SỐ 200
SOẠN TẬP KINH MỘT TRĂM TRUYỆN NHÂN DUYÊN
Hán dịch: Đời Ngô, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm, người nước Nguyệt chi
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 2

Phẩm 2: BÁO ỨNG THỌ CÚNG DƯỜNG

11- Truyện Người Lái Đò Thỉnh Phật Qua Sông

Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, bên bờ sông Y-la-bạt, có những người lái đò đang đậu thuyền ở bến sông. Khi ấy, Đức Như Lai hướng dẫn các Tỳ-kheo đến một ngôi làng bên kia sông, vì Ngài muốn qua đó để hóa độ những người lái đò ấy.

Từ bờ bên kia, các người lái đò thấy Phật đến, ai cũng vui mừng chèo thuyền qua sông.

Lúc ấy họ bước đến đảnh lễ dưới chân Phật, bạch rằng:

–Thưa Thế Tôn, ngày mai xin Thế Tôn từ bi để chúng con được đưa Ngài qua sông.

Đức Phật bằng lòng. Họ sửa sang lại thuyền, lấp bằng đường sá, sạch sẽ, quét sạch gạch ngói rác rưởi, treo cờ phướn, rưới nước thơm trên đất, rải các hoa thơm, chuẩn bị ghe thuyền, chờ Phật và chúng Tăng đến.

Hôm sau, Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đến bờ sông để xuống thuyền sang sông. Khi đến ngôi làng kia, Đức Phật và đại chúng trải đồ ngồi an tọa. Sau khi quan sát thấy Đức Phật và chúng Tăng đã ngồi yên, các người lái đò tự tay dâng thức ăn ngon cúng dường, Phật và chúng Tăng thọ trai xong, các người lái đò khao khát được nghe Phật nói pháp.

Lúc ấy Đức Phật liền giảng cho họ nghe pháp Tứ đế. Tâm ý họ  được mở tỏ, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư- đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Khi ấy các Tỳ-kheo thấy sự cúng dường này và việc sang sông, lấy làm lạ cho là việc chưa từng thấy có, liền bước ra bạch Phật:

–Đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được sự cúng dường tự nhiên và việc đi thuyền qua sông như vậy?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe! Ta sẽ giải thích rõ ràng cho các thầy nghe!

Vô lượng kiếp về quá khứ, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-diêm-bà.

Lúc ấy Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đến một nước khác để giáo hóa chúng sinh. Khi đến một bờ sông, ở đấy có những người đi buôn từ xứ khác tới, họ mang theo nhiều châu báu cũng đến bên bờ sông. Những người đi buôn thấy Đức Phật Thế Tôn cùng sáu vạn hai ngàn vị La-hán, rất sinh lòng kính tin, bèn bước đến, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn, Ngài cũng định qua sông sao?

Đức Phật đáp:

–Phải, Ta muốn qua sông.

Sau khi hỏi và biết ý định của Đức Phật, những người khách buôn liền sắm sửa các thức ăn ngon để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Đức Phật và đại chúng thọ trai xong, những người đi buôn bạch Phật:

–Cúi xin Đức Thế Tôn qua sông trước, vì e rằng bọn cướp sẽ đến đoạt lấy y bát và đồ dùng của các Tỳ-kheo.

Lúc ấy Đức Phật liền xuống thuyền qua sông. Ngài nói pháp cho những người đi buôn nghe bằng mọi cách, mọi người đều vui mừng phát tâm Bồ-đề. Đức Phật thọ ký cho người dẫn đầu đoàn buôn: “Đời vị lai ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, độ khắp chúng sinh, nhiều không thể tính lường”.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết rằng người dẫn đầu đoàn người đi buôn ấy nay chính là Ta, còn những người đi buôn thời ấy là sáu vạn hai ngàn vị La-hán. Nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy, cho nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên các cõi trời, cõi người, thường thọ hưởng sự vui. Đến ngày nay Ta đã thành Phật, cho nên trời, người đến cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


12- Truyện Vua Quán Đảnh Thỉnh Phật

Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương xá.

Bấy giờ Thế Tôn hướng dẫn sáu vạn hai ngàn vị A-la-hán đến nước Câu-tỳ-la. Dân chúng nước này bẩm tính hiền lành, nhân từ hiếu thuận, tâm hồn rộng lượng bao dung. Đức Như Lai suy nghĩ:

“Nay Ta nên xây dựng một giảng đường nhiều tầng bằng gỗ Ngưu đầu chiên-đàn để giáo hóa dân chúng.” Khi Đức Phật nghĩ như vậy, trời Đế Thích biết được tâm niệm của Ngài, liền cùng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cưu-bàn-trà… ai nấy đều mang gỗ Ngưu đầu chiên-đàn để dâng lên Thế Tôn và xây dựng một giảng đường lớn cúng dường Đức Phật, với các tiện nghi như giường, ghế, đồ nằm, mền nệm cõi trời và thức ăn Tu-đà cõi trời, tự nhiên đều đầy đủ để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng.

Bấy giờ dân chúng thấy việc ấy cho là việc lạ chưa từng có, đều nói rằng: “Hôm nay Như Lai có công đức lớn, nên mới cảm được chư Thiên cúng dường như thế.” Nói xong, họ cùng nhau đến gặp Phật, đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui lại ngồi sang một bên.

