LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Sa-môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…Đời Bắc Lương
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Chương 2: KIỀN-ĐỘ SỬ

Phẩm 2: MỘT HÀNH

(Từ quyển 31 – quyển 33)

Chín kiết: gồm Kiết ái, kiết giận dữ, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết tật (ganh ghét) kiết san (keo kiệt). Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì có kiết giận dữ trói buộc hay không? Nếu có kiết giận dữ trói buộc, thì cũng bị kiết ái ràng buộc? Như chương nầy và giải thích nghĩa của chương, trong đây nên nói rộng Ưu-ba-đề-xá:

Xứ sở có năm thứ:

  1. Xứ sở của tự thể.
  2. Xứ sở của duyên.
  3. Xứ sở của sự trói buộc.
  4. Xứ sở của nhân.
  5. Xứ sở lệ thuộc.

Xứ sở của tự thể: Như Kiền-độ Kiến nói: Nếu xứ sở có sự nhận biết thì xứ sở ấy cũng sẽ có chỗ dứt trừ? Nếu xứ sở có chỗ dứt trừ thì xứ sở đó cũng có sự nhận biết? Trong đây nói thể của trí nhẫn được gọi là xứ sở. Kiền-độ Kiến cũng nói: Nếu được xứ sở kia thì thành tựu xứ sở đó chăng?

Hoặc có thuyết nói: Ở đây nói: Tự thể của tất cả pháp gọi là xứ sở. Lại có thuyết nói: trong đây có các pháp có tướng đắc, tướng thành tựu, được gọi là xứ sở. Về duyên theo xứ sở, như kinh bà-già-la-na nói: Tất cả các pháp lẽ ra dùng trí biết, tùy theo xứ sở. Thế nào gọi là xứ sở tùy hành của trí, tùy duyên của trí tùy cảnh giới của trí, đó gọi là xứ sở. Kinh cũng nói: Có bốn mươi bốn xứ sở của trí, có bảy mươi bảy xứ sở của trí.

Người A-tỳ-đàm nói rằng: Ở đây nói xứ sở của tự thể. Vì sao? Vì dùng nhẫn, dùng trí để quán sát chi hữu nên thể của trí nhẫn được gọi là xứ sở.

Tôn giả Cù-sa nói rằng: Trong đây nói xứ sở của duyên. Vì sao? Vì dùng trí dùng nhẫn để duyên cới chi hữu nên gọi là xứ sở của duyên.

Xứ sở của trói buộc: Như trong đây nói: Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì còn có kiết giận dữ trói buộc hay không?

Năm thứ pháp gọi là xứ sở. Vì sao? Vì năm thứ phiền não có thể trói buộc năm thứ pháp nầy. Năm thứ pháp, đó là từ thấy khổ mà dứt trừ cho đến tu đạo dứt trừ.

Xứ sở của nhân duyên: Như phái Ba-già-la-na nói: Thế nào là pháp có xứ sở? Thế nào là pháp không có xứ sở? Cho đến thế nào là pháp có nhân? Thế nào là háp không có nhân? Pháp có nhân được gọi là pháp có xứ sở. Pháp không có nhân được gọi là pháp không có xứ sở, như kệ nói:

Tâm Tỳ-kheo vắng lặng

Hay dứt các xứ sở

Đều đối khổ sinh tử

Không thọ hữu vị lai.

Ở đây, nói nhân là xứ sở. Vì sao? Vì có nhân nên có sinh tử, vì nhân dứt nên sinh tử dứt.

Xứ sở lệ thuộc: Như kinh nói: Nên xả ruộng, nhà, chợ, búa, thuộc về tâm ta, như kệ nói:

Không xả của ruộng

Bò, ngựa, tôi tớ

Các thứ nữ sắc

Không được giải thoát.

Như người đời nói: Vật nầy thuộc về tôi, xứ sở nầy thuộc về tôi, trong năm thứ xứ sở nầy, dựa vào xứ sở lệ thuộc mà soạn luận, không dựa vào xứ sở khác.

Lại có thuyết nói: Có năm thứ xứ sở:

  1. Xứ sở của giới.
  2. Xứ sở của nhập.
  3. Xứ sở của ấm.
  4. Xứ sở của đời.
  5. Xứ sở của sát-na.

Trong mười xứ sở ấy, dựa vào xứ sở của lệ thuộc để soạn luận. Độc Tử bộ đã nói rằng: Xứ sở là pháp giả danh, không có “tự thể” nhất định. Kiết chẳng phải giả danh, chúng sinh chẳng phải giả danh, mỗi thứ đều có “tự thể” nhất định.

Người A-tỳ-đàm nói rằng: Xứ sở chẳng phải giả danh, kiết chẳng phải giả danh, mà chúng sinh là giả danh.

Phái Thí dụ giả nói rằng: Kiết chẳng phải giả danh mà là có “thể” nhất định, xứ sở là giả danh, chúng sinh là giả danh, không có “tự thể” nhất định.

Hỏi: Vì sao Độc Tử bộ nói pháp là giả danh, không có “tự thể” nhất định?

Đáp: Sở dĩ Bộ kia nói như thế là vì trong cảnh giới có dục, không có dục. Giống như một cô gái xinh đẹp, người khác thấy, hoặc khởi tâm kính mến, hoặc khởi tâm dục, hoặc khởi tâm giận dữ, hoặc khởi tâm ganh tỵ, hoặc khởi tâm nhàm chán, hoặc khởi tâm bi, hoặc khởi tâm xả.

Khởi tâm kính mến: Như con thấy mẹ. Khởi tâm dục: Như người nặng về dục thì thấy sắc đáng yêu. Khởi tâm giận dữ: Như oán ghét khi thấy nhau. Khởi tâm ganh tỵ: Như người có chồng chung mà thấy. Khởi tâm nhàm chán: Như người tu quán bất tịnh, người khởi tâm bi là người lìa dục. Người kia nghĩ rằng: Sắc đẹp như thế, không bao lâu sẽ tàn phai.

Khởi tâm xả: Người được A-la-hán, vì đối với cảnh giới, khởi tâm có dục, không có dục như thế v.v…

Xứ sở của trí là pháp giả danh, không có “tự thể” nhất định. Các phiền não nầy chung cho năm thức thân và ở lĩnh vực ý.

Chung cho năm thức thân: Phiền não quá khứ trói buộc xứ sở quá khứ, phiền não hiện tại trói buộc xứ sở hiện tại. Đời vị lai sẽ sinh ra pháp trói buộc xứ sở ở đời vị lai, chắc chắn bất sinh, là trói buộc xứ sở của ba đời.

Ở lãnh vực ý: Phiền não quá khứ trói buộc cả ba đời, phiền não vị lai cũng trói buộc ba đời, phiền não hiện tại cũng trói buộc ba đời.

Dựa vào nhãn thức sinh ra sử trói buộc sắc pháp tương ưng của xứ sở kia là lệ thuộc tương ưng, pháp tương ưng với phiền não kia là ý nhập, pháp nhập, cho đến dựa vào thân thức sinh sử cũng giống như thế. Dựa vào ý thức sinh ra sử, trói buộc mười hai nhập.

Tương ưng, là lệ thuộc tương ưng. Pháp tương ưng là ý nhập, pháp nhập.

Nói như thế là một hành tóm lược của Tỳ-bà-sa. Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc thì thì có bị kiết giận dữ trói buộc phải không?

Đáp: Nếu bị kiết giận dữ trói buộc, thì cũng bị kiết ái trói buộc.

Hỏi: Có khi nào bị kiết ái trói buộc, mà không bị kiết giận dữ trói buộc hay không?

Đáp: Có. Pháp cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt trừ kiết ái, tồn tại ở hai cõi, có năm thứ duyên hữu lậu chẳng phải Nhất thiết biến. Nhuế ở cõi Dục có năm thứ duyên, hữu lậu chẳng phải nhất thiết biến. Nếu là năm xứ sở cõi Dục ràng buộc đủ, bị kiết ái ràng buộc, cũng bị kiết giận dữ buộc ràng. Nếu bị kiết nhuế ràng buộc thì cũng bị kiết ái rnàg buộc. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ thì kiết ái sẽ ở lâu trong ba cõi. Cho nên, được thích hợp với luận cứ sau.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì có kiết giận dữ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu bị kiết giận dữ trói buộc, thì cũng bị kiết ái trói buộc xứ sở, là năm thứ xứ sở trói buộc ở cõi Dục.

Hỏi: Có khi nào bị kiết ái trói buộc, mà không bị kiết giận dữ trói buộc hay không?

Đáp: Có, kiết ái cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt trừ. Chưa dứt trừ, nghĩa là hoặc bị kiết ái của tám địa chưa dứt trừ. Hoặc bị kiết ái cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia hoặc có năm thứ kiết chưa dứt trừ, hoặc có người cho đến tu đạo dứt chưa dứt, tu đạo của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia đã dứt. Hoặc có chín thứ kiết ái chưa dứt, hoặc có người cho đến chủng hạ hạ chưa dứt trừ kiết ái. Tóm lại, kiết ái của pháp trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt trừ, đó gọi là bị kiết ái ràng buộc, không bị kiết giận dữ ràng buộc. Vì sao?

Vì cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận dữ.

Hỏi: Vì sao cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận dữ?

Đáp: Vì cõi ấy chẳng phải đồ đựng, chẳng phải ruộng, cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì chúng sinh nhàm chán tai hại của sự giận dữ, nên nguyện sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc. Nếu cõi Sắc, cõi Vô sắc có kiết giận dữ thì sẽ không vì xứ ấy mà tu phương tiện. Nếu pháp ở địa dưới có, thì địa trên cũng có, sẽ không có pháp dứt theo thứ lớp, sẽ không có pháp dứt rốt ráo. Vì sao? Vì pháp dứt theo thứ lớp có thể sinh ra pháp dứt rốt ráo. Nếu không có pháp dứt rốt ráo thì sẽ không có giải thoát, xuất ly.

Vì muốn cho không có lỗi như thế, nên cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận dữ.

Lại nữa, nếu có khổ căn, ưu căn, thì có kiết giận dữ. Vì sao? Chúng sinh vì ưu căn, khổ căn, nên nỗi cơn giận dữ đối với người. Cõi Sắc, cõi Vô sắc không có ưu căn, khổ căn.

Lại nữa, nếu có xứ không hổ, không thẹn thì có kiết giận dữ. Vì không có hổ không có thẹn nên chúng sanh khởi tâm giận dữ. Cõi Sắc, cõi Vô sắc không có hổ, không có thẹn. Như không hổ, không thẹn, kiết ganh tỵ, keo kiệt, căn nam, căn nữ, dứt thực, dâm ái, năm cái, năm dục thượng diệu, vượt hơn, phải biết cũng giống như thế.

Lại nữa, nếu xứ có tướng oán ghét thì có kiết giận dữ, tướng oán ghét là chín pháp phiền não. Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc không có tướng oán ghét, cho nên, Tôn giả Cù-sa nói rằng: Chúng sinh Vì oán ghét, nên khởi kiết giận dữ. Cõi Sắc, cõi Vô sắc không có sự oán ghét.

Lại nữa, cõi Sắc có đối trị gần kiết giận dữ đối trị gần, nghĩa là lòng Từ. Cũng như chỗ có gió Tỳ-lam-ma thì không có mây che. Đức Từ kia cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu chỗ bị kiết ái trói buộc, thì có kiết mạn trói buộc phải không?

Đáp: Đúng thế!

Hỏi: Có khi nào bị kiết mạn trói buộc, lại bị kiết ái trói buộc hay không?

Đáp: Có. Vì sao? Vì hai kiết nầy đều tồn tại ở ba cõi, có năm thứ duyên hữu lậu, vì chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu là ràng buộc đủ năm thứ pháp của ba cõi, bị kiết ái ràng buộc, cũng bị kiết mạn ràng buộc. Nếu bị kiết mạn ràng buộc, thì cũng bị kiết ái ràng buộc. Cho nên, được tạo ra câu như thế nầy: Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì thì có bị kiết vô minh trói buộc hay không? Kiết ái ở ba cõi, có năm thứ duyên hữu lậu chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết vô minh ở ba cõi có năm thứ duyên hữu lậu, vô lậu, là Nhất thiết biến chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu ràng buộc đủ năm thứ pháp của ba cõi, vì bị kiết ái trói buộc, đương nhiên cũng bị kiết vô minh trói buộc. Nếu bị vô minh trói buộc thì cũng bị kiết ái trói buộc.

Nếu chẳng phải sử vô minh ràng buộc, thì sẽ tăng trưởng cho duyên vô lậu của Nhất thiết biến. Cho nên, được tạo thuận lợi với câu trước: Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì cũng có kiết vô minh trói buộc phải không?

Đáp: Nếu bị kiết ái trói buộc, thì có kiết vô minh trói buộc. Xứ sở: Là năm thứ xứ sở của ba cõi.

Hỏi: Có khi nào bị kiết vô minh ràng buộc, mà không bị kiết ái buộc ràng hay chăng?

Đáp: Có. Khổ trí đã sinh, kiết ái được thấy khổ mà dứt trừ. Kiết vô minh đã dứt, kiết vô minh do kiến tập dứt trừ, duyên theo pháp trói buộc do thấy khổ mà dứt trừ. Vì sao? Vì kiết vô minh là Nhất thiết biến, kiết ái thì không như thế. Vì sao? Vì kiết ái của tự chủng đã dứt, kiết ái, chỗ dứt của kiến tập, đối với pháp do thấy khổ mà dứt trừ, không duyên trói buộc, vì chẳng phải Nhất thiết biến, nên chẳng phải tương ưng với trói buộc, vì là nhóm người khác.

Nếu xứ sở bị kiết ái ràng buộc, thì bị kiết kiến buộc ràng hay không? Kiết ái ở ba cõi có năm thứ duyên, hữu lậu chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết nầy ở ba cõi có bốn thứ duyên, hữu lậu, vô lậu là Nhất thiết biến, chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu là ràng buộc đủ năm thứ xứ sở của ba cõi, thì vì bị kiết ái trói buộc, cũng sẽ bị kiến kiến trói buộc. Nếu bị kiết kiến trói buộc, thì cũng bị kiết kiến trói buộc. Nếu bị kiết kiến ràng buộc thì cũng bị kiết ái ràng buộc. Nếu chẳng phải kiết ái ràng buộc đủ thì sẽ tăng trưởng ở trong năm thứ. Kiết kiến chẳng phải tăng trưởng trong duyên vô lậu của Nhất thiết biến. Cho nên được tạo ra bốn trường hợp.

Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì có bị kiết kiến trói buộc chăng? Cho đến tạo rộng bốn trường hợp.

Bị kiết ái trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc, nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh.

Kiến diệt đã dứt, kiến đạo dứt, kiến pháp bất tương ưng.

Kiết ái chưa dứt, kiến diệt, kiến đạo dứt, kiến pháp bất tương ưng.

Hỏi: Thể là thế nào?

Đáp: Tức là pháp tương ưng với tà kiến, kiến thủ, giới thủ, ái, giận dữ, mạn, nghi, vô minh kia.

Cũng thế, bất tương ưng của kiến bị kiết ái ràng buộc, trói buộc tương ưng, trói buộc duyên trong nhóm mình, tạo ra trói buộc duyên ở trong nhóm người khác, chẳng phải tương ưng trói buộc phi kiến. Vì sao? Vì kiến là Nhất thiết biến, có thể duyên năm thứ, nghĩa là đã dứt các thứ khác không dứt, nghĩa là đối với pháp bất tương ưng của kiến khác, không duyên trói buộc, vì duyên vô lậu, lệ thuộc bất tương ưng, vì nhóm khác lạ. Tự thể không tương ưng với tự thể. Pháp, chỗ dứt bỏ của tu đạo, kiết ái chưa dứt, có khi kiết ái của chín địa không dứt, có khi kiết ái cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt, nghĩa là kiết ái, chỗ dứt của tu đạo Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia. Hoặc có chín thứ chưa dứt: Hoặc bị kiết ái cho đến chủng hạ hạ chưa dứt. Tóm lại, pháp do tu đạo dứt, kiết ái chưa dứt. đó gọi là bị kiết ái trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc. Vì sao? Vì kiết kiến là Nhất thiết biến. Năng duyên năm thứ: Đã dứt chỗ dứt của tu đạo, không bị kiết kiến, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh. Chỗ dứt của kiến đạo, pháp bất tương ưng của kiến.

Hỏi: Kiết ái duyên chưa dứt, kiến đạo dứt, pháp bất tương ưng của kiến là thế nào?

Đáp: Tức là pháp tương ưng của tà kiến, kiến thủ, giới thủ, nghi, ái, giận dữ, vô minh.

Pháp bất tương ưng của kiến như thế v.v…, bị kiết ái trói buộc. Tu của mình có duyên trói buộc tương ưng với trói buộc. Tu người khác có duyên trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc. Vì sao? Vì kiết kiến là Nhất thiết biến. Có thể duyên năm thứ, đã dứt pháp khác không dứt: Đối với pháp kia không duyên trói buộc, vì duyên vô lậu, nên thuộc về bất tương ưng, là vì nhóm của người khác. Tự thể không tương ưng với tự thể. Pháp do tu đạo dứt, kiết ái chưa dứt, như trước đã nói. Kiến đế đầy đủ, kiết ái của đệ tử của Đức Thế tôn chưa dứt, nói rộng như trên.

Bị kiết kiến trói buộc, chẳng phải kiết ái: Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, kiến tập đã dứt, kiến diệt chưa dứt. Khổ trí đã sinh, Tập trí chưa sinh, kiến khổ đã dứt, kiết ái dứt, kiết kiến cũng dứt. Kiến tập đã dứt, kiết kiến duyên trói buộc. Chỗ dứt trừ của kiến khổ, bị trói buộc bời kiết kiến, chứ chẳng phải bị kiết ái trói buộc. Vì sao? Vì kiết ái của tự chủng đã dứt. Chủng của người khác, nghĩa là đối với pháp, bị dứt trừ của kiến khổ không duyên trói buộc, vì chẳng phải Nhất thiết biến, nên chẳng tương ưng với trói buộc, là vì nhóm của người khác.

Cả hai đều trói buộc: Pháp bị dứt của kiến đạo ràng buộc đủ, pháp bị dứt của tu đạo, cả hai đều trói buộc.

Hỏi: Vì sao gọi là ràng buộc đủ?

Đáp: Vì năm xứ bị ràng buộc, vì cũng có thể ràng buộc năm xứ, nên nói là ràng buộc đủ.

Có thể trói buộc năm xứ: Năm thứ dứt kiết, bị năm xứ ràng buộc: Là năm thứ pháp dứt. Ràng buộc đủ, pháp, bị dứt trừ của kiến khổ: Một thứ kiết ái trói buộc, hai thứ kiết kiến trói buộc. Do kiến tập dứt cũng giống như thế. Kiến diệt đã dứt pháp tương ưng của kiến, một thứ kiết ái trói buộc, ba thứ kiết kiến trói buộc. Pháp bất tương ưng của kiến, một thứ kiết ái trói buộc, hai thứ kiết kiến trói buộc, do kiến đạo dứt cũng giống như thế. Pháp, bị dứt trừ của tu đạo, một thứ kiết ái trói buộc, hai thứ kiến trói buộc. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến tập, kiến diệt, kiến đạo, tu đạo, cả hai đều trói buộc. Do kiến tập dứt, do tu đạo dứt, một thứ kiết ái trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc, kiến diệt trói buộc, pháp bất tương ưng của kiến, thứ kiết ái trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc pháp bất tương ưng của kiến, một thứ kiết ái trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc, đối tượng đoạn của kiến đạo cũng giống như thế. Pháp, bị dứt trừ của kiến khổ, chỉ bị kiết kiến trói buộc, không bị kiết ái trói buộc. Cho nên không nói.

Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo và pháp tương ưng của kiến, cả hai đều trói buộc, chỗ dứt trừ của kiến diệt, pháp tương ưng của kiến, một thứ kiết ái trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc, chỗ dứt trừ của kiến diệt, pháp bất tương ưng của kiến, chỉ bị kiết ái trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc. Cho nên không nói. Do kiến đạo dứt cũng giống như thế. Pháp, bị dứt trừ của tu đạo, chỉ bị kiết ái trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc: Tập trí đã sinh, pháp, bị dứt trừ của kiến khổ, kiến tập, cả hai đều không trói buộc. Tập trí đã sanh, pháp mà kiến khổ, kiến tập dứt trừ, cả hai đều không ràng buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp, bị dứt trừ của kiến khổ, kiến tập, cả hai đều không trói buộc, kiến đế đầy đủ.

Đệ tử của Đức Thế tôn, pháp, bị dứt trừ của kiến đạo, cả hai đều không trói buộc. Đã lìa ái dục, pháp lệ thuộc cõi Dục, cả hai đều không trói buộc. Đã lìa dục cõi Sắc, cõi Vô sắc và pháp lệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc cả hai đều không trói buộc. Vì sao? Vì nếu kiết dứt, thì xứ sở cũng dứt, trong đây có biện luận nầy. Có khi nào pháp tương ưng của kiến do kiến diệt, kiến đạo dứt trừ bị kiết ái ràng buộc mà mà không bị kiết kiến ràng buộc, chẳng phải không bị sử kiến sai sử hay không?

Đáp: Có, dứt sáu thứ dục, được chánh quyết định, tập trí đã sanh, diệt trí chưa sanh.

Đối tượng dứt của kiến diệt, kiến đạo, pháp tương ưng của kiến, bị kiết ái trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc hay không?

Vì sao? Vì kiết kiến là Nhất thiết biến.

Duyên năm thứ, đã dứt, duyên sáu thứ kiến vô lậu đã dứt, ba thứ còn lại chưa dứt . Vô lậu duyên kiến, đối với sáu thứ pháp đã dứt, không có duyên trói buộc, vì đã duyên vô lậu. không có lệ thuộc tương ưng, vì nhóm khác, nên chưa dứt trừ ba thứ kiết ái. Đối với chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo, sáu thứ pháp đã dứt, tạo ra duyên trói buộc. Vô lậu duyên kiến kia chẳng phải không bị sử kiến sai khiến. Vì sao? Vì ba kiến tạo ra kiết kiến, năm kiến tạo ra sử kiến, vì bị kiến thủ, giới thủ trong sử kiến sai khiến, nên như kiết ái. Kiết kiến, kiết ái, kiết nghi cũng giống như thế. Vì sao? Vì như kiết kiến ở ba cõi, bốn thứ dứt trừ duyên hữu lậu, vô lậu là khắp, không khắp, kiết nghi cũng giống như thế.

Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì có kiết thủ trói buộc hay không?

Kiết ái ở ba cõi, năm thứ dứt trừ duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến, kiết thủ ở ba cõi, bốn thứ dứt duyên hữu lậu là Nhất thiết biến, chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu là ba cõi trói buộc đủ, năm thứ xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì cũng bị kiết thủ trói buộc. Nếu đã bị kiết thủ trói buộc, thì cũng bị kiết ái trói buộc. Nếu chẳng phải kiết ái trói buộc đủ, thì sẽ tăng trưởng ở năm thứ, kiết thủ sẽ tăng trưởng ở Nhất thiết biến. Cho nên được tạo ra bốn trường hợp: Hoặc bị kiết ái trói buộc, không bị kiết thủ trói buộc, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

Bị kiết ái trói buộc, không bị kiết thủ trói buộc: Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh. Pháp mà tu đạo dứt, kiết ái chưa dứt. Hoặc bị kiết ái của chín địa chưa dứt, hoặc bị kiết ái cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt, kiết ái của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia.

Hoặc có chín thứ kiết chưa dứt, hoặc bị kiết ái cho đến chủng hạ hạ chưa dứt. Tóm lại, pháp bị dứt của tu đạo, kiết ái chưa dứt, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh. Pháp, bị dứt trừ của tu đạo, kiết ái chưa dứt, nói rộng như trên.

Đệ tử của Đức Thế tôn kiến đế đầy đủ, pháp do tu đạo dứt, kiết ái chưa dứt trừ. Đó gọi là kiết ái trói buộc, chẳng phải kiết thủ trói buộc.

Kiết thủ có thể duyên năm thứ, đã dứt. Vì sao? Vì kiết thủ là Nhất thiết biến. Có thể duyên năm thứ, đã dứt, kiết thủ chẳng phải do tu đạo dứt trừ. Vì bị kiết thủ trói buộc, không bị kiết ái trói buộc: Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh. Pháp do kiến thủ dứt trừ, kiến tập đã dứt trừ, kiết thủ chưa dứt trừ. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh. Kiết ái, chỗ dứt trừ của kiến khổ nếu dứt trừ thì kiết thủ cũng dứt. Kiết thủ chỗ dứt trừ của kiết tập, duyên trói buộc thấy khổ mà dứt trừ, đó gọi là bị kiết thủ trói buộc, chẳng phải kiết ái trói buộc. Vì sao? Vì kiết ái của chủng mình đã dứt trừ, kiết ái của chủng người khác không tạo ra duyên trói buộc, vì chẳng phải Nhất thiết biến. Không phải là sự trói buộc của tương ưng, vì nhóm của người khác.

Đều trói buộc: Ràng buộc đủ pháp, bị dứt trừ của kiến đạo, tu đạo. Cả hai đều trói buộc pháp, bị dứt trừ của kiến khổ ràng buộc đủ, vì bị một thứ kiết ái trói buộc. Do kiến tập dứt cũng giống như thế. Tu đạo đã dứt trừ một thứ kiết ái trói buộc, ba thứ kiết thủ trói buộc. Chỗ dứt của kiến đạo cũng như tếh, chỗ dứt của tu đạo, một thứ kiết ái ràng buộc, hai thứ kiết ái ràng buộc. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp nơi do kiến tập dứt, kiến diệt, kiến đạo, tu đạo, cả hai đều trói buộc. Pháp dứt trừ của kiến tập, do tu đạo dứt, bị một thứ kiết ái trói buộc, cũng bị một thứ kiết thủ trói buộc. Pháp, bị dứt kiến diệt, kiến đạo, một thứ kiết ái trói buộc, hai thứ kiết thủ trói buộc. Pháp, bị dứt trừ của kiến khổ chỉ bị kiết thủ trói buộc, không bị kiết ái trói buộc, cho nên không nói.

Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp, bị dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo, cả hai đều trói buộc. Pháp do thấy diệt mà đoạn trừ, bị một thứ kiết ái trói buộc, do kiến đạo dứt cũng giống như thế. Pháp, dứt trừ của tu đạo, chỉ bị kiết ái trói buộc, không bị kiết thủ trói buộc, vì vậy nên không nói.

Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến đạo, cả hai đều trói buộc, pháp, dứt trừ của kiến đạo, bị một thứ kiết ái trói buộc, một thứ kiết thủ trói buộc, là do tu đạo dứt, nói rộng như trên.

Cả hai đều không trói buộc: Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp, bị dứt trừ của kiến khổ, kiến tập, cả hai đều không trói buộc.

Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến khổ, cả hai đều không trói buộc.

Đệ tử của Đức Thế tôn kiến đế đầy đủ, pháp, dứt trừ của kiến đạo, cả hai đều không trói buộc. Ái dục đã dứt, pháp lệ thuộc cõi Dục, cả hai đều không trói buộc. Ái cõi Sắc đã dứt, pháp lệ thuộc cõi Sắc, cả hai đều không trói buộc. Ái cõi Vô sắc đã dứt tất cả, cả hai đều không trói buộc. Vì sao? Vì nếu kiết kia dứt trừ thì xứ sở cũng dứt trừ. Nếu xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì có bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không? Kiết ái ở ba cõi, năm thứ dứt duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết ganh tỵ ở cõi Dục, do tu đạo dứt trừ, duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến.

