LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Sa-môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…Đời Bắc Lương
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Chương 3: KIỀN-ĐỘ TRÍ

Phẩm 1: TÁM ĐẠO

(Từ cuối quyển 46 – đầu quyển 49)

Phật nói: Người Hữu học thành tựu tám thứ học đạo tích. A-la-hán lậu tận, phạm hạnh đã lập thành tựu mười thứ đạo Vô học.

Người Hữu học tám thứ học đạo tích có bao nhiêu pháp thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu pháp thành tựu ở vị lai, hiện tại? A-la-hán lậu đã hết, phạm hạnh đã lập, mười thứ đạo Vô học, có bao nhiêu đạo thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu đạo thành tựu ở vị lai, hiện tại?

Như chương nầy và giải thích nghĩa của chương, ở đây sẽ nói rộng Ưu-ba-đề-xá.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì ngăn dứt ý của những người ngu ở đời, cho là không có thành tựu đời quá khứ, vị lai, thành tựu nói đời hiện tại là pháp vô vi, đồng thời cũng để làm rõ về thành tựu hành của quá khứ, vị lai là pháp có thật. Nếu hành của quá khứ, vị lai là không có thật thì sẽ không có thành tựu. Không thành tựu Hành của quá khứ, vị lai, như đầu thứ hai, tay thứ ba, ấm thứ sáu, nhập thứ mười ba!

Không có thành tựu, không thành tựu: do có thành tựu hạnh quá khứ, vị lai, nên biết hành của quá khứ, vị lai là pháp có thật.

Lại có người nói: Lý do là ở người soạn luận.

Hoặc có người nói: Thành tựu chẳng phải pháp có thật. Như Phái Thí dụ giả, Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Thành tựu Vô thể nên chẳng phải pháp có thật. Vì sao? Vì nếu chúng sinh không lìa Pháp có thật đó, gọi là thành tựu, nhưng không lìa là phân biệt pháp hòa hợp đối đãi nhau, không có thực thể. Như chụm năm ngón tay lại, gọi là nắm tay, xòe ra thì chẳng phải nắm tay. Nếu chúng sinh không lìa pháp có thật kia, gọi là thành tựu, nếu lìa pháp có thật kia thì không gọi là thành tựu.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia nói như thế?

Đáp: Vì Tôn giả kia dựa vào kinh Phật, kinh Phật nói: Vua Chuyển luân thành tưụ bảy báu. Kia là thành tựu thân pháp người khác và pháp của phi số chúng sinh? Nếu vua Chuyển Luân thành tựu xe báu, thần ngọc báu thì sẽ làm hư hoại Pháp thể. Vì sao? Vì vừa là số chúng sinh, vừa là phi số chúng sinh! Nếu thành tựu voi, ngựa báu thì sẽ làm hư hoại cõi. Vì sao? Vì cũng là cõi người, cũng là cõi súc sinh. Nếu thành tựu báu ngọc nữ thì sẽ làm hư hoại thân. Vì sao? Vì vừa là thân nam, vừa là thân nữ. Nếu thành tựu quan chủ kho tàng, chủ binhthì sẽ làm hư hoại nghiệp. Vì sao? Vì vừa là tôn quý, vừa là thấp kém.

Muốn cho không có lỗi như thế, nên nói thành tựu không có thật thể.

Vì muốn ngăn ý của người nói như thế, cũng là để làm rõ thành tựu là có thật thể. Nếu sự thành tựu không có thực Thể thì sẽ trái với kinh nầy. Như nói: Người thành tựu tám thứ học đạo tích. A-la-hán dứt hết lậu, phạm hạnh đã lập, thành tựu mười thứ đạo Vô học. Tâm hữu lậu của bậc Thánh, khi hiện ở trước, là đã thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại. Không có đạo vô lậu, nên không thành tựu thì lại trái với kinh khác! Như nói: Người nầy đã thành tựu pháp thiện, cũng thành tựu pháp bất thiện, vô ký. Nếu khi pháp thiện hiện ở trước thì lìa pháp bất thiện, vô ký, không nên thành tựu. Khi pháp bất thiện hiện ở trước thì lìa pháp thiện, pháp vô ký, không nên thành tựu. Pháp vô ký, lúc biểu hiện ở trước, tức là lìa pháp thiện, bất thiện, không nên thành tựu.

Lại trái với kinh khác. Như nói: Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp, ở trong hiện pháp thường trụ ở hỷ lạc. Nếu tu phương tiện, thì có thể dứt hết lậu. Không có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp, nghĩa là trong bảy pháp nếu khởi mỗi pháp hiện ở trước, thì thành tựu một pháp. Nếu khởi pháp khác hiện ra ở trước thì trong bảy pháp sẽ không thành tựu.

Lại trái với kinh khác! Như nói: Như lai thành tựu mười lực. Không có Như lai thành tựu mười lực, nếu thành tựu một lực, hoặc không thành tựu Như lai. Trong mười lực, nếu khởi mỗi lực hiện ở trước thì sẽ thành tựu một lực. Vì sao? Vì trong một sát-na, không có hai tuệ đều hiện ở trước, huống chi là nhiều! Nếu khởi pháp khác hiện ở trước, thì không thành tựu lực.

Lại có lỗi khác: Người phàm phu có thể nói lìa kiết của ba cõi, người lìa kiết ba cõi có thể nói là người phàm phu. Người phàm phu có thể nói là người lìa kiết ba cõi, nghĩa là tâm thiện, vô ký không ẩn một của người phàm phu, khi hiện ra ở trước, tức là không thành tựu kiết ba cõi ở quá khứ, vị lai, hiện tại, nên là người lìa dục ba cõi, người lìa dục ba cõi là người phàm phu, A-la-hán khởi tâm hữu lậu thiện và tâm vô ký không ẩn một khi hiện ở trước, thì không thành tựu pháp vô lậu quá khứ, hiện tại, vị lai, do không thành tựu pháp vô lậu nên là phàm phu!

Vì muốn cho không có lỗi như cho nên nói thành tựu là pháp có thật.

Hỏi: Nếu thành tựu là pháp có thật, thì kinh mà người của Phái Thí dụ giả đã dẫn làm sao hiểu được?

Đáp: Vì vua Chuyển Luân được tùy ý, tự tại sử dụng bảy thứ châu báu, nên Đức Thế tôn mới nói là thành tựu.

Lại có người nói: Sở dĩ soạn ra luận nầy là vì có người nói: Thành tựu là pháp có thật, không thành tựu chẳng phải pháp có thật.

Vì ngăn dứt ý của người nói như thế, cũng nói không thành tựu là pháp có thật. Vì nếu không thành tựu chẳng phải pháp có thật thì thành tựu cũng chẳng phải có thật! Vì sao? Vì nhân không thành tựu, nên lập bày thành tựu, như nhân sự sáng suốt có bóng tối, nhân đêm có ngày, nhân lạnh có nóng, nhân không thành tựu nên có thành tựu, cũng thế!

Lại nữa, không thành tựu và thành tựu là hai, là hai pháp tương đối gần, như tham với không tham, giận dữ với không giận dữ, ngu si và không ngu si, đều là hai pháp tương đối gần. Thành tựu và không thành tựu kia, cũng giống như thế.

Lại nữa, nếu không thành tựu không có thật thể thì không lập bày có pháp dứt trừ phiền não. Vì sao? Vì lúc Thánh đạo sinh là đã dứt phiền não rồi, chứ chẳng phải như dùng viên đá mài hương! Lúc Thánh đạo sinh, vì dứt trừ được phiền não, chứng được giải thoát, nên gọi là dứt phiền não.

Lại có người nói: Sở dĩ soạn luận nầy vì có thuyết cho rằng: Thánh đạo là pháp vô vi. Như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Thánh đạo là pháp vô vi. Phái ấy nói rằng: Đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng là một pháp thường trú, Chư Phật xuất thế đều giác ngộ đạo nầy. Ví như trang nghiêm các voi, ngựa để cỡi, nhiều người đến cỡi, mặc dù mỗi người mỗi khác, như sự cỡi thường là một, đạo Chánh đẳng chánh giác vô thượng là một thường trụ như thế. Chư Phật xuất thế, đều giác ngộ đạo Bồ-đề nầy. Chư Phật dù khác, nhưng đạo Bồ-đề kia thường là một.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia nói như thế?

Đáp: Dựa vào kinh Phật! Kinh Phật nói: Ta được chư tiên quá khứ đã đạt được đạo của. Do Phật nói đạo là pháp cũ, nên nói là vô vi.

Vì ngăn dứt ý của những người nói như thế, cũng để làm rõ đạo ở ngay ở thế gian. Nếu đạo ở thế gian, tất nhiên là hữu vi, chẳng phải vô vi. Vì sao? Vì không có pháp vô vi nào ở thế gian. Nếu đạo là pháp vô vi, thì trái với kinh nầy! Như nói: Ưu-bà-di Tỳ-Xá-Khư đến chỗ Tỳkheo Ni- Đàn- Ma- Đề- Na, hỏi rằng: Đạo là hữu vi hay vô vi? Tỳ-kheo ni kia đáp: Đạo của Ưu-bà-di Tỳ-xá-khư là hữu vi, chẳng phải vô vi.

Hỏi: Nếu đạo là hữu vi, chẳng phải vô vi thì kinh của phái Tỳ-bà Xà-bà-đề nói làm sao hiểu được?

Đáp: Vì năm việc đồng, nên nói là đạo cũ:

  1. Vì đồng phương tiện.
  2. Vì đồng địa.
  3. Vì đồng hành.
  4. Vì đồng cảnh giới.
  5. Vì đồng chỗ tạo tác.

Phương tiện đồng, nghĩa là: Như một vị Phật, trong suốt ba Atăng-kỳ kiếp đầy đủ sáu Ba-la-mật Chư Phật cũng thế!

Đồng địa, đạo kia đều ở địa thiền thứ tư.

Đồng hạnh, đều thực hành mười sáu hành.

Đồng cảnh giới đều duyên với bốn đế.

Đồng chỗ làm, nghĩa là như một Đức Phật, dùng đạo để dứt trừ phiền não thì tất cả Chư Phật cũng thế! Do nghĩa nầy nên hiểu kinh kia.

Nếu như kinh nói: Không dựa vào nghĩa, tức trong kinh nầy nói: Ta từng vượt qua thành cũ, thôn cũ. Thành, thôn có thể là pháp vô vi chăng? Tuy nói thành, thôn là cũ mà chẳng phải vô vi. Đạo cũng giống như thế. Dù nói là đạo cũ nhưng chẳng phải vô vi. Như kệ nói:

Nếu dứt dục không còn

Như hoa sen ở nước

Tỳ-kheo lìa kia, đây

Như rắn bỏ da cũ.

Da rắn có thể là pháp vô vi chăng? Da rắn như thế, dù nói là cũ, nhưng chẳng phải vô vi. Đạo cũng giống như thế.

Cho nên, vì để ngăn nghĩa của người khác, đồng thời cũng muốn làm rõ nghĩa của mình, cũng muốn nói về nghĩa tương ưng pháp tướng, nên soạn luận nầy.

Tám thứ: Là chánh kiến, cho đến chánh định.

Về thành tựu: Hỏi: Ai thành tựu? Là pháp thành tựu hay người thành tựu? Nếu pháp thành tựu thì tất cả pháp đều không có sự ham muốn, vậy làm sao thành tựu? Nếu là người thành tựu thì đối với thật nghĩa, con người không thể chứng đắc. Còn nếu không có người, thì làm sao thành tựu?

Đáp: Nên nói rằng: Thành tựu chẳng phải pháp, chẳng phải người. Trong thật nghĩa có thành tựu, không thành tựu, nhưng không có người thành tựu không thành tựu. Trong thật nghĩa có trói buộc, có giải thoát, nhưng không có người trói buộc, người giải thoát. Có phiền não, có xuất ly, nhưng không có người phiền não, người xuất ly. Có sinh, có tử, nhưng không có người sinh, kẻ tử. Có nghiệp, có nghiệp báo, nhưng không có người gây ra nghiệp, người thọ nghiệp báo. Có đạo, có quả của đạo, nhưng không có người tu đạo, kẻ chứng quả đạo. Trong thật nghĩa, có thành tựu, nhưng không thành tựu, không có người thành tựu, không thành tựu.

Hoặc có người nói: Là pháp thành tựu.

Hỏi: Nếu vậy thì nhãn nhập thành tựu mười một nhập. Mười một nhập cũng thành tựu nhãn nhập chăng?

Đáp: Hoặc nói rằng: Nhãn nhập thành tựu mười một nhập, mười một nhập thành tựu nhãn nhập, mà không có lỗi!

Lời bình: Nên nói rằng: Thành tựu chẳng phải pháp, chẳng phải người, nhưng lúc bốn ấm, năm ấm sinh, sẽ có được tương tự như thế, gọi là thành tựu, không thành tựu.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Tất cả pháp không có sự ham muốn. Đối với pháp không có sự ham muốn đó, có gì là thành tựu, không thành tựu!

Hỏi: Nếu vậy với kinh Phật nói làm sao hiểu được? Như nói: Người nầy thành tựu pháp thiện, bất thiện.

Đáp: Trường hợp nầy, Đức Như lai chẳng qua vì thuận theo lời của thế tục mà nói, chứ không có thật.

Hỏi: Thế nào là nghĩa thành tựu?

Tôn giả Hòa-tu-mật đáp: Nghĩa không dứt là nghĩa thành tựu.

Hỏi: Nếu vậy phàm phu bị ràng buộc đủ, đối với tất cả pháp không dứt, đều là thành tựu chăng?

Đáp: Không phải! Vì không được pháp thành tựu kia.

Lại nữa, nghĩa không vất bỏ là nghĩa thành tựu.

Hỏi: Nếu vậy thì người Hữu học không vất bo pháp Vô học, là thành tựu pháp Vô học đó chăng?

Đáp: Không phải, vì không được pháp Vô học ấy.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: được nghĩa không mất là nghĩa thành tựu. Nếu được pháp Vô học kia mà không mất thì đó gọi là thành tựu.

Hỏi: Vì sao gọi Học là Học? Vì pháp học nên gọi là học chăng? Hay vì được pháp học, nên gọi là Học? Nếu vì học pháp học là người Hữu học, thì trong Kiền-độ Định nói làm sao hiểu được? Như nói: Học trụ tự tánh. Nếu được pháp học là người Hữu học thì kinh Phật làm sao hiểu được? Như nói: Phật bảo Thi-Bà-Ca: Vì học pháp học, nên gọi là Học?

Đáp: Nên nói rằng: Vì học pháp học, nên gọi là học.

Hỏi: Nếu vậy thì với kinh Phật khéo hiểu, còn Kiền-độ Định nói, làm sao hiểu được?

Đáp: Thuyết trong Kiền-độ Định kia nói là được pháp học, nên gọi là người Hữu học.

Lại có người nói: Vì được pháp học, nên gọi là học.

Hỏi: Nếu vậy với Kiền-độ Định nói là khéo hiểu, còn Kinh Phật nói làm sao hiểu được?

Đáp: Trong kinh Phật nói: Không bỏ tâm trông mong, không bỏ phương tiện. Nếu người Hữu học trụ trong tâm thiện, bất thiện, vô ký, không xả bỏ tâm hướng về Niết-bàn, nên gọi là học. Như người đang nghỉ ngơi ở giữa đường, có người khác hỏi: Ông định đi đến đâu? Người kia đáp: Tôi định đi đến chỗ ấy. Người kia vì không bỏ tâm đi, nên dù dừng lại, vẫn nói là đi. Người Hữu học tích kia, cũng giống như thế.

Hỏi: Vô học tích đối với học tích là trong sáng đẹp đẽ, vì sao chỉ nói học tích mà không nói Vô học tích?

Đáp: Lẽ ra nói mà không nói nên biết thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, thuyết nầy bắt đầu nhập pháp. Đã nói học, nên biết cũng nói Vô học.

Lại nữa, vì công việc đã làm của đôi bên đều không đồng, nên người Hữu học dùng đạo tích để làm điều vượt hơn. Còn người Vô học dùng giải thoát để làm hơn. Như việc làm của vua và quan mỗi bên đều không đồng. Vua lấy sự tôn quý để hàng phục, đó là việc làm vượt hơn, còn quan thì dùng binh khí để chiến đấu, tác động trực tiếp là vượt hơn. Học, Vô học kia, cũng giống như thế.

Lại nữa, học đạo tích có thể dứt trừ phiền não, giống như binh khí có thể đập tan kẻ thù, còn Vô học thì không như thế.

Lại nữa, học đạo tích có thể tạo ra phương tiện dứt trừ phiền não và dứt phiền não. Vô học không như thế.

Lại nữa, nghĩa thường vận hành là nghĩa của đạo tích. Vô học vì không thường vận hành, nên không gọi là tích.

Người Hữu học đã thành tựu tám thứ đạo tích thì có bao nhiêu đạo tích thành tựu ở quá khứ? Bao nhiêu đạo tích thành tựu ở vị lai? Bao nhiêu đạo tích thành tựu ở hiện tại?

Đáp: Nếu dựa vào tam-muội có giác có quán. Tam-muội có giác, có quán đó là Vị chí và Sơ thiền.

Hỏi: Trong đây, thế nào là nương dựa?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì đều cùng sinh, nên là nương dựa.

Lại có người nói: duyên Thứ đệ là nương dựa.

Lời bình: Nên nói rằng: Vì dựa vào hai địa kia khởi pháp nầy, nên

gọi là nương dựa.

Đầu tiên có bốn thứ:

  1. Được chánh quyết định ban đầu.
  2. Được quả ban đầu.
  3. Chuyển căn ban đầu.
  4. Lìa dục ban đầu.

Được chánh quyết định ban đầu, là: Dựa vào hai địa kia được chánh quyết định.

Được quả ban đầu, là: Dựa vào hai địa kia, đầu tiên được quả Hữu học.

Chuyển căn ban đầu, nghĩa là: Dựa vào chuyển căn của Tín giải thoát ở hai địa kia, tạo ra Kiến đáo.

Lìa dục ban đầu, là: do sự lìa dục của đạo thế tục, dựa vào hai địa kia, đầu tiên khởi đạo vô lậu hiện ra ở trước. Ở đây, dựa vào bốn thứ ban đầu nầy mà soạn luận. Tùy theo tướng mà nói kiến học hiện ở trước.

Hỏi: Người Hữu học hoặc khởi kiến Phi học Phi Vô học, vì sao chỉ nói Kiến học của người Hữu học hiện ở trước?

Đáp: Nên nói rằng: Hoặc kiến học hiện ở trước, mà không nói nên biết người Hữu học tất khởi kiến học, không khởi kiến Phi học Phi Vô học. Như đã nói: Các sát-na đầu tiên hiện ở trước, không có quá khứ. Vì sao? Vì chưa có một sát-na trải qua sự sanh tử, diệt! Nếu có sinh, diệt, do được quả chuyển căn, nhưng xả bỏ tám thành tựu vị lai, tu tám thành tựu hiện tại. Nếu diệt rồi không xả thì diệt là vô thường, tức diệt rồi không xả. Xả bỏ Thánh đạo có ba thứ:

  1. Được quả.
  2. Lui sụt.
  3. Chuyển căn.

Nếu không được quả, không lui sụt, không chuyển căn, tức dựa vào địa kia, diệt rồi, lại khởi hiện ở trước!

Hỏi: Vì sao dựa vào địa kia diệt rồi lại khởi hiện ở trước?

Đáp: Người Hữu học dựa vào địa kia, chiến đấu với phiền não được thắng lợi, phá tan kiết thù oán, nghĩ đến ơn của địa kia nên lại khởi hiện ở trước.

Như người mặc áo giáp, cầm binh khí giao đầu với kẻ thù, được chiến thắng về sau, do nhớ ơn, nên thường sửa sang khí giới, gậy gộc đã cất giấu không để cho hư hoại. Người Hữu học kia cũng giống như thế.

Lại nữa, vì bốn việc, nên lại khởi hiện ở trước:

  1. Vì muốn thọ niềm vui hiện pháp.
  2. Vì muốn dạo chơi.
  3. Vì muốn quán sát việc đã làm trước kia.
  4. Vì muốn thọ dụng Thánh pháp.

Học trong khoảng sát-na thứ hai, là trạng thái sinh, diệt của sát-na trước. Nghĩa là tám thành tựu vị lai, là tu vị lai. Tám thành tựu hiện tại, là thành tựu hiện ở trước. Sát-na kia diệt rồi, không xả.

Nếu dựa vào tam-muội Không giác, không quán, kiến học hiện ở trước, tám thành tựu quá khứ là dựa vào sự sanh tử, diệt của địa có giác có quán. Tám thành tựu ở vị lai là người tu vị lai. Bảy thành tựu hiện tại thì hiện ở trước, trừ chánh giác. Vì sao? Vì địa không có chánh giác, nên giác kia đã diệt rồi không xả. Dựa vào định Vô sắc, kiến học hiện ở trước, tám thành tựu quá khứ là sự sanh tử, diệt của địa có giác, có quán. Tám thành tựu vị lai là người tu vị lai. Bốn thành tựu hiện tại, trừ chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, vì địa kia không có nên địa kia diệt rồi không xả. Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước, tám thành tựu quá khứ là sự sanh tử, diệt của địa có giác có quán. Tám thành tựu vị lai là người tu vị lai. Hiện tại không có. Nếu nhập định Diệt thì lúc nầy không có tâm, vì người có tâm có thể tu đạo. Nếu khởi tâm thế tục hiện ở trước, thì tâm kia là hữu lậu.