Lúc ấy Đức Phật liền nói pháp Tứ đế cho họ nghe, giúp họ mở tỏ tâm ý, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Các Tỳ-kheo thấy chư Thiên cúng dường các tiện nghi như vậy, khen là việc chưa từng có, bèn bạch Phật:

–Chẳng hay đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay khiến chư Thiên cúng dường như vậy?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ ràng.

Thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Phạm Hạnh. Một hôm, Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, lần hồi đến hoàng cung của vua Quán Đảnh. Vua nghe tin Phật đến, liền ra khỏi thành đón rước, bước tới đảnh lễ dưới chân Phật rồi thỉnh Phật và chúng Tăng:

–Ngưỡng mong Thế Tôn từ bi chiếu cố, chúng con xin cung thỉnh Ngài vào trong và nhận bốn thứ cúng dường của chúng con trong ba tháng.

Được Phật hứa khả, vua bèn thỉnh Đức Phật an trụ tại giảng đường Trùng các, với đầy đủ giường đồ nằm và các thức ăn ngon cúng dường trong ba tháng. Ngoài ra vua còn phụng hiến cho Đức Phật và chúng Tăng mỗi vị một chiếc y báu. Đức Phật bèn nói pháp bằng mọi cách cho vua nghe, vua sinh tâm vui mừng và phát tâm Bồ-đề. Lúc ấy Đức Phật liền thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh, nhiều không thể tính lường.”

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vua Quán Đảnh thời ấy nay chính là Ta; còn các quan lúc bấy giờ nay là sáu vạn hai ngàn vị La-hán. Nhờ công đức cúng dường Phật lúc ấy nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh cõi trời, cõi người thọ hưởng sự an vui. Đến ngày nay Ta đã thành Phật, cho nên mà trời, người đến cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


13- Truyện Pháp Hộ Thỉnh Phật Tắm Rửa

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, trong thành có năm trăm người đi buôn đang trên đường đi qua nước khác để buôn bán kiếm lời. Họ đến một quãng đồng trống thì bị lạc đường, không biết mình phải đi lối nào, lại gặp trời nắng hạn, nên họ khát nước gần chết. Mọi người đều quỳ lạy các Thiên thần để cầu phù hộ, nhưng chẳng có sự cảm ứng nào.

Lúc ấy trong số những người đi buôn, có một Ưu-bà-tắc nói với những người đi buôn:

–Đức Như Lai với lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm thường quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào bị khổ nạn, thì Ngài liền đến cứu giúp. Vậy ngay bây giờ, chúng ta nên thành tâm xưng niệm: “Nam-mô Phật-đà” để cầu Ngài đến cứu.

Những người đi buôn nghe nói vậy, đều đồng thanh xưng niệm:

“Nam-mô Phật-đà, nguyện Ngài đến cứu giúp cho chúng con thoát cảnh nóng khát này”.

Lúc ấy Đức Phật từ xa nghe những người đi buôn xưng niệm danh hiệu Phật, Ngài cùng trời Đế Thích liền đến nơi những người đi buôn bị nạn, làm tuôn mưa lành. Những người đi buôn được hết nong khát, đều vui mừng trở về nước mình thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường. Đức Phật liền hứa khả. Họ dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rải nước thơm trên đất, rải hoa thơm, đốt các thứ hương và sắm sửa đầy đủ các thức ăn ngon, rồi đến bạch Phật:

–Cúi xin Đức Thế Tôn biết cho! Đã đến giờ, thức ăn đã dọn bày đầy đủ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đắp y, ôm bát hướng dẫn các Tỳ-kheo đến nhà người đi buôn thọ cúng. Đức Phật thọ trai xong, những người đi buôn trong lòng khao khát muốn nghe pháp. Ngài liền nói pháp bằng mọi cách cho họ nghe. Họ được mở tỏ tâm ý, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bước tới trước Đức Phật bạch:

–Đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được những người đi buôn cúng dường mà họ còn đắc đạo nữa?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích cho các thầy rõ. Thuở xưa, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Chiên-đàn Hương.

Một hôm, Đức Phật hướng dẫn các Tỳ-kheo đến nước của vua Pháp Hộ, lúc ấy trời nắng hạn, mùa màng thất thu. Vua nghe tin Đức Phật đến, liền cùng các quan ra đón rước Ngài. Vua thỉnh Phật: “Cúi xin Thế Tôn từ bi nhận bốn thứ cúng dường của con trong ba tháng”. Đức Phật liền nhận lời. Vua bèn làm hồ tắm trong thành để Phật và chúng Tăng tắm rửa. Vua phát thệ nguyện rộng lớn: “Với công đức này, con nguyện trời Đế Thích tuôn mưa lành khắp cõi Diêm-phù-đề để lúa má được thấm nhuần, cứu giúp chúng sinh.”