Nếu là ràng buộc đủ thì pháp, bị dứt trừ của tu đạo ở cõi Dục, nếu đã bị kiết ái trói buộc, thì cũng sẽ bị kiết ganh tỵ trói buộc, nếu đã bị kiết ganh tỵ trói buộc, thì cũng bị kiết ái trói buộc. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ thì kiết ái sẽ tăng trưởng ở năm thứ dứt của ba cõi, cho nên thích hợp với luận cứ sau.

Hỏi: Nếu Xứ sở bị kiết ái trói buộc, thì có bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đã bị kiết ganh tỵ trói buộc, thì cũng bị kiết ái trói buộc. Pháp do tu đạo dứt trừ, bị một thứ kiết ái trói buộc, một thứ kiết ganh tỵ trói buộc.

Hỏi: Có khi nào bị kiết ái trói buộc, mà không bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Pháp, bị dứt trừ của kiến đạo, kiết ái chưa dứt trừ. Hoặc bị kiết ái của bốn thứ pháp chưa dứt, hoặc bị kiết ái cho đến do kiến đạo dứt chưa dứt, kiết ái của pháp lệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt trừ, đó gọi là kiết ái trói buộc, không bị kiết ganh tỵ trói buộc. Vì sao? Vì cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết ganh tỵ, về nghĩa không bị kiết ganh tỵ, như đã nói ở trên. Như kiết ái, kiết ganh tỵ, nói cũng giống như thế. Vì sao? Vì hai kiết nầy đều ở năm thứ dứt của ba cõi duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ trói buộc, thì có bị kiết mạn trói buộc hay không?

Đáp: Kiết giận dữ ở cõi Dục, năm thứ cõi Dục đã dứt duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết mạn ở ba cõi, năm thứ dứt duyên hữu lậu chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu là ràng buộc đủ, năm thứ xứ sở lệ thuộc cõi Dục, bị kiết giận dữ trói buộc, cũng bị kiết mạn trói buộc. Nếu đã bị kiết mạn trói buộc thì cũng bị kiết giận dữ trói buộc. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ, thì kiết mạn sẽ tăng trưởng ở ba cõi. Cho nên, được thuận với luận cứ ở trước.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ trói buộc, thì có bị kiết mạn trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đã bị kiết giận dữ trói buộc, thì cũng bị kiết mạn trói buộc. Xứ sở, là chỗ dứt trừ của năm thứ cõi Dục.

Hỏi: Có khi nào bị kiết mạn trói buộc, mà không bị kiết giận dữ trói buộc hay không?

Đáp: Có. Kiết mạn cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt trừ, hoặc có kiết mạn của tám địa chưa dứt trừ, hoặc có kiết mạn cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt trừ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia hoặc có năm thứ dứt trừ sự trói buộc của kiết mạn, hoặc có khi bị kiết mạn trói buộc, do tu đạo dứt, hoặc có chín thứ chưa dứt, hoặc có cho đến chủng hạ hạ chưa dứt, tóm lại, kiết mạn cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt trừ, đó gọi là bị kiết mạn trói buộc, không bị kiết giận dữ trói buộc. Vì sao? Vì ở cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận dữ, về nghĩa không bị kiết giận dữ cõi Sắc, cõi Vô sắc, như đã nói trên.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ ràng buộc, thì có bị kiết vô minh trói buộc hay không?

Đáp: Kiết giận dữ ở cõi Dục, chỗ dứt trừ của năm thứ duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến, kiết vô minh trong ba cõi bị năm thứ dứt trừ, duyên hữu lậu vô lậu, là Nhất thiết biến. Nếu là ràng buộc đủ, thì năm thứ xứ sở của cõi Dục sẽ bị kiết giận dữ trói buộc, cũng bị kiết vô minh trói buộc. Nếu bị kiết vô minh trói buộc, thì cũng bị kiết giận dữ trói buộc. Nêú chẳng phải ràng buộc đủ, thì kiết vô minh sẽ tăng trưởng trong ba cõi, tăng trưởng Nhất thiết biến, cho nên được thuận với luận cứ trước.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ trói buộc, thì có bị kiết vô minh trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đã bị kiết giận dữ trói buộc, thì cũng bị kiết vô minh trói buộc. Xứ sở là năm thứ xứ sở thuộc cõi Dục.

Hỏi: Có khi nào bị kiết vô minh trói buộc, mà không bị kiết giận dữ trói buộc hay không?

Đáp: Có. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp, bị dứt trừ của kiến khổ, kiến tập đã dứt, kiết vô minh chưa dứt. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp do thấy khổ mà dứt trừ, kiết vô minh, do kiến tập dứt trừ duyên trói buộc, đó gọi là bị kiết vô minh trói buộc, không bị trói buộc do kiết giận dữ. Vì sao? Vì kiết giận dữ của chủng mình đã dứt. Chủng người khác, nghĩa là do kiến khổ mà dứt trừ, chẳng phải duyên trói buộc, vì chẳng phải Nhất thiết biến, chẳng lệ thuộc tương ưng, là vì nhóm khác. Pháp lệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, kiết vô minh chưa dứt, hoặc có kiết vô minh của tám địa chưa dứt, hoặc có kiết vô minh cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia, hoặc có năm thứ chưa dứt, hoặc có do tu đạo dứt chưa dứt, tu đạo của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ đã dứt. hoặc có chín thứ chưa dứt, hoặc cho đến chủng hạ hạ chưa dứt. Tóm lại, kiết vô minh thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt, đó gọi là kiết vô minh đã trói buộc, không bị kiết giận dữ trói buộc. Vì sao? Vì ở cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận, như đã nói trên.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ trói buộc, thì có bị kiết kiến trói buộc hay không?

Đáp: Kiết giận dữ ở năm thứ dứt cõi Dục duyên hữu lậu chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết kiến ở năm thứ dứt của ba cõi duyên hữu lậu, vô lậu, Nhất thiết biến chẳng phải Nhất thiết biến.

Nếu là ràng buộc đủ, thì năm thứ dứt cõi Dục, xứ sở bị kiết giận dữ đã trói buộc, cũng bị kiết kiến trói buộc. Nếu bị kiết kiến trói buộc thì cũng bị kiết giận trói buộc. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ thì kiết giận dữ sẽ lớn mạnh ở năm thứ dứt, kiết kiến sẽ tăng trưởng ở Nhất thiết biến của ba cõi. Cho nên được tạo ra bốn trường hợp. Nếu bị kiết giận dữ trói buộc, thì sẽ không bị kiết kiến trói buộc hay không? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Bị kiết giận dữ trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc chưa lìa ái dục, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp bất tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo, thuộc cõi Dục, kiết giận dữ chưa dứt, pháp bất tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo thuộc cõi Dục.

Hỏi: Như thế là sao?

Đáp: Tức là pháp tương ưng của tà kiến, kiến thủ, giới thủ, ái, giận dữ, mạn, nghi, vô minh. Kiết giận dữ của pháp nầy chưa dứt. Duyên trói buộc trong nhóm mình, tương ưng với sự trói buộc. Tụ người khác tạo ra duyên trói buộc, chẳng phải kiết kiến trói buộc. Vì sao? Vì kiết kiến là Nhất thiết biến. Có thể duyên với năm thứ, đã dứt. các thứ còn lại không dứt, nghĩa là đối với pháp bất tương ưng của kiến, chẳng phải duyên trói buộc, vì duyên vô lậu, nên chẳng phải tương ưng với sự trói buộc, là vì nhóm của người khác, vì tự thể không tương ưng với tự thể. Pháp, bị dứt trừ của tu đạo cõi Dục, kiết kiến chưa dứt, nói rộng như trên.

Đệ tử Đức Thế tôn kiến đế đầy đủ, kiết giận dữ bị tu đạo cõi Dục dứt trừ chưa dứt, nói rộng như trên. Đó gọi là bị kiết giận dữ trói buộc, mà không bị kiết kiến trói buộc.

Bị kiết kiến trói buộc, mà không bị kiết giận dữ trói buộc: Chưa lìa ái dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp, bị dứt trừ của kiến khổ cõi Dục, pháp bị dứt của kiến tập, kiết kiến chưa dứt, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, kiết giận dữ, chỗ dứt trừ của kiến khổ, bị kiết kiến trói buộc, không bị kiết giận dữ trói buộc. Vì sao? Vì kiết giận dữ của chủng mình đã dứt. Chủng người khác, nghĩa là pháp do thấy khổ mà dứt trừ chẳng phải duyên trói buộc, vì chẳng phải Nhất thiết biến, nên chẳng phải tương ưng với sự trói buộc, là vì nhóm người khác. Nên kiết kiến cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt. hoặc bị kiết kiến của tám địa chưa dứt, hoặc bị kiết kiến cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia, hoặc có bốn thứ dứt, kiết kiến chưa dứt. Nói tóm lại, kiết kiến, pháp thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt trừ. Đó gọi là kiết kiến trói buộc, không bị kiết giận dữ trói buộc. Vì sao? Vì cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận dữ, nói rộng như trên.

Hỏi: Thế nào là cả hai đều trói buộc?

Đáp: Pháp, bị dứt trừ của kiến đạo, tu đạo cõi Dục ràng buộc đủ, một thứ kiết giận dữ trói buộc, hai thứ kiết kiến trói buộc, pháp bị dứt của kiến tập cũng giống như thế. Pháp tương ưng của kiến, chỗ kiến diệt dứt trừ, bị một thứ kiết giận dữ trói buộc, ba thứ kiết kiến trói buộc, pháp bất tương ưng của kiến, một thứ kiết giận dữ trói buộc, hai thứ kiết kiến trói buộc, pháp bị dứt của kiến đạo cũng giống như thế. Pháp bị dứt của tu đạo lệ thuộc cõi Dục, một thứ kiết giận dữ trói buộc, hai thứ kiết kiến trói buộc. Ái dục chưa dứt, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến tập, diệt, đạo, tu đạo, lệ thuộc cõi Dục, cả hai đều trói buộc. Pháp, bị dứt trừ của kiến tập, một thứ kiết giận dữ trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc. Hai thứ kiết kiến trói buộc, pháp bất tương ưng của kiến, một thứ kiết kiến trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc, pháp, bị dứt trừ của kiến đạo cũng giống như thế. Pháp, bị dứt trừ của tu đạo, một thứ kiết giận dữ trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc, pháp bị dứt của kiến khổ, dù bị kiết kiến trói buộc, nhưng không bị kiết giận dữ trói buộc, cho nên không nói.

Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, chỗ dứt trừ của kiến diệt thuộc cõi Dục, pháp tương ưng của kiến cả hai pháp đều trói buộc, pháp tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt cõi Dục, một thứ kiết giận dữ trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc, pháp bất tương ưng của kiến, mặc dù bị kiết giận dữ trói buộc, nhưng không bị kiết kiến trói buộc. Cho nên không nói. Pháp, bị dứt trừ của kiến đạo cũng giống như thế, pháp bị dứt của tu đạo cõi Dục dù bị kiết giận dữ trói buộc, nhưng không bị kiết kiến trói buộc, cho nên không nói.

Chưa lìa ái dục, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp tương ưng của kiến, do kiến đạo dứt, cả hai đều trói buộc, một thứ kiết giận dữ trói buộc, pháp bất tương ưng của kiến, do kiến đạo dứt thuộc cõi Dục và do tu đạo dứt, mặc dù bị kiết giận dữ trói buộc nhưng không bị kiết kiến trói buộc, cho nên không nói. Đó gọi là cả hai đều trói buộc.

Không trói buộc: Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến khổ, kiến tập, cả hai pháp đều không trói buộc. Pháp bất tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo cõi Sắc, cõi Vô sắc, cả hai đều không trói buộc, pháp, bị dứt trừ của tu đạo cõi Sắc, cả hai đều không trói buộc.

Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến khổ, tập, diệt cõi Dục, cả hai đều không trói buộc. Pháp bất tương ưng của kiến, lệ thuộc (trói buộc) cõi Sắc, cõi Vô sắc và pháp bị dứt của tu đạo, cả hai đều không trói buộc.

Đệ tử của Đức Thế tôn kiến đế đầy đủ pháp, bị dứt trừ của kiến đạo, cả hai đều không trói buộc. Pháp bị dứt của tu đạo, lệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, cả hai đều không trói buộc.

Đã lìa ái dục, pháp thuộc cõi Dục, cả hai đều không trói buộc. Đã lìa ái cõi Sắc, pháp thuộc cõi Sắc, cả hai đều không trói buộc. Đã lìa ái cõi Sắc, tất cả không trói buộc. Vì sao? Vì kiết kia đã dứt, xứ sở cũng thế. như kiết kiến của kiết giận dữ, kiết nghi của kiết giận dữ, nói cũng giống như thế. Vì sao? Vì hai kiết nầy đều ở ba cõi. Bốn thứ dứt duyên hữu lậu, vô lậu, là Nhất thiết biến chẳng phải Nhất thiết biến.

Hỏi: Trong cõi Dục có nghĩa của kiết giận dữ trói buộc, không trói buộc thì có thể như thế, trong cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận dữ, sao lại nói kiết giận dữ không trói buộc hay không?

Đáp: Không trói buộc có hai thứ:

  1. Từ trói buộc được không trói buộc.
  2. Tánh không trói buộc.

Cõi Dục không trói buộc, là từ trói buộc được không trói buộc, vì có kiết giận dữ. Cũng như trong Tỳ-ni nói: Có hai người gọi là tịnh thoát khởi:

  1. Không hề phạm giới.
  2. Dù có phạm giới, nhưng đúng như pháp trừ bỏ.

Người không hề phạm giới, gọi là vốn tịnh thoát khởi, dù có phạm giới, nhưng như pháp trừ bỏ, gọi là vốn chẳng phải tịnh thoát khởi, được tịnh thoát khởi. Trói buộc, không trói buộc kia cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ trói buộc, thì có bị kiết thủ trói buộc hay không?

Đáp: Kiết giận dữ ở cõi Dục, năm thứ dứt duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết thủ ở ba cõi, bốn thứ dứt, duyên hữu lậu, là Nhất thiết biến, chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu là ràng buộc đủ thì năm thứ xứ sở thuộc cõi Dục. Nếu bị kiết giận dữ trói buộc thì cũng bị kiết thủ trói buộc. Nếu bị kiết thủ trói buộc thì cũng bị kiết giận dữ trói buộc. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ thì kiết giận dữ sẽ ở năm thứ dứt, kiết thủ sẽ tăng trưởng ở ba cõi là Nhất thiết biến. Cho nên được tạo ra bốn trường hợp.

Nếu xứ sở bị kiết giận dữ, thì có bị kiết thủ trói buộc hay không? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Bị kiết giận dữ trói buộc, không bị kiết thủ trói buộc: Chưa lìa ái dục, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp bị dứt của tu đạo thuộc cõi Dục, kiết giận dữ chưa dứt.

Hoặc có chín thứ chưa dứt, hoặc có thứ cho đến chủng hạ hạ chưa dứt: Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh. pháp bị dứt của tu đạo thuộc cõi Dục, kiết giận dữ chưa dứt.

Đệ tử của Đức Thế tôn kiến đế đầy đủ, ái dục chưa dứt, pháp, đối tượng của Tu đạo thuộc cõi Dục, kiết giận dữ chưa dứt, đó gọi là kiết giận dữ trói buộc không bị trói buộc do kiết thủ. Vì sao? Vì kiết thủ là Nhất thiết biến. Năng duyên năm thứ, đã dứt. Trong pháp bị dứt của tu đạo không bị kiết thủ.

Bị kiết thủ trói buộc, không bị kiết giận dữ trói buộc: Ái dục chưa dứt, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến khổ thuộc cõi Dục, do kiến tập dứt, kiết thủ chưa dứt, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh: chỗ dứt trừ của kiến khổ cõi Dục, kiết thủ, kiết giận dữ dứt. Do kiến tập dứt, kiết thủ duyên trói buộc, pháp bị dứt của kiến khổ, bị kiết thủ trói buộc, không bị kiết giận dữ trói buộc. Vì sao? Vì kiết giận dữ của chủng mình đã dứt. Chủng của người khác, nghĩa là đối với thấy khổ mà dứt trừ, chẳng phải duyên trói buộc, vì chẳng phải Nhất thiết biến, nên chẳng phải tương ưng với sự trói buộc, là vì nhóm của người khác. Pháp thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, kiết thủ chưa dứt. hoặc có kiết thủ của tám đọa chưa dứt, hoặc có kiết thủ cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia hoặc có bốn thứ chưa dứt, hoặc có khi cho đến một thứ chưa dứt. Tóm lại, pháp thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, kiết thủ chưa dứt. Đó gọi là kiết thủ trói buộc, không bị kiết giận dữ trói buộc, vì ở cõi Sắc, cõi Vô sắc không bị kiết giận dữ, nói rộng như trên.

Đều trói buộc: Ràng buộc đủ, pháp bị dứt của kiến đạo, tu đạo thuộc cõi Dục, cả hai đều trói buộc. Ràng buộc đủ, pháp bị dứt của kiến khổ cõi Dục, một thứ kiết giận dữ trói buộc, hai thứ kiết thủ trói buộc, do kiến tập dứt, do tu đạo dứt, nói cũng giống như thế. Pháp bị dứt của kiến diệt thuộc cõi Dục, một thứ kiết giận dữ trói buộc, hai thứ kiết thủ trói buộc. Pháp bị dứt của kiến đạo, nói cũng giống như thế.

Ái dục chưa dứt, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến tập, diệt, đạo, tu đạo cõi Dục, cả hai đều trói buộc, do kiến tập dứt. Đối tượng đoan của tu đạo, một thứ kiết giận dữ trói buộc một thứ kiết thủ trói buộc. Pháp bị dứt của kiến diệt cõi Dục, một thứ kiết giận dữ trói buộc, một thứ kiết thủ trói buộc. Pháp bị dứt của kiến diệt cõi Dục, nói cũng giống như thế. Pháp, bị dứt trừ của kiến khổ cõi Dục, dù bị kiết thủ trói buộc, nhưng không bị kiết giận dữ trói buộc, cho nên không nói.

Ái dục chưa hết, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến diệt thuộc cõi Dục, một thứ kiết giận dữ trói buộc, một thứ kiết thủ trói buộc. Pháp bị dứt của kiến đạo, nói cũng giống như thế. pháp bị dứt của tu đạo mặc dù bị kiết giận dữ trói buộc, nhưng không bị kiết thủ trói buộc, cho nên không nói.

Ái dục chưa dứt, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp bị dứt của kiến đạo cõi Dục, cả hai đều trói buộc, một thứ kiết giận dữ trói buộc, một thứ kiết thủ trói buộc. Pháp, bị dứt trừ của tu đạo, như đã nói ở trên.

Đó gọi là cả hai đều trói buộc.

Đều không trói buộc: Nói rộng như kinh nầy, cho đến lìa dục cõi Vô sắc, cả hai đều không trói buộc. Vì sao? Vì nếu kiết kia dứt, thì xử sở cũng dứt.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ trói buộc, thì có bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Kiết giận dữ ở cõi Dục, như trên đã nói. Kiết ganh tỵ ở cõi Dục, do tu đạo dứt. Duyên hữu lậu, chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu là ràng buộc đủ, thì là xứ sở, do tu đạo dứt cõi Dục. Nếu bị kiết giận dữ trói buộc, thì cũng bị kiết ganh tỵ trói buộc. Nếu bị kiết ganh tỵ trói buộc, thì cũng bị kiết giận dữ trói buộc. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ thì kiết giận dữ sẽ tăng trưởng ở năm thứ dứt. Cho nên được tạo ra sự cân xứng với luận cứ sau.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết giận dữ trói buộc, thì có bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu có kiết ganh tỵ trói buộc, thì cũng có kiết giận dữ trói buộc. Xứ sở, là nơi chốn bị dứt của tu đạo cõi Dục.

Hỏi: Có khi nào bị kiết giận dữ trói buộc, mà không bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Có. Kiết giận dữ, do kiến đạo dứt thuộc cõi Dục chưa dứt.

Hoặc có bốn thứ dứt, kiết giận dữ chưa dứt. Hoặc có khi cho đến kiết giận dữ chỗ dứt của kiến đạo chưa dứt.

Tóm lại, pháp bị dứt của kiến đạo thuộc cõi Dục, kiết giận dữ chưa dứt, đó gọi là bị kiết giận dữ trói buộc, không bị kiết ganh tỵ trói buộc. Vì sao? Vì do kiến đạo dứt không bị kiết ganh tỵ. Như kiết giận dữ, kiết ganh tỵ, kiết giận dữ keo kiệt, nói cũng giống như thế. Vì sao? Vì hai kiết nầy đều là trói buộc cõi Dục. Do tu đạo dứt duyên theo hữu lậu, vì chẳng phải Nhất thiết biến.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết vô minh trói buộc, thì có bị kiết kiến trói buộc hay không?

Đáp: Kiết vô minh ở ba cõi, năm thứ dứt duyên hữu lậu, vô lậu, là Nhất thiết biến, chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết kiến ở ba cõi bốn thứ dứt duyên hữu lậu, vô lậu là Nhất thiết biến, chẳng phải Nhất thiết biến. Nếu là ràng buộc đủ thì là xứ sở của năm thứ dứt của ba cõi. Nếu đã bị kiết vô minh trói buộc, thì cũng bị kiết vô minh trói buộc. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ thì kiết vô minh sẽ tăng trưởng ở năm thứ dứt. Cho nên được tạo ra sự đối xứng với luận cứ sau.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết vô minh trói buộc, thì có bị kiết kiến trói buộc hay không?

Đáp: Nếu bị kiết kiến trói buộc, cũng bị kiết vô minh trói buộc. Xứ sở, là xứ sở của năm thứ dứt nơi ba cõi.

Hỏi: Có khi nào, bị kiết vô minh trói buộc, mà không bị kiết kiến trói buộc hay không?

Đáp: Có, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp bất tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo, kiết vô minh chưa dứt, pháp bất tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo.

Hỏi: Như thế là sao?

Đáp: Tức là pháp tương ưng của tà kiến, kiến thủ, giới thủ, ái, giận dữ, mạn, nghi, vô minh bất cộng. Pháp nầy bị kiết vô minh trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc, trong nhóm của người khác, tạo ra duyên trói buộc chẳng phải tương ưng với trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc trong nhóm mình, duyên với sự trói buộc tương ưng của tập, trong nhóm của người khác thì làm duyên trói buộc, chẳng phải trói buộc tương ưng. Không bị kiết kiến trói buộc. Vì sao? Vì kiết kiến là Nhất thiết biến, có thể duyên năm thứ, nghĩa là đã dứt trừ, kiết còn lai không dứt, nghĩa là đối với bất tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo, không duyên trói buộc, vì duyên vô lậu, nên không tương ưng với sự trói buộc. Vì nhóm của người khác, nên pháp bị dứt của tu đạo, kiết vô minh chưa dứt. Hoặc có kiết vô minh của chín địa chưa dứt, hoặc có kiết vô minh cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt, tức Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia. Hoặc có chín thứ kiết vô minh chưa dứt, hoặc có kiết vô minh cho đến chủng hạ hạ chưa dứt. Tóm lại, kiết vô minh, do tu đạo dứt chưa dứt, đó gọi là kiết vô minh trói buộc, chẳng phải bị kiết kiến trói buộc. Vì sao? Vì kiết kiến là Nhất thiết biến, có thể duyên năm thứ, nghĩa là đã dứt. do tu đạo dứt không bị kiết kiến. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến đạo dứt, là pháp bất tương ưng của kiến. kiết vô minh chưa dứt và pháp, bị dứt trừ của tu đạo, kiết vô minh chưa dứt, nói rộng như trên.

Đệ tử của Đức Thế tôn đã kiến đế đầy đủ. Pháp, bị dứt trừ của tu đạo, kiết vô minh chưa dứt, nói rộng như trên. Như kiết vô minh, kiết kiến, kiết vô minh, kiết nghi, nói cũng giống như thế. Vì sao? Vì hai kiết nầy đều có ở ba cõi, bốn thứ dứt. duyên hữu lậu, vô lậu là Nhất thiết biến, chẳng phải Nhất thiết biến.

Hỏi: Nếu ở xứ sở bị kiết vô minh trói buộc, thì có bị kiết thủ trói buộc hay không?

Đáp: Kiết vô minh ở ba cõi, như trên đã nói. Kiết thủ ở ba cõi, cũng như trên đã nói. Nếu là ràng buộc đủ, thì ba cõi là xứ sở của năm thứ dứt, như đã nói ở trên. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ, thì kiết vô minh sẽ tăng trưởng ở năm thứ dứt. cho nên, được tạo ra sự cân xứng với luận cứ sau.

Hỏi: Nếu ở xứ sở bị kiết vô minh trói buộc, thì có bị kiết thủ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đã bị kiết thủ trói buộc, đương nhiên cũng sẽ bị kiết vô minh trói buộc.

Hỏi: Có trường hợp bị kiết vô minh trói buộc, mà không bị kiết thủ trói buộc hay không?

Đáp: Có. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp bị dứt của tu đạo, kiết vô minh chưa dứt, nói rộng như trên. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp bị dứt của tu đạo, kiết vô minh chưa dứt, như đã nói ở trên.

Đệ tử Đức Thế tôn đã kiến đế đầy đủ pháp bị dứt của tu đạo, kiết vô minh chưa dứt, nói rộng như trên.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết vô minh trói buộc, thì có bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Kiết vô minh ở ba cõi, như đã nói ở trên, kiết ganh tỵ ở cõi Dục, như trên đã nói.

Nếu là ràng buộc đủ thì sự trói buộc cõi Dục là xứ sở của tu đạo dứt. nếu đã bị kiết vô minh trói buộc thì cũng bị kiết ganh tỵ trói buộc. Nếu đã bị kiết ganh tỵ trói buộc, thì cũng bị kiết vô minh trói buộc. nếu chẳng phải biết vô minh trói buộc đủ thì tăng trưởng ở năm thứ dứt của ba cõi. Cho nên, được tạo ra sự cân đối với luận cứ sau.

Hỏi: Nếu ở xứ sở bị kiết vô minh trói buộc, thì có bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đã bị kiết ganh tỵ trói buộc, thì cũng bị kiết vô minh trói buộc. Xứ sở là nơi chốn mà tu đạo, thuộc cõi Dục dứt trừ.

Hỏi: Có khi nào bị kiết vô minh trói buộc, mà không bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Đáp: Có. Pháp bị dứt của kiến đạo thuộc cõi Dục, kiết vô minh chưa dứt. Hoặc có bốn thứ kiết vô minh chưa dứt, hoặc có một thứ kiết vô minh cho đến kiến đạo chưa dứt, pháp trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, kiết vô minh chưa dứt, hoặc có kiết vô minh của chín địa chưa dứt, hoặc có kiết vô minh cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt, tức Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Hoặc có năm thứ kiết vô minh chưa dứt. hoặc có kiết vô minh cho đến do tu đạo dứt kia. Hoặc có chín thứ kiết chưa dứt, hoặc có kiết cho đến chủng hạ hạ chưa dứt. Tóm lại, kiết vô minh cõi Sắc, cõi Vô sắc chưa dứt. như kiết vô minh, kiết ganh tỵ, kiết vô minh, kiết keo kiệt, nói cũng như trên. Vì sao? Vì hai kiết nầy đều ở cõi Dục, đã nói như trên.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết kiến trói buộc, thì có bị kiết thủ trói buộc hay không?

Đáp: Kiết kiến ở ba cõi, như đã nói ở trên, kiết thủ ở ba cõi, cũng như trên đã nói.

