LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Sa-môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…Đời Bắc Lương
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Chương 3: KIỀN-ĐỘ TRÍ

Phẩm 2: THA TÂM TRÍ

(Từ cuố quyển 49 – quyển 54)

Thế nào là tha nhân tâm trí? Thế nào là Trí nhớ lại đời trước? Chương nầy và việc giải nghĩa chương, ở đây nên nói rộng Ưu- ba- đề- xá.

Hỏi: Tôn giả Ca-chiên-diên-tử vì sao đã dựa vào hai trí để soạn luận nầy?

Đáp: Tôn giả kia đã có ý muốn như thế, tùy ý muốn của mình mà soạn luận, nhưng cũng không trái với pháp tướng. Ý muốn của Tôn giả là nhân nơi hai trí để soạn luận, tức luận về hai trí, là trí tha tâm, trí nhớ lại đời trước, vì có ý muốn luận về hai trí nầy. Chỗ khác cũng nhân nơi hai trí ấy để soạn luận, như luận về pháp trí, tỷ trí trong Kiền-độ Căn. Chỗ khác cũng nhân nơi hai trí nầy mà soạn luận, như trong Kiền-độ Định đã luận về tận trí, trí vô sinh. Ở chỗ khác cũng với ý muốn luận về bốn trí, tức cũng nhân nơi bốn trí để soạn luận, như Kiền-độ Căn, luận về Trí Khổ, tập, diệt, đạo. Như nói: Nếu khổ trí là trí vô lậu khổ? Cho đến nếu đạo trí là trí vô lậu đạo?

Chỗ khác, với ý muốn nói về tám trí, tức nhân nơi tám trí để soạn luận, như trong Kiền-độ Sử, Kiền-độ Định, Kiền-độ Trí đã nói. Ở chỗ khác, ý muốn nói về mười trí, tức nhân nơi mười trí để soạn luận. Như nói: Nhãn căn dùng bao nhiêu trí để biết? Cũng như thợ gốm khéo léo, trước hết trộn đất sét cho thật dẻo rồi đặt yên trên bánh xe, sau đó, tùy ý muốn của mình, tạo ra các thứ đồ dùng. Tôn giả kia cũng vậy! Dùng tuệ, văn, tư để quán sát pháp tướng, dứt trừ phần ngu trong duyên, tùy ý muốn của mình, để soạn luận không trái với pháp tướng.

Lại nữa, hai trí nầy do lìa dục được, do phương tiện được, thể là tu tuệ, cũng là thể của thần thông, là quả của bốn chi, năm chi thiền.

Lại nữa, thể của hai trí nầy là tánh trí, tánh kiến.

Lại nữa, hai trí nầy duyên với một đời. Tha tâm trí duyên với đời hiện tại. Trí nhớ lại về đời trước duyên với đời quá khứ. Hoặc nói rằng: Trí nhớ lại đời trước là hữu lậu, vô lậu thì nên nói: Do hai trí nầy là hữu lậu, vô lậu.

Thế nào là tha tâm trí?

Đáp: Nếu trí là tu, là quả của tu, từ tu sinh, được không mất. Là tu: thể là tu. Là quả của tu, nghĩa là quả của bốn chi, năm chi thiền. Từ tu sinh, nghĩa là tu tập. Được không mất: Là được rồi không xả.

Hỏi: Vì sao không nói “đã được”, “sẽ được” mà chỉ nói nay được?

Đáp: Lẽ ra nói mà không nói, nên biết là thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, nếu được trí nầy, gọi là người được đạo, gọi là người biết tâm người khác, điều được nói trong đây chẳng phải “Đã được”, “Sẽ được” vì mất. Do trí nầy biết “Đối tượng giác”, “Đối tượng quán”, “Sở hành” của tâm người khác. Đối tượng giác là Sơ thiền cõi Dục. Đối tượng quán: Là thiền trung gian. Sở hành: Là ba thiền trên.

Lại có người nói: Đối tượng giác là Sơ thiền cõi Dục. Đối tượng quán là từ cõi Dục cho đến Trung gian thiền. Sở hành là từ cõi Dục cho đến đệ Tứ thiền.

Hỏi: Giác, quán tâm người khác, khi duyên với sắc, thì tha tâm trí cũng biết được sắc của sở duyên của tâm người khác chăng?

Đáp: Theo văn kinh của pháp sư nước ngoài nói rằng: Nếu trí nhận biết được pháp tâm, tâm sở và tâm vô lậu của người khác hiện tiền ở cõi Dục, cõi Sắc thì đó là tha tâm trí.

Hỏi: Vì sao Sa-môn nước Kế-tân không nói như thế? Lẽ ra cũng phải nói như thế, nhưng không nói là có ý gì?

Đáp: Nói đối tượng giác, đối tượng quán, sở hành, là nói về thể của các thiền kia, không nói tâm pháp tâm sở của xứ nơi sở duyên. Phải biết đúng như thật. Tâm: Là tâm số. Pháp: Là số pháp. Nên biết đúng như thật: Là nói nhận biết cảnh giới, nên nói là một. Trí biết tâm người khác, là trí, thông biết tâm, của người khác, nên nói là hai. Nghĩa là biết hữu lậu, vô lậu, ràng buộc, giải thoát, lệ thuộc, không lệ thuộc. Nên nói ba, nghĩa là thượng, trung, hạ. Nên nói bốn, nghĩa là quả của bốn thiền. Nên nói sáu: là phẩm thượng, trung, hạ hữu lậu. Phẩm thượng trung hạ của vô lậu. Nên nói tám là hữu lậu, vô lậu của bốn thiền. Lẽ ra nói chín là phẩm hạ hạ, cho đến phẩm thượng thượng. Nên nói mười hai, đó là trong bốn thiền, mỗi thiền đều có ba thứ, là thượng, trung, hạ. Nên nói mười tám là hữu lậu có chín thứ, vô lậu có chín thứ. Nên nói hai mươi bốn, là Sơ thiền hữu lậu có ba, vô lậu có ba, cho đến đệ Tứ thiền cũng vậy.

Nên nói ba mươi sáu: Sơ thiền có chín thứ, cho đến đệ Tứ thiền có chín thứ. Nên nói bảy mươi hai: hữu lậu của Sơ thiền có chín, vô lậu có chín thứ, cho đến đệ Tứ thiền cũng vậy. Nếu do ở thân, nếu do ở sát-na thì có Vô lượng, vô biên tha tâm trí.

Trong đây là nói chung một thứ tha tâm trí để soạn luận.

Hỏi: Thể của tha tâm trí là gì?

Đáp: Thể là tuệ, đã nói thể tánh của tha tâm trí. Về lý do nay sẽ nói:

Vì sao gọi là tha tâm trí?

Đáp: Vì biết tâm người, nên gọi là tha tâm trí.

Hỏi: Cũng biết số pháp, vì sao chỉ gọi là biết tâm người?

Đáp: Vì tâm trông mong. Tâm trông mong của người tu hành, siêng năng tu phương tiện, nên muốn biết tâm người khác, không trông mong ở số pháp, cũng biết số pháp, nên gọi là trí biết tâm người khác. Như người mong thấy được vua, không mong thấy quyến thuộc vua. Nhưng khi đã thấy vua rồi thì cũng thấy quyến thuộc. Ý muốn biết tâm người của người tu hành kia cũng giống như thế.

Lại nữa, các pháp đều được đặt tên, mỗi pháp đều có lý do của nó: Hoặc do tự thể, hoặc do đối trị, hoặc do phương tiện, hoặc do tương ưng, hoặc do chỗ nương dựa, hoặc do chỗ hành, hoặc do chỗ duyên, hoặc do hành, do duyên. Do tự thể: Như các trí của năm ấm, bốn đế. Phần còn lại giải thích nói rộng như trên.

Về giới: hữu lậu là lệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô lậu là không lệ thuộc.

Hỏi: Vì sao cõi Vô sắc không có tha tâm trí?

Đáp: Vì cõi Vô sắc chẳng phải nhân của tha tâm trí, cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì tha tâm trí nhân nơi sắc nên sinh, cõi Vô sắc thì không có sắc.

Về địa: Là địa của bốn thiền căn bản, không ở các bên của địa Vô sắc.

Hỏi: Vì sao trong các bên không có tha tâm trí?

Đáp: Đây là thần thông! Nếu có tam-muội, có thể sinh quả thần thông, tức có trí nầy, vì trong các bên không có định ấy.

Hỏi: Tâm của thiền trung gian dùng sự nhận biết nào để biết tha tâm trí?

Đáp: Hoặc có người nói: Do người của địa Sơ thiền biết được.

Lại có người nói: Do người của địa Nhị thiền biết được.

Lời bình: Nên nói rằng: Do người của địa Sơ thiền biết được. Vì sao? Vì là pháp của một địa.

Về chỗ nương dựa: Là dựa vào cõi Dục, cõi Sắc.

Về thân hành, nghĩa là người vô lậu thực hành bốn hành như đạo v.v… Người hữu lậu không hành duyên hành.

Về duyên, người địa Sơ thiền duyên với Sơ thiền, cõi Dục. Người địa Nhị thiền duyên với cõi Dục cho đến đệ Nhị thiền. Người địa đệ Tam thiền duyên với cõi Dục, cho đến đệ Tam thiền. Người địa đệ Tứ thiền duyên với cõi Dục cho đến đệ Tứ thiền. Tha tâm trí không biết cõi Vô sắc.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí không biết cõi Vô sắc?

Đáp: Tha tâm trí không biết được pháp của địa trên. Tha tâm trí của Sơ thiền không biết được tâm của đệ Nhị thiền, cho đến tha tâm trí của đệ Tam thiền không biết được tâm của đệ Tứ thiền.

Hỏi: Sinh cõi Dục, cõi Sắc, khởi định Vô sắc hiện ở trước. Tha tâm trí có thể biết được pháp tâm, tâm sở của định Vô sắc kia không?

Đáp: Không biết. Vì sao? Vì lúc ở quả đã không biết thì khi ở nhân cũng vậy!

Về niệm xứ: Là ba niệm xứ, trừ thân niệm xứ.

Về trí: Là bốn trí, là pháp trí, tỷ trí, đạo trí, đẳng trí.

Về tam-muội: Người vô lậu tương ưng với đạo vô nguyện. Người hữu lậu thì không tương ưng.

Về căn: Đều tương ưng chung với ba căn, là lạc, hỷ, xả căn.

Đời là ba đời.

Duyên với ba đời, là quá khứ duyên quá khứ, hiện tại duyên hiện tại, vị lai bất sinh, duyên với ba đời, tất sinh: duyên với vị lai.

Thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện.

Duyên nơi thiện, bất thiện, vô ký là: Duyên với ba thứ.

Lệ thuộc ba cõi và không lệ thuộc: Hữu lậu thì lệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô lậu thì không lệ thuộc.

Duyên với lệ thuộc ba cõi và không lệ thuộc: Là duyên cõi Dục, cõi Sắc và không lệ thuộc.

Là Học, Vô học, Phi học Phi Vô học: Là ba thứ.

Duyên với Học, Vô học, Phi học Phi Vô học: Duyên cả ba thứ.

Do kiến đạo dứt, tu đạo dứt, không dứt: Hữu lậu là do tu đạo dứt, vô lậu là không dứt.

Duyên kiến đạo, tu đạo, không dứt: Đều duyên cả ba thứ.

Duyên danh, duyên nghĩa: Là duyên nghĩa. Duyên nơi thân mình, thân người và chẳng phải thân, là duyên với thân người.

Là phương tiện đắc, ly dục đắc: Là phương tiện đắc cũng là ly dục đắc. Người Sơ thiền do lìa dục cõi Dục đắc, cho đến người đệ Tứ thiền do lìa dục của ba thiền đắc.

Về phương tiện: Dùng phương tiện hiện ở trước. Phật không dùng phương tiện hiện ở trước. Bích-chi Phật dùng phương tiện phẩm hạ, Thanh văn đôi khi dùng phương tiện phẩm trung, hoặc dùng phương tiện phẩm thượng.

Hỏi: Phương tiện của tha tâm trí là sao?

Đáp: Như Luận Thi Thiết nói: Đầu tiên, hành giả nhận lấy tướng của thân mình, nếu thân có sắc như thế, thì sẽ có tâm như thế. Nếu đã có tâm như thế, thì thân sẽ có sắc như thế. Đã nhận lấy tướng của thân mình rồi, cũng nhận lấy tướng của thân người. Nếu thân người khác có sắc như thế, đương nhiên sẽ có tâm như thế. Nếu đã có tâm như thế, thì thân sẽ có sắc như thế.

Nhận lấy tướng như thế rồi, nghĩ rằng như vầy: Nay chúng sinh nầy do quán nào? Đối tượng phân biệt nào? Lúc nghĩ như thế rồi, nhận biết như thật là chúng sinh nầy nghĩ rằng như thế, phân biệt như thế. Đó gọi là tha tâm trí. Kinh Mãn Tức Tập Pháp cũng nói: Phương tiện của tha tâm trí là thế nào?

Đáp: Quán năm thủ ấm là khổ, không, vô thường, vô ngã. Quán trí vô lậu như vậy.

Hỏi: Tha tâm trí duyên với trí bốn đế, vì sao chỉ nói duyên với khổ trí?

Đáp: Lẽ ra phải nói là đều duyên mà không nói, nên biết là thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, thuyết nầy đầu tiên khởi phương tiện nhập pháp. Nếu nói duyên với khổ trí, nên biết cũng nói duyên với trí khác.

Hỏi: Phương tiện trước và phương tiện sau, có gì khác nhau?

Đáp: Phương tiện đã nói ở trước dẫn đến hữu lậu, vô lậu, phương tiện nói sau nầy, hoàn toàn là vô lậu.

Lại nữa, phương tiện sau tốt đẹp, vượt hơn phương tiện trước.

Hỏi: Nếu mắt không thấy sắc có thể biết được tâm người khác hay không?

Đáp: biết được. Vì tai nghe được tiếng nói của người đó.

Nếu mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng thì có thể biết được tâm người khác hay không?

Đáp: Biết, vì dùng mũi để ngửi mùi của người ấy.

Nếu mắt, tai, mũi không thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, thì có thể biết được tâm người khác hay không?

Đáp: Biết, vì dùng lưỡi nếm vị. Nếu không thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi hương, nếm biết vị, thì có thể biết được tâm người khác hay không?

Đáp: Biết được, vì dùng thân xúc chạm.

Nếu mắt không thấy sắc, cho đến thân không xúc chạm, thì có thể biết được tâm người khác hay không?

Đáp: Hoặc có người nói: Không biết. Vì sao? Vì tha tâm trí nhân nơi sắc.

Lời bình: Nên nói rằng: Lúc sử dụng phương tiện thì không biết, nhưng đầy đủ thì biết.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí lúc sử dụng phương tiện lại nhân nơi sắc sinh?

Đáp: Vì nhân thô được nhập tế, nên tha tâm trí khi dùng phương tiện thì duyên với chính mình, lúc đầy đủ thì vô duyên với chính mình.

Hỏi: Vì sao lúc sử dụng phương tiện, tha tâm trí duyên với chính mình, lúc đầy đủ thì vô duyên chính mình?

Đáp: Vì tha tâm trí vô duyên sở duyên, sở hành của tâm của người khác. Nếu tha tâm trí duyên với sở duyên, sở hành của tâm người khác, thì cũng có thể gọi là tự tâm trí.

Vốn đã từng được mười lăm thứ pháp tâm, tâm sở hữu lậu: Cõi Dục có ba thứ, là thượng, trung, hạ, cho đến đệ Tứ thiền cũng có ba thứ. Tha tâm trí hữu lậu phẩm hạ của địa Sơ thiền biết ba thứ pháp tâm, tâm sở cõi Dục, và biết pháp tâm, tâm sở hữu lậu phẩm hạ của Sơ thiền. Phẩm trung: Biết ba thứ tâm cõi Dục, biết hai thứ phẩm trung, hạ của

Sơ thiền. Phẩm thượng: Biết ba thứ cõi Dục, ba thứ của Sơ thiền. Như Sơ thiền cho đến đệ Tứ thiền. Phẩm thượng: Biết mười lăm thứ, như vốn đã từng khởi tâm hữu lậu, có mười lăm thứ. Chưa từng được tâm hữu lậu cũng có mười lăm thứ. Tâm vô lậu có mười hai thứ. Địa Sơ thiền có ba thứ là thượng, trung, hạ, cho đến đệ Tứ thiền cũng vậy.

Tâm vô lậu phẩm hạ của địa đệ Nhị thiền biết tâm vô lậu phẩm hạ của địa Sơ thiền, cũng biết phẩm hạ của Nhị thiền. Đệ Nhị thiền, phẩm trung, biết hai thứ trung, hạ của Sơ thiền, đệ Nhị thiền. Phẩm thượng: Biết ba thứ thượng, trung, hạ của Sơ thiền, Nhị thiền. Biết đệ Nhị thiền, cho đến đệ Tứ thiền. Phẩm thượng: Biết mười hai thứ pháp tâm, tâm sở vô lậu.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí hữu lậu phẩm hạ, biết ba thứ địa dưới và người phẩm hạ của địa mình? tha tâm trí phẩm hạ vô lậu, biết pháp tâm, tâm sở phẩm hạ, của địa phẩm hạ và người phẩm hạ của địa mình, chẳng phải trung, thượng?

Đáp: Tâm, pháp tâm sở hữu lậu khác, pháp tâm, tâm sở vô lậu khác. Trong một thân có thế có ba thứ pháp tâm, tâm sở hữu lậu, pháp tâm, tâm sở vô lậu. Do căn nên khác nhau. Nếu là căn tánh phẩm hạ, sẽ không có căn tánh phẩm trung, thượng, cho đến nếu là căn tánh phẩm thượng, thì không có căn phẩm trung, hạ.

Tha tâm trí không biết thắng địa, thắng căn, tâm người thù thắng! Thắng địa là tha tâm trí của địa Sơ thiền. Không biết pháp tâm, tâm sở của địa đệ Nhị thiền, cho đến địa đệ Tam thiền không biết pháp tâm, tâm sở của địa đệ Tứ thiền.

Thắng căn là tha tâm trí của căn tánh phẩm hạ, không biết pháp tâm, tâm sở của căn bậc trung, thượng.

Người thù thắng là tha tâm trí của người Hữu học, không biết pháp tâm, tâm sở của người Vô học.

Hỏi: Tha tâm trí của tất cả người Vô học, đều biết được pháp tâm, tâm sở của người Hữu học chăng?

Đáp: Không biết! Thời giải thoát không biết tâm Kiến đáo. Kiến đáo không biết tâm của Thời giải thoát. Vì sao? Vì Kiến đáo đối với Thời giải thoát thì căn vượt hơn. Thời giải thoát đối với người Kiến đáo thì hơn.

Hỏi: Người Hữu học khởi tâm đệ Nhị thiền hiện ở trước. Người Vô học khởi tâm Sơ thiền hiện ở trước, là xoay vần nhận biết nhau chăng?

Đáp: Không biết! Vì sao? Vì người Vô học đối với người học thì vượt hơn. Người Hữu học đối với người Vô học thì vượt hơn về địa.

Thanh văn khởi pháp tâm, tâm sở của đệ Nhị thiền hiện ở trước. Đức Phật khởi pháp tâm, tâm sở của Sơ thiền hiện ở trước, có xoay vần biết nhau không?

Đáp: Không biết. Vì sao? Vì Phật đối với Thanh văn thì hơn về căn. Thanh văn đối với Phật thì hơn về địa.

Cõi Dục có bốn thứ tâm biến hóa, là quả của Sơ thiền, cho đến quả của đệ Tứ thiền.

Tha tâm trí của địa Sơ thiền có biết bốn thứ tâm nầy không?

Đáp: Hoặc có người nói: Biết. Vì sao? Vì đều là tâm cõi Dục.

Lại có người nói: Chỉ biết quả Sơ thiền, quả khác thì không biết. Vì sao? Vì đã không biết nhân, thì quả cũng không biết!

Tất cả tâm vô lậu của Phật và tâm hữu lậu không hề được không có tha tâm trí, vẫn có thể biết. Với tâm hữu lậu đã từng được, Phật muốn cho người khác biết, thì biết. Nếu Phật muốn cho người căn cơ chậm lụt biết, người có căn cơ nhạy bén không biết, thì người căn cơ chậm lụt được biết, người căn cơ nhạy bén không biết. Đức Phật muốn khiến TátBa-Đạt biết, Xá-lợi-phất không biết, thì Tát-Ba-Đạt biết, Xá-lợi-phất không biết. Muốn cho súc sinh được biết, con người không biết, thì súc sinh biết, con người không biết. Làm sao biết được điều đó?

Có kinh nói: Đức Phật trú tại Tinh xá Căng-Ca, thuộc thành NaĐề-Ca-Dạ. Có rất nhiều Tỳ-kheo đều để bát ở ngoài trời và bát của Đức Thế tôn để ở ngoài trời. Bấy giờ, có một con khỉ từ trên cây Sa-la nhảy xuống, đến chỗ để bát. Các Tỳ-kheo vì sợ nó làm bể bát nên cùng nhau ngăn không cho khỉ tới.

Đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo: Các thầy đừng ngăn cản, vì con khỉ nầy không làm bể bát của các thầy đâu!

Khi đó, khỉ ôm lấy bát của Đức Thế tôn, rồi chậm rải trèo trở lên cây, đựng đầy mật, đem dâng lên Đức Thế tôn. Đức Phật không thọ vị mật còn xen lẫn do trùng. Đức Thế tôn liền khởi tâm thế tục: “Muốn được khử trùng”. Khỉ biết được ý Phật, khỉ bèn bưng bát mật đi qua một phía, loại bỏ trùng trong mật, lại đem dâng lên. Đức Thế tôn cũng không nhận, vì chưa được tác tịnh. Đức Thế tôn lại khởi tâm thế tục: “Nếu khỉ nầy dùng nước “tác tịnh”, thì ta sẽ nhận”. Khỉ biết ngay tâm Phật, liền dùng nước “tác tịnh”, Phật bèn thọ, vì mật kia đã sạch.

Do Đức Thế tôn đã nhận bát mật, nên khỉ cảm thấy vô cùng hoan hỷ, đứng lên chạy nhảy, múa men, rồi rơi xuống hầm mà chết, được sinh làm người, xuất gia trong pháp Phật, chứng được quả A-la-hán, tên là Ma-đầu-bà-tứ-tra.

Do việc nầy, nên Tôn giả Ba-tỳ-xa đã làm kệ khen ngợi Đức Phật:

Muốn cho người, trời biết tâm Phật

Tùy niệm của họ, đều hay biết

Nếu nhập các thiền, định sâu mầu

Không có ai, biết được tâm Phật!

Hỏi: Đức Phật có vì tha tâm trí để biết được tâm Phật không?

Đáp: Hoặc có người nói: Không được! Vì sao? Vì thế gian không có hai vị Phật!

Lại có người nói: Được! Vì có thể duyên, không do khởi hiện ở trước. Bích-chi Phật, như thú Khát-già một sừng xuất thế, chẳng khác gì Phật.

Nếu nói rằng: Rất nhiều các bậc xuất thế đều có tha tâm trí duyên với tâm của Bích-chi Phật, cũng có thể duyên, cũng có thể khởi hiện ở trước. Thanh văn có tha tâm trí biết được tâm của Thanh văn, cũng có thể duyên, cũng có thể khởi hiện ở trước. Tất cả tâm vô lậu của Phật và tâm hữu lậu không hề được, tâm cõi Vô sắc, không có tha tâm trí, nhưng có thể biết được tâm nầy.

Chúng sinh hoặc có sinh, có diệt. Sinh, nghĩa là chúng sinh sinh cõi Dục, cõi Sắc và người phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc, là sẽ được tha tâm trí phải không?

Đáp: Do hai việc, nên sẽ được:

  1. Do có thể duyên.
  2. Do hành hiện tiền.

Hỏi: Diệt, nghĩa là bậc Thánh sinh cõi Vô sắc, nếu bậc Thánh nầy nhập Niết-bàn thì sẽ được tha tâm trí phải không?

Đáp: Sẽ không được.

Lại có người nói: Sẽ được! Vì chủ thể duyên, không do hành hiện tiền!

Lời bình: Không nên nói như thế: Sẽ được, không hành hiện tiền! Thà nói không được, không nên nói được mà không phải hành hiện ở trước.

Có cảnh giới là chỗ biết của tha tâm trí của Phật, chẳng phải chỗ biết của Thanh văn, Bích-chi Phật. Có cảnh giới là chỗ biết nơi tha tâm trí của Phật, Bích-chi Phật, chẳng phải chỗ biết của Thanh văn. Có cảnh giới là nơi chỗ biết của tha tâm trí của Thanh văn, Bích-chi Phật, Phật. Như kinh nói: Tỳ-kheo nên biết! Trong núi Tuyết có chỗ như thế, nơi loài khỉ không thể hành, con người cũng không thể hành. Có chỗ loài khỉ có thể hành, con người thì không thể. Có nơi khỉ có thể hành và con người cũng có thể hành.

Núi Tuyết dụ như cảnh giới, khỉ dụ như Bích-chi Phật, con người dụ như Thanh văn.

Nghĩa như thế, nay sẽ hiển bày rõ.

