẽ đều thành tựu, hiện tại, hoặc hiện ở trước, quá khứ đã diệt, chẳng nên nói là không mất.

Lẽ ra phải nói mà không nói, là có ý gì?

Đáp: Do người tụng nhầm lẫn.

Hỏi: Văn nầy nói làm sao hiểu được?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thành tựu quá khứ, vị lai đạt được.

Hoặc có thuyết nói: Không thành tựu quá khứ, vị lai đạt được.

Nếu nói như thế thì không thành tựu quá khứ, vị lai đạt được. Người kia nói rằng: Nếu không được quả Tu-đà-hoàn, là nói vị lai, nếu đã được rồi, là nói hiện tại, bèn mất là nói quá khứ.

Nếu theo thuyết nầy thì: Thành tựu quá khứ, vị lai đạt được. Người kia nói rằng: Quả Tu-đà-hoàn có ba bậc: hạ, trung, thượng. Nếu đầu tiên trụ nơi quả Tu-đà-hoàn bậc hạ, không được quả Tu-đà-hoàn bậc trung thượng, nên nói không được. Được quả Tu-đà-hoàn bậc hạ, nên nói được rồi, không nên nói bèn mất.

Nếu đầu tiên trụ ở quả Tu-đà-hoàn phẩm trung, nên nói được rồi, không được quả Tu-đà-hoàn bậc thượng, nên nói không được, vì mất quả Tu-đà-hoàn bậc hạ, nên nói bèn mất.

Nếu đầu tiên, trụ ở quả Tu-đà-hoàn bậc thượng, thì không nên nói không được. Vì đã được quả Tu-đà-hoàn bậc thượng, nên nói: được rồi. Bèn mất nghĩa là mất quả Tu-đà-hoàn bậc trung, bậc hạ.

Hỏi: Vốn không thành tựu quả Tu-đà-hoàn phẩm bậc trung, bậc hạ, vì sao nói mất?

Đáp: Vì vượt qua hai căn, nên gọi là mất. Vì sao? Vì với thế lực vượt qua hai căn kia có thế lực của sinh, nên nói như thế, nhưng với Luận Thức Thân đã nói làm sao hiểu được?

Đáp: Với Luận Thức Thân đã nói thì không thể hiểu được.

Lời bình: Nên nói như vầy: Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo. Hoặc Tín giải thoát không chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, thì thời giải thoát sẽ không chuyển căn, tạo ra bất động. Vì sao? Vì như Địa Hữu Học, không có dừng nghỉ, không cứu giúp, nên địa Vô học cũng vậy.

Tôn giả Phật-đà-la-trắc nói: Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, có sáu việc không chung:

  1. Ở cõi Dục, không ở cõi Sắc, cõi Vô sắc.
  2. Nương dựa vào thiền, không dựa vào định Vô sắc.
  3. Dùng đạo vô lậu, không dùng đạo thế tục.
  4. Sử dụng Pháp trí, không vận dụng Tỷ trí.
  5. Thối chuyển chẳng phải không thối chuyển.
  6. Trụ nơi đạo quả, không trụ đạo quả vượt hơn.

Ở cõi Dục, không ở cõi Sắc, cõi Vô sắc: Ở cõi Dục có nói pháp, vì con người dùng sức của việc nói pháp, nên có thể chuyển căn tánh chậm lụt thành căn tánh nhạy bén.

Dựa vào thiền, không dựa vào định Vô sắc: Vốn dựa vào địa nào để đạt được quả Hữu Học, tức nên dựa vào địa đó, là Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo.

Dùng đạo vô lậu, không dùng đạo thế tục: Do đạo vô lậu bén nhạy, nên có thể chuyển căn. Còn đạo thế tục thì không bén nhạy.

Sử dụng pháp trí, không sử dụng tỷ trí: Người sinh ở cõi Dục, chuyển căn, đối với pháp trí được tự tại, không ở tỷ trí.

Thối chuyển chẳng phải không thối chuyển: Vì nhàm chán, thối lui, nên chuyển căn.

Trụ nơi đạo quả, chẳng phải trụ ở đạo quả vượt hơn: Nếu ở nơi đạo quả vượt hơn mà chuyển căn thì sẽ mất nhiều đạo, được một chút đạo, đó gọi là giảm ít, không gọi là tăng ích.

Người A-tỳ-đàm nói rằng: Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo. Như thuyết của người kia đã nói, thì trong sáu việc chỉ ba việc không thể như thế. Chỉ ở cõi Dục không ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, việc nầy có thể như thế. Dựa vào thiền, không dựa vào định Vô sắc, sự nầy cũng có thể như thế. Chỉ do đạo vô lậu, không do đạo thế tục, việc nầy cũng có thể như thế. Chỉ dùng pháp trí, không dùng tỷ trí, việc nầy không hẳn phải như thế. Vì sao? Vì hoặc có người đối với tỷ trí, lại khéo được tự tại, chẳng phải ở pháp trí.

Pháp thối chuyển, chẳng phải pháp không thối chuyển. Việc nầy cũng không hẳn phải như thế. Vì sao? Vì pháp thối chuyển cũng có thể chuyển căn, mà pháp không thối chuyển cũng có thể chuyển căn, đâu chỉ mỗi pháp thối chuyển. Chỉ trụ nơi đạo quả, không trụ nơi đạo quả vượt hơn, việc nầy cũng không hẳn như thế. Vì sao? Vì trụ nơi đạo quả cũng có thể chuyển căn. Trụ nơi đạo quả vượt hơn, cũng có thể chuyển căn.

Hỏi: Nếu vậy há chẳng phải bỏ đạo nhiều, được đạo ít, là tổn giảm, chẳng phải tăng ích hay sao?

Đáp: Người kia cầu căn tánh nhạy bén, không cầu ở đạo nhiều.

Tôn giả Cù-sa Bạt Ma nói: Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, chỉ có ở cõi Diêm-phù-đề, không ở phương khác.

Hỏi: Dựa vào địa nào đạt được quả Hữu Học, thì sẽ dựa vào địa đó chuyển căn chăng?

Đáp: Tức dựa vào địa đó, vừa dựa vào địa khác, là địa vượt hơn, chẳng phải địa thấp kém. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, tất nhiên dựa vào thiền Vị chí, được quả chuyển căn. A-na-hàm dựa vào địa đắc quả, vừa dựa vào địa khác chuyển căn.

A-na-hàm rất ít. Nghĩa là thành tựu quả A-na-hàm của ba địa: Vị chí, Trung gian thiền và Sơ thiền. Hoặc dựa vào Vị chí, hoặc dựa vào Sơ thiền, hoặc dựa vào thiền trung gian, tất nhiên sẽ thành quả A-nahàm của đạo tỷ trí nơi ba địa. Nếu dựa vào Nhị thiền, sẽ được chánh quyết định, tất nhiên thành tựu quả A-na-hàm của Đạo tỷ trí ở bốn địa. Nếu dựa vào đệ Tam thiền, thì sẽ thành tựu năm địa. Nếu dựa vào đệ Tứ thiền, thì sẽ thành tựu sáu địa. Người theo thứ lớp khi lìa ái dục nơi đạo giải thoát sau cùng sẽ thành tựu quả A-na-hàm của ba địa. Nếu dựa vào Sơ thiền sẽ được chánh quyết định, tức dựa vào Sơ thiền chuyển căn. Người kia bỏ quả A-na-hàm của ba địa, được quả A-na-hàm của ba địa.

Nếu dựa vào Sơ thiền được chánh quyết định, tức người dựa vào đệ Nhị thiền chuyển căn, nếu đó sẽ bỏ ba địa, được bốn địa. Nếu dựa vào Sơ thiền được chánh quyết định, người dựa vào đệ Tam thiền chuyển căn, người ấy sẽ bỏ ba địa, được năm địa. Nếu dựa vào Sơ thiền được chánh quyết định, người dựa vào đệ Tứ thiền chuyển căn, thì người ấy sẽ bỏ ba địa được sáu địa. Nếu dựa vào Nhị thiền, được chánh quyết định, thì người dựa vào hai thiền chuyển căn, người ấy sẽ bỏ bốn địa được bốn địa. Nếu dựa vào hai thiền được chánh quyết định, người dựa vào đệ Tam thiền chuyển căn, người ấy sẽ bỏ bốn địa, được năm địa. Nếu dựa vào Nhị thiền được chánh quyết định thì người dựa vào đệ Tứ thiền chuyển căn, người ấy sẽ bỏ bốn địa được sáu địa. Nếu dựa vào ba thiền để được chánh quyết định, tức người dựa vào ba thiền chuyển căn, người đó sẽ bỏ năm địa, được năm địa. Nếu dựa vào ba thiền được chánh quyết định, thì người dựa vào đệ Tứ thiền chuyển căn, người ấy sẽ bỏ năm địa, được sáu địa. Nếu dựa vào đệ Tứ thiền được chánh quyết định, tức người dựa vào đệ Tứ thiền chuyển căn, người ấy sẽ bỏ sáu địa được sáu địa.

Hỏi: Có người nào dựa vào địa trên để được quả, dựa vào địa dưới để chuyển căn hay không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói không có. Vì nếu có thì sẽ bỏ đạo nhiều, được đạo ít, là tổn giảm, chẳng phải tăng ích.

Lại có thuyết nói: Có. Như dựa vào đệ Tứ thiền được chánh quyết định, thì người dựa vào đệ Tam thiền chuyển căn, sẽ bỏ sáu, được năm. Người dựa vào đệ Tứ thiền được chánh quyết định, thì người dựa vào đệ Nhị thiền chuyển căn, sẽ bỏ sáu, được bốn. Dựa vào đệ Tứ thiền được chánh quyết định, thì người dựa vào Sơ thiền chuyển y, sẽ bỏ sáu, được ba. Ba thiền, Nhị thiền, Sơ thiền, nên theo hình tướng của mỗi thiền mà nói.

Hỏi: Nếu vậy há chẳng phải bỏ nhiều đạo, được ít đạo, là tổn giảm, chẳng phải tăng ích hay sao?

Đáp: Nếu vậy cũng không có lỗi. Vì sao? Vì người kia cầu đạo lợi ích, không cầu đạo nhiều.

Có ai lìa ái của Vô sở hữu xứ để thành tựu vô lậu một địa của bậc Thánh hay không?

Đáp: Có. Lìa ái của Vô sở hữu xứ, dựa vào thiền Vị chí được chánh quyết định, tức là mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo.

Có A-na-hàm nào lìa ái của Vô sở hữu xứ để thành tựu vô lậu của ba địa hay không?

Đáp: Có. Nếu dựa vào Sơ thiền, thiền Vị chí, thiền trung gian, thì Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo.

Có người thân chứng không thành tựu định Vô sắc vô lậu không?

Đáp: Có. Dựa vào thiền, Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo. Người chưa lìa ái của Sơ thiền, dựa vào Sơ thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ đạo vô lậu của ba địa, được đạo vô lậu của ba địa. Người lìa ái của Sơ thiền, chưa lìa ái của Nhị thiền, dựa vào Sơ thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ bốn, được ba. Người đã lìa ái của đệ Nhị thiền, chưa lìa ái của đệ Tam thiền, dựa vào Sơ thiền để chuyển căn thì sẽ bỏ năm, được ba. Người đã lìa ái của đệ Tam thiền, chưa lìa ái của đệ Tứ thiền, dựa vào Sơ thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ sáu được ba. Người đã lìa ái của đệ Tứ thiền, chưa lìa ái của Không xứ, dựa vào Sơ thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ bảy được ba. Người đã lìa ái của Không xứ, chưa lìa ái của Thức xứ, dựa vào Sơ thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ tám được ba. Nếu người đã lìa ái của Thức xứ, chưa lìa ái của Vô sở hữu xứ, dựa vào Sơ thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ chín được ba. Người đã lìa ái của đệ Nhị thiền, cho đến lìa ái của Thức xứ, dựa vào đệ Nhị thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ chín được bốn. Người đã lìa ái của đệ Tam thiền, cho đến lìa ái của Thức xứ, dựa vào đệ Tam thiền để chuyển căn, thì sẽ bỏ chín được năm. Người đã lìa ái của đệ Tứ thiền, cho đến lìa ái của Thức xứ, dựa vào đệ Tứ thiền để chuyển căn, thì sẽ xả chín được sáu.

Hỏi: Lìa ái của Vô sở hữu xứ, Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, bỏ đạo đối trị cõi Vô sắc, là có bỏ đoạn hay không? Nếu đã xả dứt thì sao không tạo thành kiết? Còn nếu không xả thì đối trị đã xa, do việc gì lại không xả dứt?

Đáp: Nên nói là: Không xả!

Hỏi: Đối trị đã bỏ, do việc gì lại không xả đoạn?

Đáp: Đối trị cõi Vô sắc có hai thứ được: Mặc dù đã bỏ vô lậu, nhưng không xả hữu lậu, vì hữu lậu đã được duy trì, nên không xả.

Hỏi: Như đạo hữu lậu có thể có chỗ tạo tác nên có thể như thế, không thể có chỗ tạo tác thì làm sao có thể như thế? Như lìa dần ái của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo vì xả đạo đối trị, do tu đạo dứt của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, hay là xả dứt kia không? Nếu xảthì sao không thành tựu kiết? Nếu không xả, thì đối trị đã xả, do việc gì lại không xả dứt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không có người lìa dần ái của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ mà chuyển căn. Nếu chuyển thì hoặc là thối lui, hoặc là rốt ráo lìa dục.

Lại có thuyết nói: Có người lìa dần ái của phi trưởng, Phi phi tưởng xứ, chuyển căn, bỏ đạo đối trị nhưng không xả dứt.

Lời bình: Nên nói rằng: xả đạo đối trị, cũng xả dứt, nhưng không tạo thành kiết. Như lìa ái của vô sở hửu xứ, qua đời, sinh lên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Từ cõi Dục, cho đến Thức xứ, đã có đạo đối trị và dứt đều xả nhưng không tạo thành kiết, người kia cũng giống như thế.