Vua phát thệ nguyện xong, trời liền đổ mưa, khắp nơi đều được thắm nhuần. Lúc ấy vua cho làm tám vạn bốn ngàn chiếc bình quý để đựng nước Phật tắm rồi đem phân phát trong tám vạn bốn ngàn thành, khắp cõi Diêm-phù-đề, mỗi thành nhận một bình. Vua còn truyền lệnh xây tháp cúng dường bình nước ấy, để mọi người nhân đó phát tâm Bồ-đề vô thượng, Đức Phật Chiên-đàn thọ ký cho vua: “Đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, độ khắp chúng sinh không thể tính lường”.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vua Pháp Hộ thời ấy nay chính Ta, còn các quan lúc bấy giờ nay là các Tỳ-kheo. Nhờ công đức cúng dường Phật lúc ấy cho nên trong vô số lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người thọ hưởng sự an vui, đến ngày nay Ta đã thành Phật vì vậy trời, người đến cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


14- Truyện Đức Phật Cứu Giúp Dân Chúng Mắc Bệnh

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá.

Bấy giờ, tại khu làng Na-la có nhiều thứ bệnh dịch đang hoành hành, giết hại dân chúng. Mọi người đều tranh nhau cầu thỉnh chư Thiên, Thiện thần, hy vọng dịch bệnh dần dần sẽ được đẩy lùi. Họ cứ quỳ lạy như thế nhưng bệnh dịch không hề chấm dứt.

Lúc ấy trong làng có một Ưu-bà-tắc nói với mọi người:

–Đức Như Lai ở đời, thường làm cho chúng sinh lợi ích an vui, chúng ta nên cùng nhau nhất tâm xưng niệm: “Nam-mô Phật-đà” để cầu Ngài cứu giúp.

Mọi người nghe nói, tất cả đều cùng nhau xưng niệm: “Nam-mô  Phật-đà, cúi mong Đức Thế Tôn từ bi thương xót che chở chúng con thoát các bệnh khổ tật dịch.”

Bấy giờ, Thế Tôn với lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm, thường quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào bị khổ ách, Ngài liền đến hóa độ và dạy họ pháp lành để dứt hẳn các khổ. Thấy những người dân bệnh tật này cùng nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật để mong được cứu bệnh, Đức Như Lai hướng dẫn các Tỳ-kheo đến ngôi làng ấy, từ bi an ủi dân chúng và khuyên họ làm việc lành, các dịch bệnh cùng lúc đều được đẩy lùi, không còn các họa hoạn.

Khi ấy, người trong làng thấy Như Lai làm lợi ích, an vui cho dân chúng, họ bèn nói:

–Nay chúng ta nhờ ân đức của Phật mà được thoát chết, vậy ngày mai chúng ta phải mở hội thỉnh Phật cúng dường.

Nói như vậy rồi, mọi người cùng nhau đến gặp Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi quỳ thẳng, chắp tay thỉnh Phật:

–Cúi mong Đức Thế Tôn, xin Ngài nhận lời cầu thỉnh cúng dường của chúng con.

Đức Phật liền nhận lời. Biết Phật đã nhận lời, mọi người lập tức trở về nhà sửa sang đường sá cho bằng phẳng, dọn dẹp gạch đá, các vật ô uế, dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rưới nước thơm trên đất, trải hoa thơm, sắp đặt bàn ghế, sắm sửa đầy đủ các món ăn ngon. Sau đó họ đến bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, thức ăn đã chuẩn bị đầy đủ, cúi xin Đức Thế Tôn biết cho đã đến giờ.

Bấy giờ Thế Tôn đắp y ôm bát dẫn đầu các Tỳ-kheo đến ngôi làng ấy để thọ cúng. Đức Phật và chúng Tăng thọ trai xong, dân chúng khát khao muốn nghe pháp. Phật liền nói pháp cho họ nghe bằng nhiều cách tâm ý được mở tỏ, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng.

Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, bèn bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay cảm hóa được dân chúng khiến họ cúng dường và đẩy lùi được tật bệnh như thế?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Quang. Một hôm, Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đến nước của vua Phạm Ma. Vua thỉnh Phật cúng dường, sau đó vua quỳ thẳng chắp tay bạch Phật: “Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi cứu giúp dân chúng trong nước này khỏi những tật dịch tai ách.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền cởi y Tăng-già-lê đang mặc trao cho vua. Vua cho người treo y lên đầu ngọn cờ để dân chúng cùng nhau cúng dường, các bệnh dịch cùng lúc bị đẩy lùi, không còn các họa hoạn. Vua rất vui mừng, phát tâm Bồ-đề. Đức Phật liền thọ ký cho vua Phạm Ma: “Ở đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh rộng khắp không thể tính lường”.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vua Phạm Ma lúc bấy giờ nay chính là Ta; còn các quan lúc bấy giờ nay là các Tỳ-kheo. Nhờ công đức cúng dường Phật, nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào đường ác, thường sinh lên cõi trời, cõi người. Đến ngày nay Ta đã thành Phật, cho nên trời, người đến cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


15- Truyện Trời Đế Thích Cúng Dường Đức Phật

Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa quá đổi ngu si, kiêu mạn, ganh ghét với Đức Thế Tôn, xúi giục vua A-xà-thế lập ra pháp chế sai lầm, đánh trống ra lệnh không cho dân chúng mang vật cúng dường đến chỗ Cù-đàm.

Lúc ấy trong thành có người tin Phật, khi nghe sự cấm chế ấy, buồn rầu than khóc, bi thảm áo não; cảm động đến cung điện của chư Thiên làm họ dao động không yên.