Kiến đạo có mười lăm tâm. Tha tâm trí biết pháp tương tự. Người hữu lậu biết hữu lậu, người vô lậu biết vô lậu.

Người đã từng được biết đã từng được. Người không hề được biết không hề được.

Người phần pháp trí: Biết phần pháp trí. Người phần tỷ trí: Biết phần tỷ trí. Tha tâm trí của người Thanh văn, biết hai tâm trong kiến đạo. Bích-chi Phật biết bốn tâm. Đức Phật biết thứ lớp mỗi tâm. Vì sao? Vì Bích-chi Phật, Thanh văn đều dùng phương tiện hiện ở trước. Phật không dùng phương tiện hiện ở trước. Người tu hành nhập Kiến đạo tạo ra phương tiện. Thanh văn nhập tha tâm trí của phần pháp trí tạo ra phương tiện. Hành giả đã nhập kiến đạo. Thanh văn khởi trí phần pháp, tha tâm trí hiện ở trước, có thể biết hai tâm của hành giả, là khổ pháp nhẫn và khổ pháp trí. Hành giả nhập phần tỷ trí, người Thanh văn vì phần tỷ trí, tha tâm trí tạo ra phương tiện. Hành giả đã nhập phần tỷ trí, người Thanh văn khởi phần tỷ trí, tha tâm trí hiện ở trước, vì muốn biết khổ tỷ nhẫn mới biết đạo tỷ trí. Hành giả vì Kiến đạo tạo ra phương tiện. Bích-chi Phật vì phần pháp trí, tha tâm trí mà tạo ra phương tiện. Hành giả đã nhập kiến đạo, Bích-chi Phật khởi phần pháp trí, tha tâm trí hiện ở trước, biết hai tâm của hành giả, là khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí. Người tu hành nhập Phần tỷ trí, Bích-chi Phật vì phần tỷ trí, tha tâm trí tạo phương tiện. Hành giả đã nhập phần tỷ trí, Bích-chi Phật khởi phần tỷ trí, tha tâm trí hiện ở trước. Vì muốn biết khổ tỷ nhẫn, mới biết diệt tỷ nhẫn, diệt tỷ trí. Đức Phật không dùng phương tiện, mà tất cả công đức đều hiện ở trước. Như hành giả thì nhất nhất đều theo thứ lớp khởi kiến đạo hiện ở trước, Đức Thế tôn dùng tha tâm trí, mỗi mỗi theo thứ lớp mà biết.

Đức Phật dùng tướng chung để biết về ba thứ đạo, cũng dùng tướng riêng để biết. Bích-chi Phật cũng biết ba thứ đạo: Đối với đạo Thanh văn, Bích-chi Phật, dùng tướng chung, tướng riêng để biết. Đối với Phật đạo, thì dùng tướng chung để biết, không dùng tướng riêng. Thanh văn cũng biết ba thứ đạo. Đối với đạo Thanh văn, dùng tướng chung, tướng riêng để biết. Đối với đạo Bích-chi Phật và Phật, dùng tướng chung để biết, không dùng tướng riêng.

Hỏi: Lúc Thanh văn kiến đạo đế, là đã thấy đạo Phật, đạo Bíchchi Phật hay không? Nếu thấy thì vì sao tha tâm trí không biết? Nếu không thấy thì làm sao được duyên với tín không hư hoại kia?

Đáp: Nên nói là thấy.

Hỏi: Nếu vậy thì tại sao tha tâm trí không biết?

Đáp: Vì trí nhận biết về tướng chung thấy. Tha tâm trí là trí biết về tướng riêng.

Tất cả tha tâm trí của một chúng sinh, biết được pháp tâm, tâm sở của tất cả chúng sinh. Khi biết, là biết thể của sự thọ hay biết các sátna của thọ? Nếu chỉ biết thể của thọ, các thọ khác sẽ không được nhận biết, thì làm sao biết? Nếu biết các sát-na của thọ thì sao tự thân chẳng phải nhiều thân? Thân mình, nhiều thân, tha tâm trí của ta, với thể của nó có hai mươi mốt thứ. Biết sự thọ một sát-na của một chúng sinh, như sự thọ một sát-na, sự thọ tất cả sát-na khác cũng vậy. Như sự thọ sát-na, thì sát-na pháp tâm, tâm sở khác cũng thế. Như pháp tâm, tâm sở của một chúng sinh thì pháp tâm, tâm sở của những chúng sinh khác cũng vậy. Tha tâm trí của ta đi chung pháp tâm, tâm sở tức là nhiều. Tất cả chúng sinh, như số nhiều pháp tâm, tâm sở của ta, thì thân, chỗ nương dựa lẽ ra cũng nhiều?

Đáp: Nên nói rằng: Biết thể của thọ.

Hỏi: Nếu vậy thì những đối tượng khác không biết thọ làm sao nhận biết?

Đáp: Nếu biết thọ khác, thì không có việc nầy! Vì khi biết, chỉ biết về chỗ biết!

Lại có người nói: Biết các sát-na của thọ.

Hỏi: Nếu vậy thì làm sao thân mình chẳng phải đa số?

Đáp: Đa số thì có lỗi gì? Vì sao? Vì như thể nơi tha tâm trí của ta có hai mươi mốt thứ biết pháp tâm, tâm sở của tất cả chúng sinh. Thể của tha tâm trí nơi tất cả chúng sinh cũng có hai mươi một thứ biết được pháp tâm, tâm sở của ta. Cho nên không có lỗi.

Hỏi: Tha tâm trí là duyên quá khứ, duyên vị lai, hay duyên hiện tại?

Đáp: Duyên hiện tại.

Hỏi: Nếu vậy thì kinh nầy đã nói làm sao hiểu được? Như nói: Pháp quá khứ, vị lai được chín trí biết?

Đáp: Kinh nầy nên nói rằng: Pháp quá khứ, vị lai được tám trí biết, trừ diệt trí, tha tâm trí. Mà không nói là có ý gì? Vì tùy duyên mà nói.

Pháp quá khứ, duyên quá khứ, pháp vị lai, duyên vị lai. Nếu như đã nói, tha tâm trí biết ba sát-na, đó là biết sát-na hiện tại, theo thứ lớp trước diệt, theo thứ lớp sẽ sinh. Kinh nầy nên nói như thế!

Hỏi: Tha tâm trí duyên một pháp hay duyên nhiều pháp? Nếu duyên một pháp thì kinh đã nói, làm sao hiểu được? Như nói: Tâm có dục, biết như thật là tâm có dục. Nếu cùng lúc biết dục, cũng biết tâm há chẳng phải biết nhiều pháp hay sao?

Kinh khác nói làm sao hiểu? Như nói: Ngay lúc Đức Thế tôn nhớ lại, biết khắp ý nghĩ trong tâm chúng tăng, nếu duyên nhiều pháp thì làm sao thể là ba niệm xứ?

Đáp: Nên nói thế nầy: Duyên với một pháp.

Hỏi: Nếu vậy làm sao hiểu được kinh Phật? Như nói: Biết đúng như thật tâm có dục?

Đáp: Vì tâm tương ưng với dục, nên gọi là tâm có dục. Nếu biết dục thì không biết tâm, nếu biết tâm thì không biết dục, như quán áo nhơ! Nếu quán nhơ, thì không quán áo, nếu quán áo thì không quán nhơ! Tâm có dục kia cũng giống như thế.

Kinh khác lại nói làm sao hiểu được? Như nói: Ngay lúc Đức Thế Tôn nhớ lại, biết khắp ý nghĩ trong tâm của chúng tăng?

Đáp: Do tỷ tướng mà biết chứ chẳng phải dùng tha tâm trí. Đức

Thế Tôn dùng tha tâm trí quán tâm của một Tỳ-kheo đang an trụ trong đạo vắng lặng. Kế là dùng trí tỷ tướng để biết tâm của các Tỳ-kheo cũng thế.

Lại có người nói: Đức Thế Tôn không dùng tha tâm trí để biết, cũng không dùng trí tỷ tướng để biết, mà dùng trí nguyện để biết.

Lại có người nói: Đức Thế Tôn không dùng tha tâm trí, trí tỷ tướng, trí nguyện để biết. Khi Đức Thế Tôn được tận trí, được pháp tâm, tâm sở vô ký không ẩn một không hề được cõi Dục, cũng không nhập thiền, cũng không khởi thần thông hiện ở trước. Ngay lúc nhớ lại vẫn biết khắp tâm của các Tỳ-kheo tăng.

Lại có người nói: Do biết nhiều pháp.

Hỏi: Nếu vậy thì làm sao thể là ba niệm xứ?

Đáp: Lúc phương tiện đầu là thông của ba niệm xứ. Nếu đầy đủ là duyên chung pháp niệm xứ.

Lời bình: Nên nói rằng: Hết thảy tha tâm trí duyên với một pháp, là quán tướng riêng, duyên hiện tại, duyên pháp tâm, tâm sở của người khác. Trong kiến đạo thì không, trong tu đạo, không tương ưng với tammuội Không, vô tướng, không gồm nhiếp tận trí, trí vô sinh. Trong đạo vô ngại, không có tha tâm trí. Về pháp nên là như thế.

Thế nào là trí nhớ lại đời trước?

Đáp: Nếu trí là tu, là quả của tu, từ tu sinh, được rồi không mất. Do trí nầy nên nhớ lại đến vô số đời sống trong quá khứ, với tướng mạo như thế, đó gọi là trí nhớ lại đời trước. Việc hỏi đáp trong đây nói rộng như tha tâm trí.

Thế nào là tướng như thế? Mạo như thế?

Đáp: Tướng như thế, nghĩa là hữu của thời gian trước. Mạo như thế nghĩa là trung hữu.

Lại có người nói: Tướng như thế là Trung hữu. Mạo như thế là Hữu của thời gian trước. Vì sao? Vì Hữu của thời gian trước có thể bảo cho người ta biết. Đây là mạo sai khác giữa Sát-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-Xá, Thủ đà Như kinh nói:

Phật bảo Tôn giả A-nan: Nếu có tướng như thế, mạo như thế được lập bày gọi là sắc thân. Nếu vô tướng như thế, mạo như thế có thể lập bày thì có xúc đối hay không? Đáp: Không!

Kinh kia nói: Nội nhập là tướng, ngoại nhập là mạo.

Lại có người nói: Kinh kia nói: Nội nhập là mạo, ngoại nhập là tướng. Vì sao? Vì nội nhập nên nói các thức có tướng khác nhau. Như nói: Trừ ngần ấy việc trên!

Ở đây vô tướng mạo như thế, do vậy nên bỏ. Như nói: Nếu dùng tướng như thế mạo như thế, nhập Sơ thiền. Tướng như thế là phương tiện, mạo như thế là sở duyên. Như kệ nói:

Nếu thành tựu tám trí

Tướng mạo mười sáu hành

Như vàng Diêm-phù-đàn

Không thể nói lỗi ấy.

Tuệ nói trong đây, gọi là tướng mạo.

Vô số đời sống trong quá khứ: Là nói cảnh giới của trí nhớ lại đời trước. Lẽ ra nói là một. Trí nhớ lại đời trước được thông của trí nhớ lại đời trước, nhớ lại minh của đời trước, nhớ lại lực của đời trước. Lẽ ra nói là hai, đó là đã từng được, không hề được. Nên nói ba là: Thượng, trung, hạ. Nên nói bốn là: Quả Sơ thiền, cho đến quả đệ Tứ thiền. Nên nói là sáu: Đã từng được có ba thứ, không hề được có ba thứ, là phẩm thượng, trung, hạ. Nên nói là tám: Địa Sơ thiền có hai thứ, đó là đã từng được, không hề được, cho đến địa Tứ thiền cũng giống như thế.

Nên nói chín, đó là phẩm hạ, hạ, cho đến phẩm thượng, thượng. Nên nói là mười hai: Sơ thiền có ba thứ là: Thượng, trung, hạ, cho đến đệ Tứ thiền cũng giống như thế.

Nên nói mười tám: Đã từng được có chín thứ, không hề được có chín thứ.

Nên nói hai mươi bốn: Sơ thiền có sáu thứ, đó là đã từng được có ba thứ, không hề được có ba thứ, cho đến đệ Tứ thiền cũng giống như thế.

Nên nói là ba mươi sáu: Sơ thiền có chín thứ, cho đến đệ Tứ thiền cũng giống như thế.

Nên nói là bảy mươi hai: Sơ thiền đã từng được có chín thứ, không hề được có chín thứ, cho đến đệ Tứ thiền cũng thế.

Nếu ở thân, hoặc ở sát-na, thì sẽ có Vô lượng vô biên trí nhớ lại đời trước. Trong ấy, nhân nói chung về một trí nhớ lại đời trước để soạn luận.

Hỏi: Thể tánh của trí nhớ lại đời trước là gì?

Đáp: Thể tánh là tuệ. Do sức của niệm nhiều nên gọi là trí nhớ lại đời trước, như thể tánh của niệm xứ là tuệ, do sức của niệm nhiều, nên gọi là niệm xứ.

Như thể tánh của niệm A-Na-Ba-Na là tuệ, do sức của niệm nhiều nên gọi là niệm A na ba na. Thể tánh của niệm nhớ lại đời trước là tuệ, nhưng do sức của niệm nhiều, nên gọi là nhớ lại đời trước. Thể tánh của trừ sắc tưởng là tuệ, do sức tưởng nhiều, nên gọi là trừ sắc tưởng. Như vậy, thể tánh của trí nhớ lại đời trước là tuệ, do sức của niệm nhiều, nên gọi là trí nhớ lại đời trước. Đó là thể tánh của trí nhớ lại đời trước, cho đến nói rộng.

*******

 

Đã nói về thể tánh của trí nhớ lại đời trước. Nay sẽ nói về lý do:

Vì sao gọi là trí nhớ lại đời trước?

Đáp: Vì nhớ lại ấm đời trước, nên gọi là trí nhớ lại đời trước.

Về giới: Là cõi Sắc.

Hỏi: Vì sao trong cõi Vô sắc không có trí nhớ lại đời trước?

Đáp: Vì cõi ấy chẳng phải nhân của trí nhớ lại đời trước, cho đến nói rộng.

Lại nữa, nhân của trí nhớ lại đời trước là nhân nơi sắc sinh, mà cõi Vô sắc không có sắc, nên không có địa. Ở địa của bốn thiền căn bản, chẳng phải trong các biên Vô sắc. Vì sao? Vì nếu có xứ định, là chỗ nương của thông, thì xứ nầy có trí nhớ lại đời trước. Trong các bên Vô sắc, vì không có định là chỗ nương dựa của thông, nên không có trí nhớ lại đời trước.

Hỏi: Do địa nào trí nhớ lại đời trước nhớ lại? Do thiền trung gian chăng?

Đáp: Hoặc có người nói: Do Sơ thiền.

Lại có thuyết nói: Do đệ Nhị thiền.

Lời bình: Nên nói rằng: Do Sơ thiền. Vì sao? Vì đồng một địa.

Về thân nương dựa: Là dựa vào thân cõi Dục, cõi Sắc.

Về hành: Không có sở hành.

Duyên: Trí nhớ lại đời trước của Sơ thiền, biết Sơ thiền và năm ấm đời trước cõi Dục. Cho đến người đệ Tứ thiền biết cõi Dục, cho đến năm ấm đời trước của đệ Tứ thiền. Không biết cõi Vô sắc.

Hỏi: Vì sao trí nhớ lại đời trước không biết cõi Vô sắc?

Đáp: Vì trí nhớ lại đời trước không biết pháp của địa trên. Người

Sơ thiền không biết năm ấm đời trước của đệ Nhị thiền, cho đến đệ Tam thiền không biết năm ấm đời trước của đệ Tứ thiền. Trong cõi Vô sắc, không có trí nhớ lại đời trước.

Hỏi: Sinh trong cõi Dục, cõi Sắc, khởi định Vô sắc hiện ở trước, trí nhớ lại đời trước có thể biết được không?

Đáp: Không biết. Vì sao? Vì nếu không biết quả thì nhân cũng giống không biết.

Hỏi: Nếu trí nhớ lại đời trước không biết người cõi Vô sắc, thì kinh Phật nói làm sao hiểu được? Như nói: Đức Thế tôn đã sinh ở vô số xứ trong quá khứ, hoặc sinh ở những nơi có sắc, không có sắc, có tưởng, không có tưởng, với vô số lần sinh trong quá khứ như vậy, tất đã có tướng mạo như vậy và đều có thể nghĩ nhớ.

Hỏi: Nói thế nào là sắc? Cái gì chẳng phải sắc?

Đáp: Sắc là hữu của thời gian trước, không có sắc là trung hữu.

Hỏi: Nếu vậy thì Thanh văn cũng có thể biết, so với Phật đâu có khác?

Lại có người nói: Sắc là cõi Dục, cõi Sắc. Không có sắc là cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu vậy làm sao Đức Thế Tôn biết cõi Vô sắc?

Đáp: So sánh tướng mạo mà biết.

Hỏi: Nếu vậy thì Thanh văn, do so sánh tướng mạo cũng có thể biết, đâu có khác gì với Phật?

Đáp: Như ngoại đạo quán việc đời trước, nếu nơi cõi Dục, cõi Sắc không thấy, thì là nói dứt diệt. Thanh văn quán sát việc đời trước, nếu ở trong cõi Dục, cõi Sắc, hơn hai muôn kiếp thì không thấy, thì nói là chúng sinh sinh ở Không xứ, nhưng chúng sinh kia có thể ở địa trên, chưa hết tuổi thọ của mình. Nếu hơn bốn muôn kiếp mà không thấy, thì nói là chúng sinh sinh nơi Thức xứ, nhưng chúng sinh đó hoặc có thể tái sinh nơi Không xứ, hoặc đang ở địa trên, chưa hết tuổi thọ của mình. Nếu hơn sáu muôn kiếp không thấy, thì nói là chúng sinh sinh Vô sở hữu xứ, nhưng chúng sinh kia hoặc có thể ba lần sinh Không xứ, hoặc một lần sinh, nửa lần sinh nơi Thức xứ, hoặc ở Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa hết tuổi của thọ mình. Nếu hơn tám muôn kiếp mà không thấy, thì nói là chúng sinh sinh lên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nhưng chúng sinh kia hoặc có thể bốn lần sinh Không xứ, hai lần sinh Thức xứ, một lần sinh, nửa lần sinh Vô sở hữu xứ.

Nếu khi Đức Thế tôn muốn quán cõi Vô sắc, nhưng chúng sinh lại chết ở cõi Dục, cõi Sắc, quán chúng sinh kia khi chết, tâm biết là chúng sinh sinh ở Không xứ, là chúng sinh sinh nơi Thức xứ, là chúng sinh sinh lên Vô sở hữu xứ, là chúng sinh sinh lên Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, là chúng sinh hết tuổi thọ, là chúng sinh không hết tuổi thọ. Nếu chúng sinh chết ở cõi Vô sắc, sinh xuống cõi Dục, cõi Sắc, thì khi quán sinh, tâm biết chúng sinh nầy từ Không xứ chết, cho đến chết ở Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, là chúng sinh nầy đã hết tuổi thọ, là chúng sinh không hết tuổi thọ của xứ kia. Trí của tỷ tướng nơi ngoại đạo, thấy là dứt diệt. Trí tỷ tướng của Thanh văn, nhận biết, hoặc như việc ấy, hoặc không như việc ấy. Trí tỷ tướng của Phật, Thế tôn trong sáng, tốt đẹp, đều như việc của họ. Không có luống dối.

Về niệm xứ, là duyên chung pháp niệm xứ.

Tôn giả Cù-sa nói: Là bốn niệm xứ. Như nói: Nhớ lại việc vui, khổ ở đời trước. Nếu nghĩ đến khổ, vui, há chẳng phải thọ niệm xứ chăng?

Đáp: Ở đời trước, hoặc từng được niềm vui đã cần đủ, khổ đã cần đủ. Vì nghĩ đến việc nầy nên nói như thế, nhưng thật ra là duyên chung pháp niệm xứ.

Về trí: Là đẳng trí.

Tôn giả Cù-sa nói là sáu trí, trừ tha tâm trí, diệt trí. Sở dĩ trừ tha tâm trí vì duyên với hiện tại. Sở dĩ loại trừ diệt trí vì duyên với vô vi.

Lời bình: Nên nói rằng: Là một đẳng trí.

Tam-muội: Không tương ưng với tam-muội.

Căn: Đều tương ưng chung với ba căn.

Đời: Là ba đời.

Duyên với ba đời: Quá khứ, hiện tại thì duyên quá khứ. Vị lai thì duyên với ba đời.

Thiện, bất thiện, vô ký là: Là thiện.

Duyên thiện, bất thiện, vô ký: Duyên nơi ba thứ.

Lệ thuộc ba cõi: Là lệ thuộc cõi Sắc.

Duyên với lệ thuộc ba cõi: Duyên nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Là Học, Vô học, Phi học Phi Vô học: Là Phi học Phi Vô học.

Duyên Học, Vô học, Phi học Phi Vô học: Là duyên Phi học Phi Vô học.

Là kiến đạo dứt, tu đạo dứt, không dứt: Là tu đạo dứt.

Duyên với kiến đạo dứt, tu đạo dứt, không dứt: Là duyên kiến đạo, tu đạo dứt.

Duyên danh, duyên nghĩa: Là duyên danh, duyên nghĩa.

Duyên với thân mình, thân người, chẳng phải thân: Là duyên với thân mình, thân người khác.

Lìa dục đắc, phương tiện đắc: Là lìa dục đắc. Cũng có khi dùng phương tiện lìa dục, sẽ được phương tiện khởi hiện ở trước.

Người Sơ thiền, lìa dục đắc của cõi Dục, cho đến người đệ Tứ thiền, lìa dục đắc của Tam thiền.

Bậc Thánh, phàm phu của pháp Phật được vốn từng được, không hề được về trí nhớ lại đời trước. Phàm phu của ngoại đạo được vốn từng được trí nhớ lại đời trước, lúc lìa dục sẽ được phương tiện khởi hiện ở trước. Phật không dùng phương tiện khởi hiện ở trước. Bích-chi Phật dùng phương tiện bậc hạ, Thanh văn có khi dùng phương tiện bậc trung, có khi dùng phương tiện bậc thượng.

Hỏi: Phương tiện của trí nhớ lại đời trước là thế nào?

Đáp: Như Luận Thi Thiết nói: Hành đầu tiên cho người mới nhập pháp, theo thứ lớp nhận lấy tướng mạo của ý thức diệt trước, nhớ lại tướng mạo đã biết. Lại nhận lấy tướng mạo của ý thức đã diệt từ lâu.

Hỏi: Nhận lấy tướng mạo của ý thức đã diệt từ lâu, là dùng thời gian hay dùng sát-na?

Đáp: Là dùng thời gian. Vì nếu dùng sát-na thì không thể nhớ lại một nửa đã chết, có thể là phương tiện không đầy đủ: Tướng mạo khi nhận lấy sự sanh tử, già nầy, nhớ lại sẽ biết qua tướng mạo đó.

Kế là nhận lấy tướng mạo của thời kỳ trung niên, kế là nhận lấy tướng mạo của thời kỳ thiếu niên. Kế nhận lấy tướng mạo của thời kỳ nhi đồng, nhận lấy tướng mạo của thời kỳ hài nhi. Theo thứ lớp nhận lấy tướng mạo của thời kỳ Ba-xa-khư, kế là nhận lấy tướng mạo của thời kỳ Kiện-na, nhận lấy tướng mạo của thời kỳ Ty-thi, nhận lấy tướng mạo của thời kỳ A-phù-đà, nhận lấy tướng mạo của thời kỳ Ca-la-la. Nhớ lại đều biết các thời kỳ đó. Kế là nhận lấy tướng mạo của tâm khi sắp vào thai mẹ, nhớ lại cũng đã biết qua các thời gian đó. Đó gọi là trí nhớ lại việc đời trước một cách đầy đủ.

Không nên nói lời nầy. Vì sao? Vì chết trong trung hữu, theo thứ lớp trung hữu vào thai mẹ, tức thuộc về sự sanh tử nầy.

Lời bình: Nên nói rằng: Nếu có thể nhớ lại thì biết được một sátna sau cùng khi chết ở đời trước. Đó gọi là trí nhớ lại đời trước đầy đủ.

Hỏi: Khi muốn tu về trí nhớ lại đời trước, thì duyên với thân mình hay duyên với thân người?

Đáp: Hoặc có người nói: Duyên với thân mình.

Hỏi: Nếu vậy người chết ở cõi Vô sắc thì đã không thể như thế?

Lại có người nói: Duyên với thân người khác.

Lời bình: Nên nói như thế: Duyên với thân mình, cũng duyên với thân người. Duyên với thân mình tạo ra phương tiện. Nếu tự thấy người chết ở cõi Vô sắc, thì sẽ duyên với thân người khiến có được đầy đủ. Nếu duyên với thân người tạo phương tiện, thấy người khác chết ở cõi Vô sắc thì sẽ duyên với thân mình, khiến được đầy đủ. Cho nên duyên với thân mình, thân người, để tu trí nhớ lại đời trước, khiến được đầy đủ.

Hỏi: Trí nhớ lại đời trước, là nhớ lại những việc mình từng trải qua, hay nhớ lại những việc mình không hề trải qua?

Đáp: Nhớ lại việc đã từng trải qua.