Khi Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, thì dùng một đạo phương tiện, một đạo vô ngại, một đạo giải thoát. Khi thời giải thoát chuyển căn đạo ra bất động, hoặc có thuyết nói, dùng một đạo phương tiện, một đạo vô ngại, một đạo giải thoát.

Lời bình: Nên nói rằng: Dùng một đạo phương tiện chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát. Vì sao? Vì lai được dụng công lần nữa của quả Sa-môn. Như người phá bỏ nhà rồi làm lại. Sử dụng công của quả Samôn kia cũng giống như thế.

Khi Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, thì đạo phương tiện là hữu lậu, vô lậu,ở vị lai cũng tu đạo hữu lậu vô lậu. Đạo vô ngại là vô lậu, vị lai cũng tu đạo vô lậu. Đạo giải thoát cũng là vô lậu.

Hoặc có thuyết nói: Vị lai tu đạo hữu lậu, vô lậu

Hoặc có thuyết nói: Chỉ tu vô lậu. Lúc thời giải thoát chuyển căn, tạo ra bất động, thì Đạo phương tiện là hữu lậu, vô lậu. Ở vị lai, tu đạo hữu lậu, vô lậu. Chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát chỉ là vô lậu, ở vị lai sẽ tu đạo vô lậu. Đạo giải thoát sau cùng là vô lậu, ở vị lai sẽ tu đạo hữu lậu, vô lậu, và căn thiện của ba cõi. Khi Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, thì đạo phương tiện hoặc là từng được, hoặc chẳng phải từng được. Đạo vô ngại, đạo giải thoát hoàn toàn chẳng phải đã từng được. Lúc giải thoát chuyển căn, tạo ra bất động, thì đạo phương thiện, hoặc là từng được, hoặc chẳng phải từng được. Đạo vô ngại, đạo giải thoát, hoàn toàn chẳng phải đã từng được. Khi Tín giải thoát ấy chuyển căn tạo ra Kiến đáo, thì đạo phương tiện, đạo vô ngại thuộc về đạo Tín giải thoát, đạo giải thoát là thuộc về đạo Kiến đáo. Lúc Thời giải thoát chuyển căn tạo ra Bất động, thì đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, tám đạo giải thoát, là thuộc về đạo thời giải thoát. Đạo giải thoát sau cùng là thuộc về đạo phi thời giải thoát. Lúc Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, nếu trụ nơi quả đạo để chuyển căn, thì đạo phương tiện, đạo vô ngại, giải thoát kia thuộc về quả đạo. Nếu trụ nơi quả đạo hơn hẳn để chuyển căn, thì đạo phương tiện, đạo Vô ngại kia thuộc về quả đạo thù thắng, đạo giải thoát thì thuộc về quả đạo. Khi thời giải thoát chuyển căn tạo ra bất động, thì đạo phương tiện, vô ngại, giải thoát thuộc về quả đạo. Vì sao? Vì không gì hơn quả đạo. Lúc Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, nếu trụ nơi quả để chuyển căn, đó gọi là xả quả để được quả. Nếu trụ nơi quả đạo hơn hẳn để chuyển căn, đó gọi là bỏ quả, bỏ quả đạo thù thắng để được quả. Lúc thời giải thoát chuyển căn tạo ra bất động, gọi là xả quả được quả. Sáu loại A-la-hán: đó là Thối pháp, Nhớ pháp, Hộ pháp, cùng trụ, có thể tiến tới, bất động. Nếu khi Thối pháp chuyển căn tạo ra Nhớ pháp thì xả căn Thối pháp, được căn Nhớ pháp. Nếu khi Nhớ pháp chuyển căn tạo ra Hộ pháp thì bỏ căn Nhớ pháp được căn Hộ pháp. Nếu khi Hộ pháp chuyển căn tạo ra cùng trụ thì bỏ căn Hộ pháp, được căn cùng trụ. Nếu khi cùng trụ chuyển căn, tạo ra có thể tiến tới, thì bỏ căn cùng trụ, được căn tiến tới. Nếu khi có thể tiến tới chuyển căn tiến tới tạo ra bất động, thì bỏ căn có thể tiến tới, được căn bất động. Như sáu loại của địa Vô học, thì sáu thứ Học tánh trong tu đạo cũng giống như vậy.

Hỏi: Lúc Thối pháp chuyển căn tạo ra bất động, là trụ nơi căn Thối pháp đạt được bất động, hay là theo thứ lớp cùng chuyển năm thứ căn, để đạt được bất động?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: trụ nơi căn Thối pháp chuyển căn được bất động, vì dụng công khác trong lúc Vô học, phần nhiều khó được, cho nên theo thứ lớp chuyển địa học thì không như vậy.

Lời bình: Nên nói như vầy: Tất cả thời gian theo thứ lớp mà chuyển căn. Như trong tu đạo có sáu thứ tánh. Trong kiến đạo cũng có sáu thứ tánh. Nghĩa là từ Thối pháp cho đến Bất động, không có người chuyển căn. Vì sao? Vì kiến đạo là đạo nhanh chóng không khởi.

Như trong kiến đạo có sáu thứ tánh, trong địa tu hành, cũng có sáu thứ tánh: từ Thối pháp, cho đến Bất động. Nếu người chuyển thì Thối pháp thối nơi Noãn pháp không hiện ở trước, pháp nhớ, pháp Noãn hiện ở trước, cho đến có thể tiến tới, pháp Noãn không hiện ở trước, Noãn pháp bất động hiện ở trước.

Pháp Noãn của Tánh không hiện ở trước. Pháp Noãn của tánh Bích-chi không Phật hiện ở trước. Pháp Noãn của Phật tánh hiện ở trước. Như pháp Noãn, pháp Đảnh cũng thế.

Sự khác nhau của nhẫn. Nhẫn của Tánh Thanh văn không hiện ở trước. Nhẫn của tánh Phật Bích hiện ở trước. Không có nhẫn của Thanh văn, Bích-chi Phật không hiện ở trước. Nhẫn của Phật hiện ở trước. Vì sao? Vì nhẫn chướng ngại đường, Bồ-tát do nguyện lực nên đọa vào đường ác.

Lại có thuyết nói: Noãn, Đảnh của Thanh văn không hiện ở trước, cũng không khởi. Noãn, Đảnh của Bích-chi Phật hiện ở trước. Vì sao? Vì như trí tự nhiên vô sư của Phật. Bích-chi Phật kia cũng thế. Như mỗi khi Phật ngồi kiết già, là sinh ra các pháp thiện hiện ra trước, từ bất tịnh, cho đến Tận trí, trí Vô sinh, Bích-chi Phật cũng thế.

Pháp Thế đệ nhất cũng có sáu thứ tánh: Từ thối pháp cho đến Bất động, không có người chuyển căn. Vì sao? Vì một khoảng sát-na của căn thiện kia không có tướng dừng lại, Tu-đà-hoàn có sáu thứ tánh Thối pháp, cho đến Bất động, cho nên nói như vậy.

Hỏi: Có khi nào thối lui quả Tu-đà-hoàn, không tạo thành kiết, do kiến đạo dứt trừ hay không?

Đáp: Có. Như tánh của căn cơ phẩm thượng, thối lui nơi căn cơ phẩm hạ.

*******

 

Chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục, hết cõi Dục, có nối tiếp nhau không? Cho đến nói rộng tạo ra bốn trường hợp. Có nhiều danh, ở đây nói hữu, là hữu của năm ấm, số chúng sinh ở nơi thọ thân. Hữu khác được nói rộng. Như trong một hành, làm sao chết ở cõi Dục, rồi sinh lại cõi Dục, không là hữu cõi Dục nối tiếp nhau?

Đáp: Như chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc trung hữu hiện tiền. Chết ở cõi Dục, sinh lên cõi Sắc, vừa là bậc Thánh, vừa là phàm phu. Trung hữu cõi Sắc kia ở cõi Dục hiện ở trước. Vì sao? Vì pháp nên như thế. Nếu ở chỗ tử hữu diệt, tức ở chỗ trung hữu sinh. Như ở chỗ hạt giống tiêu mất, thì ngay nơi đó sẽ mọc ra mầm. Sự sinh kia cũng giống như thế.

Người chết ở cõi Dục, là chết ở cõi Dục tức có người chết cõi Dục. Trung hữu cõi Sắc nầy chẳng phải dục hữu nối tiếp nhau. Sắc hữu nối tiếp nhau là trung hữu cõi Sắc.

Thế nào là dục hữu nối tiếp nhau, không chết ở cõi Dục, bất sinh cõi Dục?

Đáp: Chết ở cõi Sắc, trung hữu ở cõi Dục hiện ở trước. Người phàm phu chết ở cõi Sắc, trung hữu ở cõi Dục sẽ hiện ở trước ở cõi Sắc. Pháp nên như thế. Nếu ở chỗ tử hữu diệt, tức là ở chỗ trung hữu sinh nói rộng như trên. Đó gọi là dục hữu nối tiếp nhau, là trung hữu cõi Dục, chẳng phải chết ở cõi Dục, chẳng phải sinh ở cõi Dục. Vì sao? Vì chết ở cõi Sắc là tử hữu cõi Sắc. Sinh ở cõi Sắc là trung hữu cõi Dục.

Thế nào là chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục. hữu cõi Dục nối tiếp nhau?

Đáp: Như chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục là trung hữu, sinh hữu.

Chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục, vừa là bậc Thánh, vừa là phàm phu. Phàm phu ở các cõi không ngại sinh trong mỗi đường. bậc Thánh ở trong các cõi có trở ngại, sinh trong cõi người, cõi trời. Chết ở cõi Dục là tử hữu cõi Dục. Sinh cõi Dục là Trung hữu cõi Dục. Hữu cõi Dục nối tiếp nhau là trung hữu cõi Dục. Nếu từ trung hữu cho đến sinh hữu: Chết ở cõi Dục là trung hữu cõi Dục. Nếu sinh ở cõi Dục là sinh hữu cõi Dục. Hữu cõi Dục nối tiếp nhau: Là sinh hữu cõi Dục.

Thế nào là chẳng phải chết ở cõi Dục, chẳng phải sinh ở cõi Dục, chẳng phải hữu cõi Dục nối tiếp nhau phải không?

Đáp: Chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc là trung hữu sinh hữu. Chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc là trung hữu, sinh hữu, cũng là bậc Thánh, cũng là phàm phu. Nếu lúc từ tử hữu đến trung hữu, thì không gọi là chết ở cõi Dục. Vì sao? Vì chết ở cõi Sắc là tử hữu cõi Sắc, chẳng phải sinh ở cõi Dục. Vì sao? Vì sinh ở cõi Sắc là trung hữu cõi Sắc chẳng phải Hữu cõi Dục nối tiếp nhau. Vì sao? Vì Hữu cõi Sắc nối tiếp nhau là Trung hữu cõi Sắc. Nếu lúc từ trung hữu đến sinh hữu thì chẳng phải chết ở cõi Dục. Vì sao? Vì là trung hữu chết ở cõi Sắc, chẳng phải hữu cõi Dục nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Sắc nối tiếp nhau là sinh hữu cõi Sắc.

Chết ở cõi Sắc, sinh lên cõi Vô sắc, vừa là bậc Thánh, vừa là phàm phu. Bậc Thánh kia chẳng phải chết ở cõi Dục. Vì sao? Vì chết ở cõi Sắc là tử hữu cõi Sắc, chẳng phải sinh ở cõi Dục, cõi Sắc mà là sinh ở cõi Vô sắc là sinh hữu cõi Vô sắc, chẳng phải hữu cõi Dục nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau là sinh hữu cõi Vô sắc.

Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc vừa là bậc Thánh, vừa là phàm phu. Người phàm phu sinh lên cõi trên, cũng sinh xuống cõi dưới. Bậc Thánh sinh lên cõi trên, bất sinh xuống cõi dưới. Kẻ phàm phu mỗi người sinh nhiều chỗ. Bậc Thánh mỗi vị một sinh chỗ. bậc Thánh kia chẳng phải chết ở cõi Dục. Vì sao? Vì chết ở cõi Vô sắc là tử hữu cõi Vô sắc, chẳng phải sinh ở cõi Dục. Vì sao? Vì sinh ở cõi Vô sắc là sinh hữu cõi Vô sắc, chẳng phải hữu cõi Dục nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau là sinh hữu cõi Vô sắc. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Sắc, là phàm phu từ tử hữu, đến trung hữu.

Bậc Thánh kia chẳng phải chết ở cõi Dục. Vì sao? Vì chết ở cõi Vô sắc là tử hữu cõi Vô sắc, bất sinh cõi Dục. Vì sao? Vì sinh ở cõi Vô sắc là trung hữu cõi Sắc, chẳng phải dục hữu nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Sắc nối tiếp nhau, là trung hữu cõi Sắc.

Chết ở cõi Sắc, lại sinh cõi Sắc, vậy cả hữu cõi Sắc đều nối tiếp nhau? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Thế nào là chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau?

Đáp: Chết ở cõi Sắc, trung hữu cõi Dục hiện ở trước. Chết ở cõi Sắc, sinh cõi Dục là người phàm phu. Trung hữu cõi Dục, hiện ở trước ở cõi Sắc nói rộng như trên.

Chết ở cõi Sắc là tử hữu cõi Sắc. Sinh ở cõi Sắc là trung hữu cõi Dục, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Dục nối tiếp nhau là trung hữu cõi Dục.

Thế nào là hữu cõi Sắc nối tiếp nhau, chẳng phải chết ở cõi Sắc, chẳng phải sinh ở cõi Sắc?