Nếu là ràng buộc đủ, như trên đã nói. Nếu chẳng phải ràng buộc đủ, thì kiết thủ sẽ tăng trưởng ở hữu lậu, cho nên được tạo ra thuận với luận cứ trước kia.

Nếu đã bị kiết kiến trói buộc, thì cũng bị kiết kiến trói buộc. Xứ sở: là nơi chốn của năm thứ dứt ở ba cõi.

Hỏi: Có khi nào bị kiết thủ trói buộc, mà không bị kiết kiến trói buộc hay không?

Đáp: Có. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp bất tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo, kiến thủ chưa dứt. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp bất tương ưng của kiến, do kiến đạo dứt, kiến thủ chưa dứt, nói rộng như trên.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết kiến trói buộc, thì có bị kiết nghi trói buộc hay không?

Đáp: Kiết kiến ở ba cõi, như trên đã nói, kiết nghi ở ba cõi, cũng nói như trên.

Nếu là ràng buộc đủ thì ba cõi là nơi chốn của năm thứ dứt. Nếu đã bị kiết kiến trói buộc, thì cũng bị kiết nghi trói buộc. Nếu đã bị kiết nghi trói buộc, thì cũng bị kiết kiến trói buộc.

Nếu chẳng phải ràng buộc đủ thì mỗi thứ kiết kiến đều tăng trưởng trong nhóm mình. Cho nên được tạo ra bốn trường hợp cội gốc của mình.

Nếu xứ sở bị kiết kiến trói buộc, thì có bị kiết nghi trói buộc hay chăng? Cho đến nói rộng bốn trường hợp.

Bị kiết kiến trói buộc, không bị kiết nghi trói buộc: Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp tương ưng của kiến, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo. Kiết kiến chưa dứt, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, pháp tương ưng của kiến, do kiến đạo dứt, kiết kiến chưa dứt, đó gọi là bị kiết kiến trói buộc, chứ chẳng phải kiết nghi trói buộc. Vì sao? Vì kiết nghi là Nhất thiết biến, có thể duyên năm thứ nghĩa đã dứt, các pháp khác không dứt, nghĩa là đối với pháp tương ưng của kiến, chẳng phải duyên trói buộc, vì duyên vô lậu, chẳng phải tương với sự trói buộc, vì nhóm người khác.

Bị kiết nghi trói buộc, mà không bị kiết kiến trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, pháp tương ưng của nghi, đối tượng của kiến diệt chưa sinh. Pháp tương ưng của nghi, chỗ dứt trừ của kiến diệt, kiến đạo, kiết nghi chưa dứt, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh. Pháp tương của nghi, do kiến đạo dứt, kiết nghi chưa dứt, đó gọi là bị kiến nghi trói buộc, không bị kiết kiến trói buộc. Vì sao? Vì kiết kiến là Nhất thiết biến, có thể duyên năm thứ, đã dứt, kiết còn lại không dứt, nghĩa là đối pháp tương ưng với sự trói buộc, vì nhóm của người khác.

Đều có trói buộc: Ràng buộc đủ, pháp bị dứt của kiến đạo, tu đạo, cả hai đều trói buộc. Pháp, bị dứt trừ của kiến đạo, trói buộc ở cõi Dục, kiết kiến chưa dứt,

Hoặc có bốn thứ chưa dứt, hoặc bị kiết kiến cho đến kiến đạo chưa dứt. Pháp trói buộc cõi sắc, kiết kiến chưa đoạc. Hoặc có kiến kiến của tám địa chưa dứt. Hoặc bị kiết kiến cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa dứt, tức Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia.

Hoặc có bốn thứ chưa dứt. Hoặc bị kiết kiến cho đến kiến đạo chưa dứt, đó gọi là bị kiết kiến trói buộc mà không bị kiết ganh tỵ trói buộc.

Bị kiết ganh tỵ trói buộc, chẳng phải kiết kiến trói buộc: Ái dục chưa dứt, tập trí đã sinh, pháp bị dứt của tu đạo, trói buộc cõi Dục kiết ganh tỵ chưa dứt cho đến đệ tử của Đức Thế tôn, đã kiến đế đầy đủ ái dục chưa dứt, pháp, đối tượng của tu đạo thuộc cõi Dục, kiết ganh tỵ chưa dứt, đó gọi là kiết ganh tỵ trói buộc, mà không bị kiết kiến trói buộc.

Đều có sự trói buộc: Con người ràng buộc đủ, pháp, bị dứt trừ của tu đạo thuộc cõi Dục, cả hai đều có trói buộc. con người ràng buộc đủ, pháp, bị dứt trừ của tu đạo, trói buộc ở cõi Dục: một thứ kiết ganh tỵ trói buộc hai thứ kiết kiến trói buộc chưa lìa dục. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, pháp, bị dứt trừ của tu đạo thuộc cõi Dục, cả hai đều trói buộc, một thứ kiết kiến trói buộc, một thứ kiết ganh tỵ trói buộc.

Đều không trói buộc: Nói rộng như kinh nầy, cho đến lìa ái cõi Vô sắc, cả hai đều không trói buộc cho đến lìa ái cõi Vô sắc, cả hai đều không trói buộc. Như kiết kiến, kiết ganh tỵ, kiết kiến, kiết keo kiệt cũng giống như thế. Như môn của kiết kiến, môn của kiết nghi cũng giống như thế.

Nếu xứ sở bị kiết thủ trói buộc, thì có bị kiết nghi trói buộc hay không? Nói rộng, nên như kiết kiến, kiết thủ kiết thủ, kiết nghi cũng giống như thế.

Nếu xứ sở bị kiết thủ trói buộc, thì có bị kiết ganh tỵ trói buộc hay không?

Nói rộng như kinh nầy. Như kiết thủ, kiết ganh tỵ, kiết thủ, kiết keo kiệt, nói cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu xứ sở đã bị kiết ganh tỵ trói buộc, thì bị kiết keo kiệt trói buộc phải không?

Đáp: Đúng thế. Vì sao? Vì hai kiến nầy đều ở cõi Dục, chỗ dứt của tu đạo, đều duyên hữu lậu, đều chẳng phải Nhất thiết biến.

Hỏi: Như sự ganh tỵ nhân người khác sinh, tính keo kiệt nhân chính mình khởi, sao lại đáp: đúng thế?

Đáp: Tánh ganh tỵ duyên theo người khác, cũng nhân người khác sinh, duyên theo mình, không nhân mình sinh. tánh keo kiệt duyên theo mình, cũng do nơi mình sanh duyên nơi người khác khác, không nhân người khác sinh.

Lại có thuyết nói: Hai pháp nầy duyên theo người khác, cũng nhân nơi người khác sinh, duyên mình, cũng do nơi mình sinh.

Hỏi: Như sự ganh tỵ duyên theo người khác, cũng do người khác sinh, có thể như thế. Nhân mình, cũng duyên nơi mình sinh, sao lại có thể như thế?

Đáp: Giống như có người vì hai vị Tỳ-kheo, tạo ra vật dụng giúp cho sự sống, một vị thì trở thành tốt đẹp, một vị không trở thành tốt đẹp, người không trở thành tốt đẹp, bèn nghĩ: Như điều ta đã làm, hoặc không tốt đẹp, nếu để cho người kia làm thì cũng không thành tốt đẹp.

Hỏi: Như sự keo kiệt là duyên ở mình, cũng nhân mình sinh, có thể như thế, duyên theo người khác, cũng nhân người khác sinh, làm sao có thể như thế?

Đáp: Sự keo kiệt cũng nhân người khác sinh, giống như có người thấy người khác bố thí, bèn sinh tâm keo kiệt: người nầy làm sao cho người khác vật dụng như thế?, cho nên cả hai người nầy cũng duyên theo mình, nơi người khác, sinh nhân của mình, của người khác.

Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết ái vị lai trói buộc hay không? Cho đến nói rộng. Có phiền não của tướng chung, có phiền não của tướng riêng. Phiền não của tướng riêng đó là ái, giận dữ, mạn, ganh tỵ, keo kiệt. Phiền não của tướng chung, đó là kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi. Phiền não của tướng chung. Nghĩa là kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi. Phiền não của tướng riêng, trói buộc năm thứ xứ sở của ba cõi ở đời vị lai, nghĩa là có thể trói buộc ba đời: Quá khứ không nhất định. Nếu sự sinh trước kia không dứt, thì bị trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh, đã dứt, thì không trói buộc, hiện tại cũng không nhất định. Nếu hiện ở trước thì trói buộc, nếu không hiện ở trước thì không trói buộc. Kiết ái trói buộc năm thứ xứ sở của ba cõi, xứ sở của ba đời.

Quá khứ không nhất định: Nếu sự sinh trước kia không dứt, thì trói buộc, nếu trước bất sinh, mà sinh, là đã dứt thì không trói buộc. Hiện tại cũng không nhất định. Nếu hiện ở trước thì trói buộc, nếu không hiện ở trước thì không trói buộc. Như kiết ái, kiết mạn nói cũng giống như thế.

Kiết giận dữ trói buộc xứ sở của ba đời, năm thứ dứt cõi Dục. Kiết giận dữ ở vị lai, trói buộc xứ sở của ba đời, năm thứ dứt cõi Dục.

Quá khứ không nhất định: Nếu đời trước không dứt thì trói buộc, nếu trước bất sinh mà sinh là đã dứt thì không trói buộc. Hiện tại không nhất định. Nếu hiện ở trước thì trói buộc, không hiện ở trước thì không trói buộc. Kiết ganh tỵ trói buộc xứ sở của ba đời, pháp, bị dứt trừ của tu đạo cõi Dục. Kiết ganh tỵ vị lai thuộc cõi Dục, trói buộc xứ sở của ba đời, pháp bị dứt của tu đạo cõi Dục. Kiết ganh tỵ ở vị lai thuộc cõi Dục, trói buộc xứ sở, do tu đạo dứt ba đời.

Quá khứ bất định, nếu đời trước không dứt bỏ thì trói buộc, nếu trước bất sinh mà sinh nghĩa là đã dứt thì không trói buộc. Hiện tại cũng bất định, nếu hiện ở trước thì trói buộc, nếu không hiện ở trước thì không trói buộc. Như kiết ganh tỵ, kiết keo kiệt, nói cũng giống như thế.

Phiền não của tướng chung trói buộc xứ sở của năm thứ dứt của ba cõi. Phiền não của tướng chung quá khứ trói buộc xứ sở ba đời của năm thứ dứt của ba cõi, vị lai, hiện tại, nói cũng giống như thế. Đây là nói trải qua sáu nhỏ, bảy lớn.

Tóm lược Tỳ-bà-sa, nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết ái vị lai trói buộc phải không?

Đáp: Đúng vậy. Vì sao? Vì trước có nói rằng: Kiết ái vị lai trói buộc xứ sở của ba đời.

Hỏi: Nếu bị kiết ái vị lai trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay chăng?

Đáp: Nếu đời trước không dứt thì trói buộc, nếu trước bất sinh mà sinh, là đã dứt bỏ thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu khi kiết ái quá khứ đã dứt bỏ, thì ngay lúc đó, kiết ái vị lai cũng dứt, thì vì sao đời vị lai nhất định, còn quá khứ lại không nhất định, mà nói như thế? Nếu sự sinh trước kia không dứt, thì bị trói buộc, nếu trước kia bất sinh mà sinh đã dứt, thì không trói buộc phải không?

Đáp: Pháp sư nước ngoài nói rằng: Nếu nói sự sinh trước kia không dứt thì trói buộc, là nói kiết phẩm trung, nếu trước bất sinh là nói kiết phẩm hạ. Sinh, đã dứt, là nói kiết phẩm thượng.

Sa-môn nước Kế-tân lại nói rằng: Nếu nói sự sinh trước kia không dứt thì trói buộc, là nói ba thứ kiết, nếu nói trước bất sinh là nói kiết bậc hạ. Nếu nói sinh là đã dứt là nói kiết trung, kiết thượng. Như kiết ái phẩm trung, phẩm thượng ở quá khứ đã dứt, vị lai cũng thế, thì sẽ bất sinh kiết ái phẩm hạ, xứ sở lệ thuộc đời vị lai bị kiết ái vị lai trói buộc, tức là xứ sở kia. Kiết ái ở đời trước quá khứ không dứt, thì trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh, nghĩa là đã sinh ở chỗ khác. Nếu trước bất sinh, hoặc sinh ở nơi khác, tức là ở chỗ đó đã sinh, mà sinh đã dứt thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết ái hiện tại trói buộc hay không?

Đáp: Hiện tại, nếu hiện ở trước, hoặc không khởi kiết ái, hoặc khởi kiết khác hiện ở trước, hoặc khởi tâm thiện vô ký không ẩn một hiện ở trước, hoặc không có tâm, cho nên nói là hiện ở trước.

Hỏi: Nếu bị kiết ái hiện tại trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đời trước không dứt thì trói buộc. Nếu trước bất sinh mà sinh đã dứt thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái vị lai trói buộc, thì có bị kiết ái hiện tại trói buộc hay chăng?

Đáp: Nếu hiện ở trước, nói rộng như trên.

Hỏi: Nếu bị kiết ái hiện tại trói buộc, thì có bị kiết ái vị lai trói buộc hay không?

Đáp: Đúng vậy! Vì sao? Vì trước đã nói: Kiết ái vị lai trói buộc ba đời.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết ái vị lai, hiện tại trói buộc hay không?

Đáp: Vị lai thì trói buộc hiện tại. Nếu hiện ở trước, nói rộng như trên.

Hỏi: Nếu bị kiết ái vị lai, hiện tại trói buộc, thì có bị biết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu sự sinh trước kia không dứt thì trói buộc. Nếu trước bất sinh mà sinh, đã dứt thì không trói buộc.

Sự sinh trước kia không dứt, thì trói buộc: Nếu xứ sở bị kiết ái vị lai, hiện tại, thì xứ sở đó cũng bị kiết ái của đời trước quá khứ thì trói buộc. Nếu xứ sở của kiết ái vị lai, hiện tại khác, thì xứ sở của kiết ái đã sinh trong quá khứ sẽ khác thì không trói buộc. Nếu trước bất sinh, tức là ở chỗ đó đã sinh, nghĩa là đã dứt thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái vị lai trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ, hiện tại trói buộc hay không?

Đáp: Hoặc có khi bị kiết ái vị lai trói buộc, không có quá khứ, hiện tại. Hoặc có quá khứ, không có hiện tại, hoặc có hiện tại, không có quá khứ, hoặc có quá khứ, hiện tại bị kiết ái vị lai trói buộc, không có quá khứ, hiện tại, nghĩa là nếu kiết ái của xứ sở chưa dứt, thì chứng tỏ vị lai sẽ bị kiết ái trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh, nghĩa là đã dứt, thì chứng tỏ quá khứ không bị kiết ái trói buộc. Nếu không hiện ở trước thì chứng tỏ hiện tại không bị kiết ái trói buộc.

Có quá khứ, không có hiện tại: Nếu kiết ái đời trước của xứ sở chưa dứt, thì nói bị kiết ái quá khứ trói buộc, không hiện ra trước, tức là nói hiện tại không bị kiết ái trói buộc.

Nếu có hiện tại, không có quá khứ: Nếu bị kiết ái của quá khứ đã trói buộc, thì sẽ bị kiết ái vị lai trói buộc.

Có hiện tại không có quá khứ: Nếu kiết ái của xứ sở hiện ở trước, thì chứng tỏ hiện tại đang bị kiết ái trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh, nghĩa là đã dứt, thì chứng tỏ quá khứ đã không bị kiết ái trói buộc. Nếu kiết ái hiện tại đang trói buộc, thì sẽ bị kiết ái vị lai trói buộc.

Có quá khứ, hiện tại: Nếu xứ sở đã bị kiết ái đời trước trói buộc, thì chứng tỏ bị kiết ái quá khứ trói buộc. Nếu kiết ái của xứ sở hiện ở trước, thì chứng tỏ đang bị kiết ái hiện tại trói buộc. Nếu quá khứ, hiện tại bị kiết ái trói buộc, thì vị lai sẽ có.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái hiện tại trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ, vị lai trói buộc hay không?

Đáp: Vị lai thì lệ thuộc quá khứ, nếu sự sinh trước không dứt, thì sẽ trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh, đã dứt thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu bị kiết ái quá khứ, vị lai trói buộc, thì có bị kiết ái hiện tại trói buộc hay không?

Đáp: Nếu hiện ở trước, nói rộng như trên. Các phiền não của tướng riêng, trong đây nói lược. Như kiết ái tạo ra sáu câu: Kiết giận dữ, kiết mạn, kiết ganh tỵ, kiết keo kiệt chẳng phải Nhất thiết biến. Kiết vô minh tạo ra sáu luận cứ cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết kiến quá khứ trói buộc, thì có bị kiết kiến vị lai trói buộc phải không?

Đáp: Đúng vậy!

Hỏi: Nếu bị kiết kiến vị lai sẽ trói buộc, thì có bị kiết kiến quá khứ trói buộc phải không?

Đáp: Đúng thế. Vì sao? Vì trước có nói rằng: Các phiền não của tướng chung, đều trói buộc pháp ba đời. Vị lai, hiện tại đều duyên theo ba đời, nói rộng như kinh nầy.

Kiết kiến tạo ra sáu câu. Các phiền não của tướng chung, trong đây, nói lược. Như kiết kiến tạo ra sáu câu. Kiết thủ, kiết nghi là Nhất thiết biến. Kiết vô minh tạo ra sáu luận cứ cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết giận dữ quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đời trước không dứt, thì trói buộc, nếu trước kia bất sinh mà sinh, là đã dứt thì không trói buộc. Nếu đời trước không dứt, thì trói buộc, nghĩa là nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, tức xứ sở đó đã có kiết giận dữ của đời trước quá khứ trói buộc. Nếu trước bất sinh, hoặc ở chỗ khác sinh, nếu sinh, đã dứt thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu bị kiết giận dữ ở quá khứ trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu sự sinh trước kia không dứt, thì trói buộc, nếu trước bất sanh, sanh đã dứt thì không trói buộc, nếu trước sanh không dứt thì trói buộc, nghĩa là nếu xứ sở bị kiết giận dữ quá khứ trói buộc, tức là xứ sở kia đã bị kiết ái của đời trước quá khứ trói buộc. Nếu trước bất sinh, nếu ở chỗ khác sinh, nếu sinh, nghĩa là đã dứt thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết giận dữ vị lai trói buộc hay không?

Đáp: Nếu không dứt.

Thế nào là không dứt?

Đáp: Chưa lìa ái dục.

Hỏi: Nếu bị kiết giận dữ ở vị lai trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu đời sống trước kia không dứt, thì trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh đã dứt thì không trói buộc.

Nếu đời trước không dứt, thì trói buộc, nghĩa là nếu xứ sở bị kiết giận dữ ở vị lai trói buộc, xứ sở ấy cũng đã bị kiết ái của đời trước trong quá khứ trói buộc.

Nếu trước bất sinh, hoặc sinh ở chỗ khác, nếu sinh đã dứt thì không trói buộc.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết giận dữ hiện tại trói buộc hay không?

Đáp: Nếu hiện ở trước.

Hiện ở trước là sao? Nếu không khởi kiết khác, không khởi tâm vô ký không ẩn một, hữu lậu thiện. Nếu có tâm thì đó gọi là hiện ở trước.

Hỏi: Nếu bị kiết giận dữ hiện tại trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu sự sinh trước kia không dứt thì trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh, đã dứt, thì không trói buộc, nói rộng như trên.

Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì không bị kiết giận dữ quá khứ, hiện tại trói buộc. hoặc có quá khứ, không có hiện tại, hoặc có hiện tại, không có quá khứ, hoặc có quá khứ, hiện tại, bị kiết ái quá khứ trói buộc. Không bị kiết giận dữ quá khứ hiện tại trói buộc, nghĩa là nếu xứ sở đã bị kiết ái của đời trước không dứt, thì trói buộc, là nói bị kiết ái quá khứ trói buộc, tức xứ sở bất sinh kiết giận dữ của đời trước. Sinh, đã dứt thì không trói buộc, là nói không bị kiết giận dữ quá khứ trói buộc. Không hiện ở trước, là nói không bị kiết giận dữ hiện tại trói buộc, hoặc có quá khứ không có hiện tại, nghĩa là nếu xứ sở trước kia đã sinh kiết giận dữ, kiết ái không dứt thì trói buộc, là nói bị kiết ái, kiết giận dữ quá khứ trói buộc. Không có hiện tại, là nói không bị kiết giận dữ hiện tại trói buộc.

Hoặc có hiện tại không có quá khứ: Nếu kiết ái quá khứ đời trước của xứ sở không dứt, thì trói buộc, là nói bị kiết ái quá khứ trói buộc, tức kiết giận dữ của xứ sở kia hiện ở trước, tức là nói có kiết giận dữ hiện tại trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh, đã dứt, tức là nói không bị kiết giận dữ quá khứ trói buộc.

Hoặc có quá khứ, hiện tại: Nếu xứ sở bị kiết ái, kiết giận dữ của đời trước quá khứ không dứt, thì trói buộc, là nói bị kiết ái, kiết giận dữ quá khứ trói buộc, tức kiết giận dữ của xứ sở kia hiện ở trước, là nói có kiết giận dữ hiện tại trói buộc.

Hỏi: Nếu bị kiết giận dữ quá khứ, hiện tại trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu sự sinh trước kia không dứt thì trói buộc. Nếu trước kia bất sinh mà sinh đã dứt thì không trói buộc. Nói rộng như trên.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết giận dữ vị lai, hiện tại trói buộc hay không?

Đáp: Kiết khác nói rộng, như kinh nầy. Tạo ra bảy câu, cũng như kinh nầy. Như kiết ái, kiết giận dữ, kiết ganh tỵ của kiết ái, kiết keo kiệt của kiết ái, nói cũng giống như thế.

Sự khác nhau trong đây, nên nói. Pháp bị dứt của kiến đạo lệ thuộc (trói buộc) cõi Dục. Kiết ái đời trước không dứt thì trói buộc. kiết mạn của kiết ái, kiết vô minh của kiết ái, nói rộng như kinh nầy.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, lại có kiến kiến quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu không dứt.

Hỏi: Không dứt là sao?

Đáp: Nếu đạo tỷ trí chưa sinh.

Hỏi: Nếu bị kiết kiến quá khứ trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nếu sự sinh trước kia không dứt thì trói buộc, nói rộng như trên.

Hỏi: Nếu xứ sở bị kiết ái quá khứ trói buộc, thì có bị kiết kiến vị lai trói buộc hay không?

Đáp: Nếu không dứt.

Không dứt là sao? Đạo tỷ trí chưa sinh.

Hỏi: Nếu bị kiết kiến vị lai trói buộc, thì có bị kiết ái quá khứ trói buộc hay không?

Đáp: Nói rộng như kinh nầy, tạo ra bảy câu như kinh nầy, như kiết ái, kiết kiến tạo ra bảy câu như kinh nầy. Tạo ra bảy câu. Kiết thủ của kiết ái, kiết nghi của kiết ái tạo ra bảy câu, nói cũng giống như thế.

Kiết ái quá khứ, kiết giận dữ quá khứ.

Hỏi: Kiết mạn quá khứ, nên tạo ra bảy luận cứ.

Hoặc có thuyết nói: Trong bảy câu, câu thứ nhất nên có bảy câu. Vì sao? Vì trong đây hỏi bảy là bảy câu?

Đáp: Vì bảy lần bảy câu, như trước dùng kiết ái, kiết giận dữ quá khứ.

Hỏi: Kiết mạn, quá khứ, kế là hỏi kiết mạn vị lai, kế là hỏi hiện tại, kế là hỏi về quá khứ, hiện tại, kế là hỏi về vị lai, hiện tại, kế là hỏi về quá khứ, vị lai, kế hỏi về quá khứ, vị lai, hiện tại.

Kiết mạn cũng nên nói như thế. Trước hết, dùng ái, giận dữ quá khứ, để hỏi về mạn vị lai, tạo ra câu đầu, kế là hỏi về hiện tại, kế là hỏi về quá khứ, hiện tại, kế là hỏi về vị lai, hiện tại, kế là hỏi về quá khứ, vị lai, kế là hỏi về quá khứ, vị lai, hiện tại, kế là hỏi về quá khứ, tạo ra câu sau cùng. Lại nữa, dùng ái, giận dữ quá khứ.

Hỏi: Mạn hiện tại, tạo ra câu đầu, kế hỏi về quá khứ, hiện tại, kế hỏi về vị lai, hiện tại, kế là hỏi về quá khứ, vị lai, kế là hỏi về quá khứ, vị lai, hiện tại, kế hỏi về quá khứ, kế hỏi về vị lai, tạo ra câu sau cùng, cho đến ái, giận dữ, quá khứ, kế hỏi về quá khứ, vị lai. Mạn hiện tại tạo ra câu đầu tiên, cho đến ái, giận dữ quá khứ. Hỏi về mạn của quá khứ, vị lai tạo ra câu sau cùng.

Nếu nói như thế thì có bảy lần bảy câu. Nếu nói như thế thì sẽ uổng công. Vô ích về văn, vô ích về nghĩa, cũng không thành bảy lần bảy câu. Nếu muốn có ích về văn, có ích về nghĩa, thì cũng thành bảy lần bảy câu. Nên nói như vậy: Như trước, dùng ái, giận dữ quá khứ.

Hỏi về mạn quá khứ, tạo ra câu đầu, cho đến dùng ái, giận dữ quá khứ.

Hỏi về mạn của quá khứ, vị lai, hiện tại, tạo ra câu sau cùng. Nên dùng ái giận dữ vị lai.

Hỏi về mạn vị lai, tạo ra câu đầu, kế hỏi về hiện tại, kế hỏi về quá khứ, hiện tại, kế hỏi về vị lai, hiện tại; kế hỏi về quá khứ, vị lai, kế hỏi về quá khứ, vị lai, hiện tại, kế hỏi về quá khứ, để tạo ra câu sau cùng.

Lại nữa, ái, giận dữ, hiện tại, hỏi về mạn hiện tại, tạo ra câu đầu, kế hỏi về quá khứ, hiện tại, kế hỏi về vị lai hiện tại, kế hỏi về quá khứ, vị lai, kế hỏi về quá khứ, vị lai, hiện tại. Kế hỏi về quá khứ, Kế hỏi về vị lai, tạo ra câu sau cùng, cho đến dùng ái, giận dữ của quá khứ, vị lai, hiện tại.

Hỏi về mạn quá khứ, vị lai, hiện tại, tạo ra câu đầu, cho đến dùng ái, giận dữ quá khứ, vị lai, hiện tại. Hỏi về mạn của quá khứ, vị lai, hiện tại, tạo ra câu sau cùng.

Nếu nói như thế thì có ích về văn, nghĩa. Bảy lần bảy câu thành, như ái, giận dữ.

Hỏi về ái, giận dữ, mạn tạo ra bảy lần bảy câu, ái giận dữ. Hỏi về vô minh cũng giống như thế. Cho đến hỏi kiết san tạo thành bảy lần bảy câu cũng như thế.

Đặt để kiết ái, dùng kiết giận dữ, kiết mạn.

Hỏi về kiết vô minh tạo ra bảy lần bảy câu, cho đến hỏi về kiết keo kiệt, tạo ra bảy lần bảy câu cũng giống như thế, đặt để nhuế dùng mạn, vô minh, hỏi về kiết kiến tạo ra bảy lần bảy câu, cho đến kiết thủ sau cùng.

Dùng kiết nghi, kiết ganh tỵ, hỏi về kiết keo kiệt, tạo ra bảy lần bảy câu cũng giống như thế.