Hỏi: Nếu vậy thì không có sự nhớ lại của người sinh lên tầng trời Tịnh cư. Vì sao? Vì không có người từng sinh lên tầng trời Tịnh cư?

Đáp: Từng trải qua có hai thứ: Hoặc thấy, hoặc nghe. Tầng trời Tịnh cư dù không từng thấy mà đã từng nghe.

Hỏi: Vì nhân cõi Dục sinh ra trí nầy phải chăng? Hay vì nhân cõi Sắc sinh ra trí nầy?

Đáp: Vừa nhân cõi Dục, vừa nhân cõi Sắc. Hoặc có người nhân cõi Dục tạo ra phương tiện, đối với cõi Sắc được đầy đủ. Hoặc có kẻ nhân cõi Sắc tạo ra phương tiện, được đầy đủ đối với cõi Dục. Hoặc có người nhân cõi Dục tạo ra phương tiện, được đầy đủ đối với cõi Dục. Hoặc có kẻ nhân cõi Sắc tạo ra phương tiện, được đầy đủ đối với cõi Sắc.

Nhân cõi Dục tạo ra phương tiện, được đầy đủ đối với cõi Sắc. Cùng với tánh ác khó ở chung. Chúng sinh cùng ở một chỗ, nghĩ rằng: Như tánh ác ấy là khó ở chung. Chúng sinh đều là người chết ở cõi Dục. Quan sát thời gian nầy là người chết ở cõi Sắc.

Nhân cõi Sắc tạo ra phương tiện, được đầy đủ đối với cõi Dục: Cùng với tánh thiện dễ ở chung. Chúng sinh cùng ở một chỗ, nghĩ rằng: Như tánh thiện ấy là dễ ở chung. Chúng sinh chắc chắn là người chết ở cõi Sắc, quán sát thời gian nầy, là kẻ chết ở cõi Dục.

Nhân cõi Dục tạo ra phương tiện, được đầy đủ đối với cõi Dục: Cùng với tánh ác khó ở chung. Chúng sinh đồng ở một chỗ, nghĩ rằng: Như tánh ác ấy thì khó ở chung. Chúng sinh sẽ chết ở cõi Dục, quán sát lúc nầy là người chết ở cõi Dục.

Nhân cõi Sắc tạo ra phương tiện được đầy đủ đối với cõi Sắc: Cùng với tánh thiện, dễ ở chung. Chúng sinh đồng ở một chỗ, nghĩ rằng: Như tánh thiện nầy, có thể dễ ở chung. Chúng sinh chắc chắn chết ở cõi Sắc, quán sát thời gian nầy là người chết ở cõi Sắc.

Hỏi: Vì quán mỗi đời, hay quán nhiều đời?

Đáp: Khi mới học, quán mỗi đời, khi đầy đủ thì quán trăm ngàn muôn đời. Đức Thế tôn lúc mới học, có thể quán trăm ngàn muôn đời.

Hỏi: Vì có thể bỏ qua trăm ngàn muôn đời mới quán trăm ngàn muôn đời lâu xa phải không?

Đáp: Mới học thì không thể, khi đầy đủ thì có thể. Đức Thế tôn lúc mới học là có thể bỏ qua trăm ngàn muôn đời mới quán trăm ngàn muôn đời lâu xa.

Hỏi: Quán theo thứ lớp đời trước, cho đến thời gian lâu xa. Nếu khi muốn dừng lại thì dừng lại theo thứ lớp quay trở lại, hay dừng lại cùng lúc?

Đáp: Hoặc có người nói: Dừng lại theo thứ lớp thời gian quay trở lại.

Lời bình: Nên nói rằng: Tùy ý quán, cũng tùy ý dừng lại.

Hỏi: Quán thứ lớp đời trước, trải qua thời gian lâu xa, bỏ rồi thì có thể quán đời vị lai?

Đáp: Chỉ Phật, Thế tôn là có thể, người khác chẳng thể. Vì sao? Vì trí quán đời trước của Phật, Thế tôn theo thứ lớp có thể sinh ra trí quán vị lai. Trí quán vị lai theo thứ lớp có thể sinh trí quán đời trước, không dùng phương tiện, tất cả công đức đều hiện ra ở trước.

Hỏi: Ở trong một sát-na có thể quán bao nhiêu đời?

Đáp: Có thể quán một đời. Vì sao biết được? Như trong Tỳ-ni nói: Tôn giả Thâu-tỳ-đa nói rằng: Trong khoảng, phát ý của ta có thể nhớ lại những việc trong năm trăm đời.

Các Tỳ-kheo đều nói: Nên đuổi vị Tỳ-kheo ấy đi. Vì sao? Vì tự xưng chứng đắc, không có việc như thế, vì là pháp hơn người.

Phật bảo các Tỳ-kheo: Không nên đuổi Tỳ-kheo ấy. Vì sao? Vì vị Tỳ-kheo ấy từ trời Vô tưởng sinh xuống thế gian nầy. Tuổi thọ của trời Vô tưởng trải qua năm trăm kiếp, nên khi nhớ lại việc của một đời mình thì nói năm trăm đời.

Hỏi: Ở trong một khoảng thời gian có thể quán bao nhiêu đường?

Đáp: Hoặc có người nói: Có thể quán một đường. Lại có người nói: Có thể quán hai đường là đường địa ngục đường súc sinh, hoặc đường súc sinh đường ngạ quỷ, hoặc đường súc sinh đường trời, hoặc đường súc sinh đường người. Hoặc khi quán vua Chuyển Luân, sẽ nhớ lại ba đường: đường người, đường súc sinh, đường ngạ quỷ. Đường người: Vua và quan. Đường súc sinh: Là voi, ngựa. Đường ngạ quỷ: Là quỷ thần thọ cúng tế và các thần như Chuyển Luân v.v… Nếu khi quán vua Đảnh sinh, sẽ nhớ bốn đường, đường súc sinh là voi, ngựa. Đường ngạ quỷ là thần thọ cúng tế. Đường trời là Đế-thích và quyến thuộc, đường người là vua Đảnh Sinh và quyến thuộc, thì không có việc ấy, vì để phân biệt nên nói. Nếu khiến cho năm đường cùng ở chung một chỗ, thì cùng lúc có thể nhớ lại cả năm đường.

Kinh Phật nói: Thường kiến có ba thứ:

  1. Có người nhớ lại hai muôn kiếp.
  2. Có người nhớ lại bốn muôn kiếp.
  3. Có người nhớ lại sáu muôn kiếp.

Hỏi: Những gì là thường kiến nhớ lại các việc trong hai muôn kiếp? Những gì là… bốn muôn kiếp? Những gì là sáu muôn kiếp?

Đáp: Thường kiến: Căn tánh có thượng, trung, hạ. Hạ: là nhớ lại những việc trong hai muôn kiếp. Trung là: Bốn muôn kiếp. Thượng là: Sáu muôn kiếp.

Lại nữa, có người còn nhớ lại kiếp lửa, nước, gió. Người nhớ lại kiếp lửa có hai muôn kiếp. Nước: Bốn muôn kiếp. Gió: Sáu muôn kiếp.

Lại nữa, có người còn nhớ lại lúc các căn hỷ, lạc, xả hư hoại. Người nhớ lại sự hư hoại của hỷ căn: Hai muôn kiếp. Lạc căn: Bốn muôn kiếp. Xả căn: Sáu muôn kiếp.

Lại nữa, hoặc là tánh của Thanh văn, hoặc tánh của Bích-chi Phật, hoặc là Phật tánh. Tánh của Thanh văn nhớ lại hai muôn kiếp. Tánh của Bích-chi Phật nhớ lại bốn muôn kiếp. Tánh Phật nhớ lại sáu muôn kiếp.

Hỏi: Nếu là tha tâm trí thì đều biết pháp tâm, tâm sở của người khác chăng?

Đáp: Hoặc là tha tâm trí không biết pháp tâm, tâm sở của người khác, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1.Trí biết tâm người khác nhưng không biết tâm pháp tâm sở của người khác, nghĩa là tha tâm trí ở quá khứ, vị lai, có tướng như thế, không biết pháp tâm, tâm sở của người khác. Vì sao? Vì việc làm của người quá khứ thì đã xong, người vị lai chưa có công việc làm.

2. Biết tâm pháp tâm sở của người khác, nhưng chẳng phải tha tâm trí, nghĩa là cũng như có một người hoặc do tướng mạo mà biết, hoặc nghe giọng nói của người kia, hoặc do nơi sinh mà được. Vì trí như cho nên có thể biết.

Hỏi: Ai có thể dùng tướng để biết?

Đáp: Con người có thể.

Nghe nói Thích tử Bạt-nan-đà đi đến nhà một Ưu-bà-tắc, thấy bên cạnh cổng nhà cư sĩ đó có buộc một con nghé con. Bấy giờ, Thích tử Bạt-nan-đà nói với Ưu-bà-tắc: Nghé con buộc bên cổng nhà ông sắc nó có đốm vằn. Nếu dùng da nó để trải ngồi thì rất tốt. Lúc ấy, Ưu-bà-tắc nghĩ: Vị Tỳ-kheo nầy muốn có được tấm da của nghé con để làm tọa cụ. Liền giết con nghé, lấy da cho Tỳ-kheo. Thích Tử Bạt-nan-đà cầm tấm da nghé về tinh xá Kỳ-hoàn, bò mẹ hý vang, rồi chạy theo.

Câu chuyện như thế v.v…, gọi là do tướng mà biết.

Ai nghe nói có thể biết?

Nghe nói: Có một vị cư sĩ mặc y phục mới đi đến Tinh xá Kỳhoàn. Thích tử Bạt-nan-đà thấy vậy liền nói với cư sĩ: Lành thay, cư sĩ! Áo ông đang mặc, có thể may thành tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, hoặc làm tòa ngồi. Bấy giờ, cư sĩ nghĩ rằng: Vị Tỳ-kheo nầy muốn được chiếc áo của ta! Liền cởi áo cho Tỳ-kheo.

Lại có người nói: Nghe nói có thể biết, tức là do tướng mà biết. Văn kinh nên nói như vầy: Hoặc do tướng mà biết, hoặc do bói cỏ thi mà biết pháp tâm, tâm sở của người khác. Do tướng mạo biết, như trước đã nói. Do “bói cỏ thi” mà biết, như các ngoại đạo. Hoặc do “Chỉ quái”, hoặc do xúc chạm vật dụng, y phục, hoặc dùng phép tính, hoặc trái lại nhận lấy tướng mạo nên có thể biết pháp tâm, tâm sở của người khác.

Hỏi: Ai có xứ sinh mà biết được?

Đáp: Là chúng sinh địa ngục, nhưng không có tên gọi nhất định.

Hỏi: Chỗ sinh được biết, là lúc sinh có thể biết, thời gian giữa có thể biết, hay thời gian sau có thể biết?

Đáp: Mới sinh chưa thọ khổ, cái biết phải sau khi cảm nhận khổ, nhưng tự tâm còn không thể biết, huống chi là tâm người khác!

Khi dừng lại ở tâm thiện có thể biết, hay lúc trụ nơi tâm vô ký, cấu uế mà biết?

Đáp: Trụ trong ba thứ tâm đều có thể biết!

Hỏi: Trụ trong ý thức hay trụ trong năm thức thân có thể biết?

Đáp: Trụ trong ý thức mà biết chứ chẳng phải năm thức.

Hỏi: Trụ trong oai nghi, trụ trong công xảo, hay trụ ở tâm báo?

Đáp: Trụ trong tâm oai nghi, chẳng phải tâm công xảo, tâm báo. Vì sao? Vì chúng sinh kia không có công xảo, nên chẳng có tâm báo, vì tâm báo ở năm thức.

Trong súc sinh cũng có khả năng biết được pháp tâm, tâm sở của người khác.

Nghe nói: Có một người đàn bà đặt con mình ở một chỗ, vì có việc phải đến nơi khác. Bấy giờ, có một con chó sói chạy đến tha con bà đi. Người đương thời hỏi: Vì sao sói lại tha con của bà ấy? Chó sói nói: Vì mẹ của đứa bé nầy thường ăn thịt con tôi, nên hôm nay tôi ăn lại thịt con bà ấy. Nếu bà ấy có thể xóa bỏ tâm kẻ thù, thì tôi cũng sẽ xóa bỏ lòng thù hận!

Người thời bấy giờ nói: Người nữ nầy có thể xóa bỏ tâm kẻ thù không? Người nữ đáp: Nay tôi đã xóa bỏ rồi! Lúc ấy, chó sói quán tâm của bà ấy, thấy bà chưa bỏ mối kẻ thù kia, chỉ ngoài miệng nói bỏ! Nó liền giết đứa con của bà ta rồi đi.

Hỏi: Súc sinh vì lúc sinh biết, vì thời gian giữa biết, hay thời gian sau biết?

Đáp: Cả ba thời gian đều biết.

Hỏi: Trụ nơi tâm thiện, tâm nhiễm ô, tâm vô ký không ẩn một mà biết chăng?

Đáp: Cả ba thứ tâm đều biết.

Hỏi: Trụ trong ý thức hay trụ trong năm thức thân biết?

Đáp: Trụ trong ý thức biết, chẳng phải trụ trong năm thức thân biết!

Hỏi: Trụ trong oai nghi, công xảo, hay tâm báo mà biết?

Đáp: Ba thứ đều biết.

Ngạ quỷ cũng biết pháp tâm, tâm sở của người khác.

Nghe nói: Có con quỷ nhập trong thân của cô gái. Chú sư hỏi quỷ: Vì sao gây xúc não cho cô gái kia? Quỷ đáp: Trong năm trăm đời, cô gái nầy đã gây thù oán với tôi, thường giết tôi. Tôi cũng giết cô ta. Nếu cô ta xóa bỏ tâm oán hận thì tôi cũng xoá bỏ. Bấy giờ có người hỏi cô gái nầy có thể bỏ tâm kẻ thù không? Cô gái đáp: Nay tôi đã xóa bỏ! Quỷ quán sát tâm cô gái, ngoài miệng nói xóa bỏ, nhưng tâm oán hận không dứt trừ! Liền giết cô gái rồi bỏ đi!

Hỏi: Vì lúc sinh biết, lúc thời gian giữa, hay lúc thời gian sau mà biết?

Đáp: Cả ba thời gian đều biết.

Hỏi: Trụ nơi tâm thiện, tâm nhiễm ô, hay tâm vô ký không ẩn một mà biết?

Đáp: Ba thứ đều biết.

Hỏi: Trụ nơi y thức mà biết hay trụ nơi năm thức mà biết?

Đáp: Trụ nơi ý thức mà biết.

Hỏi: Trụ trong oai nghi, công xảo, hay tâm báo mà biết?

Đáp: Cả ba thứ đều biết.

Trong cõi trời cũng có xứ sinh được biết, có thể biết pháp tâm, tâm sở của người khác, nhưng không có tên gọi nhất định. Lúc đầu, giữa, sau đều biết, nghĩa là nói rộng như đường súc sinh, ngạ quỷ. Ngoài ra, nói rộng như trong Kiền-độ Tạp.

1. Trí biết tâm người khác, cũng biết pháp tâm, tâm sở người khác, nghĩa là nếu trí là tu, là quả của tu, từ sinh đắc không mất. Trí nầy hiện ở trước, biết pháp tâm, tâm sở của chúng sinh cõi Dục, cõi Sắc và pháp tâm, tâm sở vô lậu.

2. Chẳng phải trí biết tâm người khác, cũng chẳng phải biết tâm pháp tâm sở của người khác: Là trừ ngần ấy việc trên.

Trừ ngần ấy việc trên, như trước có nói rộng.

Hành ấm tạo ra bốn trường hợp nầy.

Ở đây đều nói tha tâm trí của quá khứ, vị lai, hiện tại và trí của hiện tướng. Trí nghe người khác nói, trí sinh đắc trí tạo ra ba trường hợp trước. Ngoài ra, hành ấm, bốn ấm tương ưng, bất tương ưng và pháp vô vi tạo ra trường hợp thứ tư. Đó gọi là trừ ngần ấy việc trên.

Nếu là trí nhớ lại đời trước, đều biết vô số sự sanh tử của đời trước chăng? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Là trí nhớ lại đời trước, nhưng không biết vô số sự sanh tử của đời trước: Nghĩa là trí nhớ lại đời trước ở quá khứ, vị lai, có tướng của trí nhớ lại đời trước, mà không biết vô số sự sanh tử của đời trước. Vì sao? Vì việc làm ở quá khứ đã xong, vị lai thì chưa có việc làm.

2. Biết vô số sự sanh tử của đời trước, nhưng chẳng phải trí nhớ lại đời trước: giống như có một:

Có khi nhớ lại tự tánh phát sinh trí.

Có khi xứ sinh được trí.

Ai có trí sinh nhớ lại?

Đáp: Con người có.

Ai có xứ sinh được trí?

Đáp: Chúng sinh địa ngục. Như kinh nói: Chúng sinh địa ngục nói rằng: Các Sa-môn, Bà-la-môn nhận thấy tham dục là lỗi lầm ở vị lai, nên đã vì chúng ta nói pháp, phải nên dứt dục. Chúng ta không nghe theo lời họ. Do nhân duyên tham dục nên hiện nay phải chịu quả báo đau khổ.

Hỏi: Chúng sinh địa ngục là thời gian đầu biết, là thời gian giữa, biết hay thời gian sau biết?

Đáp: Thời gian đầu biết, chẳng phải giữa, sau. Vì nếu chưa thọ khổ thì biết, lúc đã thọ khổ, theo thứ lớp pháp diệt trước đây cũng còn không biết, huống chi là đã diệt lâu xa rồi. Ngoài ra, nói rộng như lãnh vực của tha tâm trí.

Súc sinh cũng có xứ sinh được trí. Như kinh nói: Nếu ông là cha ta, là Đô Đề chăng, thì hãy bước lên tòa nầy. Nói rộng như trong Kiền-độ Tạp.

Hỏi: Là thời gian ban đầu biết, hay là thời gian giữa, sau biết?

Đáp: Thời gian đầu biết, thời gian giữa, sau cũng biết. Nói rộng như lãnh vực tha tâm trí. Ngạ quỷ cũng có xứ sinh được trí. Như kệ nói:

Ta tự gom của cải

Do pháp và phi pháp

Nay người khác được vui

Mà ta chịu khổ não!

Hỏi: Là thời gian ban đầu biết, hay là thời gian giữa, sau biết?

Đáp: Thời gian đầu, giữa, sau đều biết. Nói rộng như lãnh vực của tha tâm trí.

Trời cũng có xứ sinh được trí. Như kệ nói: Rừng Kỳ-đà hôm nay Nơi Hiền Thánh tăng ở Pháp vương cũng ở đó Tâm ta rất vui mừng.

Hỏi: Là thời gian đầu biết hay giữa, sau biết?

Đáp: Thời gian đầu, giữa, sau đều biết. Nói rộng như lãnh vực tha tâm trí.

Hỏi: Vì sao trong loài người không có xứ sinh được trí?

Đáp: Vì chẳng phải nhân của trí, nói rộng như trên.

Lại nữa, vì bị trí nhớ lại sự sanh tử che lấp.

Lại nữa, trong loài người dù không có xứ sinh được trí, nhưng vẫn có trí nhớ lại đời trước tốt đẹp như nguyện trí.

1. Là trí nhớ lại đời trước, cũng biết được vô số sự sanh tử ở đời trước: Nghĩa là nếu trí là tu, là quả của tu, từ tu sinh được, không mất. Do trí nầy nên nhớ lại vô số sự sanh tử của đời trước, có tướng mạo như thế.

2. Chẳng phải là trí nhớ lại đời trước, cũng chẳng phải nhớ lại vô số sự sanh tử của đời trước: Là trừ ngần ấy việc trên.

Trừ ngần ấy việc trên, nói rộng như trước. Hành ấm ở đây tạo ra bốn trường hợp: Trí nhớ lại đời trước của ba đời và trí nhớ lại đời hiện tại, trí xứ sinh tạo ra ba trường hợp trước. Ngoài ra, hành ấm, bốn ấm tương ưng, bất tương ưng và pháp vô vi tạo trường hợp thứ tư. Đó gọi là trừ ngần ấy việc trên.

Nếu là trí nhớ lại đời trước thì cũng biết ấm, giới, nhập và tâm của người khác trong quá khứ phải chăng?

Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

Trường hợp 1: Là trí nhớ lại đời trước tự duyên.

Trường hợp 2: Là phương tiện của nguyện trí duyên với người khác.

Trường hợp 3: Là trí nhớ lại đời trước duyên với người khác.

Trường hợp 4: Là phương tiện của nguyện trí tự duyên.

Bốn trường hợp nầy là sơ lược về Tỳ-bà-sa. Là trí nhớ lại đời trước không biết ấm, giới, nhập và tâm của người khác trong quá khứ.

Nếu trí là tu, là quả của tu, từ tu sinh được, không mất. Do trí nầy để nhớ lại đời trước, sinh ra ấm, giới, nhập và tâm của chính mình. Đó là nói trí nhớ lại đời trước tự duyên. Nhận biết ấm, giới, nhập và tâm của người khác trong quá khứ, chẳng phải trí nhớ lại đời trước. Nếu trí là tu, cho đến nói rộng. Do dùng trí nầy biết ấm, giới, nhập và tâm trong quá khứ của đời nầy của người khác. Đó là nói phương tiện của nguyện trí, duyên với thân người khác: Là trí nhớ lại đời trước, cũng biết ấm, giới, nhập và tâm người khác trong quá khứ, của đời trước kia. Nếu trí là tu, cho đến nói rộng. Do trí nầy biết ấm, giới, nhập và tâm người khác trong quá khứ của đời trước. Đó là nói trí nhớ lại đời trước duyên với người khác. Chẳng phải trí nhớ lại đời trước, cũng không biết ấm, giới, nhập và tâm người khác ở quá khứ: Nếu trí là tu, cho đến nói rộng, do trí nầy để biết ấm, giới, nhập và tâm của thân mình trong quá khứ của đời nầy. Đó là nói phương tiện của nguyện trí duyên với tự thân.

********

 

Có trí tự tánh niệm sinh.

Hỏi: Thể tánh của trí tự tánh niệm sinh là gì?

Đáp: Thể tánh là tuệ. Vì sức của niệm nhiều trong nhóm tâm kia nên gọi là trí niệm sinh. Như niệm xứ, niệm hơi thở ra vào trừ sắc tưởng cũng giống như thế. Đây là thể tánh của trí tự tánh niệm sinh, cho đến nói rộng.

Đã nói thể tánh, về lý do nay sẽ nói:

Hỏi: Vì sao gọi là trí tự tánh niệm sinh?

Đáp: Vì sinh mà được trí nầy, nên gọi là trí tự tánh niệm sinh.

Lại nữa, trụ trong tánh của tâm thiện, tánh của tâm bất thiện, tánh của tâm vô ký thì có thể biết, nên gọi là trí tự tánh niệm sinh.

Lại nữa, pháp quá khứ đã từng trải không đổi thay, nên gọi là tự tánh. Vì có thể biết pháp nầy, nên gọi là Trí tự tánh niệm sinh.

Hỏi: Gây ra nghiệp nào mà được trí ấy?

Đáp: Hoặc có người nói: Thường xuyên vì chúng sinh nói lời nói hoan hỷ, dễ nghe. Nghiệp đó có thể phát sinh báo như thế.

Lại có người nói: Nếu sửa sang chỗ nhỏ hẹp cho rộng rãi. Do nghiệp ấy, nên dù ở trong thai mẹ cũng không cảm thấy chật hẹp, ép ngặt. Vì nghiệp nầy nên có thể sinh báo ấy.

Lại có người nói: Nếu có người nào dùng thức ăn uống ngon ngọt đem cho người khác, thì nghiệp đó sẽ được báo như vậy.

Lời bình: Nên nói như thế nầy: Đây là báo của nghiệp không não hại người khác. Nếu chúng sinh không gây ra nghiệp não hại người khác, thì khi ở trong thai mẹ sẽ được rộng rãi, không bị khốn khổ do máu, mủ và các chứng bệnh như phong, nóng, lạnh. Nếu khi xuất thai cũng không bị ép ngặt do sự sanh tử nở.

Do việc nầy nên không quên tất cả chúng sinh là đối tượng nhớ lại. Nếu không bị ép ngặt ở cửa sinh nở, thì đều có trí nhớ lại đời trước. Nếu bị việc sinh nở ép ngặt, thì đều mất đối tượng nhớ lại.

Hỏi: Trí niệm sinh vào lúc đầu tiên là vượt hơn, hay là thời gian giữa, thời gian sau là vượt hơn?

Đáp: Hoặc có sự nhớ lại vào các thời gian đầu, giữa, sau đều tốt đẹp hơn. Hoặc có người nhớ lại, lúc đầu là khéo hơn, như Thi-bà-la, v.v… lúc mới sinh đã nói: Trong nhà nầy có vô số những thứ của cải và lúa gạo, có thể lấy đem cho người nghèo khổ được không?

Hoặc có người vào thời gian giữa là tốt hơn, như Lại-trá-ba-la, v.v… Hoặc có người vào thời gian sau là tốt hơn như Am-ma-la-trá, v.v…

Hỏi: Trí niệm sinh là niệm bao nhiêu lần sinh?

Đáp: Hoặc có người nói: Niệm một lần sinh.