Đáp: Như chết ở cõi Dục, trung hữu cõi Sắc hiện ở trước. Chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc, vừa là phàm phu, cũng là bậc Thánh. Trung hữu cõi Sắc kia ở cõi Dục hiện ở trước nói rộng như trên. Đó gọi là hữu ở cõi Sắc nối tiếp nhau.

Trung hữu cõi Sắc, chẳng phải chết ở cõi Sắc. Vì sao? Vì chết ở cõi Dục là tử hữu cõi Dục, chẳng phải sinh ở cõi Sắc. Vì sao? Vì sinh cõi Dục là trung hữu cõi Sắc.

Thế nào là chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc, hữu cõi Sắc nối tiếp nhau?

Đáp: Chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc, là trung hữu, sinh hữu. Chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc, vừa là phàm phu, vừa là bậc Thánh. Phàm phu sinh lên trên, vừa sinh xuống dưới, mỗi chỗ có nhiều lần sinh. Bậc Thánh sinh lên cõi trên, bất sinh ở cõi dưới, mỗi chỗ có một lần sinh. Lúc từ tử hữu đến trung hữu chết ở cõi Sắc, là tử hữu cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc là Trung hữu cõi Sắc. Hữu cõi Sắc nối tiếp nhau là trung hữu cõi Sắc. Lúc từ trung hữu đến sinh hữu, chết ở cõi Sắc là trung hữu cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc là sinh hữu cõi Sắc, hữu cõi Sắc nối tiếp nhau là sinh hữu cõi Sắc.

Thế nào là chẳng phải chết ở cõi Sắc, chẳng phải sinh ở cõi Sắc, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau?

Đáp: Chết ở cõi Dục, sinh cõi Dục là trung hữu, sinh hữu. Chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục, vừa là phàm phu, vừa là bậc Thánh, nói rộng như trên. Lúc từ tử hữu đến trung hữu, chẳng phải chết ở cõi Sắc, chẳng phải sinh ở cõi Sắc. Vì sao? Vì chết ở cõi Dục là tử hữu cõi Dục. Sinh cõi Dục, là trung hữu cõi Dục, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Dục nối tiếp nhau là trung hữu cõi Dục. Thời gian từ trung hữu đến sinh hữu, chẳng phải chết ở cõi Sắc, chẳng phải sinh ở cõi Sắc. Vì sao? Vì chết ở cõi Dục là trung hữu cõi Dục, sinh ở cõi Dục là sinh hữu cõi Dục, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Dục nối tiếp nhau, là sinh hữu cõi Dục. Chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Vô sắc, vừa là phàm phu, vừa là bậc Thánh, chẳng phải chết ở cõi Sắc. Vì sao? Vì chết ở cõi Dục là tử hữu cõi Dục, chẳng phải sinh ở cõi Sắc. Vì sao? Vì sinh ở cõi Vô sắc, là sinh hữu cõi Vô sắc, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau, là sinh hữu cõi Vô sắc.

Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc, vừa là phàm phu, vừa là bậc Thánh. Phàm phu sinh lên cõi trên, vừa sinh xuống cõi dưới. Mỗi chỗ có nhiều lần sinh bậc Thánh sinh ở cõi trên, bất sinh cõi dưới, mỗi có một lần sinh, chẳng phải chết ở cõi Sắc. Vì sao? Vì chết ở cõi Vô sắc, là tử hữu cõi Vô sắc, chẳng phải sinh ở cõi Sắc. Vì sao? Vì sinh ở cõi Vô sắc là sinh hữu cõi Vô sắc, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau, là sinh hữu cõi Vô sắc.

Chết ở cõi Vô sắc, sinh cõi Dục, là phàm phu, chẳng phải chết ở cõi Sắc. Vì sao? Vì chết ở cõi Vô sắc là tử hữu cõi Vô sắc, chẳng phải sinh ở cõi Sắc. Vì sao? Vì sinh cõi Dục là trung hữu cõi Dục, chẳng phải hữu cõi Sắc nối tiếp nhau. Vì sao? Vì hữu cõi Dục nối tiếp nhau là trung hữu cõi Dục.

Chết ở cõi Vô sắc, sinh lại cõi Vô sắc, đều là hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau?

Đáp: Chết ở cõi Vô sắc, sinh lại ở cõi Vô sắc đều là Hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau.

Có khi nào hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau, người kia chẳng phải chết ở cõi Vô sắc chẳng phải bất sinh ở cõi Vô sắc?

Đáp: Có. Như chết ở cõi Dục, cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, vừa là phàm phu, vừa là bậc Thánh, chẳng phải chết ở cõi Vô sắc. Vì sao? Vì chết ở cõi Dục, cõi Sắc, là tử hữu cõi Dục, cõi Sắc. Sinh ở cõi Vô sắc là sinh hữu cõi Vô sắc. Hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau, là sinh hữu cõi Vô sắc.

Chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục, người nầy có bốn:

1, 2. Phàm phu bậc Thánh của cõi Dục.

3, 4. Phàm phu bậc Thánh cõi Sắc.

Chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc. Người nầy có ba:

1, 2. Phàm phu bậc Thánh cõi Sắc.

3. Phàm phu cõi Dục.

Chết ở cõi Vô sắc, sinh lại cõi Vô sắc. Người nầy có hai:

1, 2. Phàm phu bậc Thánh ở cõi Vô sắc.

Phàm phu cõi Dục, bị chín mươi tám thứ sử sai khiến, bị chín kiết ràng buộc. Bậc Thánh bị mười sử sai khiến, sáu kiết ràng buộc. Phàm phu ở cõi Sắc bị sáu mươi hai thứ sử sai khiến, sáu kiết ràng buộc. bậc Thánh bị sáu sử sai khiến, ba kiết trói buộc. Phàm phu cõi Vô sắc bị ba mươi mốt thứ sử sai khiến, sáu kiết trói buộc. bậc Thánh bị sáu sử sai khiến, ba kiết trói buộc.

Hỏi: Phàm phu cõi Dục không bị sử cõi Sắc, cõi Vô sắc sai khiến. Phàm phu ở cõi Sắc không bị sử cõi Vô sắc sai khiến. Vì sao lại nói người phàm phu cõi Dục bị chín mươi tám sử sai khiến. Phàm phu ở cõi Sắc bị sáu mươi hai thứ sử sai khiến?

Đáp: Đắc nói trong đây, được gọi là bị sai khiến. Như đắc của sử ở cõi Sắc, cõi Vô sắc của phàm phu cõi Dục, thường sinh hiện tiền. Đắc sử ở cõi Vô sắc của phàm phu ở cõi Sắc thường sinh hiện tiền.

Lại nữa, vì đối với đắc không giải thoát, nên gọi là đối tượng bị sai khiến của sử. Phàm phu cõi Dục đối với đắc sử ở cõi Sắc, cõi Vô sắc không được giải thoát. Phàm phu cõi Sắc đối với đắc sử cõi Vô sắc, không được giải thoát.

Lại nữa, vì được cái nay được, được cái sẽ được, được cái đã được, nên nói rằng: Được cái nay được là hiện tại, được cái sẽ được là vị lai, được cái đã được là quá khứ.

Lại nữa, vì sinh ra sử kia, nên nói rằng: Năng sinh, nghĩa là phàm phu sinh cõi Dục, do lìa ái dục, có thể sinh ra các sử cõi Sắc. Phàm phu ở cõi Sắc do lìa ái sắc, có thể sinh các sử cõi Vô sắc.

Lại nữa, hiện tại từng làm vì có thế lực thừa, nên chúng sinh cõi Dục từ vô thỉ đến nay không có ai không từng khởi sử cõi Sắc, cõi Vô sắc. Chúng sinh ở cõi Sắc không có ai không từng khởi sử cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu vậy thì phàm phu ở cõi Sắc từng khởi sử cõi Dục. Phàm phu cõi Vô sắc, cũng từng khởi sử cõi Dục, cõi Sắc, vì sao không sai khiến?

Đáp: Dù từng khởi sử, nhưng lìa dục, nên phàm phu cõi Dục chưa lìa ái cõi Sắc, cõi Vô sắc. Phàm phu ở cõi Sắc chưa lìa ái cõi Vô sắc, bậc Thánh bị mười sử sai khiến.

Hỏi: Bậc Thánh cõi Dục có chín mươi tám thứ sử sai khiến, như người còn bị ràng buộc, được chánh quyết định. Lúc Khổ pháp nhẫn hiện ở trước, là thành tựu chín mươi tám sử, ở đây vì sao không nói?

Đáp: Vì thời gian ít, không lâu thì khổ sinh trí, cho nên không nói.

Lại nữa, ở đây nói người phiền não hiện hành, người nhập kiến đạo, vẫn không thể khởi tâm hữu lậu thiện, huống chi hạng bị nhiễm ô chỗ khác, cũng nói là người phiền não hiện hành. Như kinh nói: Có một Bà-la-môn đi đến chỗ Phật, hỏi như vầy: Ông sẽ làm trời, người, rồng, A-tu-la, Ca-lâu-la, Kiền-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già chăng?

Phật nói:

Ta sẽ không làm trời, cho đến Ma-hầu-la-già v.v… Vì sao? Vì Bàla-môn nên biết, vì các lậu nên làm trời, cho đến Ma-hầu-la-già v.v… Như lai đã dứt hẳn các lậu. Cho nên, Bà-la-môn, ta sẽ không làm trời, cho đến Ma-hầu-la-già v.v…

Hoặc có thuyết nói: Vì báo hiện tiền, nên gọi là người, như kinh nói kệ:

Phật nói người nầy

Tự điều thường định

Hành đạo phạm hạnh

Tâm vui vắng lặng.

Trong bài kệ nầy nói: Thân nhận báo cõi Dục, tức gọi là thân chúng sinh cõi Dục thọ báo cõi Dục, tức gọi là thân chúng sinh cõi Dục, thọ báo cõi Sắc, cõi Vô sắc. Tức gọi là chúng sinh ở cõi Sắc, cõi Vô sắc. Đức Phật vì thọ báo cõi người, nên gọi là người. Chỗ khác cũng nói: Vì báo hiện tiền nên gọi là người. Như trong phẩm Mười môn đã nói: Ai thành tựu nhãn căn?

Đáp: Người sinh ở cõi Sắc, nếu người sinh cõi Dục, được rồi là không mất. Vì báo như thế v.v… vì hiện tiền nên gọi là người. Người thọ báo cõi Dục như thế, gọi là chúng sinh cõi Dục, thọ báo cõi Sắc, cõi Vô sắc, gọi là chúng sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Chẳng phải chết ở cõi Dục, chẳng phải sinh cõi Dục, đều chẳng phải hữu cõi Dục nối tiếp nhau? cho đến nói rộng chẳng phải bốn trường hợp. Trường hợp một trong bốn trường hợp ở trước, tạo ra trường hợp thứ hai nầy, trường hợp thứ hai ở trước tạo ra trường hợp đầu nầy, trường hợp thứ ba ở trước tạo ra trường hợp thứ tư nầy, trường hợp thứ tư ở trước tạo ra trường hợp thứ ba nầy. Cõi Sắc chẳng phải bốn trường hợp cũng giống như thế. Không phải chết ở cõi Vô sắc, chẳng phải sinh ở cõi Vô sắc, đều chẳng phải hữu cõi Vô sắc nối tiếp nhau? Nói rộng như kinh nầy: chẳng phải chết ở cõi Dục, chẳng phải sinh cõi Dục. Người nầy có năm: Phàm phu cõi Dục, phàm phu, bậc Thánh ở cõi Sắc, phàm phu, bậc Thánh ở cõi Vô sắc

Hỏi: Lẽ ra nên có tám người, vì sao nói năm? Như chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc là phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Sắc, sinh cõi Vô sắc là phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Sắc, sinh cõi Dục là phàm phu. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc là phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Sắc là phàm phu. Có tám như thế v.v…, vì sao nói có năm?

Đáp: Vì giống nhau, nên nói có năm: Cũng chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc là phàm phu. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Sắc là phàm phu. Hai người nầy đều là phàm phu cõi Sắc. Chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc là bậc Thánh. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc là bậc Thánh. Hai người nầy đều là bậc Thánh cõi Vô sắc. Chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc là phàm phu. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc là phàm phu. Hai người nầy đều là phàm phu ở cõi Vô sắc. Ngoài ra có phàm phu cõi Dục, bậc Thánh ở cõi Sắc, vì giống nhau nên nói là năm.

Chẳng phải chết ở cõi Sắc, chẳng phải sinh ở cõi Sắc, người nầy có sáu: Phàm phu, bậc Thánh cõi Dục, phàm phu bậc Thánh ở cõi Sắc, phàm phu bậc Thánh ở cõi Vô sắc.

Hỏi: Lẽ ra phải có chín người, vì sao nói sáu?

Như chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục là phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Dục, sinh cõi Sắc là phàm phu, bậc Thánh.. Chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Vô sắc là phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc là phàm phu, bậc Thánh, chết ở cõi Vô sắc, sinh cõi Dục là phàm phu phải không?

Đáp: Vì giống nhau nên nói sáu: Chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục là phàm phu. Chết ở cõi Vô sắc, sinh lại cõi Dục là phàm phu. Hai người nầy đều là phàm phu cõi Dục. Chết ở cõi Dục, sinh lên cõi Vô sắc là phàm phu. Chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc là phàm phu. Hai người nầy đều là phàm phu ở cõi Vô sắc. bậc Thánh chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Vô sắc. bậc Thánh chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc. Hai người nầy đều là bậc Thánh ở cõi Vô sắc. Ngoài ra có bậc Thánh cõi Dục, phàm phu, bậc Thánh cõi Sắc, vì giống nhau nên nói sáu. Chẳng phải chết ở cõi Vô sắc, chẳng phải sinh ở cõi Vô sắc, người nầy có bốn: bậc Thánh, phàm phu cõi Dục, phàm phu bậc Thánh ở cõi Sắc.