Khi ấy, trời Đế Thích suy nghĩ: “Cung điện của ta vì lý do gì lại dao động như vậy?” Trời Đế Thích liền tự quán sát thấy vua A-xà-thế chế lập ra điều cấm đoán không đúng pháp, khiến người trong thành phải ưu sầu, than khóc, cảm đến cung điện của mình, làm cho dao động như thế.

Trời Đế Thích lập tức xuống trần, lớn tiếng nói:

–Nay chính Ta sẽ cúng dường Phật và chúng Tăng.

Nói như vậy rồi, trời Đế Thích liền đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật:

–Cúi mong Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, suốt đời thọ nhận sự cúng dường của con.

Đức Phật không nhận lời. Trời Đế Thích lại bạch Phật:

–Nếu Thế Tôn không thọ nhận sự cúng dường suốt đời của con, thì xin Ngài hãy thọ nhận con cúng dường trong năm năm.

Phật cũng không nhận. Trời Đế Thích lại bạch:

–Nếu không thọ nhận sự cúng dường của con trong năm năm, xin Ngài thọ nhận sự cúng dường của con trong năm tháng.

Đức Phật cũng không nhận. Trời Đế Thích lại bạch Phật:

–Nếu không nhận sự cúng dường của con trong năm tháng, xin Ngài thọ nhận sự cúng dường của con trong năm ngày. Phật liền nhận lời. Lúc ấy trời Đế Thích biến vườn trúc Ca-lan-đà rực rỡ như cung điện Tỳ-xà-da, với đầy đủ tiện nghi nào giường, ghế, nào dụng cụ để trải nằm, cùng thức ăn Tu-đà của cõi trời, đựng trong chén bát bằng vàng, được các vị trời tự tay dâng cúng Đức Phật và chúng Tăng.

Vua A-xà-thế đang đứng trên lầu cao, từ xa thấy vườn trúc Ca-lan-đà rực rỡ sáng chói như cung điện của chư Thiên, thấy thức ăn Tu-đà cõi trời đựng trong chén bát bằng báu, thấy trời Đế Thích và chư Thiên tự tay dâng cúng thức lên Đức Phật và chúng Tăng.

Bấy giờ, vua A-xà-thế nhìn thấy sự việc ấy, liền ăn năn tự trách, trong tâm rất giận dữ mắng nhiếc Đề-bà-đạt-đa:

–Ông là kẻ ngu si, tại sao xúi giục ta bày ra những pháp chế không đúng phép đối với Đức Thế Tôn?

Nói rồi, vua A-xà-thế càng sinh tâm rất kính tín đối với Phật.

Lúc ấy các quan thưa với vua A-xà-thế:

–Ngay bây giờ, xin đại vương hãy hủy bỏ các pháp chế sai lầm trước kia, để cho dân chúng được gặp Như Lai và tùy ý cúng dường. Vua A-xà-thế liền ra lệnh sai người đánh trống thông cáo cho dân chúng biết, từ đây về sau cho phép dân chúng được sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Thế Tôn.

Bấy giờ, Thế Tôn nói pháp cho họ nghe bằng nhiều cách, khiến họ được mở tỏ tâm ý, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, có người chứng quả A-na-hàm, cho đến có người phát tâm Bồ-đề vô thượng. Khi các Tỳ-kheo thấy sự việc ấy, khen là việc chưa từng có, bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được trời Đế Thích cúng dường như vậy?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Bảo Điện. Một hôm, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đi giáo hóa, đến nước của vua Già-sí. Hay tin Phật đến, nhà vua cùng các quan ra đón rước Thế Tôn. Vua quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật: “Xin Thế Tôn từ bi nhận bốn thứ cúng dường của chúng con trong ba tháng.”

Đức Phật liền hứa khả. Sau khi thọ cúng, Đức Phật bèn nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách. Vua phát tâm Bồ-đề, Đức Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai đại vương sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ khắp chúng sinh nhiều không thể tính kể.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vua Già-sí lúc ấy nay chính là Ta, còn các quan bấy giờ nay chính là các Tỳ-kheo. Tất cả đều nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy nên trong vô lượng kiếp không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, thường sinh lên cõi trời, cõi người thọ hưởng sự an vui. Cho đến ngày nay, Ta đã thành Phật, do đó trời, người đến cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


16- Truyện Phật Hiện Thân Trời Đế Thích Để Hóa Độ Bà-La-Môn

Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại vườn trúc Ca-lan-đà, trong thành Vương xá.

Bấy giờ, trong thành có một vị phụ tướng, tên là Lê-xa, tin theo kiến chấp tà vạy điên đảo, chẳng tin nhân quả, lại còn xúi giục vua Axà-thế phản nghịch giết cha, tự lên ngôi vua. Khi lên ngôi vua rồi, A-xà-thế rất vui mừng, ra lệnh cho thần dân lập đại hội, tập hợp một trăm ngàn vị Bà-la-môn, cùng nhau đặt ra pháp chế nghiêm khắc, không cho ai được đến chỗ Cù-đàm để thưa hỏi điều gì. Các Bà-la-môn nghe biết việc ấy, họ không đến chỗ Phật nữa. Mỗi khi lén dụm đầu bàn tán thì có người nói rằng: “Kinh Vi-đà của ta có dạy rằng: Sa-môn Cù-đàm là người đứng đầu trong các vị trời của chúng ta. Vậy bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau xưng danh hiệu Ngài, có thể Ngài sẽ đến trong hội, chúng ta sẽ suốt đời thờ phụng Ngài.”