Ở đây, chỉ nói chủng của đạo vô lậu. Nếu dựa vào tam-muội Không giác không quán, thì tam-muội Không giác, không quán là đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền.

Hỏi: Trong đây, vì sao không nói thiền trung gian?

Đáp: Nên nói mà không nói, nên biết thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì thuyết nầy sẽ nói ở phần sau. Vì sao? Vì không còn có chủng khác, vì đồng chủng với đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền, nên dựa vào nghĩa như trước đã nói. Đầu tiên: Có bốn thứ như trước đã nói. Kiến của học hiện ở trước, như đã nói. Sát-na đầu tiên không thành tựu quá khứ, như trước đã nói. Tám thành tựu vị lai, bảy hiện tại như trước đã nói. Sự thành tựu kia đã diệt rồi không bỏ, như trước đã nói.

Lại, dựa vào tam-muội Không giác không quán, kiến của học hiện ở trước. Trong khoảng sát-na thứ hai, bảy thành tựu quá khứ là dựa vào sự sanh tử diệt của địa không giác không quán. Tám thành tựu vị lai, bảy hiện tại, như trước đã nói. Sự thành tựu kia đã diệt rồi không xả bỏ. Dựa vào định Vô sắc, kiến học hiện ở trước, bảy thành tựu quá khứ là sự sanh tử diệt của địa không giác, không quán. Sự thành tựu của tám vị lai, bốn hiện tại, như trước đã nói. Thành tựu kia diệt rồi không bỏ.

Nhập định Diệt, nếu khởi tâm thế tục, như trước đã nói. Tâm kia diệt rồi không bỏ. Dựa vào tam-muội có giác, có quán, kiến của học hiện ở trước, bảy thành tựu quá khứ là sự sanh tử diệt của địa không giác, không quán. Sự thành tựu của tám vị lai, tám hiện tại, như trước đã nói.

Nếu dựa vào Định Vô sắc thì định Vô sắc được gọi là không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ. Sự nương dựa như trước đã nói. Đầu tiên là bốn thứ ban đầu, như trước đã nói.

Trong đây, dựa vào sự lìa dục đầu để soạn luận, chẳng được chánh quyết định đầu tiên. Vì sao? Vì không có ai dựa vào định Vô sắc mà được chánh quyết định, chẳng phải được quả ban đầu. Vì sao? Vì không có ai dựa vào định Vô sắc mà được quả học: chẳng phải chuyển căn ban đầu. Vì sao? Vì không người nào dựa vào định Vô sắc mà chuyển căn học. Do đạo thế tục đã lìa dục của địa dưới, về sau lại dựa vào địa đó, đầu tiên khởi đạo vô lậu hiện ở trước. Sát-na đầu tiên không có quá khứ. Tám vị lai, bốn hiện tại được thành tựu, như trước nói.

Hỏi: Như định Vô sắc của thế tục, chẳng phải không là nhân của thiền thế tục? Định Vô sắc vô lậu chẳng phải không là nhân của thiền vô lậu? Thiền thế tục là cửa, là chỗ nương dựa, là phương tiện của định Vô sắc thế tục. Thiền vô lậu là cửa, là chỗ nương dựa, là phương tiện của định Vô sắc vô lậu. Vậy tại sao nói là không có quá khứ?

Đáp: Vì chủng đạo, hoặc có ở địa thiền, hoặc có ở địa Vô sắc. Chủng địa đó dù khởi ở địa thiền, chưa khởi ở địa Vô sắc, cho nên không có diệt quá khứ, là diệt vô thường. Không xả, nghĩa là xả ba thứ Thánh đạo có như trước đã nói. Dựa vào sự sanh tử, diệt của địa kia, Thánh đạo lại hiện ở trước.

Hỏi: Vì sao dựa vào sự sanh tử diệt của địa kia, Thánh đạo lại hiện ở trước?

Đáp: Vì nghĩ đến ơn của Thánh đạo, nói rộng như trên. Trong khoảng sát-na thứ hai, bốn thành tựu quá khứ là dựa vào sự sanh tử, diệt của định Vô sắc, tám thành tựu vị lai là người tu vị lai, bốn thành tựu hiện tại là khởi hiện trước, trừ chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, vì địa không có, nên diệt kia đã không xả bỏ! Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước: Bốn thành tựu quá khứ, tám thành tựu vị lai, hiện tại không có, như trước đã nói. Diệt kia đã không xả bỏ. Dựa vào tam-muội có giác, có quán, kiến học hiện ở trước, bốn thành tựu quá khứ là dựa vào sự sanh tử diệt của định Vô sắc. Tám thành tựu vị lai là người tu vị lai, tám thành tựu hiện tại là sự khởi hiện ở trước.

Hỏi: Theo thứ lớp của định Vô sắc, có thể khởi tam-muội có giác, có quán chăng?

Đáp: Không thể! Vì ở đây nói theo thứ lớp của thuyết, không nói theo thứ lớp của định! Ở đây nói là nói thuận theo, không nói thuận theo định. Diệt kia đã không xả bỏ, dựa vào tam-muội Không giác, không quán, kiến học hiện ở trước, bốn thành tựu quá khứ là dựa vào sự sanh tử diệt của định Vô sắc.

Hỏi: Quá khứ có tám là dựa vào sự sanh tử diệt của tam-muội có giác, có quán, vì sao lại nói bốn?

Đáp: Vì trong đây tất cả xứ chỉ nói về sự sanh tử diệt trước hết. Tám thành tựu vị lai là người tu vị lai, bảy thành tựu hiện tại là sự khởi hiện ở trước, trừ chánh giác, vì địa kia không có.

Hỏi: Ở đây nói thế nào là người Hữu học?

Đáp: Trong đây nói tập học là theo thứ lớp nhập tất cả định, giống như người trèo lên từng bậc thềm trên đá! Trước nhập tam-muội có giác, có quán. Kế là nhập tam-muội Không giác, không quán. Kế là nhập định Vô sắc, rồi nhập định Diệt, kế, khởi tâm thế tục, nói người Hữu học như thế. Nếu trước nhập tam-muội có giác, có quán, kế nhập tam-muội Không giác, không quán. Kế đó nhập định Vô sắc, rồi nhập định Diệt, không khởi tâm thế tục, không nói người Hữu học như thế. Ngoài ra, như trong Kiền-độ Tạp trong phẩm Nhân đã nói về dụ cô gái xinh đẹp của mười hai chi duyên.

Có bốn thứ đạo:

  1. Đạo tuệ khổ chậm
  2. Đạo tuệ khổ nhanh.
  3. Đạo tuệ vui chậm.
  4. Đạo tuệ vui nhanh.

Hỏi: Nếu nói một đạo, đó là đạo hết khổ. Đạo hết có sinh tử, đạo hết già chết.

Nên nói hai đạo:

  1. Đạo hết sắc.
  2. Đạo hết danh.

Nên nói ba đạo:

  1. Đạo hết cõi Dục.
  2. Đạo hết cõi Sắc.
  3. Đạo hết cõi Vô sắc.

Nên nói năm đạo: Đạo hết sắc, cho đến đạo hết thức.

Nên nói mười một đạo: Đạo hết già chết, cho đến đạo hết hành.

Nếu do ở thân, hoặc do sát-na, thì sẽ có Vô lượng vô biên đạo. Vì sao Đức Thế tôn đối với một đạo, nói rộng bốn đạo, đối với Vô lượng vô biên đạo, nói lược thành bốn đạo? Vì sao giả lập bày bốn đạo?

Đáp: Vì ba việc:

  1. Do địa.
  2. Do căn.
  3. Do người.

Tóm lại, với ba việc, lẽ ra do hai việc: Hoặc do địa, do căn. Hoặc do địa, do người.

Do địa, do căn: là dựa vào Vị chí, Trung gian, ba định Vô sắc thì đạo cho người căn tánh chậm lụt thực hành, gọi là đạo tuệ khổ chậm. Dựa vào địa nầy, đạo cho người căn cơ nhạy bén thực hành, gọi là đạo tuệ khổ nhanh. Dựa vào thiền căn bản, đạo cho người căn tánh chậm lụt thực hành, gọi là đạo tuệ vui chậm. Dựa vào thiền nầy, đạo cho người căn cơ nhạy bén thực hành, gọi là đạo tuệ vui nhanh. Đấy đều gọi là do địa, do căn.

Do địa, do người: là dựa vào thiền Vị chí, Trung gian, ba định Vô sắc, đạo của người Kiên tín, Tín giải thoát, Thời giải thoát thực hành, gọi là đạo tuệ khổ chậm. Dựa vào địa nầy, đạo của người Kiên pháp, Kiến đáo phi Thời giải thoát thực hành, đó gọi là đạo tuệ khổ nhanh. Dựa vào thiền căn bản, đạo của người Kiên tín, Tín giải thoát, Thời giải thoát thực hành, gọi là đạo tuệ vui chậm. Dựa vào thiền nầy, đạo của người Kiến đáo, Kiên pháp phi Thời giải thoát thực hành, gọi là đạo tuệ vui nhanh. Đó gọi là do địa, do người.

********

 

Hỏi: Thể tánh của bốn đạo là gì?

Đáp: Là tánh của năm ấm, bốn ấm. Nếu ở địa thiền là năm ấm, ở định Vô sắc là bốn ấm. Đó là phần vật, ngã tướng, thể tánh của bốn đạo.

Đã nói thể tánh, về lý do nay sẽ nói.

Vì sao gọi là Đạo? Đạo là nghĩa gì? Nghĩa hướng đến nghĩa chánh là nghĩa đạo. Nghĩa hướng tới thành Niết-bàn là nghĩa của đạo. Đạo tuệ khổ chậm.

Hỏi: Đạo vô lậu chẳng phải khổ thọ, không tương ưng với khổ thọ, vì sao gọi là khổ?

Đáp: Vì đạo Vô sắc của các biên khó sinh, nên gọi là khổ, vì đạo của thiền căn bản dễ sinh, nên gọi là vui.

Thế nào là đạo Vô sắc của các biên khó sinh?

Đáp: Phiền não cõi Dục và nghiệp trói buộc, nên phải dụng công nhiều mới sinh được thiền Vị chí. Như người bị trói buộc, phải dùng sức lực nhiều mới có thể tự cởi trói. Người sinh thiền Vị chí kia cũng giống như thế.

Hoặc có người tu quán bất tịnh, sinh địa Vị chí. Hoặc có người tu niệm hơi thở ra vào, sinh địa Vị chí. Người tu quán bất tịnh, trong mười năm, mười hai năm, thường quán xương trắng, có người có thể sinh về địa kia, hoặc không thể sinh! Người tu niệm hơi thở ra vào, trong mười năm, mười hai năm, thường đếm hơi thở, có người có thể sinh về địa kia, hoặc không thể sinh!

Đã lìa ái dục, không dụng công nhiều, có thể khởi Sơ thiền hiện ở trước. Sơ thiền khác với tâm pháp tâm sở diệt, khác với tâm pháp tâm sở sinh, diệt tâm thô, sinh tâm tế, giác diệt với tâm, tâm đi chung quán sinh. Như người dùng gỗ chẻ gỗ, phải dùng nhiều công sức, mới chẻ được gỗ. Người tu Sơ thiền cũng thế. Khác với pháp tâm, tâm sở diệt, khác với pháp tâm, tâm sở sinh. Tâm thô diệt, tâm tế sinh, giác đi chung với tâm diệt, quán đi chung với tâm sinh. Đã lìa dục của Sơ thiền, nên không dùng nhiều công sức khởi Nhị thiền hiện ở trước. Đệ tam, đệ Tứ thiền cũng giống như thế.

Hỏi: Lìa dục của đệ Tứ thiền, cũng không dùng nhiều công sức để khởi định Vô sắc hiện ở trước, vì sao gọi là đạo khổ?

Đáp: Định Vô sắc là pháp vi tế. Hoặc có người nói không có định Vô sắc, nghĩa là như cư sĩ Đa-tỳ-bà đi đến chỗ Tôn giả A-nan hỏi rằng: Thưa Tôn giả A-nan! Tôi là người tại gia, suốt đêm dài sanh tử ưa đắm nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc, nghe nói chúng sinh Vô sắc, lòng cảm thấy sợ hãi, như sắp rơi xuống hố lớn!

Tại sao gọi là chúng sinh mà không có sắc! Thiền căn bản là đạo vui. Như hai người đều đến một chỗ. Một đi bằng đường thủy, một đi bằng đường bộ. Mặc dù cả hai đều đến một chỗ, nhưng người đi bằng đường thủy thì cảm thấy vui chứ chẳng phải người đi bằng đường bộ! Các chúng sinh lìa dục cũng giống như thế. Hoặc có người dựa vào các biên nơi định Vô sắc, hoặc nương dựa căn bản. Mặc dù đều lìa dục, nhưng người nương thiền thì vui, chẳng phải các biên nơi định Vô sắc!

Lại nữa, vì có hai thứ vui, nên gọi là vui: Đó là vui thọ, vui khinh an. Trong ba thiền, có vui khinh an, vui thọ. Đệ Tứ thiền, dù không có vui thọ, nhưng vui khinh an hơn nhiều. Địa khác có hai thứ vui.

Lại nữa, vì có hai thứ vui nên gọi là vui, đó là: vui ở lâu, vui khách. Vui ở lâu, nghĩa là trụ trong thiền, khởi thiền hiện ở trước. Vui khách, nghĩa là trụ trong thiền, khởi định Vô sắc hiện ở trước.

Phần còn lại nói về tướng vui thiền, có nói rộng trong bốn thiền như trên.

Hỏi: Vì sao gọi là chậm?

Đáp: Vì được đạo nầy thì không thể nhanh chóng đến thành Niếtbàn, nên gọi là chậm.

Hỏi: Vì sao gọi là nhanh?

Đáp: Vì người được đạo nầy có thể chóng đến thành Niết-bàn, nên gọi là nhanh.

Hỏi: Nếu không nhanh chóng đến gọi là chậm, nhanh chóng đến gọi là nhanh. Nghĩa là: Có người Tín giải thoát nhanh chóng đến hơn người Kiến đáo. Nghĩa là nếu người Tín giải thoát siêng năng tinh tiến, người Kiến đáo không siêng năng tinh tiến thì người Tín giải thoát sẽ nhanh chóng có chỗ đến, chứ chẳng phải người Kiến đáo. Như kệ nói:

Buông lung, không buông lung,

Tỉnh thức và mê ngủ

Giống như ngựa chậm, nhanh

Người phát trước, đến trước.

Giống như hai người cùng đến một nơi: Một người cỡi ngựa nhanh, một người cỡi ngựa chậm. Mặc dù cỡi ngựa chậm, nhưng nếu xuất phát trước, thì đến trước. Cũng thế, người Tín giải thoát nếu siêng năng hành tinh tiến nên đến Niết-bàn trước. Người Kiến đáo nếu không siêng năng, thì đến Niết-bàn sau?

Đáp: Ở đây nói đều hành tinh tiến, nghĩa là nếu đồng hành tinh tiến thì người Kiến đáo sẽ đến trước.

Hỏi: Bốn đạo nầy là tánh của bốn ấm, năm ấm, vì sao lại nói là tuệ?

Đáp: Mặc dù đạo nầy là tánh của bốn ấm, năm ấm, nhưng vì nghiêng nhiều về tuệ, nên gọi là đạo tuệ. Như kiến đạo là tánh của năm ấm, do nghiêng nhiều về kiến, nên gọi là kiến đạo. Trí biên v.v… là tánh của năm ấm, bốn ấm, vì nghiêng nhiều về trí nên gọi là trí. Định Kim cương dụ là tánh của năm ấm, bốn ấm, do nghiêng nhiều về định nên gọi là định. Bốn đạo cũng giống như thế, là tánh của năm ấm, bốn ấm, do nghiêng nhiều về tuệ, nên gọi là đạo tuệ.

Thế nào là đạo tuệ khổ chậm? Như kinh nói: Tỳ-kheo chán ghét năm thủ ấm. Đó gọi là đạo tuệ khổ chậm.

Hỏi: Đạo nầy duyên với bốn đế, vì sao Đức Thế tôn chỉ nói duyên với khổ đế?

Đáp: Lẽ ra phải nói duyên với bốn đế, mà không nói, nên biết thuyết nầy nói chưa trọn vẹn.

Lại nữa, thuyết nầy là mới nhập pháp vì duyên với khổ đế, nên biết cũng nói là duyên với đế khác.

Lại nữa, kinh Phật nói phương tiện của bốn đạo, không nói Thể của bốn đạo. Trong đạo phương tiện của bốn đạo nói: Chán ghét pháp tập quán như thế. Trong Kinh lại nói: Thế nào là đạo tuệ khổ chậm?

Đáp: Chẳng phải là năm căn tánh chậm lụt thuộc về thiền căn bản.

Thế nào là đạo tuệ khổ nhanh?

Đáp: Không phải là năm căn cơ nhạy bén thuộc về thiền căn bản.

Thế nào là đạo tuệ vui chậm?

Đáp: Năm căn tánh chậm lụt thuộc về thiền căn bản.

Thế nào là đạo tuệ vui nhanh?

Đáp: Năm căn cơ nhạy bén thuộc về thiền căn bản.

Hỏi: Đạo nầy là tánh của năm ấm, bốn ấm, vì sao chỉ nói là căn?

Đáp: Vì ở đây nói tối thắng là tánh của năm căn, là phương tiện khéo léo, có thể thành tựu việc lớn.

Hỏi: Có căn cơ bậc trung hay không? Nếu có vì sao trong đây không nói? Nếu không thì Kinh Phật nói, làm sao hiểu được? Như nói: Các chúng sinh tùy đời mà sinh, theo đời mà lớn. Có người căn tánh phẩm hạ, có kẻ căn tánh phẩm trung, có người căn tánh phẩm thượng. Người căn tánh phẩm thượng, phiền não mỏng nhỏ, dễ dàng giáo hóa. Nếu không nghe pháp thì lùi mất căn thiện?

Đáp: Nên nói rằng: Không có người căn cơ bậc trung. Vì sao? Vì kiến đạo có hai hạng:

  1. Đạo Kiên tín.
  2. Đạo Kiên pháp.

Trong tu đạo cũng có hai hạng:

  1. Đạo Tín giải thoát.
  2. Đạo Kiến đáo.

Trong đạo Vô học cũng có hai hạng:

  1. Đạo Thời giải thoát.
  2. Đạo Bất Thời giải thoát.

Do không có đạo thứ ba, nên không có căn cơ bậc trung.

Hỏi: Nếu vậy thì kinh Phật nói làm sao hiểu được?

Đáp: Người được Phật hóa độ, thấy Thánh Đế, có người ở đầu, có người ở giữa, có người ở sau. Người ở đầu được gọi là căn cơ nhạy bén, người ở giữa gọi là căn cơ bậc trung, người ở sau gọi là căn cơ bậc hạ.

Lại nữa, người được Phật hóa độ, thấy Thánh đế có gần, có xa, hoặc có người không gần, không xa. Người gần là căn cơ nhạy bén, như Kiều-trần-như v.v… Người xa là căn tánh chậm lụt, như Tu-bạt-đà-la v.v… Không gần, không xa là căn cơ bậc trung, như Xá-lợi-phất, Mụckiền-liên v.v…

Lại có người nói: Có căn cơ bậc trung!

Hỏi: Vì sao căn cơ bậc trung nầy không thấy nói?

Đáp: Vì đã nói căn đầu tiên, cho nên nếu khi nói căn cơ bậc dưới, thì căn cơ bậc trung sẽ trở thành căn cơ bậc thượng! Còn nếu đầu tiên nói căn cơ bậc thượng, thì căn cơ bậc trung ở trong căn cơ bậc hạ! Vì thế, nên Tôn giả Cù-sa nói rằng: Căn cơ bậc trung là căn cơ ở chỗ nào?

Đáp: Ở trung hạ. Vì sao? Vì ở giữa hạ thượng gọi là trung.

Lại nữa, ở trung thượng. Vì sao? Vì người ở giữa thượng, hạ gọi là trung.

Lại nữa, đều ở hai trung.

Lời bình: Nói như thế là tốt. Vì sao? Vì Đức Phật cũng là người Kiên pháp. Bích-chi Phật cũng là người Kiên pháp. Thanh văn được pháp Ba-la-mật cũng là người Kiên pháp. Các căn kia có ngang bằng chăng? Vì đối với một đạo có ba thứ căn, nên Kinh nói là không có đạo thứ ba!

Người A-tỳ-đàm thì nói: Không có căn cơ bậc trung. Cho nên, cả hai thuyết đều khéo hiểu.

Kinh Tập Pháp lại nói: Tu hành đạo tuệ khổ chậm rộng khắp, thì được đầy đủ đạo tuệ khổ nhanh. Tu hành rộng khắp đạo tuệ vui chậm thì được đầy đủ đạo tuệ vui nhanh.

Hỏi: Kinh nầy nói đầy đủ là sao? Là nói đến căn cơ đầy đủ, hay nói sự lìa dục đầy đủ? Nếu nói căn cơ đầy đủ thì đạo tuệ khổ chậm sẽ được đầy đủ hai đạo tuệ nhanh, đạo tuệ vui chậm cũng sẽ được đầy đủ hai đạo tuệ nhanh. Nếu đầy đủ sự lìa dục, thì đạo chậm sẽ đầy đủ đạo chậm, đạo nhanh sẽ đầy đủ đạo nhanh!

Đáp: Nên nói là căn cơ đầy đủ. Vì sao? Vì Kinh Tập Pháp kia nói pháp tương tự đầy đủ, không nói pháp chẳng tương tự đầy đủ. Đạo khổ tương tự với đạo khổ, đạo vui tương tự với đạo vui.