Hỏi: Lẽ ra có bảy người, vì sao nói bốn? Như chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục, là phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc là Phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc là phàm phu, bậc Thánh. Chết ở cõi Sắc, sinh cõi Dục, là phàm phu vì sao nói có bốn?

Đáp: Vì giống nhau nên nói bốn: Chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục là phàm phu. Chết ở cõi Sắc, sinh cõi Dục là phàm phu. Hai người nầy đều là phàm phu cõi Dục. Phàm phu chết ở cõi Dục, sinh cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc, hai người nầy đều là phàm phu cõi Sắc. Bậc Thánh chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc. bậc Thánh chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc, hai người nầy đều là bậc Thánh ở cõi Sắc. Có bậc Thánh cõi Dục khác, vì giống nhau nên nói bốn.

Các người nầy vì nhằm vào sử sai khiến mà nói, nhằm vào kiết ràng buộc mà nói.

Có ai chết ở cõi Dục, bất sinh cõi Dục? Như nghĩa của thuyết trước đã nói, nay thì ngăn dứt ở sinh hữu.

Có ai chết ở cõi Dục, bất sinh cõi Dục chăng?

Đáp: Bất sinh. Sinh trung hữu cõi Dục, cõi Sắc thì có. Nếu sinh ở cõi Vô sắc, hoặc nhập Niết-bàn. Ngoài ra nói rộng như kinh nầy.

Hỏi: Chết ở cõi Vô sắc, sinh xuống cõi Dục, cõi Sắc, trung hữu cõi Vô sắc kia ở xứ nào hiện ra trước?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ở thiền thứ tư.

Không nên nói như thế. Vì nếu cõi Vô sắc có phương hướng, xứ sở, thì thuyết ấy nói là đúng. Chỉ vì cõi Vô sắc không có phương, sở, thì đâu vì xa đến đệ Tứ thiền?

Lại có thuyết nói: Chết ở xứ sở nầy sinh trong Vô sắc, tức trung hữu của xứ sở kia hiện ở trước. Nói như thế, thì chết ở cõi Vô sắc, sinh ở cõi Vô sắc, việc nầy không như vậy.

Lời bình: Nên nói như vầy: Chết ở cõi Dục, cõi Sắc, sinh ở cõi Vô sắc, tức trung hữu của nơi sinh kia hiện ở trước.

Có ai chết ở cõi Dục, mà bất sinh cõi Dục, bất sinh cõi Sắc, bất sinh ở cõi Vô sắc hay chăng? Trong đây cũng ngăn Sinh hữu, ngoài ra nói rộng như kinh nầy.

Hỏi: Vì sao trong đây không hỏi về Nhập Niết-bàn?

Đáp: Lẽ ra hỏi mà không hỏi, nên biết, thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, trong đây nói tử mà sinh: Nghĩa là người kia dù chết mà bất sinh.

Lại nữa, trong đây nhân người mà soạn luận, còn nhập Niết-bàn kia thì bỏ nhân gọi là pháp.

Có ai chết không lìa ái cõi Dục mà chết, bất sinh cõi Dục? Tỳ-BàXà-bà-đề rất ngu đối với pháp nầy, nói là không lìa ái dục, bất sinh cõi Dục, mà lại không nói là có trung hữu.

Có ai chết không lìa ái dục cõi Dục, mà bất sinh ở cõi Dục hay chăng?

Đáp: Bất sinh, tức sinh trung hữu cõi Dục.

Có ai chết không lìa ái sắc, bất sinh cõi Dục, cõi Sắc hay không?

Đáp: Bất sinh, tức sinh trung hữu cõi Dục, cõi Sắc.

Có ai chết không lìa ái Vô sắc, mà bất sinh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc?

Đáp: Bất sinh, tức sinh trung hữu cõi Dục, cõi Sắc. Người chưa lìa ái dục, chết sẽ bất sinh cõi Dục. Người nầy có hai: Phàm phu và bậc Thánh cõi Dục. Chưa lìa ái sắc mà chết, sẽ bất sinh cõi Dục, cõi Sắc. Người nầy có bốn: Phàm phu và bậc Thánh cõi Dục, phàm phu bậc Thánh cõi Sắc.

Hỏi: Lẽ ra có bảy người: Người chết ở cõi Dục, sinh lại cõi Dục là phàm phu, bậc Thánh. Phàm phu, bậc Thánh chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc. Phàm phu bậc Thánh chết ở cõi Sắc, sinh lại cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Dục. Vì sao chỉ nói bốn?

Đáp: Vì giống nhau, nên nói bốn: Phàm phu chết ở cõi Dục, sinh cõi Dục. Phàm phu chết ở cõi Sắc, sinh cõi Dục. Hai người nầy đều là phàm phu cõi Dục. Phàm phu chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc. Hai người nầy đều là phàm phu ở cõi Sắc.

Bậc Thánh chết ở cõi Dục, sinh ở cõi Sắc. bậc Thánh chết ở cõi Sắc, sinh ở cõi Sắc. Hai người nầy đều là bậc Thánh ở cõi Sắc. Ngoài ra, có bậc Thánh ở cõi Dục, vì giống nhau, nên nói bốn.

Chưa lìa ái nơi Vô sắc, chết sẽ bất sinh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Người nầy có bốn: Phàm phu, bậc Thánh cõi Dục, phàm phu, bậc Thánh ở cõi Sắc.

Hỏi: Lẽ ra phải có chín người: Người chết ở cõi Dục, sinh lại, là Trung hữu cõi Dục, là phàm phu, bậc Thánh. Phàm phu, bậc Thánh chết ở cõi Sắc, sinh làm Trung hữu cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Sắc, sinh làm Trung hữu cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Vô sắc, sinh làm Trung hữu cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Vô sắc, sinh làm Trung hữu cõi Dục, vì sao nói có bốn?

Đáp: Vì giống nhau, nên nói bốn: Phàm phu chết cõi Dục, sinh lại làm Trung hữu cõi Dục. Phàm phu chết ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, sinh làm Trung hữu cõi Dục. Ba người nầy đều là phàm phu cõi Dục. Phàm phu chết ở cõi Dục, sinh làm Trung hữu cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Sắc, sinh lại làm Trung hữu cõi Sắc. Phàm phu chết ở cõi Vô sắc, sinh làm Trung hữu cõi Sắc. Ba người nầy đều là phàm phu ở cõi Dục.

Bậc Thánh chết ở cõi Dục, sinh làm Trung hữu cõi Sắc. Bậc Thánh chết ở cõi Sắc, sinh làm Trung hữu cõi Sắc. Ba người nầy đều là phàm phu cõi Sắc. Bậc Thánh chết ở cõi Dục, sinh làm Trung hữu cõi Sắc, bậc Thánh chết ở cõi Sắc, alị sinh làm Trung hữu cõi sắc, hai người nầy đều là bậc Thánh cõi Sắc. Ngoài ra, có bậc Thánh cõi Dục, vì giống nhau nên nói bốn.

Các người ấy là hướng vào chỗ nói về sử sai khiến, hướng vào chỗ nói về kiết ràng buộc.

Trung hữu là có hay không có?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không có Trung hữu, hoặc có thuyết nói có tung hữu. Phái Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Không có Trung hữu. Phái Dụcđa-bà-đề nói: Có Trung hữu.

Hỏi: Tỳ-bà Xà-bà-đề dựa vào kinh nào nói? Tin vào việc nào nói là không có Trung hữu?

Đáp: Người nầy dựa vào kinh Phật. Không có kinh nào nói, là gây ra năm nghiệp Vô gián, tạo rồi càng thêm rộng, khi chết đọa vào địa ngục Vô gián. Vì đọa vào địa ngục không có gián dứt nên nói không có Trung hữu. Trong kệ cũng nói:

Tuổi trẻ tức già bệnh

Sẽ đọa bên Diêm-la

Chỗ trung gian không nghỉ

Cũng không dùng tư lương.

Vì không dừng nghĩ giữa chừng, không dùng tư lương, nên biết không có Trung hữu. Cũng tạo ra các thứ vấn nạn.

Cũng như bóng sáng không có trung gian. Tử hữu, sinh hữu không có trung gian, cũng giống như thế.

Hỏi: Phái Dục-đa-bà-đề dựa vào kinh nào mà nói? Tin vào việc nào mà nói có Trung hữu?

Đáp: Phái ấy dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Vì ba việc kết hợp, nên được vào thai mẹ:

  1. Cha, mẹ đều có tâm nhiễm, cùng giao hội một chỗ.
  2. Gặp lúc người mẹ kia không bị bệnh.
  3. Kiền-thát-bà hiện ở trước.

Kiền-thát-bà, tức là Trung hữu. Vì nói Kiền-thát-bà hiện ở trước, nên biết có Trung hữu. Kinh khác cũng nói: Trung hữu Nhập Niết-bàn. Do nói có Trung hữu nhập Niết-bàn, nên biết là có Trung hữu. Kinh khác lại nói: Sa-môn Cù-đàm! Thân nầy đã diệt, ở trong khoảng thời gian chưa sinh vào chỗ kia, là ở trong Ma-nậu-ma, vì lập bày mà có các chấp chăng?

Phật bảo Bà-tha: Ở trong khoảng Trung gian đó, ái là thủ, do nói

thân nầy diệt, chưa sinh vào chỗ kia, vì ở trong Ma-nậu-ma, nên biết là có Trung hữu. Cũng tạo ra các thứ vấn nạn. Nếu chết ở đây, sẽ sinh đến châu Uất-đơn-việt. Sự dứt diệt ở trong đây, trong kia, vốn không có mà sinh. Cũng thế thì có pháp mà không, không pháp mà có.

Hỏi: Phái Tỳ-bà Xà-bà-đề làm sao hiểu được kinh do phái Dụcđa-bà-đề đã dẫn?

Đáp: Thuyết theo kinh kia nói là chưa liễu nghĩa, là giả gọi là ý chưa trọn vẹn.

Hỏi: Kinh kia dùng việc gì mà nói là chưa liễu nghĩa, là giả danh, là ý chưa trọn vẹn?

Người kia đáp: Vì kinh Phật nói: Vì ba việc kết hợp, nên được nhập vào thai:

1. Cha, mẹ đều có tâm nhiễm, hội ngộ chung một chỗ. 2. Gặp lúc người mẹ không bị bệnh 3. Kiền-thát-bà hiện ở trước.

Không nên nói Kiền-thát-bà, vì nếu nói Kiền-thát-bà, thì Trung hữu kia tạo ra niềm vui hay không? Nên nói là các hành ấm.

Hỏi: Nếu gọi là Kiền-thát-bà, hoặc gọi là các hành ấm, đều chẳng phải không có Trung hữu. Tỳ-bà Xà-bà-đề lại hỏi thế nầy: Ông nói bốn sinh đều có Trung hữu, hai sinh hữu, ba việc kết hợp, thì có thể như thế, nghĩa là thai sinh, Noãn sinh, hai sinh còn lại thì không như vậy?

Đáp: Nếu có thể như thế thì nói, không thể như thế thì không nói, nhưng chẳng phải không có Trung hữu. Giải thích kinh thứ hai, nghĩa là có trời gọi là Trung hữu nhập Niết-bàn cõi trời kia, nên nói là Trung hữu. Trời Trung hữu nhập Niết-bàn, nghĩa là chết ở đây rồi, nên sinh cõi trời, trong khoảng chưa đến, ở trung gian ấy, tuổi thọ chưa hết, bèn nhập Niết-bàn.

Hỏi: Vì trời nầy, trong Đại tạng kinh không nói. Kinh Phật nói có cõi trời bốn Thiên vương, cho đến cõi trời Phi tưởng Phi phi tưởng, không nói trời Trung hữu. Kinh Phật cũng nói có sinh nhập Niết-bàn. Lại có trời tên là sinh, ở cõi trời Sinh kia mà nhập Niết-bàn, nên nói là sinh nhập Niết-bàn?, cho đến thượng lưu nhập Niết-bàn. Lại có trời tên Thượng Lưu, ở trong cõi trời đó nhập Niết-bàn, nên nói là Thượng Lưu. Nhập Niết-bàn? Ông nói chư Thiên chưa đến, tuổi thọ chưa hết mà nhập Niết-bàn. Chúng sinh đa số mạng sống chưa hết mà chết, trừ người nơi châu Uất-đơn-việt, Bồ-tát với thân sau cùng trên cõi trời Đâu-suất.

Chúng sinh như thế v.v… đều là Trung hữu nhập Niết-bàn? Với kinh Bà Tha, làm sao hiểu được? Kinh đó nói: Ma-nậu-ma là trời cõi Vô sắc. Phạm chí kia đã được thiên nhãn, vừa mới lìa ái sắc thì chết, sinh trong cõi Vô sắc. Phạm chí kia đã dùng thiên nhãn xem khắp cõi Dục, cõi Sắc mà không thấy Trung hữu, rồi nghĩ rằng: Người kia là dứt diệt, liền đi đến chỗ Phật, hỏi như vầy: Sa-môn Cù-đàm! Thân nầy diệt rồi, cho đến ở trong khoảng diệt kia, vì lập bày có các thủ chăng?

Phật bảo Bà-tha: Khoảng giữa của diệt kia, ái là thủ. Do nghĩa nầy, nên biết sinh trong cõi Vô sắc, chẳng phải dứt diệt

Hỏi: Kinh Phật nói có vô số Ma-nậu-ma. Kinh Phật hoặc nói: Vị trời cõi Sắc, cõi Vô sắc là Ma-nậu-ma. Hoặc nói: Con người đầu tiên của kiếp là Ma-nậu-ma. Hoặc nói: Trung hữu là Ma-nậu-ma. Do đâu biết được các tầng trời cõi Vô sắc là Ma-nậu-ma? Người kia nói rằng: Do đâu biết là Ma-nậu-ma?