Nói lời ấy rồi họ cùng nhau xưng niệm: “Nam-mô Cù-đàm Sa-môn, chúng con xin thỉnh Ngài đến trong hội này.”

Bấy giờ Như Lai thường với lòng Đại bi, sáu thời trong một ngày đêm, quán sát chúng sinh, xem chúng sinh nào hóa độ được, thì Ngài đến hóa độ. Đức Phật biết rằng các Bà-la-môn kia căn lành đã thuần thục, đáng được Ngài hóa độ, nên Ngài biến thân mình thành trời Đế Thích, đi trên hư không đến trong hội chúng Bà-la-môn. Các Bà-la-môn đều đứng dậy đón rước, thỉnh Đế Thích an tọa và thưa:

–Giờ đây, sự mong cầu của chúng con đã đạt được, chúng con nguyện suốt đời sẽ thờ phụng Ngài.

Đế Thích bèn khen ngợi. Khi Thế Tôn biết tâm của các Bà-la-môn đã được điều phục, Ngài hiện lại thân Phật và theo chỗ ứng hợp giảng nói pháp Tứ đế cho họ nghe, khiến họ được mở tỏ tâm ý. Các Bà-la-môn đều chứng quả Tu-đà-hoàn, ai cũng vui mừng, cùng nhau đặt bày trăm món uống ăn, thỉnh Phật và chúng Tăng cúng dường.

Các Tỳ-kheo thấy sự việc ấy, bước ra trước bạch Phật:

–Thuở xưa, Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được các Bà-la-môn sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Phật và chúng Tăng như thế?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại, có Đức Phật ra đời hiệu là Diệu Âm. Một hôm, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đến chỗ vua Bảo Điện. Khi nghe tin Đức Phật đến nhà vua cùng các quan ra đón rước.

Vua thỉnh Phật: “Cúi xin Thế Tôn nhận bốn thứ cúng dường của con trong ba tháng.” Đức Phật liền nhận lời. Trong ba tháng, sau khi thọ nhận sự cúng dường của vua, tại chỗ thọ trai, xuất hiện hoa sen bằng bảy chất báu, trong hoa sen có hóa Phật đang ngồi kiết già, phát ra ánh sáng rực rỡ, trên đến cõi trời A-ca-nị-trá, dưới đến địa ngục A-tỳ.

Vua Bảo Điện thấy sự diễn biến như vậy, liền phát tâm Bồ-đề vô thượng. Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai đại vương sẽ thành Phật

hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ khắp chúng sinh nhiều không thể tính kể.”

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết vua Bảo Điện lúc ấy nay chính là Ta, còn các quan bấy giờ nay là các Bà-la-môn. Nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, thường sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự an vui. Cho đến ngày nay Ta đã thành Phật, vì vậy trời, người đến cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


17- Truyện Thần Càn-Thát-Bà Trổi Nhạc Khen Phật

Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, trong thành có năm trăm vị thần Càn-thát-bà đánh đàn cầm rất hay, ngày đêm thường trổi nhạc, ca múa để cúng dường Như Lai, tiếng tăm vang xa, khắp nơi đều nghe biết.

Khi ấy ở phía Nam của thành có vua Càn-thát-bà tên là Thiện Ái, cũng đánh đàn cầm rất giỏi, hay xướng nhạc ca múa, trong nước không ai bằng. Từ đó Thiện Ái sinh tâm kiêu mạn, cho rằng không ai có thể sánh bằng mình. Nghe nói ở phương Bắc cũng có vị Càn-thát-bà, ngón đàn rất giỏi, xướng nhạc ca múa cũng hay, cho nên Thiện Ái muốn đi đến đó, trải qua mười sáu nước lớn. Khi đến nơi, Thiện Ái gảy cây đàn một dây, đàn có thể phát ra bảy thứ âm thanh, mỗi âm thanh lại có hai mươi mốt giai điệu, khi dân chúng nghe đàn và xem  ca múa đều hớn hở vui mừng, nhảy múa điên cuồng không kìm chế được, rồi dân chúng cùng theo Thiện Ái tâu vua xin tranh tài đánh đàn cầm cùng Càn-thát-bà bổn xứ.

Khi Thiện Ái đến nơi, vị thần giữ cửa và Càn-thát-bà bổn xứ vào tâu vua:

–Có vua Càn-thát-bà ở phương Nam, tên là Thiện Ái có tài sử dụng đàn cầm, trổi nhạc vui chơi, hiện đang ở ngoài cửa, nhân nghe bên vua có Càn-thát-bà cũng giỏi đàn cầm ca múa nên từ xa đến đây có ý muốn xin vua cho phép cùng thi tài đàn cầm.

Lúc ấy vua Ba-tư-nặc bảo người giữ cửa hãy mau gọi Thiện Ái vào. Khi diện kiến hai bên đều vui vẻ. Thiện Ái tâu vua:

–Nhân nghe nhà vua cũng có vị Càn-thát-bà có tài sử dụng đàn cầm, trổi nhạc vui chơi. Vậy đại vương cho phép cùng thi thố tài nghệ được chăng?