Lại có người nói: Niệm hai lần sinh, cho đến bảy lần sinh:

Nghe nói trong thành Vương xá có con của người giết mỗ tên Giàtrá, là bạn thân của vua A-xà-thế lúc còn bé, nói với A-xà-thế rằng:

Nầy Thái tử! Nếu khi lên ngôi vua, ông sẽ làm việc thiện nào cho ta?

A-xà-thế đáp: Ta sẽ cho ngươi những gì tâm ngươi mong muốn!

Khi A-xà-thế đã hại mạng cha mình để lên ngôi vua, thì Già-trá, con người giết mỗ đến chỗ vua, tâu: Muôn tâu đại vương! Ngày trước đại vương đã hứa cho tôi điều ước muốn, nay là đúng lúc!

Nhà vua đáp: Tùy ý ngươi cầu xin? Bấy giờ, Già-trá, con người giết mỗ bèn nói lên tâm nguyện của mình: Đại vương hãy lệnh cho mỗi mình tôi được hành nghề giết mổ ngay trong thành Vương Xá, không cho người khác!

Nhà vua đáp: Nay ngươi đâu cần phải làm nghề tội ác nầy! Ngươi hãy cầu xin điều khác! Lúc ấy, Già-trá lại tâu với vua: Các nghiệp thiện, ác đều không có quả báo! Vua nói: Người biết gì mà nói lời nầy? Già-trá đáp: Đại vương nên biết! Tôi nhớ đã ở thành Vương-xá nầy trong bảy đời, thường làm nghề giết dê bán thịt để sinh sống, khi chết được sinh lên tầng trời Ba mươi ba, khi nghe lời nầy, vua A-xà-thế rất đổi ngạc nhiên, hoài nghi, liền đem việc ấy đến bạch lên Đức Phật!

Phật bảo nhà vua: Như lời Già-trá đã nói là đúng, không có gì khác! Người nầy đã thí thức ăn cho vị Bích-chi Phật, phát khởi nguyện tà vạy: Mong sao cho tôi được ở trong thành Vương Xá, một mình thường làm việc giết mổ dê lấy thịt đem bán. Vì nghiệp nhân nầy nên ông ta đã bảy lần sinh vào cõi người, bảy lần sinh lên cõi trời. Hiện nay quả báo của thân nghiệp nầy đã hết, tức bảy ngày sau, chết đi sẽ đọa vào địa ngục Lô lạp.

Do việc ấy nên biết, có thể trí niệm sinh nhớ lại trong bảy đời.

Lại có người nói: Có thể nhớ lại các việc trong năm trăm đời:

Nghe nói: Có một Tỳ-kheo tự nhớ lại, suốt năm trăm năm đời theo thứ lớp thường đọa vào loài ngạ quỷ. Hoặc nhớ lại lúc chịu mọi khổ sở đói khát trong quá khứ, tức đối với các hữu sinh ra tưởng khổ, dứt tất cả duyên, một mình siêng năng tinh tiến tu hành, được quả vị Tu-đà-hoàn, nghĩ rằng: Ta thường được các vật cần dùng của các Tỳ-kheo, khiến ta hành đạo. Nay ta phải lại cầu xin phẩm vật cần dùng để ban cho các Tỳ-kheo! Liền thực hành khuyến hóa.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nói với vị Tỳ-kheo nầy: Trước kia ông lười biếng, nay vì sao lại siêng năng thực hành giáo hóa?

Vị Tỳ-kheo nầy liền hướng về các vị Tỳ-kheo kia nói rộng việc trên.

Do việc nầy nên biết Trí niệm sinh có thể nhớ lại các việc của năm trăm đời!

Lại có một Tỳ-kheo, tự nhớ lại năm trăm đời của mình, theo thứ lớp sinh trong địa ngục. Hoặc nhớ lại những lúc chịu khổ địa ngục thì khắp lỗ chân lông trên thân, máu chảy ra làm dơ thân và y, nên hằng ngày xuống sông tắm gội, giặt y, siêng năng tu hành tinh tiến, được quả A-la-hán, không còn tắm gội, giặt y nữa. Bấy giờ các Tỳ-kheo bèn bảo vị nầy: Ông thường tắm gội, giặt y, lấy nước làm sạch, sao nay lại không dùng nữa? Tỳ-kheo nầy nói rộng việc ấy cho các Tỳ-kheo nghe, tức nhớ lại việc của năm trăm đời như thế.

Lại có người nhớ lại về thời kỳ thế giới mới thành lập. Nghe nói:

Có vua Chiên-đà-la tên là Đa-la dương khư, giỏi chú thuật và hiểu các luận. Có người con tên Xa-đầu-la, dung mạo khôi ngô. Vào thời ấy, Tôn giả Xá-lơi-phất đang là Bà-la-môn, tên là Phất-già-la-bà-la, hiểu các Bì Đà và Bì Đà phần, kinh có người con gái tên là Ba-sí-đa.

Bấy giờ, vua Chiên-đà-la đến chỗ Phất-già-la-bà-la, nói rằng: Ông hãy cho con gái mình về làm vợ con trai tôi.

Bà-la-môn Phất-già-la-bà-la liền sinh tức giận, nói: Đối với bốn dòng họ lớn, ông thuộc hạng thấp kém. Còn trong bốn dòng họ lớn, ta thuộc hàng tôn quý. Cớ gì ông bảo con gái tôi làm vợ con trai ông?

Lúc ấy, vua Chiên-đà-la nói với Bà-la-môn: Tôn ty của tộc họ không có cố định. Ông có nghe nói ai là người soạn Phạm thư chưa?

Vị Bà-la-môn đáp: Tôi nghe đó là do Bà-la-môn Cù-tần-đà-la soạn.

Lại hỏi: Ai là người soạn ra sách Khư-lô-trá?

Vị Bà-la-môn đáp: Tôi nghe đó là do vị tiên Khư-lô-trá soạn.

Lại hỏi: Ai soạn Bì Đà và Bì Đà Phần kinh? Đáp: Đó là do các Đại Bà-la-môn. v.v… xưa kia đã soạn ra.

Bấy giờ, vua Chiên-đà-la bèn nói: Như vậy tất cả là do những con người từ xa xưa tạo ra, họ đều là thân ta!

Lúc nầy, vị Bà-la-môn nghe nói như thế, liền sinh tâm vui mừng, đồng ý cho con gái mình làm vợ con trai ông ta. Nhớ lại việc ở thời kỳ thế giới mới thành lập là như thế.

Kinh nói: Phật bảo ông chủ thôn: Ta tự nhớ lại chín mươi mốt kiếp trở lại đây, không hề vì sự ăn uống mà khởi nghiệp ác thân miệng ý.

Hỏi: Phật vì dùng trí nhớ lại đời trước hay dùng trí tự tánh niệm sinh mà nhớ lại những việc như vậy? Nếu dùng trí nhớ lại đời trước để biết, thì tại sao chỉ nhớ lại chín mươi mốt kiếp mà không nhiều hơn? Còn nếu dùng trí tự tánh niệm sinh để biết, thì tại sao chỉ nói nhớ lại bảy đời, hoặc năm trăm đời, cho đến nhớ lại thế giới khi mới thành lập mà không nói nhớ lại chín mươi mốt kiếp?

Đáp: Nên nói rằng: Phật dùng trí nhớ lại đời trước để biết.

Hỏi: Nếu vậy, tại sao chỉ nói chín mươi mốt kiếp mà không nói nhiều hơn?

Tôn giả Ba-xa nói: Nếu nói một trăm kiếp, thì cũng sinh hoài nghi nầy nên chỉ nói chín mươi một kiếp để không trái với pháp tướng.

Lại nữa, trong chín mươi một kiếp, có bảy vị Phật ra đời.

Lại nữa, từ đó về sau đều là gieo trồng nghiệp tướng tốt.

Lại có người nói: Do trí tự tánh niệm sinh mà biết.

Hỏi: Nếu vậy thì vì sao lại nói trí tự tánh niệm sinh nhớ lại bảy đời, hoặc năm trăm năm đời, cho đến thời kỳ kiếp thành mà không nói chín mươi mốt kiếp?

Đáp: Người khác thì như thế, còn Đức Phật thì biết nhiều.

Hỏi: Trí tự tánh niệm sinh là nhớ lại lúc trung hữu phải không?

Đáp: Hoặc có người nói: Không biết! Vì sao? Vì Trung Hữu là vi tế, chẳng phải cảnh giới của trí tự tánh niệm sinh.

Lời bình: Nên nói rằng: Nhớ lại Trung hữu. Vì sao? Vì nếu không nhớ lại, thì đối với đời trước sẽ nhớ lại phần ít, hoặc không nhớ lại phần ít.

Hỏi: Thời kỳ tiền thân của Bồ-tát, có trí tự tánh niệm sinh. Lúc thân sau cùng là có hay không? Nếu có, thì sao sức của duyên tốt đẹp hơn sức của nhân? Nếu không có, thì Bồ-tát làm sao chuyển biến suy thoái?

Đáp: Nên nói rằng: Thân sau cùng là có.

Hỏi: Nếu vậy thì sức của duyên bên ngoài ở hiện tại làm sao lại tốt đẹp hơn sức của nhân bên trong ở quá khứ?

Đáp: Không vì chẳng có sức của duyên bên ngoài, nên mới gọi là sức của nhân bên trong. Vì căn cơ nhạy bén nên gọi là sức của nhân bên trong. Đối với tất cả chúng sinh, căn cơ nhạy bén của Bồ-tát là khéo hơn hết.

Ai nói như vầy: Thân sau cùng của Bồ-tát không có sức của duyên bên ngoài. Chư Thiên ở tầng trời Tịnh Cư, vì hiện bày khổ của già, bệnh chết cũng nhân nơi vương nữ Di-già-thích, vì khen ngợi Niết-bàn mà nói, như bài kệ:

Dùng an vui làm mẹ

Dùng không lo làm cha

Dùng tĩnh lặng làm vợ

Không lâu, ông sẽ được!

Thấy nghe các việc này, tâm cảm thấy nhàm chán, lo âu, sau đó xuất gia. Chư Phật quá khứ cũng vì Bồ-tát mà nói đạo, điều đủ các pháp. Như thế, v.v… há chẳng phải sức của duyên bên ngoài?

Lại có thuyết nói: Thân sau cùng là không.

Hỏi: Nếu vậy Bồ-tát làm sao chuyển biến suy thoái?

Đáp: Mặc dù Bồ-tát không có trí nầy, nhưng vẫn có trí nhớ lại việc đời trước tốt đẹp. Đó là nguyện trí.

Thế nào là thời tâm giải thoát? Tâm bất động giải thoát là thế nào?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Đây là Kinh Phật. Kinh Phật nói: Phật bảo A-nan: Tỳ-kheo không nên ưa đắm nhóm họp luận bàn các thứ. Vì sao? Vì nếu ưa đắm nhóm họp, luận bàn các thứ mà muốn cầu thân chứng, thời tâm giải thoát, tâm bất động giải thoát thì không có việc ấy! Nếu Tỳ-kheo không ưa đắm, nhóm họp, bàn luận các thứ mà muốn cầu thân chứng, thời tâm giải thoát, tâm bất động giải thoát thì có việc ấy.

Kinh Phật dù nói như thế nhưng không phân biệt rộng: Thế nào là thể tánh của giải thoát? Được giải thoát ấy là sao? Phần Kiền-độ Căn, tuy nói đắc hai pháp giải thoát nầy, nhưng lại không nói về thể tánh của chúng. Nay muốn nói đến thể tánh của hai giải thoát kia nên soạn luận nầy.

Lại có người nói: Sở dĩ soạn luận là vì: Hoặc có thuyết nói thời tâm giải thoát là hữu lậu, phi thời tâm giải thoát là vô lậu.

Vì muốn ngăn ý của thuyết vừa nói, cũng nói hai pháp giải thoát nầy là vô lậu.

Lại có thuyết nói: Sở dĩ soạn luận nầy là vì: Hoặc có thuyết cho: Thời tâm giải thoát là hữu vi, phi thời tâm giải thoát là vô vi.

Vì để ngăn ý của thuyết vừa nói, đồng thời cũng để làm sáng tỏ hai pháp giải thoát đều là hữu vi.

Lại có người nói: Sở dĩ soạn luận nầy là vì: Như có người nói rằng: Thời tâm giải thoát là Học, phi thời tâm giải thoát là Vô học. Vì sao? Vì thời tâm giải thoát có chỗ tạo tác, phi thời tâm giải thoát không có chỗ tạo tác.

Vì muốn ngăn chặn ý của các thuyết như đã nói, cũng nói hai giải thoát ấy đều là Vô học, nên soạn luận nầy.

Đối với tất cả pháp hữu vi, vô vi, thể tánh của hai pháp giải thoát nầy trong pháp hữu vi là giải thoát nơi đại địa, trong pháp vô vi là số diệt.

Giải thoát trong đại địa có hai thứ: Nhiễm ô và không nhiễm ô. Nhiễm ô là tà giải thoát, không nhiễm ô là chánh giải thoát. Chánh giải thoát lại có hai thứ: hữu lậu, vô lậu.

Hữu lậu, nghĩa là tương ưng với Vô lượng bất tịnh, vô lậu nghĩa là Học, Vô học. Học: Tương ưng với khổ pháp nhẫn, cho đến định Kim cương dụ. Vô học: Là A-la-hán. A-la-hán có hai hạng: Thời tâm giải thoát và phi thời tâm giải thoát.

Thời tâm giải thoát: Là năm loại A-la-hán.

Phi thời tâm giải thoát: Là một loại A-la-hán.

Hai loại A-la-hán nầy, lìa dục, được vô dục là tâm giải thoát, lìa vô minh là tuệ giải thoát.

Hỏi: Nếu lìa dục, đắc vô dục là tâm giải thoát, lìa vô minh là tuệ giải thoát, thì như Kinh Tập Pháp nói làm sao hiểu được? Như nói: Thế nào là thời tâm giải thoát? Đáp: Là căn thiện không tham, đối trị với tham. Phi thời tâm giải thoát là sao? Đáp: Là căn thiện không si, đối trị với si!

Cũng thế, giải thoát là tánh của căn thiện phải chăng?

Đáp: Văn kinh Tập Pháp nên nói rằng: Thế nào là Thời tâm giải thoát? Đáp: Là nói pháp giải thoát tương ưng với căn thiện không tham. Thế nào là Phi thời tâm giải thoát? Đáp: Là nói pháp giải thoát tương ưng với căn thiện không si.

Văn nầy nên nói như thế, nhưng không nói là có ý gì?

Đáp: Hoặc vì hữu vi không tham mà dứt trừ tâm tham. Hoặc vì hữu vi không si, nên dứt trừ tâm si, cho nên nói như thế.

Hỏi: Vì sao gọi là Thời giải thoát?

Đáp: Vì chờ đợi thời gian để được nên gọi là thời. Chờ đợi thời gian nghĩa là: Đợi ở sáu thời. Sáu thời: là y phục, thức ăn uống, giường nằm, nói pháp, nơi chốn, con người. Đợi y phục nghĩa là: Được y phục mềm mỏng, tốt đẹp thì có thể được giải thoát, không có thì không được giải thoát. Đợi thức ăn uống nghĩa là: Nếu được các thức ăn ngon như: Tô, mật, thịt v.v…, thì có thể được giải thoát, không được thì không giải thoát. Đợi giường nằm, nghĩa là: Hoặc được dụng cụ nằm dầy, mềm mại thì được giải thoát, không có thì không được giải thoát. Đợi nói pháp, nghĩa là: Nếu được nghe phương tiện tốt do người nói pháp đã nói thì có thể được giải thoát, không được nghe thì sẽ không được giải thoát. Đợi nơi chốn, nghĩa là nếu ở chốn kia vắng lặng, không có các thứ ồn ào, thì được giải thoát. Nếu không vắng lặng, sẽ không được giải thoát. Đợi con người, nghĩa là: Nếu gặp được người tánh thiện, dễ ở chung, đồng ở chung thì có thể được giải thoát, không được thì không giải thoát.

Hỏi: Vì sao gọi là phi Thời giải thoát?

Đáp: Vì không đợi thời gian để được giải thoát, nên gọi là phi Thời giải thoát. Không đợi thời, nghĩa là không đợi sáu thời gian: y phục, thức ăn uống, giường nằm, nói pháp, nơi chốn, con người, v.v…

Không đợi thời y: nghĩa là: Mặc y phục phấn tảo, có thể tu pháp thiện hơn hẳn Thời giải thoát mặc y phục quý giá!

Không đợi thực thời: nghĩa là: Dù ăn uống thô sơ, kém dở mà có thể tu đạo hơn hẳn Thời giải thoát ăn uống nhiều thức ăn ngon.

Không đợi đồ nằm, ngồi thích hợp, nghĩa là: Ngồi trên tảng đá mà tu đạo, hơn hẳn Thời giải thoát ngồi trên tòa cao, êm ái.

Không đợi thời nói pháp, nghĩa là: Nếu không có phương tiện được nghe người nói pháp nói cũng có thể nhanh chóng nhập thiền định.

Không đợi phương hướng thích hợp, nghĩa là: Nếu ở phương kia có nhiều âm thanh ồn ào thì cũng nhanh chóng nhập định.

Không đợi người thích hợp, nghĩa là: Nếu gặp phải người tánh ác khó ở chung mà cùng ở chung thì cũng nhanh chóng nhập định.

Lại nữa, vì đạo nhỏ hẹp mà được pháp nầy, nên gọi là Thời giải thoát.

Hỏi: Đạo nhỏ hẹp là sao?

Đáp: Hoặc ở trong một thân có thể gieo trồng căn thiện, thân thứ hai thành thục, thân thứ ba được giải thoát. Nếu chẳng phải đạo nhỏ hẹp mà được thì gọi là phi Thời giải thoát.

Không phải đạo nhỏ hẹp là sao? Hoặc có người tu phương tiện trong sáu mươi kiếp, như Tôn giả Xá-lợi-phất, hoặc có người tu phương tiện trong trăm kiếp, như Bích-chi Phật. Hoặc có người tu phương tiện trong ba A-tăng-kỳ kiếp, như Phật, Thế tôn.

Lại nữa, vì đạo yếu kém mà được, nên gọi là Thời giải thoát. Đạo yếu kém là sao? Đối với pháp thiện kia, không thường tu, không tu liên tục, không tu trong mọi thời gian. Nếu tu ở phần đầu trong ngày, còn phần thời gian giữa, thời gian sau thì không tu. Nếu ở vào đầu hôm tu, nửa đêm, gần sáng không tu. Trái với ở trên gọi là phi Thời giải thoát.

Lại nữa, do đạo nhiều định mà được, gọi là Thời giải thoát. Do đạo nhiều tuệ đạt được, gọi là phi Thời giải thoát.

Lại nữa, nếu hành giả vì các việc vừa ý, không vừa ý, lợi ích, không lợi ích, khổ, vui cần có đủ để tạo ra chướng ngại, gọi là Thời giải thoát. Trái với ở trên gọi là phi Thời giải thoát.

Thời giải thoát là năm loại A-la-hán. Phi Thời giải thoát là một loại A-la-hán pháp bất động.

Hỏi: Vì sao năm loại A-la-hán là Thời giải thoát?

Đáp: Vì đều có sự vượt hơn nên năm loại A-la-hán là Thời giải thoát. Vì con người chiếm đa số, nên một loại A-la-hán pháp bất động là phi Thời giải thoát. Vì hợp với đạo ba thừa, cũng có nghĩa bình nhau, đều tồn tại, không có lỗi, vì sinh trong thân thanh tịnh.

Lại nữa, vì người thuộc phẩm hạ nhiều, nên năm loại A-la-hán được gọi là Thời giải thoát. Vì người thuộc phẩm thượng ít, nên một loại A-la-hán của pháp bất động được gọi là Phi Thời giải thoát. Như vua thế gian hiện nay số Đại thần, Trưởng giả, Cư sĩ thì rất ít, còn số người thấp kém thì rất nhiều.

Cũng thế Bích-chi Phật, Thanh văn được Ba-la-mật rất ít, A-lahán Thời giải thoát rất nhiều.

Lại nữa, vì dễ được dễ khởi, nên năm loại A-la-hán là Thời giải thoát. Vì khó được, khó khởi, nên chỉ một loại A-la-hán pháp bất động là Phi Thời giải thoát.

Như người đời nay, số người đi đến nước Sư Tử vương và nước Chân-Đơn, người trở lại rất ít. Nếu người từ thôn nầy đến thôn kia rồi quay lại thì rất nhiều. Thời giải thoát và Phi Thời giải thoát kia cũng giống như thế.

Lại nữa, pháp Thời giải thoát không dụng công nhiều, không có chỗ tạo tác mà được nên năm loại A-la-hán được gọi là Thời giải thoát. Pháp Phi Thời giải thoát dụng công nhiều, vì có nhiều chỗ tạo tác mà được nên chỉ một loại A-la-hán của pháp bất động gọi là Phi Thời giải thoát.

Lại nữa, vì pháp của Thời giải thoát có thêm, có bớt, nên năm loại A-la-hán được gọi là Thời giải thoát. Thêm là tiến tới tốt đẹp, bớt là lùi sụt. Phi Thời giải thoát vì không có thêm, bớt, nên chỉ một loại A-la-hán của pháp bất động là Phi Thời giải thoát. Không có thêm là không có tiến tới sự tốt đẹp, không có bớt là không lùi lại.

Như nói Thời giải thoát là pháp ái.

Hỏi: Vì sao Thời giải thoát là pháp ái?

Đáp: Như kinh nầy nói: A-la-hán Thời giải thoát gìn giữ, quý trọng pháp nầy, khiến ta không bị lui sụt đối với pháp đó. Ví như người chỉ có một mắt, bà con của nhà người ấy đều bảo vệ không để cho lạnh, nóng, gió, bụi làm hư hoại. Thời giải thoát kia cũng giống như thế.

Lại nữa, A-la-hán Thời giải thoát không được tự tại đối với giải thoát, cần dụng công nhiều, mới hiện ở trước. Vì khởi hiện ở trước nên tâm sinh vui mừng gọi là pháp ái. Phi Thời giải thoát được tự tại đối với giải thoát, không dụng công nhiều mà hiện ra ở trước. Vì khởi ở hiện tại, tâm không sinh vui mừng, không gọi là pháp ái.

Lại nữa, A-la-hán Thời giải thoát có lui sụt. Vì sợ lui sụt nên thường khởi sự giải thoát hiện ở trước. A-la-hán phi Thời giải thoát không có pháp lui sụt, nên không thường khởi sự giải thoát hiện ở trước.

Lại nữa, A-la-hán Thời giải thoát, vì được nhiều người yêu, mến tin theo, nên gọi là pháp ái. Trái với pháp nầy, gọi là pháp không ái.

Lại nữa, A-la-hán Thời giải thoát, vì in nhiều mà được đạo nên gọi là pháp ái. A-la-hán Phi Thời giải thoát, vì tuệ nhiều được đạo, nên gọi là pháp không ái.

Lại nữa, A-la-hán Phi Thời giải thoát có căn thiện không ưa Thánh đạo, như tam-muội Không, vô nguyện, vô nguyện, vô tướng, vô tướng. Vì căn thiện nầy không ưa Thánh đạo, nên không yêu mến pháp nầy. A-la-hán Thời giải thoát, vì không có căn thiện nầy, nên yêu mến gìn giữ pháp nầy. Kinh gốc tuy không nói nhưng về nghĩa thì nên như thế.

Hỏi: Vì sao A-la-hán Phi Thời giải thoát gọi là pháp bất động?

Đáp: Do tốt đẹp hơn hết. Ví như thế gian hiện nay là nơi chốn tồn tại tất cả các tốt đẹp vượt trội như các thức ăn uống, y phục, chuỗi ngọc v.v… đều không lay động tâm người giận dữ. A-la-hán pháp bất động phi Thời giải thoát kia cũng thế.

Lại nữa, phiền não có thể khiến tâm người lay động, có thể khiến tâm người sinh khởi mê đắm, vì sư cấu uế ở trong tâm thiện. Vì không có thế lực của tâm thiện kia, nên không được tự tại, gọi là bất động.

Lại nữa, đã dứt trừ phiền não, không còn lui sụt, nên gọi là bất động. Như người bắn cung giỏi, bắn trúng ngay mục tiêu, gọi là bất động. A-la-hán pháp bất động Phi Thời giải thoát kia cũng giống như thế.

Như Kinh nói: Phật bảo Xá-lợi-phất! Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni có pháp giải thoát bất động là chuỗi ngọc báu, thì sẽ dứt được pháp bất thiện, tu pháp thiện.

Hỏi: Vì sao giải thoát bất động được gọi là pháp chuỗi ngọc báu?

Đáp: Vì vững chắc, tốt đẹp, vì không có lỗi, vì nhẹ nhàng, vì không có vết nhơ, vì trong sạch, vì khó được, nên gọi là chuỗi ngọc báu.

Lại nữa, ví như trong suối, ao, nếu ta bỏ viên ngọc báu xuống ao, thì nước ấy sẽ không, còn cấu đục xen lẫn. Nếu trong thân người có chuỗi ngọc báu giải thoát bất động, thì sẽ không có phiền não cấu uế xen lẫn. Pháp giải thoát bất động kia cũng giống như thế.