Hỏi: Ai thành tựu bao nhiêu đạo?

Đáp: Hoặc một, hoặc hai.

Ai là một?

Đáp: Người căn cơ chậm lụt, chưa lìa dục cõi Dục, thành tựu một đạo khổ chậm. Đã lìa dục cõi Dục thì thành tựu hai, đó là đạo vui chậm. Người căn cơ nhạy bén: Chưa lìa dục cõi Dục, thành tựu một Đạo Khổ Nhanh. Đã lìa dục cõi Dục thì thành tựu hai, đó là đạo vui chậm. Căn tánh lanh lợi chưa lìa dục cõi Dục, thành tựu một đạo khổ nhanh, đã lìa dục cõi Dục thành tựu hai, đó gọi là đạo vui nhanh.

Tôn giả Tăng-già-bà-tu nói: Có người thành tựu cả bốn đạo, như dựa vào thiền căn bản, khi chuyển căn, trụ đạo vô ngại, không bỏ hai đạo của căn cơ chậm lụt, đã được hai đạo của căn cơ nhạy bén. Không nên nói như thế. Vì sao? Vì nếu nói như thế, sẽ hủy hoại căn, hủy hoại người. Hủy hoại căn vừa là căn tánh chậm lụt, vừa là căn cơ nhạy bén.

Hủy hoại người hư hỏng, cũng là Tín giải thoát, cũng là Kiến đáo.

Hỏi: Ai dùng bao nhiêu đạo nầy để có thể có chỗ tạo tác?

Đáp: Có người dùng một, hai, ba, bốn đạo mà không cùng lúc. Người căn cơ chậm lụt, khi lìa dục cõi Dục, dùng đạo tuệ khổ chậm mà có chỗ tạo tác. Tức người nầy dựa vào thiền căn bản, khi lìa dục của thiền, dùng đạo vui chậm mà có sự tạo tác. Người Tín giải thoát dựa vào thiền căn bản, chuyển căn, tạo ra Kiến đáo. Lại dựa vào thiền căn bản, lìa dục của thiền, dùng đạo tuệ vui nhanh mà có sự tạo tác.

Lại dựa vào định Vô sắc, lìa dục của định Vô sắc, dùng đạo khổ nhanh mà có sự tạo tác.

Lại có người dùng bốn đạo mà có sự tạo tác: Là người căn cơ chậm lụt, lìa dục cõi Dục, cho đến khi lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, dùng đạo khổ chậm, đạo vui chậm mà có sự tạo tác. Đối với sự lìa dục kia mà lui sụt, từ Tín giải thoát, chuyển căn, tạo nên Kiến đáo. Lại, khi lìa dục cõi Dục, cho đến khi lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ đều dùng hai đạo nhanh mà có sự tạo tác.

Hỏi: Ai sẽ được bao nhiêu đạo nầy? Ai sẽ bỏ bao nhiêu đạo nầy?

Đáp: Hoặc có người không nên được, không nên bỏ, như tất cả người phàm phu.

Hỏi: Trong đây, không nên hỏi đáp về người phàm phu?

Đáp: Bậc Thánh cũng có người không nên được, không nên xả, như bậc Thánh trụ bản tánh. Nếu khi bậc Thánh tinh tiến vượt hơn, thì mới có người nên được, nên xả. Khi chưa lìa dục cõi Dục, được chánh quyết định, thì khổ pháp nhẫn, cho đến đạo pháp trí, không có chỗ xả, sẽ được một đạo tỷ nhẫn, sẽ bỏ một, được một. Đã lìa dục cõi Dục, dựa vào thiền Vị chí, lúc được chánh quyết định, thì khổ pháp nhẫn, cho đến Đạo pháp trí không có chỗ xả, sẽ được một đạo tỷ nhẫn, nên bỏ một, sẽ được hai. Nếu dựa vào địa trên, khi được chánh quyết định, tất nhiên từ khổ pháp nhẫn cho đến đạo pháp trí đều không có chỗ xả, sẽ được hai đạo tỷ nhẫn, nên bỏ hai, được hai. Khi Tu-đà-hoàn hướng về quả Tư-đà-hàm, thì đạo phương tiện, năm đạo vô ngại, năm đạo giải thoát đều không có chỗ xả, sẽ được một đạo vô ngại thứ sáu, nên bỏ một, sẽ được một. Tư-đà-hàm khi hướng về quả A-na-hàm, thì đạo phương tiện hai, đạo vô ngại hai, đạo giải thoát không có chỗ xả, sẽ được một đạo vô ngại thứ chín, nên xả một, được hai. Lìa dục của Sơ thiền, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, thì đạo phương tiện, đạo vô ngại, đạo giải thoát, sẽ không có chỗ xả, nên được hai. Khi lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thì đạo phương tiện, tám Đạo vô ngại, tám Đạo giải thoát không có chỗ xả, sẽ được hai đạo vô ngại thứ chín, nên xả hai, được hai.

Là nói về pháp lìa dục, lúc chuyển căn, chưa lìa dục cõi Dục, Tín giải thoát chuyển căn tạo ra Kiến đáo, đạo phương tiện không có chỗ xả, sẽ được một đạo vô ngại, nên bỏ một, được một.

Đã lìa dục cõi Dục, khi Tín giải thoát chuyển căn, tạo ra Kiến đáo, thì đạo phương tiện sẽ không có chỗ xả, sẽ được hai Đạo vô ngại, nên bỏ hai, được hai. A-la-hán Thời giải thoát, khi chuyển căn, tạo bất động, thì đạo phương tiện, tám đạo vô ngại, tám đạo giải thoát không có chỗ xả, sẽ được hai Đạo vô ngại thứ chín, nên bỏ hai, được hai. bậc Thánh chưa lìa dục cõi Dục, khi khởi Vô lượng, một giải thoát đầu tiên, bốn thắng xứ ban đầu, niệm bất tịnh, An na ba na, niệm xứ thì không có chỗ xả, sẽ được một. bậc Thánh đã lìa dục cõi Dục, khi khởi Vô lượng giải thoát, thắng xứ, Nhất thiết xứ, bất tịnh, niệm An-na-ba-na, niệm xứ, tu huân tập thiền khởi thông, thì năm đạo vô ngại, ba đạo giải thoát, khởi nguyện trí vô tránh, vô ngại bát đa, đều cùng đặt để không, vô nguyện, vô tướng, tam-muội Không, vô nguyện, vô tướng khi tưởng vi tế của định Diệt không có chỗ xả, sẽ được hai, là nói lúc thắng tiến, lúc lui sụt, nghĩa là A-la-hán khởi lui sụt kiết cõi Sắc, cõi Vô sắc nên bỏ hai, được hai. Lúc khởi sự lui sụt kiết cõi Dục, là sẽ bỏ hai, được một. Khi lìa kiết cõi Sắc, A-na-hàm khởi lui sụt kiết cõi Sắc nên bỏ hai, không có sở đắc, tức khi A-na-hàm nầy khởi lui sụt Kiết cõi Dục, nên bỏ hai, được một, lúc lui sụt quả Tư-đà-hàm, là bỏ một, được một.

Như nói có bốn hạng người:

  1. Hiện pháp chậm, thân hư hoại nhanh.
  2. Hiện pháp nhanh, thân hư hoại chậm.
  3. Hiện pháp chậm, thân hư hoại chậm.
  4. Hiện pháp nhanh, thân hư hoại nhanh.

Hỏi: Như nói: Có hiện pháp chậm, thân hư hoại cũng chậm. Có hiện pháp nhanh, thân hư hoại cũng nhanh, việc nầy có thể như thế. Nhưng nếu nói hiện pháp chậm, thân hư hoại nhanh thì việc nầy không đúng. Vì sao? Vì khi, bậc Thánh qua đời không lùi bước, không chuyển căn, không sinh cõi Sắc, cõi Vô sắc, huống chi là có hiện pháp nhanh, thân hư hoại chậm?

Đáp: Ở đây không nói về sự lui sụt, cũng không nói về chuyển căn, chỉ nói về siêng năng, không siêng năng. Nghĩa là nếu hiện thân siêng năng, thân hư hoại không siêng năng, là nói hiện thân nhanh, thân hư hoại chậm. Nếu hiện thân không siêng năng, thân hư hoại siêng năng, thì đó là nói hiện thân chậm, thân hư hoại nhanh. Nếu hiện thân không siêng năng, thân hư hoại cũng không siêng năng, thì đây là nói hiện thân chậm, thân hư hoại cũng chậm. Nếu hiện thân siêng năng, thân hư hoại cũng siêng năng, thì đây là nói hiện thân nhanh, thân hư hoại cũng nhanh.

Kinh nói: Có bốn thứ đạo:

  1. Đạo không chịu đựng.
  2. Đạo chịu đựng.
  3. Đạo điều phục.
  4. Đạo vắng lặng.

Đạo không chịu đựng: là không chịu đựng lạnh, nóng, đói khát, các loài trùng, muỗi, mòng cắn v.v… lời lẽ phi lý, lời nói xấu ác của người khác, thân sinh các thứ đau khổ, không thể chịu đựng những khổ như vậy! Đó gọi là đạo không chịu đựng.

Đạo chịu đựng: là có thể chịu đựng các khổ như lạnh nóng v.v… Đó gọi là đạo chịu đựng.

Đạo điều phục: là có thể gìn giữ các căn. Đó gọi là đạo điều phục.

Đạo vắng lặng, nghĩa là Thánh đạo vô lậu gọi là đạo vắng lặng.

Hỏi: Bốn đạo trước gồm nhiếp bốn đạo sau, hay là bốn đạo sau gồm nhiếp bốn đạo trước?

Đáp: Sau gồm nhiếp trước, chẳng phải trước gồm nhiếp sau!

Hỏi: Không gồm nhiếp những gì?

Đáp: Không gồm nhiếp ba đạo sau. Đó là đạo không chịu đựng, đạo chịu đựng, đạo điều phục.

Kinh nói: Có bốn thứ dứt:

  1. Dứt tuệ khổ chậm.
  2. Dứt tuệ khổ nhanh.
  3. Dứt tuệ vui chậm.
  4. Dứt tuệ vui nhanh.

Nếu dứt là khổ, là chậm thì dứt nầy do khổ do chậm, nên là phẩm hạ.

Nếu dứt là khổ, là nhanh thì dứt nầy vì khổ, nên là phẩm hạ.

Nếu dứt là chậm, là vui, thì dứt nầy vì chậm, nên là phẩm hạ.

Nếu dứt là vui, là nhanh thì dứt nầy không thể đem lại lợi ích cho nhiều người, cũng không rộng khắp cõi người, cõi trời nên là phẩm hạ. tất cả dứt của Đức Thế tôn, có thể đem lại lợi ích cho rất nhiều người, vì rộng khắp cõi người, cõi trời, nên là dứt trên hết.

Hỏi: Vì bốn đạo gồm nhiếp bốn dứt, hay bốn dứt gồm nhiếp bốn đạo?

Đáp: Lần lượt theo tướng mà gồm nhiếp lẫn nhau. Nếu dứt là khổ, là chậm thì đó là đạo tuệ khổ chậm. Nếu dứt là khổ, là nhanh thì đó là đạo tuệ khổ nhanh. Nếu dứt là vui, là chậm, thì đó là đạo tuệ vui chậm.

Nếu dứt là vui, là nhanh thì đó là đạo tuệ vui nhanh.

Hoặc có người nói: Bốn dứt là Vô học. Bốn đạo là Học, Vô học.

Hoặc nói rằng: Bốn dứt là Vô học, bốn đạo là Học, Vô học, nghĩa là bốn đạo thì gồm nhiếp bốn dứt chẳng phải bốn dứt gồm nhiếp bốn đạo.

Không gồm nhiếp những đạo nào? Không gồm nhiếp bốn đạo của học.

Hỏi: Thánh đạo chẳng phải phẩm hạ, như Ba-già-la-na nói: Thế nào là pháp phẩm hạ? Là pháp bất thiện, vô ký ẩn một.

Vì sao nói dứt gọi là hạ?

Đáp: Hạ có hai thứ:

  1. Hạ nhiễm ô.
  2. Hạ tổn bớt.

Dứt tuy chẳng phải phẩm hạ nhiễm ô mà là phẩm hạ tổn bớt, cho nên gọi là hạ.

Nếu dứt là khổ, là chậm là nói thiền Vị chí, thiền trung gian, ba định Vô sắc, là nói đạo Thời giải thoát.

Nếu dứt là khổ, là nhanh là nói đạo Phi Thời giải thoát của người Thanh văn.

Nếu dứt là vui, là chậm thì đó là nói thiền căn bản, đạo Thời giải thoát.

Nếu dứt là vui là nhanh, không làm lợi ích cho nhiều người, không rộng khắp đến người, trời thì đó là nói người Thanh văn của thiền căn bản là đạo phi Thời giải thoát.

Nếu dứt là vui, là nhanh, có thể đem lại lợi ích cho nhiều người, rộng khắp cõi người, cõi trời là nói đạo Phật. Trong đây phần khác là đạo của Bích-chi Phật, là ở phần nào?

Hoặc có người nói: Là phần của Thanh văn.

Lời bình: Nên nói rằng: Là phần của Phật. Vì sao? Vì Phật, Độc giác, không có thầy, Bích-chi Phật cũng vậy!

Lại có người nói: Ba dứt như trước. Nếu dứt là vui, là nhanh, không thể làm lợi ích cho nhiều người, không rộng khắp đến người, trời là nói đạo của Bích-chi Phật. Nếu dứt là vui, là nhanh, có thể đem lại lợi ích cho nhiều người, rộng khắp cả người, trời, thì đó là nói đạo Phật.

Trong đây phần khác là cho người Thanh văn của thiền căn bản, là đạo phi Thời giải thoát. Là ở phần nào?

Hoặc có người nói: Là phần của Bích-chi Phật.

Lời bình: Nên nói rằng: Là phần của Phật. Vì sao? Vì căn ấy từ bên Phật sinh ra.

Lại có người nói: Ba đạo là pháp của ngoại đạo. Nếu dứt là vui, là nhanh, không thể đem lại lợi ích cho nhiều người, không rộng khắp cõi người, cõi trời thì đó là nói đạo của Bích-chi Phật. Nếu dứt là vui, là nhanh, có thể đem lợi ích cho nhiều người, rộng khắp cõi người, cõi trời, là nói đạo của Phật.

Phần khác ở đây là đạo Thanh văn, ở phần nào?

Đáp: Hoặc có người nói: Ở phần của Bích-chi Phật.

Lời bình: Nên nói rằng: Ở phần của Phật. Vì sao? Vì căn ấy được sinh từ bên Phật.

Lại có người nói: Ba đạo trước là pháp của ngoại đạo. Nếu dứt là vui, là nhanh, không thể đem lại lợi ích cho nhiều người, không rộng khắp cõi người, cõi trời, là nói đạo Thanh văn. Nếu dứt là vui, là nhanh, có khả năng đem lợi ích cho nhiều người, rộng khắp cõi người, cõi trời là nói đạo của Phật.

Phần khác trong đây là nói đạo của Bích-chi Phật, ở phần nào?

Đáp: Hoặc có người nói: Ở phần Thanh văn.

Lời bình: Nên nói rằng: Ở phần của Phật. Vì sao? Vì như Phật là không có thầy, Bích-chi Phật cũng vậy!

Hỏi: Trong bốn đạo nầy, Đức Thế tôn dựa vào đạo nào nhập chánh quyết định, được quả lìa dục, hết lậu? Bích-chi Phật dựa vào đạo nào mà được Ba-la-mật? Người Thanh văn dựa vào đạo nào?

Đáp: Đức Thế tôn đã dựa vào đạo vui nhanh, nhập chánh quyết định, được quả lìa dục, dứt hết lậu. Vì sao biết được?

Kinh nói: Ma-lặc-ca-tử đến chỗ Phật, hỏi rằng: Bạch Đức Thế tôn! Ngài do đạo nào trong bốn đạo nầy mà được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng?

Phật đáp Ma-lặc-ca-tử: Như lai dựa vào đạo tuệ vui nhanh nên được đạo quả Bồ-đề Chánh đẳng Vô thượng.

Bấy giờ, Ma-lặc-ca-tử bèn nêu lên hai lời vấn nạn: Là đạo vui làm sao thực hành các thứ hạnh khổ? Nói là đạo nhanh vì sao phải trải qua sáu năm?

Phật bảo Ma-lặc-ca-tử: ông là Người ngu! Ta không do hành trì oai nghi như thế để được đạo quả Chánh đẳng chánh giác vô thượng.

Vì việc nầy, nên biết Đức Như lai dùng đạo tuệ vui nhanh đạt được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Như thú Khát-già chỉ có một sừng Bích-chi Phật, nên biết như Phật, Thế tôn vì đa số người mà xuất thế, đó là không nhất định. Tôn giả Xá-lợi-phất dựa vào đạo tuệ khổ nhanh, nhập chánh quyết định, dựa vào đạo tuệ vui nhanh được dứt hết lậu. Vì sao? Vì dựa vào thiền Vị chí nhập chánh quyết định, vì dựa vào đệ Tứ thiền, dứt hết lậu.

Tôn giả Mục-kiền-liên dựa vào đạo tuệ khổ nhanh, nhập chánh quyết định, cho đến dứt hết lậu. Vì sao? Vì dựa vào thiền Vị chí, nhập chánh quyết định, vì dựa vào định Vô sắc dứt hết lậu.

Hỏi: Vì sao Tôn giả Xá-lợi-phất dựa vào đệ Tứ thiền còn Tôn giả Mục-kiền-liên lại dựa vào định Vô sắc, được quả A-la-hán?

Đáp: Vì Tôn giả Xá-lợi-phất thường thực hành tuệ, nên dựa vào đệ Tứ thiền, Tôn giả Mục-kiền-liên thường thực hành định, nên dựa vào định Vô sắc!

Hỏi: Người Thanh văn được Ba-la-mật, có phải đều theo thứ lớp được bốn quả Sa-môn hay không?

Đáp: Đều theo thứ lớp được. Vì sao? Vì Tôn giả Mục-kiền-liên có thể giải thích khéo léo về xuất, nhập, trụ đạo quả Sa-môn.

Hỏi: Khéo có thể giải thích về sự xuất, nhậ, trụ đạo quả Sa-môn, không có ngang bằng với Như lai, vì sao không theo thứ lớp để được bốn quả Sa-môn?

Đáp: Không nên hỏi thế Như lai như. Vì sao? Vì khi xưa còn làm Bồ-tát, Như lai đã giải thích một cách tự tại về bốn quả Sa-môn, vượt hơn Tôn giả Xá-lợi-phất lúc được tận trí.

Lại có người nói: Người Thanh văn được Ba-la-mật, không theo thứ lớp được bốn quả Sa-môn. Vì sao? Vì nếu có người trước lìa dục, thì phải lui sụt, sau đó mới được quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Nếu vậy làm sao có thể khéo giải thích bốn quả Sa-môn được?

Đáp: Điều nầy cũng không có lỗi. Do Tôn giả A-nan là người căn cơ chậm lụt, trụ ở địa Hữu học, khéo giải thích về bốn quả Sa-môn, huống chi là người căn cơ nhạy bén, ở địa Vô học?

Lời bình: Nên nói rằng: Người Thanh văn được Ba-la-mật, đều theo thứ lớp để được bốn quả Sa-môn, không do khéo nói về bốn quả Sa-môn. Như người Thanh văn nhiều như số cát sông Hằng, được pháp Ba-la-mật, đều thuận theo thứ lớp nhập chánh quyết định, thứ lớp được pháp của bốn quả Sa-môn, phải nên như thế.

A-la-hán dứt hết lậu, phạm hạnh đã lập, trong mười thứ đạo Vô

học, có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ? Bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai? Bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại?

Đáp: Nếu dựa vào tam-muội có giác, có quán thì tam-muội có giác có quán là thiền Vị chí, Sơ thiền.

Sự nương dựa như trước đã nói. Về ban đầu có hai hạng:

  1. Hạng được quả A-la-hán đầu tiên.
  2. Thời giải thoát chuyển căn, tạo ra bất động ban đầu.

Trong đây, do hai hạng ban đầu mà soạn luận. Nên tùy tướng mà nói, trí Vô học ban đầu hiện ở trước như đã nói. Hai thời gian, sát-na đầu tiên không có quá khứ. Vì sao? Vì chưa có sát-na sinh diệt. Đã có: là do được quả, chuyển căn, nên xả. Mười thành tựu vị lai là người tu vị lai. Chín thành tựu hiện tại là hiện ở trước, trừ chánh kiến. Vì sao? Vì trong sát-na kia không có, nên nếu diệt rồi thì không xả. Diệt, là vô thường diệt. Không xả nghĩa là xả Thánh đạo có ba thứ, như trước đã nói.