Như dùng hai kiết, hỏi về một kiết, tạo ra bảy lần bảy câu. Dùng ba, dùng bốn, dùng năm, dùng sáu, dùng bảy, dùng tám. Hỏi về một kiết tạo ra bảy lần bảy câu cũng giống như thế.

Hỏi: Một hành trải qua nhỏ sáu, lớn bảy, bảy có gì khác nhau?

Đáp: Danh là khác nhau. Hơn nữa dùng một pháp hành đặt thành câu hỏi, gọi là một hành, lấy sáu câu làm thành câu hỏi, gọi là trải qua sáu. Dùng bảy câu tạo nên câu hỏi, gọi là bảy nhỏ, dùng hai kiết hỏi một kiết, cho đến dùng tám kiết để hỏi về một kiết, gọi là bảy lớn.

Lại nữa, hỏi về pháp không giống nhau, không dùng sự cố định của thế gian, gọi là một hành. Hỏi về pháp giống nhau, dùng sự khẳng định của thế gian, gọi là trải qua sáu, hỏi về pháp không giống nhau, dùng quyết định của thế gian gọi là bảy nhỏ. Dùng hai pháp hỏi một pháp, cho đến dùng tám pháp hỏi một pháp, dùng định thế gian, gọi là bảy lớn. Một hành trải qua sáu, bảy nhỏ, bảy lớn, đó là sự khác nhau.

*******

 

Thân kiến gồm nhiếp bao nhiêu sử?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Gồm thâu pháp, gồm nhiếp pháp người khác, không gồm nhiếp pháp của mình. Như Tỳ-bà Xà-bà-đề (Luận sư Phân Biệt) dựa vào kinh giả danh của Phật. Vừa dựa vào pháp ngôn ngữ của thế tục để nói là gồm nhiếp pháp, gồm nhiếp pháp người khác, không gồm nhiếp pháp của mình.

Chỗ thuyết giảng kinh giả danh là sao? Như Phật nói: “Ví như chiếc đấu vung thọ nhận vung con, làm chỗ dựa cho vung con, vì đấu vung vượt hơn, nên gồm nhiếp các vung con”. Luận sư kia nói rằng: “Cái đấu vung khác với vung con mà gồm nhiếp chiếc vung con”. Cho nên biết gồm nhiếp pháp, gồm nhiếp pháp của người khác, không gồm nhiếp pháp của mình.

Kinh khác cũng nói: Năm căn nầy tuệ là vượt hơn, là thuộc về tuệ. Tuệ khác với bốn căn. Cho nên biết gồm nhiếp pháp người khác.

Kinh khác cũng nói: Như Phật hỏi cư sĩ Ha-đức-ca: ông làm sao gồm nhiếp quyến thuộc? Vì sao ông lại biết mình gồm nhiếp quyến thuộc?

Cư sĩ đáp: Bạch Thế tôn! bốn nhiếp pháp mà Đức Thế tôn nói: là Bố thí, êm ái, lợi ích, đồng sự. Vì bốn pháp nầy gồm nhiếp quyến thuộc nên cũng biết mình gồm nhiếp quyến thuộc.

Cư sĩ kia nói rằng: Cư sĩ, quyến thuộc và pháp gồm nhiếp, mỗi thứ đều khác nhau mà có thể gồm nhiếp nhau. Cho nên biết gồm nhiếp pháp người khác, không gồm nhiếp pháp của mình.

Kinh khác lại nói: Chánh kiến, chánh phương tiện, chánh giác là thuộc về thân tuệ. Chánh tuệ, chánh định là thuộc về thân định.

Luận sư kia nói rằng: Chánh kiến là tuệ, thuộc về thân tuệ, chánh định thuộc về thân định, có thể như thế. Chánh giác, chánh phương tiện chẳng phải tánh tuệ, chánh niệm chẳng phải tánh định. Chánh giác, chánh phương tiện thuộc về thân tuệ, chánh niệm thuộc về thân định. Vì cho nên biết pháp gồm nhiếp là gồm nhiếp pháp của người khác.

Pháp ngôn ngữ của thế tục: Thế tục cũng nói rằng: Cửa gồm nhiếp then cửa, chỉ gồm nhiếp áo, dây tơ gồm nhiếp bó củi.

Người tại gia cũng nói rằng: Ta có thể gồm nhiếp nhà, tiền của, tài sản, voi, ngựa, tôi tớ của mình.

Người xuất gia cũng nói rằng: Ta gồm nhiếp y, bát và gồm nhiếp vật mà Sa-môn cần dùng.

Những vị ấy dùng giả danh như thế, gọi là kinh nói. Và vì pháp thuộc về ngôn ngữ của thế tục, nên biết pháp gồm nhiếp là gồm nhiếp người khác, không gồm nhiếp pháp của mình. Cũng nói pháp gồm nhiếp là gồm nhiếp tự thể.

Nếu phải gồm nhiếp pháp, thì chỉ gồm nhiếp người khác, không gồm nhiếp tự thể, tức là thể của một pháp đồng với thể của tất cả pháp cũng sinh, một pháp diệt, thì tất cả pháp cũng diệt.

Lại có lỗi là pháp, bị dứt trừ của kiến khổ, thì gồm nhiếp pháp bị dứt của tu đạo. Pháp, bị dứt trừ của kiến khổ nếu dứt bỏ thì pháp, bị dứt trừ của tu đạo cũng nên dứt. Nếu vậy thì đối trị sự sinh sau không có tác dụng.

Vì muốn không có lỗi như thế, nên nói gồm nhiếp pháp là gồm nhiếp về tự tánh, không gồm nhiếp pháp khác.

Hỏi: Nếu gồm nhiếp pháp chỉ gồm nhiếp pháp của mình, mà không gồm nhiếp pháp người khác, thì với kinh bộ Tỳ-bà Xà-bà-đề đã dẫn và pháp ngôn ngữ của thế tục, làm sao hiểu được?

Đáp: Vì kinh kia là chưa liễu nghĩa, là giả danh, là ý chưa rốt ráo.

Hỏi: Kinh kia là chưa liễu nghĩa, là giả danh, là ý chưa rốt ráo là sao?

Đáp: Như kinh nói: “Chiếc đấu vung thọ nhận chiếc vung con, có thể gồm nhiếp vung con”. Trong đây, nói nương dựa cầm giữ là sự gồm nhiếp. Vì sao? Vì chiếc vung con nương dựa vào đấu vung, đấu vung gìn giữ vung con mà không để vỡ. Như nói trong năm căn, tuệ là hơn hết, vì thuộc về tuệ, nên ở đây, tuệ là phương tiện, nói gồm nhiếp. Vì sao? Vì tuệ phương tiện, nên năm căn có thể có chỗ thực hành, trở thành việc lớn như nói: Ta dùng bốn nhiếp pháp mà Đức Thế tôn đã giảng nói để gồm nhiếp quyến thuộc của ta, cho đến nói rộng.

Ở đây, nói không để vỡ là gồm nhiếp, do phương tiện của bốn nhiếp, nên làm cho quyến thuộc không lìa tán. Như nói chánh giác, chánh phương tiện, chánh niệm là thuộc về thân tuệ, thân định. Trong đây, nói thuận theo là gồm nhiếp. Chánh giác, chánh phương tiện thuận theo thân tuệ, chánh niệm thuận theo thân định. Như nói: Cửa gồm nhiếp then cửa, chỉ có thể gồm nhiếp áo, dây buộc gồm thâu bó củi. Ở đây, nói gìn giữ là gồm nhiếp. Như nói: Người tại gia, xuất gia gìn giữ ruộng vườn, của cải, y, bát v.v… Trong đây nói làm lợi ích là gồm nhiếp, gồm nhiếp pháp, gồm nhiếp pháp người khác, có khi gồm nhiếp, có khi không gồm nhiếp. Hoặc có lý do gồm nhiếp, hoặc có lý do không gồm nhiếp. Như kệ nói:

Nhân việc sinh ra ái

Nhân sự sinh giận dữ

Người đời khởi ái, giận

Đều là do ở việc.

Gồm thâu pháp, gồm nhiếp pháp của mình: tất cả thời gian gồm nhiếp, đều có lý do. Tất cả thời gian đều gồm nhiếp, nghĩa là không lúc nào không gồm nhiếp tự tướng đều có. Vì sao? Vì tự thể không đối đãi, cho nên gồm nhiếp pháp. Nếu quán sát pháp tự tướng, thì lúc trở lại gồm nhiếp pháp của tự tướng, sẽ có lợi ích gì?

Đáp: Dứt trừ tưởng ngã, tưởng nhóm, có thể tu tưởng pháp, tưởng riêng. Nếu chúng sinh có tưởng nhóm, tưởng ngã, thì sự sinh tâm tham, giận, si, nên đối với sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não không thể thoát khỏi. Nếu có thể dứt bỏ tưởng ngã, tưởng nhóm, để quán sắc, giống như rãi bụi quán pháp Vô sắc, trước sau không đều có quán chung tướng mạo lìa tan của pháp hữu vi, giống như rải cát, tức là sản sinh chủng tử của môn giải thoát không. Nếu quán các hành vắng lặng mà không ưa sinh tử, liền sinh chủng tử của môn giải thoát vô nguyện. Nếu không ưa sinh tử mà cầu Niết-bàn thì sinh ra chủng tử của môn giải thoát vô tướng. Nương dựa tam-muội phẩm hạ, liền sinh tammuội phẩm trung, dựa vào tam-muội phẩm trung, sinh tam-muội phẩm thượng, y tam-muội phẩm thượng, có thể lìa dục ba cõi. Khi quán sát pháp tư tướng, trở lại gồm nhiếp pháp tự tướng, sẽ có lợi ích tốt như thế: Thân kiến gồm nhiếp ba sử. Tóm lại, thân kiến gồm nhiếp ba sử, thân kiến ở ba cõi: Thân kiến cõi Dục, lại gồm nhiếp thân kiến cõi Dục, cho đến thân kiến cõi Vô sắc trở lại gồm nhiếp thân kiến cõi Vô sắc. Giới thủ gồm nhiếp sáu sử, nghi, gồm nhiếp mười hai sử, pháp khác gồm nhiếp, như kinh nầy đã nói.

Hỏi: Sao gọi là gồm nhiếp?

Đáp: Tự thể đối với tự thể, là có, là thật, là có thể được, nên gọi là gồm nhiếp. Tự thể đối với tự thể, chẳng khác với tự thể, ở tự thể, chẳng phải ngoài. Tự thể đối với tự thể chẳng xa nhau. Tự thể đối với tự thể chẳng xả bỏ nhau. Tự thể đối với tự thể chẳng phải không. Tự thể đối với tự thể không có lớn đầy. Tự thể đối với tự thể chẳng phải không là đã có, chẳng phải xưa không mà nay có, chẳng phải không mà sẽ có. Vì tự thể lại gồm nhiếp tự thể nên gọi là gồm nhiếp, chẳng phải như tay cầm thức ăn, ngón tay nắm lấy chiếc áo, gọi là gồm nhiếp. Do các pháp trở lại gồm nhiếp tự thể, gọi là gồm nhiếp, không gồm nhiếp pháp người khác.

Ba kiết gồm nhiếp ba căn bất thiện hay ba căn bất thiện gồm nhiếp ba kiết?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Gồm thâu pháp, gồm nhiếp người khác, không gồm nhiếp tự thể.

Vì muốn lại ngăn dứt ý của lời nói như thế, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Ba kiết gồm nhiếp ba căn bất thiện hay ba căn bất thiện gồm nhiếp ba kiết?

Đáp: Mỗi thứ đều không gồm nhiếp nhau. Pháp khác, nói rộng như kinh nầy.

Thân kiến khiến cho bao nhiêu hữu nối tiếp nhau?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tâm không nhiễm ô khiến cho hữu nối tiếp nhau, như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề đã nói như thế.

Hỏi: Vì sao Bà-đề nói như thế?

Đáp: Vì phái ấy đã dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Bồ-tát trụ nơi chánh trí, nhập vào thai mẹ, trụ trong chánh trí trụ trong thai mẹ, trụ nơi chánh trí ra khỏi thai mẹ.

Vì ngăn dứt ý của lời nói như thế, vì muốn nói, chỉ do tâm nhiễm ô làm cho hữu nối tiếp nhau nên soạn luận nầy.

Hỏi: Nếu nói chỉ do tâm nhiễm ô, nên đã khiến cho hữu nối tiếp nhau ấy, thì kinh Phật nói, làm sao hiểu được?

Đáp: Ở đây nói tâm không điên đảo, gọi là chánh trí. Chúng sinh đều do tâm điên đảo vào thai chỉ trừ Bồ-tát. Khi Bồ-tát nhập thai, Ngài nghĩ rằng: “Đây là mẹ ta, đây là cha ta, đối với mẹ khởi thân yêu mẹ, đối với cha, khởi thân kính”. Vì tâm không điên đảo khi vào thai mẹ, nên gọi là chánh trí.

Lại nữa, sở dĩ soạn luận nầy là vì: Hoặc có thuyết nói: Chỉ do hai kiết ái, giận dữ, nên đã làm cho hữu nối tiếp nhau, như phái Thí dụ giả nói.

Hỏi: Vì sao người kia nói như thế?

Đáp: Vì người kia dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Vì ba việc hợp nên vào thai:

  1. Cha, mẹ có tâm nhiễm giao hội một chỗ.
  2. Gặp lúc người mẹ kia không bị bệnh.
  3. Người thọ thân hiện ở trước, đúng lúc nầy.

Thọ thân, nghĩa là hai thứ tâm xoay vần hiện ở trước, hoặc đi chung với dục, hoặc đi chung với sự giận dữ.

Vì ngăn dứt ý của người nói như thế, cũng nói tất cả kiết khiến cho hữu nối tiếp nhau, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Nếu vậy, thì với kinh Phật nói, làm sao hiểu được?

Đáp: Trong thuyết kia nói có tâm, không nói có tâm nối tiếp nhau.

Hoặc có thuyết nói: Tâm trong đường ác, do tâm giận dữ, nên khiến cho hữu nối tiếp nhau. Tâm trong hàng trời, người, do tâm ái, làm cho hữu nối tiếp nhau.

Vì ngăn dứt ý của người nói như thế, cũng muốn nói ba mươi sáu sử của chúng sinh trong cõi Dục, khiến cho hữu nối tiếp nhau. Cõi Sắc có ba mươi mốt sử, cõi Vô sắc có ba mươi mốt sử khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Vì nhằm ngăn nghĩa của người khác, cho đến nói rộng, nên soạn luận nầy.

Hữu cũng có nhiều tên, như trong đây nói: Năm ấm, chỗ thọ thân của số chúng sinh là hữu. Như nói cõi Dục,trong cõi Dục sanh tử. Tất cả hữu của cõi Dục có nối tiếp nhau chăng? Ở đây, cũng nói: Số chúng sinh thọ thân năm ấm, gọi là hữu, như nói bị triền ràng buộc, khiến cho địa ngục có nối tiếp, trong đó cũng nói chỗ số chúng sanh thọ thân, năm ấm gọi là hữu, như nói khi hữu cõi Dục nối tiếp nhau, đầu tiên được bao nhiêu tướng của nghiệp báo? Ở đây cũng nói: Năm ấm, chỗ thọ thân của số chúng sinh, gọi là hữu, như nói có bốn hữu. Thời gian trước kia, có tử hữu, trung hữu, sinh hữu. Ở đây cũng nói như trên. Như nói: Bỏ hữu cõi Dục, lúc lại khiến cho cõi Dục nối tiếp nhau, tất cả đều diệt pháp trói buộc ở cõi Dục, lại, khởi lên pháp trói buộc ở cõi Dục hiện ở trước. Ở đây cũng nói như trên, như nói: Thế nào là pháp hữu? Đáp: Là pháp hữu lậu. Tức trong đây nói: Tất cả pháp hữu lậu là hữu. Như nói: Vượt qua kẻ thù địch phải biết có lúc sinh, lấy thức làm thức ăn. Trong đây nói: khi sanh nối tiếp thì tâm quyến thuộc gọi là Hữu. Phật bảo Tôn giả A-nan! Nếu nghiệp có thể khiến cho đời sống sau nối tiếp nhau là hữu, cũng gọi là hữu. Ở đây nói tạo ra sự tư duy hữu ở vị lai, gọi là hữu. Như nói: Thủ duyên hữu.

Người A-tỳ-đàm nói rằng: Thời gian của năm ấm đã nói trong đây, gọi là hữu.

Tôn giả Cù-sa nói rằng: Gây ra nghiệp hữu ở vị lai, gọi là hữu, như nói bảy hữu:

  1. Hữu địa ngục.
  2. Hữu súc sinh.
  3. Hữu ngạ quỷ.
  4. Hữu trời.
  5. Hữu người.
  6. Hữu nghiệp.
  7. Trung hữu.

Ở đây nói nhân của năm đường hướng về ngăn đường là hữu. Hữu của năm đường, tức là nghiệp hữu của năm cõi, là hữu trong nhân của năm cõi, là năm hướng đến. Như nói: Thế nào là dục hữu? Duyên thủ lệ thuộc cõi Dục, có thể sản sinh nghiệp hữu ở vị lai. Trong đây nói nghiệp, báo nghiệp, không nói thủ duyên.

Hỏi: Nếu ở đây chỉ nói nghiệp, báo nghiệp, không nói thủ duyên, thì thuyết trong phẩm Mười môn làm sao hiểu? Như nói: Dục hữu do tất cả sử cõi Dục sai khiến, Sắc, cõi Vô sắc hữu do tất cả sử cõi Sắc, cõi Vô sắc sai khiến. Cõi Dục, có thể như thế. Vì sao? Vì năm thứ dứt cõi Dục, nghiệp hết có thể sinh báo. Nghiệp, do tu đạo dứt ở cõi Sắc, cõi Vô sắc có thể sinh báo, sao có thể như thế được?

Đáp: Văn của mười môn, nên nói rằng: Dục hữu cõi Dục bị tất cả sử sai khiến, Sắc hữu, cõi Vô sắc hữu là sử, do tu đạo dứt ở cõi Sắc, cõi Vô sắc. Và chung cho tất cả sử mà không nói, là có ý gì? Tâm của năm thứ dứt ở đây có thể sinh ra hữu, khiến cho hữu nối tiếp nhau trong phần hữu, là quyến thuộc của hữu, nên nói như thế.

Lại có thuyết nói: Trong chương của mười môn, nói nghiệp, nghiệp báo, trong giải thích nghĩa chương, nói nghiệp, nghiệp báo và nói thủ duyên.

Hỏi: Nếu vậy thì ở đây làm sao hiểu? Như nói: Tôn giả kia vì sao trước lập chương? Vì muốn làm sáng tỏ nghĩa môn, sao lại lập nghĩa của chương khác, giải thích nghĩa của chương khác? Cho nên, như thuyết trước là tốt.

Hỏi: Vì sao gọi là hữu?

Đáp: Vì sinh, diệt nên gọi là hữu.

Hỏi: Nếu vậy đạo sở hành cũng sinh, diệt có thể là hữu chăng?

Đáp: Nếu sinh, diệt có thể làm cho hữu tăng trưởng rộng, thì là hữu. Thánh đạo dù sinh, diệt, nhưng không làm cho hữu thêm rộng, chỉ khiến cho nó bị hao hụt, giảm ít.

Lại nữa, nếu sinh, diệt, có thể khiến cho hữu nối tiếp nhau, tăng trưởng sinh, già, bệnh, chết, là hữu. Mặc dù Thánh đạo còn sinh diệt nhưng có thể dứt bỏ sự nối tiếp nhau của hữu, không thêm trưởng sinh, già, bệnh, chết.

Lại nữa, nếu sinh diệt là dấu vết của khổ, tập, đạo, là dấu vết của đạo sinh tử thế gian, là hữu. Thánh đạo dù sinh, diệt, nhưng là dấu ấn của khổ, tập, diệt, đạo, là dấu vết diệt, đạo của sinh tử thế gian.

Lại nữa, nếu sinh, diệt là thể của thân kiến, là thể của điên đảo, là thể của ái, là thể của sử, là chỗ lâp đủ tham, giận si, là vết nhơ xen lẫn, cặn bã xen lẫn ở hữu rơi vào khổ đế, tập đế, là hữu Thánh đạo trái với tệ trạng nầy, nên không gọi là Hữu.

Lại nữa, nghĩa đáng sợ là nghĩa hữu.

Hỏi: Nếu vậy, Niết-bàn đáng sợ, có thể là hữu chăng? Như nói: Tỳ-kheo nên biết! Phàm phu, ngu tiểu nghe nói Niết-bàn không có ngã, không có người kia, không có tất cả vật mà ta cần dùng, đối với pháp nầy, sinh tâm sợ hãi?

Đáp: Nếu người sợ hữu chính là sợ Niết-bàn phải chăng?

Lại nữa, pháp đáng sợ, phàm phu, bậc Thánh đều sợ. Niết-bàn chỉ là đối tượng mà phàm phu sợ, chứ chẳng phải điều khiến bậc Thánh sợ.

Lại nữa, vì là đồ đựng khổ, nên gọi là hữu.

Hỏi: Đây cũng là đồ đựng vui, như nói: Ma-ha-nam nên biết! Nếu sắc là hoàn toàn khổ, không có phần vui, thì sẽ không sanh vui mừng, chúng sinh đối với sắc, lẽ ra không nhiễm đắm. Nầy Ma-ha-nam, do sắc chẳng phải hoàn toàn khổ, vì có một chút phần vui, có thể sinh ra vui mừng, nên chúng sinh đắm nhiễm. Cũng nói có ba thọ: Khổ thọ, lạc thọ và bất khổ, bất lạc thọ. Cũng nói nhu cầu rất cần thiết là công cụ của đạo. Đạo là công cụ của Niết-bàn, cũng nói là rất cần niềm vui để có thể sinh ra niềm vui về đạo. Thú vui của đạo là có thể đạt đến Niết-bàn.

Đáp: Mặc dù sự sinh tử có một chút vui, nhưng phần nhiều là đau khổ, vì phần vui ít, nên nói là phần khổ. Cũng như bình thuốc độc, mặc dù chế một giọt mật vào trong bìnht huốc độc, nhưng không vì một giọt mật mà gọi là bình mật, vì chất độc nhiều hơn, nên nói là bình thuốc độc. Phần ít thân kiến, đã làm cho dục hữu nối tiếp nhau, phần ít khiến cho sắc hữu nối tiếp nhau, phần ít làm cho Vô sắc hữu nối tiếp nhau.

Thân kiến ở ba cõi: Người ở cõi Dục, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Người ở sắc hữu, làm cho sắc hữu nối tiếp nhau. Người ở Vô sắc hữu, khiến Vô sắc hữu nối tiếp nhau. Giới thủ, nghi cũng giống như thế.

Pháp khác, nói rộng như kinh nầy.

Sự nối tiếp nhau có năm thứ:

  1. Trung hữu nối tiếp nhau.
  2. Sinh hữu nối tiếp nhau.
  3. Thời gian nối tiếp nhau.
  4. Pháp nối tiếp nhau.
  5. Sát-na nối tiếp nhau.

Trung hữu nối tiếp nhau: Tử ấm diệt, kế là sinh trung ấm. Trung ấm nối tiếp tử ấm, gọi là trung hữu nối tiếp. Sinh hữu nối tiếp nhau: Trung ấm diệt, kế là sinh ra sinh ấm. Sinh ấm nối tiếp trung ấm gọi là sinh hữu, nối tiếp thời gian nối tiếp nhau: Lúc Ca-la-la diệt, kế là sinh A-phù-đà. Lúc A-phù-đà nối tiếp với lúc Ca-la-la, được gọi là thời gian nối tiếp. Cho đến thời trung niên diệt, kế sinh thời già niên, thời già niên nối tiếp thời trung niên, đó gọi là thời gian nối tiếp nhau.

Pháp nối tiếp nhau: Sau pháp thiện, kế sinh pháp bất thiện, vô ký. Pháp bất thiện, vô ký nối tiếp với pháp thiện. Về sau, pháp bất thiện, vô ký nói cũng giống như thế. Đó gọi là pháp nối tiếp nhau.

Sát-na nối tiếp: Sát-na sinh trước, kế sinh sát-na sau. Sát-na sau nối tiếp sát-na trước. Đó gọi là sát-na nối tiếp.

Năm thứ nối tiếp nhau nầy đều nhập vào sự nối tiếp nhau của hai tướng, nghĩa là pháp nối tiếp nhau, sát-na nối tiếp nhau. Vì sao? Vì trung hữu nối tiếp nhau, sinh hữu nối tiếp nhau, thời gian nối tiếp nhau, đều là pháp sát-na nối tiếp nhau.

Trong các cõi, cõi Dục có năm thứ nối tiếp nhau, cõi Sắc có bốn, trừ thời gian nối tiếp nhau. Cõi Vô sắc có ba, trừ trung hữu nối tiếp nhau thời gian nối tiếp nhau.

Trong các đường: Địa ngục có bốn, trừ thời gian nối tiếp nhau.

Bốn đường khác và bốn loài có năm thứ nối tiếp nhau.

Ở đây, dựa vào hai thứ nối tiếp nhau để soạn luận, là Trung hữu nối tiếp nhau, sinh hữu nối tiếp nhau.

Hỏi: Sử có thể khiến cho hữu nối tiếp nhau, chẳng phải triền là ý địa, cũng chẳng phải năm thức thân, vì sao lại nói như thế nầy: Thùy miên, trạo, hối, do sự xúc chạm của mũi sinh ra ra ái, xúc chạm của lưỡi sinh ra ái, làm cho dục hữu nối tiếp nhau. Mắt xúc chạm sinh ra ra ái, tai xúc chạm sinh ra ái, thân xúc chạm sinh ra ái, khiến cho hai hữu nối tiếp nhau, phần ít nhập dục hữu, phần ít nhập sắc hữu?

Đáp: Đoạn văn trên đây nên nói rằng: Cái tham dục, cái giận dữ và cái nghi, khiến cho dục hữu nối tiếp nhau. Ý xúc chạm sinh ái, khiến cho ba hữu nối tiếp nhau, các cái, còn lại, xúc chạm sinh ái, không thể làm cho hữu nối tiếp nhau. Nếu không nói như thế, nên biết thuyết nầy chưa rốt ráo. Lại nữa, vì hữu do không dứt bỏ, nên nói là nối tiếp nhau. Nếu không dứt cái, không dứt bỏ sự xúc chạm của mũi, có cảm giác yêu, thì khi qua đời sẽ sinh lại cõi Dục.

Nếu không dứt mắt xúc chạm sinh ra ái, tai xúc chạm cảm thấy ái, thân xúc chạm có cảm giác yêu, thì sau khi chết sẽ sinh lại cõi Dục.

Cõi Sắc lại có ba việc, khiến cho hữu nối tiếp nhau:

  1. Không dứt.
  2. Có công năng sinh ra quả.
  3. Khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Sử ở năm thức thân, bất thiện, có hai việc:

  1. Không dứt bỏ.
  2. Có công năng sinh ra quả.

Không thể khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Vô ký: Có một việc, không dứt bỏ, không thể sinh quả, không thể khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Sử ở lĩnh vực ý (ý địa) về bất thiện, có ba việc:

  1. Không dứt.
  2. Có thể sinh ra quả.
  3. Có thể làm cho hữu nối tiếp nhau.

Vô ký: Có ba việc:

  1. Không dứt.
  2. Khiến hữu nối tiếp nhau.
  3. Không thể sinh ra quả.

Triền ở ý địa, năm thức thân. Bất thiện có hai việc:

  1. Không dứt, có thể sinh quả.
  2. Không thể khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Vô ký: Có một việc: Không dứt, không thể sinh quả, không thể khiến cho hữu nối tiếp nhau.