Lại nữa, như trong nhà người có ngọc báu Ma-ni thì sẽ không tối tăm. Nếu trong thân người có ngọc báu của pháp bất động thì sẽ không có vô minh tăm tối. Pháp giải thoát bất động kia cũng giống như thế.

Lại nữa, nếu chỗ nào có đặt viên ngọc Phương Bảo, thì nơi đó được yên ổn, không lộn xộn. Cũng vậy, nếu trong thân người có ngọc Phương Bảo giải thoát bất động, thì tâm người đó bất động.

Lại nữa, như trong nhà người có ngọc báu vô giá, thì nhà người đó hoàn toàn sẽ không còn khổ sở nghèo cùng. Cũng vậy, nếu trong thân người có ngọc báu bất động, thì người ấy sẽ dứt trừ hẳn nghèo khổ về Thánh đạo.

Lại nữa, ví như đặt trên đầu lá cờ hiệu viên ngọc báu như ý, thì tùy theo ý niệm của con người, vô số các thứ của báu, sẽ rải xuống như mưa làm cho trăm ngàn chúng sinh, đều lìa khổ nghèo cùng. Đức Phật, Thế tôn cũng thế, dùng viên ngọc báu bất động đặt yên trên lá cờ hiệu bốn Vô lượng, tùy theo ý nghĩ của chúng sinh, sẽ có mưa xuống các thứ pháp bảo, sẽ dứt bỏ khổ nghèo cùng của chúng sinh về chánh pháp.

Hỏi: Nếu tâm bất động giải thoát là pháp tốt đẹp, thì vì sao kinh lại nói là pháp không thêm, không bớt?

Đáp: Vì hành giả cùng được pháp nầy. Nếu đầy ở phương Đông thì sẽ có con của hàng Sát-lợi. Nếu đầy ở phương Nam thì sẽ có con của hàng Bà-la-môn, nếu đầy ở phương Tây thì sẽ có con của hàng Cư sĩ. Nếu đầy ở phương Bắc thì sẽ có con của hàng Thủ-đà, đều cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục, tin nhà chẳng phải nhà, đối với chánh pháp đều xuất gia, đều được thân chứng tâm bất động giải thoát, nhưng pháp giải thoát nầy không có thêm, bớt.

Lại nữa, vì muốn nói lên pháp Phật có nhiều của cải, châu báu. Pháp Phật ngoại trừ tâm bất động giải thoát còn có Vô lượng công đức pháp thiện khác. Tâm bất động giải thoát chỉ là một pháp.

Lại nữa, vì muốn nói lên trong thân Như lai có Vô lượng công đức, trừ tâm bất động giải thoát còn có Vô lượng công đức lành khác, tâm bất động giải thoát chỉ là một pháp!

Lại nữa, vì muốn cho người nghi được quyết định. Như kinh nói: Tôn giả Mục-kiền-liên quyết định khai trừ Tỳ-kheo Chiêm-Bà ra khỏi tăng chúng, hầu hết các Tỳ-kheo đều nghĩ: nay chúng tăng giảm ít. Đức Phật nói: Nếu đệ tử ta đã được tâm bất động giải thoát sâu xa thắng diệu thì đối với kẻ bị đuổi ra khỏi tăng không thể làm cho tăng có thêm, có bớt, huống chi Tỳ-kheo kia đã phạm giới và các oai nghi, xa lìa pháp bạch tịnh há có thể khiến cho tăng chúng có thêm, có bớt hay sao?

Lại nữa, pháp giải thoát nầy là pháp không tăng, không bớt. Không thêm là không có thắng tiến. Không bớt, là không có lui sụt, mất mát.

Trong bất cứ lúc nào, tâm giải thoát đều tương ưng với tận trí?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì muốn tạo cho người ngờ vực có được sự quyết định. A-lahán Thời giải thoát tu hai thứ tuệ: tận trí và chánh kiến Vô học, A-lahán Phi Thời giải thoát tu ba thứ tuệ là tận trí, trí vô sinh và chánh kiến Vô học. Hoặc nói: Như A-la-hán Thời giải thoát tu hai thứ tuệ, người Phi Thời giải thoát cũng vậy.

Như A-la-hán Phi Thời giải thoát tu ba thứ tuệ, Thời giải thoát cũng vậy.

Vì muốn nói một cách quyết định, Thời giải thoát tu hai thứ tuệ, Phi Thời giải thoát tu ba thứ tuệ, nên soạn luận nầy.

Các Thời giải thoát đều tương ưng với tận trí phải chăng? Nói rộng thành bốn trường hợp:

Như Kinh nầy nói: Tận trí là A-la-hán Thời giải thoát. Trong khoảng một sát-na, Định Kim cương dụ hiện ở trước. Tận trí nối tiếp thứ lớp khởi hiện ở trước. Từ tận trí khởi, hoặc khởi chánh kiến Vô học, hoặc khởi tâm thế tục.

Định Kim cương dụ của A-la-hán Phi Thời giải thoát, tận trí đều có khoảng một sát-na hiện ở trước.

Theo thứ lớp nối tiếp nhau khởi trí vô sinh hiện ở trước. Từ Trí vô sinh khởi, hoặc khởi chánh kiến Vô học, hoặc khởi tâm thế tục.

Tất cả A-la-hán đều tu chánh kiến Vô học, không hẳn là đều khởi hiẹn ở trước!

Hỏi: Có gì khác nhau giữa tận trí, trí vô sinh hay không?

Đáp: Hoặc có người nói: Tên gọi khác nhau, đó gọi là tận trí, đó gọi là Trí vô sinh.

Lại nữa, công việc đã làm xong gọi là tận trí. Từ nhân Vô học sinh gọi là Trí vô sinh.

Lại nữa, hoặc không hề được mà được, hoặc từng được mà được, gọi là tận trí. Chưa từng được mà được, gọi là Trí vô sinh.

Lại nữa, đạo giải thoát thuộc về đạo thắng tiến, được gọi là tận trí, chỉ thuộc về đạo thắng tiến, gọi là Trí vô sinh.

Lại nữa, Tận trí có năm loại A-la-hán. Trí vô sinh có một loại Ala-hán, là tâm bất động giải thoát. Đó là sự khác nhau giữa tận trí, trí vô sinh.

Hỏi: Tận trí ban đầu là trí nào?

Đáp: Hoặc có người nói: Là khổ tỷ trí. Vì sao? Vì hành giả lúc mới nhập vào Thánh đạo, quán quả, khi xuất cũng quán quả. Như dùng mũi tên tẩm thuốc độc bắn thú, thuốc độc sẽ ngấm khắp thân. Về sau, nếu thú chết, hơi độc sẽ đọng trở lại ở lỗ ung nhọt. Khổ tỷ trí kia cũng giống như thế.

Lại có người nói: Là tập tỷ trí. Vì sao? Vì khi hành giả nhập Thánh đạo, quán quả, lúc xuất Thánh đạo, quán nhân. Cũng thế, pháp sinh tử hoặc là nhân, hoặc là quả. Nếu biết nhân, biết quả thì đạo sinh tử sẽ dứt, gọi là bờ mé khổ.

Lời bình: Nên nói rằng: Là khổ tỷ trí, tập tỷ trí. Nếu là khổ tỷ trí thì chẳng phải tập tỷ trí, nếu là tập tỷ trí thì chẳng phải khổ tỷ trí.

*******

 

Sanh tử của ta đã hết, là tận đời quá khứ, tận đời vị lai, hay tận đời hiện tại mà nói sanh tử của ta đã hết? Nếu tận đời quá khứ thì đời quá khứ đã diệt. Nếu tận đời vị lai, thì đời vị lai chưa đến. Nếu tận đời hiện tại, thì đời hiện tại không dừng?

Đáp: Nên nói rằng: cùng tận sự sanh tử của ba đời. Vì sao? Vì sự sanh tử nói ở đây chính là bốn ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Hành giả trong ba đời, đều thấy rõ, nên có thể lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Kinh Phật nói: Mâu-ni nhận thấy sự sanh tử tử đã hết.

Cũng nêu lên câu hỏi nầy: Vì thấy sự sanh tử tử ở quá khứ, sự sanh tử tử ở vị lai, sự sanh tử tử ở hiện tại đều đã hết, nên nói là sự sanh tử tử hết.

Đáp: Nên nói rằng: Nhận thấy sinh tử vị lai đã hết. Vì sao? Vì người tu hành, tu tất cả hạnh khổ Phạm hạnh, đều là ngăn dứt sự sanh tử tử trong vị lai.

Như người có ba ách nạn:

  1. Đã thọ.
  2. Đang thọ.
  3. Sẽ nhận lấy.

– Đã thọ: Là thọ rồi. Nay thọ: Là đã nhẫn thọ. Sẽ thọ: Nếu dùng của cải, hoặc nhân nơi sức của dòng họ thân thích tạo ra các phương tiện, nhằm dứt sự sanh tử ở đương lai. Hành giả cũng thế, quá khứ không dụng công, đã diệt, sự sanh tử hiện tại sẽ nhận chịu rồi, sự sanh tử ở vị lai, dùng chánh phương tiện để diệt, khiến cho không bao giờ sinh nữa.

Sự sinh có nhiều thứ: Hoặc nói: Lúc vào thai mẹ gọi là sinh, hoặc nói: Khi ra khỏi thai mẹ gọi là sinh. Hoặc nói: Thời gian năm ấm gọi là sinh, hoặc nói: Phần ít của hành ấm bất tương ưng gọi là sinh. Hoặc nói: Bốn ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ gọi là sinh.

Chỗ nào nói lúc vào thai mẹ gọi là sinh? Như kinh nói: Sự sinh xuất hiện ở mọi nhà, mọi nơi.

Khi ra khỏi thai mẹ gọi là sinh: như nói: Bồ-tát sinh rồi liền đi bảy bước.

Nói thời gian đủ năm ấm gọi là sinh: Như nói: Có duyên sinh.

Nói hành ấm bất tương ưng gọi là sinh: Như nói: Khoảng một sátna, cái gì khởi? Đó là sinh.

Nói bốn ấm của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ gọi là sinh: Như trong đây đã nói: Sự sinh của ta đã hết, phạm hạnh đã lập.

Vì lập đạo Hữu học, gọi là phạm hạnh đã lập, hay vì lập đạo Vô học, gọi là phạm hạnh đã lập?

Đáp: Đã lập đạo Hữu học, gọi là phạm hạnh. Đã lập đạo Vô học, gọi là nay lập.

Việc phải làm đã làm xong, nghĩa là: Đã dứt trừ tất cả phiền não gọi là việc phải làm đã làm xong.

Lại nữa, rốt ráo dứt hết tất cả cõi, rốt ráo dứt sạch tất cả sự sanh tử, rốt ráo dứt hết tất cả pháp sinh tử tăng trưởng, gọi là việc phải làm đã làm xong.

Không thọ hậu hữu: Là nói về trí Vô sinh.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Nếu không dứt trừ phiền não, thì không gọi là sinh tử đã hết. Nếu đã dứt trừ phiền não thì gọi là sinh tử đã hết. Nếu không dứt trừ phiền não, thì sẽ không gọi là phạm hạnh đã lập. Nếu đã dứt trừ phiền não thì gọi là phạm hạnh đã lập. Nếu không dứt trừ phiền não, thì không gọi là việc phải làm đã làm xong. Nếu đã dứt trừ phiền não thì gọi là việc phải làm đã làm xong. Nếu không dứt trừ phiền não thì gọi là thọ hậu hữu. Nếu đã dứt trừ phiền não thì gọi là không thọ hậu hữu.

Hỏi: Tất cả A-la-hán không phải đều được trí vô sinh. Vì trong Nhất thiết Kinh đều nói là không thọ hậu hữu?

Đáp: Phật nói là người căn cơ nhạy bén tương ưng với kinh. Nhưng người biên tập kinh pháp thì cho rằng trong Nhất thiết kinh đều nói.

Lại có người nói: Các Tôn giả biên tập pháp đều có trí nguyện, trí vô ngại để quán sát chúng sinh. Nếu người căn cơ nhạy bén tương ưng với kinh thì nói. Về sau có người trì tụng kinh không khéo, cho là trong Nhất thiết Kinh đều nói như vậy.

Lời bình: Nên nói rằng: Tất cả A-la-hán đều không thọ hậu hữu.

Hỏi: Các vị A-la-hán nào tu hai thứ tuệ? Các A-la-hán nào tu ba thứ tuệ?

Đáp: Hoặc có A-la-hán tâm giải thoát, tuệ khéo giải thoát. Hoặc có A-la-hán tâm khéo giải thoát, tuệ không khéo giải thoát.

Nếu tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát thì sẽ tu ba thứ tuệ. Nếu tâm khéo giải thoát, tuệ không khéo giải thoát, thì sẽ tu hai thứ tuệ.

Lại nữa, hoặc có A-la-hán dùng khổ trí, tập trí, để dứt hết kiết của ba cõi. Hoặc có A-la-hán dùng diệt trí, đạo trí để dứt trừ hết kiết của ba cõi.

Nếu A-la-hán nào dùng khổ trí, tập trí để dứt hết kiết ba cõi thì sẽ tu ba thứ tuệ. Nếu dùng diệt trí, đạo trí, để dứt hết kiết ba cõi thì sẽ tu hai thứ tuệ.

Lại nữa, hoặc có A-la-hán dùng Không, Khổ, tập, tam-muội Vô nguyện dứt hết kiết ba cõi. Hoặc có người dùng đạo vô tướng, tam-muội Vô nguyện để dứt hết kiết ba cõi. Nếu dùng Không, Khổ, tập, tam-muội Vô nguyện để diệt trừ kiết ba cõi thì sẽ tu ba thứ tuệ. Nếu dùng đạo vô tướng, tam-muội Vô nguyện để diệt hết kiết ba cõi thì sẽ tu hai thứ tuệ.

Lại nữa, hoặc có A-la-hán vì định nhập Thánh đạo. Hoặc có A-lahán vì tuệ nhập vào Thánh đạo. Nếu người vì định nhập Thánh đạo thì sẽ tu ba thứ tuệ. Như đạo định, đạo tuệ, đạo định nhiều đạo tuệ nhiều, đạo muốn có thể định, đạo muốn có thể tuệ, căn tánh chậm lụt, căn cơ nhạy bén, sức của duyên, sức của nhân, cũng nói giống như thế.

Lại nữa, hoặc có A-la-hán dùng định để tu tâm, dùng tuệ để được giải thoát thì sẽ tu hai thứ tuệ. Hoặc có A-la-hán dùng tuệ để tu tâm, dùng định để được giải thoát thì sẽ tu ba thứ tuệ.

Lại nữa, nếu được trạng thái vắng lặng của nội tâm, không được pháp quán tuệ. Hoặc có người được sự vắng lặng nội tâm, cũng được pháp quán tuệ. Người trước: Tu hai thứ tuệ, người sau tu ba thứ tuệ.

Lại nữa, nếu người đã thành tựu bốn pháp thì rất ít có. Bốn pháp đó là:

  1. Gần gũi thiện trí thức.
  2. Nghe pháp với thiện trí thức.
  3. Bên trong chánh tư duy.
  4. Tu hành đúng pháp.

Nếu người thành tựu hai thứ pháp đầu thì sẽ tu hai thứ tuệ, nếu người đã thành tựu hai thứ pháp sau thì sẽ tu ba thứ tuệ.

Lại nữa, hoặc có người nghe pháp nhiều từ người khác, hoặc có người bên trong chánh tư duy nhiều. Nếu theo người khác nghe pháp nhiều thì sẽ tu hai thứ tuệ. Nếu bên trong chánh tư duy nhiều, thì sẽ tu ba thứ tuệ.

Hoặc có người căn thiện vô tham nhiều, hoặc có người căn thiện vô si nhiều. Nếu căn thiện vô tham nhiều, thì sẽ tu hai thứ tuệ, nếu người căn thiện vô si nhiều, thì sẽ tu ba thứ tuệ.

Sự sinh tử của ta đã hết, là nói tận trí. Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ hậu hữu, là nói Trí vô sinh.

Lại có người nói: Sự sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, là nói tận trí. Việc phải làm đã làm xong không thọ hậu hữu là nói trí vô sinh.

Lại nữa, sự sanh tử tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong là nói tận trí. Không thọ hậu hữu là nói trí vô sinh.

Hỏi: Không có hai tận trí của A-la-hán sau sát-na khởi Trí vô sinh, huống chi là nhiều! Vì sao nói như thế: Nói sự sanh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, là tận trí?

Đáp: Tuy là một sát-na, nhưng vì có ba thứ nghĩa nên nói như thế.

Tôn giả Ba-xa nói: Nói như thế là không nói về tận trí, không nói về Trí vô sinh, không nói chánh kiến Vô học. Đấy là lời khen ngợi Ala-hán, vì sinh tử của A-la-hán đã hết, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không thọ hậu hữu.

Lại nữa, nói sanh tử của ta đã hết là nói tận trí. Phạm hạnh đã lập là nói đạo trí. Việc phải làm đã làm xong, là nói diệt trí. Không thọ hậu hữu là nói trí vô sinh.

Lại nữa, nói sự sanh tử của ta đã hết là nói biết Tập. Phạm hạnh đã lập là nói biết đạo. Việc phải làm đã làm xong là nói biết diệt. Không thọ hậu hữu là nói biết khổ. Nói đều tác chứng cũng giống như thế.

Lại nữa, nói sự sanh tử của ta đã hết là nói dứt Tập. Phạm hạnh đã lập là nói tu đạo. Việc phải làm đã làm xong là nói chứng diệt, không thọ hậu hữu là nói biết Khổ.

Lại nữa, nói sự sanh tử của ta đã hết là nói dứt nhân. Phạm hạnh đã lập là nói Tu đạo, việc phải làm đã làm xong là nói được quả. Không thọ hậu hữu là nói biết Thể.

Lại nữa, nói sanh tử của ta đã hết là nói tập trí. Phạm hạnh đã lập là nói đạo trí. Việc phải làm đã làm xong là nói diệt trí. Không thọ hậu hữu là nói khổ trí.

Lại nữa, nói sự sanh tử của ta đã hết là nói Tập vô nguyện. Phạm hạnh đã lập là nói Đạo vô nguyện. việc phải làm đã làm xong là nói vô tướng. Không thọ hậu hữu là nói Không và Khổ vô nguyện.

Hỏi: Vì sao nói tận trí? Vì duyên hết nên gọi là tận trí, hay vì phiền não đều sinh trong thân nên gọi là tận trí? Nếu do duyên hết gọi là tận trí thì diệt trí lẽ ra là tận trí? Còn nếu vì phiền não đều sinh trong thân gọi là tận trí thì trí vô sinh, chánh kiến Vô học lẽ ra cũng là tận trí?

Đáp: Nên nói rằng: Vì phiền não đều sinh trong thân nên gọi là tận trí.

Hỏi: Nếu vậy thì trí vô sinh, chánh kiến Vô học, lẽ ra là tận trí?

Đáp: Nếu trí ở lúc đầu, tất cả đều có thì gọi là tận trí. Chánh kiến Vô học, dù tất cả đều có nhưng lại không ở lúc đầu. Trí vô sinh không ở lúc đầu, cũng chẳng phải tất cả đều có. Còn tận trí ở lúc đầu và tất cả đều có.

Hỏi: Ngoài mười sáu hạnh Thánh lại có tuệ vô lậu, sao ở đây không hỏi?

Đáp: Đã nói rộng như trong Kiền-độ Tạp.

Thế nào là minh học? Thế nào là trí học? Thế nào là minh Vô học? Thế nào là trí Vô học?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Thế gian đã dùng các thứ luận thế tục, cho đó là minh mà không biết minh chân thật.

Vì ngăn dứt ý của người nói như thế, cũng nói về nghĩa minh chân thật nên soạn luận nầy.

Lại có người nói: Sở dĩ soạn luận nầy, vì đây là kinh Phật. Kinh Phật nói: Phật bảo Cư sĩ! Như ông đã dùng trí học, kiến học, minh học, thấy bốn Thánh Đế. Nay, đồng tử Da-xa nầy, cũng dùng trí Vô học, kiến Vô học, minh Vô học để thấy bốn Thánh Đế, sẽ không còn ở nhà Cư sĩ để thọ vui năm dục nữa!

Kinh Phật dù nói như vậy nhưng không phân biệt rộng. Kinh Phật là căn bản để soạn luận nầy. Nay vì muốn phân biệt rộng, nên soạn luận nầy.

Thế nào là minh học?

Đáp: Là tuệ học.

Thế nào là trí học?

Đáp: Là tám trí học.

Thế nào là minh Vô học?

Đáp: Là tuệ Vô học.

Thế nào là trí Vô học?

Đáp: Là tám trí Vô học, gồm bốn pháp trí và bốn tỷ trí.

Đây là thể tánh của minh cho đến nói rộng.

Về lý do nay sẽ nói: Vì sao gọi là minh? Minh có nghĩa gì?

Đáp: Nhận thức rõ về nghĩa là nghĩa minh.

Hỏi: Nếu nhận thức rõ về nghĩa là nghĩa minh thì tuệ hữu lậu thiện cũng nhận thức rõ về nghĩa, vậy cũng là nghĩa minh sao?

Đáp: Nếu đối với bốn chân đế, nhận thức rõ, rốt ráo rõ, không sinh điên đảo. Nói rộng như trong Kiền-độ Tạp.

Hỏi: Nếu tuệ hữu lậu thiện không gọi là minh thì làm sao hiểu được kinh Phật? Như nói: Vô học có ba thứ minh:

  1. Minh chứng thế trí nhớ lại đời trước của bậc Vô học.
  2. Minh chứng trí sinh tử của bậc Vô học.
  3. Minh chứng trí lậu tận của bậc Vô học.

Đáp: Vì có phần ít thế dụng của minh, nên gọi là minh. thế nào là phần ít minh? Trái với phiền não, cũng không có phiền não xen lẫn, gọi là phần ít minh.

Lại nữa, hai minh nầy có thể sinh, có thể thuận theo nơi thật nghĩa minh vô lậu nên gọi là Minh.

Cho nên, Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Minh vô lậu của nghĩa thật thứ nhất, là lậu tận minh. Hai minh còn lại vì có thể sinh minh nầy nên gọi là minh.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước, biết được pháp tăng trưởng của bờ mé trước. Minh chứng của trí sinh tử, biết được pháp tăng trưởng của bờ mé sau. Minh chứng của trí lậu tận biết được pháp vắng lặng của Niết-bàn.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà cũng nói rằng: Minh chứng trí nhớ lại đời trước biết chúng sinh nầy mất ở chỗ kia, đến sinh ở đây, theo pháp nối tiếp nhau của nhân quả đời quá khứ. Minh chứng trí sinh tử biết được chúng sinh nầy, đã gây ra nghiệp như thế sẽ sinh vào xứ kia, theo pháp nối tiếp nhau của nhân quả vị lai. Minh chứng trí lậu tận biết được chúng sinh nầy nhờ đạo như thế, có thể là pháp rốt ráo của nhân quả lậu tận. Đó gọi là minh của nghĩa thật đệ nhất.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước, giác biết rất rõ về việc của đời quá khứ.

Minh chứng trí sinh tử, giác biết rất rõ về việc của đời vị lai.

Minh chứng trí lậu tận, giác biết rất rõ về Niết-bàn vô vi.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước sẽ dứt trừ những vô tri đen tối của quá khứ.

Minh chứng trí sinh tử sẽ dứt bỏ những vô tri đen tối ở vị lai.

Minh chứng lậu tận sẽ dứt bỏ những vô tri đen tối của Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao trong sáu thông, ba lập minh, ba không lập minh?

Đáp: Thân thông là pháp công xảo. Thiên nhĩ thông chỉ nghe âm thanh mà thôi. Tha tâm trí thông duyên với pháp của tướng khác nhau. Ba minh nầy có thể thuận theo pháp chán lìa, có thể dứt bỏ sinh tử, thuận theo pháp thiện, có thể đạt đến Niết-bàn.

Hỏi: Ba minh nầy làm sao có thể thuận theo pháp chán lìa, có thể lìa bỏ sinh tử, thuận theo pháp thiện, có khả năng đến Niết-bàn?

Đáp: Minh chứng trí nhớ lại đời trước thấy được việc của đời quá khứ, rất sinh chán lìa. Minh chứng trí sinh tử thấy được việc ở đời vị lai, rất sinh chán lìa. Vì chán lìa, nên minh chứng trí lậu tận có thể thực hành chánh quán, dứt trừ phiền não.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước biết được vô số các thứ nhân nối tiếp nhau trong quá khứ. Minh chứng trí sinh tử thấy ấm vị lai của các chúng sinh, như vi trần phân tán, rất sinh chán lìa. Minh chứng trí lậu tận có thể thực hành chánh quán, dứt trừ phiền não.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước biết được trong quá khứ có những việc suy não của tự thân, rất sinh chán lìa. Minh chứng trí sinh tử thấy được ở vị lai những việc suy não của tha thân, rất sinh chán lìa. Do chán lìa nên minh chứng trí lậu tận có khả năng thực hành chánh quán, dứt dứt mọi phiền não.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước trừ ngu ở hữu. Minh chứng trí sinh tử trừ ngu của chúng sinh. Minh chứng trí lậu tận trừ ngu của pháp.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước đối trị với thường kiến. Minh chứng trí sinh tử đối trị đoạn kiến. Minh chứng trí lậu tận đối trị hai bên, trụ trong trung đạo.