A-la-hán kia không được quả, không lùi lại, không chuyển căn, dựa vào địa Vô học, lại khởi Thánh đạo hiện ở trước. Sở dĩ lại khởi Thánh đạo hiện ở trước, như trước đã nói. Trong khoảng sát-na thứ hai, chín thành tựu quá khứ là sự sanh tử diệt của sát-na trước. Mười thành tựu vị lai, là người tu vị lai. Chín thành tựu hiện tại thì hiện ở trước, nghĩa là sự thành tựu kia diệt rồi không xả. Dựa vào tam-muội Không giác không quán, trí Vô học hiện ở trước. Chín thành tựu quá khứ, là địa sinh diệt có giác, có quán. Mười thành tựu vị lai là người tu vị lai. Tám thành tựu hiện tại thì hiện ở trước, trừ chánh giác. Vì không có trong địa Vô học kia, nên trừ chánh kiến. Vì trong sát-na kia không có, nên sát-na ấy đã diệt rồi không xả. Dựa vào định Vô sắc, trí Vô học hiện ở trước, chín thành tựu quá khứ là địa sinh diệt có giác, có quán, mười thành tựu vị lai là sự tu vị lai, năm thành tựu hiện tại thì hiện ở trước, trừ chánh kiến. Vì trong sát-na kia không có, nên trừ chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Vì trong địa Vô học không có, nên địa kia diệt rồi không xả. Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục thì chín thành tựu quá khứ, là sự sanh tử diệt của địa có giác, có quán. Mười thành tựu vị lai là sự tu vị lai, hiện tại không có. Người nhập định Diệt, không tâm, có tâm: là tâm có khả năng tu đạo thế tục, là pháp Vô học hữu lậu, là vô lậu, địa kia diệt rồi không xả. Dựa vào tam-muội có giác, có quán, Vô học đầu tiên thấy hiện ở trước. Chín thành tựu quá khứ đều có sinh diệt với trí. Mười thành tựu vị lai là tu vị lai. Chín thành tựu hiện tại là hiện ở trước, trừ chánh trí. Vì trong sát-na kia không có trí, nên thành tựu kia diệt rồi không xả. Dựa vào tam-muội có giác, có quán, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước. Mười thành tựu quá khứ là sự sanh tử diệt đều có với trí, với kiến. Mười thành tựu vị lai là sự tu vị lai. Chín thành tựu hiện tại thì hiện ở trước. Nghĩa là nếu trí hiện ở trước thì trong sát-na kia sẽ không có kiến. Nếu kiến hiện ở trước thì trong sát-na kia sẽ không có trí, nên diệt rồi, không xả. Dựa vào tam-muội Không giác, không quán, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước. Mười thành tựu quá khứ là địa sinh diệt có giác, có quán. Mười thành tựu vị lai là tu vị lai. Tám thành tựu hiện tại hiện ở trước: là nếu trí hiện ở trước thì trong sát-na kia sẽ không có kiến. Nếu kiến hiện ở trước thì trong sát-na kia sẽ không có trí, trừ chánh giác. Vì trong địa Vô học kia không có, nên địa kia diệt rồi thì không xả. Dựa vào định Vô sắc, cõi Vô học hoặc trí hoặc kiến hiện ở trước. Mười thành tựu quá khứ là địa sinh diệt có giác, có quán. Mười thành tựu vị lai là sự tu vị lai. Năm thành tựu hiện tại thì hiện ở trước. Nghĩa là nếu trí hiện ở trước thì trong sát-na kia sẽ không có kiến. Nếu kiến hiện ở trước thì trong sát-na kia sẽ không có trí, trừ chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Vì trong địa kia không có, nên địa diệt rồi không xả. Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước. Mười thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, hiện tại không có, đều như trước đã nói. Nếu dựa vào tam-muội Không giác, không quán, thì trí ban đầu của Vô học sẽ hiện ở trước. tam-muội Không giác, không quán là đệ nhị, đệ tam, đệ Tứ thiền.

Hỏi: Vì sao không nói thiền trung gian?

Đáp: Như trước đã nói: Nương dựa, nghĩa như trước đã nói. Ban đầu nghĩa như trước đã nói. Sơ Chánh trí Vô học ban đầu hiện ở trước. Quá khứ không có, như trước đã nói. Mười thành tựu vị lai, như trước đã nói. Tám thành tựu hiện tại, trừ chánh kiến, vì trong sát-na kia không có, trừ chánh giác, vì địa Vô học không có, nên địa Vô học kia diệt rồi không xả, như trước đã nói.

Lại dựa vào tam-muội Không giác, không quán, chánh trí Vô học hiện ở trước. Tám thành tựu quá khứ là sát-na trước đều có sự sanh tử diệt. Mười thành tựu vị lai, như trước đã nói. Tám thành tựu hiện tại, như trước đã nói. Thành tựu kia diệt rồi không xả. Dựa vào định Vô sắc, chánh trí Vô học hiện ở trước: Tám thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, năm thành tựu hiện tại, như trước đã nói. Thành tựu kia diệt rồi không xả. Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước. Tám thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, hiện tại không có, như trước đã nói. Thành tựu kia diệt rồi thì không xả. Dựa vào tam-muội có giác, có quán, chánh trí Vô học hiện ở trước: Tám thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, như trước đã nói. Chín thành tựu hiện tại, trừ chánh kiến, vì trong sát-na kia không có nên thành tựu kia diệt rồi không xả.

Dựa vào tam-muội Không giác, không quán, kiến đầu tiên của Vô học hiện ở trước. Tám thành tựu quá khứ cùng có sự sanh diệt với trí, mười thành tựu vị lai, như trước đã nói. Tám thành tựu hiện tại, trừ chánh trí, vì trong sát-na kia không có, trừ chánh giác, như trước đã nói, nên thành tựu kia diệt rồi không xả.

Lại dựa vào tam-muội Không giác, không quán, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước: Chín thành tựu quá khứ đi chung sự sanh tử diệt với Trí, với kiến, mười thành tựu vị lai, tám thành tựu hiện tại, như trước đã nói, nên thành tựu kia diệt rồi không xả. Dựa vào định Vô sắc, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước: Chín thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, năm thành tựu hiện tại, như trước đã nói, nên thành tựu kia diệt xong không xả. Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước: Chín thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, hiện tại không có, như trước đã nói. Tâm thế tục kia diệt rồi không xả. Dựa vào tammuội có giác, có quán, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước: Chín thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, chín thành tựu hiện tại, như trước đã nói.

Nếu dựa vào định Vô sắc, trí Vô học đầu tiên hiện ở trước. Định Vô sắc là Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ Nương dựa như trước đã nói. Ban đầu: Như trước đã nói.

Trí Vô học đầu tiên hiện ở trước: Quá khứ không có, mười thành tựu vị lai, năm thành tựu hiện tại, như trước đã nói, nên sự thành tựu kia diệt rồi không xả.

Lại dựa vào định Vô sắc, chánh trí Vô học hiện ở trước: Năm thành tựu quá khứ, sát-na trước đều sinh diệt, mười thành tựu vị lai, năm thành tựu hiện tại, như trước đã nói. Thành tựu kia diệt rồi không xả.

Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước: Năm thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, hiện tại không có, như trước đã nói. Tâm thế tục kia diệt rồi không xả.

Dựa vào tam-muội có giác, có quán, chánh trí Vô học hiện ở trước: Năm thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, chín thành tựu hiện tại, như trước đã nói. Sự thành tựu kia diệt rồi không xả.

Dựa vào tam-muội Không giác, không quán, chánh trí Vô học hiện ở trước, có năm thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, tám thành tựu hiện tại, như trước đã nói. Sự thành tựu kia diệt rồi không xả.

Dựa vào định Vô sắc, kiến Vô học đầu tiên hiện ở trước, có năm thành tựu quá khứ, cùng với trí đều là sinh diệt, mười thành tựu vị lai, như trước đã nói, năm thành tựu hiện tại, trừ chánh trí, vì trong sát-na đầu tiên kia không có, trừ chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Vì trong địa Vô học không có, nên sự thành tựu kia diệt rồi không xả.

Lại nương dựa định Vô sắc, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước, có sáu thành tựu quá khứ, đi chung sự sanh tử diệt với trí, với kiến, mười thành tựu vị lai, năm thành tựu hiện tại, như trước đã nói. Sự thành tựu đó diệt rồi không xả.

Nếu nhập định Diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước, có sáu thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, hiện tại không có, như trước đã nói. Sự thành tựu kia diệt rồi không xả.

Dựa vào tam-muội có giác, có quán, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước, sẽ có sáu thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, chín thành tựu hiện tại, như trước đã nói. Sự thành tựu kia đã diệt rồi không xả.

Dựa vào tam-muội Không giác, không quán, hoặc trí, hoặc kiến Vô học hiện ở trước, đã có sáu thành tựu quá khứ, mười thành tựu vị lai, tám thành tựu hiện tại, như trước đã nói.

Hỏi: Vì sao với các quả Sa-môn khác, kiến là đạo vô ngại, kiến là đạo giải thoát, còn quả A-la-hán thì kiến là đạo vô ngại, trí là đạo giải thoát?

Đáp: Lúc được quả A-la-hán là đã dứt tất cả chỗ tạo tác, không còn cần đến phương tiện nữa!

Hỏi: Người Hữu học có chánh trí, chánh giải thoát không? Nếu có vì sao trong đây không nói? Nếu không có thì Kinh Phật nói làm sao hiểu được? Như nói: Cư sĩ đừng sợ! Phàm phu ngu tiểu, vì đã thành tựu trí tà, giải thoát tà nên rất sợ sẽ đọa vào cõi địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ!

Ông đã dứt trí tà, giải thoát tà, thành tựu chánh trí, chánh giải thoát!

Đáp: Nên nói rằng: Có chánh trí, chánh giải thoát.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói?

Đáp: Pháp hoặc có thứ chỉ là pháp thể, hoặc có thứ là pháp thể, cũng là thể của chi. Người Hữu học chỉ có pháp thể, không có thể của chi.

Hỏi: Vì sao chánh trí, chánh giải thoát Vô học thì lập chi, còn người Hữu học thì không lập chi?

Đáp: Vì danh nghĩa vượt hơn. Nếu nói theo pháp thì pháp Vô học vượt hơn pháp Hữu học. Nếu nói theo người thì người Vô học sẽ vượt hơn người Hữu học.

Lại nữa, chánh trí, chánh giải thoát Vô học thường vượt hơn, vì không có lỗi lầm.

Lại nữa, do Vô học dứt tất cả căn bản của hữu.

Lại nữa, Vô học được hai thứ tâm giải thoát:

  1. Giải thoát của tự tánh.
  2. Giải thoát ở thân.

Cho nên, được tạo ra bốn trường hợp:

  1. Có khi giải thoát ở tự tánh nơi tâm, chẳng phải giải thoát ở thân.
  2. Có khi giải thoát ở thân, chẳng phải giải thoát của tự tánh.
  3. Có khi giải thoát của tự tánh, cũng giải thoát ở thân.
  4. Có khi chẳng phải giải thoát của tự tánh, chẳng phải giải thoát ở thân.

Giải thoát của tự tánh, chẳng phải giải thoát ở thân là tâm học.

Giải thoát ở thân, chẳng phải giải thoát của tự tánh là tâm hữu lậu Vô học.

Giải thoát của tự tánh, cũng là giải thoát ở thân là tâm Vô học.

Không phải giải thoát của tự tánh, cũng chẳng phải giải thoát ở thân: Là tâm hữu lậu Hữu, học là tâm của tất cả phàm phu.

Lại nữa, chánh trí, chánh giải thoát Vô học không có chướng ngại, còn tà trí của người Hữu học chướng ngại chánh trí, tà giải thoát chướng ngại chánh giải thoát.

Hỏi: Tà kiến có thể chướng ngại chánh kiến, vì sao chánh kiến của học lại lập chi?

Đáp: Vì chánh kiến của người Hữu học khi dứt phiền não, giống như mặc áo giáp, tay cầm gậy, nên lập chi.

Lại nữa, chánh trí, chánh giải thoát của Vô học, vì không có pháp tương đối, nên chánh trí của người Hữu học tương đối với tà trí, chánh giải thoát tương đối với tà giải thoát.

Lại nữa, tâm Vô học thì tất cả giải thoát. Tâm Hữu học là phần ít giải thoát, phần ít không giải thoát.

Phần ít giải thoát: Là phiền não, chỗ dứt của kiến đạo.

Phần ít không giải thoát: Là phiền não, do tu đạo dứt.

Lại nữa, nếu giải thoát tất cả chướng ngại của tâm thì tất cả chỗ chướng ngại sẽ được giải thoát, nghĩa là sẽ lập chi. Tất cả chướng ngại: Là năm thứ dứt phiền não. Tất cả chỗ chướng ngại là cảnh giới của năm thứ dứt phiền não. Người Hữu học thì không như vậy! Công đức Vô học khác, nói rộng như trong Kiền-độ Tạp.

Hỏi: Nếu như đã nói về người Hữu học thì có tà trí, tà giải thoát, làm sao hiểu được Kinh Phật? Như nói: Cư sĩ đừng sợ! Kẻ tiểu ngu phàm phu, vì đã tạo thành tà trí, tà giải thoát, nên họ sợ sẽ phải đọa vào đường địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ! Ông đã dứt tà trí, tà giải thoát, đã thành tựu chánh trí, chánh giải thoát?

Đáp: Kinh nói: Không rơi vào đường ác! Vì tà trí, tà giải thoát, với người Hữu học cũng có tà trí, tà giải thoát khác.

Kinh Phật nói: A-nan nên biết! Xá-lợi-phất là Tỳ-kheo thông minh. đã vì Trưởng giả Tu Đạt, đối với bốn chi Tu-đà-hoàn hiện có, phân biệt có mười thứ.

Hỏi: Thế nào là Tôn giả Xá-lợi-phất đã phân biệt bốn chi Tu-đàhoàn thành mười thứ?

Tôn giả Ba-xa nói: Một chi, nói có mười thứ, gần bậc thiện trí thức có mười thứ, cho đến như pháp tu hành có mười thứ.

Tôn giả Phú- Na- Da- Xa nói: Tín là gần thiện trí thức, thường nghe pháp. Chánh kiến là chánh tư duy, các chánh còn lại là như pháp tu hành.

Tôn giả Cù-sa nói: Tín, giới là gần thiện tri thức. Học rộng là nghe pháp. Chánh kiến là chánh tư duy, các pháp còn lại là như pháp tu hành.

Tôn giả Tu Hòa Mật nói: Tín, giới là gần gũi thiện tri thức. Học rộng, trí tuệ, là nghe pháp. Chánh kiến là chánh tư duy, các chánh còn lại là như pháp tu hành.

Người A-tỳ-đàm nói rằng: Tín, giới thí là gần thiện tri thức. Học rộng, trí tuệ là nghe pháp. Chánh kiến là chánh tư duy, các chánh còn lại là như pháp tu hành.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Chi Tu-đà-hoàn tức là chi Tu-đàhoàn. Tôn giả Xá-lợi-phất đã vì Trưởng giả Tu Đạt phân biệt tín không hư hoại có mười thứ, vì ba việc:

  1. Do tự thể.
  2. Do chỗ khởi.
  3. Do chỗ nương dựa.

Do tự thể: Là Tín, là giới. thế nào là căn bản của tín, giới? Đó là trí vô lậu, căn thiện vô lậu.

Do chỗ khởi: Là vì chánh giác nương dựa chánh giác, nên nuôi lớn giới, văn, thí, tuệ.

Do chỗ nương dựa: Là giải thoát.

Hỏi: Vì sao gọi là A-la-hán?

Đáp: A la dịch là phiền não. Hán dịch là giết. Dùng dao trí tuệ giết chết phiền não, gọi là A-la-hán. Lại nữa, vì không còn sanh trong sanh tử của các cõi, các đường nên gọi là A-la-hán. Lại nữa, không sinh ra trong vòng sinh tử của các cõi, các đường, các đời … nên gọi là A-la-hán.

Vì xa lìa pháp ác, bất thiện, nên gọi là A-la-hán. Như kệ nói:

Xa lìa ác bất thiện

An trụ trong pháp thiện

Đáng được đời cúng dường

Nên gọi là A-la-hán.

Lại nữa, vì xứng đáng thọ sự cúng dường hơn hết, nên gọi là Ala-hán. Tất cả vật Sa-môn cần dùng, không có Sa-môn nào không xứng đáng thọ.

Vì dứt hết lậu:

Hỏi: Như xứ lậu cũng hết, vì sao chỉ nói dứt hết lậu?

Đáp: Đức Thế tôn trước nói lậu hết, nên biết là Ngài cũng đã nói về xứ lậu.

Lại nữa, nếu pháp là tự tánh dứt thì dứt rồi sẽ không thành tựu, do pháp nầy trở ngại với đạo Thánh. Thánh đạo không trở ngại với pháp hữu lậu thiện, vô ký không ẩn một, chỉ trở ngại với pháp lậu. Nếu pháp hữu lậu thiện dứt lậu, thì pháp vô ký không ẩn một cũng dứt, vì đồng một đối trị. Như ngọn đèn không trở ngại gì với bình đựng dầu và tim đèn, mà trở ngại với bóng tối. Vì xua tan bóng tối, nên đốt đèn thì tim lụn, dầu cạn, bình đựng nóng!

Lại nữa, do lậu khó dứt, khó trừ, khó vượt qua.

Lại nữa, do lậu là tai họa của lỗi lầm trầm trọng.

Lại nữa, lậu là lậu, là xứ lậu. Ách, bộc lưu, phược, thủ, sử, kiết cũng vậy. Pháp hữu lậu thiện, vô ký không ẩn một thì không như thế!

Thế nào là trí? Thế nào là kiến? Thế nào là tuệ?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có người nói: Nhẫn là trí, như Phái Thí dụ giả nói. Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói rằng: Đầu tiên là mắt tuệ, duyên với cảnh giới là nhẫn, về sau tăng trưởng là trí. Cho nên trí phẩm hạ là nhẫn. Như người đang đi trên đường, trước có ý nghĩ muốn dừng, sau đó mới dừng. Mắt tuệ lúc đầu duyên với cảnh giới là nhẫn, tăng trưởng là trí. Cho nên trí phẩm hạ là nhẫn.

Vì ngăn dứt ý của những người nói như thế, cũng nói nhẫn chẳng phải trí nên soạn luận nầy.

Lại nữa, sở dĩ soạn luận là vì có người nói: Tận trí, trí vô sinh là tánh của kiến.

Vì ngăn dứt ý của những người nói như thế, cũng nói về tận trí, trí vô sinh chẳng phải tánh của kiến nên soạn luận nầy.

Lại nữa, Kiền-độ nầy là trí. Ở đây nên phân biệt, thế nào là pháp của tánh trí, tánh kiến và tánh tuệ?

Thế nào là kiến?

Đáp: Nhãn căn là chánh kiến thế tục, kiến học, kiến Vô học trong năm kiến.

Hỏi: Vì sao nhãn căn được gọi là kiến?

Đáp: Do bốn việc, nên gọi là kiến:

  1. Do bậc Hiền Thánh nói.
  2. Do người thế tục nói.
  3. Do kinh nói.
  4. Do hiện thấy ở thế gian.

Do Hiền Thánh, người thế tục nói rằng: Như nói: Ta thấy người nầy đi, đứng, ngồi, nằm. Nếu thấy người nghiêng ngã, mê lầm, thì nói rằng: Như có kinh tà kiến nói: Phật nói: Nếu mắt thấy sắc, không nên phân biệt là nam, là nữ, sinh ra ái nhiễm.

Lại nói: Nếu mắt thấy sắc đẹp, không sinh ái, thấy xấu không sinh giận dữ!

Lại nói: Nếu thấy sắc vừa ý, sắc không vừa ý, sắc chẳng phải vừa ý, sắc chẳng phải không vừa ý phải quán sát.

Lại nói: Nếu mắt thấy sắc, không nên sinh yêu, giận, mà nên sinh tâm xả.

Lại nói: Nếu thấy sắc, phải chánh quán là pháp bất tịnh, thế gian hiện thấy!

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Đây là lời của người đời, điều ta hiện thấy là sự tịnh, hiện thấy là sự bất tịnh.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Kinh cũng nói, người đời cũng nói: Đối tượng được mắt bắt kịp và điều thức đã trải qua, đó gọi là kiến. Năm kiến gọi là kiến, nghĩa là do bốn việc, nói rộng như trong Kiền-độ Kiến, trong kiến xứ đã nêu. Chánh kiến thế tục gọi là kiến là do tánh kiến. Kiến học, kiến Vô học sở dĩ gọi là kiến, là do tánh kiến. Như ban đêm khi trời có mây thì thấy sắc. Tuệ nhiễm ô thấy pháp cũng vậy! Như ban đêm khi không có mây giăng thì thấy sắc. Tuệ hữu lậu thiện thấy pháp cũng vậy! Như ban ngày, lúc có mây che thì thấy sắc, tuệ học thấy pháp cũng thế! Như ban ngày lúc không có mây che thì thấy sắc, tuệ Vô học thấy pháp cũng giống như vậy!

Thế nào là trí?

Đáp: Trừ nhẫn trong kiến đạo, ngoài ra là tuệ tương ưng với y thức. Trí kia có ba thứ: Thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn một. Thiện có hai thứ: hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là chánh kiến thế tục, vô lậu là tám trí của Hữu học, Vô học. Nhiễm ô là năm kiến và ái, giận, mạn, nghi tương ưng với vô minh. Vô ký không ẩn một là oai nghi, công xảo, báo sinh, tâm biến hóa đi chung và tuệ tương ưng với năm thức thân.

Tuệ ấy cũng có ba thứ: Thiện, cấu uế, vô ký không ẩn một. Thiện là thiện sinh đắc. Cấu uế là ái giận đi chung. Vô ký không ẩn một nghĩa là tâm đi chung với báo.

Thế nào là tuệ?

Đáp: Là tuệ tương ưng với ý thức. Tuệ kia cũng có ba thứ: Thiện, cấu uế và vô ký không ẩn một. Thiện có hai thứ: hữu lậu, vô lậu. Hữu lậu là chánh kiến thế tục, vô lậu là tám nhẫn, tám trí Học, Vô học trong kiến đạo. Ngoài ra, như trước nói. Tuệ tương ưng với năm thức, như trước đã nói.