Nếu có ba việc trên đây, thì làm cho hữu nối tiếp nhau.

Thân kiến do tam-muội nào diệt?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì muốn nói lên Đức Phật xuất hiện ở thế gian, có năng lực ít có như thế, nên soạn luận nầy. Luận Thi Thiết đã nói rằng: Ngoài cõi Diêm-phù-đề có con đường của Chuyển luân Thánh vương, rộng một do-tuần, bị nước biển tràn ngập. Nếu ở vào thời kỳ không có Chuyển luân Thánh vương xuất hiện, thì sẽ không có chúng sinh nào có thể đi trên con đường ấy. Nếu khi Chuyển luân Thánh vương ra đời, thì lưu lượng nước biển sẽ rút bớt xuống một do-tuần và con đường Chuyển luân Thánh vương sắp đi sẽ hiện ra, cát vàng trải trên con đường, nước hương Chiên đàn rưới lên đó. Lúc Chuyển luân Thánh vương muốn khởi bốn thứ binh chủng đi thị sát bốn châu thiên hạ, sẽ đi trên con đường nầy.

Cũng thế, vào thời kỳ Phật không ra đời, không có chúng sinh nào có thể đi trên địa cội gốc. Mặc dù chúng sinh có người lìa dục, nhưng chỉ dựa vào con đường bên cạnh, không được cội gốc. Nếu khi Chuyển Luân Pháp Vương có mười lực xuất hiện ở thế gian, thì đạo cội gốc bấy giờ mới hiện ra, cát vàng ba mươi bảy phẩm trải khắp trên đường, dùng nước hương giới, định, tuệ rưới lên. Đức Thế tôn cùng với vô lượng trăm ngàn vạn na-do-tha chúng sinh đi trên con đường đó, tiến đến thành Niết-bàn vô úy.

Cho nên, vì muốn hiển bày việc Phật xuất thế gian, với năng lực ít có như thế, nên soạn luận nầy.

Thân kiến phải dùng tam-muội nào để trừ diệt? Cũng có thể nói dùng đạo nào, cũng có thể nói dùng đối trị nào? Cũng có thể nói dùng chánh quán nào?

Nói như thế đều đồng một nghĩa, diệt cũng có thể nói là dứt, cũng có thể nói là không có dục, cũng có thể nói là hết, cũng có thể nói là giải thoát.

Các thuyết nói như thế v.v… đều đồng một nghĩa. Xưa có hai vị Đại sư:

  1. Tên Kỳ-bà-la.
  2. Tên Cù-sa-bạt-ma.

Tôn giả Kỳ-bà-la nói rằng: Ở đây nói dứt rốt ráo, dứt không còn sót, hoàn toàn là bậc Thánh, chẳng phải phàm phu, do đạo vô lậu, chẳng phải đạo thế tục. Kinh Thất Y là cội gốc của luận nầy. Kinh Thất Y nói về địa cội gốc, không nói một bên. Không dựa vào địa cội gốc nên dùng đạo thế tục để lìa dục.

Tôn giả Cù-sa-bạt-ma nói rằng: Trong đây nói dứt rốt ráo, dứt không sót, cũng có người phàm phu cũng có bậc Thánh, cũng dùng đạo thế tục, cũng dùng đạo vô lậu.

Hỏi: Nếu vậy, Kinh Thất Y chẳng phải cội gốc của luận nầy. Kinh Thất Y chỉ nói về cội gốc?

Đáp: Vì việc ấy, nên A-tỳ-đàm soi sáng Tu-đa-la, giống như ngọn đèn, trong kinh không nói, trong luận nầy sẽ nói.

Điều trong kinh không trình bày thì ở đây sẽ trình bày. Nghĩa chưa rốt ráo trong kinh, thì luận nầy sẽ nói nghĩa đó. Thuyết hai nhà kia đã nói, đều khéo hiểu. Ba kiết dựa vào bốn y. Vị chí dựa vào bốn y, nghĩa là dựa vào bốn thiền. Dựa vào Vị chí, nghĩa là dựa vào trung gian, Vị chí. Địa nầy được gọi là Vị chí.

Hỏi: Vì sao gọi là Vị chí?

Đáp: Vì chưa nhập địa cội gốc, địa cội gốc chưa hiện bày ở trước mà lìa được dục, gọi là địa Vị chí.

Hỏi: Địa Vị chí không gọi là y, vì sao nói như thế? Hoặc dựa vào bốn, hoặc dựa vào Vị chí?

Đáp: Đoạn văn ấy, nên nói rằng: Nếu nhập bốn y, hoặc không nhập bốn y mà diệt nhưng không nói là có ý gì?

Đáp: Vì muốn nói lại danh từ bốn y, như nói: Hoặc nhập cội gốc được diệt, hoặc không nhập cội gốc được diệt. Như có người hỏi người nam khác: Ông vì việc vào thành mà được thành tựu chăng? Hay vì việc không vào thành mà được thành tựu?

Ba kiết từ cõi Dục, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ có thể đạt được. Người cõi Dục dựa vào Vị chí, người Sơ thiền dựa y ban đầu, dựa vào Vị chí. Người Nhị thiền dựa vào hai y, dựa vào Vị chí, người ba thiền dựa vào ba y, dựa vào Vị chí, người bốn thiền và Vô sắc, dựa vào bốn y, dựa vào Vị chí. Vì sao? Vì ba kiết là do kiến đạo dứt, đều do kiến đạo mà dứt rốt ráo. Kiến đạo tất nhiên ở sáu địa, nghĩa là Vị chí, Trung gian, bốn thiền cội gốc. Nếu dựa vào thiền Vị chí được chánh quyết định, thì ba kiết sẽ do thiền Vị chí tiêu diệt. Nếu dựa vào Sơ thiền được chánh quyết định, thì ba kiết sẽ được diệt khi dựa vào Sơ thiền. Nếu dựa vào cho đến đệ Tứ thiền được chánh quyết định và ba kiết của Vô sắc, thì sẽ diệt khi dựa vào Đệ Tứ thiền.

Trong đây nói đệ Tứ thiền ba kiết của Vô sắc dựa vào bốn thiền tham, giận si của Vị chí và dục lậu, dựa vào Vị chí. Vì sao? Vì khi lìa ái dục, pháp nầy sẽ dứt hẳn. Nếu người phàm phu dứt ái, thì sẽ dựa vào Vị chí để dứt. bậc Thánh cũng nương vào Vị chí để dứt. Đạo thế tục, đạo Thánh đều dựa vào Vị chí để dứt ái. Hữu lậu hoặc dựa vào bảy, hoặc dựa vào Vị chí. Dựa vào bảy, nghĩa là bốn thiền, ba định Vô sắc. Vị chí, nghĩa là Trung gian, Vị chí. Hữu lậu, từ Sơ thiền cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ có thể được. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, hoặc dựa vào Vị chí mà lìa dục kia, hoặc cho đến dựa vào Vô sở hữu xứ để lìa dục kia vì Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Hữu lậu nói dựa vào bảy địa và Vị chí. Người ở địa Sơ thiền hoặc dựa vào y ban đầu, hoặc dựa vào Vị chí. Người Nhị thiền, hoặc dựa vào hai y, hoặc dựa vào Vị chí, cho đến Thức xứ, hoặc dựa vào sáu y, hoặc dựa vào Vị chí, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ hoặc nương dựa bảy y, hoặc dựa vào Vị chí.

Vô minh lậu, hoặc dựa vào bảy y, hoặc dựa vào bảy y của Vị chí, nghĩa là bốn thiền, ba định Vô sắc. Vị chí nghĩa là thiền trung gian Vị chí.

Vô minh lậu, từ cõi Dục cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ có thể được. Vô minh lậu của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia, hoặc nương dựa bảy y, hoặc dựa vào Vị chí. Tóm lại, dựa vào bảy y, hoặc dựa vào Vị chí. Người ở Sơ thiền thì dựa vào y đầu tiên, dựa vào Vị chí, cho đến thức xứ dựa vào sáu y, hoặc dựa vào Vị chí. Vô minh lậu của Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, hoặc dựa vào bảy y, hoặc dựa vào Vị chí. Ngoài ra, nói rộng như kinh nầy.

Hỏi: Các kiết quá khứ, kiết đó trói buộc phải chăng?

Đáp: Nếu kiết quá khứ thì kiết đó đã trói buộc các kiết quá khứ, đắc kia cũng là quá khứ.

Hỏi: Có khi nào kiết đã trói buộc, kiết ấy chẳng phải quá khứ hay không?

Đáp: Có, là kiết vị lai, hiện tại. Các kiết vị lai, hiện tại, đắc ở quá khứ, khi các kiết sinh, hoặc như con bò mẹ lớn đi trước, hoặc như con nghe ocn đi theo sau, hoặc có khi cùng đi. Như bò mẹ đi trước nghĩa là trước sinh kiết, sau sinh đắc, như nghé con lẽo đẽo đi theo sau, nghĩa là trước đắc, sau sinh kiết. Cùng đi, nghĩa là kiết, đắc cùng sinh.

Nghé con nói trong đây là pháp tùy hành.

Hỏi: Các kiết vị lai, kiết ấy sẽ trói buộc phải không?

Đáp: Hoặc kiết vị lai, kiết ấy chẳng phải sẽ trói buộc, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Hỏi: Thế nào là kiết ở vị lai? Kiết ấy sẽ không trói buộc hay không?

Đáp: Các kiết vị lai đã dứt, đã biết, đã diệt, đã nôn ra, đối với tâm dứt trừ kiết kia, lại không lui sụt dứt trừ kiết, đó là trí dứt. Biết là trí biết, diệt là số diệt, nhả bỏ. Nghĩa là dứt không giải thoát, được giải thoát, được tác chứng. Đối với dứt trừ kiết kia, tâm không thối chuyển, nghĩa là A-la-hán bất thối pháp. Nếu là A-la-hán pháp bất thối, thì kiết, do kiến đạo dứt ba cõi ở vị lai. Đã dứt bỏ, cho đến đã nhả bỏ, kiết kia không còn trói buộc vì sao? Vì A-na-hàm là người của pháp không thối chuyển, nếu là A-la-hán thối pháp, kiết do kiến đạo của ba cõi vị lai dứt trừ, sẽ dứt trừ cho đến đã nhả bỏ. Kiết ấy không còn trói buộc A-nahàm là bậc bất thối pháp đã lìa dục của Vô sở hữu xứ.

Kiết, do kiến đạo dứt ba cõi vị lai và kiết của tám địa, do tu đạo dứt, đã dứt cho đến đã nhả bỏ, kiết đó không còn trói buộc nữa, cho đến lìa dục cõi Dục, chưa lìa dục của Sơ thiền, do kiến đạo dứt ba cõi, pháp, bị dứt trừ của tu đạo cõi Dục. Kiết kia đã dứt, cho đến đã nhả bỏ, lại không trói buộc nữa. Tư-đà-hàm của pháp bất thối, kiết do kiến đạo dứt ba cõi ở vị lai và sáu thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đã dứt, cho đến đã nhả bỏ, lại không còn trói buộc nữa. Kiết do kiến đạo dứt ba cõi ở vị lai, mà Tu-đà-hoàn đã dứt cho đến đã nhả bỏ không còn trói buộc nữa.

Phàm phu của pháp bất thối, như Bồ-tát đều lìa dục của Vô sở hữu xứ, kiết do kiến đạo, tu đạo dứt của tám địa đã dứt, cho đến đã nhả bỏ không còn trói buộc nữa, cho đến lìa dục cõi Dục. Một địa nói cũng giống như thế.

Hỏi: Thế nào là kiết sẽ trói buộc, kiết kia không ở vị lai?

Đáp: Các kiết quá khứ đã dứt, đã biết, đã diệt, đã nhả bỏ. Đối với dứt trừ kiết kia, tất nhiên thối lui, kiết do tu đạo dứt qua khứ ba cõi, đã dứt cho đến đã nhả bỏ. Kiết kia sẽ trói buộc, A-na-hàm của thối pháp, đã lìa dục của Vô sở hữu xứ, kiết do tu đạo dứt của tám địa quá khứ dứt trừ, cho đến đã nhả bỏ. Kiết đó sẽ trói buộc, cho đến lìa dục cõi Dục, chưa lìa dục Sơ thiền, nói cũng giống như thế. Đã lìa dục của Vô sở hữu xứ, người phàm phu thối lui, kiết do kiến đạo, tu đạo của tám địa quá khứ đã dứt, cho đến đã nhả bỏ. Kiết kia sẽ trói buộc, cho đến lìa dục cõi Dục, chưa lìa dục của Sơ thiền, nói cũng như trên.

Hỏi: Thế nào là kiết ở vị lai, kiết đó sẽ trói buộc hay không?

Đáp: Các kiết ở vị lai đã dứt, cho đến đã nhả bỏ, kiết ấy tất nhiên thối lui, nói rộng như quá khứ.

Hỏi: Kiết không ở vị lai là sao? Kiết đó sẽ không trói buộc hay không?

Đáp: Các kiết quá khứ đã dứt, cho đến đã nhả bỏ, kiết ấy, tất nhiên không thối lui, nói rộng như kiết vị lai.

Hỏi: Các kiết hiện tại, kiết đó nay đang trói buộc hay không?

Đáp: Nếu kiết hiện tai, kiết ấy nay đang trói buộc các kiết hiện tại, đắc kia cũng hiện tại.

Hỏi: Có khi nào kiết hiện nay đang trói buộc, kiết đó chẳng phải hiện tại chăng?

Đáp: Có các kiết quá khứ, vị lai. Các kiết quá khứ, vị lai được ở hiện tại, trói buộc quá khứ: Như cách đi của con bò lớn. Hiện tại, nghĩa là như cách đi của nghé con, đã có thể dùng đạo để dứt trừ kiết cõi Dục thối lui.

Lúc đạo kia lại được thì kiết kia, có được hay không?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không có thối pháp, như phái Tỳ-bà Xàbà-đề vì dùng dụ hiện tại nên đã nói rằng: Hiện nay đang thấy chiếc bình bể, chỉ có các mảnh vụn, không thể thành bình trở lại. Cũng thế, A-la-hán đã dùng định Kim cương dụ, nhằm phá các phiền não, sao cho không còn sót, không thể thành phiền não trở lại. Cũng như đốt gỗ thành tro, không còn công dụng của gỗ nữa.

Cũng thế, A-la-hán dùng lửa trí tuệ đốt bỏ phiền não, không còn tác dụng của phiền não, vì là dụ hiện thực, nên nói không có thối pháp.

Vì dứt trừ ý của người nói như thế, cũng nói thối pháp có thật thể. Nếu nói không có thối pháp, thì trái với kinh Phật. Kinh Phật nói có hai hạng A-la-hán:

  1. Thối pháp.
  2. Pháp bất thối.

Thối pháp trái với kinh khác, như nói: Có năm nhân duyên A-lahán thời giải thoát thối chuyển. Năm nhân duyên đó là:

  1. Về việc kinh doanh.
  2. Đọc tụng nhiều.
  3. Hòa giải tranh chấp.
  4. Đi xa.
  5. Bệnh.

Lại trái với kinh khác, như nói: Tôn giả Cù-hê-ca, đắc quả A-lahán là thời giải thoát, sáu lần lùi sụt quả A-la-hán. Trở lại lần thứ bảy, sợ thối lui pháp nầy, dùng dao tự sát chết.

Vì muốn cho không có lỗi như thế, nên nói pháp thối thật có thể nhất định.

Hỏi: Nếu thối pháp thực sự có thể nhất định, thì theo hiện dụ của thuyết Tỳ-bà Xà-bà-đề nói, làm sao hiểu được?

Đáp: Thuyết nầy không cần hiểu. Vì sao? Vì thuyết nầy chẳng phải Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, không thể đem việc hiện thực của thế gian để vấn nạn pháp Hiền Thánh, vì pháp Hiền Thánh khác, pháp thế gian khác.

Hỏi: Nếu muốn hiểu, là có ý gì?

Đáp: Lẽ ra nói về lỗi của dụ. Nếu thí dụ có lỗi, thì nghĩa cũng có lỗi. Như lúc chiếc bình bể, có miểng ngói nát vụn còn lại, lúc A-la-hán dứt các kiết là kiết có dư sót hay không có? Nếu là kiết có dư sót, thì đó gọi là hữu kiết, không gọi là A-la-hán. Nếu không bị kiết dư sót thì nghĩa khác, dụ khác, cũng như đốt gỗ, còn lại tro. Cũng thế, khi các kiết của A-la-hán hết, là kiết có thừa hay là không có thừa? Nếu là kiết có thừa, thì không gọi là A-la-hán, nếu không bị kiết thừa, tất nhiên, nghĩa khác, dụ khác. Tuy nhiên gỗ không có nghĩa đốt và vi trần (cực vi) của gỗ làm tác nhân cho cực vi lửa đã tắt, cực vi của lửa làm tác nhân cho vi trần của tro đã tắt. Cho nên, nói rằng: Gỗ là nhân của tro, tro nhân gỗ mà sinh, tạo ra tưởng đốt gỗ. Đốt gỗ đã có tro thừa, chẳng phải không còn gì. Cho nên dụ không giống với nghĩa.

Cũng thế, khi phiền não của A-la-hán đã hết, chẳng phải không có bản tánh, ở đời quá khứ, vị lai sẽ có tướng, có thật thể. Nếu trái với kiết, thì các công đức thiện ở trong thân A-la-hán kia, lúc chưa sinh, gọi là kiết không dứt. Nếu các công đức thiện trái với kiết thì khi công đức trong thân A-la-hán kia sinh ra, kiết kia được gọi là dứt.

Cũng thế, lúc tu Thánh đạo không để cho thể của kiết, sử không có bản tánh. Thánh đạo cũng thế, là việc ít có, có thể khiến cho A-lahán dứt trừ tất cả kiết, không khiến cho kiết nầy chẳng phải không có bản tánh. Cho nên, Tôn giả Cù-sa đã nói rằng: Vì phiền não không chuyển vận trong thân, nên gọi là dứt. Như Đề-bà-đạt-đa không ở trong nhà, chứ chẳng phải không có tánh Đề-bà-đạt-đa. Phiền não kia cũng giống như thế.

Hỏi: Tỳ-bà Xà-bà-đề nêu làm sao hiểu được? Vì có kinh do Đabà-đề dẫn?

Đáp: Bà-đề kia nói rằng: Đạo thối của A-la-hán thối đạo, không thối quả. Vì sao? Vì quả là pháp vô vi.

Hỏi: Nếu vậy thì cho dù quả không thối lui mà. Thối về đạo, chẳng phải thối lui chăng? Nếu thối lui đạo Vô học thì vì được đạo Hữu học hay không? Nếu được thì cũng nên nói là thối quả, nếu không được thì có lỗi lớn, thối lui đạo Vô học, không được đạo Hữu học. Lúc nầy lẽ ra là phàm phu.

Tỳ-bà Xà-bà-đề lại nói rằng: Sử là chủng tử của triền, sử không tương ưng với tâm, triền tương ưng với tâm. Sử có thể sinh triền. Nếu triền hiện ở trước thì gọi là thối. Vì A-la-hán các sử đã dứt, nên không thể sinh triền. Thế nào là khởi triền hiện ở trước mà thối chăng? Cho nên, Bà-đề kia lại nói rằng: Nói không có thối pháp, là quả vô tri, quả tối tăm, quả của phương tiện không siêng năng mà pháp thối có tướng, có thật thể.

Cho nên, vì nhằm ngăn nghĩa của người khác, cho đến vì muốn làm sáng tỏ nghĩa của mình, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Thể tánh của pháp thối chuyển là gì?

Đáp: Là tánh không thành tựu, vô ký không ẩn một, là thuộc về tâm bất tương ưng hành ấm. Đối với pháp như thế, như nói: Các pháp như thế v.v…, gọi là tâm bất tương ưng hành, thối khác, pháp thối khác. Thối, là tánh không thành tựu, như trên đã nói, pháp thối là pháp bất thiện và pháp vô ký ẩn một, cũng như phá tăng khác, tội phá tăng khác: Phá tăng là tánh không hòa hợp, là vô ký không ẩn một, thuộc về tâm bất tương ưng hành ấm, còn tội phá tăng là tăng nói dối, thành tựu không hòa hợp, hợp với người phá tăng tạo thành tội.

Thối lui như thế khác, thối pháp, nói rộng như trên.

Lại có thuyết nói: Nếu khởi sử, hoặc khởi triền hiện ở trước là tánh thối lui. Nếu vậy, thì tánh của pháp thối là nhiễm ô.

Lại có thuyết nói: Nếu pháp thuận theo pháp thối là tánh thối chuyển.

Nếu rằng tất cả các pháp đều là tánh thối. Vì sao? Vì tất cả đều thuận theo tánh thối chuyển.

Tôn giả Phù-đà-đề-bà nói lời: Sự thối lui không có thể tánh. Vì sao? Vì hành giả vốn có các công đức tốt đẹp như thế, đối với pháp kia lùi mất, đọa lạc. Như người bị giặc cướp tài vật, có người hỏi: Ông mất tài vật, thể tánh của chúng là gì? Người kia đáp: Không có thể tánh. Vốn có tài vật, bị giặc cướp mất đâu có tánh gì? Cũng như có người bị cướp mất chiếc áo. Người khác hỏi: Nay ông mất áo, thể tánh của nó là gì? Người kia đáp: Không có thể tánh. Vì sao? Vì tôi vốn có chiếc áo ấy, bị người cướp mất đâu có tánh gì?

Giống như có một người xé rách áo mình. Người khác hỏi: Nay áo của ông đã rách, thể tánh của nó là gì? Người kia đáp: Không có thể tánh. Vì sao? Vì chiếc áo vốn là nguyên vẹn, người khác xé rách đâu có tánh gì? Sự thối lui kia cũng giống như thế.

Lời bình: Nên nói như trên: Thể tánh của sự thối lui là tánh không thành tựu, cho đến nói rộng.

Hỏi: Bị thối lui rồi, phiền não mới hiện ở trước, hay phiền não hiện ở trước rồi mới thối lui? Nếu phiền não hiện ở trước rồi thối lui, thì theo thuyết của phái Ba-già-la-na nói làm sao hiểu được? Như nói: Vì ba việc nên khởi kiết dục ái:

  1. Không dứt, không biết sử dục ái.
  2. Khởi công cụ dục ái hiện ở trước.
  3. Không chánh quán.

Nếu phiền não hiện ở trước, rồi lui sụt thì kinh nầy làm sao hiểu được? Như nói: Có năm nhân duyên khiến A-la-hán thời giải thoát thối lui. Nếu phiền não hiện ở trước rồi thối lui, thì thuyết trong kiền-độ Định, làm sao hiểu được? Như nói: Do tâm của Phi học Phi Vô học thối lui, sinh đắc pháp Hữu học. Thế nào là A-la-hán khởi tâm phiền não hiện ở trước? Với tâm nào theo thứ lớp khởi tâm phiền não? Nếu ngay khi thối lui rồi, khởi phiền não, thì thuyết mà luận Thi Thiết nói, làm sao hiểu được? Như nói: Có khi tâm xa, có khi tâm ngang bướng, vì xa, vì ngang bướng, nên hoặc có lúc khởi ba triền cõi Vô sắc hiện ở trước, nghĩa là ái, mạn, vô minh, nhưng thường khởi triền mạn. Nếu người kia khởi ba triền ở cõi Vô sắc, mỗi mỗi hiện ở trước thì người đó sẽ được gọi là dục ở cõi Vô sắc đã hết, thối lui, trụ trong dục hết cõi Sắc, với Kinh Thức Thân nói, làm sao hiểu được ? giống như có một người khởi tâm nhiễm ô cõi Vô sắc, hiện ở trước, vào lúc ấy gọi là xả căn thiện nào? Căn thiện nào nối tiếp nhau?

Đáp: Xả căn thiện Vô học, căn thiện Hữu học nối tiếp nhau, thối lui tâm Vô học, trụ ở tâm Hữu học.

Với thuyết của phái Ba-già-la-na nói làm sao hiểu được? Như nói: Thế nào là pháp thối? Pháp bất thiện, vô ký ẩn một trụ ở tâm nào? Khởi phiền não hiện ở trước?

Đáp: Nên luận như vầy: Hoặc có thuyết nói: Khởi phiền não hiện ở trước, thối lui.

Cũng thế, đối với thuyết sau, khéo hiểu, còn thuyết của phái Bagià-la-na làm sao thông qua được?

Đáp: Đây là nói người không dứt phiền não, hoặc có người đã dứt phiền não khởi phiền não hiện ở trước, hoặc có người chưa dứt phiền não mà khởi phiền não hiện ở trước. Trong đây nói phiền não chưa dứt, hiện ở trước nghĩa là hoặc có tâm nhiễm ô, theo thứ lớp khởi phiền não hiện ở trước. Thứ lớp, nghĩa là hoặc có người tâm nhiễm ô theo thứ lớp khởi, phiền não hiện ở trước, hoặc có người không không có tâm nhiễm ô theo thứ lớp khởi, phiền não hiện ở trước. Trong đây nói người có tâm nhiễm ô theo thứ lớp khởi phiền não hiện ở trước. Hoặc có người lui sụt, phiền não hiện ở trước, hoặc có người không lui sụt, phiền não hiện ở trước. Trong đây nói người không lui sụt, phiền não hiện ở trước.

Lại nữa, trong đây nói người có thể khởi đầy đủ phiền não, vì ba việc, nên chúng sinh khởi phiền não:

  1. Do năng lực của nhân.
  2. Do năng lực cảnh giới.
  3. Do năng lực phương tiện.

Như nói: Không dứt, không biết sử dục ái, là nói do năng lực của nhân của khởi đủ dục ái hiện ở trước, là nói sức của cảnh giới. Không chánh quan là nói năng lực phương tiện.

Lại nữa, vì không đồng với ngoại đạo, nên nói rằng. Ngoại đạo nói: Vì cảnh giới nên phiền não sinh ra, nếu cảnh giới hoại, thì sẽ không có phiền não.

Vì ngăn chậm ý như thế, nên Tôn giả kia nói vì không chánh quán, nên phiền não sinh.

Với kinh Phật nói, làm sao hiểu, như kinh nói: Có năm nhân duyên, A-la-hán thời giải thoát thối lui?

Đáp: Trong đây nói thối lui đủ, gọi là thối, kinh khác cũng nói: Vì pháp khác đủ, nên gọi là pháp khác. Ở đây cũng giống thế, vì thối lui đủ, nên gọi là thối pháp.

Hỏi: Theo thuyết của Kiền-độ Định nói làm sao hiểu?

Đáp: Trong đây nói căn thối lui, không nói quả thối lui, sao A-lahán lại khởi tâm phiền não?

Đáp: A-la-hán khởi phiền não hiện ở trước, nếu khởi phiền não hiện ở trước, thì sẽ chẳng phải A-la-hán, như người phàm phu khởi pháp vô lậu hiện ở trước. Nếu đã khởi pháp vô lậu hiện ở trước, thì sẽ chẳng phải phàm phu. Người Hữu học khởi pháp Vô học hiện ở trước không khởi pháp Vô học hiện ở trước thì sẽ chẳng phải người Hữu học.

Hỏi: Những tâm nào theo thứ lớp khởi tâm phiền não hiện ở trước?

Đáp: Rốt ráo lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, lại khởi kiết của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ kia, theo thứ lớp, sinh sau tâm thiện. Nếu chẳng phải người rốt ráo lìa dục, khởi kiết của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thối lui. Theo thứ lớp của xứ kia, hoặc khởi tâm thiện, hoặc khởi tâm nhiễm ô, cho đến lìa dục của Sơ thiền, nói cũng như thế. Khi dứt hẳn dục cõi Dục, thối lui, hai thứ tâm theo thứ lớp sinh phiền não, đó là tâm thiện, tâm vô ký không ẩn một. Nếu không đều lìa dục cõi Dục, thì ba thứ tâm sẽ theo thứ lớp sinh phiền não, nghĩa là tâm thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn một.