Lại nữa, minh chứng trí nhớ lại đời trước có thể sinh không. Minh chứng trí sinh tử có thể sinh vô nguyện. Minh chứng trí lậu tận có thể sinh vô tướng.

Do những nghĩa như cho nên ba minh nầy, thuận theo pháp chán lìa, có thể bỏ sinh tử, thuận theo pháp thiện, hướng về Niết-bàn.

Kinh Tập Pháp nói: Có ba thứ minh Vô học, đó là minh chứng trí nhớ lại đời trước, minh chứng trí sinh tử, minh chứng trí lậu tận.

Hỏi: Thế nào là minh chứng trí nhớ lại đời trước của bậc Vô học?

Đáp: Là trí Vô học nhận biết sinh tử của chúng sinh là pháp nối tiếp nhau.

Hỏi: Thế nào là minh chứng trí sinh tử của bậc Vô học?

Đáp: Trí Vô học biết rõ nghiệp là do các chúng sinh đã tự gây ra.

Hỏi: Thế nào là minh chứng trí lậu tận của bậc Vô học?

Đáp: Là trí Vô học đã dứt hết lậu.

Hỏi: Minh chứng trí lậu tận nói Vô học, nầy có thể như thế. Hai minh còn lại là Phi học Phi Vô học, vì sao lại nói là minh Vô học?

Đáp: Kinh Tập Pháp nên nói rằng: Người Vô học có ba minh nhưng không nói là có ý gì? Đáp: Hai minh dù là Phi học Phi Vô học, nhưng do trong thân người Vô học nầy có thể chứng đắc, nên cũng gọi là Vô học. Như Luận Thi Thiết nói: tam-muội có hai thứ:

  1. Là Thánh.
  2. Chẳng phải Thánh.

Tam-muội của Thánh có ba thứ:

  1. Hữu lậu thiện.
  2. Vô lậu.
  3. Vô ký không ẩn một.

Tam-muội hữu lậu thiện, vì thiện nên gọi là Thánh, không do vô lậu.

Tam-muội vô lậu vì thiện, vì vô lậu nên gọi là Thánh. Tam-muội vô ký không ẩn một cũng chẳng phải thiện, cũng chẳng phải vô lậu, mà gọi là Thánh, là vì trong thân của bậc Thánh nầy có thể chứng đắc nên gọi là Thánh. Hai minh kia cũng thế.

Hỏi: Vì sao trong thân người Vô học được lập minh, còn trong thân người Hữu học không lập minh?

Đáp: Do nghĩa của minh vượt hơn. Nếu dùng pháp mà nói thì pháp Vô học cao hơn pháp Hữu học. Nếu nói theo người thì người Vô học cao hơn người Hữu học.

Lại nữa, vì không xen lẫn vô minh nên gọi là Minh. Tuệ trong thân người Hữu học vì còn xen lẫn vô minh, nên không gọi là Minh.

Trí lậu tận hiện có trong thân Như lai có bốn việc:

  1. Gọi là thông.
  2. Gọi là minh.
  3. Gọi là lực.
  4. Gọi là thị hiện.

Thông là lậu tận thông. Minh là lậu tận minh. Lực là lậu tận lực. thị hiện là hiện ra để nói pháp.

Trí lậu tận của Bích-chi Phật, Thanh văn Vô học gồm ba việc:

  1. Là lậu tận thông.
  2. Là lậu tận minh.
  3. Là thị hiện chẳng phải lực.

Tất cả trí nhớ lại đời trước và trí sinh tử trong thân Như lai gồm ba việc:

  1. Là Thông.
  2. Là Minh.
  3. Là Lực. Chẳng phải thị hiện.

Bích-chi Phật, Thanh văn Vô học về trí nhớ lại đời trước và trí sinh tử hiện có gồm hai việc: Là Thông và Minh. Chẳng phải lực, chẳng phải thị hiện.

Trí sinh tử, trí nhớ lại đời trước hiện có trong thân người Hữu học, có một việc, đó là thông, chẳng phải minh, chẳng phải lực, chẳng phải thị hiện.

Hỏi: Trí hiện có trong thân Như lai được lập là lực, chẳng phải trí trong thân Bích-chi Phật và Thanh văn hay sao?

Đáp: Nghĩa không có chướng ngại là nghĩa lực. Trí của Bích-chi Phật và Thanh văn vì còn bị chướng ngại do vô trí, nên chẳng phải Lực.

Nghe nói: Phật, Thế tôn và Tôn giả Xá-lợi-phất cùng kinh hành ở một chỗ. Có một chúng sinh đến nơi đó. Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Ngài hãy quán chúng sinh nầy từ nơi nào ở đời quá khứ cùng đến ở chung nơi đây?

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất liền dùng trí nhớ lại đời trước của Sơ thiền để quán sát nhưng không biết cho đến dùng trí nhớ lại đời trước của đệ Tứ thiền để quán, cũng không biết. Tôn giả liền xuất định, bạch Phật: Con đã quán chúng sinh nầy, nhưng đều không thể thấy biết là từ nơi nào đến!?

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Tất cả Trí kiến của Bích-chi Phật vượt hơn các thầy, lại vượt hơn tất cả trí kiến của Bích-chi Phật, tất cả trí kiến của Phật nhận biết chúng sinh đó đã từ thế giới ấy sinh đến cõi nầy!

Sau đó, Đức Thế tôn với Tôn giả Xá-lợi-phất lại cùng kinh hành ở một nơi. Lúc ấy, có một người qua đời, Đức Thế tôn thấy vậy bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Ông có thể quán người nầy xem ông ta sinh đến xứ nào? Tôn giả Xá-lợi-phất liền dùng thiên nhãn của Sơ thiền để quán sát người đó, nhưng không thể thấy, cho đến khởi thiên nhãn của đệ Tứ thiền để quán sát cũng vẫn không thấy. Tôn giả xuất định bạch Phật: Con đã dùng thiên nhãn để quán sát người nầy, nhưng vẫn không biết ông ta sinh về xứ nào?

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Vượt quá cảnh giới được nhận biết của Bích-chi Phật, cõi nước độ ấy, người nầy sẽ sinh về cõi nước đó.

Hỏi: Đức Như lai tất cả trí nhớ lại đời trước và trí sinh tử tốt đẹp hơn hết, có thể như thế. Còn như trí lậu tận của Phật thì Thanh văn, Bích-chi Phật cũng vậy. Vì sao trí lậu tận của Phật lập lực, chẳng phải Thanh văn, Bích-chi Phật?

Đáp: Trí lậu tận của Phật cũng vi diệu, thù thắng. Tất cả trí lậu tận trong thân Như lai, tánh của chúng nhạy bén, mạnh mẽ, nếu duyên với phiền não thì phiền não liền dứt. Còn trí lậu tận của Bích-chi Phật, Thanh văn thì không nhạy bén, mạnh mẽ, thường duyên với phiền não thì phiền não mới dứt. Ví như hai người chặt cây: Một người khỏe mạnh lại dùng búa bén. Còn người nọ thì tánh yếu ớt, lại dùng búa lụt. Mặc dù cả hai đều chặt cây, nhưng người khỏe mạnh lại dùng búa bén, đương nhiên sẽ chặt nhanh hơn người tánh yếu ớt lại dùng búa lụt. Trí lậu tận của Phật cũng giống như thế.

Chẳng phải trí lậu tận do thân mình hiện có gọi là lực, mà là làm thế nào khiến cho các chúng sinh kia các lậu đều được dứt hết mới gọi là Lực. Chỉ Đức Thế tôn mới biết chúng sinh nầy do Thông khổ chậm mới có thể dứt hết lậu, chúng sinh kia do thông vui nhanh, mới có thể dứt hết lậu. Đó gọi là Lực.

*******

 

Hỏi: Trong sáu thông nầy, có bao nhiêu thông là Minh chẳng phải thị hiện? Bao nhiêu thông là thị hiện chẳng phải minh? Bao nhiêu thông là Minh, cũng là thị hiện? Bao nhiêu thông chẳng phải minh, cũng chẳng phải thị hiện?

Đáp: Có hai là Minh, chẳng phải thị hiện, đó là trí nhớ lại đời trước và trí sinh tử. Có hai là thị hiện chẳng phải Minh, đó là thân thông, tha tâm trí thông.

Là Minh cũng là thị hiện, đó là: Lậu tận thông, chẳng phải là minh, chẳng phải thị hiện: Là thiên nhĩ thông.

Hỏi: Sáu Thông nầy, vì sao ba Thông là thị hiện, ba Thông chẳng phải thị hiện?

Đáp: Làm sao cho người khác tin, ưa, nghĩ là ít có, nhập vào pháp, gọi là thị hiện.

Ba Thông kia thì không như vậy. Nếu nói rằng: Thiên nhĩ của ta nghe tiếng, thiên nhãn thấy sắc, có thể biết vô số việc sinh trong quá khứ, nhưng con người đều hoài nghi về việc nầy, hoặc giả, hoặc thật!

Nghe nói có một Cư sĩ mời Ni-Kiền-Đà-Nhã-Đề Tử và chúng đệ tử đến nhà thọ thực. Bấy giờ, Ni-Kiền-Đà-Nhã-Đề-Tử vào nhà Cư sĩ rồi liền mỉm cười. Cư sĩ bèn hỏi: Đại sư đã lìa bỏ những thứ cười cợt, vì sao nay lại cười? Sư đáp: Vì hiện nay trong pháp của ta, có pháp mầu nhiệm, ông có muốn được nghe chăng?

Lúc ấy, Cư sĩ tỏ vẻ ân cần, trân trọng hỏi, Sư bèn đáp: Ở phía Nam bên mé sông Bạt Đề, có hai con khỉ đánh nhau không dứt, bỗng nhiên rơi xuống sông, bị dòng nước cuốn trôi, vì cho nên ta cười!

Cư sĩ lại hỏi: Thiên nhãn của Đại sư thật ít có, trong sáng mới được như thế! Bấy giờ, các Ni-kiền đều ngồi trên ghế, theo thứ lớp ngồi ăn ở dưới, lấy cơm lấp canh lại, còn thầy họ thì ngồi ở đầu trên, các Ni-kiền khác múc canh đổ lên trên. Những Ni-kiền còn lại, đúng giờ đều đến ăn, chỉ có thầy của họ không ăn.

Cư sĩ hỏi: Hôm nay vì sao Đại sư không ăn?

Sư đáp: Vì cơm nầy không có canh, nên ta không ăn!

Cư sĩ bèn nói với Sư: Với thiên nhãn trong sáng và ít có của Đại sư mới như thế. Đã thấy bên sông Bạt-Đề phía Nam có hai con khỉ ngã xuống sông mà lại không thấy canh ở dưới cơm sao?

Do việc nầy, nên ba thông chẳng phải thị hiện, không thể làm cho người khác tin, ưa, nghĩ là ít có, nhập vào pháp Phật. Nếu dùng thân thông, khiến cho một thân thành nhiều, nhiều thân lại nhập thành một, với các thứ biến hóa, trên đến cõi Phạm thế, khiến nhiều chúng sinh nghĩ là ít có. Nếu người có thể biết tâm người khác đã có pháp nhớ lại, thì nên nói với người đó: Ông đã có sự nhớ lại như thế, nên tư duy như thế đều như tâm ấy, mà không trái nhau, khiến cho đa số chúng sinh đối với pháp Phật đều nghĩ là ít có. Nếu vì người khác nói pháp, thì khiến họ xa lìa mọi cấu uế trần tục, được pháp nhãn tịnh, tất cũng giúp cho nhiều chúng sinh đối với pháp Phật nghĩ là ít có.

Do việc nầy, nên ba Thông khiến cho người khác cảm thấy tin, ưa, nghĩ là ít có đến với pháp Phật.

Hỏi: Đối với những người nào thì vì họ mà hiện thần biến? Với những người nào, thì không nên vì họ hiện thần biến?

Đáp: Nếu là người hoàn toàn tin, nếu người hoàn toàn không tin, thì không nên vì họ biểu hiện thần biến. Nếu là người có thái độ lưng chừng: không nhất định tin, không nhất định không tin, thì nên vì họ thị hiện thần biến, khiến họ đi vào pháp Phật, làm sao biết thế? Vì kinh nói: Phật ngự trong rừng Am-la của Ba-Bà-Lợi-Ca, thuộc thành Na-CaKiền-Đà. Bấy giờ, có con trai vị Cư sĩ, tên là Sí-Bạt-Đa, đến chỗ Phật, đầu mặt lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một phía, bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thành Na-Ca-Kiền-Đà nầy rất thịnh vượng, an vui. Đa số dân chúng đều kính tin Phật, Pháp, Tăng. Trí mong Đức Thế tôn cho phép một vị Sa-môn, ra trước mọi người ở cõi nước nầy, hóa hiện vô số các thứ thần biến thuộc pháp của bậc thượng nhân, khiến cho người của thành Na-ca-kiền-đà càng sinh tâm kính tin đối với Phật, Pháp, tăng.

Phật bảo Sí Bạt Đa: Ta không vì các đệ tử mà nói rằng: Các thầy nên đến xứ kia, ở trước mọi người, hiện bày các thứ thần biến thuộc pháp của bậc thượng nhân. Ta sẽ vì các đệ tử mà nói lời nầy: Các thầy nên che giấu pháp thiện, phô bày pháp ác.

Lúc ấy, con trai vị Cư sĩ lại bạch Phật rằng: Bạch Thế tôn Ngài nhận thấy lỗi lầm nào mà không khiến các đệ tử hiện thần biến lại nói rằng: Che giấu pháp thiện, phơi bày pháp ác?

Phật bảo con của Cư sĩ: thị hiện có ba thứ:

  1. Thị hiện thần túc.
  2. Thị hiện biết tâm người khác.
  3. Thị hiện nói pháp.

Thế nào là thị hiện thần túc? Nầy con trai Cư sĩ! Nếu Sa-môn, Bà-la-môn thị hiện các thứ thần biến, chẳng hạn như một thân hóa thành nhiều thân, nhiều thân hợp lại một thân, cho đến thân, Phạm thế được tự tại. Người có lòng tin thấy, nói với kẻ không tin nói rằng: Tôi thấy Sa-môn, Bà-la-môn thị hiện các thứ thần biến: Một thân hóa thành nhiều thân, nhiều thân nhập lại thành một thân, cho đến thân Phạm Thế đều được tự tại. Bấy giờ, người không tin nói với người tin: Ông thấy việc nầy có gì lạ chăng! Có bài chú tên Kiền Đà La. Có người vâng giữ, đọc tụng chú nầy cũng có thể thị hiện các thứ thần biến.

Nầy con trai vị Cư sĩ! Ý ông nghĩ sao? Người không tin như thế, , há chẳng phải ngờ vực, trách cứ các người có niềm tin hay sao?

Con trai vị Cư sĩ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Thật sự là họ sẽ sinh ngờ vực, trách cứ?

Lại nữa, con trai vị Cư sĩ! Nếu Sa-môn, Bà-la-môn, nói lên những điều nhớ lại của tâm người khác, ông sẽ có sự tư duy nhớ lại như thế, tất như người kia đã nói. Nhưng người không giả dối, người có niềm tin nghe thì hướng về người không tin nói rằng: Tôi thấy Sa-môn, Bà-lamôn biết pháp nhớ lại nơi tâm người khác cho đến nói rộng. Khi đó, kẻ không tin nói: Ông thấy việc nầy có gì lạ chăng? Có bài chú tên là Sát Ni Ca. Nếu có ai thọ trì, đọc tụng chú nầy thì có thể biết được pháp nhớ lại của tâm người khác, cho đến nói rộng.

Này con của vị Cư sĩ! Nên biết vì những lỗi lầm như cho nên ta không cho các đệ tử của mình thị hiện các thứ thần biến, mà nói rằng: Các thầy nên che giấu pháp thiện, phát lộ pháp ác!

Chính vì việc nầy, nên đối với người hoàn toàn tin, hay đối với kẻ hoàn toàn không tin, không nên vì họ thị hiện các thứ thần biến. Nếu là hạng trung bình: không nhất định tin, cũng không nhất định không tin thì nên vì họ thị hiện thần biến, nhằm dẫn dắt họ vào pháp Phật.

Thế nào gọi là thị hiện?

Đáp: Như pháp của người giữ cổng, nên gọi là thị hiện. Như người giữ cỗng thị hiện pháp bên trong để cho người ngoài biết, thị hiện pháp bên ngoài khiến cho người bên trong biết.

Thị hiện pháp bên trong khiến cho người bên ngoài biết: Như nói: Hiện nay vua đang ở trong cung, tắm gội, ăn uống, ngắm xem các thứ ngọc báu!

Thị hiện pháp bên ngoài khiến cho người bên trong được biết. Như nói: Hiện nay có người ở thôn đó, nước đó, đem tín vật như thế, hiện ở ngoài cổng.

Do việc nầy nên như pháp của người giữ cổng, gọi là thị hiện.

Kinh Phật nói: Vào lúc đầu hôm, Bồ-tát khởi thông, khởi minh. Đến nửa đêm khởi thông, khởi minh. Lúc gần sáng, khởi thông, khởi minh.

Hỏi: Vì sao vào đầu hôm, nửa đêm, gần sáng, Bồ-tát khởi thông, minh?

Đáp: Hằng hà sa số các vị Bồ-tát này thực hành chánh pháp theo thứ lớp.

Lại nữa, sở dĩ khởi Thông, Minh vào đầu, giữa, và cuối đêm là vì muốn khiến cho thân nầy thành pháp khí.

Lại nữa, muốn cho mọi sự tạo tác được rõ ràng.

Lại nữa, muốn cho sự an ổn đầy đủ nên khởi Thông. Muốn soi sáng thật xa nên khởi Minh.

Lại nữa, dụ như đạo giải thoát vô ngại, nên khởi Thông, khởi Minh. Thông như đạo vô ngại, Minh như đạo giải thoát.

Lại nữa, dụ như kiến đạo, tu đạo. Thông như kiến đạo, Minh như tu đạo.

Lại nữa, dụ như pháp hữu lậu thiện, pháp vô lậu, pháp vô ký, hữu lậu, vô lậu. Hai thông là hữu lậu thiện, đó là thân thông, và thông của trí nhớ lại đời trước. Một thông là vô lậu, đó là trí lậu tận thông. Một thông là hữu lậu, vô lậu, đó là tha tâm trí thông. Hai thông là vô ký không ẩn một, đó là thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông.

Lại nữa, theo thứ lớp hàng phục chúng ma.

Nghe nói: Bồ-tát tu khổ hạnh, nhận biết lối tu nầy chẳng phải đạo, nên vất bỏ lối tu ấy, nhận mười sáu thứ cháo sữa của hai chị em Bà-la-môn Nan-đà, khiến thân có sức, nhận cỏ từ người tốt, đến dưới cội cây Bồ-đề, đích thân trải cỏ, cũng như Long vương Bà-Tu-Ca cuộn thân, ngồi kiết già, phát lời thề: Ta ngồi ở đây, nếu không dứt hết lậu thì không bao giờ đứng dậy.

Bấy giờ, mặt đất rung chuyển sáu cách, như chiếc thuyền trong biển cả, rung động thấu cung trời Tự Tại, chao đảo như chiếc lá Khưđà-lê!

Ma vương lúc nầy bèn nghĩ thầm: Nay vì sao cung điện của ta bị rung chuyển? Quán sát mới biết là Bồ-tát đang ngồi kiết già dưới cội Bồ-đề lập nguyện kiên cố. Ma vương liền lìa khỏi cung điện, đi đến chỗ Bồ-tát, nói rằng: Vị con của tộc họ Sát-đế-lợi! Nên lìa khỏi nơi đây! Hiện nay là thời kỳ đầy ác trược, chúng sinh ngang bướng, ông không thể nào chứng được đạo quả Chánh đẳng chánh giác vô thượng! Đúng lý ra, ông nên ở ngôi vị vua Chuyển Luân, ta sẽ hiến dâng ông bảy thứ báu!

Lúc ấy, Bồ-tát nói với ác ma: Điều ông nói hôm nay giống như trẻ con! Mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao có thể khiến cho rơi rụng, rừng núi, đại địa có thể treo lơ lửng trong hư không, nhưng muốn cho ta nơi tòa ngồi này, không dứt hết lậu mà đứng dậy là không có việc ấy.

Ác ma lại nói: Nay ta nói lời dịu dàng, đẹp đẽ mà ông không nghe thì ta sẽ hiện ra những việc kinh hãi lớn lao để cho ông thấy. Ác ma nói dứt lời, liền tuôn rải các thứ hoa như mưa. Ác ma trở lại cung điện mình, bố cáo khắp sáu tầng trời cõi Dục: Các ngươi đều phải mang đủ các thứ binh khí, gậy gộc để chuẩn bị chiến đấu! Nay ta đang có kẻ thù ở dưới cội Bồ-đề!

Khi ác ma đi rồi, không bao lâu sau Bồ-tát nghĩ rằng: Với người thường, nếu cuộc tranh chấp có xảy ra còn không thể khinh xuất, huống chi là với “kẻ có uy thế” trong cõi Dục!

Bấy giờ, Bồ-tát quán xét kỹ về đạo lìa dục, nhanh chóng lìa dục cõi Dục, nên lập tức khởi thần túc của Sơ thiền, hóa thành các thứ loại để cùng đối địch với ma.

Nếu các ma hóa ra loài chim bay đến, thì ta nên hóa thành mèo chồn để ngăn lại. Quân ma nếu hóa ra hình mèo chồn, ta nên hóa ra hình tượng chó dữ để đối trị. Quân ma nếu hóa ra hình dáng chó dữ, ta nên hóa ra hình tượng, báo dữ để ngăn. Quân ma nếu hóa ra hình dáng, báo dữ, ta nên hóa ra hình dáng cọp để đối địch. Quân ma nếu hóa ra các thân cọp, ta nên hóa ra hình tượng sư tử để ngăn lại. Quân ma nếu hóa ra các hình dáng sư tử, thì ta nên hóa ra hình dao kiếm. Quân ma nếu hóa ra ngọn lửa dữ, ta nên hóa làm trận mưa lớn để đối địch. Quân ma nếu hóa ra mưa dữ dội, ta nên hóa ra chiếc lọng lớn. Tự hóa ra thân ấy, ở trong cung lưu ly, vì dụng chướng thân nhưng không chướng ngại mắt, cũng góa ra mặt đất nầy, có thể phát ra tiếng, hóa ra các pháp đối nhau như thế, Bồ-tát lại nghĩ: Ta không làm kẻ hành đạo tạo trở ngại.

Liền khởi trí nhớ lại đời trước, thấy trong trăm, ngàn, vạn đời của mình ở quá khứ, không hề bị người hành đạo tạo trở ngại, chỉ dùng vô số công cụ hành đạo để làm việc lợi ích. Bồ-tát lại nghĩ rằng: Ta đã gây ra nghiệp thiện nào? Ma ác đã gây ra nghiệp thiện nào? Chỉ thấy ác ma tạo ra một hội thí vô hạn lớn. Như một hội ác ma đã làm, ta đã tạo ra số lượng gấp bội là trăm ngàn vạn hội thí vô hạn. Phước nghiệp bố thí của ác ma còn không bằng ta, huống chi là nghiệp phước của việc giữ giới tu định!

Lúc này, Bồ-tát dùng diệu lực của phước đức, ngồi thẳng. Ngay khi ấy ác ma dẫn ba mươi sáu ức quân ma, tạo ra đủ mọi thứ hình sắc, tướng mạo hung dữ, ồ ạt kéo đến vây quanh cây Bồ-đề.

Khi đó, Bồ-tát nói với Ma ác: Ông đã tạo ra một hội thí vô hạn. Như hội thí vô hạn của ông đã làm, Ta đã tạo ra thí hội gấp trăm ngàn vạn lần số lượng của ông!

Ma nói với Bồ-tát: Hội thí của ta lấy ông làm chứng, còn ai làm chứng cho ông?

Bấy giờ, Bồ-tát liền dùng bàn tay có tướng tốt trang nghiêm ấn mạnh xuống mặt đất, làm phát ra âm thanh lớn. Quân ma nghe âm thanh vang dội ấy, liền chạy tán loạn. Lúc nầy, Bồ-tát dùng thiên nhãn của nghiệp báo, thấy sắc cách xa một do-tuần, nhưng không nghe âm thanh. Bèn khởi thiên nhĩ thông, thì ngoài một do-tuần dù nghe âm thanh, nhưng không thấy hình sắc. Kế, liền khởi thiên nhãn thông, tuy thấy sắc, nghe tiếng, nhưng không biết tâm của các chúng sinh kia đang nghĩ gì? Bồ-tát lại khởi tha tâm trí thông, biết tâm của hàng quyến thuộc của Đế-thích sinh khởi hoan hỷ, còn tâm của đám quyến thuộc của Ma vương thì sinh sầu não.

Bồ-tát lại nghĩ rằng: Vì việc gì mà ác ma lại phát khởi tâm độc ác nầy? Đều do năm dục, tham đắm năm dục, đều do nơi phiền não.

Vì việc ấy, bèn khởi lậu tận thông, nên nói rằng: Vì hàng phục ma theo thứ lớp, nên đầu hôm, nửa đếm, gần sáng, Bồ-tát luôn khởi thông, minh hiện ở trước.