Đáp: Tức do kinh nầy mà biết. Vì sao? Vì kinh nói: Thân nầy diệt rồi, đến lúc chưa sinh chỗ kia, ở khoảng giữa của sự sinh kia là ở trong Ma-nậu-ma. Do việc nầy, nên biết Ma-nậu-ma tức là Trung hữu.

Đối với các thứ vấn nạn làm sao hiểu được?

Đáp: Kinh kia nói rằng: không xả tử hữu, cho đến sinh hữu nối tiếp nhau. Như con sâu Xà- lâu-khư cho đến chân trước chưa đứng, thì nó không phóng chân sau. Tử hữu, sinh hữu kia cũng giống như thế.

Nếu nói như thế thì sự chết sống của nhân gian, trong địa ngục, chưa xả cõi người, cõi địa ngục nối tiếp nhau, tức là hoại thân, hoại cõi, hai tâm đều hư hoại. Cõi cũng gọi là cõi người, cõi địa ngục. Hư thân hoại, cũng gọi là thân người, cũng gọi là thân địa ngục. Hai tâm cùng có, nghĩa là tâm lúc chết, tâm lúc sống.

Hỏi: Dục-đa-bà-đề làm sao hiểu kinh Tỳ-bà Xà-bà-đề trích dẫn? Đáp: Kinh ấy là kinh chưa liễu nghĩa, là giả gọi ý chưa trọn vẹn.

Hỏi: Do việc nào mà biết là kinh chưa liễu nghĩa, là giả gọi là ý chưa trọn vẹn?

Đáp: Vì kinh kia nên gây ra năm nghiệp Vô gián, tạo rồi lại rộng thêm, khi chết đọa vào địa ngục Vô gián, đây là ngăn ở cõi khác, nghiệp khác. Ngăn chận đường khác: nghĩa là nghiệp Vô gián, sẽ sinh vào đường địa ngục, bất sinh đường khác. Ngăn dứt nghiệp khác: nghĩa là nghiệp Vô gián, sẽ phải thọ nhận sinh báo, chẳng phải hiện báo, hậu báo. Đây là chỗ nghĩa chưa liễu của kinh kia. Nếu như văn kinh không nhận lấy nghĩa ấy, kinh nói tạo ra năm nghiệp Vô gián, gây ra rồi thì thêm rộng, khi chết đọa vào địa ngục Vô gián, không hẳn phải tạo đủ năm nghiệp, mới đọa địa ngục. Nhưng có tạo một, hai, ba, bốn và nghiệp Vô gián, mà không gồm nhiếp nghiệp đọa vào địa ngục. Kinh nói: qua đời đọa vào địa ngục Vô gián. Nói không có gián dứt, nghĩa là gây ra nghiệp Vô gián ở Sát-na nầy, tức Sát-na nầy đọa vào địa ngục? Nhưng vì có người gây ra năm nghiệp Vô gián rồi, có kẻ tuổi thọ trăm năm, cho nên không đều như văn kinh, cần nên dựa vào nghĩa mà kệ đã nói. Về nghĩa hiểu cũng giống như thế.

Các việc vấn nạn làm sao hiểu được?

Đáp: Vấn nạn nầy không cần phải hiểu. Vì sao? Vì vấn nạn nầy chẳng phải tu-đa-la, chẳng phải Tỳ-ni, chẳng phải A-tỳ-đàm, nên không thể dùng hiện dụ của thế gian để vấn nạn pháp Hiền, Thánh, vì pháp Hiền, Thánh khác, pháp thế gian khác.

Nếu muốn hiểu, là có ý gì?

Đáp: Nên nói lỗi của dụ. Nếu thí dụ có lỗi, thì nghĩa cũng có lỗi, như bóng của sự sáng suốt là không có căn, không có tâm, chẳng phải pháp số chúng sinh. Tử hữu, Sinh hữu cũng không căn không tâm, chẳng phải pháp số của chúng sinh. Như bóng sáng câu sanh. Tử hữu sinh hữu cũng là câu sinh phải không? Nhưng thí dụ nầy là nói có trung hữu, chẳng phải không có trung hữu, như bóng sáng không có gián cách. Trong Tử hữu, có Trung hữu, Sinh hữu không gián dứt, cũng giống như thế.

Những nghĩa như vậy đều nói là không có Trung hữu. Những nghĩa như thế đều nói có Trung hữu. Trong hai nghĩa, nghĩa nào là vượt hơn? Thuyết nói có Trung hữu là vượt hơn. Nhưng thuyết của Tỳ-bà Xàbà-đề nói không có Trung hữu là quả của vô minh, quả của bóng tối, quả của phương tiện không siêng năng. Tuy nhiên, Trung hữu là pháp thật có. Cho nên, vì muốn ngăn dứt nghĩa của người khác, vì muốn làm sáng tỏ nghĩa của mình, cho đến nói rộng, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Trung hữu là do cõi gồm nhiếp, hay là chẳng phải do cõi gồm nhiếp? Nếu là cõi gồm nhiếp thì với Luận Thi Thiết nói, làm sao hiểu? Như nói: Năm cõi là gồm nhiếp bốn sinh, bốn sinh là gồm nhiếp năm cõi phải không?

Đáp: Bốn sinh gồm nhiếp năm đường, chẳng phải năm cõi gồm nhiếp bốn sinh, không gồm nhiếp những gì? Không gồm nhiếp trung hữu.

Với kinh Pháp Thân nói, làm sao hiểu được? Như nói: Thế nào là Nhãn giới? Đáp: Bốn đại và sắc tạo thanh tịnh. Nhãn, nhãn căn nhãn nhập, nhãn giới, nếu là mắt của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, trời. Hoặc là mắt do tu được, hoặc là mắt của trung hữu.

Nếu thuộc về đường, thuyết của Tôn giả Đà–La-Đạt-Đa đã nói, làm sao hiểu được? Như nói: Nếu hướng đến pháp cõi kia, thì gọi là cõi kia, lệ thuộc cõi kia. Như lúc mầm lúa mọc, thì gọi là lúa, cõi kia cũng giống như thế?

Đáp: Nên nói rằng: Trung hữu là thuộc về đường, điều Tôn-giảĐà-La-Đạt-Đa nói, thì khéo hiểu, còn Luận Thi Thiết nói làm sao hiểu?

Đáp: Văn Luận Thi Thiết nên nói rằng: Năm đường gồm nhiếp bốn sinh, hay bốn sinh gồm nhiếp năm đường?

Đáp: Lần lượt tùy theo chủng loại cùng gồm nhiếp nhau.

Mà không nói là có ý gì?

Đáp: Do người tụng nhầm lẫn!

Với kinh Pháp Thân nói, làm sao hiểu?

Đáp: Văn kinh Pháp Thân nên nói rằng: Mắt của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người, trời và mắt do tu được, không nên nói mắt của Trung hữu.

Mà không nói là có ý gì?

Đáp: Do Trung hữu là pháp vi tế. Ở trong các đường đã hiển hiện rõ, lại hiển hiện riêng, giống như tướng soái giặc bị quở trách chung trong đám giặc, cũng quở trách riêng. Người nữ cũng thế, có hai việc quở trách:

  1. Do phiền não, bị quở trách chung.
  2. Do thể thấy kém, lại quở trách riêng.

Trung hữu kia cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Trung hữu chẳng lệ thuộc cõi, thuyết của Luận Thi Thiết, kinh Pháp Thân nói có thể khéo hiểu, còn thuyết của Tôn giả Đà- La- Đạt- Đa nói, làm sao hiểu được?

Đáp: Về thuyết nầy không cần phải hiểu. Vì sao? Vì thuyết nầy chẳng phải Tu-Đà-La, Tỳ-ni, A-Tỳ-Đàm, mà là nghĩa tự tạo, hoặc đúng, hoặc không đúng. Hoặc có nói không, hoặc không nói có.

Nếu muốn hiểu là có ý gì?

Đáp: Do giống nhau, nên nói thế nầy: Như hình tướng trong địa ngục, hình tướng Trung hữu cũng thế. Cho đến Trung hữu cõi trời, nói cũng giống như vậy.

Lời bình: Nên nói rằng: Trung hữu chẳng lệ thuộc cõi. Vì sao? Vì đi đến là nghĩa đường. Vì Trunh hữu đi chưa đến chỗ kia, nên chẳng lệ thuộc cõi. Lại nữa, Trung hữu là nhân cõi, cõi là quả. Nhân không gồm nhiếp quả, quả không gồm nhiếp nhân. Như nhân, quả, năng tác, sở tác, năng nhận lấy, năng thủ, sở thủ cũng giống như thế.

Lại nữa, Trung hữu là Vi tế, đường là thô, thô không gồm nhiếp tế, hiện thấy, không hiện thấy, rõ ràng, không rõ ràng, nói cũng giống như thế.

Lại nữa, Trung hữu thì tán loạn, đường chẳng tán loạn. Chẳng tán loạn không gồm nhiếp tán loạn.

Lại nữa, vì trung hữu là pháp trung gian đường, nên chẳng lệ thuộc cõi, như khoảng giữa của ruộng, chẳng thuộc về ruộng, khoảng giữa của phương hướng, quốc độ, thôn xóm, chẳng thuộc về phương hướng, quốc độ, thôn xóm. Trung hữu kia cũng giống như thế.

Hỏi: Xứ nào có trung hữu?

Đáp: Cõi Dục, cõi Sắc, chẳng phải cõi Vô sắc.

Hỏi: Vì vì ở cõiVô sắc không có trung hữu?

Đáp: Chẳng phải là ruộng, chẳng phải đồ đựng, cho đến nói rộng.

Lại nữa, nếu xứ sở có thọ nhận hai thứ nghiệp báo thì có trung hữu. Nghĩa là nghiệp báo của trung hữu, nghiệp báo của sinh hữu. Cõi Vô sắc chỉ có nghiệp báo của sinh hữu. Như nghiệp báo của Trung hữu, nghiệp báo của sinh hữu, nghiệp báo mới gây ra nghiệp báo sinh hữu, nghiệp của quả vi tế, quả thô, nói cũng giống như thế.

Lại nữa, nếu xứ sở thọ nhận hai thứ nghiệp báo, nghĩa là nghiệp báo của sắc, nghiệp báo của Vô sắc, thì xứ sở ấy sẽ có trung hữu. Cõi Vô sắc chỉ có nghiệp báo của Vô sắc. Như nghiệp báo của sắc, nghiệp báo của Vô sắc, nghiệp tương ưng, nghiệp không tương ưng, nghiệp có chỗ nương dựa, nghiệp không có chỗ nương tựa, nghiệp có uy thế, nghiệp không có uy thế, nghiệp có duyên, nghiệp không có duyên, nói cũng giống như thế.

Lại nữa, nếu xứ sở có ba thứ nghiệp: Nghiệp thân, miệng, ý, thì có trung hữu. Cõi Vô sắc chỉ có ý nghiệp.

Lại nữa, nếu ở xứ sở có mười nghiệp đạo thiện, thì có trung hữu. Cõi Vô sắc chỉ có ba đạo nghiệp thiện.

Lại nữa, nếu xứ có nghiệp báo năm ấm, thì có trung hữu. Cõi Vô sắc chỉ có nghiệp báo bốn ấm.

Lại nữa, nếu có hai thứ pháp bạch là nhân bạch và quả bạch (thiện), thì có trung hữu. Cõi Vô sắc chỉ có nhân bạch không có quả bạch.

Lại nữa, nếu ở chỗ có đến, đi, thì có trung hữu. Cõi Vô sắc không có đến, đi.

Hỏi: Nếu vậy thì chết rồi, sinh lại trong thi thể mình, đâu có đến đi?

Đáp: Chúng sinh, hoặc có người đọa vào đường ác, hoặc có kẻ sinh trong bốn châu thiên hạ, hoặc có người sinh lên cõi trời, hoặc có kẻ nhập Niết-bàn.

Người đọa vào đường ác, thức sẽ diệt ở dưới chân. Kẻ sinh trong bốn châu thiên hạ, thức sẽ diệt ở rốn. Người sinh lên cõi trời, thức sẽ diệt ở mặt. Người nhập Niết-bàn, thức sẽ tắt ở tim. Chúng sinh phần nhiều sinh ái đối với khuôn mặt. Nếu tâm thức diệt từ dưới chân, đến sinh trên mặt thì há chẳng phải đến, đi hay sao? Nếu thức diệt từ chân, lại sinh trong chân, mà sinh ở cõi Vô sắc, thì không có việc ấy.

Hỏi: Trung hữu có dời chuyển hay không?

Đáp: Không có dời chuyển. Nghĩa là ở giới, ở cõi, ở xứ.

Hỏi: Nếu trung hữu ở nơi giới không có dời chuyển, thì nhân duyên Tỳ-kheo ít hiểu biết, làm sao hiểu được?

Nghe nói có dòng họ xuất gia trong pháp Phật, không tu theo phương tiện học rộng, ở chốn A-luyện-nhã, nhờ sức nhân đời trước, nên có thể khởi Sơ thiền của thế tục, cho là quả Tu-đà-hoàn, cho đến khởi đệ Tứ thiền của thế tục, cho là quả A-la-hán. Ở trong một đời, chưa được nói là được, chưa hiểu, cho là hiểu, chưa chứng nói là đã chứng, không còn cầu đạo thắng tiến, chưa được sẽ được, chưa hiểu sẽ hiểu, chưa chứng sẽ chứng. Về sau khi chết, trung hữu của đệ Tứ thiền hiện ở trước. Lúc ấy, liền nghĩ: Ta đã dứt hết tất cả phần sinh, lẽ ra nhập Niếtbàn, chẳng sinh lại. Nay Trung hữu của ta do duyên cớ nào mà sinh? Nhất định không có giải thoát. Nếu có giải thoát, lẽ ra ta phải được, bèn sinh tà kiến chê bai Niết-bàn. Do tà kiến đó, nên Trung hữu của đệ Tứ thiền liền diệt, Trung hữu của địa ngục A-tỳ hiện ngay ở trước, sau khi chết đọa vào địa ngục A-tỳ?