Vua đáp:

–Ta không ngại gì, có một nơi cách đây không xa, chúng Ta hãy đến đó tùy ý thi tài.

–Vua Càn-thát-bà Thiện Ái bằng lòng, cả hai cùng đến chỗ Thế Tôn. Phật hiểu ý vua Ba-tư-nặc, liền hóa thành vua Càn-thát-bà đem đến bảy ngàn nhạc thần Ban-già-thi-khí của cõi trời, mỗi vị đều cầm đàn lưu ly đứng hầu hai bên. Khi ấy, vua Ba-tư-nặc bảo Thiện Ái:

–Đây là các vị thần âm nhạc của Ta, bây giờ người hãy thi tài với họ.

Thiện Ái liền cầm cây đàn một dây lên gảy, đàn phát ra bảy âm thanh khác nhau, trong mỗi âm thanh lại có hai mươi mốt giai điệu. Tiếng đàn Thiện Ái hòa hợp tiết tấu rất hay, làm cho mọi người vui sướng nhảy múa đến mê loạn không tự kiềm chế được. Bấy giờ Như Lai cầm đàn lưu ly Ban-già-thi-khí một dây lên gảy phát ra hàng vạn âm thanh rất uyển chuyển dịu dàng thanh thoát. Người nghe vui cười ca múa, hớn hở thích thú.

Lúc ấy vua Càn-thát-bà Thiện Ái nghe tiếng đàn, khen là chưa từng có, trong lòng hổ thẹn vì tiếng đàn của mình. Thiện Ái lui ra quỳ thẳng chắp tay thỉnh Đức Như Lai làm Bậc Đại Sư và học hỏi các phương pháp về đàn cầm.

Lúc ấy Đức Phật thấy vua Càn-thát-bà Thiện Ái đã dứt bỏ tanh ngã mạn, tâm đã được thuần phục. Ngài trở lại thân cũ. Các Tỳ-kheo đều ngồi im lặng. Thiện Ái sợ hãi, khắp mình nổi ốc, liền đối trước Phật sinh tâm kính tin, quỳ thẳng chắp tay xin được nhập đạo. Đức Phật bảo Thiện Ái:

–Lành thay, Tỳ-kheo!

Thiện Ái râu tóc tự rụng xuống, thân mặc pháp phục, trở thành Sa-môn, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu đã chứng quả A-la-hán.

Vua Ba-tư-nặc thấy vua Càn-thát-bà Thiện Ái tâm đã thuần phục lại còn chứng đạo, trong tâm vui mừng quỳ thẳng thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng cúng dường. Đức Phật liền nhận lời, vua bảo các quan cho dân chúng sửa sang, dọn dẹp gạch đá, các vật ô uế, dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rưới nước thơm trên đất, rải các thứ hoa, đặt bày giường ghế, sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng.

Các Tỳ-kheo thấy việc cúng dường ấy lấy làm lạ, cho là việc chưa từng có, bèn bạch Phật:

–Đời trước Như Lai đã gieo trồng phước đức gì, mà nay Ngài được cúng dường âm nhạc không lúc nào xa rời như vậy?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ nói rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Chánh Giác. Một hôm Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúngsinh, khi đến nước của vua Phạm Ma, Phật và đại chúng ngồi kiết già dưới gốc cây, nhập tam-muội Hỏa quang, ánh sáng chiếu khắp trời đất.

Lúc ấy vua Phạm Ma cùng các quan và mấy vạn người rời thành để du ngoạn, trổi xướng âm nhạc ca múa vui chơi, từ xa thấy Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đang ngồi kiết già dưới gốc cây, ánh sáng rực rỡ, soi khắp đất trời như trăm ngàn mặt trời, vua sinh tâm vui mừng dẫn các kỹ nữ đến chỗ Phật, cùng bước tới dưới chân Ngài, trổi xướng âm nhạc cúng dường, rồi quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật: “Cúi mong Đức Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng, rủ lòng Đại bi thương xót vào cung thọ nhận sự cúng dường của chúng con.”

–Đức Phật liền chấp nhận. Vua liền cho sắm sửa các món ăn  ngon cúng dường. Thọ trai xong, Đức Phật liền nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách, vua phát tâm Bồ-đề. Đức Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường.”

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vua Phạm Ma lúc bấy giờ nay chính là Ta, còn các quan bấy giờ nay là các Tỳ-kheo. Đều nhờ công đức cúng dường Phật khi ấy, nên trong vô lượng kiếp Ta và các ông không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ; thường sinh lên cõi trời, cõi người hưởng sự an vui, cho đến ngày nay Ta đã thành Phật và được cúng dường âm dường nhạc không lúc nào xa rời như vậy.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


18- Truyện Chàng Như Nguyện Sắp Bị Hành Hình,

Xin Phật Xuất Gia

Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp cô độc thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, trong thành có một gã khờ tên là Như Nguyện. Như Nguyện thích việc giết chóc, trộm cắp, tà dâm, bị dân chúng tố giác nên vua ra lệnh bắt trói và đem ra ngoài chợ. Sau đó vua ra lệnh giải Như Nguyện đến pháp trường xử tử.