Nếu khi thấy khổ, trước đó đã được những gì là tịnh không hư hoại? Lúc kiến tập, diệt, đạo, trước đó đã được những gì là tịnh không hư hoại?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết cho: Kiến Đế cùng lúc, không có kiến Đế theo thứ lớp, như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề Hỏi: Phái kia vì sao nói như thế?

Đáp: Vì phái kia dựa vào Kinh Phật. Kinh Phật nói: Nếu không có ngờ vực về Khổ, thì cũng không có sự ngờ vực đối với Tập, Diệt, Đạo. Nếu đối với Khổ đã không nghi ngờ thì cũngkhông có nghi ngờ đối với Tập, diệt, đạo, điều nầy há chẳng phải kiến Đế cùng lúc chẳng phải theo thứ lớp hay sao?

Để ngăn dứt ý của thuyết vừa nói trên, cũng nói kiến Đế theo thứ lớp. Vì nếu kiến Đế cùng lúc chẳng phải theo thứ lớp ấy, tức trái với Kinh Phật, như nói: Cư sĩ Tu-Đạt-Đa, đến chỗ Phật, hỏi như thế nầy: Bạch Đức Thế tôn! Kiến Đế cùng lúc hay kiến Đế theo thứ lớp?

Phật bảo Cư sĩ: Kiến Đế theo thứ lớp, chẳng phải kiến Đế cùng lúc, ví như cách thức trèo lên bốn từng cấp.

Hỏi: Nếu kiến Đế theo thứ lớp, chẳng phải cùng lúc thì kinh do phái Tỳ-bà Xà-bà-đề dẫn chứng làm sao hiểu được?

Đáp: Văn của Kinh kia nên nói rằng: Nếu không có ngờ vực đối với đạo, thì cũng không có ngờ vực đối với Khổ, tập, diệt. Lẽ ra phải nói như thế, mà không nói là có ý gì?

Đáp: Kinh Phật nói: Người được quả, nếu một người được quả, thì họ đối với bốn đế sẽ không có nghi ngờ.

Lại nữa, Kinh nầy nói: Người không hành nghi. Nếu người kiến khổ, thì rốt ráo hành nơi nghi, nên nói như vậy.

Tôn giả Phật-Đà-Đề-Bà nói rằng: Hành giả mới vào kiến đạo, về nghĩa, gọi là tin đối với tất cả lĩnh vực.

Hỏi: Tôn giả kia nói: Kiến Đế theo thứ lớp, không nói kiến Đế cùng lúc. Vì sao nói như thế?

Đáp: Nên hiểu lời Tôn giả kia nói. Vì Tôn giả kia đã nói: Hành giả, lúc ở nơi khổ pháp nhẫn, lại là lúc không dừng, tất được tất cả niềm tin. Ví như ném chậu sành từ trên lầu ba xuống đất, trong khoảng chưa đến tới đất, về nghĩa, đã gọi là vỡ tan. Lúc ở nơi khổ pháp nhẫn kia cũng giống như thế.

Cho nên, vì muốn ngăn dứt nghĩa của người, cũng muốn bày tỏ nghĩa của mình, cũng muốn nói nghĩa tương ưng của pháp tướng, nên soạn luận nầy.

Pháp Vô học trong thân Phật, đó là Phật duyên với tín vô lậu kia, gọi là niềm tin không hư hoại đối với Phật. Ba căn hiện có trong thân Bích-chi Phật, tất cả hai căn trong thân Bồ-tát, ba đế gọi là pháp, nếu duyên với tín vô lậu kia, gọi là niềm tin không hư hoại đối với pháp. Trong thân Thanh văn tất cả pháp Hữu học, pháp Vô học, nếu duyên với niềm tin vô lậu kia, gọi là niềm tin không hư hoại đối với tăng.

Giới vô lậu là giới được bậc Thánh yêu thích. Nếu khi kiến khổ thì trước đó đã được tín nào?

Đáp: Đã được pháp, tức đối với pháp khổ.

Tôn giả Cù-sa nói: Pháp lỗi lầm của Tín đối với khổ đế, pháp công đức của Tín đối với Diệt đế. Nếu khi kiến tập thì trước đó đã được những Tín gì?

Đáp: Đã được pháp, tức là pháp Tập.

Tôn giả Cù-sa nói: Pháp lỗi lầm của kiến đối với tập đế, pháp công đức của kiến đối với diệt đế, nếu khi kiến diệt, thì trước đó đã được những Tín gì?

Đáp: Được pháp. Tức ở nơi pháp diệt.

Hỏi: Lúc hành giả kiến ba đế, là đã được hai thứ tịnh không hư hoại, đó là tín và giới. Vì sao chỉ nói tín, không nói giới?

Đáp: Lẽ ra phải nói mà không nói, nên biết thuyết nầy chưa trọn vẹn. Lại nữa, vì ở đây không hỏi có được bao nhiêu tịnh không hư hoại, chỉ hỏi: Có được duyên không hư hoại nào? Do đó, giới tịnh là pháp vô duyên, vì cho nên không nói.

Nếu khi kiến đạo, thì trước đó đã được nhưng Tín nào?

Đáp: Được niềm tin không hư hoại đối với Phật, Pháp, Tăng.

Pháp sư nước ngoài đã nói thế nầy: Khi kiến đạo đế trong khoảng ba sát-na, là khi tín căn hiện ở trước để nhận lấy pháp hồi chuyển tương ưng với đạo đế kia.

Có bốn thứ tịnh không hư hoại: Nếu Tín kia duyên với pháp Vô học trong thân Phật, gọi là Tín không hư hoại đối với Phật. Nếu duyên với ba căn trong thân Bích-chi Phật, hai căn của Bồ-tát, gọi là tín không hư hoại đối với Pháp. Nếu duyên với Pháp Hữu học, Vô học trong thân Thanh văn, thì đó gọi là tín không hư hoại đối với tăng. Nhận lấy giới hồi chuyển của đạo đế kia, gọi là giới được Thánh ưa thích.

Không nên như Pháp sư nước ngoài nói. Sa-môn nước Kế-tân nói rằng: Niềm tin kia duyên chung đối với pháp, không có chỗ phân biệt, gọi là tín không hư hoại đối với pháp. Chỉ khi niềm tin hiện ở trước, vị lai tức có Vô lượng tu tín. Vị lai tu tín. Hoặc có người, duyên với pháp Vô học của Phật, đó gọi là không chung, duyên đối với tín không hư hoại của Phật. Hoặc có người duyên với ba căn Bích-chi Phật, hai căn Bồ-tát, đó gọi là bất cộng. Duyên với tín không hư hoại của Pháp.

Hoặc có người duyên với pháp Hữu học, Vô học trong thân Thanh văn, đó gọi là không chung, duyên với tín không hư hoại của tăng.

Hoặc có người duyên với pháp Vô học trong thân Phật, ba căn trong thân Bích-chi Phật, hai căn trong thân Bồ-tát.

Hoặc có người, duyên với pháp Vô học trong thân Phật, với Pháp Hữu học, Vô học trong thân Thanh văn.

Hoặc có người duyên với ba căn trong thân Bích-chi Phật, với hai căn trong thân Bồ-tát, với pháp Hữu học, Vô học trong thân Thanh văn.

Hoặc có người duyên với pháp Vô học trong thân Phật, với ba căn trong thân Bích-chi Phật, với hai căn trong thân Bồ-tát, với pháp Hữu học, Vô học trong thân Thanh văn.

Hết thảy các duyên như thế đều là duyên chung, tín không hư hoại đối với pháp, cũng được giới hồi chuyển bậc Thánh đã yêu thích. Như khi kiến đạo đế trong khoảng ba Sát-na, đạo tỷ trí cũng giống như thế. Điểm khác nhau là: Người tu hành vào lúc nầy, ba khoảng tâm kiến đạo đế, không được tu duyên tín ba đế trước, là tu khoảng thời gian.

Hỏi: Như Thể của Diệt, đạo là tịnh, là xứ tịnh. Khi kiến được tịnh không hư hoại, thì có thể như thế. Thể của Khổ đế, tập đế thì chẳng phải tịnh, chẳng phải xứ tịnh. Vì sao? Vì là pháp điên đảo, phiền não, ác hạnh, tà kiến. Nhưng tại sao khi kiến lại được tịnh không hư hoại?

Đáp: Vì hai việc nên được tịnh không hư hoại:

  1. Đáng tin.
  2. Đáng cầu.

Đối với diệt, đạo đế, được tịnh không hư hoại có hai việc: là do đáng tin, cũng do đáng cầu.

Đối với Khổ đế, tập đế, được tịnh không hư hoại, chỉ có một việc là đáng tin, chẳng phải đáng cầu.

Tôn giả Cù-sa nói: Nếu bị ép ngặt do Khổ, tập thì kiến diệt, đạo là khéo hơn. Như người bị gió bão ép ngặt, thì thấy nhà cửa là khéo. Kiến diệt, đạo kia cũng thế. Người Kiên tín đối với đạo Kiên tín, do hai việc nên được tịnh không hư hoại:

  1. Đáng tin.
  2. Đáng cầu.

Đối với đạo Kiên pháp, cũng có hai việc.

Người Kiên pháp, đối với đạo Kiên pháp, cũng do hai việc:

  1. Đáng tin.
  2. Đáng cầu.

Đối với đạo Kiên tín, chỉ có đáng tin, chẳng phải đáng cầu. Đạo Tín giải thoát, đạo Kiến đáo, đạo Thời giải thoát, đạo phi Thời giải thoát, đạo Thanh văn, đạo Bích-chi Phật, đạo Phật tùy theo tướng mỗi đạo mà nói.

Hỏi: Nếu tin pháp Vô học trong thân của Tôn giả Xá-lợi-phất, là tín không hư hoại đối với Pháp hay tín không hư hoại đối với tăng? Nếu là đối với Pháp thì người kia sẽ duyên với pháp Vô học trong thân Thanh văn. Còn nếu là đối với tăng thì một mình Tôn giả Xá-lợi-phất chẳng phải Tăng?

Đáp: Nên nói là Tăng.

Hỏi: Nếu vậy thì một người làm sao là Tăng?

Đáp: Nếu nói theo pháp thì là Tăng. Nếu nói theo người thì chẳng phải Tăng.

Nếu dựa vào thiền Vị chí sẽ được thiền không hề được. Khi tịnh không hư hoại đối với Phật hiện ở trước thì hiện tại có hai, là Phật và giới. Vị lai bốn. Nếu khởi chỗ từng được hiện ở trước mặt thì hiện tại có hai, vị lai không có. Cho đến dựa vào đệ Tứ thiền, cũng nói giống như thế.

Nếu dựa vào định Vô sắc sẽ được định không hề được. Khi tịnh không hư hoại đối với Phật hiện ra trước thì hiện tại một, đó là tin Phật, vị lai bốn.

Nếu khởi định đã từng được hiện ra trước, thì hiên tại một, vị lai không có.

Hỏi: Thế nào là lập tịnh không hư hoại? Là do tự thể hay do sở duyên? Nếu do tự thể thì lẽ ra phải có hai thứ là tín và giới. Nếu do sở duyên thì phải có ba ngôi: Phật, Pháp, Tăng. Vì sao? Vì giới không có sở duyên.

Đáp: Nên nói rằng: Do tự thể, cũng do sở duyên. Tự thể là Giới, sở duyên là Tín. Như sở duyên của tự thể, Tam bảo của tự thể, tam quy của tự thể cũng nói giống như thế. Đó là thể tánh của tịnh không hư hoại, cho đến nói rộng.

Đã nói thể tánh của tịnh không hư hoại. Về lý do của tịnh không hư hoại nay sẽ nói:

Vì sao gọi là tịnh không hư hoại? Tịnh không hư hoại là nghĩa gì?

Đáp: Vì đủ mọi thứ quán sát để hiểu biết, đủ mọi thứ trù tính, lường xét mà được nên gọi là tịnh không hư hoại.

Lại nữa, vì không thể phá vỡ, nên gọi là tịnh không hư hoại. Hoặc Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc Trời, hoặc Ma, hoặc Phạm và thế gian khác đều không có khả năng theo như pháp phá bỏ được, cho nên gọi là tịnh không hư hoại.

Lại nữa, vì tín nầy không thể dứt, nên gọi là tịnh không hư hoại.

Không có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể đúng như pháp mà dứt nói rộng như trên.

Tôn giả Cù-sa nói: Nếu đối với pháp Phật, không quán sát bằng nhiều cách để hiểu biết, không trù tính, lường xét mọi thứ, cũng như chiếc thuyền không dây buộc trên dòng nước, nó bồng bềnh và dễ vỡ. Trái với trên thì không bồng bềnh dễ vỡ, nên gọi là tịnh không hư hoại.

Hỏi: Vì sao Đức Thế tôn trước nói tịnh không hư hoại đối với Phật, cho đến sau nói tịnh không hư hoại của giới?

Đáp: Nếu nói như vậy về nghĩa văn sẽ dễ thuận theo, người nói thì dễ, kẻ thọ cũng dễ hiểu.

Lại nữa, Đức Phật dụ như thầy thuốc, Pháp dụ không bị bệnh, tăng dụ người chăm sóc bệnh, Giới dụ cho thuốc hay.

Lại nữa, vì Phật có thể nói pháp nên ở hàng đầu. Phật vì hạng người nào nói pháp? Lý do kế là tín Pháp. Vì ai mà nói Pháp? Vì tăng mà nói. Lý do kế là tín tăng. Lấy gì gọi là tăng? Lấy giới nên gọi là tăng. Lý do kế là Giới…

Lại nữa, có khả năng chỉ bày cho chúng sinh biết về đạo, nên trước là tin Phật. Vì có khả năng tiến đến thành Niết-bàn, nên kế là tin Pháp. Giống như bạn lành, nên kế là tin tăng. Vì như tư lương, nên kế là Giới.

Lại nữa, tin Phật như thuyền sư, tin Pháp như bờ bên kia, tin tăng như người đồng vận chuyển, tin Giới như chiếc thuyền.

Kinh Phật nói Giới được bậc Thánh yêu thích nầy không phá vỡ, không xuyên thủng, không uế ác xen lẫn, được người trí khen ngợi.

Hỏi: Giới được bậc Thánh yêu thích, vì sao gọi là không phá vỡ, không xuyên thủng, không uế ác hỗn tạp? Nói rộng như trong Kiền-độ Tạp.

********

 

Kinh Phật nói: Phật bảo Tỳ-kheo: Nếu có chúng sinh nào tin ưa pháp do các thầy nói, thì các thầy nên vì tâm thương xót, mà nói bốn pháp tịnh không hư hoại, cho họ nghe khiến họ an trụ để tu hành pháp nầy! Nói rộng như Khế kinh.

Hỏi: Vì sao Đức Thế tôn nói kinh nầy?

Đáp: Đức Thế tôn muốn vì người nói pháp, chỉ bày rõ về duyên theo pháp nên nghe. Người nói pháp thường không biết nên giảng nói cho ai nghe? Không nên nói cho ai nghe, nên inh tâm yếu đuối! Đức Phật nói rằng: Các thầy không nên xem nhẹ điều được nói. Nếu chúng sinh nào đáng tin, ưa pháp do các thầy nói, thì hãy nói cho họ nghe nói.

Lại nữa, muốn nói pháp đền đáp công ơn, nên Phật nói kinh nầy. Kinh nói: Phật bảo Tỳ-kheo! Nếu có người nào, trong trăm năm, một vai cõng cha, một vai cõng mẹ, từ nơi nầy đi đến nơi khác, vẫn không gọi là đó là báo đáp ơn của cha mẹ! Phật bảo Tỳ-kheo: Nếu cha mẹ không tin giáo pháp, thì nên khuyên cha mẹ lập niềm tin. Không giới, thì vì cha mẹ nói giới thiện. Cha mẹ có tánh bỏn sẻn thì khuyên nên bố thí. Cha mẹ không có tuệ, hãy khuyên nên tu tuệ. Thực hành được như vậy mới gọi là báo ơn cha mẹ.

Hỏi: Tất cả pháp thiện trong pháp chư Phật, đều nên giáo hóa người. Vì sao chỉ nói phải giáo hóa bốn tịnh không hư hoại?

Tôn giả Ba-xa nói: Ở đây Thánh đạo do Đức Thế tôn đã nói được gọi là pháp tịnh không hư hoại. Tất cả Thánh đạo hoặc là pháp tương ưng, hoặc là pháp cộng hữu. Nếu nói về tín, tức là nói Thánh đạo của pháp tương ưng. Nếu nói về giới, tức là nói Thánh đạo của pháp cộng hữu.

Lại nữa, đây là nói tóm tắt về môn đầu tiên cho hạng đang bắt đầu nhập pháp. Tất cả pháp thiện trong hết thảy pháp Phật. Hoặc sắc, hoặc là chẳng phải sắc. Nếu nói Giới, nên biết là Phật đã nói pháp thiện của tánh sắc. Nếu nói Tín, nên biết Phật đã nói pháp thiện tánh chẳng phải sắc. Như pháp sắc, pháp phi sắc, các pháp tương ưng – bất tương ưng, có nương dựa – không nương dựa, có hành – không có hành, có thế dụng – không có thế dụng, có duyên – không có duyên, nên biết cũng giống như thế.

Lại nữa, tất cả pháp thiện, hoặc là tánh căn, hoặc chẳng phải tánh căn. Nếu nói tín, nên biết đã nói pháp thiện của tánh căn. Nếu nói giới, nên biết là đã nói pháp thiện của tánh chẳng phải căn.

Lại nữa, vì dựa vào bốn tịnh không hư hoại, nên Phật ra bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn tịnh không hư hoại nầy có hai thứ tướng:

  1. Tướng không hư hoại.
  2. Tướng tịnh.

Tướng không hư hoại, là tín vô lậu, không bị phi tín làm hư hoại. Giới vô lậu không bị phi giới làm hoại. Tín là tướng tịnh ở trong pháp tâm sở, giới là tướng tịnh trong pháp bốn đại.

Lại nữa, vì chỉ rõ phương tiện để ngăn sự sợ hãi về nghèo cùng và đường ác. Giới có thể ngăn sự sợ hãi về đường ác. Tín có thể ngăn sự sợ hãi về nghèo cùng. Tín, giới vô lậu dù không có chướng ngại, nhưng chẳng phải vô nhân nơi tín, giới hữu lậu.

Lại nữa, vì muốn dẫn dắt người đã dựa vào ngoại đạo, được thọ sự giáo hóa của Phật khiến họ nhập pháp Phật. Các Tỳ-kheo, hoặc có thân thuộc dựa vào ngoại đạo để được giáo hóa, thì nên vì sự thân yêu, khen ngợi pháp Phật, chê trách pháp ngoại đạo, làm cho những người thân kia nổi giận dữ, chuyển đổi, xa lánh pháp ngoại đạo.

Đức Phật nói rằng: Các thầy không có năng lực, không có vô úy nên không biết tâm hành của các căn chúng sinh. Các thầy đối với người kia, nếu có tâm thương xót, thì nên vì họ nói bốn tịnh không hư hoại. Nếu có được bốn tịnh không hư hoại thì tâm không dời động. Vì sao? Vì Tỳ-kheo nên biết, Bốn Đại có thể khiến cho đổi khác. Nếu người nào được bốn tịnh không hư hoại thì người ấy sẽ không có sự đổi khác.

Hỏi: Tánh của tất cả các pháp đều không đổi khác, vì sao lại chỉ nói bốn đại là không đổi khác?

Đáp: Vì dùng bốn pháp để nói về bốn pháp.

Lại nữa, hành giả trước quán tướng của bốn đại không đổi khác, sau đó mới thấy tướng không đổi khác của tất cả pháp.

Lại nữa, ngoại đạo chấp bốn đại là thường. Phật nói bốn đại chẳng phải pháp thường. Nếu có bốn đại như ngoại đạo đã nói là thường thì pháp thường nầy có thể khiến cho đổi khác. Nếu đệ tử ta đã thành tựu bốn tịnh không hư hoại mà có đổi khác thì không có việc đó!

Lại nữa, bốn đại có thể xoay vần gìn giữ sự tăng trưởng của pháp sinh tử.

Kinh Phật nói: Tín là vòi (tay) của voi lớn.

Hỏi: Vì sao Phật nói Tín là vòi của voi lớn?

Đáp: Vì có công năng nắm giữ cái mình có. Như voi có vòi (tay) thì có thể nắm giữ các vật của số chúng sinh và phi số chúng sinh. Đệ tử bậc Thánh cũng giống như vậy, có bàn tay Tín nên có thể nắm giữ pháp thiện.

Kinh Phật nói: Nếu đệ tử Thánh đã thành tựu tịnh không hư hoại đối với Phật, thường khi trụ ở pháp nầy, thì thời gian trước đó đã thành tựu tịnh không hư hoại đối với Phật. Chư Thiên, tâm rất vui mừng, nói rằng: Chúng ta sở dĩ được thành tựu, là do thường trụ nơi tịnh không hư hoại đối với Phật, nên mới sinh đến đây. Các đệ tử Thánh cũng thành tựu tịnh không hư hoại đối với Phật, khi chết, cũng sẽ sinh đến đây đồng xứ, với chúng ta. Thành tựu tịnh không hư hoại đối với Pháp, tịnh không hư hoại đối với tăng, tịnh không hư hoại đối với Giới cũng giống như thế.

Hỏi: Các chư thiên kia trước đã ở nơi đây, đều thành tựu bốn tịnh không hư hoại, vì sao chư thiên lại có người hoặc khen ngợi tịnh không hư hoại đối với Phật, hoặc có người cho đến khen ngợi tịnh không hư hoại về Giới?

Đáp: Chúng sinh có khi, vì tịnh không hư hoại đối với Phật, siêng tu phương tiện dẫn nhập pháp Phật, cũng có người cho đến vì tịnh không hư hoại về Giới, siêng tu phương tiện nhập pháp Phật. Nếu vì tịnh không hư hoại đối với Phật, nên chư thiên đã siêng tu phương tiện nhập pháp Phật, tức sẽ khen ngợi tịnh không hư hoại đối với Phật. Cho đến vì tịnh không hư hoại đối với Giới, chư thiên đã hết lòng tu phương tiện nhập pháp Phật, tức sẽ khen ngợi tịnh không hư hoại đối với Giới.

Lại nữa, chư thiên có người ưa quán đối với Phật, hoặc có người ưa quán đối với Giới. Nếu là người ưa quán đối với Phật, thì họ sẽ khen ngợi tịnh không hư hoại đối với Phật, cho đến nếu là người ưa quán đối với Giới, họ sẽ khen ngợi tịnh không hư hoại đối với Giới.

Kinh Phật nói: Vua A-xà-thế thành tựu tín vô căn.

Hỏi: Tất cả pháp hữu vi đều có căn. Vì sao Phật nói niềm tin của vua A-xà-thế là vô căn?

Đáp: Vì niềm tin nầy không có căn của kiến đạo. Như nói: Tín tương ưng với trí không hư hoại, lấy kiến đạo làm căn. Vì niềm tin của vua A-xà-thế không có căn của kiến đạo, nên nói là vô căn nhưng vẫn có tín tương tự với kiến đạo làm căn.

Lại nữa, vì không có căn thiện của trí vô lậu, nên nói vô căn. Tín vô lậu dùng trí vô lậu, căn thiện vô lậu làm căn. Vua kia không được trí vô lậu, cũng không được căn thiện vô lậu mà chỉ được Tín tương tự với vô lậu.

Lại nữa, vua A-xà-thế mới cúng dường Phật không bao lâu, cũng không gần các Tỳ-kheo có đức mà đã được niềm tin như thế. Nếu nhà vua đang ở trên lầu gác ngắm xem voi ngựa, thấy Đức Phật, Thế tôn, liề tiến về phía trước, hướng tới Phật, gieo mình xuống đất, thân không đau khổ, đó là Tín lực vô căn, cũng là do oai thần Phật. Cho nên gọi là niềm tin vô căn.

Lại nữa, niềm tin nầy không có nhân tương tự, không có pháp nào làm nhân tương tự cho niềm tin kia. Như cây khô không có rễ! Niềm tin của vua kia cũng vậy, nên gọi là vô căn.

Lại nữa, dù nhà vua có niềm tin nầy, nhưng không tránh khỏi bị đọa vào đường ác, nên gọi là niềm tin vô căn.

Trong bốn điên đảo nầy, Tu-đà-hoàn đã dứt bao nhiêu? Bao nhiêu không dứt?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Có mười hai thứ điên đảo, đó là điên đảo về vô thường tưởng là thường nên tâm điên đảo, kiến điên đảo. Điên đảo về khổ mà tưởng là vui, nên tâm điên đảo, kiến điên đảo. Điên đảo về vô ngã tưởng là ngã, nên tâm điên đảo, kiến điên đảo. Điên đảo về bất tịnh tưởng là tịnh nên tâm điên đảo, kiến điên đảo. Tám điên đảo là chỗ dứt của kiến đạo. Bốn điên đảo là do tu đạo dứt.

Tám điên đảo do kiến đạo dứt, nghĩa là: Điên đảo của kiến điên đảo về vô thường tưởng là thường. Điên đảo của kiến điên đảo về Khổ tưởng vui. Điên đảo của kiến điên đảo về vô ngã tưởng ngã. Điên đảo của kiến điên đảo về bất tịnh tưởng là tịnh.