Đáp: Đây là lúc hữu trước dời chuyển, chẳng phải lúc của Trung hữu, vì khi người xuất gia kia chết, điềm lành hiện ra trước. Vừa thấy điềm lành ấy liền nghĩ: Ta đã dứt tất cả phần sinh, lẽ ra phải được Nhập Niết-bàn. Nay vì sao sinh ra điềm lành nầy? Nhất định không có giải thoát. Nếu có giải thoát thì lẽ ta phải được, bèn sinh tà kiến chê bai Nhập Niết-bàn. Do sinh tà kiến đó, nên điềm lành của đệ Tứ thiền biến mất! Điềm dữ địa ngục A-tỳ hiện ở trước. Thân người kia khi chết, sinh vào địa ngục A-tỳ.

Do việc nầy, nên biết được thời gian mà hữu trước đã dời chuyển chẳng phải thời gian của trung hữu.

Hỏi: Nếu Trung hữu không có dời chuyển ở cõi, thì nhân duyên Thiện hành, Ác hành làm sao hiểu được? Nghe nói: Ở nước Xá Vệ có hai người: Một là Thiện Hành, hai là Ác Hành. Thiện hành suốt đời thường thực hành các hạnh lành, không làm điều ác, còn Ác Hành, thì suốt đời làm mọi điều ác, không thực hành điều thiện. Người hành vi ác, do nghiệp thiện báo sau, nên trung hữu cõi trời hiện ra ở trước. Bấy giờ liền nghĩ: Trong suốt một đời, ta thường làm điều ác, không làm việc lành, lẽ ra phải đọa vào đường ác, không thể sinh lên cõi trời. Nay vì sao sinh Trung hữu ở cõi trời bèn nghĩ rằng: Nhất định không có nghiệp báo thiện ác, vì nếu có thì lẽ ra ta đã được rồi, bèn sinh tà kiến chê bai nhân quả, do tà kiến, nên Trung hữu cõi trời liền diệt, Trung hữu địa ngục liền sinh, chết liền đọa vào địa ngục.

Thiện hành thường làm việc thiện, khi sắp qua đời, do nghiệp bất thiện của báo sau, nên Trung hữu của địa ngục hiện ra trước, bèn nghĩ: Trong một đời mình, thường thực hành hạnh lành, không hành vi ác, lẽ ra phải được sinh vào đường thiện, không thể sinh đường ác. Nay vì sao ta đọa vào Trung hữu địa ngục? Lại nghĩ: Nhất định là do nghiệp bất thiện của báo sau của ta. Nay sinh quả nầy, tức tự nhớ nghĩ đến các việc thiện đã làm, nên sinh tâm thiên rộng lớn, mà hiện ra ở trước, Trung hữu địa ngục liền tiêu diệt, Trung hữu cõi trời liền sinh khi chết sinh lên cõi trời?

Đáp: Như trường hợp nầy đều là thời gian dời chuyển của hữu trước, chẳng phải thời gian Trung hữu. Khi tất cả chúng sinh chết, sẽ có điều tốt, xấu. Nếu chúng sinh nào thường làm việc thiện, thì đa số họ sẽ thấy nơi có nhà cửa đẹp đẽ, lầu quán, vườn, rừng, chỗ tắm rửa, dạo chơi. Chúng sinh làm nhiều điều ác, khi sắp chết, phần nhiều thấy lửa cháy, rừng dao, chó sói độc dữ, mồ mả v.v…

Người hành vi ác, khi sắp chết, do nghiệp thiện của báo sau, nên điềm lành cõi trời hiện ở trước, thấy rồi liền nghĩ rằng: Trong một đời, ta đã thường làm ác, không hành hạnh lành, đáng lẽ phải đọa vào đường ác, không thể sinh lên cõi trời. Nay điềm lành nầy do duyên nào mà sinh, nhất định không có nghiệp báo thiện, ác, rồi sinh khởi tà kiến chê bai nhân quả. Vì sinh tà kiến, nên tướng điềm lành cõi trời liền mất, điềm dữ địa ngục liền sinh.

Người thực hành hạnh lành, khi sắp chết, do nghiệp ác của báo sau, nên tướng địa ngục hiện ở trước, thấy rồi, liền nghĩ: Trong suốt một đời ta, thường hành hạnh lành, không làm việc vi ác, lẽ ra phải được sinh vào xứ sở thiện, không đọa vào đường ác. Nay vì sao sinh ra điềm dữ như thế? Nhất định là do nghiệp bất thiện nơi báo sau của ta, nên mới sinh ra quả nầy, liền tự nhớ lại các việc thiện đã làm, sinh tâm thiện rộng lớn hiện ở trước, tướng địa ngục liền biến mất, điềm lành cõi trời xuất hiệnkhi chết được sinh lên cõi trời.

Do việc ấy, nên hai người nầy đều do sự dời chuyển của thời gian hữu trước, chẳng phải thời gian của Trung hữu.

Hỏi: Nếu Trung hữu ở chỗ không dời chuyển, thì nhân duyên vua Tần-bà-sa-la, làm sao hiểu được? Nghe nói Trung hữu ở cõi trời Đâusuất của vua Tần-bà-sa-la hiện ở trước, sẽ sinh lên trời Đầu-suất, lúc vượt qua đỉnh núi Tu-di, thấy Thiên vương Tỳ Sa-môn đang ăn thức ăn màu sắc tươi sáng, đầy đủ hương vị, bèn nghĩ: Trước, ta sinh vào cõi nầy, về sau, sẽ sinh lên cõi trời Đầu-suất. Vừa nghĩ như thế, thì Trung hữu của trời Đầu-suất liền biến mất, Trung hữu cõi trời Tứ Thiên Vương liền sinh khi chết được sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương ấy phải không?

Đáp: Hiện trạng nầy cũng là thời gian của hữu trước dời chuyển, chứ chẳng phải thời gian của Trung hữu.

Nghe nói vua Tần-bà-sa-la bị con tội ác là A-xà-thế bắt trói, giam vào ngục, cấm không cho ăn uống, nhà vua dùng dao gọt da chân để ăn.

Bấy giờ, Đức Thế tôn đang ngự tại núi Kỳ-xà-quật, vì thương xót vua, nên phóng ra luồng ánh sáng xuyên qua cửa sổ, chiếu vào thân vua. Vì được ánh sáng Phật soi chiếu nên thân vua được yên ổn, sinh tâm nghĩ đến Phật: Nay ta gặp phải ách nạn nầy, nhưng Thế tôn không thấy, không nghĩ đến! Lúc Đức Thế tôn biết rõ tâm niệm của nhà Vua, vội bảo Đại Mục-kiền-liên: Ông hãy đến chỗ vua Tần-bà-sa-la, nói rằng: Như lai đối với đại vương, những điều gì nên làm, đều đã làm xong, cứu giúp nghiệp báo quyết định nơi đường ác của ông, trong khi Như lai còn không thể tránh khỏi!

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghe lời Phật dạy, liền nhập thiền định, do năng lực thiền định theo như chỗ nghĩ, từ núi Kỳ-xà-quật biến mất, như nước nơi ao suối từ đất hiện ra, Tôn giả dừng lại trước vua Tần-bà-sa-la, nói: Đại vương nên biết! Lời Đức Như lai nói không hai, với tuệ nhãn thanh tịnh soi chiếu, thấy sâu về nhân quả, mà nói rằng: Như lai đối với đại vương, những điều gì nên làm, đều đã làm rồi, cứu giúp nghiệp báo quyết định trong đường ác của đại vương, trong khi Như lai còn không tránh khỏi. Nói rồi, Tôn giả lại vì nhà vua giảng nói pháp. Lúc đó, vì quá đói khát, nên vua Tần-bà-sa-la không hiểu rõ, nên nói: Thưa Tôn giả Đại Mục-kiền-liên! Vị trời nào có thức ăn, ngon hơn hết?

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền theo thứ lớp khen ngợi thức ăn của Bốn v.v… Thiên Vương. Vua Tần-bà-sa-la nghe rồi, chết đi được, sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, làm Thái tử của Thiên Vương Tỳ Samôn, tên là Xà-Na-Lê-Sa.

Do việc nầy, nên biết là thời gian dời chuyển của hữu trước chẳng phải thời gian của Trung hữu. Phái Thí dụ giả nói rằng: Trung hữu có thể dời đổi. Phái kia nói rằng: Tất cả các nghiệp đều có thể dời đổi. Tạo nên năm nghiệp Vô gián còn có thể dời đổi, huống chi là Trung hữu. Nếu gây ra nghiệp Vô gián không thể dời đổi, thì sẽ không thể vượt qua Hữu Đảnh. Vì có khả năng vượt qua Hữu Đảnh, nên biết được năm nghiệp Vô gián cũng có thể dời chuyển.

Lời bình: Nên nói rằng: Trung hữu không thể dời chuyển.

Hỏi: Trung hữu trải qua thời gian bao lâu?

Đáp: Phải trải qua một chút thời gian không lâu. Vì sao? Vì Trung hữu kia đối với sáu nhân để tìm chỗ thọ nhận thân, cho nên, phải nhanh chóng để cho Sinh Hữu nối tiếp.

Hỏi: Sự hòa hợp, của pháp thọ nhận thân của chúng sinh, rất nhanh chóng để cho Sinh Hữu nối tiếp, có thể như thế. Nếu pháp thọ nhận thân không hòa hợp, như người cha ở Kế-tân, mẹ ở Chân Đơn, hay cha ở Chân- Đơn, mẹ ở Kế-tân thì làm sao có thời gian nhanh chóng để cho Sinh Hữu nối tiếp?

Đáp: Nên quán sát chúng sinh nầy, hoặc gây ra nghiệp đối với mẹ có thể dời đổi, gây ra nghiệp đối với cha không thể dời đổi. Hoặc gây ra nghiệp đối với cha có thể dời chuyển, gây ra nghiệp đối với mẹ không thể dời chuyển. Hoặc gây ra nghiệp đối với cha mẹ, đều không thể dời chuyển. Nếu gây ra nghiệp đối với mẹ có thể dời chuyển, gây ra nghiệp đối với cha không thể dời chuyển: Nếu là người đầy đủ oai nghi, tịnh tu phạm hạnh, thân giữ năm giới, là người nam tốt, tất nhiên, đến bên cạnh phu nữ khác, để cho Sinh hữu kia được nối tiếp. Nếu gây ra nghiệp đối với cha có thể dời chuyển, gây ra nghiệp đối với mẹ không thể dời chuyển: Nếu là người đầy đủ oai nghi, tịnh tu phạm hạnh, thân giữ năm giới, là người nữ tốt, thì sẽ đến bên người nam khác, khiến cho Sinh hữu kia nối tiếp. Nếu gây ra nghiệp đối với cha mẹ đều không thể dời chuyển, thì người thọ nhận thân dù chưa chết, người ấy tuy đã tìm kiếm nhưng chưa được, bèn sinh tâm ra đi. Trên con đường Trung hữu đi, lửa không thể đốt, dao không thể gây tổn thương, chất độc không thể hại, tất nhiên Trung hữu đã đến với sự hòa hợp của cha mẹ kia, giúp cho Sinh hữu ấy nối tiếp.

Hỏi: Nếu chúng sinh thường có tâm dục thì có thể như thế, còn các chúng sinh có tâm dục trong từng thời gian thì làm sao có thể như thế? Như chó có tâm dục vào mùa thu, loài gấu có tâm dục vào mùa đông. Ngựa có tâm dục vào mùa Xuân. Bò có tâm dục vào mùa hè. Các động vật v.v… như vậy, làm sao có thể như thế?

Đáp: Do nghiệp lực của chúng sinh kia, nên phi thời cũng sinh tâm dục, mà được hòa hợp, để cho sinh kia nối tiếp nhau.

Lại có thuyết nói: Sự sinh giống nhau, thích hợp. Như khi chó có tâm dục, chó sói thường có tâm dục, lẽ ra phải sinh vào loài chó, nhưng lại sinh vào loài chó sói. Lúc gấu có tâm dục, gấu thường có tâm dục, lẽ ra phải sinh trong loài gấu, nhưng lại sinh trong loài gấu. Khi ngựa có tâm dục, lừa thường có tâm dục, lẽ ra phải sinh trong loài ngựa, nhưng lại sinh trong loài lừa. Lúc bò có tâm dục, bò hoang thường có tâm dục, lẽ ra phải sinh trong loài bò, nhưng lại sinh vào loài bò hoang.

Tôn giả Xa-ma-đạt-đa nói: chúng sinh Trung hữu sống bốn mươi chín ngày.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: chúng sinh Trung hữu tuổi thọ bảy ngày, không quá một tuần. Vì sao? Vì thân Trung hữu rất yếu kém.

Hỏi: Nếu đến bảy ngày, mà chỗ sinh không hòa hợp, thì Trung hữu đoạn diệt phải không?

Đáp: Không dứt diệt, Tức được dừng lại lâu ở trung hữu.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Tuổi thọ của Trung hữu không nhất định. Vì sao? Vì duyên của nơi sinh không nhất định. Mặc dù Trung hữu được hòa hợp, nhưng vì Sinh hữu không hòa hợp, nên khiến cho Trung hữu dừng lại trong thời gian lâu.

Hỏi: Hình tướng Trung hữu lớn hay nhỏ?

Đáp: Hình tướng Trung hữu như đứa trẻ năm, sáu tuổi.