Đã nói tự thể của trí. Nay sẽ nói về tướng giống nhau, tướng khác nhau của trí:

Hoặc kiến là trí? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

Là kiến, chẳng phải trí: Kiến của nhãn căn, là các nhẫn trong kiến đạo.

Hỏi: Vì sao nhãn căn chẳng phải trí?

Đáp: Vì nhãn căn là sắc, mà trí chẳng phải sắc.

Lại nữa, vì nhãn căn chẳng phải tương ưng, chẳng phải nương dựa, chẳng phải hành, chẳng phải duyên, còn trí là tương ưng, là nương dựa, là hành, là duyên.

Các nhẫn trong kiến đạo, vì sao chẳng phải trí?

Đáp: Vì nhẫn nầy chẳng phải đã nhẫn. Quán nầy chẳng biết là quán, chẳng phải đã quán, là tìm kiếm chẳng phải đã đủ, là lập bày phương tiện ngăn dứt.

Lại nữa, nhẫn là đối trị nghi. Nghi đó vì được cùng sinh với nhẫn nầy, nên nghĩa quyết định là nghĩa của trí.

Lại nữa, đạo vô ngại, đạo giải thoát tuy cùng tạo tác một việc, nhưng không được cùng sinh trong một sát-na.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Vì chịu đựng, nên gọi là Nhẫn, không thể cho chịu đựng là trí.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Kiến giải của mình gọi là trí, nhẫn chẳng phải kiến giải của mình. Đó gọi là kiến chẳng phải trí.

Trí chẳng phải kiến: Trừ năm kiến và chánh kiến thế tục, các ý thức khác tương ưng với tuệ hữu lậu. Trí đó có hai thứ: Nhiễm ô và vô ký không ẩn một. Nhiễm ô: Vô minh tương ưng với ái, giận, mạn, nghi.

Hỏi: Vì sao tuệ nhiễm ô tương ưng với ái v.v… mà chẳng phải kiến?

Đáp: Đối tượng chuyển vận của kiến bén nhạy. Đối tượng chuyển vận của tuệ kia không bén nhạy.

Lại nữa, kiến thâm nhập ở duyên, tuệ không thâm nhập ở duyên.

Lại nữa, tuệ tương ưng với ái, bị hai kiết che lấp cùng khắp.

Hai kiết: Đó là ái và tương ưng vô minh. Kiết khác cũng giống như thế.

Hỏi: Tuệ tương ưng với vô minh không chung, không bị hai kiết che lấp, vì sao không gọi là kiến?

Đáp: Vô minh không chung che lấp tuệ trầm trọng. Đối với ba kiết, vô ký không ẩn một là oai nghi, công xảo, báo, tâm biến hóa đi chung.

Hỏi: Vì sao vô ký không ẩn một là tuệ, chẳng phải kiến?

Đáp: Vì đối tượng chuyển vận của kiến bén nhạy, đối tượng chuyển vận của tuệ kia không bén nhạy.

Lại nữa, kiến thâm nhập ở duyên, tuệ kia đối với duyên, không thâm nhập.

Lại nữa, kiến có thế lực, còn tuệ kia thì yếu kém.

Hỏi: Báo tuệ yếu kém, có thể như thế! Nhưng oai nghi, công xảo, cũng có thế dụng. Như oai nghi của Đức Thế tôn, công xảo của trời Tỳ- thủ-yết-ma, giống với chỗ tạo tác của nguyện trí hay không?

Đáp: Dù hết sức công xảo, nhưng vẫn bị tà mạng che lấp.

Lại nữa, dù rất khéo léo, nhưng cũng vẫn bị người khác chê bai:

Chỗ nầy là không tốt.

Tuệ tương ưng với năm thức, vì sao chẳng phải kiến?

Đáp: Đối tượng chuyển vận của kiến bén nhạy, thâm nhập ở duyên. Đối tượng chuyển vận của tuệ kia không bén nhạy, đối với duyên không thâm nhập.

Lại nữa, kiến có thể phân biệt, tuệ kia không thể phân biệt.

Lại nữa: Kiến duyên với ba đời và vô vi, tuệ kia chỉ duyên với hiện tại.

Lại nữa, Kiến duyên với tướng chung, tướng riêng, tuệ kia chỉ duyên với tướng riêng.

Lại nữa, Kiến đối với duyên thường chuyển vận, tuệ kia thì không như thế.

Lại nữa, Kiến trù tính, lường xét, quán sát về duyên, tuệ kia thì không như thế.

Hỏi: Vì sao tận trí, trí vô sinh chẳng phải kiến?

Đáp: Đối tượng chuyển vận của kiến bén nhạy, đối tượng chuyển vận của Trí kia không bén nhạy.

Lại nữa, khi kiến sinh, có chỗ tạo tác để lập bày. Còn trí kia sinh thì phương tiện thôi dứt, không có chỗ tạo tác, như chim đậu ở chỗ yên ổn.

Lại nữa, kiến hiện ở trước là có chỗ mong cầu, trí kia hiện tiền không có chỗ mong cầu. Cho nên, Tôn giả Cù-sa nói rằng: Vì đối với pháp vượt hơn, không còn có đối tượng mong cầu, nên tận trí, trí vô sinh chẳng phải kiến.

Lại nữa, tất cả tuệ vô lậu có hai thứ: Hoặc đối trị với tà kiến, hoặc đối trị với vô trí.

Lại có người nói: Pháp vô lậu có ba thứ: Hoặc đối trị với tà kiến, chẳng phải vô trí, hoặc đối trị với vô trí, chẳng phải tà kiến. Hoặc đối trị với tà kiến, cũng đối trị với vô trí. Nếu đối trị với tà kiến, chẳng phải vô trí, là kiến chứ chẳng phải trí, như các nhẫn trong kiến đạo. Nếu đối trị với vô trí, chẳng phải tà kiến: Là trí chứ chẳng phải kiến, như tận trí, trí vô sinh. Nếu đối trị với tà kiến, cũng đối trị với vô trí, là các tuệ vô lậu khác.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Vì sao tận trí, trí vô sinh chẳng phải kiến?

Đáp: Nếu tận trí, trí vô sinh là tánh của kiến, thì A-la-hán thành tựu chín thứ đạo. Nhưng Phật, Thế tôn nói A-la-hán thành tựu mười thứ đạo.

Hỏi: Như Chánh kiến thế tục là tánh kiến, tánh trí. Kiến học là tánh kiến, tánh trí. Kiến Vô học là tánh kiến, tánh trí. Nếu tận trí, trí vô sinh, cũng là tánh kiến, tánh trí thì có lỗi gì?

Đáp: Nếu như phương tiện, lúc nhập pháp đầu tiên: Chánh kiến thế tục là kiến, là trí thì lập chi chánh kiến, chẳng phải chi chánh kiến, kiến học là kiến, là trí thì lập chi chánh kiến, chẳng phải chi chánh trí. Kiến Vô học là kiến, là trí thì lập chi chánh kiến, không lập chi chánh trí. Thể của tận trí, trí vô sinh như thế cũng là kiến, là trí lẽ ra cũng lập chi chánh kiến, không lập chi chánh trí, tức A-la-hán thành tựu chín thứ đạo không có mười. Nhưng Đức Thế tôn nói A-la-hán thành tựu mười thứ đạo.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Quyết định không nghi ngờ, trí nầy là kiến. Vì sao? Vì mạnh mẽ và nhạy bén. Nếu hỏi rằng: A-la-hán thành tựu chín thứ đạo, nhưng Phật nói có mười thứ đạo, thì nên đáp như thế nầy: Hai trong mười thứ đạo ở địa Vô học, tám ở địa Hữu học, Vô học. Vừa là kiến, vừa là trí, nghĩa là trừ các nhẫn trong kiến đạo, là tận trí, trí vô sinh, các tuệ vô lậu khác. Trí đó là gì? Đó là tám trí học, chánh kiến Vô học, năm kiến, chánh kiến thế tục, vừa là tướng của kiến, vừa là tướng của trí. Chẳng phải trí, chẳng phải kiến trừ ngần ấy việc trên.

Nếu pháp là trường hợp thứ nhất, thứ hai, thứ ba đã lập, thì gọi là đã xưng nói. Trừ pháp nầy ra, các pháp khác chưa đặt tên, chưa xưng nói, thì lập ra trường hợp thứ tư. Pháp ấy là gì? Trừ nhãn căn trong sắc ấm, đó là các sắc ấm khác. Trừ tất cả tuệ trong hành ấm, đó là thiện, nhiễm ô, vô ký không ẩn một, cũng ở địa của y, cũng ở địa của năm thức, vừa hữu lậu, vô lậu, vừa là các hành ấm tương ưng, bất tương ưng khác.

Ba ấm và pháp vô vi như thế v.v… tạo ra trường hợp thứ tư, đó gọi là ngần ấy việc trên.

Nếu kiến là tuệ cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Kiến chẳng phải tuệ: Là nhãn căn.

2. Tuệ chẳng phải kiến: Trừ năm kiến, chánh kiến thế tục, các tuệ hữu lậu tương ưng với y thức khác. Tuệ tương ưng với năm thức và tận trí, trí vô sinh. Ngoài ra, nói rộng như bốn trường hợp trước.

3. Vừa là kiến, vừa là tuệ: Trừ tận trí, trí vô sinh, các tuệ vô lậu khác. Tuệ đó là gì? Đó là các nhẫn trong kiến đạo, tám trí học, chánh kiến Vô học, năm kiến, chánh kiến thế tục, các pháp nầy có tướng của kiến, tướng của tuệ.

4. Chẳng phải là kiến, chẳng phải tuệ: Trừ ngần ấy việc trên, như trước đã nói.

Nếu trí là tuệ chăng?

Đáp: Các trí đều là tuệ.

Có khi nào là tuệ, mà không phải trí phải chăng?

Đáp: Có, là các nhẫn trong kiến đạo. Nói rộng gồm nhiếp cũng giống như thế.

*******

 

Hỏi: Nếu thành tựu kiến, thì có thành tựu Trí phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu thành tựu Trí, thì có thành tựu kiến phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu thành tựu kiến, cũng thành tựu tuệ phải chăng? Đáp: Đúng vậy.

Nếu thành tựu tuệ, cũng thành tựu kiến phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu thành tựu Trí, cũng thành tựu tuệ phải chăng? Đáp: Đúng vậy!

Nếu thành tựu tuệ, cũng thành tựu Trí phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Hỏi: Ai là người thành tựu kiến, Trí, tuệ?

Đáp: Tất cả chúng sinh. Nói chung là tất cả chúng sinh! Tuy nhiên, cũng có ít nhiều người dứt bỏ căn thiện, nghĩa là thành tựu kiến, Trí, tuệ nơi ba cõi, là chỗ dứt của kiến đạo, trí tuệ nhiễm ô của ba cõi do tu đạo dứt.

Trí tuệ vô ký không ẩn một lệ thuộc cõi Dục.

Người không dứt căn thiện: Nếu không được tâm thiện cõi Sắc thì sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ của ba cõi do kiến đạo dứt, trí tuệ mhiễm ô của ba cõi do tu đạo dứt.

Kiến, Trí, tuệ thiện lệ thuộc cõi Dục. Trí tuệ vô ký không ẩn một lệ thuộc cõi Dục.

Nếu đã được tâm thiện cõi Sắc, chưa lìa dục cõi Dục, thì thành tựu kiến, Trí, tuệ của ba cõi do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm o nơi ba cõi do tu đạo dứt. Kiến, Trí, tuệ thiện cõi Dục, cõi Sắc, trí tuệ vô ký không ẩn một, lệ thuộc cõi Dục, đã lìa dục cõi Dục, nếu không được tâm thiện cõi Vô sắc, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ cõi Sắc, cõi Vô sắc do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt. Kiến, Trí, tuệ thiện cõi Dục, cõi Sắc. Trí tuệ vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc, nếu được tâm thiện cõi Vô sắc, chưa lìa dục cõi Sắc, thì thành tựu kiến, Trí, tuệ, cõi Sắc, cõi Vô sắc do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt.

Kiến, Trí, tuệ của ba cõi, trí tuệ vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc, Nếu đã lìa dục cõi Sắc, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ cõi Vô sắc do kiến đạo dứt, trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt, thành tựu Kiến, Trí, tuệ thiện của ba cõi, trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc.

Phàm phu sinh cõi Sắc, không được tâm thiện cõi Vô sắc, thì sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ cõi Sắc, cõi Vô sắc, do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện thuộc cõi Sắc. Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục cõi Sắc.

Nếu được tâm thiện cõi Vô sắc, chưa lìa dục cõi Sắc, sẽ thành tựu kiến Trí tuệ cõi Sắc, cõi Vô sắc, do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt. Cũng thành tựu Kiến, Trí, tuệ thiện cõi Sắc, cõi Vô sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc.

Đã lìa dục cõi Sắc, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ cõi Vô sắc do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt. Cũng thành tựu Kiến, Trí, tuệ thiện cõi Sắc, cõi Vô sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục cõi Sắc. Phàm phu sinh cõi Vô sắc, tâm báo không hiện ở trước, thành tựu kiến, Trí, tuệ thuộc cõi Vô sắc do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm o do tu đạo dứt.

Kiến, Trí, tuệ thiện cõi Vô sắc, nếu tâm báo hiển bày ở trước, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ cõi Vô sắc do kiến đạo dứt, Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt. Cũng thành tựu Kiến, Trí, tuệ thiện cõi Vô sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một. Đó là nói người phàm phu. Người Kiên tín, Kiên pháp, nếu pháp trí chưa sinh, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ của ba cõi do kiến đạo dứt. Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Dục, cõi Sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục. Kiến Trí tuệ vô lậu, khổ pháp trí đã sinh, tập trí chưa sinh, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ của ba cõi, chỗ dứt của Tập, diệt, đạo. Trí tuệ nhiễm ô do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Dục, cõi Sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục. Kiến, Trí, tuệ vô lậu, cho đến diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ của ba cõi, chỗ dứt của kiến đạo, Trí tuệ nhiễm o do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Dục, cõi Sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục. Kiến, Trí, tuệ vô lậu nơi Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thành tựu Trí tuệ nhiễm ô nơi ba cõi, do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Dục, cõi Sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc. Kiến, Trí, tuệ vô lậu, sinh A-na-hàm cõi Dục, nếu không được tâm thiện cõi Vô sắc, sẽ thành tựu trí tuệ nhiễm ô nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Dục, cõi Sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc.

Kiến Trí tuệ vô lậu, nếu đã được tâm thiện cõi Vô sắc, nhưng chưa lìa dục cõi Sắc, thì sẽ thành tựu Trí tuệ nhiễm ô, cõi Sắc, cõi Vô sắc do tu đạo dứt. Cũng thành tựu Kiến, Trí, tuệ thiện của ba cõi. Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc. Kiến, Trí, tuệ vô lậu, đã lìa dục cõi Sắc, sẽ thành tựu Trí tuệ nhiễm o cõi Vô sắc, do tu đạo dứt. Cũng thành tựu Kiến, Trí, tuệ thiện của ba cõi, trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục cõi Sắc.

Kiến, Trí, tuệ vô lậu, sinh A-na-hàm cõi Sắc, nếu không được tâm thiện cõi Vô sắc, sẽ thành tựu Trí tuệ nhiễm ô cõi Sắc, cõi Vô sắc, do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc.

Kiến Trí tuệ vô lậu, nếu được tâm thiện cõi Vô sắc, chưa lìa dục cõi Sắc, sẽ thành tựu Trí tuệ nhiễm ô cõi Sắc, cõi Vô sắc, do tu đạo dứt.

Kiến, Trí, tuệ thiện là cõi Sắc, cõi Vô sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc. Kiến Trí tuệ vô lậu đã lìa dục cõi Sắc, sẽ thành tựu Trí tuệ nhiễm ô cõi Vô sắc, do tu đạo dứt. Cũng thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Sắc, cõi Vô sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc. Kiến, Trí, tuệ vô lậu, sinh A-la-hán cõi Sắc, thành tựu kiến, Trí tuệ thiện cõi Sắc, cõi Vô sắc, Trí tuệ Vô ký không ẩn một cõi Dục, cõi Sắc. Kiến, Trí, tuệ vô lậu, sinh A-na-hàm cõi Vô sắc, tâm báo không hiện ở trước, sẽ thành tựu Trí tuệ nhiễm ô cõi Vô sắc, do tu đạo dứt. kiến, Trí, tuệ thiện, kiến Trí, tuệ vô lậu, nếu tâm báo hiện ở trước, thì sẽ thành tựu Trí tuệ Vô ký không ẩn một. Ngoài ra, như trước đã nói.

A-la-hán sinh cõi Vô sắc, tâm báo không hiện ở trước, sẽ thành tựu kiến, Trí, tuệ thiện cõi Vô sắc, và kiến Trí, tuệ vô lậu.

Nếu tâm báo hiện ở trước, thì sẽ thành tưụ Trí, tuệ, vô ký không ẩn một. Ngoài ra như trước đã nói.

Nếu kiến đã dứt, thì Trí kia dứt phải chăng?

Đáp: Đúng thế!

Nếu Trí đã dứt, thì kiến kia dứt phải chăng?

Đáp: Đúng thế!

Nếu kiến đã dứt, thì tuệ kia dứt phải chăng? Đáp: Đúng thế!

Nếu tuệ đã dứt, thì kiến kia dứt phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu Trí đã dứt thì tuệ kia dứt phải chăng? Đáp: Đúng vậy!

Nếu tuệ đã dứt thì Trí kia dứt phải chăng?

Đúng vậy!

Ai dứt kiến Trí, tuệ?

Đáp: Là A-la-hán. Phần dứt, khác có nhiều, có ít. A-na-hàm đã lìa dục của Vô sở hữu xứ, dứt kiến, Trí, tuệ, là chỗ dứt của tu đạo nơi tám địa, chỗ dứt của Kiến đạo nơi ba cõi, cho đến A-na-hàm chưa lìa dục của sơ Thiền, dứt kiến, Trí, tuệ, chỗ dứt của tu đạo nơi cõi Dục, chỗ dứt của kiến đạo nơi ba cõi. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, dứt kiến, Trí, tuệ, chỗ dứt của kiến đạo nơi ba cõi. Người Kiên tín, Kiên pháp, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, dứt kiến, Trí, tuệ, chỗ dứt của kiến khổ nơi ba cõi, cho đến diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, dứt kiến, Trí, tuệ, chỗ dứt của kiến khổ Tập Diệt nơi ba cõi. Người phàm phu, lìa dục của Vô sở hữu xứ, lìa kiến, Trí, tuệ, chỗ dứt của kiến đạo, tu đạo nơi tám địa, cho đến người phàm phu lìa dục cõi Dục, dứt kiến, Trí, tuệ, chỗ dứt của kiến đạo, của tu đạo nơi một địa.

Các chánh kiến là trạch pháp giác chi chăng?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Luận trước là căn bản để tạo ra luận nầy. Luận trước nói rằng: Thế nào là kiến? Sao là Trí? Thế nào là tuệ? Nhưng không nói rằng: Có phải các chánh kiến là trạch pháp giác chi không? Những gì thuyết trước đã nói là căn bản để soạn luận nầy. Ở đây, nay muốn nói rộng, nên soạn luận nầy.

Trong A-tỳ-đàm nầy có tướng quyết định: Nếu sau chi giác, nói chi đạo thì nên biết, chi đạo là hoàn toàn vô lậu. Nếu sau chi đạo, nói chi giác thì nên biết chi đạo là hữu lậu, vô lậu. Ở đây, sau chi đạo, nói chi giác, nên biết chi đạo là hữu lậu, vô lậu.

Hoặc có chánh kiến, chẳng phải trạch pháp giác chi, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Là chánh kiến, chẳng phải trạch pháp giác chi, nghĩa là chánh kiến thế tục. Vì sao? Vì chi giác hoàn toàn là vô lậu.

2. Là trạch pháp giác chi, chẳng phải chánh kiến, đó là tận trí, trí vô sinh. Vì sao? Vì chi giác kia vô tướng của kiến.

3. Là chánh kiến, cũng là trạch pháp giác chi, nghĩa là trừ tận trí, trí vô sinh, là các tuệ vô lậu khác. Các tuệ vô lậu ấy là gì? Đó là các Nhẫn trong kiến đạo, là tám trí của Hữu học và chánh kiến Vô học. Vì sao? Vì trí, kiến đó có tướng của kiến, tướng của giác chi.

4. Chẳng phải chánh kiến, chẳng phải trạch pháp giác chi, là trừ ngần ấy việc trên.

Nếu pháp đã lập, danh đã xưng nêu, thì tạo ra các trường hợp thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Pháp chưa lập, danh chưa xưng nói, thì sẽ tạo ra trường hợp thứ tư. Trường hợp đó là gì? Là hành ấm, tạo ra bốn trường hợp nầy. Tuệ thiện của địa ý thức có hữu lậu, vô lậu: là tạo ra ba trường hợp trước. Ngoài ra, có hành ấm tương ưng, bất tương ưng, tạo ra trường hợp thứ tư. Ngoài ra, có bốn ấm và pháp vô vi, cũng tạo ra trường hợp thứ tư, đó gọi là trừ ngần ấy việc trên.

Các chánh trí là trạch pháp giác chi chăng?

Đáp: Có khi chánh trí, chẳng phải trạch pháp giác chi, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Là chánh trí, chẳng phải trạch pháp giác chi, nghĩa là chánh trí của thế tục. Vì sao? Vì chánh trí kia vô tướng của giác chi.