Bốn điên đảo là do tu đạo dứt: Tâm điên đảo về vô thường, chấp là thường. Tâm điên đảo về Khổ chấp là vui. Tâm điên đảo về Vô ngã chấp là ngã. Tâm điên đảo về bất tịnh, chấp là tịnh.

Các kiến đạo dứt, nghĩa là: Khi khổ tỷ nhẫn hiện ở trước, dứt rốt ráo. Các tu đạo dứt, nghĩa là: Lúc định Kim cương dụ hiên ở trước, dứt rốt ráo.

Hỏi: Vì sao phái kia lại nói như vậy?

Đáp: Vì phái kia dựa vào Kinh Phật. Kinh Phật nói: Phật bảo Tỳkheo: Bốn tưởng điên đảo nầy, là điên đảo của kiến điên đảo, tâm điên đảo, cho đến nói rộng. Vì dựa vào kinh nầy, nên nói mười hai điên đảo.

Dùng hai việc để ngăn dứt ý của người nói như thế, tức tạo ra câu hỏi đáp. Hoặc tạo ra câu hỏi nầy: Bốn điên đảo ấy, bậc Tu-đà-hoàn có bao nhiêu dứt, bao nhiêu không dứt? Tức là ngăn dứt ý nêu có mười hai thứ điên đảo của thuyết kia. Hoặc đáp rằng: Tu-đà-hoàn dứt hết, tức ngăn dứt ý của thuyết kia nói do tu đạo dứt. Vì sao? Vì trong tu đạo không có pháp như thế. Đây là do Tu-đà-hoàn dứt.

Nếu điên đảo có mười hai thứ, cũng là tu đạo dứt, thì trái với kinh Phật. Như nói: Phật bảo Tỳ-kheo: Nếu có bốn điên đảo, đối tượng bị điên đảo, nên biết đều là phàm phu ngu tiểu. Vì sao? Vì hàng phàm phu quán pháp sinh tử, không thấy đầu mối, như xem ruột của loài chó.

Nếu kinh Phật nói bốn, nên biết tức không có mười hai. Nếu nói đều là phàm phu ngu tiểu, nên biết chẳng phải do tu đạo dứt.

Hỏi: Nếu điên đảo chỉ có bốn thứ, thì kinh do phái Tỳ-bà Xà-bàđề dẫn, làm sao hiểu được?

Đáp: Vì tâm tưởng gần với điên đảo, nên cũng gọi là điên đảo.

Hỏi: Các số pháp như thọ, v.v… cũng gần với pháp điên đảo, vì sao không gọi là điên đảo?

Đáp: Vì hai pháp nầy là pháp lời nói của thế tục. Thế tục đều nói: Tâm điên đảo, tưởng điên đảo của người nầy mà không nói thọ điên đảo, tư điên đảo.

Hỏi: Thể tánh của điên đảo là gì?

Đáp: Thể tánh của điên đảo là tuệ.

Hỏi: Nếu thể tánh của điên đảo là tuệ, thì trong năm kiến ấy có bao nhiêu kiến là điên đảo, bao nhiêu kiến chẳng phải điên đảo?

Đáp: Hai kiến rưỡi là điên đảo, hai kiến rưỡi chẳng phải điên đảo. Hai kiến rưỡi là điên đảo, đó là thường kiến trong tà kiến, kiến thủ, và thân kiến. Hai kiến rưỡi chẳng phải điên đảo, đó là dứt kiến trong biên kiến, giới thủ và biên kiến.

Hỏi: Vì sao hai kiến rưỡi là điên đảo, hai kiến rưỡi chẳng phải điên đảo?

Đáp: Vì ba sự nên là điên đảo:

  1. Do mạnh mẽ, nhạy bén.
  2. Do vọng chấp.
  3. Do tánh hoàn toàn điên đảo.

Đoạn kiến thuộc về biên kiến, tà kiến dù là mạnh mẽ và tánh hoàn toàn là điên đảo, nhưng chẳng phải vọng chấp. Vì sao? Vì hoàn toàn hủy hoại vật thể. Giới thủ dù là mạnh mẽ, cũng là sự vọng chấp, nhưng chẳng phải tánh hoàn toàn điên đảo. Vì sao? Vì có một chút giống nhau. Có đạo cõi Sắc, có khả năng lìa cõi Dục. Có đạo cõi Vô sắc có khả năng lìa cõi Sắc. Đó là thể tánh của điên đảo, cho đến nói rộng.

Đã nói về thể tánh. Về lý do nay sẽ nói:

Vì sao gọi là điên đảo? Điên đảo là nghĩa gì?

Đáp: Vì đối tượng chấp là điên đảo, nên gọi là điên đảo.

Điên đảo nầy, hoàn toàn do thấy khổ mà dứt.

Hỏi: Vì sao điên đảo chỉ hoàn toàn do thấy khổ mà dứt?

Đáp: Vì nhân nơi khổ sinh, nên lại là thấy khổ mà dứt.

Lại nữa, điên đảo nầy dựa vào quả sinh, nên lại do kiến quả dứt.

Lại nữa, thân kiến là tánh của thấy khổ mà dứt. Điên đảo này do thân kiến, nên do thấy khổ mà dứt, tức điên đảo cũng do thấy khổ mà dứt.

Lại nữa, khổ đế là pháp thô hiện. Nếu ngộ nhận đối với pháp thô hiện ấy thì sẽ bị Thánh Hiền quở trách. Như người nhầm lẫn giữa ban ngày, bị người ta quở trách. Sự ngộ nhận kia cũng giống như thế. Ba đế còn lại rất vi tế, nếu có sự ngộ nhận đối với pháp vi tế đó, Hiền Thánh không hẳn đã quở trách. Như con người nếu có sự nhầm lẫn vào ban đêm thì không hẳn bị người quở trách!

Lại nữa, hành giả đã kiến khổ rồi mà lại còn có tâm điên đảo, thì không có việc ấy. Vì để phân biệt, nên mới nói như thế.

Nếu hành giả đã kiến khổ đế rồi cũng không kiến ba đế còn lại, người khác hỏi:

Hỏi: Ấm nầy là thường hay đoạn?

Đáp: Là dứt.

Hỏi: Không có một sát-na dừng trụ, là khổ hay vui?

Đáp: Là khổ, như hòn sắt nóng.

Hỏi: Là tịnh hay bất tịnh?

Đáp: Là bất tịnh, khác nào như đống phân nhơ nhớp!

Hỏi: Có ngã hay vô ngã?

Đáp: Vô ngã, không có sự tạo tác, không có tác giả.

Hỏi: Những người Kiên tín, Kiên pháp cũng dứt trừ điên đảo, vì sao chỉ nói Tu-đà-hoàn?

Đáp: Lẽ ra nói mà không nói, phải biết thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, người Kiên tín, Kiên pháp, là tướng phân biệt, đối với sự điên đảo nầy, hoặc có người dứt, hoặc có người không dứt. Ở đây, hoàn toàn nói về tướng không phân biệt.

Lại nữa, vì muốn làm cho người nghi ngờ được quyết định, bậc Tu-đà-hoàn thực hành pháp mà phàm phu đã làm: Cùng ngủ nghỉ một chỗ với vợ con, tay sờ mó thân người trơn láng, mặc các thứ y phục như kiêu-xa-da, dùng hương chiên đàn thoa thân, cũng đeo đủ các thứ vòng hoa, chuỗi ngọc, cũng sai khiến tôi tớ, tôi tớ theo hầu hạ, cũng có khi dùng tay đánh, bắt chúng sinh. Vì người đời thấy các chuyện nầy, nên nói Tu-đà-hoàn không dứt trừ điên đảo.

Vì muốn cho mối nghi ấy của chúng sinh được quyết định, nên mới nói như thế. Người Kiên tín, Kiên pháp, tâm thiện hữu lậu, tâm vô ký không ẩn một còn không hiện ở trước, huống chi là tâm nhiễm ô!

Hỏi: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm lúc khởi nhiễm ái là tưởng vui, tưởng tịnh, hay là tưởng khổ, tưởng bất tịnh? Nếu khởi tưởng vui, tưởng tịnh thì sao không phải điên đảo? Nếu là tưởng khổ, tưởng bất tịnh thì làm sao khởi ái nhiễm?

Đáp: Nên nói rằng: Khởi tưởng vui, tưởng tịnh.

Hỏi: Nếu vậy làm sao không là điên đảo?

Đáp: Vì trước kia nói: Do ba việc nên là điên đảo:

  1. Do mạnh mẽ, nhạy bén.
  2. Do vọng chấp.
  3. Do tánh hoàn toàn điên đảo.

Tu-đà-hoàn nhiễm ái, tuy mạnh mẽ và vọng chấp, nhưng chẳng phải tánh hoàn toàn điên đảo.

Lại nữa, hoặc có Tu-đà-hoàn đối với đế, chấp lạc, chấp tịnh. Hoặc có Tu-đà-hoàn đối với cảnh giới chấp lạc, chấp tịnh. Chấp lạc, chấp tịnh đối với đế, nghĩa là Tu-đà-hoàn đã dứt hẳn. Đối với cảnh giới chấp lạc, chấp tịnh, nghĩa là Tu-đà-hoàn chưa dứt:

Lại có thuyết cho Tu-đà-hoàn lúc khởi ái nhiễm thì chấp khổ, chấp bất tịnh.

Hỏi: Nếu vậy thì làm sao khởi ái nhiễm?

Đáp: Từ vô thỉ đến nay đã hành tập pháp nầy, thân tâm phát sinh nhiệt não. Vì để chế phục tâm ấy, nên khởi nhiễm ái nầy. Cũng như ngón tay của Bà-la-môn Tự Hỷ chạm phải phân dơ, ông ta đến chỗ thợ rèn xin lửa để rửa sạch. Người thợ rèn nói: hãy dùng tro đất để rửa sạch ngón tay.

Bà-la-môn nói: Các vật như thế không thể làm sạch ngón tay tôi, phải dùng lửa mới rửa sạch được. Bấy giờ, người thợ rèn đốt chiếc kềm cho thật đỏ, rồi dùng kềm kẹp vào ngón tay người Bà-la-môn. Lúc đó, cánh tay người Bà-la-môn run bắn lên, vì bị sức nóng ép ngặt bèn đưa ngón tay vào miệng. Sực nhớ ra, ông ta mới nhớ lại ngón tay mình bất tịnh! Chỉ vì bị ép ngặt do đau khổ, nên mới đút ngón tay vào miệng. Sự khởi ái nhiễm kia cũng giống như thế.

Lại nữa, từ vô thỉ đến nay đã tập theo phiền não lâu xa và bị nó ép ngặt. Nhằm đối trị pháp nầy mà khởi ái nhiễm. Như thân thể của người trắng trẻo, mịn màng, mà lại mọc ung nhọt, chịu nhiều đau khổ, mong cầu được chữa trị. Y sư nói: Ông hãy dùng phân chó ướt thoa vào chỗ nhọt. Người nọ, xét biết phân chó là bất tịnh, nhưng vì mục đích chữa bệnh nên dùng phân chó để thoa. Việc khởi ái nhiễm của Tu-đà-hoàn kia cũng giống như thế.

Trong ba tam-muội nầy, tu-đà-hoàn đã thành tựu bao nhiêu thứ tam-muội trong quá khứ, thành tựu bao nhiêu thứ tam-muội trong vị lai, thành tựu bao nhiêu thứ tam-muội trong hiện tại?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Là để ngăn dứt lời nói của kẻ ngu ở đời cho là không có hành quá khứ, vị lai, nói rộng như trên.

Hỏi: Trong ba tam-muội nầy, Tu-đà-hoàn có bao nhiêu tam-muội đã thành tựu trong quá khứ? Bao nhiêu tam-muội sẽ thành tựu trong vị lai, và bao nhiêu tam-muội đang thành tựu trong hiện tại?

Đáp: Vị lai đều thành tựu, quá khứ diệt rồi không xả thì thành tựu. Nếu hiện tại hiện ở trước thì thành tựu. Sát-na đầu tiên của đạo tỷ trí không có quá khứ. Vì sao? Vì chưa có một sát-na nào sinh rồi diệt. Sinh rồi diệt nghĩa là vì đã được quả nên xả, vị lai thành tựu ba, hiện tại một, đó là tam-muội Vô nguyện. Quá khứ kia đã diệt rồi không xả, nếu khởi tam-muội Không hiện ở trước thì quá khứ đã thành tựu một, đó là tammuội Vô nguyện. Vị lai ba, hiện tại một, đó là Tam-muội Không. Quá khứ kia diệt rồi không bỏ, nếu khởi tam-muội Vô tướng hiện ở trước thì quá khứ hai đó là tam-muội Không, Vô nguyện. Vị lai ba, hiện tại một, đó là vô tướng. Nếu diệt rồi không xả, đối với ba tam-muội nầy, nếu khởi một hiện ở trước, thì quá khứ vị lai ba, hiện tại một, khởi hiện ở trước. Ba tam-muội nói rộng, như trong đại chương Kiền-độ Sử đã nói.

Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, nói rộng như trong phẩm Người.

Nếu quá khứ của đạo thì đạo kia đã tu, đã được khinh an chăng?

Cho đến nói rộng.

Tu có bốn thứ.

  1. Tu đắc.
  2. Tu hành.
  3. Tu đối trị.
  4. Tu trừ khử.

Pháp thiện hữu vi là tu đắc và tu hành. Pháp hữu lậu là tu đối trị, tu trừ khử.

Pháp sư nước ngoài nói: Tu có sáu thứ, bốn như trước đã nói, lại có thêm hai thứ tu là: Tu giới và tu phân biệt. Tu giới là tu căn. Như nói: Nếu sáu căn nầy khéo điều phục, khéo che giấu, khéo gìn giữ thì sẽ khéo tu tập, nghĩa là có thể sinh khởi niềm vui.

Tu phân biệt: Phân biệt ở thân, như nói: thân nầy, là tóc, lông, móng, răng, v.v… cho đến nói rộng.

Sa-môn nước Kế-tân nói rằng: Hai tu ấy, nên biết là ở trong hai tu trước, đó là tu đối trị, tu trừ khử, cho nên tu vẫn có bốn thứ.

Trong đây, dựa vào hai thứ tu để soạn luận, đó là tu đắc và tu hành. Như nói: Nếu tu pháp trí thì có tu tỷ trí phải chăng? Ở đây vừa dựa vào hai tu để soạn luận. Như nói: Tu thân, tu tâm, tu giới, tu tuệ. Ở đây vừa dựa vào hai thứ tu để soạn luận, đó là tu đối trị, tu trừ khử. Như nói: Thế nào là tu nhãn căn?

Vừa dựa vào hai tu nầy mà soạn luận.

Như nói: Nếu tu Sơ thiền thế tục thì có tu vô lậu chăng? Ở đây vừa dựa vào hai tu mà soạn luận, đó là tu đắc và tu hành. Như nói: Nếu tu tam-muội Không thì có tu vô nguyện chăng? Vừa dựa vào hai tu nầy mà soạn luận. Như nói: Nếu tu thân niệm xứ thì cũng tu thọ niệm xứ? Vừa dựa vào hai thứ tu nầy mà soạn luận. Như nói: Nếu tu tưởng vô thường thì có quán tưởng vô thường chăng?

Trong đây, có người nói là tu đắc, hoặc có người nói là tu hành. Như nói: Thế nào là pháp có thể tu? Tất cả pháp hữu vi thiện. Ở đây, dù có nghĩa của bốn thứ tu, nhưng vừa dựa vào tu đắc và tu hành mà soạn luận. Cho nên được tạo ra bốn trường hợp:

1. Có pháp là Tu đắc và tu hành, chẳng phải tu đối trị, tu trừ khử.

2. Có pháp là tu đối trị, tu trừ khử, chẳng phải tu đắc và tu hành.

3. Có pháp là tu đắc và tu hành, cũng là tu đối trị, tu trừ khử.

4. Có pháp chẳng phải tu đắc và tu hành, cũng chẳng phải tu đối trị, tu trừ khử.

Tu đắc và tu hành, chẳng phải tu đối trị, tu trừ khử: Là pháp hữu vi vô lậu.

Tu đối trị, tu trừ khử, chẳng phải tu đắc và tu hành: Là pháp nhiễm ô, là pháp hữu vi vô ký không ẩn một.

Tu đắc và tu hành, cũng là tu đối trị, tu trừ khử: Là pháp hữu lậu thiện.

Chẳng phải tu đắc và tu hành, cũng chẳng phải tu đối trị, tu trừ khử: Là pháp vô vi.

Hỏi: Tu là nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa huân xông là nghĩa tu. Nghĩa học tập là nghĩa tu. Nghĩa sáng sạch là nghĩa tu. Hiện tiền tu, dùng hành gọi tên. Vị lai tu, dùng đắc gọi tên. Hiện tại, do hiện ở trước nên gọi là tu. Vị lai, do sẽ sinh, nên gọi là tu.

Lại nữa, hiện tại vì có chỗ tạo tác, nên gọi là tu. Vị lai, vì cho sự mong muốn, nên gọi là tu.

Lại nữa, hiện tại vì ở trong thân, nên gọi là tu. Vị lai vì đắc, nên gọi là tu.

Nếu đạo quá khứ thì đạo đó đã tu, đã được khinh an?

Đáp: Nếu đạo quá khứ, là đạo đã tu, đã được khinh an, đó là hai thứ tu: Tu đắc và tu hành. Đã khinh an tức đã là quá khứ.

Nếu đạo đã tu, đã khinh an, thì đạo kia không phải quá khứ phải chăng?

Đáp: Có đạo vị lai, đã tu, đã khinh an, khởi quán bất tịnh hiện ở trước. Vị lai có tu Vô lượng sát-na. Từ sát-na thứ hai về sau, đều gọi là đạo đã tu, đã khinh an, đó là tu đắc. Do ở vị lai nên không gọi là quá khứ, cho đến khởi Sơ tận trí hiện ở trước. Vị lai có Vô lượng tận trí tu sát-na. Từ tu sát-na thứ hai về sau, đều gọi là đạo đã tu, đã khinh an, đó là tu đắc.

Nếu đạo vị lai, thì đạo ấy chẳng phải đã tu, đã khinh an chăng?

Đáp: Hoặc đạo ở vị lai, đạo đó chẳng phải không đã tu, chẳng phải không đã khinh an, cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

Thế nào là đạo ở vị lai, đạo ấy chẳng phải không đã tu, chẳng phải không đã khinh an?

Đáp: Các đạo vị lai đều đã tu, đã khinh an, như đã nói ở trên.

Thế nào là đạo chẳng phải đã tu, chẳng phải đã khinh an, đạo đó chẳng phải vị lai?

Đáp: Khởi đạo không hề được hiện ở trước, khởi quán bất tịnh, cho đến tận trí hiện ở trước. Đạo ấy chẳng phải đã tu, chẳng phải đã khinh an. Đạo ấy chẳng phải vị lai, chẳng phải đã tu: Vì là tu hành. Chẳng phải vị lai: Vì là hiện tại.

Thế nào là đạo ở vị lai, đạo đó chẳng phải đã tu, chẳng phải đã khinh an?

Đáp: Các đạo vị lai, chẳng phải đã tu, chẳng phải đã khinh an, nghĩa là khởi quán bất tịnh, cho đến tận trí hiện ở trước, tu Vô lượng sát-na ở vị lai. Các tu vị lai đi chung với sát-na đầu tiên, nghĩa là đạo kia chẳng phải đã tu, đã khinh an. Vì sao? Vì là nay tu nay khinh an. Đó là tu đắc mà đạo kia ở vị lai.

Thế nào là đạo không ở vị lai, đạo đó chẳng phải không đã tu, chẳng phải không đã khinh an?

Đáp: Đạo quá khứ cũng khởi đạo từng được hiện ở trước. Đạo từng được nghĩa là từng được quán bất tịnh, cho đến tận trí khởi hiện ở trước.

Hỏi: Đạo ấy là nay tu, nay khinh an là tu hành vì sao nói chẳng phải không đã tu, chẳng phải đã khinh an?

Đáp: Văn nầy nên nói rằng: Là đạo quá khứ.

Không nên nói khởi đạo từng được hiện ở trước. Nếu nói như thế thì có ý gì?

Đáp: Đạo nầy dù là tu hành, nay tu, nay khinh an nhưng cũng là tu đắc, đã tu, đã khinh an.

Nếu đạo hiện tại thì đạo ấy là nay tu, nay khinh an chăng?

Đáp: Nếu đạo hiện tại thì đạo kia là nay tu, nay khinh an hoặc đủ hai tu là tu đắc và tu hành. Hoặc chỉ có tu hành.

Hỏi: Có khi nào đạo nay tu, nay khinh an đạo đó chẳng phải hiện tại phải chăng?

Đáp: Có khởi đạo không hề được hiện ở trước, tương tự với vị lai.

Tương tự có bốn thứ:

  1. Tu tương tự.
  2. Giới tương tự.
  3. Cõi tương tự.
  4. Tánh tương tự.

Tu tương tự: Ở đây nói: Khởi đạo không hề được hiện ở trước. Tương tự vị lai: Tu trong đây.

Hoặc có thuyết cho là: Đạo hữu lậu tu tương tự đạo hữu lậu. Đạo vô lậu tu tương tự vô lậu.

Lời bình: Nên nói rằng: Đạo hữu lậu tu tương tự đạo hữu lậu, đạo

vô lậu. Đạo vô lậu có tương tự với đạo vô lậu, đạo hữu lậu. Vì sao? Vì sức vô lậu kia, khởi đạo thế tục hiện ở trước, tu đạo vô lậu, hữu lậu. Khởi đạo vô lậu hiện ở trước, tu đạo hữu lậu, vô lậu.

Giới tương tự: Như trong Kiền-độ Nghiệp có nói: Nếu thành tựu giới quá khứ, cũng thành tựu giới tương tự hiện tại, vị lai?

Giới tương tự, nghĩa là: Như đạt được giới giải thoát, thì có đạt được giới giải thoát tương tự. Giới thiền thì có giới thiền tương tự.

Giới vô lậu thì có giới vô lậu tương tự. Giới hữu tác thì có giới hữu tác tương tự. Giới vô tác thì có giới vô tác tương tự.

Cõi tương tự: Như trong Kiền-độ Căn nói: Nếu thành tựu nhãn căn tương tự nầy, thì có thành tựu thân căn tương tự nầy? Nếu pháp đồng tồn tại ở một cõi, có thể được, thì sẽ gọi là cõi tương tự. Pháp cõi Dục tương tự với pháp cõi Dục. Pháp cõi Sắc tương tự với pháp cõi Sắc. Pháp cõi Vô sắc tương tự với pháp cõi Vô sắc.

Tánh tương tự: Như trong Tỳ-ni nói: Tôn giả Đà-bà-Ma-la-Tử, tay trái phát ra ánh sáng, vì các Tỳ-kheo tương tự phân chia phòng, xá, đồ nằm, người tụng Tu-đa-la tương tự cùng ở một chỗ, người tụng Tỳ-ni tương tự cùng ở một chỗ. Người tụng A-tỳ-đàm tương tự cùng ở một chỗ, người hành pháp A-luyện-nhã tương tự cùng ở một chỗ. Vì muốn cho các Tỳ-kheo cùng trụ đàm luận, hoặc yên lặng, nên mỗi người đều thuận theo nhau.

Kinh khác cũng nói: Chủng loại tương tự của chúng sinh tùy theo nhau. Người làm ác tùy theo với kẻ làm ác. Người làm việc thiện tùy theo với kẻ hành điều thiện. Trong đây, với bốn thứ tương tự nầy, dựa vào tương tự tu mà soạn luận.

Khởi quán bất tịnh hiện ở trước, vị lai sẽ có người tu sát-na Vô lượng quán bất tịnh. Các người tu vị lai đi chung với sát-na đầu tiên: Đó là nay tu gọi là tu đắc.

Đạo kia, chẳng phải hiện tại, vì ở vị lai. Niệm A-na-Ban-na (quán sổ tức), niệm xứ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất, kiến đạo, tu đạo, tận trí, lúc hiện ở trước, cũng nói giống như thế.

Hỏi: Lui sụt quả A-la-hán, lúc trụ quả Tu-đà-hoàn thì quả Tu-đàhoàn chỉ là đắc hay cũng là tu?

Đáp: Chỉ là đắc, chẳng phải tu.

Nếu khi lại được quả A-la-hán thì chỉ là đắc hay cũng là tu?

Đáp: Quá khứ là đắc, chẳng phải tu. Vị lai là đắc, cũng là tu

Hỏi: Vì sao quá khứ là đắc, chẳng phải tu. Vị lai là đắc cũng là tu?

Đáp: Nếu có nhân của hiện tại thì có đắc, cũng là tu. Nếu không có nhân hiện tại, thì chỉ là đắc, chẳng phải tu.

Hỏi: Quả Tu-đà-hoàn cũng có nhân hiện tại, vì sao chỉ có đắc chẳng phải tu?

Đáp: Nếu có nhân hiện tại thì có thể thắng tiến là đắc, cũng là tu. Người trụ quả Tu-đà-hoàn, dù có nhân hiện tại, nhưng vì lui sụt đạo, nên chỉ là đắc, chẳng phải tu.