Hỏi: Nếu Hình tướng Trung hữu như thế, làm sao lại sinh ra tưởng điên đảo: Đối với mẹ, sinh tâm ái, sinh tâm giận dữ đối với cha?

Đáp: Hình tướng tuy nhỏ, nhưng các căn giống như hình tượng người già được vẽ trên vách, hình dáng dù nhỏ, nhưng có tướng già.

Hỏi: Hình tướng Trung hữu của Bồ-tát lớn hay nhỏ?

Đáp: Như thời gian trước kia, có hình tướng của tuổi trẻ v.v…, cũng vẫn trang nghiêm thân bằng ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tùy hình tốt đẹp, toàn thân thuần là sắc vàng ròng, ánh sáng tròn bao quanh thân một tầm.

Do việc nầy, nên khi Bồ-tát trụ ở Trung hữu, thân Trung hữu có ánh sáng, soi rọi trăm ức bốn châu thiên hạ.

Hỏi: Nếu vậy thì với kệ pháp do Tu Bồ-đề nói, làm sao hiểu được.

Như nói:

Hình kia như voi trắng

Bốn chân, có sáu ngà

Đến nhập vào thai mẹ

Như tưởng dạo vườn lầu.

Đáp: kệ nầy không cần hiểu? Vì sao? Vì kệ nầy chẳng phải tu-đala, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, là nghĩa tự tạo, hoặc đúng, không đúng. Hoặc có nói không, không nói có. Nếu muốn hiểu, là có ý gì?

Đáp: Pháp của quốc độ nơi phương kia cho mộng ấy là tốt. Cho nên, mẹ của Bồ-tát nằm mộng thấy việc nầy, muốn cho người xem tướng đều nói là tốt. Bồ-tát trong chín mươi mốt kiếp, không hề bị đọa vào đường ác, thì vì sao tạo ra hình tướng súc sinh đến nhập vào thai mẹ?

Hỏi: Trung hữu có đủ các căn hay không đủ các căn?

Đáp: Các căn đều đủ. Vì sao? Vì lúc Trung hữu mới sinh, sáu nhập đều tìm kiếm hữu.

Lại có thuyết nói: Không đủ các căn?

Hỏi: Không đủ căn nào?

Đáp: Thời gian trước đã có các căn không đủ. Nghĩa là tùy theo Trung hữu, giống như chỗ giống của in tượng, có chỗ giống của thời gian trước khi ra Trung hữu cũng vậy.

Lời bình: Nên nói rằng: Đều đủ các căn. Vì sao? Vì lúc Trung hữu sinh, sáu nhập đều tìm kiếm hữu!

Hỏi: Lúc Trung hữu đi thì thế nào?

Đáp: Chúng sinh, bị đọa vào địa ngục, lúc đi đầu quay xuống dưới, chân hướng lên trên. Như kệ nói:

Người đọa vào địa ngục

Thân họ đều treo ngược

Vì hủy báng Hiền, Thánh

Và các người vị tịnh hạnh.

Người sinh bốn thiên hạ, thì đi xương sống nằm ngang, như chim bay trên hư không, như vẽ hình người bay trên vách.

Người được sinh lên cõi trời, đầu hướng lên trên, như ngửa mặt bắn mũi tên lên hư không.

Hỏi: Lúc Trung hữu sinh, có mặc y phục hay không?

Đáp: Tất cả Trung hữu ở cõi Sắc khi sinh đều có mặc y phục. Vì sao? Vì cõi Sắc là cõi thường hổ thẹn. Như pháp thân thường dùng y phục để che. Sinh thân cũng thế. Thân Trung hữu của chúng sinh cõi Dục sinh ra đa số không có mặc y phục, chỉ trừ Bồ-tát, Tỳ-kheo ni Bạch Tịnh.

Lại có thuyết nói: Trung hữu của Bồ-tát không có mặc y phục, còn Tỳ-kheo ni Bạch tịnh thì có.

Hỏi: Vì sao Trung hữu của Bồ-tát không mặc y phục, còn Tỳ-kheo ni Bạch tịnh thì có?

Đáp: Vì Tỳ-kheo ni Bạch tịnh đã thí áo lông cừu cho chư tăng bốn phương.

Hỏi: Bồ-tát thí dứt y cho tăng bốn phương nhiều hơn so với y phục kết lông cừu của Tỳ-kheo ni Bạch tịnh đã thí?

Đáp: Tỳ-kheo ni Bạch tịnh sau khi thí cho tăng áo lông cừu rồi, liền phát nguyện thế nầy: Nguyện cho tôi nơi chốn sinh ra trong các đời đều thường mặc y phục. Do nguyện lực đó, nên lúc Trung hữu sinh đều mặc y phục. Kể cả khi nhập thai xuất thai cũng thường mặc y phục. Thân của bà càng ngày càng lớn y phục cũng lớn theo. Đối với pháp Phật, bà phát sinh niềm tin, về sau xuất gia, liền đem y nầy chế ra năm thứ y, siêng tu phương tiện, chứng được quả A-la-hán, đến khi Nhập Niết-bàn, dùng y nầy quàng vào thân mà trà tỳ.

Các pháp thiện Bồ-tát thực hành, đều, hồi hướng Bồ-đề Vô thượng, để có thể sinh ra quả của nhân giống nhau. Thân sau cùng của Bồ-tát được thân tối thắng đối với tất cả chúng sinh.

Hỏi: chúng sinh Trung hữu ăn thức ăn gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Chỗ nào có thức uống ăn thì ăn các thức uống ăn ấy. Còn ở bên cạnh ao, hồ, sông, suối thì uống nước ấy để sống còn.

Hỏi: Nếu vậy, nghe nói nói, như nước đọng lại trong đãy lọc nước, gạo dính trong nồi, chúng sinh Trung hữu nơi năm đường rải rác ở thế gian, cũng giống như thế. Các thức uống ăn trong tất cả thế gian, giả như chỉ loài chó mới có thức ăn, cũng không đủ cung cấp, huống chi là loài khác. Tuy nhiên, thân Trung hữu kia rất nhẹ, thức uống ăn thì thô, nặng. Nếu ăn thức ăn nầy thì thân sẽ tan, hoại. Nếu vậy, làm sao tự sống còn?

Đáp: Trung hữu dùng mùi hương làm thức ăn. Nếu chúng sinh, có phước đức thì dùng thức ăn uống sạch, uống ăn hương thơm của hoa quả để tự tồn tại. Kẻ không có phước đức thì Trung hữu của họ sẽ ăn các thứ mùi hôi hám của phẩn uế, bất tịnh, để tự sống còn.

Trung hữu được gọi là Trung hữu, cũng gọi là Kiền-thát-bà, cũng gọi là Cầu hữu, cũng gọi là Ma-nậu-ma.

Hỏi: Vì sao gọi là Trung hữu?

Đáp: Vì sinh giữa hai hữu nên gọi là Trung hữu.

Hỏi: Nếu vậy thì các hữu khác ở giữa hai hữu đều được gọi là Trung hữu phải chăng?

Đáp: Nếu là hữu ở giữa hai hữu, không lệ thuộc cõi, thì gọi là Trung hữu. Nếu ở giữa hai hữu mà lệ thuộc cõi thì không gọi là Trung hữu.

Lại nữa, nếu ở trung gian giữa hai hữu, mà vi tế, khó sáng, khó thấy, khó rõ, thì gọi là Trung hữu. Các hữu khác dù ở giữa hai hữu nhưng là thô, dễ thấy, dễ sáng, dễ rõ, thì không được gọi là Trung hữu. Hỏi: Vì sao gọi Trung hữu là Kiền-thát-bà?

Đáp: Vì Trung hữu dùng mùi hương để sống còn, nên gọi là Kiềnthát-bà.

Vì sao gọi là Cầu hữu?

Đáp: Vì khi sinh, Trung hữu dùng sáu nhập để tìm kiếm hữu nên gọi là cầu hữu.

Vì sao gọi là Ma-nậu-ma?

Đáp: Vì từ ý sinh, nên gọi là Ma-nậu-ma.

Chúng sinh hoặc có loại từ ý sinh, hoặc có loại từ nghiệp sinh, từ báo sinh, từ hội hợp sinh.

Từ ý sinh, nghĩa là chư thiên cõi Sắc, cõi Vô sắc và Trung hữu.

Từ nghiệp sinh: là chúng sinh địa ngục, như nói: chúng đọa vào địa ngục đều bị nghiệp trói buộc. Từ báo sinh: Như chim bay.

Từ hội hợp sinh: Như con người, sáu tầng trời cõi Dục.

Kinh Phật nói: Vì ba việc hòa hợp, nên được vào thai mẹ: 1. Cha mẹ đều có tâm nhiễm, hội hợp một chỗ,

  1. Gặp lúc người mẹ kia không bị bệnh.
  2. Kiền-thát-bà hiện ở trước.

Ba việc hòa hợp tức là cha, mẹ, Kiền-thát-bà.

Cha mẹ có tâm nhiễm: Tức tâm dục hiện ở trước.

Hội hợp một chỗ: Muốn hội hợp chung.

Người mẹ không bị bệnh. Là lúc người mẹ kia hoan hỷ.

Tỳ-ni nói rằng: Người mẹ kia do tâm dục nhơ đục, như lúc trời mưa, nước sông đều đục. Tâm dục của người mẹ kia cũng giống như thế. Cũng không có gió lạnh, nóng v.v…

Lúc bị các chứng bệnh: Là gặp lúc nước kinh của người nữ. Nếu

nước kinh nhiều mỏng, sẽ không thành thai Nếu nước kinh ít, khô, cũng không thành thai, do tinh huyết của cha mẹ, sau đó mới thành thai, đó gọi là lúc gặp, cũng gọi là có thân. Kiền-thát-bà hiện ở trước: Là Trung hữu hiện ở trước, hoặc khởi tâm ái, hoặc khởi tâm giận dữ. Nếu thân Trung hữu là nam thì yêu đối với mẹ, nổi cơn giận dữ đối với cha. Trung hữu kia nghĩ rằng: Nếu không có người nam ấy, thì ta sẽ giao hợp với người nữ nầy. Bấy giờ, liền khởi tưởng điên đảo như thế: Khi thấy người nam kia cách xa, thì cảm thấy thân mình như giao hợp với người nữ ấy. Lúc cha mẹ giao hợp xuất tinh khí, Trung hữu thấy rồi, cho là của mình, sinh tâm vui mừng. Vì sinh tâm vui mừng nên mê muội. Vì mê muội, nên Trung hữu càng nặng, không còn dời động. Lúc ấy tự thấy mình đang ngồi bên hông phải của mẹ, mặt hướng về lưng mẹ. Nếu Trung hữu là người nữ, thì cảm thấy yêu đối với cha, giận dữ đối với mẹ. Trung hữu nữ ấy nghĩ rằng: Nếu không có người nữ nầy, thì sẽ giao hội với người nam ấy. Khi đó, bèn khởi ý nghĩ điên đảo như thế: Lúc thấy người nữ kia cách xa, cảm thấy thân mình đang giao hợp với người nam nầy. Khi cha mẹ giao hợp tiết ra tinh, khí Trung hữu thấy cho là của mình bèn sinh tâm vui mừng. Vì sinh tâm vui mừng, nên mê muội, vì mê muội nên Trung hữu trở thành nặng, không còn nhúc nhích. Lúc nầy, Trung hữu tự thấy thân mình đang ngồi ở hông trái mẹ, mặt hướng về bụng mẹ.

Tất cả chúng sinh đều có ý nghĩa điên đảo như thế mà vào thai mẹ, chỉ trừ Bồ-tát. Bồ-tát khi nhập thai mẹ, vì biết người nữ nầy là mẹ mình, người nam nầy là cha mình, nên đối với mẹ, sinh tưởng là mẹ, đối với cha, sinh tưởng là cha.

Hỏi: Trung hữu vào thai mẹ từ chỗ nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trung hữu kia không có chướng ngại, nên bất cứ chỗ nào cũng vào được.

Hỏi: Nếu nói vào thai mẹ không có chướng ngại, thì không nên ở trong thân mẹ?

Đáp: sức của nghiệp, nên bị ràng buộc trong thai mẹ.

Lời bình: Nên nói rằng: Trung hữu từ sinh môn đi vào, trong thai mẹ. Do việc ấy, nên song sinh, đứa ra sau là lớn. Vì sao? Vì vào thai mẹ trước.

Luận Thi Thiết nói: Cha, mẹ có phước đức v.v… mới có thể thọ thai

Hỏi: Người nam giàu sang gần người nữ nghèo hèn. Người nữ giàu sang gần người nam thấp kém, làm sao có thể thọ thai?

Đáp: Lúc đó, Trung hữu thấy người nữ kia, nghĩ là tôn quý, tự thấy thân mình, sinh tưởng thấp kém. Người nữ tự cho là vượt hơn, coi người nam là thấp kém. Người nữ tôn quí gần người nam thấp kém, cho người kia là vượt hơn, cho mình là thấp kém. Người nam kia thấy mình là hơn, cho người kia là thấp hèn. Khi ấy, vì có ý nghĩ như thế về phước đức v.v… nên mới có thể thọ thai.

Một người ở trong thai mẹ, có Trung hữu của năm đường. Như chó, chó sói, cá, ểnh ương, v.v…

Hỏi: Nếu là Trung hữu của địa ngục, thì ở trong bụng của người mẹ kia, sao không thiêu đốt?

Đáp: Nếu người gây ra nghiệp thì sẽ bị thiêu đốt, kẻ không gây ra nghiệp sẽ không bị thiêu đốt, nếu người có giữ giới v.v… bị vướng mặc trong địa ngục, cũng không thể bị thiêu đốt. Vì sao? Vì họ không gây ra nghiệp. Chúng sinh ở trước địa ngục, không hẳn là bị thiêu đốt.