2. Là trạch pháp giác chi, chẳng phải chánh trí, nghĩa là tám nhẫn trong kiến đạo. Vì sao? Vì Nhẫn kia vô tướng của trí.

3. Là chánh trí, cũng là trạch pháp giác chi, nghĩa là trừ các nhẫn trong kiến đạo, còn lại là các tuệ vô lậu khác. Tuệ vô lậu khác ấy là gì? Là tám trí của Hữu học, Vô học. Vì sao? Vì tuệ vô lậu đó có tướng của Trí, tướng của giác chi.

4. Không phải chánh trí, cũng chẳng phải trạch pháp giác chi, nghĩa là trừ ngần ấy việc trên, như trước đã nói. Khác ở đây, là đều nói địa ý của tất cả tuệ thiện và hữu lậu, vô lậu của địa năm thức.

Hỏi: Vì sao không hỏi về chi giác khác?

Đáp: Cũng nên hỏi rằng: Nếu chánh phương tiện là tinh tiến giác chi? Đáp: Nếu là tinh tiến giác chi thì cũng là chánh phương tiện.

Có khi nào chánh phương tiện chẳng phải tinh tiến giác chi hay không?

Đáp: Có, là chánh phương tiện của thế tục. Giác chi, đạo chi lẽ ra cũng hỏi như thế mà không hỏi là có ý gì?

Đáp: Nên biết đó là thuyết chưa trọn vẹn.

Lại nữa, thỉ chung đã nói ở đây thì thỉ là chánh kiến, chung là chánh trí. Như khi mới nhập, phương tiện lúc xuất, rốt ráo cũng giống như thế.

Lại nữa, nếu tạo ra đầy đủ nghĩa của bốn trường hợp, thì nói. Nếu chỉ thuận với trường hợp sau, thì trong đây không nói.

Lại nữa, đây là Kiền-độ Trí. Nếu pháp là tánh của kiến, trí, tuệ thì trong đây sẽ phân biệt rộng.

Lúc niệm giác chi hiện ở trước, có bao nhiêu giác chi, đạo chi hiện ở trước?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Có thuyết cho là: Lúc pháp sinh, là theo thứ lớp sinh, chẳng phải cùng lúc. Như Tôn giả Phật-đà-đề-bà của Phái Thí dụ giả nói rằng: Khi pháp sinh là theo thứ lớp, không sinh cùng lúc. Giống như nhiều bạn cùng đi qua ngõ hẹp, một đi ra, một đi vào, không được cả hai người chen qua cùng lúc, huống chi là nhiều người!

Cũng thế, pháp hữu vi với mỗi pháp đều từ tướng sinh mà sinh. Có thế lực nào, có thể sinh cùng lúc chăng?

Hỏi: Vì sao vị kia nói lời nầy?

Đáp: Vì vị kia đã dựa vào Kinh Phật. Như Kinh Phật nói: Nếu tâm yếu kém, thì tu ba giác chi, tức là chẳng phải lúc đó là giác chi khinh an, định, xả. Lúc nầy nên tu ba giác chi, đó là giác chi trạch pháp, tinh tiến, hỷ. Nếu người với tâm trạo cử, mà tu ba giác chi, tức là chẳng phải lúc, đó là giác chi trạch pháp, tinh tiến, hỷ. Là lúc nên tu ba giác chi, là giác chi khinh an, định, xả.

Nếu Kinh Phật nói: Ba giác chi là thời, ba giác chi là chẳng phải thời, nên biết thời gian pháp sinh là theo thứ lớp sinh, chứ chẳng phải sinh cùng lúc. Lại dẫn Kinh khác: Như Tôn giả Xá-lợi-phất nói rằng: Các Trưởng già nên biết! Tôi đã được bảy giác chi, tùy ý tự tại. Buổi sáng tôi muốn dừng lại giác chi như vậy, là tùy ý được dừng lại. Buổi trưa, buổi chiều tôi muốn trụ giác chi nào thì tùy ý được trụ. Do hai Kinh ấy nói: Biết khi pháp sinh là theo thứ lớp sinh, chẳng phải sinh cùng lúc!

Vì muốn ngăn ý của người nói như thế, cũng để nói sinh cùng lúc.

Hỏi: Nếu pháp sinh cùng lúc, chứ chẳng phải theo thứ lớp sinh, thì Kinh Phật nói, làm sao hiểu được? Như nói: Tu ba giác chi là lúc tu ba giác chi khác là chẳng phải lúc?

Đáp: Kinh nầy nói: Khi pháp sinh, là sinh cùng lúc, chẳng phải không cùng lúc! Vì sao? Vì nếu trong tâm có hai, có ba giác chi, tất nhiên là đã thì rõ ràng pháp sinh cùng lúc, chẳng phải theo thứ lớp.

Hỏi: Pháp giúp đạo nầy tùy theo địa kia, người tu không có giảm ít, vì sao lại nói là tu ba chi giác là lúc tu ba giác chi khác chẳng phải lúc?

Đáp: Vì chi giác có hai phần:

  1. Phần định.
  2. Phần tuệ.

Nếu chi giác của phần định khi hiện ở trước, thì sẽ tu ba giác chi của phần tuệ, tức là chẳng phải lúc. Vì sao? Vì thế dụng về nghiêng nhiều phần Định, nên ngay lúc ấy phải tu ba giác chi trái với trên. Nói về phần tuệ cũng giống như thế.

Lại nữa, hoặc định hữu vi nhập đạo Thánh, hoặc tuệ hữu vi nhập đạo Thánh. Nếu là định nhập Thánh đạo, thì sẽ tu ba giác chi của phần định, là phải lúc, còn tu ba giác chi của phần tuệ là chẳng phải lúc. Nếu người vì tuệ nhập đạo Thánh thì sẽ tu ba giác chi của phần tuệ là phải lúc, còn tu ba giác chi của phần định là chẳng phải lúc.

Nếu vậy thì Kinh do Tôn giả Xá-lợi-phất đã nói làm sao hiểu được?

Đáp: Tôn giả Xá-lợi-phất đã biết một cách tường tận về tướng của thân tâm mình khi xuất định, nhập định, cho nên nếu muốn dùng thời gian sáng sớm để nhập giác chi như thế, thì liền được tùy ý tự tại, nếu muốn chọn thời gian giữa trưa hoặc chiều cũng giống như thế, cho nên mới nói như vậy.

Lại nữa, Kinh nầy nói giác chi của ba địa: đó là địa có giác, có quán, địa không giác, có quán, địa không có giác, không có quán. Nếu muốn dùng thời gian sáng sớm trong ngày để nhập giác chi của địa có giác, có quán, hoặc dùng thời gian giữa ngày để nhập giác chi của địa không giác, có quán, hay dùng sau giờ ngọ để nhập giác chi của địa không giác, không quán, đều được tùy ý nên nói như vậy.

Lại nữa, ba căn nói trong ấy đi chung với giác chi, đó là lạc căn, hỷ căn và xả căn. Nếu muốn dùng thời gian đầu trong ngày để nhập lạc căn đi chung với giác chi, hoặc dùng buổi trưa để nhập hỷ căn đi chung giác chi, hay sử dụng phần thời gian xế chiều để nhập xả căn đi chung giác chi thì đều được tùy ý, cho nên nói như thế.

Không, vô tướng, vô nguyện đều có tận trí, trí vô sinh, chánh kiến Vô học, đều có giác chi, cũng nói giống như thế.

Phái Thí dụ giả nói rằng: Ở đây nói giác chi của bảy địa là giác chi của bốn thiền căn bản và ba định Vô sắc. Trong bảy địa nầy, nếu muốn dùng phần thời gian đầu trong ngày, để nhập giác chi của địa Sơ thiền, cho đến nhập giác chi của địa vô sở hữu xứ, dùng phần thời gian trưa, hoặc xế chiều để nhập giác chi của địa Sơ thiền, cho đến nhập giác chi của địa vô sở hữu xứ đều được tùy ý, cho nên mới nói như thế.

Lại có người nói: Sở dĩ soạn luận nầy là vì: Có người nói: Trong các thiền bên có hỷ, không có giới. Hoặc nói ở địa trên có chánh giác, hoặc nói trong địa Vô sắc có giới.

Vì ngăn dứt ý của người nói như thế, nên soạn luận nầy.

Niệm giác chi lúc hiện hiền có bao nhiêu giác chi, đạo chi ở trước?

Đáp: Nếu dựa vào thiền Vị chí có giác, có quán, lúc niệm giác chi của học đã hiện tiền, thì sáu giác chi, tám đạo chi sẽ hiện ở trước, sáu giác chi Vô học, chín đạo chi sẽ hiện ở trước, dùng thuyết nầy để ngăn ý của những người nói trong các thiền biên có hỷ, không có giới.

Hỏi: Như định của thiền Vị chí là có giác, có quán, vì sao lại nói rằng: dựa vào thiền Vị chí có giác, có quán phải không?

Đáp: Lẽ ra nói rằng: Nếu dựa vào định của thiền Vị chí, nên nói có giác, có quán, mà nói như thế là có ý gì?

Đáp: Vì muốn cho người nghi ngờ được quyết định, như Kiền-độ Bốn Đại nói: Các biên của địa trên cũng nói là Vị chí. Hoặc có người, nghe nói thiền Vị chí, rồi nói là Vị chí của địa trên. Nếu nói có giác, có quán thì nên biết phải là Vị chí của Sơ thiền. Nếu dựa vào Sơ thiền, thì học niệm giác chi sẽ hiện ở trước, bảy giác chi, tám đạo chi hiện ở trước, bảy giác chi, chín đạo chi của Vô học hiện ở trước. Nếu dựa vào thiền trung gian, thì khi học niệm giác chi hiện ở trước, sáu giác chi, bảy đạo chi đều hiện ở trước, sáu giác chi, tám đạo chi của Vô học hiện ở trước.

Nếu nói như thế thì sẽ ngăn dứt ý cho là ở địa trên có chánh giác. Như thiền trung gian, đệ tam, đệ Tứ thiền cũng giống như thế. Nếu dựa vào đệ Nhị thiền thì học niệm giác chi hiện ở trước, bảy giác chi, bảy đạo chi sẽ hiện ở trước. Bảy giác chi, tám đạo chi của Vô học hiện ở trước. Nếu dựa vào định cõi Vô sắc, lúc học niệm giác chi hiện ở trước, thì sáu giác chi, bốn đạo chi sẽ hiện ở trước, sáu giác chi, năm đạo chi của Vô học cũng hiện ở trước.

Nếu nói như thế thì sẽ ngăn ý của người cho là ở cõi Vô sắc có giới. Các giác chi, đạo chi đã được trong tất cả tâm vô lậu, tất cả địa, cũng nói như niệm giác chi. Thế là sao? Nghĩa là lúc giác chi trạch pháp, tinh tiến, ỷ (khinh an), định, xả, chánh kiến, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, hỷ giác chi đều hiện ở trước, thì sẽ có bao nhiêu giác chi, đạo chi hiện ở trước?

Đáp: Nếu dựa vào Sơ thiền, lúc giác chi hỷ học đã hiện ở trước thì bảy giác chi, tám đạo chi đã hiện ở trước, bảy giác chi chín đạo chi của Vô học hiện ở trước.

Nếu dựa vào đệ Nhị thiền, lúc giác chi của hỷ học đã hiện ở trước thì bảy giác chi, bảy đạo chi sẽ hiện ở trước, bảy giác chi, tám đạo chi của Vô học sẽ hiện ở trước.

Khi chánh giác chi hiện ở trước, có bao nhiêu giác chi, đạo chi hiện ở trước?

Đáp: Nếu dựa vào thiền Vị chí, khi học chánh giác hiện ở trước, thì sáu giác chi, tám đạo chi sẽ hiện ở trước, sáu giác chi, chín đạo chi của Vô học sẽ hiện ở trước. Nếu dựa vào Sơ thiền, vào lúc học chánh giác đã hiện ở trước, thì bảy giác chi, tám đạo chi sẽ hiện ở trước, bảy giác chi chín đạo chi của Vô học sẽ hiện ở trước.

Hỏi: Vì sao trong các bên không có hỷ?

Đáp: Vì các biên đã lìa dục, chưa lìa dục đều có thể khởi hiện ở trước, nên không thể sinh hỷ. Như người khi đã bị trói buộc nhiều chỗ, có chỗ cởi trói, có chỗ không cởi trói, do đó, không thể sinh hỷ. Trong các bên kia cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao địa trên không có chánh giác?

Đáp: Vì địa ấy chẳng phải ruộng phước, chẳng phải đồ đựng cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì trừ chánh giác, nên mong cầu Địa trên. Nếu ở địa trên có giác thì địa dưới sẽ không tạo ra phương tiện để mong cầu địa trên! Nếu có pháp địa dưới, thì cũng có pháp địa trên, tức là không có diệt theo thứ lớp. Nếu không diệt theo thứ lớp, thì sẽ không có diệt rốt ráo. Vì sao? Vì diệt theo thứ lớp nên có thể diệt đến rốt ráo! Nếu không có diệt rốt ráo thì sẽ không có giải thoát.

Lại nữa, nếu có lĩnh vực của thân nghiệp, khẩu nghiệp thì sẽ có chánh giác, vì địa trên không có thân nghiệp, khẩu nghiệp, nên không có chánh giác.

Hỏi: Vì sao cõi Vô sắc không có giới?

Đáp: Vì không có ruộng phước, không có đồ đựng cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì loại trừ giới, nên cầu cõi Vô sắc. Nếu ở cõi Vô sắc có giới thì chúng sinh ở địa dưới sẽ không tạo ra phương tiện để cầu cõi Vô sắc!

Nếu pháp đã có ở địa dưới, thì cũng có ở địa trên, tức là không có diệt theo thứ lớp. Nếu đã không có diệt theo thứ lớp thì sẽ không có diệt rốt ráo. Vì sao? Vì diệt theo thứ lớp có thể diệt đến rốt ráo. Nếu không có diệt rốt ráo thì sẽ không có giải thoát.

Lại nữa, giới là phần ít của sắc. Trong cõi Vô sắc không có giới, sắc là do bốn đại tạo ra, ở cõi Vô sắc không có bốn đại!

Hỏi: Không có bốn đại vô lậu, làm sao có giới vô lậu?

Đáp: Vì giới vô lậu không do sức của bốn đại, nên là vô lậu. Vì sức của tâm cho nên vô lậu.

Lại nữa, giới đối trị giới ác, mà cõi Vô sắc không có giới ác, nên không có giới. Vì sao? Vì giới ác chỉ ở cõi Dục. Cõi Dục đối với cõi Vô sắc có sự xa cách do bốn việc xa:

  1. Do chỗ nương dựa xa.
  2. Do những việc đã làm xa.
  3. Do chỗ duyên xa.
  4. Do đối trị xa.

Ba mươi bảy pháp giúp đạo là: Bốn niệm xứ, bốn chánh dứt, bốn như y túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám đạo chi. Đức Phật nói pháp giúp đạo không có ba mươi bảy giác chi là pháp giúp đạo. Làm sao biết như thế? Vì kinh nói: Có một Tỳ-kheo đến chỗ Phật, đến nơi đầu mặt lễ dưới chân Phật rồi đứng qua một phía, bạch rằng: Bạch Thế tôn! giác chi mà Phật nói, vì sao gọi là giác chi? Phật bảo Tỳ-kheo: bảy pháp trợ đạo, nầy gọi là giác chi, đó là niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tiến giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi và xả giác chi.

Do việc nầy, nên biết giác chi là pháp giúp đạo.

Hỏi: Pháp giúp đạo có ba mươi bảy. Vì sao Đức Thế tôn nói bảy giác chi là pháp giúp đạo?

Đáp: Tùy theo câu hỏi của Tỳ-kheo kia mà Đức Phật nói bảy giác chi là pháp giúp đạo! nếu Tỳ-kheo kia hỏi về bốn niệm xứ thì Phật cũng nói bốn niệm xứ là pháp trợ đạo.

Lại nữa, kinh kia nhất mực nói pháp giúp đạo vô lậu. Pháp khác thì không nhất định! Như niệm xứ có hai thứ: hữu lậu và vô lậu, cho đến đạo chi cũng có hữu lậu và vô lậu.

Lại có người nói: Phật nói ba mươi bảy pháp giúp đạo. Vì trải qua thời gian lâu, nên quên mất. Như Đà-La-Đạt-Đa nói: Pháp giúp đạo nên nói một chi cho đến ba mươi bảy chi, như ba mươi bảy pháp giúp đạo. Trong Kinh Phủ Kha Dụ cũng nói: Ba mươi bảy pháp giúp đạo vô lậu. Nếu nhận lấy sự tu đạo quyết định, thì có bảy giác chi. Nếu nhận lấy không quyết định, thì có chủng loại của sáu chi. Vì sao? Vì niệm xứ có hai thứ: Hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, cho đến đạo chi cũng giống như thế.

Hỏi: Danh của pháp giúp đạo có ba mươi bảy, Thể có bao nhiêu thứ?

Đáp: Pháp giúp đạo, danh có ba mươi bảy, thể có mười một. hoặc mười hai. Nếu nói đều nằm trong giác chi, thì danh của giác chi có bảy, Thể cũng bảy. Bốn niệm xứ, tuệ căn, tuệ lực, chánh kiến đều nằm trong trạch pháp giác chi. Bốn chánh dứt, căn tinh tiến, lực tinh tiến, chánh phương tiện đều nằm trong tinh tiến giác chi. Bốn như ý túc, định căn, định lực, chánh định đều nằm trong định giác chi. Niệm căn, niệm lực, chánh niệm đều nằm trong niệm giác chi. Pháp còn lại có tín căn, trong đạo chi có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Nếu nói đều nằm trong đạo chi, nghĩa là nếu nói ngoài chánh ngữ, chánh nghiệp, không có chánh mạng. Tám đạo chi, danh có tám, thể có bảy. Nếu nói ngoài chánh ngữ, chánh nghiệp, có chánh mạng riêng, thì đạo chi, danh có tám, thể có tám. Bốn niệm xứ, tuệ căn, tuệ lực, trạch pháp giác chi đều nằm trong chánh kiến. Bốn chánh dứt, tinh tiến căn, tinh tiến lực, tinh tiến giác chi, đều nằm trong chánh phương tiện. Bốn như y túc, định căn, định lực, định giác chi, đều nằm trong chánh định. Niệm căn, niệm lực, niệm giác chi, đều nằm trong chánh niệm. Pháp khác có tín căn, trong giác chi có hỷ, khinh an, xả.

Vì việc nầy nên pháp giúp đạo, danh có ba mươi bảy, thể có mười một hoặc mười hai. Như danh, thể, số danh, số thể, danh khác, thể khác, danh khác với tướng, thể khác với tướng, biết danh, biết thể v.v… cũng giống như thế. Đó là tánh của pháp, pháp thể giúp đạo, cho đến nói rộng…

Vì sao gọi là pháp giúp đạo? Trợ đạo nghĩa là gì?

Đáp: Tận trí, trí vô sinh là Bồ-đề. Các pháp nầy thuận theo pháp kia, giúp cho pháp kia, làm cho pháp kia có phần thế dụng vượt hơn, nên gọi là pháp giúp đạo.

Đã nói chung về pháp giúp đạo. Nay sẽ nói về lý do khác nhau của từng pháp:

Vì sao gọi là niệm xứ?

Đáp: Nghĩa phân biệt nhóm là nghĩa niệm xứ, tụ gọi là năm thủ ấm. Nếu muốn phân biệt thì nên dùng niệm xứ. Nghĩa đốt cháy là nghĩa chánh đoạn. Nghĩa chứa nhóm, nghĩa pháp là nghĩa như y túc. Nghĩa tăng thượng vượt hơn là nghĩa căn. Nghĩa không thể hủy hoại là nghĩa lực. Nghĩa giác biết là nghĩa giác chi. Nghĩa tìm cầu là nghĩa đạo chi.

Đã nói riêng về lý do của pháp giúp đạo. Nay sẽ nói riêng về lý do của giác chi, đạo chi. Vì sao gọi là giác chi? Vì giác nên gọi là giác chi hay vì giác chi nầy nên gọi là giác chi?

Nếu do giác nên gọi là giác chi, nghĩa là một thị sáu phi.

Nếu do giác chi nầy nên gọi là giác chi, nghĩa là sáu thị một phi.

Đáp: Nên nói rằng: Vì giác, nên gọi là giác chi.

Hỏi: Nếu vậy thì một thị, sáu phi?

Đáp: Các pháp nầy đều là phần của pháp kia, đều thuận theo thế dụng vượt hơn của pháp kia, nên gọi là giác chi.

Lại có người nói: Do giác chi nầy nên gọi là giác chi.

Hỏi: Nếu vậy thì sáu thị, một phi?

Đáp: Trạch pháp giác chi là giác, là giác chi. Các còn lại chỉ là giác chi.

Vì sao gọi là đạo chi? Vì tìm kiếm mong cầu nên gọi là đạo chi. Hay vì chi mong tìm cầu kiếm nầy nên gọi là đạo chi? Nếu do sự tìm kiếm, mong cầu nên gọi là đạo chi thì một thị, bảy phi. Nếu do chi tìm kiến mong cầu nầy nên gọi là đạo chi thì bảy thị một phi?

Đáp: Nên nói như thế nầy: Vì tìm kiếm, mong cầu nên là đạo chi.

Hỏi: Nếu vậy thì một thị, bảy phi?

Đáp: Các pháp nầy đều là phần của pháp kia, vì thuận theo thế dụng vượt hơn của pháp kia, nên gọi là đạo chi.

Lại có người nói: Vì chi tìm kiếm, mong cầu nên gọi là đạo chi.

Hỏi: Nếu vậy thì bảy thị, một phi?