Lại có thuyết nói: thối lui rồi, phiền não hiện ở trước.

Thuyết trước đã nói, khéo hiểu, với Luận Thi Thiết, luận Thức Thân nói, làm sao thông qua?

Đáp: Thuyết ấy không biết, không giác, nên nói rằng: Trước, thối lui, không biết, không rõ, sau, lúc phiền não khởi, mới biết, mới tỏ. Nay ta thối lui, cũng như Tỳ-kheo tụng bốn bộ A-hàm, vì không phúng tụng, nên bị quên mất, đều không biết rõ. Về sau, tụng không được, mới biết mình đã quên, lúc chẳng tụng, thì trước đó đã quên. Sự thối lui kia cũng giống như thế.

Hỏi: Với kinh Ba-già-na nói, làm sao hiểu được?

Đáp: Thuyết nầy gây tổn giảm pháp thiện, xa cách pháp thiện. Nếu khi phiền não thường hiện ở trước, xa cách pháp thiện, trụ ở tâm nào khởi phiền não hiện ở trước?

Đáp: Trụ ở tâm vô ký không ẩn một, hoặc oai nghi, hoặc công xảo, chẳng phải tâm báo. Vì sao? Vì tâm báo yếu kém.

Hỏi: Có phải vì tâm yếu kém, nên không thể thuận theo pháp thối chăng?

Đáp: Tâm ở trong phần xuất ly thì yếu kém, tâm trong phần phiền não rất lẫy lừng, lúc ấy bị thối lui tâm báo. Ở trong hai thứ tâm, đều yếu kém.

Lời bình: Trụ trong oai nghi, công xảo, tâm báo đều thối lui, nghĩa là tâm vô ký không ẩn một cõi Dục, trở ngại với tâm phiền não của ba cõi. Tâm báo kia, nếu lúc hiện ở trước phiền não của ba cõi không hiện ở trước mà thối lui. Hoặc trở ngại với phiền não cõi Dục, cõi Sắc, không trở ngại với phiền não cõi Vô sắc. Tâm báo kia, nếu lúc hiện ở trước, thì phiền não cõi Dục, cõi Sắc sẽ không được hiện ở trước. Nếu thối lui thì sẽ khởi phiền não cõi Vô sắc hiện ở trước. Hoặc có trở ngại với phiền não cõi Dục, không trở ngại với phiền não cõi Sắc, cõi Vô sắc. Nếu tâm báo kia hiện ở trước, phiền não cõi Dục không hiện ở trước thối lui. Nếu thối lui thì sẽ khởi phiền não cõi Sắc, cõi Vô sắc là thối lui. Hoặc có khi không trở ngại với phiền não của ba cõi. Nếu tâm kia lúc hiện ở trước thì phiền não của ba cõi sẽ xoay vần hiện ở trước. Nếu không được thiền tịnh, được Vô sắc tịnh, nghĩa là hạnh hiện tiền được.

Người kia không thể do phiền não cõi Sắc, cõi Vô sắc hiện ở trước mà thối lui. Nếu được thiền tịnh, thì chứng đắc, nghĩa là đắc của hạnh hiện tiền, không được định của tịnh Vô sắc. Người kia không thể khởi phiền não, rồi thối lui. Nếu được thiền tịnh Vô sắc mà được, nghĩa là hành hiện tiền được. Nếu thối lui thì có thể khởi lên phiền não của ba cõi xoay vần hiện ở trước.

Hỏi: Khi thối lui là vì trụ ở ý địa mà thối lui hay trụ ở năm thức thân mà thối lui?

Đáp: Trụ ở ý địa thối lui, chẳng phải năm thức thân.

Hỏi: Nếu trụ nơi ý địa, chẳng phải năm thức thân, thì nhân duyên của vua Ưu-đà-diên làm sao hiểu được? Nghe nói: vua Ưu-đà-diên đem các cung nữ đến khu rừng núi Xuất-độc-ba-đà, không có người nam, hoàn toàn là người nữ, năm thứ nhạc tự vui chơi. Tiếng nói của các cung nữ rất trong trẻo, dịu dàng đáng yêu. Khi vua cho đốt các thứ danh hương, hoặc có các thể nữ khỏa thân đứng múa.

Bấy giờ, có năm trăm vị tiên, dùng sức thần túc bay lên hư không. Khi ngang qua chỗ đó, các vị tiên nhìn thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương thơm, bèn mất thần túc, giống như chim không cánh, rơi xuống giữa khu rừng ấy. Nhà vua thấy họ đúng lúc nầy, bèn hỏi: Các ông là ai?

Các vị tiên đáp: Chúng tôi là vị tiên.

Nhà vua lại hỏi: Chư Hiền! Các vị đã được định Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chưa?

Đáp: Chưa được.

Cho đến hỏi: Các vị đã được Sơ thiền chăng?

Đáp: Từng được mà nay đã mất rồi.

Lúc đó, nhà vua nổi cơn giận dữ, nói: Các ông có dục vọng, vì nhìn thấy các cung phi, thể nữ của ta, nên mới phạm lỗi đó, bèn rút gươm bén chặt đứt hết tay, chân của năm trăm vị tiên.

Các vị tiên kia, hoặc có người trụ ở nhãn thức mà thối lui, hoặc có người trụ ở nhĩ thức thối lui, hoặc có người trụ ở tỷ thức mà thối lui. Với nhân duyên của Ưu-đà-la-ma-tử, làm sao hiểu được?

Nghe nói Ưu-đà-la-ma-tử được một vị vua thường bố thí thức ăn. Mỗi khi đến giờ, ông ta dùng sức thần túc, giống như chim nhạn đầu đàn bay trên hư không đến cung vua. Bấy giờ nhà vua liền đến trước ông, đích thân đón rước, ôm lấy vị tiên đưa ngồi trên giường vàng, dâng lên cúng dường các thức ăn mà các vị tiên thường dùng. Vị tiên ăn xong, rửa bát, súc miệng, nói kệ chú nguyện, rồi bay lên hư không mà đi.

Thời gian sau, vị vua nầy vì việc nước phải đến nơi khác, nghĩ rằng: Nếu ta đi rồi, sẽ không có người nào giúp việc thường cung cấp thức ăn cho vị tiên! Vị tiên với tánh vội vã, có thể nổi cơn giận rồi nguyền rủa, khiến ta hoặc sẽ mất ngôi vua, hoặc sẽ cắt đứt mạng sống của ta, bèn hỏi công chúa: Nếu vị tiên đến, như cung cách thường của trẫm đối với vị ấy, con có thể cúng dường được không?

Công chúa tâu: Muôn tâu phụ vương! Con làm được! Lúc ấy nhà vua lại ra lệnh cho các thể nữ phải tận tâm làm việc cúng dường cho vị tiên, sau đó mới đi kinh lý việc nước.

Hôm sau, đúng vào giờ ăn, vị tiên từ trên không bay đến. Lúc ấy, Công chúa thực hiện đúng như cung cách phu vương đã dặn, đích thân đón rước, ôm lấy vị tiên đặt ngồi trên giường vàng. Thân thể công chúa rất mềm mại, vị tiên tuy đã lìa dục, nhưng vẫn còn mỏng, ít, nên khi xúc chạm thân người nữ, liền thối mất thần túc. Sau khi ăn xong, rửa bát, súc miệng đọc kệ chú nguyện định bay lên hư không, nhưng không thể được. Phía sau cung vua có khu vườn, vị tiên liền đi vào đó, định tu thần túc nhưng tai vẫn nghe tiếng rầm rập của voi, ngựa, xa giá nên tu không được.

Khi đó, người dân trong thành thường nghĩ: Nếu khiến cho vị đại tiên kia đi trên đất, tất chúng ta sẽ được gần lễ dưới chân. Vị tiên vốn thông minh trí tuệ khéo biết phương tiện, bèn nói với công chúa: Nàng hãy báo cho các người người dân trong thành được biết, hôm nay vị đại tiên sẽ từ cung vua đi bộ ra. Dân chúng hãy làm cho xong những việc nên làm. Y như lời vị tiên dạy, công chúa liền báo cho dân chúng trong thành biết.

Bấy giờ, dân chúng lo quét dọn sạch sẽ rác rưỡi ở các con đường chính dẫn đến thành, treo các phướn, lọng, đốt các thứ danh hương, rải các thứ hoa, trang hoàng đẹp đẽ giống như thành trời. Lúc ấy vị tiên từ cung vua đi bộ ra khỏi thành không xa thì rẽ vào rừng cây, định tu thần túc. Nghe tiếng chim hót, tu không thể được, bèn bỏ rừng cây, lại bên bờ sông, dùng cách xưa để tu thần túc. Lại nghe tiếng cá tôm động mạnh trong nước nên cũng tu không được, mới đi dần lên núi, nghĩ rằng: Sở dĩ hiện nay ta mất hết pháp thiện đều do chúng sinh. Thông thường các pháp thiện, các hạnh tịnh, hạnh khổ ta đã có được khiến ta sẽ làm đủ các loài chúng sinh như thế để làm hại mọi loài ở nước, đi trên đất liền, hoặc bay trên hư không, hoặc chúng sanh sống dưới nước tất cả đều không thoát khỏi tay ta. Phát ra lời thề độc ác nầy xong, liền lìa dục của tám địa, sinh lên cõi Hữu Đảnh của xứ Phi tưởng Phi phi tưởng, mở cửa cam lộ ở ngoài ruộng vắng lặng, suốt trong tám vạn kiếp ở trong cảnh tịch tĩnh an vui. Khi nghiệp báo hết, trở lại sinh vào chốn A-lannhã Đàm-ma trong rừng cây Đáp-ba nầy, làm chồn có cánh, thân cao năm mươi do-tuần, hai cánh mỗi bên đều rộng năm mươi do-tuần, thân dài đến một trăm năm mươi do-tuần. Vị tiên kia đã dùng thân khổng lồ ấy sát hại tất cả chúng sinh bay trên hư không, sống dưới nước, đi trên đất liền không chúng sinh nào thoát khỏi tai họa. Sau khi chết đọa vào địa ngục A-tỳ!

Lúc trụ ở thân thức như thế v.v… rồi thối lui. Với nhân duyên của Đế – thích, làm sao hiểu được? Nghe nói lúc Phật chưa xuất thế, Đếthích thường đi đến chỗ vị tiên Đề Ba Diên Na để nghe pháp. Sau đó Đế-thích cưỡi xe trang hoàng bằng các thứ báu, định đến chỗ vị tiên, khi đó nữ A-tu-la vợ của Đế-thích là phu nhân Xá- Chi nghĩ rằng: “Nay Đế-thích bỏ ta, định đến với các thể nữ khác”, nghĩ như vậy rồi vội giấu hình mình bước lên xe. Đế-thích không hay biết vẫn cho xe đi đến chỗ vị tiên. Chừng ngoảnh lại mới thấy Xá-chi, liền hỏi: Tại sao khanh lại đến đây? Nay vị tiên không muốn nhìn thấy người nữ, vậy khanh nên về cung. Bấy giờ Xá-chi không muốn trở lại, Đế-thích bèn dùng công hoa sen đánh, Xá-chi dùng tiếng nói dịu dàng êm ái của người nữ để từ tạ Đế-thích. Vị tiên nghe liền khởi tâm ái dục như thế mà hiện ra trước mặt, khiến búi tóc của ông ta liền rớt xuống đất.

Trụ ở nhĩ thức như thế v.v… mà thối lui. Nếu trụ ở ý thức, không trụ nơi năm thức mà thối lui, với các nhân duyên như thế v.v…, làm sao hiểu được?

Đáp: Các thuyết nói như vậy v.v… đều trước dựa vào năm thức sinh ra ý thức, sau đó mới thối lui.

Tôn giả tăng-già-bà-tu đã nói rằng: Trụ ở năm thức thân cũng thối lui. Vì sao? Vì mắt thấy sắc, có thể sinh phiền não, cho đến thân xúc chạm sự xúc chạm ấy có thể sinh ra phiền não. Vì sự đối trị của vị tiên kia yếu kém, nên hễ mắt vừa nhìn thấy sắc là thối lui ngay, cho đến thân xúc chạm, xúc chạm liền thối lui.

Lời bình: Nên nói rằng: Trụ ở ý địa thối lui, không trụ ở sáu thức.

Vì sao? Vì ý địa có sáu việc không chung cho năm thức:

  1. Thối chuyển.
  2. Lìa dục.
  3. Chết.
  4. Sinh.
  5. Dứt căn thiện.
  6. Lại khiến cho nối tiếp.

*******

 

Sự thối lui có ba thứ:

  1. Được, mà thối lui.
  2. Không được, mà thối lui.
  3. Hành không hiện tiền, mà thối lui.

Được, mà thối lui: Được các công đức thiện mà thối lui.

Không được, mà thối lui: Tất cả chúng sinh, nếu siêng năng vận dụng phương tiện, đều sẽ thích ứng được với tuệ nhãn của bậc Thánh. Vì tham đắm danh, sắc, nên không siêng năng dùng phương tiện. Đó gọi là không được, mà thối lui. Như kệ nói:

Tất cả trời, người đời

Đều nên được tuệ nhãn

Vì tham đắm danh, sắc

Nên không thấy chân đế.

Lại như kệ nói:

Người ngu tiểu, cung kính

Đó gọi là mất lợi

Mất hết các pháp thiện

Đó gọi là Đảnh đọa.

Đức Thế tôn vì Đề-bà-đạt-đa nên nói kệ nầy. Đề-bà-đạt-đa đã khởi căn thiện Noãn, không bao lâu sẽ được pháp Đảnh. Trong thời gian đó, vì tham đắm lợi dưỡng, nên lui sụt đối với pháp thiện. Cũng thế gọi là không được mà thối lui.

Hành không hiện tiền, mà thối lui: Đã được pháp thiện, hành không hiện tiền. Như Đức Phật không khởi Bồ-đề của Phật hiện ở trước, Bíchchi Phật không khởi Bồ-đề của Bích-chi Phật hiện ở trước. Thanh văn không khởi Bồ-đề của Thanh văn hiện ở trước, đó gọi là hành không hiện tiền, mà thối lui.

Hỏi: Trong ba thứ thối nầy, có bao nhiêu thối là của Phật, có bao nhiêu thối là của Bích-chi Phật, bao nhiêu thối là của Thanh văn?

Đáp: Phật có một thứ thối lui, là hành không hiện tiền, mà thối lui. Tức vốn được pháp thiện, vì hành không hiện tiền, nên đều thối lui. Vì sao? Vì trong tất cả chúng sinh đều được căn vượt hơn, nên không bị thối lui. Vì sao? Vì chẳng phải pháp thối chuyển.

Bích-chi Phật có hai thứ thối lui:

  1. Không được, mà thối lui.
  2. Hành không hiện tiền, mà thối lui.

Không được mà thối lui: Là không được căn Phật.

Hành không hiện tiền, mà thối lui: Nghĩa là vốn được pháp thiện, vì hành không hiện tiền nên.

Không được thối lui, vì chẳng phải thối pháp.

Thanh văn là phi thời giải thoát, có hai thứ thối lui:

  1. Không được, mà thối lui.
  2. Hành không hiện tiền, mà thối lui.

Không được, mà thối lui: Là không được căn của Phật, Bích-chi Phật.

Hành không hiện tiền, mà thối lui: Vốn được pháp thiện, vì hành không hiện tiền.

Không được thối lui: Vì chẳng phải thối pháp. A-la-hán thời giải thoát có ba thứ thối lui:

1. Được, mà thối lui: Trước đã được pháp thiện mà thối lui.

2. Không được, mà thối lui: Không được ba thứ căn.

3. Hành không hiện tiền, mà thối lui: Trước đã được pháp thiện, hành không hiện tiền.

Lại có thuyết nói: Phật, Thế tôn không có ba thứ thối lui:

1. Không được, mà thối lui: Vì chẳng phải thối pháp.

2. Đều được, mà thối lui: Vì trụ ở căn tối thắng trong tất cả chúng sinh.

3. Không có hành hiện tiền, mà thối lui: Vì sao? Vì Đức Phật đã chứa nhóm các khổ hạnh khó làm ở trong vô số A-tăng-kỳ kiếp, đều muốn vì chúng sinh giảng nói pháp, nên không khi nào không vì chúng sinh.

Bích-chi Phật có một thứ thối lui: Là trước đã được pháp thiện, hành không hiện tiền. Không được, mà thối lui, vì chẳng phải thối pháp.

Đều được, mà thối lui: Nếu đối với Bích-chi Phật căn đã nhất định, không mong cầu căn Phật.

A-la-hán phi thời giải thoát có một thứ thối lui: Trước đã được pháp thiện, hành không hiện tiền. Không được, mà thối lui: Vì chẳng phải thối pháp. Đều được, mà thối lui: Nếu đối với căn của phi thời giải thoát đã định, sẽ không cầu căn của Bích-chi Phật, Phật.

Thời giải thoát có hai thứ thối lui:

1. Được, mà thối lui: Trước đã được pháp thiện mà thối lui.

2. Hành không hiện tiền, mà thối lui: Trước được pháp thiện, hành không hiện tiền. Đều được, mà thối lui: Nếu đối với căn của thời giải thoát đã quyết định sẽ không mong cầu ba thứ căn trên.

Lời bình: Nên nói rằng: Phật, Thế tôn có một thứ thối lui, nghĩa là hành không hiện tiền, mà thối lui. Bích-chi Phật có hai thứ thối lui: Hành không hiện tiền, mà thối lui. Không được, mà thối lui. A-la-hán phi thời giải thoát cũng giống như thế.

A-la-hán thời giải thoát có ba thứ thối lui: Được, mà thối lui. Hành không hiện tiền, mà thối lui và không được, mà thối lui.

Hỏi: Làm sao biết được Phật, Thế tôn có hành không hiện tiền, mà thối lui?

Đáp: Vì dựa vào kinh Phật, nên biết. Kinh nói: Phật bảo Tôn giả A-nan: Như lai có bốn thứ tâm tăng thượng, thọ nhận hiện pháp lạc, đối với bốn tâm nầy xoay vần có thối lui. Như khi các đệ tử nhóm họp, vì họ giảng nói pháp. Nếu pháp bất động, tâm được giải thoát, thân tác chứng thì không nói có thối lui.

Hỏi: Trong đây, vì nói hành hiện tiền thối lui hay nói được, mà thối lui? Nếu nói là hành hiện tiền thối lui, thì pháp bất động, tâm được giải thoát, lẽ ra cũng có thối lui. Vì sao? Vì không thể nào trong tất cả thời gian đều khiến cho pháp bất động, thường hiện ở trước. Nếu nói được mà thối lui, thì bốn thứ tâm tăng thượng lẽ ra cũng không thối lui.

Vì sao? Vì Như lai là pháp bất thối.

Nếu luận như thế, là hành không hiện tiền, mà thối lui.

Hỏi: Nếu vậy thì pháp bất động tâm được giải thoát, lẽ ra cũng phải có thối lui?

Đáp: Pháp bất động, tâm được giải thoát, nghĩa là vì chứng đắc là vượt hơn. Nếu chứng đắc pháp kia thì không còn tạo ra tâm tăng thượng, do hành hiện tiền là vượt hơn, nếu không hiện ở trước thì nói là thối lui.

Lại có thuyết nói: Nếu dựa vào thiền Vị chí, là nói pháp bất động.

Nếu dựa vào thiền cội gốc, là nói tâm tăng thượng. Như lai dựa vào vị lai, hiện ở trước nhiều. Nếu đang ăn, hoặc ăn xong, lúc vì người khác nói pháp, nói pháp rồi, muốn nhập định. Mặc dù Như lai nhanh chóng đối với thiền định, nhanh chóng đối với thiền Vị chí, nhưng hơn hết là thiền cội gốc, giống như người đi nhanh, nhanh chóng về cách đi, nhưng nhanh với chỗ gần, vượt hơn nhanh với chỗ xa.

Lại nữa, lợi ích cho mình là nói tâm tăng thượng. Đem lại lợi ích cho người là nói tâm bất động. Như lai làm lợi ích cho người khác nhiều, lợi ích mình ít.

Lại nữa, từ bi là nói tâm bất động, hỷ xả là nói tâm tăng thượng. Như lai thường khởi từ bi, ít khởi hỷ, xả

Lại nữa, đại bi là nói bất động, đại xả là nói tâm tăng thượng. Như lai thường khởi tâm đại bi, ít khởi đại xả.

Tôn giả Cù-sa nói: Dứt hẳn tất cả kiết, là nói bất động, Như lai thì bất cứ lúc nào tâm từ bi của Ngài cũng được hiện ở trước.

Hỏi: Nếu Phật, Thế tôn có hành hiện tiền mà thối lui, có hành không hiện tiền, mà thối lui, Phật nhiều, Bích-chi Phật nhiều, Thanh văn có nhiều không?

Đáp: Hành không hiện tiền của Như lai, thối lui nhiều, chẳng phải Thanh văn, Bích-chi Phật. Vì sao? Vì nếu Như lai trong khoảng một sátna, hành không hiện tiền mà thối lui sẽ vượt hơn Bích-chi Phật, Thanh văn suốt đời thối lui, vì Như lai có pháp uẩn sáng sạch, sâu rộng vô biên. Ví như vua trị vì bốn châu thiên hạ là Chuyển luân Thánh vương, nếu lìa quốc độ của mình trong một ngày, thì vượt hơn tiểu vương xa lìa quốc độ của mình suốt cả đời.

Kiền-độ Định nói rằng: Vì sao quả A-la-hán thối lui, quả A-nahàm thối lui, quả Tư-đà-hàm thối lui chẳng phải quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Tức văn của Kiền-độ Định kia nói: Pháp, bị dứt trừ của kiến đế duyên với vô sở hữu.

Duyên với vô sở hữu là thế nào? Nhân không có pháp khởi.

Nhân không có pháp khởi là sao? Nhân nơi ngã khởi. Trong nghĩa thật thì không có ngã. Pháp, bị tu đạo dứt trừ duyên với pháp hữu.

Thế nào là duyên với pháp hữu?

Đáp: Vì có khởi.

Hỏi: Thế nào là vì có khởi?

Đáp: Vì nhân tịnh, nên tịnh có chút tịnh. Như tóc, móng tay, răng, môi, với hình sắc tịnh, đồng quán pháp nầy, vì tạo ra tưởng tịnh, nên đối với pháp bất tịnh thì thối lui. Không có phần ít của pháp là ngã, ngã sở mà chấp ở ngã. Lúc quán pháp nầy, không có đối với pháp vô ngã, mà thối lui, cho nên không thối lui.

Lại nữa, dứt bỏ phiền não, chỗ dứt của kiến đạo ba cõi, gọi là quả Tu-đà-hoàn, không có công năng thối lui phiền não, chỗ bị dứt trừ của kiến đạo ba cõi, gọi là quả là quả Tu-đà-hoàn.

Lại nữa, dứt bỏ phiền não, do kiến đạo dứt nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, gọi là quả Tu-đà-hoàn, không có công năng thối lui phiền não, do kiến đạo dứt nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Đây là nhân luận sinh luận, vì sao không có công năng thối lui phiền não, do kiến đạo dứt nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ?

Đáp: Vì phiền não của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ rất khó dứt, khó phá, khó vượt qua. Vì khó dứt, khó phá, khó vượt qua, nên lại khiến cho chúng nối tiếp nhau cũng khó.

Lại nữa, dùng nhẫn làm đối trị dứt, duyên phiền não của vô sở hữu, gọi là quả Tu-đà-hoàn, không có thối lui nhẫn, làm đối trị dứt, duyên phiền não của vô sở hữu.

Lại nữa, do kiến đạo có thể tiến đến quả Tu-đà-hoàn, không người nào có thể thối lui kiến đạo.

Cũng thế nhân luận sinh luận, vì sao không người nào có khả năng thối lui kiến đạo?

Đáp: Kiến đạo là đạo nhanh chóng. Người không khởi đạo, sẽ không có thế lực khởi đạo kia.

Lại nữa, hành giả nhập kiến đạo, đó gọi là nhập vào dòng pháp lớn của sông pháp lớn, còn không thể khởi tâm thiện, vô ký không ẩn một hiện ở trước, huống chi là tâm nhiễm ô. Ví như người rơi từ trên núi xuống chỗ dòng chảy xiết của sông, khe suối, cũng không thể dựa vào bờ bên kia, bên nầy, huống chi là lội qua được. Nhập kiến đạo kia cũng giống như thế.

Lại nữa, kiến đạo là pháp đối trị, do kiến đạo ba cõi dứt, không người nào làm thối lui phiền não do kiến đạo dứt trừ trong ba cõi.

Lại nữa, kiến đạo là pháp đối trị, do kiến đạo dứt nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, không người nào có thể làm thối lui phiền não của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Lại nữa, kiến đạo là đối trị của nhẫn dứt, duyên của phiền não vô sở hữu, không ai có thể thối lui Nhẫn làm đối trị dứt, duyên theo phiền não của vô sở hữu.

Hỏi: Nếu thối lui quả A-la-hán, khi trụ quả Tu-đà-hoàn, nên nói là thối lui quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm hay không?

Đáp: Nên nói là thối lui. Ví như người bị rơi từ lầu ba xuống đất, nên nói người nầy rơi từ lầu ba xuống. Sự thối lui quả A-la-hán cũng giống như thế.

Hỏi: Hai quả Sa-môn kia vốn không thành tựu, vì sao nói thối lui?

Đáp: Vì không thành tựu, lại không thành tựu.

Vì không thành tựu, lại không thành tựu là sao?

Đáp: Vì xưa đã xa, nay lại xa.

Lại nữa, vì đã dứt bỏ ngần ấy kiết, nên gọi là quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm. Vì thối lui kiết, nên quả cũng gọi là thối lui.

Lại nữa, các phiền não lấy quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm làm đối trị, phiền não kia vốn được tạo thành, vì tạo thành phiền não nên đối trị phiền não kia, gọi là thối lui.

Lại nữa, vì đạo vô ngại, giải thoát có thể dẫn đến quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, nên đối với quả thối của đạo kia cũng gọi là thối lui.

Lại nữa, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm là nhân của quả A-lahán. Quả A-la-hán nếu thối lui quả kia, thì nhân cũng gọi là thối lui.

Hỏi: Quả Tu-đà-hoàn cũng là nhân của quả A-la-hán, quả A-lahán cũng là quả của quả Tu-đà-hoàn kia. Vì sao lúc thối lui quả A-lahán kia không thối lui nhân?

Đáp: Vì trước quả Tu-đà-hoàn lại không có quả nào khác. Nếu khi thối lui quả Tu-đà-hoàn kia thì lại không có trú xứ. Hoặc là người đang thối lui quả Tu-đà-hoàn vốn là người đã kiến đế, hiện nay chẳng phải kiến đế, xưa là đắc quả, nay chẳng phải đắc quả, xưa là quyết định, nay chẳng phải quyết định, xưa là bậc Thánh, nay chẳng phải bậc Thánh.

Vì muốn cho không có lỗi như thế, nên nói quả Tu-đà-hoàn không thối lui.

Quả Sa-môn, cội gốc thối lui thì không qua đời, trung gian của quả thối lui thì qua đời.

Hỏi: Vì sao quả Sa-môn, cội gốc sự thối lui thì qua đời?

Đáp: Vì dễ thấy, dễ lập bày: Đây là quả Tu-đà-hoàn, cho đến nói đây là quả A-la-hán, quả trung gian không dễ thấy, không dễ lập bày.