Khi sắp hành hình thì Như Nguyện được gặp Đức Phật, bèn đảnh lễ cung kính và tự nói lên tội trạng:

–Con đáng tội chết, không còn sống bao lâu nữa. Cúi xin Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót, xin vua cho con xuất gia, rồi chết cũng không ân hận.

Lúc ấy Đức Phật liền hứa khả, bảo A-nan:

–Ông hãy đến thưa với vua Ba-tư-nặc rằng hôm nay Ta muốn xin kẻ tử tội để cho y xuất gia.

Nghe lời Phật dạy, A-nan liền đi gặp vua Ba-tư-nặc, thưa rằng:

–Hôm nay Đức Thế Tôn muốn xin vua kẻ tử tội để cho y được xuất gia.

Vua vâng lời Phật, thả tội nhân ra về giao cho Thế Tôn. Đức Phật độ cho người này xuất gia, siêng năng tu tập, chẳng bao lâu chứng quả La-hán.

Các Tỳ-kheo thấy Như Nguyện sắp chết mà được cứu thoát và xuất gia không bao lâu lại chứng quả, nên khen là việc chưa từng có, bèn bước tới bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay lời Ngài nói ra được vua tin tưởng thực hành? Ngài cứu người tội kia được an toàn tính mạng, chẳng hay việc ấy như thế nào xin  Ngài giải thích cho chúng con được biết.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Đế Tràng. Một hôm, Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh trong các thôn làng. Trên đường đi, Đức Phật gặp một Tiên nhân.

Thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, ánh sáng soi chiếu như trăm ngàn mặt trời, Tiên nhân vui mừng đảnh lễ dưới chân Phật, thỉnh Ngài an nghỉ và sắm sửa các món thức ăn ngon cúng dường. Cúng dường xong, Tiên nhân phát nguyện:

“Nguyện đời vị lai, khi con nói ra điều gì, đều được người tin tưởng thực hành theo.”

Đức Phật liền đáp rằng: “Ta sẽ khiến điều mong cầu của ông được toại nguyện như Ta hiện giờ, không hề sai khác”.

Nghe Phật dạy, Tiên nhân liền đối trước Phật phát tâm Bồ-đề vô thượng. Đức Phật liền thọ ký cho Tiên nhân: “Ở đời vị lai, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh nhiều không thể tính lường.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, Tiên nhân thuở ấy nay chính là Ta. Do đời quá khứ Ta kính thuận Phật, nên nay Ta nói ra điều gì cũng được mọi người tin nhận, cứu được người tội kia thoát chết, lại còn được xuất gia đắc đạo.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


19- Truyện Vua Tần-Bà-Sa-La Thỉnh Phật

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương xá.

Bấy giờ vua Tần-bà-sa-la cùng với mười hai ức na-do-tha người đến chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật:

–Cúi mong Đức Thế Tôn cùng chúng Tỳ-kheo rủ lòng Từ bi thọ nhận bốn thứ cúng dường của chúng con suốt đời.

Nhưng Đức Phật không thọ nhận. Tần-bà-sa-la lại bạch Phật:

–Nếu Thế Tôn không nhận sự cúng dường trọn đời của con, xin Ngài nhận cúng dường của con trong mười hai năm.

Đức Phật cũng không thọ nhận. Vua lại bạch Phật:

–Nếu Đức Thế Tôn không nhận sự cúng dường của con trong mười hai năm, vậy xin Ngài nhận sự cúng dường của con trong mười hai tháng.

Đức Phật cũng không thọ nhận. Vua lại bạch Phật:

–Nếu Đức Thế Tôn không thọ nhận sự cúng dường mười hai tháng, vậy xin Ngài thọ nhận bốn thứ cúng dường trong của con ba tháng.

Đức Phật liền nhận lời. Vua Tần-bà-sa-la ra lệnh cho nhân dân sửa sang đường xá, dọn dẹp các vật ô uế, dựng cờ, treo phướn, treo linh báu, rưới nước hương trên đất, rải hoa thơm, sắp đặt giường, đồ nằm, chiếu mền, sắm sửa đầy đủ các thức ăn ngon, vua cùng các quan đều cầm lọng che mát Đức Phật cùng chúng Tăng trên đường đi về thành Vương xá.

Đến nơi, Đức Phật vừa bước chân vào cổng thành, thì mặt đất tự nhiên rung chuyển, các vật báu trong đất tự nhiên vọt lên; người mù thấy được sáng, người điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, kẻ nghèo được của; trên không trung âm nhạc không ai trổi mà tự nhiên réo rắt vang lừng; các loài voi, ngựa, chim muông cũng kêu hót lên những tiếng hòa êm tai; từ không trung mưa hoa đẹp tuôn xuống, rải khắp đến cung vua.

Vua Tần-bà-sa-la cho sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật và chúng Tăng ba tháng. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách, vua sinh tâm vui mừng cúng dường lên Đức Phật và chúng Tăng y Gia-thi-dục, rồi lui ngồi sang một bên.

Lúc ấy các Tỳ-kheo đảnh lễ bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, đời trước Ngài đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được sự cúng dường thượng diệu như vậy?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra hiệu là Sai-ma.