Đáp: Chính kiến là sự tìm cầu, là chi tìm cầu. Pháp còn lại là chi tìm cầu. Như trạch pháp giác chi là giác, là giác chi. Như chánh định là thiền, là thiền chi. Không ăn phi thời là trai, là trai chi. chánh kiến cũng giống như thế, là tìm cầu, là chi tìm cầu.

Đã nói riêng về lý do của pháp giúp đạo. Nay sẽ tìm kiếm thứ lớp của pháp giúp đạo kia:

Vì sao trước nói bốn niệm xứ, cho đến nói tám đạo chi?

Đáp: Vì thuận theo pháp thứ lớp của lời nói.

Lại nữa, vì Phật nói tức là thuận theo để người hỏi dễ thọ.

Lại nữa, bốn niệm xứ như mắt thấy, các pháp giúp đạo khác như kẻ mù lòa. Không để cho rơi vào chỗ không như pháp như đám người mù có mắt để dẫn đường, không lạc vào phi đạo. Bốn niệm xứ kia cũng giống như thế.

Lại nữa, niệm xứ có thể phân biệt rõ, về pháp của tướng chung, tướng riêng, phá trừ cái ngu về vật thể, phá bỏ cái ngu trong duyên, nhận lấy thật tướng của pháp không để cho thêm bớt.

Lại nữa, niệm xứ từ địa của giác ban đầu, cho đến thế dụng của tận trí, trí vô sinh thường vượt hơn chánh dứt. Từ pháp Noãn trở lên với thế dụng thường vượt hơn như ý túc. Từ pháp Đảnh trở lên với thế dụng thường vượt hơn năm căn. Từ pháp Nhẫn trở lên, với thế dụng thường vượt hơn năm lực. Từ pháp Thế đệ nhất trở lên rhế dụng thường vượt hơn. Đạo chi vượt hơn trong kiến đạo. Giác chi vượt hơn trong tu đạo.

Hỏi: Vì sao đạo chi vượt hơn trong kiến đạo, còn giác chi vượt hơn trong tu đạo?

Đáp: Nghĩa đi là nghĩa đạo. Vì trong kiến đạo đi là rất nhanh chóng. Giác là nghĩa giác chi. Có chín thứ giác trong tu đạo thường giác.

Hỏi: Nếu trong kiến đạo là đạo chi, trong tu đạo là giác chi, thì vì sao Đức Thế tôn trước nói giác chi sau nói đạo chi?

Đáp: Vì Phật thuận theo vào pháp thứ lớp của lời nói.

Lại nữa, Phật nói tức thuận theo để người hỏi dễ lãnh thọ.

Lại nữa, vì muốn xoay vần thêm một chi, nên trước nói bốn pháp, kế nói năm, bảy, tám pháp.

Lại nữa, vì muốn pháp xuất ly dần dần hiện bày, xoay vần tăng thêm lợi ích.

Đã nói chung thứ lớp của pháp giúp đạo. Nay sẽ nói riêng thứ lớp của mỗi giác chi, đạo chi.

Vì sao trước nói niệm giác chi, sau mới đến xả giác chi?

Đáp: Vì thuận theo pháp thứ lớp của lời nói.

Lại nữa, Phật nói thì thuận theo để người hỏi dễ thọ.

Tôn giả Cù-sa nói: Người đã kiến đế, nghĩ nhớ đến năng lực của pháp sở đắc trước kia, có thể tu đầy đủ giác chi, nên Đức Phật trước nói niệm giác chi. Như Kinh nói: Người tu hành chánh quán pháp nầy, nhớ lại hiện ở trước, không sinh ngu si, mê lầm, có thể tu đầy đủ niệm giác chi, vì sức nhớ lại nên đối với pháp có thể phân biệt, chọn lựa, tính, lường, có thể tu đầy đủ trạch pháp giác chi. Do đối với pháp có thể lựa chọn, phân biệt, trù lượng, tức hành tinh tiến nên có thể tu đầy đủ tinh tiến giác chi.

Vì đã thực hành tinh tiến, nên có thể sinh vui mừng của vị không xen lẫn, có thể tu đầy đủ hỷ giác chi. Do hỷ, nên thân tâm vui khinh an (ỷ), có thể tu đầy đủ khinh an giác chi. Vì có niềm vui của định khinh an, nên tâm định, có thể tu đầy đủ định giác chi. Vì tâm định nên lìa tham, lo, trụ ở xả, nên có thể tu đầy đủ xả giác chi.

Hỏi: Vì sao trong đạo chi, Đức Thế tôn nói chánh kiến trước, sau nói chánh định?

Đáp: Vì thuận theo vào pháp thứ lớp của lời nói.

Lại nữa, Phật nói thuận theo để người nghe dễ thọ.

Tôn giả Cù-sa nói: Người đã kiến Đế, do chánh kiến nên có thể tu đạo chi. Như nói: Do chánh kiến, nên có thể tu Đao Chi. Như nói: Do chánh kiến nên có thể sinh chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định.

Đã nói thứ lớp của giác chi, đạo chi. Nay sẽ nói về Địa, là những Địa nào? Và có bao nhiêu pháp giúp đạo?

Đáp: Thiền Vị chí có ba mươi sáu, trừ hỷ. Sơ thiền có ba mươi bảy. Trung gian thiền có ba mươi lăm, trừ hỷ, chánh giác. Đệ Nhị thiền có ba mươi sáu, trừ chánh giác. Đệ tam, đệ Tứ thiền có ba mươi lăm, trừ hỷ, chánh giác. Trong Vô sắc có ba mươi hai, trừ hỷ, chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Đã nói về Địa. Nay sẽ nói, lúc hiện ở trước, Địa nào có bao nhiêu pháp giúp đạo cùng lúc hiện ở trước?

Đáp: Dựa vào Thiền Vị chí có ba mươi sáu, cùng lúc hiện ở trước, có ba mươi ba, trừ ba niệm xứ. Vì sao? Vì mỗi sở duyên đều có khác, còn không thể khởi hai, huống chi là nhiều. Sơ thiền có ba mươi bảy, đã có ba mươi bốn pháp cùng lúc hiện ở trước, cũng trừ ba niệm xứ. Trung gian thiền có ba mươi lăm, đã có ba mươi hai pháp, cùng lúc hiện ở trước, cũng trừ ba niệm xứ. Như Trung gian thiền, đệ tam, đệ Tứ thiền cũng giống như thế. Đệ Nhị thiền có ba mươi sáu, có ba mươi ba pháp, cùng lúc hiện ở trước, cũng trừ ba niệm xứ. Trong Vô sắc có ba mươi hai, đã có hai mươi chín pháp hiện ở trước, cũng trừ ba niệm xứ.

Đã nói pháp giúp đạo hiện ở trước, nay sẽ nói về tướng giống nhau và khác nhau.

Nếu là giác chi thì cũng là đạo chi chăng?

Đáp: Hoặc là giác chi chẳng phải đạo chi, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

  1. Là giác chi, chẳng phải đạo chi, nghĩa là giác chi hỷ, khinh an, xả.
  2. Là đạo chi, chẳng phải giác chi, nghĩa là chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
  3. Là giác chi, cũng là đạo chi, nghĩa là các pháp giúp đạo khác, trừ tín.
  4. Không phải là giác chi, cũng chẳng phải đạo chi, đó là tín.Hỏi: Vì sao hỷ lập giác chi?

Đáp: Vì nghĩa của giác là nghĩa giác chi. Hỷ thì thuận theo giác chi.

Hỏi: Vì sao hỷ thuận theo giác chi?

Đáp: Nếu như thật giác về cảnh giới tức thì sinh hỷ. Nếu thường sinh hỷ, thì như thật giác về cảnh giới. Như người đào đất gặp được của báu. Vì được của báu nên lại đào nữa. Vì đào nữa, nên lại được của báu giác cảnh giới kia cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao hỷ không lập đạo chi?

Đáp: Vì nghĩa đi là nghĩa đạo chi, hỷ không thuận theo đi.

Hỏi: Vì sao hỷ không thuận theo với đi?

Đáp: Nếu thường hỷ thì trụ, chứ không đi. Như người đi trên đường, nếu thường dừng nghỉ thì muốn dừng lại, không đi. Hỷ kia cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao khinh an, xả lập giác chi?

Đáp: Nghĩa giác là nghĩa giác chi. Khinh an, xả thuận theo với giác chi!

Hỏi: Khinh an, xả thuận theo giác chi là sao?

Đáp: Nếu đối với tất cả việc đều được khinh an, xả thì sẽ có thể giác như thật về cảnh giới.

Hỏi: Vì sao khinh an, xả không lập đạo chi?

Đáp: Nghĩa đi là nghĩa đạo chi. Khinh an, xả không thuận theo đi!

Hỏi: Vì sao khinh an, xả, trái với tướng đi?

Đáp: Khinh an, xả, trái với tướng đi, như đi, đứng, ngủ, thức, hoàn toàn trái nhau. Khinh an, xả kia cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao chánh giác (chánh tư duy) lập đạo chi?

Đáp: Nghĩa đi là nghĩa đạo chi. Chánh giác có thể phát động chánh kiến, ra khỏi sinh tử, như người dùng gậy lùa bò, có chỗ đến. Chánh giác kia cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao chánh giác không lập giác chi?

Đáp: Vì tánh của chánh giác là phát động, tánh của giác chi thì vắng lặng.

Hỏi: Vì sao chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng được lập đạo chi?

Đáp: Nghĩa đi là nghĩa đạo chi. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là cái bầu giữa bánh xe đối với đạo.

Hỏi: vì sao chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng không lập giác chi?

Đáp: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là đạo chi, chứ chẳng phải đạo!

Lại nữa, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là không tương ưng, là không có dựa, không có hành, không có duyên. Giác chi thì lại trái với không tương ưng nầy.

Hỏi: Vì sao tín chẳng phải giác chi, đạo chi?

Đáp: Vì lúc mới nhập pháp, thế dụng của tín vượt hơn. Đã nhập pháp rồi thì tu giác chi, đạo chi.

Lại nữa, pháp xuất ly có đầy đủ, không đầy đủ. Pháp xuất ly đầy đủ nghĩa là có tướng của căn lực, giác, đạo. Trái với pháp nầy gọi là không đầy đủ. Nếu pháp xuất ly không đầy đủ, thì chỉ có tướng giác chi, vô tướng đạo chi, nghĩa là lập giác chi. Như hỷ, khinh an, xả. Nếu vô tướng giác chi, chỉ có tướng đạo chi thì lập đạo chi. Như chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Nếu đầy đủ pháp xuất ly thì sẽ có tướng của giác chi, đạo chi, nghĩa là lập ra giác chi, đạo chi, như các giác chi, đạo chi khác. Nếu không đầy đủ pháp xuất ly thì sẽ vô tướng của giác chi, đạo chi. Nghĩa là không lập ra giác chi, đạo chi, như tín chẳng hạn!

Hỏi: Vì sao không lập tâm làm pháp giúp đạo?

Đáp: Vì không có phần giúp đạo.

Lại nữa, tâm ở trong pháp xuất ly phiền não, đều có tác dụng của thế lực. Pháp giúp đạo ở trong pháp xuất ly, nghiêng về có thế dụng.

Lại nữa, tâm duyên với tướng chung, tướng riêng, còn pháp giúp đạo chỉ duyên với tướng chung!

Lại nữa, như phiền não, pháp số nầy chẳng phải tâm, pháp đối trị kia cũng vậy! Là pháp số chẳng phải tâm! Nếu nói như thế thì tâm định, gọi là định, tức là định trong pháp giúp đạo. Hỏi: Vì sao trong ba căn, hỷ căn lập pháp giúp đạo, còn lạc căn xả căn không lập pháp giúp đạo?

Đáp: Vì vô tướng giúp đạo nên không lập phần giúp đạo!

Lại nữa, việc làm của pháp giúp đạo rất mạnh mẽ, trong khi hai căn kia lại chậm lụt, việc làm không.

Lại nữa, lạc căn bị niềm vui khinh an che lấp. Xả căn bị hành xả che lấp, cho nên không lập pháp giúp đạo.

Hỏi: Vì sao Thánh chủng không lập pháp giúp đạo?

Đáp: Cũng có lập, như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Có ba mươi mốt pháp giúp đạo.

Hỏi: Tôi không hỏi người nói như thế?

Đáp: Pháp giúp đạo ở trong người tại gia, xuất gia có hai việc vượt hơn:

  1. Tâm trông mong vượt hơn.
  2. Thọ nhận Hành vượt hơn.

Thánh Chủng ở trong người xuất gia có hai việc vượt hơn: Một là tâm trông mong vượt hơn, hai là sự thọ hành vượt hơn.

Trong người tại gia có một việc vượt hơn, đó là tâm trông mong vượt hơn, chẳng phải thọ hành vượt hơn! Như Đế-thích ngồi trên các tòa hoa, có mười hai Na-do-tha thể nữ tự vây quanh, với sáu vạn thứ âm nhạc. Nếu trụ nơi Thánh chủng, chỉ có tâm trông mong mà không thọ hành như vua Tần Bà-la-la v.v… Trưởng giả Tu Đạt… cũng giống như thế.

Nếu nói rằng: Niềm vui dứt trừ là tinh tiến, tức là tinh tiến giác chi. Kinh Ba-già-la-na nói: Thế nào là niệm giác chi? Đáp: Đệ tử của Thánh, quán khổ là khổ, cho đến quán đạo là đạo, tương ưng với trí bất hoại. Vì sự nhớ lại Bồ-đề, thường nhớ lại, nhớ lại theo thứ lớp, thường không quên, không mất, gọi là vị tri dục tri căn.

Lại nữa, nếu đệ tử Thánh, thấy sự sanh tử tử là lỗi lầm, thấy Niếtbàn là tươi đẹp vượt hơn. Vì sự nhớ lại Bồ-đề, cho đến nói rộng là nói tri căn. A-la-hán quán tâm niệm giải thoát, là nói tri dĩ căn, cho đến xả giác chi cũng nói như thế.

Thế nào là chánh kiến?

Đáp: Nếu đệ tử bậc Thánh quán khổ là khổ, cho đến quán đạo là đạo thì đấy là quán sát, phân biệt có thể nhận lấy tướng khổ, tướng đạo đó. Giác minh kiến tuệ là nói vị tri dục tri căn. Nếu đệ tử bậc Thánh thấy sinh tử là lỗi lầm, thấy Niết-bàn là tốt đẹp thì đó là quán sát phân biệt, cho đến nói rộng, là nói tri căn. A-la-hán quán giải thoát tự tâm, là quán sát, phân biệt, cho đến nói rộng. Đó là nói tri dĩ căn, cho đến chánh định cũng nói như thế.

Hỏi: Vì sao trong giác chi nói là sự nhớ lại Bồ-đề, trong đạo chi lại không nói?

Đáp: Lẽ ra nói mà không nói nên biết thuyết nầy chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì muốn hiển bày văn khác, thuyết khác. Nếu dùng các thứ thuyết để trang nghiêm đối với nghĩa văn thì dễ hiểu hơn.

Lại nữa, vì muốn hiển bày hai môn, hai tóm lược, hai pháp nhập ban đầu, hai ảnh, hai thông đều có. Như trong giác chi, nói là nhớ lại Bồ-đề, trong đạo chi nói là chánh kiến Bồ-đề thì cũng vậy! Như trong đạo chi không nói là chánh kiến Bồ-đề, thì trong giác chi cũng vậy!

Lại nữa, trước nói rằng: Tận trí, trí vô sinh là Bồ-đề. Trong tu đạo, công dụng thế lực của giác chi vượt hơn. Tận trí, trí vô sinh gần với tu đạo, cho nên trong giác chi nói là Bồ-đề, chứ chẳng phải đạo chi. Kinh nói: Vì vắng lặng, vì lìa dục, vì Niết-bàn, nên tu quán bất tịnh, đều có niệm giác chi, cho đến xả giác chi.

Hỏi: Quán bất tịnh là hữu lậu, còn giác chi là vô lậu, vì sao hữu lậu, vô lậu đi chung?

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Trước là, dùng quán bất tịnh để cho tâm tùy theo sự điều hòa, chất trực, chịu đựng, tự tại. Kế là khởi giác chi hiện ở trước. Sau giác chi, kế đến lại khởi quán bất tịnh. Vì giác chi huân tập quán bất tịnh nên mới nói như thế, chớ chẳng phải hữu lậu, vô lậu đi chung!

Kinh Phật nói: Đệ tử bậc Thánh nhất tâm lắng nghe pháp, có thể dứt năm cái, tu đầy đủ bảy giác chi.

Hỏi: Như tâm định có thể dứt trừ kiết, chẳng phải tâm bất định, là y địa, chẳng phải năm thức thân.

Vì sao nói rằng: Nhất tâm lắng nghe pháp… cho đến nói rộng?

Đáp: Đó là nói pháp xoay vần cùng sinh. Nhĩ thức kế là sinh khởi y thức thiện. Ý thức thiện kế là sinh từ nghe sinh ý. Từ nghe sinh ý kế là sinh từ tư sinh ý. Từ tư sinh ý kế là sinh là từ sinh ý, do từ tu sinh ý mà dứt trừ phiền não.

Lại nữa, ở đây nói pháp nối tiếp nhau, thì y thức thiện nối tiếp với nhĩ thức thiện, có công năng tu dứt trừ phiền não, nên nói như thế.

Hỏi: Nếu đạo vô ngại có thể dứt trừ phiền não, nhưng không thể tu đầy đủ giác chi. Còn đạo giải thoát có thể tu đầy đủ giác chi, nhưng không thể dứt trừ phiền não chăng?

Đáp: Phật đã nói pháp tương cận, nên nói như thế.

Các pháp tương ưng với niệm giác chi, cũng tương ưng với trạch pháp giác chi chăng?

Đáp: Hoặc tương ưng với niệm giác chi, không tương ưng với trạch pháp giác chi, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Tương ưng với niệm giác chi, không tương ưng với trạch pháp giác chi. Đó là trạch pháp giác chi. Vì sao? Vì ba việc nên tự thể không tương ưng với tự thể.

Do hai tuệ không được cùng sinh.

Do thời gian trước, sau, không đi chung.

Do tất cả các pháp, trừ tự thể của chúng, làm duyên cho pháp khác.

2. Tương ưng với trạch pháp giác chi, chẳng phải niệm giác chi. Đó là niệm giác chi. Vì sao? Vì tìm cầu nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

3. Tương ưng với niệm giác chi và trạch pháp giác chi: là các pháp đều tương ưng với niệm giác chi, và trạch pháp giác chi. Thế là thế nào?

Đáp: Trạch pháp giác chi và niệm giác chi đi chung trong nhóm, đều trừ tự thể. Các pháp tương ưng khác của trạch pháp giác chi và niệm giác chi. Thế là thế nào? Đó là tám đại địa, mười đại địa thiện. Nếu ở địa có giác, có quán thì sẽ có giác, có quán và tâm chẳng phải tương ưng với trạch pháp giác chi và niệm giác chi. Nghĩa là các pháp tâm, tâm sở khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Trong đây thường nói tâm vô lậu. Lại, không có pháp khác là: Có pháp tâm, tâm sở hữu lậu khác, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành, tạo ra trường hợp thứ tư.

Như niệm giác chi và trạch pháp giác chi, niệm giác chi và giác chi tinh tiến, khinh an, định, xả. Chánh phương tiện, chánh định, cũng nói giống như thế.

Các pháp tương ưng với niệm giác chi thì cũng tương ưng với hỷ giác chi chăng? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp. Niệm giác chi trong tất cả địa, trong tất cả tâm vô lậu. Hỷ giác chi trong tất cả tâm vô lậu chứ chẳng phải tất cả địa! Cho nên tạo ra được một trong bốn trường hợp. Tương ưng với niệm giác chi chứ chẳng phải hỷ giác chi. Nghĩa là hỷ giác chi ở trong nhóm, tương ưng với niệm giác chi. Thể của hỷ giác chi tương ưng với niệm giác chi, không tương ưng với hỷ giác chi. Vì sao? Do ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể như trước đã nói: Pháp khác không tương ưng với hỷ giác chi, tương ưng với niệm giác chi. Điều đó là thế nào?

Đáp: Thiền Vị chí, thiền trung gian, đệ tam, đệ Tứ thiền trong ba Vô sắc. Pháp tương ưng với niệm giác chi, pháp đó không tương ưng với hỷ giác chi. Vì sao? Vì trong các địa kia, không có hỷ, tương ưng với hỷ giác chi, chẳng phải tương ưng với niệm giác chi.

*******

 

Niệm giác chi tương ưng với hỷ giác chi. Hỷ giác chi đều ở trong nhóm. Thể của niệm giác chi tương ưng với hỷ giác chi, không tương ưng với niệm giác chi. Vì sao? Vì ba việc nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

Cùng với niệm giác chi, cũng tương ưng với hỷ giác chi: Nghĩa là trừ sự tương ưng của niệm giác chi. Vì sao? Vì niệm giác chi kia có nhiều nên trừ đi. Và niệm giác chi, hỷ giác chi đi chung trong nhóm, là tự thể của niệm giác chi, hỷ giác chi. Các tâm sở khác đều tương ưng với cả hai. Pháp tương ưng kia là gì? Đó là tám đại địa, mười đại địa thiện, địa có giác quán thì có giác quán. Và tâm không tương ưng với hỷ giác chi, niệm giác chi, nghĩa là không tương ưng với hỷ giác chi niệm giác chi. Pháp không tương ưng đó là gì? Đó là thiền Vị chí, trung gian, đệ tam, đệ tứ, thể của niệm giác chi trong ba Vô sắc, không tương ưng với niệm giác chi. Vì sao? Vì ba việc nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

Cũng không tương ưng với hỷ giác chi. Vì sao? Vì trong các địa kia không có hỷ. Các pháp tâm, tâm sở khác, trong đây đều nói tất cả tâm vô lậu, lại vô dư, hữu dư, pháp tâm, tâm sở hữu lậu, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành, tạo ra trường hợp thứ tư.