Lại nữa, hành giả, lúc nầy đối với quả, cảm thấy rất vui vẻ, hài lòng. Ví như nhà nông, sau nghiệp vụ canh tác ruộng nương trong sáu tháng sẽ thu hoạch hạt lúa chắc, chứa nhóm trong sân, kho, lòng cảm thấy vui vẻ, vừa ý. Quả Tu-đà-hoàn kia cũng thế.

Lại nữa, lúc nầy có ba việc:

  1. Được đạo không hề được.
  2. Bỏ đạo từng được.
  3. Dứt bỏ phiền não đồng một vị.

Lại nữa, lúc nầy có năm việc:

  1. Được đạo không hề được.
  2. Bỏ đạo đã từng được.
  3. Dứt phiền não đồng một vị.
  4. Được ngay tám trí.
  5. Tu mười sáu hành.

Lại nữa, lúc nầy là chỗ nghỉ ngơi, nơi nghỉ ngơi hơn.

Lại nữa, lúc nầy dứt trừ kiết các việc thành, đạo phương tiện, phương tiện hoàn thành. Sự dứt trừ kiết của quả trung gian chưa thành xong, đạo phương tiện chưa thành tựu.

Lại nữa, lúc nầy, chấp nhận rộng tu đạo, quả trung gian không chấp nhận rộng tu đạo.

Lại nữa, hành giả lúc nầy khéo nhận biết công đức, lỗi xấu. Biết công đức là đạo, quả đạo. Biết lỗi xấu là pháp sinh tử.

Lại nữa, hành giả ở lúc nầy khéo nhận lấy về tướng mạo. Như người lúc đi giữa đường, không thể nhớ lấy tướng mạo của bốn phương. Nếu ngồi ở một chỗ thì có thể khéo ghi nhớ tướng mạo của bốn phương. Hành giả kia cũng giống như thế.

Lại nữa, lúc nầy hành giả có kẻ theo hầu thấy biết. Giống như có người đến giữa thôn xóm, bị kẻ cướp giựt không có người theo hầu thấy biết. Nếu ở ngay trong thôn mà bị cướp giựt thì có nhiều người theo hầu thấy biết.

Lại nữa, lúc nầy, hành giả trước rộng tu đạo phương tiện, chỗ chân đứng bền chắc là quả Tu-đà-hoàn.

Người rộng tu đạo phương tiện, trước vì giải thoát, nên tu bố thí, giữ giới, văn tuệ, tu tuệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất và mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo.

Quả Tư-đà-hàm rộng tu đạo phương tiện: Như trên đã nói: Các điều thiện, lại còn có việc chưa từng có, nghĩa là lìa dục cõi Dục, tu đạo phương tiện, sáu đạo vô ngại, năm đạo giải thoát.

Quả A-na-hàm rộng tu đạo phương tiện: Như trên đã nói: Các việc thiện, lại có pháp không hề có, nghĩa là khi lìa ái dục, tu đạo phương tiện, ba đạo vô ngại, hai đạo giải thoát.

Quả A-la-hán rộng tu đạo phương tiện: Như trên đã nói: Các việc thiện, lại còn có pháp không hề có, nghĩa là khi lìa dục của Sơ thiền, tu đạo phương tiện, chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, nói cũng giống như thế. Khi lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, chính là đã tu các đạo phương tiện, chín đạo vô ngại và tám đạo giải thoát.

Lại nữa, lúc nầy, hành giả đã dứt bỏ tất cả phần sinh, dừng tất cả phần sinh. Tu-đà-hoàn trừ bảy phần sinh cõi Dục, mỗi chỗ sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc, trừ một phần sinh, còn tất cả phần sinh khác đều được phi số diệt.

Tư-đà-hàm, trừ hai phần sinh cõi Dục, mỗi chỗ sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc, trừ một phần sinh, tất cả phần sinh còn lại đều được phi số diệt.

Mỗi nơi sinh ở cõi Sắc, cõi Vô sắc của A-na-hàm đều trừ một phần sinh, tất cả phần sinh còn lại đều được phi số diệt.

Tất cả phần sinh của A-la-hán đều được phi số diệt.

Lại nữa, lúc nầy, hành giả đã dứt phiền não, chứng ngay kiến đạo, tu đạo của ba cõi. Tu-đà-hoàn chứng ngay kiến đạo của ba cõi đã dứt bỏ phiền não. Tư-đà-hàm chứng ngay kiến đạo của ba cõi đã dứt bỏ phiền não và tu đạo cõi Dục đã dứt trừ sáu thứ phiền não. A-na-hàm chứng ngay kiến đạo ba cõi, đã dứt bỏ phiền não và chín thứ phiền não, do tu đạo dứt cõi Dục. A-la-hán chứng khắc kiến đạo, tu đạo của ba cõi, đã dứt trừ phiền não.

Do những việc v.v… như thế, nên quả Sa-môn cội gốc thối lui, không qua đời, quả trung gian thì có qua đời, khi đã lìa dục cõi Dục, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, đã được chánh quyết định. Nếu thối lui, nghĩa là do thối lui phiền não của địa trên.

Hỏi: Vì sao thối lui phiền não của địa trên mà không thối lui phiền não của địa dưới?

Đáp: Vì phiền não của địa dưới đã bị trừ do hai thứ đối trị, nên không thể sinh lại.

Lại nữa, phiền não của địa trên kia đã dứt rồi, còn có lập lại pháp của kiến đạo rơi vào địa trên, vì còn rơi vào địa trên nên không thể sinh lại. Như người nằm nghỉ dưới đất, núi lớn rơi lên trên, cũng không thể nhúc nhích, huống chi là có thể đứng dậy.

Lại nữa, kiết của địa trên kia đã dứt rồi, sinh ra trí nhẫn, không ai có thể làm thối lui trí nhẫn.

Lại nữa, kiết của địa trên kia đã dứt trừ xong, sinh ra pháp trí, tỷ trí, không có địa nào rốt ráo thối lui pháp trí, tỷ trí.

Lại nữa, kiết của địa trên đã dứt rồi, sinh ra pháp Thế đệ nhất, không có địa nào thối lui pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, kiết của địa trên đã dứt rồi, sinh ra nhẫn tăng thượng, không có địa nào thối lui nhẫn tăng thượng.

Lại nữa, người phàm phu đã lìa dục cõi Dục, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, từ cõi Dục cho đến Vô sở hữu xứ, phiền não, bị kiến đạo, tu đạo dứt, tập hợp lại, như cách cắt cỏ, tạo ra chín thứ, dứt trừ cùng lúc. Sau khi đắc quả, về đối trị thối lui, nên nói là kiết đã dứt nên thành tựu kiến đạo chăng? Nếu đã thành tựu thì sẽ không có bậc Thánh thối lui kiến đạo dứt trừ kiết. Nếu không thành tựu, thì làm sao phiền não đồng một đối trị dứt? Đối với đối trị dứt, hoặc có thành tựu, hoặc không thành tựu, việc nầy làm sao có thể như vậy?

Sẽ được quả A-la-hán, lúc trụ trong định Kim cương dụ là đã tạo thành phiền não phẩm hạ hạ.

Nếu khi thối lui quả A-la-hán, lại tạo thành phiền não phẩm hạ hạ của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, thì có thành tựu định Kim cương dụ hay không?

Đáp: Không thành tựu.

Hỏi: Vì sao đang được quả A-la-hán, lúc trụ trong định Kim cương dụ, là đã tạo thành phiền não phẩm hạ hạ. Nếu khi thối chuyển quả Ala-hán, thì tạo thành phiền não phẩm hạ hạ, không thành tựu định Kim cương dụ?

Đáp: Định Kim cương dụ dụng công nhiều, dùng nhiều phương tiện, sau đó mới được. Còn phiền não phẩm hạ hạ không dụng công nhiều, không dùng nhiều phương tiện mà vẫn hiện ở trước.

Lại nữa, định Kim cương dụ, lúc thắng tiến được phiền não phẩm hạ hạ, khi thối mất mới được.

Lại nữa, định Kim cương dụ, lúc thắng tiến thì được, còn phiền não phẩm hạ hạ thì khi thối mất là được.

Lại nữa, định Kim cương dụ không trở ngại cho việc tạo thành phiền não phẩm hạ hạ, chỉ trở ngại việc hiện hành. Còn phiền não phẩm hạ hạ thì trở ngại cho việc thành tựu định Kim cương dụ, gây trở ngại cho hành hiện tiền. Như định Kim cương dụ không trở ngại cho việc tạo thành phiền não phẩm hạ hạ. Cũng thế, trụ trong định Kim cương dụ cũng tạo thành phiền não phẩm hạ hạ. Như phiền não phẩm hạ hạ đã gây trở ngại cho việc thành tựu định Kim cương dụ, cũng trở ngại cho hành hiện tiền.

Cũng thế, trụ ở phiền não phẩm hạ hạ, không thành tựu định Kim cương dụ.

Lại nữa, định Kim cương dụ là đạo vô ngại, không có người trụ

đạo vô ngại, thối lui, cũng không có người thối lui rồi, trụ đạo vô ngại. Hoặc đều trụ đạo giải thoát, đạo thắng tiến mà thối lui, thối lui rồi, trụ trở lại đạo giải thoát và đạo thắng tiến.

Hỏi: Ở xứ nào thối lui?

Đáp: Về giới, nghĩa là ở cõi Dục, chẳng phải cõi Sắc, chẳng phải cõi Vô sắc. Đường, nghĩa là ở đường người, chẳng phải đường khác.

Hỏi: Vì sao trong sáu tầng trời cõi Dục không có sự thối lui?

Đáp: Vì xứ kia không có thối lui đủ.

Hỏi: Xứ kia chẳng phải không nhiều các thối lui đủ?

Đáp: Trong kinh Phật nói thối lui đủ, trong sáu tầng trời cõi Dục kia không có. Tuy nhiên, chư thiên đắc quả, đa số là người căn tánh nhạy bén, người căn tánh nhạy bén thì không thối lui.

Hỏi: Nếu người căn tánh chậm lụt thì sẽ được quả trong loài người. Về sau, sinh lên sáu tầng trời cõi Dục, rồi có thối lui ở cõi đó hay không?

Đáp: Không thối lui. Vì sao? Vì bậc Thánh đổi đời, không thối, không chuyển căn, bất sinh lên cõi Sắc, cõi Vô sắc. Vì sao? Vì Thánh đạo ở trong thân bậc Thánh kia, chỗ ở cũ bền chắc.

Hỏi: Loại người nào thối lui, loại người nào không thối lui?

Đáp: Hoặc có người tin ở người khác, theo người khác. Hoặc có người tự tin, tự mong muốn. Nếu tin người khác, theo người khác, nhập Thánh đạo rồi thối lui, thì người tự tin, tự muốn vào Thánh đạo không thối lui.

Lại nữa, hoặc có người có sức của nhân rộng, sức phương tiện rộng, sức không buông lung rộng. Hoặc có người không như thế. Nếu rộng thì không thối lui, không như thế thì thối lui.

Lại nữa, hoặc có người do niềm tin mà nhập vào Thánh đạo, hoặc có người do tuệ nhập đạo Thánh. Nếu là người do đức tin nhập Thánh đạo, rồi thối lui. Hoặc là người do tuệ nhập vào Thánh đạo, không thối lui. Như do niềm tin, do tuệ, do Xa-ma-tha (Chỉ), Tỳ-bà-xá-na (Quán) có thể là định, có thể là tuệ, tu định, tu tuệ, được định, được tuệ, được định nội tâm, không được tuệ, được tuệ, không được định nội tâm. Trụ trong pháp Kiên tín, trụ trong pháp Kiên pháp, căn tánh chậm lụt, căn tánh nhạy bén, sức của duyên, sức của nhân, sức của chi nội, sức của chi ngoại, chánh tư duy bên trong, từ người khác nghe pháp, nên biết cũng giống như thế.

Lại nữa, hoặc có người không tham nhiều, hoặc có người không ngu nhiều. Kẻ không tham nhiều thì thối lui, người không ngu nhiều không thối lui.

Lại nữa, hoặc có người tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, hoặc có người tâm khéo giải thoát, tuệ không khéo giải thoát. Nếu là người tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, thì sẽ không thối lui. Nếu là người tâm khéo giải thoát, tuệ không khéo giải thoát, thì thối lui.

Hỏi: Sự thối lui trải qua bao nhiêu thời gian?

Đáp: Trải qua một chút thời gian không bao lâu, cho đến không tự biết thối lui. Nếu tự biết thối lui thì sẽ tu đạo thắng tiến, đạo phương tiện.

Lại nữa, lúc phiền não kia hiện ở trước, vì tâm sanh ra xấu hổ, nên nhanh chóng tu phương tiện, như người mắt sáng ban ngày ở chỗ đất bằng phẳng mà bị ngã nghiêng, lập tức đứng dậy trở lại, ngắm nhìn lại bốn phương, không có người thấy ta chăng?

Cũng thế, lúc hành giả khởi phiền não, tâm cảm thấy hổ thẹn. Nếu Phật, hoặc đệ tử Phật, hoặc các người hiền thiện, thì sẽ không có ai thấy ta chăng?

Lại nữa, lúc phiền não kia hiện ở trước, thì thân tâm sinh nóng nảy, bứt rứt. Vì muốn cho phiền não nóng bức nhanh chóng được tan biến, nên liền tu phương tiện. Cũng như người thân thể mềm mại, chỉ một tàn lửa nhỏ rơi trúng, liền phải bỏ. Phiền não kia cũng giống như thế.

Lại nữa, do phiền não hôi hám, cấu uế ở thân, không thể chịu nổi, nên liền tu phương tiện, giống như người ưa sạch, có một chút vật bất tịnh rơi vào thân mình, liền phủi bỏ, phiền não kia cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Việc nầy không nhất định, hoặc có người từ lâu, cho đến khiến căn bén nhạy, Tín giải thoát là Kiến đáo, sau đó được quả A-la-hán.

Hỏi: Nếu thối lui quả A-la-hán rồi, là điều A-la-hán không nên làm, người kia có nên làm chăng? Thối lui quả A-na-hàm, Tư-đà-hàm rồi là điều A-na-hàm, Tư-đà-hàm không nên làm, thì người kia có làm chăng?

Đáp: Không làm. Vì sao? Vì việc làm và hành vi của người đắc quả khác hẳn với phàm phu.

A-la-hán có sáu loại:

  1. Thối pháp.
  2. Pháp nhớ nghĩ nghĩ.
  3. Pháp hộ trì.
  4. Pháp cùng trụ.
  5. Pháp có thể tiến tới.
  6. Pháp bất động.

Thối pháp: Sự thối lui. Pháp nhớ nghĩ: Tâm sinh nhàm chán, cầm dao định hại mình. Pháp hộ: Đối với sự giải thoát của mình, tâm cảm thấy yêu thích khéo gìn giữ. Cùng trụ: Không lùi, không tiến. Có thể tiến tới: Có thể tiến tới bất động. Bất động: Trụ nơi căn bất động.

Hỏi: A-la-hán thối pháp, hẳn là thối lui chăng? Pháp nhớ nghĩ, tất nhiên là pháp ký ức? Pháp hộ: phải gìn giữ pháp? Cùng trụ: Phải trụ bằng nhau? Có thể tiến tới: Tất nhiên có thể tiến đến bất động?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Pháp thối tất nhiên thối lui, cho đến có thể tiến tới, tất nhiên có thể tiến đến bất động.

Do việc nầy nên gọi là thối lui, cho đến gọi là có thể tiến tới. Nếu nói như thế: Pháp thối tất phải lùi, cho đến có thể tiến tới thì có thể tiến tới.

Do có sáu việc trên, nên A-la-hán có sáu, cõi Dục có sáu, cõi Sắc, cõi Vô sắc có hai, đó là đẳng trụ và bất động. Nếu nói như thế: A-la-hán pháp thối, không hẳn là thối lui, cho đến pháp có thể tiến tới, không hẳn có thể tiến đến bất động.

Hỏi: Nếu vậy thì vì sao gọi là thối lui? Cho đến gọi là có thể tiến tới?

Đáp: A-la-hán thối lui, không hẳn thối lui, vì nếu thối lui là tánh thối lui, cho đến có thể tiến tới, không hẳn có thể tiến tới, vì nếu có thể tiến tới là tánh có thể tiến tới. Nếu nói rằng: Pháp thối nghĩa là không hẳn thối, cho đến có thể tiến tới, không hẳn có thể tiến tới.

Do có sáu tánh, nên có sáu hạng A-la-hán, nói như thế nghĩa là cõi Dục có sáu loại, cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng có sáu loại.

Hỏi: Vì sao lập sáu loại A-la-hán?

Đáp: Vì căn.

Hỏi: Căn có chín loại: Thượng thượng, đến hạ hạ. Trước nói A-lahán có sáu hạng, sau Vì căn nên nói A-la-hán có chín hạng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: A-la-hán thối pháp, thành tựu hai thứ căn: hạ hạ, hạ trung. Pháp nhớ nghĩ thành tựu căn hạ thượng. Pháp hộ thành tựu căn trung hạ. Pháp cùng trụ thành tựu căn trung trung. Pháp có thể tiến tới thành tựu căn trung thượng. Pháp bất động thành tựu căn thượng hạ. Bích-chi Phật thành tựu căn thượng trung. Phật thành tựu căn thượng thượng.

Người kia không nên nói rằng: Không có một người nào thành tựu hai thứ căn. Người căn tánh nhạy bén còn không thể, huống chi là căn tánh chậm lụt.

Lời bình: Nên nói rằng: A-la-hán pháp thối thành tựu căn hạ hạ. Pháp nhớ nghĩ: nghãi là hạ trung. Pháp hộ: là hạ thượng. Pháp cùng trụ: là trung hạ. Pháp có thể tiến tới: trung trung.

Bất động có hai hạng: Có hạng từ thời giải thoát đến Bất động: Có tánh Bất động. Từ thời giải thoát đến bất động, bản tánh của trung thượng. Bất động, là thượng hạ. Bích-chi Phật là thượng trung. Phật là thượng thượng.

A-la-hán pháp thối tạo ra một việc, chỉ là thối lui. A-la-hán pháp nhớ nghĩ nghĩ tạo ra hai việc là thối pháp và pháp nhớ nghĩ nghĩ. A-lahán pháp hộ tạo ra việc: Thối pháp, pháp nhớ nghĩ nghĩ, pháp hộ, pháp cùng trụ. A-la-hán có thể tiến tới tạo ra năm việc: Thối pháp, pháp nhớ nghĩ nghĩ, pháp hộ, pháp cùng trụ, pháp có thể tiến tới. Lại có thuyết nói: A-la-hán pháp thối có ba việc:

  1. Thối lui trụ căn Hữu học.
  2. Chuyển đến căn cao hơn.
  3. Tức trụ nhập Niết-bàn.

A-la-hán pháp nhớ nghĩ nghĩ có bốn việc:

  1. Thối lui trụ căn Hữu học.
  2. Thối lui trụ trong căn của thối pháp.
  3. Chuyển đến căn cao hơn.
  4. Tức trụ nhập Niết-bàn.

A-la-hán pháp hộ có Năm việc:

  1. Thối lui trụ căn Hữu học.
  2. Thối lui trụ nơi căn của thối pháp.
  3. Thối lui trụ trong pháp nhớ nghĩ.
  4. Chuyển đến căn cao hơn.
  5. Tức trụ nhập Niết-bàn.

A-la-hán pháp cùng trụ có sáu việc:

  1. Thối lui trụ căn Hữu học.
  2. Thối lui trụ trong căn của thối pháp.
  3. Thối lui trụ trong pháp nhớ nghĩ nghĩ.
  4. Thối lui trụ trong pháp hộ.
  5. Chuyển đến căn cao hơn.
  6. Tức trụ nhập Niết-bàn.

A-la-hán pháp có thể tiến tới có bảy việc:

  1. Thối lui trụ căn Hữu học.
  2. Thối lui trụ trong căn của thối pháp.
  3. Thối lui trụ trong pháp nhớ nghĩ.
  4. Thối lui trụ trong pháp hộ.
  5. Thối lui trụ trong pháp cùng trụ.
  6. Chuyển đến pháp bất động.
  7. Tức trụ nhập Niết-bàn.

Hỏi: A-la-hán pháp nhớ nghĩ, thối lui trụ căn Hữu học, vì được căn Hữu học nào, hay được căn Hữu học của thối pháp, hay được căn Hữu học của pháp nhớ nghĩ?

Đáp: Vì được căn Hữu học của thối pháp, chẳng phải căn Hữu học của pháp nhớ nghĩ. Vì sao? Vì A-la-hán kia không hề được căn Hữu học của pháp nhớ nghĩ. Nếu đã được thì gọi là tiến, không gọi là thối. Trong kinh Thế tôn nói: Tôn giả Cù-hê-ca là A-la-hán thời giải thoát đã sáu lần thối trở lại. Đến lần trở lại thứ bảy được thân tác chứng của thời giải thoát, đã dùng dao tự sát mà chết.

Hỏi: Tôn giả Cù-hê-ca là tánh của pháp thối hay tánh của pháp nhớ nghĩ? Nếu là tánh của pháp thối, thì vì sao dùng dao tự sát? Nếu là tánh của pháp nhớ nghĩ, thì vì sao lại phải sáu lần thối trở lại?

Đáp: Nên nói như vầy: là tánh của thối pháp.

Hỏi: Vì sao dùng dao tự sát?

Đáp: Vì nhàm chán bệnh thối lui, nên dùng dao tự sát. Nếu không thối lui mà dùng dao tự sát là pháp nhớ nghĩ.

Hỏi: Đạo đáng dùng để dứt kiết cõi Dục, khi thối lui đạo kia, có đắc được kiết kia trở lại hay không?

Đáp: lại đắc được của kiết kia. Các kiết dứt khi lìa được dục, lúc thối lui, lại đắc được kiết kia.

Hỏi: Đã có thể dùng đạo để dứt kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc, lúc thối lui đạo kia, lại đắc được kiết kia không?

Đáp: lại đắc được kiết kia. Các kiết được dứt khi lìa dục, lúc thối lui, lại đắc được kiết kia.

Hỏi: Đã có thể dùng đạo để dứt trừ kiết, không thối lui đối với đạo kia, đã có thể dùng đạo thối lui, đạo đó không thể dứt trừ kiết, chỉ đạo vô ngại mới có thể dứt trừ kiết. Không người nào thối lui đạo vô ngại, trụ đạo giải thoát thối lui. Không có ai dùng đạo giải thoát để dứt trừ kiết, vì soạn ra thuyết nầy: Đã có thể dùng đạo để dứt trừ kiết cõi Dục, khi thối lui đạo kia, lại đắc được kiết kia, nói rộng như trên?

Đáp: Đạo vô ngại là nhân của đạo giải thoát, đạo giải thoát là quả của đạo vô ngại. Nếu khi đối với quả thối lui, thì cũng phải nói là nhân thối lui.

Lại nữa, dùng đạo vô ngại để đối trị phiền não. Nếu khi phiền não kia tạo thành, thì cũng nên nói là thối lui đạo đối trị kia.

Lại nữa, vì phiền não, nên lập đạo vô ngại dứt phiền não. Nếu khi phiền não tạo thành, cũng nên nói là thối lui đạo vô ngại kia.

Tôn giả tăng-già-bà-tu nói: Trụ đạo vô ngại thối lui, trụ đạo giải thoát cũng thối lui. Vì sao? Vì dứt năm thứ kiết. Khi Tu-đà-hoàn thối lui, điều đó chẳng phải thối lui năm đạo vô ngại, năm đạo giải thoát.

Lời bình: Nên nói rằng: Không có ai trụ đạo vô ngại, thối lui, thối lui rồi, lại trụ đạo vô ngại, thối lui đạo giải thoát, lại trụ đạo giải thoát.

Chín trí dứt, kiết, chỗ dứt trừ của khổ, tập lệ thuộc cõi Dục, dứt một dứt. Trí biết kiết, chỗ dứt trừ của khổ, tập ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, dứt hai dứt. Trí biết kiết, chỗ dứt trừ của kiến diệt cõi Dục, dứt ba dứt. Trí biết kiết, chỗ dứt trừ của kiến diệt cõi Sắc, cõi Vô sắc, dứt bốn dứt. Trí biết kiết, do kiến đạo dứt ở cõi Dục, dứt năm dứt. Trí biết năm kiết, do kiến đạo dứt cõi Sắc, cõi Vô sắc, dứt sáu dứt. Trí biết kiết phần dưới, dứt bảy dứt. Trí biết sắc, ái dứt tám dứt. Trí biết tất cả kiết, dứt chín trí dứt.

Chín trí dứt gồm nhiếp tất cả trí dứt. Tất cả trí dứt gồm nhiếp chín trí dứt, nói rộng như kinh nầy. Đoạn: Là vô vi.

Hỏi: Nếu dứt là vô vi thì không thể có sở duyên, vì sao dứt kia là trí?

Đáp: Vì dứt là quả của trí nên nói là trí, quả của nghiệp nên nói là nghiệp. Như nói sáu nhập là nghiệp cũ, thiên nhãn, thiên nhĩ là quả của thông, gọi là thông. A-la-hán là quả của trí, nói là trí. Vì quả của trí như thế, nên nói trí dứt.

Hỏi: Nếu vậy, do tu đạo dứt, vì trí dứt, nên là quả trí, có thể nói là trí dứt. Kiết, là chỗ dứt của kiến đạo, do nhẫn dứt là quả nhẫn, sao nói là trí dứt?

Đáp: Vì trí dứt kia là quả trí của thế tục, nên nói là trí dứt. Như trước, dùng đạo thế tục để lìa dục cõi Dục, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ. Kiết bị dứt trong tám địa đã dứt là quả của trí thế tục.

Hỏi: Nếu vậy thì đạo thế tục có thể có chỗ tạo tác, có thể như thế, đạo thế tục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, không thể có chỗ tạo tác.

Kiết là do kiến đạo dứt thuộc Phi tưởng Phi phi tưởng xứ dứt là nhẫn.

Hỏi: Thế nào là trí dứt?

Đáp: Tôn giả tăng-già-bà-tu nói: Đây là quả tuệ, nói là trí dứt. Đoạn có hai thứ:

1. Quả của tuệ. Tôn giả kia không nên nói như thế. Vì sao? Vì kinh Phật nói hai trí đoạn.

a. Trí biết. b. Trí dứt.

2. Không nói tuệ dứt.

Lời bình: Nên nói rằng: Trí thật nghĩa là định Kim cương dụ, dứt là quả của trí kia. Vì sao? Vì khi được quả A-la-hán, là đã dùng định Kim cương dụ để dứt kiết, do kiến đạo, tu đạo dứt thuộc ba cõi, chứng ngay giải thoát đắc.

Lại có thuyết nói: Vì từ trong trí chủng sinh, nên gọi là trí dứt. Vì như sinh trong họ Cù-đàm, nên gọi là Cù-đàm. Trí thật nghĩa kia cũng giống như thế.

Lại nữa, tánh tướng của dứt kia là trí dứt. Đoạn kia dù không thể có sở duyên, nhưng tánh, tướng là trí dứt, nên gọi là trí dứt. Như nhãn căn của quá khứ, vị lai dù không thể thấy, mà tánh, tướng là mắt. Trí dứt kia cũng giống như thế.

Tôn giả Cù-sa nói: Nên nói chánh dứt là tối thắng dứt, tương ưng dứt và tất cánh dứt.