Một hôm, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh, đến nước Bảo Thắng. Vua nước ấy là Già-sí, nghe tin Phật đến tâm ông rất vui mừng, bèn cùng các quan ra khỏi thành đón rước. Vua đảnh lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật: “Cúi mong Đức Thế Tôn rủ lòng Từ bi thương xót thọ nhận sự cúng dường của chúng con.

Đức Phật liền thọ nhận. Vua bèn cho người sắm sửa các thức ăn ngon cúng dường Đức Phật. Sau khi thọ trai, Đức Phật nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách. Vua sinh tâm vui mừng, đối trước Phật phát tâm Bồ-đề vô thượng. Phật thọ ký cho vua: “Ở đời vị lai, đại vương sẽ được thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni làm lợi ích an vui cho chúng sinh nhiều không thể tính kể.”

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vua Già-sí lúc bấy giờ chính là Ta; các quan lúc ấy nay là các Tỳ-kheo. Nhờ công đức cúng dường Phật thời ấy, cho nên trong vô lượng kiếp Ta và các thầy không bị đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, thường sinh lên cõi trời, cõi người, thọ hưởng sự vui sướng; cho đến ngày nay Ta đã thành Phật vì thế có trời, người đến cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.


20- Truyện Trời Đế Thích Biến Hóa Vườn Trúc Ca-Lan-Đà

Một thuở nọ, Đức Phật ngự trong vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc  thành Vương xá.

Bấy giờ, trong thành có một trưởng giả tên là Cù-sa, là người có vô lượng tài bảo không tính kể được. Nhưng trưởng giả không tin Phật pháp, mà tin theo những kiến chấp tà vạy điên đảo, thờ phụng ngoại đạo.

Lúc ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên quán sát thấy vị trưởng giả này vì quá tin tà kiến, e rằng khi trưởng giả bị đọa vào ba đường thì không thể cứu được. Tôn giả sinh tâm thương xót, liền tìm cách bảo với trời Đế Thích:

–Nay ông hãy biến hóa vườn trúc Ca-lan-đà thành bảy món báu, không khác nào cung điện ở các cõi trời, treo phướn lọng và các linh báu, rải hoa thơm cõi trời trên mặt đất, các món ăn Tu-đà cõi trời tự nhiên đầy đủ để cúng dường Đức Phật và chúng Tăng; có các rồng Y-la-bát cầm phướn lọng che trên đảnh Phật, lại có các vua rồng mỗi vị cũng cầm các thứ phướn lọng che cho các Tỳ-kheo, phu nhân Xá-thi dẫn theo các thể nữ, mỗi người đều cầm quạt đứng hai bên quạt hầu Đức Phật và các Thần âm nhạc Ban-già-thi-khí, cũng trổi âm nhạc

cúng dường Phật.

Trưởng giả thấy cảnh tượng ấy, khen là điều chưa từng có. Từ đó, trưởng giả sinh lòng kính tin đối với Phật. Ông đến chỗ Phật, bạch Đức Phật:

–Cúi mong Đức Thế Tôn từ bi thương xót thọ nhận sự cúng dường của con. Đức Phật nhận lời. Trưởng giả trở về nhà lo sửa soạn các thức ăn uống, rồi sai người đến bạch Phật:

–Bạch Đức Thế Tôn, đã dọn bày đầy đủ, cúi xin Đức Thế Tôn biết cho đã đến giờ.

Lúc ấy Thế Tôn đắp y, ôm bát dẫn đầu các Tỳ-kheo đến nhà trưởng giả thọ trai. Sau khi thọ trai, Đức Phật liền nói pháp cho trưởng giả nghe bằng nhiều cách, tâm ý trưởng giả được mở tỏ và chứng quả Tu-đà-hoàn.

Các Tỳ-kheo thấy việc ấy, những việc thần biến và sự cúng dường như thế cho là điều lạ chưa từng có, bèn bạch Phật:

–Đời trước Đức Như Lai Thế Tôn đã gieo trồng phước đức gì, mà nay được quả báo như vậy?

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ giải thích rõ. Thuở xưa, cách nay vô lượng kiếp, tại nước Ba-la-nại có Đức Phật ra đời hiệu là Mãn Nguyện. Một hôm, Đức Phật dẫn đầu các Tỳ-kheo đi giáo hóa chúng sinh; đến nước của vua Phạm Ma. Nghe tin Phật đến, vua và các quan ra thành đón rước.

Vua bước đến lễ dưới chân Phật và quỳ thẳng chắp tay thỉnh Phật:

–Cúi mong Đức Thế Tôn thọ nhận sự cúng dường của con. Đức Phật liền nhận lời. Vua bèn ra lệnh cho các quan chuẩn bị trăm thức uống ăn. Sau khi thọ trai, Đức Phật liền nói pháp cho vua nghe bằng nhiều cách, vua phát tâm Bồ-đề. Đức Phật thọ ký cho vua:

–Ở đời vị lai, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hóa độ chúng sinh nhiều không thể hạn lượng.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

–Các thầy nên biết, vua Phạm Ma thời ấy nay chính là Ta. Nhờ sự cúng dường Phật lúc ấy cho nên trong vô lượng kiếp Ta không bị đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, thường sinh lên cõi trời, cõi người thọ hưởng sự vui sướng, cho đến ngày nay Ta đã thành Phật, vì thế mà trời, người cúng dường Ta.

Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, đều vui mừng thực hành.