Như Luận Thi Thiết nói: Có khi chúng sinh của địa ngục Hoạt, khi gió lạnh thổi đến, họ reo lên rằng: Các chúng sinh sống lại! Các chúng sinh còn sống! Lúc ấy chúng sinh bèn sống lại.

Do việc nầy, nên Trung hữu kia không hẳn bị thiêu đốt.

Hỏi: Nếu tường vách, núi rừng, nhà cửa, ngói đá v.v… đều không thể gây ngược ngại cho Trung hữu thì trở lại đối với Trung hữu có bị chướng ngại không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Có chướng ngại nhau.

Nếu vậy thì làm sao Trung hữu được gọi là không có chướng ngại?

Đáp: Chỉ trừ Trung hữu, đối với các thứ khác, đều không có trở ngại.

Lại có thuyết nói: Trung hữu đối với Trung hữu lại không có chướng ngại nhau. Vì sao? Vì không có lời nói.

Hỏi: Chỗ đã đi qua, Trung hữu đi nhanh hay thần túc đi nhanh?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trung hữu đi nhanh. Vì sao? Vì sức của nghiệp vượt hơn thần túc?

Lời bình: Nên nói như vầy: Thần túc đi nhanh, chẳng phải sức của nghiệp đi nhanh.

Hỏi: Nếu vậy sao lại nói sức của nghiệp vượt hơn sức thần túc?

Đáp: Nên biết là do việc nào để nói sức của nghiệp vượt hơn sức thần túc? Vì có thể lưu trú nơi tất cả chúng sinh. Về sức của thần túc nơi Tôn giả Xá-lợi-phất chỉ trừ Phật Tôn giả Mục-kiền-liên, trừ Phật và Tôn giả Xá-lợi-phất. Trung hữu kia không có cỏ thuốc, pháp chú thuật của chúng sinh. Phật và Bích-chi Phật có thể lưu trú, khiến cho sự sinh kia không nối tiếp nhau. Do việc nầy nên nói sức của nghiệp vượt hơn sức thần túc.

Hỏi: Trung hữu có thấy lẫn nhau không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thấy nhau.

Thấy được bao nhiêu chỗ?

Đáp: Địa ngục thấy địa ngục. Súc sinh thấy súc sinh. Ngạ quỷ thấy ngạ quỷ. Con người thấy con người, trời thấy trời.

Lại có thuyết nói: Địa ngục thấy địa ngục, súc sinh thấy hai đường. Ngạ quỷ thấy ba đường. Con người thấy bốn đường, trời thấy năm đường.

Lại có thuyết nói: Trung hữu chẳng phải cảnh giới của mắt người, mà là cảnh giới của thiên nhãn.

Hỏi: Thiên nhãn thấy bao nhiêu chỗ?

Đáp: Thiên nhãn, là báo của Bốn vị thiên vương, trừ địa của mình, thấy địa dưới. Cho đến trời Tha hóa Tự Tại, trừ địa của mình thấy địa dưới.

Lại có thuyết nói: Tất cả mắt cõi dục đều không thấy Trung hữu, mặt cõi Sắc có thể thấy.

Hỏi: Báo được mắt ở cõi Sắc, có thể thấy bao nhiêu chỗ?

Đáp: Báo được mắt của Sơ thiền, trừ địa mình, thấy địa dưới. Cho đến đệ Tứ thiền, trừ địa của mình thấy địa dưới.

Nếu nói như thế, thì sẽ không thấy Trung hữu của đệ Tứ thiền.

Lời bình: Nên nói rằng: Tất cả báo được mắt, đều không thấy Trung hữu. Nếu thiên nhãn thanh tịnh, thì có thể thấy Trung hữu. Nếu không thanh tịnh, thì không thấy Trung hữu. Vì sao biết? Vì kinh Phật đã nói: Nếu người nam, nữ phá giới, làm việc ác, thì thân hoại qua đời, sẽ sinh Trung hữu như thế. Màu sắc của nó trông như thảm lụa đen, cũng như đêm tối. Nếu thiên nhãn thanh tịnh, thì sẽ thấy. Nếu là người nam, người nữ giữ giới, tu phạm hạnh, thì khi chết, sẽ sinh làm Trung hữu như thế màu sắc trắng sạch, như tấm thảm trắng, cũng như mặt trăng sáng trong đêm tối. Nếu thiên nhãn tịnh, thì có thể thấy được.

Như nói vua Tỳ-lưu-ly đối với Trá ác Đề-bà-đạt-đa tức ngay thân nầy vào địa ngục A-tỳ.

Hỏi: Cũng thế v.v… là có Trung hữu hay chăng?

Đáp: Có trong một Sát-na, tử hữu không gián dứt sinh ra Trung hữu. Trung hữu không gián dứt, sinh ra Sinh hữu. Chỉ trong một sát-na.

Như kinh nói: Đế-thích nói kệ:

Đại tiên phải nên biết

Tôi ở chỗ ngồi nầy

Lại được tuổi thọ trời

Cúi xin nhớ giữ mãi.

Hỏi: Như thế là có tử sinh hay không? Nếu có tử sinh, làm sao thọ Trung hữu? Nếu không có tử, sinh thì kệ ấy làm sao hiểu được? Như nói: Ta ở chỗ ngồi nầy, lại được tuổi thọ trời.

Đáp: Nên nói rằng: Không tử, bất sinh.

Hỏi: Nếu vậy làm sao hiểu được kệ ấy?

Đáp: Kệ nầy vì nhân duyên dứt trừ đường ác của Đế-thích, nên nói rằng: Phật vì Đế-thích nói pháp, được thấy nhân duyên dứt trừ đường ác chân đế, được sinh vào chốn người, trời, lại muốn hướng về Phật, nói lời êm ái: Tôi nơi chỗ ngồi nầy, lại được tuổi thọ trời, cho đến nói rộng. Như người trong lao ngục, giúp đỡ người khác được ở chỗ tùy ý. Người ấy muốn trở lại hướng tới người kia, nói lời êm ái: Nay sở dĩ ta được toàn mạng đều do ơn ông. Nếu không có ông thì tôi đã bị chìm đắm mãi mãi.

Lại nữa, trừ bệnh kiết, chỗ dứt kiến đạo, nên nói rằng: Phật vì Đế-thích nói pháp, trừ bỏ bệnh kiết do kiến đạo dứt trừ, sao được ở chỗ bậc nhất không có bệnh, nghĩa là đạo, quả đạo. Vì muốn hướng về Phật, nên nói lời êm ái: Tôi đối chỗ ngồi nầy, cho đến nói rộng. Cũng như thầy thuốc với tâm từ, trị bệnh cho người, sao cho họ được chỗ yên ổn không bệnh. Người bệnh muốn hướng về thầy thuốc, nói lời êm ái: Nếu không có ông, thì tôi ở nơi nầy đã mãi mãi chìm đắm. Đế-thích kia cũng giống như thế.

Lại nữa, vì được thần túc tuổi thọ, nên nói: Như kinh nói: Tỳ-kheo lấy gì làm tuổi thọ? Tức bốn thần túc là tuổi thọ của Tỳ-kheo. Đức Phật vì Đế-thích nói pháp, được thần túc, tuổi thọ, nên Đế-thích muốn hướng về Phật nói lời êm ái: Tôi ở chỗ ngồi nầy, cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì được căn tuệ mạng, nên Đế-thích nói: Như kinh nói: Lấy tuệ làm mạng sống, tức là tôi thắng Phật vì Đế-thích nói pháp, muốn cho Đế-thích được căn của tuệ mạng. Đế-thích muốn hướng trở lại Đức Phật nên nói lời êm ái: Tôi ở chỗ ngồi nầy… cho đến nói rộng Hỏi: Đế-thích vốn không có căn tuệ mạng hay sao?

Đáp: Dù vốn có, nhưng là hữu lậu. Nghe Phật nói pháp, thấy bốn chân đế, được căn của tuệ vô lậu, nên nói như thế.

Lại nữu, dứt trừ năm thứ tướng giống như chết, nên nói: Khi tuổi thọ chư thiên sắp hết, có năm thứ giống với tướng chết, năm tướng chết hiện rõ.

Năm thứ giống với tướng chết là sao? Mỗi khi chư thiên qua lại, chuỗi anh lạc đeo trên thân đều phát ra năm thứ tiếng nhạc, tiếng ấy bấy giờ liền im bặt. Thân chư Thiên phát ra sự sáng suốt, tự thân không có bóng.

Hoặc có thuyết nói: Bấy giờ, ánh sáng bao quanh thân giảm thiểu.

Hoặc có thuyết nói: Anh sáng nơi thân đều tắt, bóng của tự thân hiện ra, thân chư Thiên mềm mại, không có cấu uế, xuống ao nước thơm tắm, lúc lên khỏi ao, thậm chí không có một giọt nước nào dính vào thân, như lá sen. Lúc nầy, thì nước dính thân. Chư Thiên có các thứ cảnh giới tốt đẹp, thanh tịnh, cuốn trôi các căn tình, không dừng lại một cảnh giới nào mà xoay quanh nơi các cảnh giới, giống như vòng lửa không hề dừng. Lúc nầy thì dừng lại ở một cảnh giới. Thân phước đức của chư Thiên, mắt không từng nháy, lúc nầy thì nháy. Về năm tướng chết: Kinh nói: Chư Thiên hoặc nam, hoặc nữ, khi sắp qua đời, trước có năm tướng chết hiện:

  1. Áo không nhơ mà nhơ.
  2. Hoa không héo mà héo.
  3. Dưới nách vốn không đổ mổ hôi mà đổ mồ hôi.
  4. Thân vốn không hôi mà hôi.
  5. Trước kia vốn ngồi yên, mà nay không yên.

Năm thứ giống với tướng chết tức có thể trừ bỏ. Còn năm tướng chết thì không thể.

Năm thứ giống với tướng chết của Đế-thích hiện ra không lâu, năm tướng chết sẽ hiện, bèn nghĩ rằng: Ai có thể cứu giúp ách nạn như thế của ta, trừ Phật, Thế tôn, thì không có ai có khả năng. Liền đến chỗ Phật. Bấy giờ, Đức Thế tôn liền vì Đế-thích nói pháp. Do nghe pháp, nên dứt bỏ năm thứ giống với tướng chết. Đế-thích lại muốn hướng về Đức Phật, nên nói lời êm ái như vầy: nếu ta ở chỗ ngồi nầy, cho đến nói rộng. Nếu nói rằng: Nói gây ra nghiệp báo của hiện pháp, tức ở trên tòa, lại được tám căn như mạng căn, v.v…

Lại có thuyết nói: Lúc ấy cũng có tử sinh.

Hỏi: Nếu vậy thì Luận Thi Thiết nói, làm sao hiểu được? Như nói: Trời Ba mươi ba hoặc nam hoặc nữ, lúc mới sinh thân họ như đứa trẻ năm tuổi, ở trên sự bồng bế của chư Thiên, bỗng nhiên hóa sinh. Bấy giờ, chư Thiên hoặc nam hoặc nữ, nói rằng: Đây là con trai của ta. Đây là con gái của ta. Người hóa sinh cũng nói: Đây là cha ta, đây là mẹ ta.

Hỏi: Lúc ấy chư Thiên có thấy tướng ấy của Đế-thích hay không?

Đáp: Đều thấy, rồi nghĩ: Nay Đế-thích có thần lực lớn, hiện sức thần túc trước Đức Thế tôn.

Lại nữa, người có oai đức trong chư Thiên là các vị:

  1. Nhân-Đà-La.
  2. Ưu-Tỳ-Nhân-Đà-La.
  3. Y-Xá-Na.
  4. Ba-xà-Bát-Đa.

Chư Thiên có oai đức như thế, như trước, đã có thân thời kỳ tráng niên, thân lúc mới sinh cũng vậy. Chư Thiên hóa sinh không có tử thi.

Lời bình: Chư Thiên hóa sinh kia không có tử sinh, như thuyết trước nói là tốt!

Luận Thi Thiết nói: Người kiếp sơ, có người hóa thành sâu đi bằng bụng, gọi là phúc hành. Hóa thành ba tay gọi là voi.

Người có thân biến hóa như thế, là có tử sinh hay không? Nếu có, thì Trung hữu của những người đó ra sao? Nếu không có tử sinh thì con người tức là súc sinh?

Đáp: Nên nói như vầy: Không có tử sinh.

Hỏi: Nếu vậy thì con người tức là súc sinh phải chăng?

Đáp: Con người chẳng phải tức là súc sinh, chỉ có thân súc sinh nối tiếp với thân người.

Lại có thuyết nói: Người ở kiếp sơ, hình dáng họ giống như con người. Về sau, do thời tiết xấu thức ăn uống dở vì dua nịnh, tà vạy nhiều, nên hình dáng con người bèn mất. Hình thù súc sinh hiện ra trước, thật ra hình dáng người nầy là súc sinh. Cũng như do sức chú thuật, biến người thành lừa. Dù hình dáng là lừa, nhưng thật ra là con người, người ở kiếp sơ cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Chúng sinh từ cõi trời Quang Âm chết, sinh tới cõi chốn nầy, thực ra là súc sinh, hình dáng giống như con người. Về sau do thời tiết xấu, thức uống ăn dở, vì dua nịnh, tà vạy nhiều, nên hình dáng con người diệt mất, lại làm súc sinh, hình dáng như con ểnh ương. Thời kỳ trước, hình dáng đủ, thời kỳ sau hình dáng đủ. Thời gian trước hình dáng tròn trịa màu đen, thời gian sau hình dáng vuông vức mà mạnh khỏe.

Lại có thuyết nói: Người đầu tiên của kiếp kia có tử sinh.

Hỏi: Nếu vậy thì Trung hữu là thế nào?

Đáp: Trung hữu vi tế, người ở kiếp sơ hóa sinh, không có tử sinh.

Lời bình: Nên nói như vầy: Không có tử sinh.