Tôn giả Ba-xa nói: Nên nói bỏ dứt. Vì sao? Vì bỏ tất cả sinh tử được dứt nầy. Đoạn nầy cũng có thể nói là dứt, cũng có thể nói không có dục, cũng có thể nói là diệt, cũng có thể nói là đế, vừa có thể nói là trí đoạn, vừa có thể nói là quả Sa-môn, vừa có thể nói là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Khổ pháp nhẫn diệt, khổ pháp trí sinh, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế. Không gọi là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niếtbàn vô dư. Khổ tỷ nhẫn diệt, khổ tỷ trí sinh, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, cho đến gọi là đế, không gọi là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Tập pháp nhẫn diệt, tập pháp trí sinh, lúc nầy dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nói là kiết, chỗ dứt trừ của kiến khổ, kiến tập cõi Dục, đều là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Tập tỷ nhẫn diệt, tập tỷ trí sinh, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, đều là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Diệt pháp nhẫn diệt, diệt pháp trí sinh, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nghĩa là trí dứt tức kiến diệt đã dứt hết kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Đạo pháp nhẫn diệt, đạo pháp trí sinh, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nghĩa là kiết, do kiến đạo dứt cõi Dục đều là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sinh, lúc nầy, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nghĩa là kiến kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều là trí dứt, gọi là quả Sa-môn, gọi là quả Tuđà-hoàn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Lúc nầy, kiến khổ, kiến tập, kiến diệt và kiến đạo cõi Dục đã dứt kiết đồng một vị, chứng ngay giải thoát đắc. Lúc nầy đoạn gọi là đoạn, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, gọi là quả Sa-môn, nói là quả Tu-đà-hoàn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Tu-đà-hoàn sẽ được quả Tư-đà-hàm, dứt một thứ kiết, cho đến năm thứ kiết, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Đạo vô ngại thứ sáu diệt, đạo giải thoát thứ sáu sinh, lúc nầy, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nghĩa là kiến kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều là trí dứt, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tư-đà-hàm, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Lúc nầy, do kiến đạo dứt ba cõi dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nghĩa là trí dứt đã được trước kia, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tư-đà-hàm, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Năm thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục đồng một vị, chứng ngay giải thoát đắc, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là Đế, không gọi là trí dứt, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả Tư-đà-hàm, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư, Tư-đà-hàm sẽ được quả A-na-hàm. Lúc dứt trừ kiết thứ bảy, thứ tám dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Đạo vô ngại thứ chín diệt, đạo giải thoát thứ chín sinh, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí dứt, nghĩa là trí dứt hết kiết phần dưới, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-na-hàm, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Tức vào thời gian kia, kiết, do kiến đạo ba cõi dứt và chín thứ kiết, do tu đạo dứt cõi Dục, đồng một vị, chứng ngay đắc giải thoát. Lúc nầy, dứt kia không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nghĩa là vốn được trí dứt, trí dứt hết năm kiết phần dưới, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-na-hàm, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Lìa dục Sơ thiền, dứt một thứ kiết, cho đến dứt chín thứ kiết, trong lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư, cho đến lìa dục của đệ Tứ thiền, dứt một thứ kiết, cho đến dứt tám thứ kiết, nói cũng giống như thế. Đạo vô ngại thứ chín diệt, đạo giải thoát thứ chín sinh, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, nghĩa là trí dứt, ái sắc dứt, không gọi là quả Samôn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Lìa dục của không xứ, cho đến lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, dứt tám thứ kiết, lúc nầy, dứt kia gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, không gọi là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Định Kim cương dụ diệt, tận trí ban đầu sinh, lúc nầy, chín thứ kiết dứt, sự dứt kia được gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt, không gọi là quả Sa-môn, không gọi là Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư. Định Kim cương dụ, tận trí ban đầu sinh, lúc nầy, chín thứ kiết dứt, sự dứt kia được gọi là dứt, gọi là không có dục, gọi là diệt, gọi là đế, gọi là trí dứt. Nghĩa là trí dứt tận diệt tất cả kiết, gọi là quả Sa-môn, nghĩa là quả A-la-hán, không gọi là Niết-bàn hữu dư, gọi là Niết-bàn vô dư,

Hỏi: Các dứt là vô vi, vì sao có lúc gọi là trí dứt, có khi lại không gọi là trí dứt?

Đáp: Bấy giờ, hoặc có bốn việc, hoặc có Năm việc, được gọi là trí dứt. Bốn việc là:

  1. Trừ bỏ chỗ đều có nhân.
  2. Đều có trói buộc, được giải thoát.
  3. Được giải thoát đắc vô lậu.
  4. Trừ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.Năm việc là: Tức bốn việc trên.

Là lìa hẳn cõi, trong kiến đạo có bốn việc, trong tu đạo có năm việc, khổ pháp nhẫn diệt, khổ pháp trí sinh, lúc nầy không hại đều có nhân. Mặc dù hại chỗ dứt trừ của kiến khổ, nhưng không hại do kiến tập dứt, không đều trói buộc được giải thoát. Mặc dù sự trói buộc chỗ dứt trừ kiến khổ được giải thoát, nhưng do kiến tập dứt không được giải thoát. Mặc dù được giải thoát đắc vô lậu, nhưng không hại sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Lúc nầy, chỉ có một sự, không có hai việc, cho nên dứt kia gọi là dứt, không gọi là trí dứt. Khổ tỷ nhẫn diệt, khổ tỷ trí sinh, lúc nầy không hại nhân đều có. Mặc dù dứt nhân, do kiến khổ dứt, nhưng không hại nhân, do kiến tập dứt, không dứt đều cùng lệ thuộc, mặc dù đã dứt sự trói buộc, chỗ dứt trừ của kiến khổ, không dứt sự trói buộc, do kiến tập dứt. Mặc dù đã được giải thoát đắc vô lậu, nhưng không rốt ráo trừ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Lúc nầy chỉ có hai việc, không có ba việc, nên dứt kia không gọi là trí dứt. Tập pháp nhẫn diệt, tập pháp trí sinh, lúc nầy trừ bỏ nhân đều có, trước nhân do kiến khổ dứt, nay nhân bị kiến tập dứt được giải thoát, được giải thoát đắc vô lậu, cũng trừ bỏ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Bấy giờ, được gọi là trí dứt. Tập tỷ nhẫn diệt, tập tỷ trí sinh, là lúc hại nhân đều có, trước đã hại nhân do kiến khổ dứt. Nay hại nhân do kiến tập dứt, đều trói buộc được giải thoát. Trước sự trói buộc, do kiến tập dứt được giải thoát, nay trói buộc do kiến tập dứt được giải thoát được giải thoát đắc vô lậu, hại sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Lúc nầy, vì đủ bốn việc, nên dứt kia được gọi là trí dứt. Diệt pháp nhẫn diệt, diệt pháp trí sinh, là lúc hại nhân chỗ đều có, trước kia đã hại nhân, do kiến khổ, kiến tập dứt. Nay hại nhân, do kiến diệt dứt, đều trói buộc được giải thoát trước trói buộc do kiến khổ, kiến tập dứt trừ được giải thoát. Nay sự trói buộc, chỗ dứt trừ của kiến diệt được giải thoát, được giải thoát đắc vô lậu, hại sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Vì lúc nầy có đủ bốn việc, nên dứt kia gọi là trí dứt. Diệt tỷ nhẫn, diệt tỷ trí sinh, đạo pháp nhẫn diệt, đạo pháp trí sinh, đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sinh, nói cũng giống như thế.

Cũng thế, là nói trí dứt của kiến đạo, trong tu đạo có năm việc, gọi là trí dứt, lìa một thứ dục cõi Dục, cho đến lìa tám thứ dục, là lúc không hại nhân đều có. Mặc dù dứt tám thứ nhân, không dứt nhân phẩm hạ hạ. Vì sao? Vì chín thứ kiết xoay vần làm nhân, nên đều trói buộc không được giải thoát. Mặc dù tám thứ trói buộc đều được giải thoát, một thứ trói buộc không được giải thoát. Vì sao? Vì chín thứ kiết xoay vần trói buộc nhau. Mặc dù được giải thoát đắc vô lậu, trứ bỏ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, mà không lìa hẳn giới, lúc chỉ có hai việc, không có ba việc, cho nên, dứt kia không gọi là trí dứt, dứt trừ kiết thứ chín, lúc trừ bỏ nhân đều có. Trước dứt tám thứ nhân. Nay sư trói buộc phẩm hạ hạ được giải thoát, được giải thoát đắc vô lậu, trừ bỏ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, rốt ráo lìa cõi, nghĩa là lìa cõi Dục, vì là lúc có năm việc, nên dứt kia được gọi là trí dứt, lìa dục của Sơ thiền, dứt một thứ kiết, cho đến dứt tám thứ kiết, nói rộng, như khi dứt trừ kiết thứ chín cõi Dục, hại nhân đều có. Trước dứt tám thứ nhân, nay dứt nhân hạ hạ, đều trói buộc được giải thoát, trước Tám thứ trói buộc được giải thoát, nay trói buộc phẩm hạ hạ được giải thoát được giải thoát đắc vô lậu, đã trừ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ mà chẳng rốt ráo lìa cõi. Lúc nầy chỉ có bốn việc, không có năm việc. Cho nên dứt kia không gọi là trí dứt. Thiền thứ hai, thứ ba, nói cũng giống như thế. Lìa dục của đệ Tứ thiền, dứt một thứ kiết, cho đến dứt tám thứ kiết, không hại nhân đều có, đều trói buộc không được giải thoát, tuy đắc giải thoát vô lậu, trừ bỏ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nhưng rốt ráo không lìa cõi, lúc nầy chỉ có hai việc, không có ba việc, cho nên dứt kia không gọi là trí dứt. Dứt trừ kiết thứ chín, là lúc dứt trừ nhân đều có, đều trói buộc được giải thoát, được giải thoát đắc vô lậu, trừ bỏ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, rốt ráo lìa cõi, vì lúc nầy có năm việc, nên dứt kia được gọi là trí dứt diệt tận ái sắc. Như lìa dục Sơ thiền, cho đến lìa dục của Tam thiền, lìa dục của Không xứ, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, nói cũng giống như thế. Lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, dứt một thứ kiết, cho đến khi dứt tám thứ kiết, không hại nhân đều có, đều trói buộc không được giải thoát. Mặc dù được giải thoát đắc vô lậu, đã hại sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, mà không rốt ráo lìa cõi, lúc nầy chỉ có hai việc mà không có ba việc, cho nên dứt kia không gọi là trí dứt. Đoạn trừ kiết thứ chín, là lúc hại nhân đều có, đều trói buộc được giải thoát, được giải thoát đắc vô lậu, trừ sử nhất thiết biến của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, rốt ráo lìa cõi, vì lúc nầy có năm việc, nên dứt kia được gọi là trí dứt, nghĩa là trí dứt hết tất cả kiết.

Hỏi: Vì lìa ái, do tu đạo dứt Tứ thiền, gọi là trí dứt, hay là chỉ lìa ái, do tu đạo dứt đệ Tứ thiền?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì lìa chín thứ ái của Tứ thiền, gọi là trí dứt.

Lại có thuyết nói: Vì chỉ lìa thứ ái hạ hạ của đệ Tứ thiền, gọi là trí dứt.

Lời bình: Nên nói rằng: Vì lìa tất cả ái do tu đạo cõi Sắc dứt trừ, gọi là trí dứt. Vì sao? Vì nếu lìa ái hạ hạ của đệ Tứ thiền, thì tất cả ái mà tu đạo đã dứt hết, mới được gọi là trí dứt.

Hỏi: Pháp dứt là pháp vượt hơn hết, vì sao hai dứt được chứng chung, nghĩa là thời gian của quả A-na-hàm, A-la-hán?

Đáp: Vì hai lúc nầy rốt ráo lìa cõi, mà cũng đắc quả, khi đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Từ-đà-hàm, tuy đắc quả mà không rốt ráo lìa cõi, lìa dục của đệ Tứ thiền, dù rốt ráo lìa cõi, mà chẳng phải đắc quả, khi chứng đắc quả A-na-hàm, là rốt ráo lìa quả, nghĩa là lìa dục cõi Dục, được quả, được quả A-na-hàm, được quả A-la-hán, là rốt ráo lìa cõi, nghĩa là lìa cõi Vô sắc được quả, được quả A-la-hán.

Lại nữa, lúc nầy rốt ráo lìa cõi, dứt trừ kiết phần dưới, phần trên.

Lúc được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm không rốt ráo lìa cõi, không dứt trừ kiết phần dưới, phần trên. Khi lìa ái sắc, dù rốt ráo lìa cõi, nghĩa là thời gian lìa cõi Sắc, không rốt ráo dứt trừ kiết phần trên, được quả A-na-hàm. Rốt ráo lìa cõi, nghĩa là lìa dục cõi Dục, rốt ráo dứt trừ kiết phần dưới. Lúc được quả A-la-hán, là rốt ráo lìa cõi, nghĩa là lìa cõi Vô sắc, rốt ráo dứt trừ kiết phần trên.

Lại nữa, lúc nầy rốt ráo lìa cõi, rốt ráo dứt phiền não bất thiện, vô ký là thời gian được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm. Không rốt ráo lìa cõi, cũng là lúc không rốt ráo dứt phiền não bất thiện, lìa cõi Sắc. Mặc dù rốt ráo lìa cõi nhưng không rốt ráo dứt phiền não vô ký. Lúc được quả A-na-hàm, rốt ráo lìa cõi, nghĩa là lìa dục cõi Dục, rốt ráo dứt phiền não bất thiện. Lúc được quả A-la-hán, là thời gian rốt ráo lìa cõi, nghĩa là lìa cõi Vô sắc, rốt ráo dứt phiền não vô ký, như bất thiện, vô ký, có báo, không có báo, sinh hai quả, một quả tương ưng với không hổ, không thẹn, không tương ưng với không hổ, không thẹn, phải biết nói cũng giống như thế.

Hỏi: Chín trí dứt, ai bỏ bao nhiêu? Ai được bao nhiêu?

Đáp: Hoặc có người không xả, không được, như người phàm phu.

Hỏi: Trong đây bất luận phàm phu không đáp là phàm phu. Lại có bậc Thánh không xả, không được, như người trụ bản tánh, người thắng tiến cũng giống như thế. Khổ pháp nhẫn diệt, khổ pháp trí sinh là thời gian không xả, không được, khổ tỷ nhẫn diệt, khổ tỷ trí sanh, bấy giờ cũng không xả không đắc. Tập pháp nhẫn diệt, tập pháp trí sinh là thời gian được một mà không có cái xả. Tập tỷ nhẫn diệt, tập tỷ trí sinh là lúc được một mà không xả. Diệt pháp nhẫn diệt, diệt pháp trí sinh, là thời gian được một mà không xả. Đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sinh, lúc ấy được một mà không có xả. Đạo pháp nẫhn diệt, đạo pháp trí sanh, lúc ấy được một, mà không có xả. Đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sanh, nếu chẳng phải người lìa dục được một mà không xả, hoặc là người lìa dục bỏ năm, được một nghĩa là thời gian đạo tỷ trí đã được trí dứt, tức là trí dứt hết kiết. bậc Thánh đã lìa dục cõi Dục, dứt một thứ cho đến tám thứ kiết, không được, xả. Dứt trừ kiết thứ chín là lúc bỏ sáu, được một. nghĩa là trí dứt hết năm kiết phần dưới. Lìa dục của Sơ thiền, dứt một thứ cho đến chín thứ kiết, không được, không xả. Đệ Nhị, đệ Tam thiền cũng giống như thế. Lìa dục của đệ Tứ thiền, dứt một thứ cho đến tám thứ kiết, không được, xả, dứt trừ kiết thứ chín, được một mà không có xả, như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng giống như thế. Lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, dứt một thứ cho đến tám thứ kiết, cũng không được, không xả, khi dứt trừ kiết thứ chín, là bỏ hai được một, nghĩa là trí dứt hết tất cả kiết. Đây là nói lúc thắng tiến, khi thối lui, cũng có bỏ, có được. A-la-hán lúc khởi phiền não cõi Vô sắc thồi lui, là bỏ một, được hai, khi khởi phiền não cõi Sắc, thối lui là bỏ một, được một. Lúc khởi phiền não cõi Dục thối lui, tức là bỏ một, được sáu. A-na-hàm lìa ái sắc, khi khởi phiền não cõi Sắc thối lui là đã bỏ một mà không được. Lúc khởi phiền não cõi Dục thối lui, là đã bỏ hai, được sáu. A-na-hàm chưa lìa ái sắc, khi khởi phiền não cõi Dục thối lui là bỏ một được sáu. Lúc thối lui quả Tư-đà-hàm, thì không xả, không được.

Chín trí dứt nầy, có bao nhiêu trí là quả thiền? Bao nhiêu trí là quả của định Vô sắc? Bao nhiêu trí là quả của cội gốc, bao nhiêu trí là quả của bên thiền? Bao nhiêu quả là quả của định Vô sắc cội gốc? Bao nhiêu trí là quả của bên định Vô sắc? Bao nhiêu trí là quả của kiến đạo? Bao nhiêu trí là quả của tu đạo? Bao nhiêu trí là quả của nhẫn? Bao nhiêu trí là quả của trí? Bao nhiêu trí là quả của pháp trí? Bao nhiêu trí là quả của tỷ trí? Bao nhiêu trí là phần quả của pháp trí, bao nhiêu trí là phần quả của tỷ trí. Bao nhiêu trí là quả của đạo thế tục? Bao nhiêu trí là quả của đạo vô lậu? Bao nhiêu trí là quả của quả thiền?

Đáp: Chín thiền nầy và quả quyến thuộc.

Hỏi: Bao nhiêu trí là quả của định Vô sắc?

Đáp: Hai định Vô sắc nầy và quả quyến thuộc.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả thiền cội gốc?

Đáp: Người A-tỳ-đàm nói rằng: Năm là quả thiền cội gốc.

Tôn giả Cù-sa đã nói lời: Tám là quả của thiền cội gốc.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả bên thiền?

Đáp: Chín, là vị trí nương dựa, chẳng phải bên thiền khác.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả định Vô sắc cội gốc?

Đáp: Một.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả bên Vô sắc?

Đáp: Một, nghĩa là bên cạnh Không xứ, chẳng phải bên định Vô sắc khác.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả kiến đạo?

Đáp: Bảy.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả tu đạo?

Đáp: Có ba.

Hỏi: Bao nhiêu trí là quả của Nhẫn?

Đáp: Nên nói như kiến đạo.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả trí?

Đáp: Nên nói như tu đạo.

Hỏi: bao nhiêu trí là quả của pháp trí?

Đáp: Có ba.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả tỷ trí?

Đáp: Có hai.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả phần pháp trí?

Đáp: Sáu.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả phần tỷ trí?

Đáp: Năm.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả đạo thế tục?

Đáp: Hai.

Hỏi: Bao nhiêu trí là người của quả đạo vô lậu?

Đáp: Chín.

Nếu lìa sắc ái, được chánh quyết định, trí dứt hết ái sắc, thời gian nào mới được?

Tôn giả tăng-già-bà-tu nói rằng: Lúc đạo tỷ trí hiện ở trước là được. Vì sao? Vì đạo tỷ trí cũng là đạo hướng, cũng là đạo quả.

Không nên nói như thế, vì trụ ở quả mà nói là hướng. Người kia không hề khởi một khoảng sát-na đạo hướng hiện ở trước, vì sao nói là đạo hướng?

Lại có thuyết nói: Nếu lìa dục của Không xứ, thì lúc nầy tu thiền vô lậu ở đời vị lai, là thời gian được trí dứt tận ái sắc.

Thuyết nầy cũng không nên như thế. Vì sao? Vì là thời gian tu đối trị thiền vị lai cõi Vô sắc, không tu đối trị thiền cõi Sắc.

Lại có thuyết nói: Sẽ được quả A-la-hán, trụ trong định Kim cương dụ. Kiết, bị kiến đạo dứt, tu đạo của ba cõi đều đồng một vị, chứng chung giải thoát đắc, là lúc trí dứt hết ái sắc.

Lời bình: Nếu nói rằng: Người kia từ quả, sẽ khởi quả vượt hơn, đạo hiện ở trước, lúc nầy đã được trí dứt hết ái sắc. Nếu không từ quả, lại khởi quả vượt hơn, thì đạo sẽ hiện ở trước. Người lìa dục của ba thiền, dựa vào địa dưới được chánh quyết định. Nếu người kia qua đời, sẽ sinh trong Tứ thiền. Nếu cõi Vô sắc, người kia không nên thành tựu lạc căn. Nếu vậy thì trái với mười môn đã nói, như nói: Ai thành tựu lạc căn? Hoặc sinh Biến tịnh. Nếu bậc Thánh sinh lên cõi Biến tịnh.

Vì muốn cho không có lỗi như thế, nên từ quả khởi, tất nhiên, khởi đạo quả vượt hơn hiện ở trước, lúc được trí dứt hết ái sắc.

Hỏi: Chín trí dứt gồm nhiếp tất cả trí dứt hay tất cả trí dứt gồm nhiếp chín trí dứt?

Đáp: Tất cả gồm nhiếp chín, chẳng phải chín gồm nhiếp tất cả. Chín: Như trong đây nói. Tất cả: trí đoạn gồm nhiếp chín trí đoạn, các đoạn khác. Vẫn là nhiều. Ví như đồ đựng to úp vào đồ đựng nhỏ, phần thừa ra cũng nhiều. Tất cả trí dứt kia cũng giống như thế.

Không gồm nhiếp những gì?

Đáp: Người kiến đế đầy đủ là đệ tử của Đức Thế tôn. Người chưa lìa dục, chín trí dứt, do tu đạo dứt lệ thuộc cõi Dục thì không gồm nhiếp. Bậc Thánh khi lìa dục cõi Dục, là đã dứt thứ kiết đầu, cho đến dứt trừ tám thứ kiết. Sự dứt nầy chẳng thuộc về chín trí đoạn, vì đã lìa ái dục, nhưng chưa lìa ái sắc. Kiết, do tu đạo dứt ở cõi Sắc đã dứt, chẳng phải thuộc về chín trí dứt, vì đã dứt ái sắc, cho đến dứt tám thứ kiết của đệ Tứ thiền. Sự đoạn ấy chẳng phải thuộc về chín trí đoạn, vì đã lìa dục ái, nhưng chưa lìa ái Vô sắc. Kiết, bị tu đạo cõi Vô sắc dứt chẳng thuộc về chín trí đoạn. Đã dứt ái cõi Sắc cho đnế Đệ Tứ thiền, dứt tám thú kiết, dứt ấy chẳng thuộc về chín trí đoạn. Đã lìa ái cõi Sắc, chưa lìa ái cõi Vô sắc và kiết do tu đạo của cõi Vô sắc dứt trừ, chẳng thuộc về chín trí đoạn, lìa dục của Không xứ, cho đến dứt tám thứ kiết của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, sự dứt đó chẳng phải thuộc về chín trí đoạn.

Hỏi: Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, kiết, bị kiến khổ cõi Dục đã dứt, sự dứt đó chẳng phải thuộc về chín trí dứt, vì sao trong đây không nói?

Đáp: Lẽ ra nói, văn ấy nên nói rằng: Tất cả gồm nhiếp chín, chẳng phải chín gồm nhiếp tất cả.

Không gồm nhiếp những gì?

Đáp: Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, phiền não bị kiến khổ ba cõi đã dứt. Sự dứt đó chẳng thuộc về chín trí đoạn. Ngoài ra nói như trên nhưng không nói là có ý gì?

Đáp: Đoạn trong đây nói là dứt của người có trí dứt. Sự dứt kia đều là dứt, nhưng chẳng phải thứ dứt của người có trí đoạn.

Hỏi: Dù nói như thế, nhưng về nghĩa không trọn vẹn. Vì sao? Vì không nói người phàm phu dứt phải chăng?

Đáp: Đây là lược nói, vì hiện mới nhập môn ban đầu, nên nói như thế.

Tám người, là người hướng quả Tu-đà-hoàn. Người chứng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm hướng, trụ quả Tư-đà-hàm. Người hướng Ana-hàm, người chứng quả A-na-hàm. Người A-la-hán hướng, người trụ quả A-la-hán.

Hỏi: Danh người có tám, thật thể có mấy?

Đáp: Người A-tỳ-đàm nói rằng: Danh của người có tám, thật thể có năm. Người chứng quả Tu-đà-hoàn hướng, quả A-la-hán hướng, danh có hai, thật thể có hai. Quả Tu-đà-hoàn hướng người chứng quả Tư-đà-hàm, danh có hai, thật thể có một. Quả Tư-đà-hàm hướng đến người chứng quả A-na-hàm, danh có hai, thật thể có một. Quả A-na-hàm hướng đến người chứng quả A-la-hán, danh có hai, thật thể có một.

Tôn giả Cù-sa nói rằng: Tám người, danh có tám, thật thể có tám.

Người kia nói rằng: Người Tu-đà-hoàn trụ quả Tu-đà-hoàn, lúc không thắng tiến, thì gọi là người thành tựu quả Tu-đà-hoàn. Nếu khi thắng tiến, thì gọi là hướng đến người chứng quả Tư-đàm-hàm, bỏ qua Tư-đà-hoàn, người chứng quả Tư-đà-hàm trụ ở quả Tư-đà-hàm lúc không tiến bộ vượt bậc, thì gọi là người thành tựu quả Tư-đà-hàm, nếu khi tiến bộ vượt hơn thì được gọi là hướng đến người chứng quả A-nahàm, bỏ qua Tư-đà-hàm. Người A-na-hàm trụ quả A-na-hàm, khi không tinh tiến vượt hơn, thì gọi là người thành tựu quả A-na-hàm, nếu lúc tiến bộ vượt hơn, thì được gọi là hướng đến người chứng quả A-la-hán, bỏ qua A-na-hàm. Vì sao? Vì căn, nên nói con người khác nhau. Cho nên Luận Sinh trí nói như thế nầy: Hướng đến người chứng quả Tư-đà-hàm, nên nói là thành tựu quả Tu-đà-hoàn hay không?

Đáp: Không thành tựu!

Lời bình: Danh của tám người có tám, thật thể có năm, nói như thế là tốt. Như danh, thể, danh số, thể số, danh sai khác, thể sai khác, danh khác, thể khác, danh riêng, thể riêng, biết danh, biết nghĩa, phải biết cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu tám người danh có tám, thật thể có năm, thì sao lại nói tám người khác nhau?

Đáp: Vì thực hành Thánh đạo, nên Tu-đà-hoàn nếu đối với quả Tu-đà-hoàn lúc không thắng tiến, thì đối với danh của quả Tu-đà-hoàn, được danh ở thân, danh thành tựu, gọi là hành hiện tiền. Nếu đối với người tinh tiến vượt hơn quả Tu-đà-hoàn, thì lúc nầy, trụ, hướng về quả Tu-đà-hoàn, gọi là đắc, danh thành tựu không ở trong thân, thành tựu, danh, hành hiện tiền, cho đến nếu đối với quả A-na-hàm lúc không thắng tiến, thì đối với danh của quả A-na-hàm, được mệnh danh ở trong thân, danh thành tựu, danh, hành hiện tiền. Cho đến đối với quả Ana-hàm, khi không thắng tiến, đốivới quả A-na-hàm gọi là đắc danh ở trong thân, gọi là thành tựu, gọi là hiện tiền hành. Nếu đối với người thắng tiến quả A-na-hàm, thì lúc nầy, trụ, hướng về quả A-na-hàm, danh được thành tựu, danh không ở trong thân, không thực hành hiện tiền, đối với danh của hướng, được danh ở trong thân, danh thành tựu, danh, hành hiện tiền, hướng đến người chứng quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Đối với chín trí dứt nầy, bao nhiêu thành tựu, bao nhiêu không thành tựu? Ở đây, lấy con người làm chương, dùng trí đoạn làm môn?

Đáp: Hoặc không thành tựu, hoặc một, hai, ba, bốn, năm thành tựu, nói rộng như kinh nầy.