Như niệm giác chi hỷ giác chi, niệm giác chi chánh kiến, chánh giác, cũng giống như thế.

Hỏi: Các pháp tương ưng với niệm giác chi, cũng tương ưng với chánh niệm chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Dù cho tương ưng với chánh niệm, cũng tương ưng với niệm giác chi chăng?

Đáp: Đúng vậy! Như niệm giác chi, thì giác chi trạch pháp, tinh tiến, khinh an, định, xả, chánh phương tiện (chánh tinh tiến), chánh niệm, chánh định, cũng nói như thế.

Các pháp tương ưng với trạch pháp giác chi, cũng tương ưng với chánh kiến chăng?

Đáp: Nếu pháp tương ưng với chánh kiến thì cũng tương ưng với trạch pháp giác chi.

Có pháp nào tương ưng với trạch pháp giác chi mà chẳng phải chánh kiến hay không?

Đáp: Có, chánh kiến đã không gồm nhiếp pháp tương ưng với trạch pháp giác chi. Pháp đó là gì? là pháp tương ưng với tận trí, trí vô sinh.

Các pháp tương ưng với tinh tiến giác chi thì cũng tương ưng với chánh phương tiện phải không?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu tương ưng với chánh phương tiện, thì cũng tương ưng với tinh tiến giác chi phải chăng Đáp: Đúng vậy!

Các pháp tương ưng với định giác chi, cũng tương ưng với chánh định phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu tương ưng với chánh định, thì cũng tương ưng với định giác chi phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Các pháp tương ưng với hỷ giác chi, cũng tương ưng với khinh an giác chi chăng?

Đáp:

1. Hoặc tương ưng với hỷ giác chi, không tương ưng với khinh an giác chi, cho đến tạo ra bốn trường hợp:

Hỷ đối với tất cả tâm vô lậu, không đối với tất cả địa.

Khinh an ở trong tất cả tâm vô lậu, cũng tồn tại đối với tất cả địa.

Tương ưng với hỷ giác chi, chẳng phải tương ưng với khinh an giác chi.

Khinh an giác chi tương ưng với hỷ giác chi.

Hỷ giác chi đều có trong nhóm, thể của khinh an giác chi tương ưng với hỷ giác chi, không tương ưng với khinh an giác chi. Vì sao? Vì ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

2. Tương ưng với khinh an giác chi, chẳng phải tương ưng với hỷ giác chi, đó là hỷ giác chi, khinh an giác chi đi chung trong nhóm. Thể của hỷ giác chi tương ưng với khinh an giác chi. Vì sao? Vì ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

Hỷ giác chi khác không tương ưng với pháp tương ưng của khinh an giác chi. Pháp ấy là gì? Đó là thiền Vị chí, thiền trung gian, đệ tam, đệ Tứ thiền trong ba Vô sắc.

Pháp tương ưng của khinh an giác chi tương ưng với khinh an giác chi, chẳng phải hỷ giác chi. Vì sao? Vì trong địa kia không có hỷ.

3. Tương ưng với hỷ giác chi, cũng tương ưng với khinh an giác chi, nghĩa là trừ khinh an giác chi, tương ưng với khinh an giác chi. Vì sao? Vì nhiều nên dứt trừ!

Khinh an giác chi hỷ giác chi đều có trong nhóm, trừ tự thể, các pháp tâm, tâm sở khác đều tương ưng với hai. Pháp đó là gì? Đó là chín đại địa, chín đại địa thiện. Ở địa có giác, có quán thì có giác, quán và tâm.

4. Chẳng phải tương ưng với hỷ giác chi, cũng chẳng phải tương ưng với khinh an giác chi, là hỷ giác chi không tương ưng khinh an giác chi. Pháp đó là gì? Là thiền Vị chí, thiền trung gian, đệ tam, đệ Tứ thiền trong ba Vô sắc. Thể của khinh an giác chi không tương ưng với hỷ giác chi. Vì sao? Vì trong địa đó không có hỷ, nên cũng không tương ưng với khinh an giác chi. Vì sao? Vì ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

Các pháp tâm, tâm sở khác, trong đây đều nói tất cả là tâm vô lậu. Lại tâm hữu lậu, pháp tâm sở, hữu dư vô dư, cũng sắc vô vi, Tâm Bất Tương Hành. Các pháp như thế v.v… không tương ưng với hỷ giác chi, cũng không tương ưng với khinh an giác chi. Như hỷ giác chi và khinh an giác chi, hỷ giác chi và xả giác chi, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, cũng nói giống như thế.

Các pháp tương ưng với hỷ giác chi, cũng tương ưng với chánh kiến chăng? Hỷ ở trong tất cả tâm vô lậu, không ở nơi tất cả địa. Chánh kiến ở trong tất cả địa, không tồn tại trong tất cả tâm vô lậu, cho nên được lập ra bốn trường hợp lớn:

1. Tương ưng với hỷ giác chi, chẳng phải chánh kiến: nghĩa là chánh kiến tương ưng với hỷ giác chi.

Hỷ giác chi đi chung trong nhóm. Thể của chánh kiến tương ưng với hỷ giác chi, không tương ưng với chánh kiến. Vì sao? Vì ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

Chánh kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của hỷ giác chi. Pháp đó là gì? Là tận trí, trí vô sinh trong Sơ thiền, đệ Nhị thiền. Pháp tương ưng của hỷ giác chi đi chung trong nhóm. Không tương ưng với chánh kiến. Vì sao? Vì là nhóm của người khác.

2. Tương ưng với chánh kiến, chẳng phải hỷ giác chi, nghĩa là hỷ giác chi tương ưng với chánh kiến. chánh kiến đi chung trong nhóm. Thể của hỷ giác chi tương ưng với chánh kiến, không tương ưng với hỷ giác chi. Vì sao? Vì ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

Hỷ giác chi không tương ưng với pháp tương ưng của chánh kiến. Pháp ấy là gì? Đó là thiền Vị chí, thiền trung gian, đệ tam, đệ Tứ thiền trong ba Vô sắc.

Pháp tương ưng của chánh kiến không tương ưng với hỷ giác chi, vì trong địa kia không có hỷ.

3. Tương ưng với hỷ giác chi, cũng tương ưng với chánh kiến: Trừ chánh kiến tương ưng với hỷ giác chi, trừ hỷ giác chi tương ưng với chánh kiến, còn lại là các pháp tâm, tâm sở khác. Pháp đó là gì? Đó là tám đại địa, mười đại địa thiện. Ở địa có giác, có quán thì có giác, quán và tâm.

4. Không tương ưng với hỷ giác chi, cũng không tương ưng với chánh kiến, nghĩa là chánh kiến không tương ưng với hỷ giác chi. Pháp đó là gì? là thiền Vị chí, thiền trung gian, đệ tam, đệ Tứ thiền trong ba Vô sắc. Thể của chánh kiến không tương ưng với hỷ giác chi. Vì sao? Vì trong địa kia không có hỷ. Không cùng với tương ưng chánh kiến. Vì sao? Vì ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói. Hỷ giác chi không tương ưng với chánh kiến. Pháp ấy là gì? Là Sơ thiền, đệ Nhị thiền, tận trí, trí vô sinh đều có trong nhóm. Thể của hỷ giác chi không tương ưng với chánh kiến. Vì sao? Vì là nhóm của người khác.

Không tương ưng với hỷ giác chi. Vì sao? Vì ba việc, nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói. Tâm, pháp tâm sở khác, pháp đó là gì? Là thiền Vị chí, thiền trung gian, đệ tam, đệ Tứ thiền trong ba Vô sắc. Tận trí, trí vô sinh đều có trong nhóm. Tâm, pháp tâm sở hữu lậu, sắc vô vi, tâm bất tương ưng hành. Như hỷ giác chi và chánh kiến, hỷ giác chi với chánh giác, chánh giác đối và chánh kiến, cũng nói giống như thế.

Thế nào là chánh kiến thế tục? Thế nào là chánh trí thế tục?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Luận trước là căn bản cho việc soạn luận nầy. Luận trước đã nói: thế nào là kiến? Thế nào là Trí? Thế nào là tuệ? Mà không nói: Thế nào là chánh kiến thế tục? Thế nào là chánh trí thế tục?

Do luận trước là phần căn bản để tạo nên luận nầy. Nay vì muốn phân biệt rộng nên soạn luận nầy.

Lại có người nói: Sở dĩ soạn luận nầy vì hoặc có người nói: Tuệ thiện tương ưng với ý thức không hoàn toàn là tánh của kiến, như Phái Thí dụ giả nói. Thuyết đó là gì? Đó là kế năm thức sinh tâm con người có thể khởi nghiệp thân, miệng, khi chết!

Hỏi: Vì sao thuyết kia nói kế năm thức sinh chẳng phải tánh kiến? Như năm thức không thể phân biệt được tính cách sinh theo thứ lớp kia, ý thức cũng không thể phân biệt, làm sao có thể khởi nghiệp thân, miệng chẳng phải tánh kiến?

Đáp: Vì hành của kiến ở bên trong, hành của thân, miệng là ở bên ngoài.

Vì sao tâm lúc chết chẳng phải kiến?

Đáp: Do kiến có thế lực, còn tue kia, yếu kém.

Hỏi: Phái Thí dụ giả đã nói như thế, vậy làm sao hiểu được Kinh Phật? Như nói: Lúc người sắp chết, pháp tâm, tâm sở thiện đi chung với chánh kiến?

Đáp: Người kia nói rằng: Phật nói: Khi người chết, tâm nối tiếp nhau trước kia chứ chẳng phải tâm lúc chết.

Vì ngăn dứt ý của người nói như thế, cũng nói ý là hết thảy tuệ thiện hữu lậu tương ưng với y thức, đều là tánh của kiến nên soạn luận nầy!

Thế nào là chánh kiến thế tục?

Đáp: Là tuệ thiện hữu lậu tương ưng với ý thức. Thế là thế nào? Nghĩa là tương ưng với giác bất tịnh, niệm An-na-ban-na, niệm xứ, tương ưng với pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất, tương ưng với thiền Vô lượng, giải thoát, thắng xứ, Nhất thiết xứ. Chánh kiến thế tục, đa số như đối với nước bốn biển, trong đây, nói sơ lược về phần thô!

Thế nào là chánh trí thế tục?

Đáp: Tuệ thiện hữu lậu tương ưng với ý thức.

Nói thế là thế nào?

Đáp: Tương ưng Giác bất tịnh, cho đến chánh trí thế tục, thường như đối với nước bốn biển lớn. Và năm thức tương ưng với tuệ thiện. Nói như thế là sao? Nhãn thức thiện tương ưng, cho đến tương ưng thân thức thiện. Nhãn thức thiện tương ưng với tuệ. Điều nầy là thế nào?

Đáp: Như thấy cha mẹ, Phật, Bích-chi Phật, Thanh văn và những

chỗ tôn trọng thì sinh khởi tuệ tương ưng với nhãn thức thiện, nhĩ thức thiện. Việc nầy thế nào?

Đáp: Như nghe lời nói của Phật, lời nói của cha mẹ, lời nói ở những chỗ tôn trọng thì sinh khởi nhĩ thức thiện! Ba thức thiện khác, người thường chẳng thể khởi được, chỉ trừ người tu hành, quán đoàn thực, là có khả năng khởi ba thức thiện.

Đã nói thể tánh, nay sẽ nói về sự giống nhau khác nhau.

Nếu là chánh kiến thế tục, cũng là chánh trí thế tục chăng?

Đáp: Nếu là chánh kiến thế tục, thì cũng là chánh trí thế tục.

Có khi nào chánh trí thế tục, chẳng phải chánh kiến thế tục hay không?

Đáp: Có! Đó là năm thức tương ưng với tuệ thiện.

Chánh kiến thế tục gồm nhiếp chánh trí thế tục, hay chánh trí thế tục gồm nhiếp chánh kiến thế tục?

Đáp: Chánh trí thế tục gồm nhiếp chánh kiến thế tục, chẳng phải chánh kiến thế tục gồm nhiếp chánh trí thế tục. Không gồm nhiếp những gì? Đó là năm thức tương ưng tuệ thiện.

Nếu thành tựu chánh kiến thế tục, thì có thành tựu chánh trí thế tục phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu thành tựu chánh trí thế tục, thì có thành tựu chánh kiến thế tục phải chăng?

Đáp: Đúng vậy!

Ai là người thành tựu chánh kiến thế tục, chánh trí thế tục?

Đáp: Người không dứt căn thiện. Nói chung, là những người không dứt căn thiện nhưng có nhiều ít.

Hoặc có người chỉ thành tựu trí thiện kiến cõi Dục, hoặc có người chỉ thành tựu cõi Sắc. Hoặc có người chỉ thành tựu cõi Vô sắc. Hoặc có người thành tựu cõi Dục, cõi Sắc. Hoặc có người thành tựu cõi Sắc, cõi Vô sắc. Hoặc có người thành tựu kiến, Trí cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Do việc nầy, nên nói chung là người không dứt căn thiện, nhưng có ít, nhiều.

Hỏi: Nếu dứt chánh kiến của thế tục, thì cũng dứt chánh trí của thế tục phải không?

Đáp: Đúng vậy!

Nếu dứt chánh trí của thế tục, thì cũng dứt chánh kiến của thế tục phải không?

Đáp: Đúng vậy!

Ai dứt chánh kiến, chánh trí thế tục?

Đáp: A-la-hán. Nói chung là A-la-hán. Người khác thì có ít nhiều. Nếu lìa dục của Vô sở hữu xứ, dứt chánh kiến, chánh trí của tám địa, cho đến lìa dục cõi Dục, chưa lìa dục Sơ thiền, dứt chánh trí, chánh kiến của một địa. Cho nên, tóm lại là nói A-la-hán, người khác thì có ít, nhiều!

Hỏi: Vì sao gọi là thế tục? Vì hủy hoại nên nói là thế tục, hay đó là chỗ đặt chân của tham nên nói là thế tục? Nếu do hủy hoại mà nói là thế tục, thì đạo vô lậu cũng hủy hoại, lẽ ra là thế tục? Nếu do đó là chỗ đặt chân của tham mà nói là thế tục, giận dữ, si mê cũng là chỗ đặt chân?

Đáp: Nên nói rằng: Do hủy hoại, nên nói là thế tục.

Hỏi: Nếu vậy thì đạo vô lậu cũng hủy hoại, vậy cũng là thế tục hay sao?

Đáp: Nếu sự hủy hoại tăng trưởng đối với hữu. Đạo vô lậu tuy có bị hủy hoại nhưng không tăng trưởng, đối với hữu chỉ khiến hữu tổn bớt!

Lại nữa, sự hủy hoại có thể làm cho Hữu nối tiếp nhau, sinh già bệnh chết nối tiếp nhau. Đạo vô lậu tuy bị hủy hoại, nhưng có thể dứt trừ Hữu, không khiến cho sinh già bệnh chết nối tiếp nhau.

Lại nữa, nếu sự hủy hoại là “đạo tích” của khổ, tập, là đạo tích của sinh già bệnh chết. Đạo vô lậu dù bị hủy hoại nhưng là diệt đạo tích của khổ, tập, diệt, đạo tích của sinh già bệnh chết.

Lại nữa, nếu sự hủy hoại là thân kiến, là xứ thuộc về chỗ duyên của ái sử, là chỗ đặt chân của tham giận si, là xứ có những cấu uế, độc hại, lỗi lầm cặn bã lẫn lộn gắn liền trong tánh của khổ, tập, đó là thế tục. Thánh đạo, trái với điều đó nên không gọi là thế tục.

Lại nữa, có người nói: Là chỗ đặt chân của tham nên nói là thế tục.

Hỏi: Nếu vậy thì cũng là chỗ đặt chân của các thứ giận dữ, si mê?

Đáp: Nếu nói là chỗ đặt chân của tham, thì cũng là chỗ đặt chân của giận, si.

Hỏi: Nếu thế tục là sự hủy hoại chăng?

Đáp: Có khi thế tục chẳng phải hủy hoại, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Là thế tục chẳng phải hủy hoại: Là hai lậu quá khứ, vị lai.

2. Là hủy hoại, chẳng phải thế tục: Là đạo đế hiện tại.

3. Là hủy hoại, cũng là thế tục: Là hai lậu hiện tại.

4. Chẳng phải hủy hoại, cũng chẳng phải thế tục: Tất cả pháp vô vi của đạo đế quá khứ, vị lai.

Kinh nói: Trưởng già Thức-Mật-Đề đến chỗ Phật, bạch Phật:

Bạch Đức Thế tôn! Nói người thế tục là sao?

Phật bảo Thức-Mật-Đề: Vì hủy hoại, nên nói là thế tục.

Lại hỏi: Những gì là hủy hoại?

Phật bảo Thức Mật Đề: Nhãn nhập là hủy hoại, cho đến ý nhập là hủy hoại.

Hỏi: Đức Thế tôn vì sao nói nhập là thế tục?

Đáp: Vì người được Phật hóa độ. Người được Phật hóa độ nên nghe nhập là thế tục, bèn được hiểu biết giác ngộ, nên Phật nói nhập là thế tục.

Hỏi: Hủy và hoại có gì khác nhau?

Đáp: Hủy là vô thường của khoảng sát-na. Hoại là vô thường lúc thân hoại.

Lại nữa, hủy là vô thường tế, hoại là vô thường thô.

Lại nữa, hủy là vô thường của pháp bên trong, hoại là vô thường của pháp bên ngoài.

Lại nữa, hủy là pháp số của chúng sinh, hoại là pháp số phi chúng sinh.

Thế nào là kiến vô lậu? Thế nào là trí vô lậu?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Luận trước là căn bản để soạn luận nầy. Luận trước đã nói: Thế nào là kiến? Thế nào là Trí? Thế nào là tuệ? Nhưng không nói rõ:

Thế nào là kiến vô lậu? Thế nào Trí vô lậu?

Vì muốn phân biệt rộng, nên soạn luận nầy.

Lại nữa, vì muốn nói về pháp đối trị gần, nên trước nói: Thế nào chánh kiến thế tục? Thế nào chánh trí thế tục? Pháp nào là đối trị gần của thế tục đó? Đó là kiến, Trí vô lậu! Nên soạn luận nầy.

Thế nào là kiến vô lậu?

Đáp: Là tuệ vô lậu khác không thuộc về tận trí, trí vô sinh. Tuệ vô lậu khác là pháp nào? Là tám nhẫn trong kiến đạo, tám trí của Hữu học, chánh kiến của Vô học.

Thế nào là trí vô lậu?

Đáp: Là tuệ vô lậu khác, trừ các nhẫn trong kiến đạo. Tuệ vô lậu khác đó là pháp nào? Là tám trí của Hữu học, Vô học.

Đã nói thể tánh của kiến trí, nay sẽ nói về sự giống nhau và khác nhau của kiến, trí:

Các kiến vô lậu là Trí vô lậu chăng?

Đáp: Hoặc là kiến vô lậu chẳng phải trí vô lậu, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Là kiến vô lậu, chẳng phải trí vô lậu: Là các nhẫn trong kiến đạo. Vì sao? Vì các nhẫn kia có tướng của kiến, vô tướng của trí.

2. Là trí vô lậu, chẳng phải kiến vô lậu: Là tận trí, trí vô sinh. Vì sao? Vì trí kia có tướng của trí, vô tướng của kiến.

3. Là kiến vô lậu, cũng là Trí vô lậu: Trừ các nhẫn trong kiến đạo, là tận trí, trí vô sinh, tue vô lậu khác.

Kiến, Trí kia là gì? Là tám trí của Hữu học, chánh kiến của Vô học. Vì sao? Vì kiến, trí kia là tướng của kiến, cũng là tướng của trí.

4. Chẳng phải là kiến vô lậu, cũng chẳng phải trí vô lậu: Trừ ngần ấy việc trên.

Nếu pháp đã lập, danh đã nêu, đã nói thì trừ đi. Ngoài ra, đối với pháp khác chưa lập, danh chưa xưng, chưa nói tạo ra trường hợp thứ tư. Pháp đó là gì? Là hành ấm, tạo ra bốn trường hợp nầy. Tất cả tuệ vô lậu tạo ra ba trường hợp. Có tướng của kiến, tướng của Trí, nghĩa là pháp khác có hành ấm, bốn ấm tương ưng, bất tương ưng và pháp vô vi tạo ra trường hợp thứ tư. Đó gọi là trừ ngần ấy việc trên. Sự gồm nhiếp cũng giống như thế.

Nếu thành tựu kiến vô lậu, thì có thành tựu Trí vô lậu phải chăng?

Đáp: Nếu thành tựu Trí vô lậu, cũng thành tựu kiến vô lậu.

Có khi nào thành tựu kiến vô lậu, mà chẳng phải Trí vô lậu chăng?

Đáp: Có, khi trụ trong khổ pháp nhẫn.

Hỏi: Về lý, nhất định câu hỏi là gồm nhiếp thành tựu chứ không nói về dứt.

Hỏi: Vì sao không nói dứt?

Đáp: Nếu nói mà đối với văn không rườm rà thì nói. Tôn giả Cachiên-diên-tử kia, cho đến một sát-na cũng không xả để tạo ra văn phân biệt. Nếu chỗ đã nói đối với văn thêm rườm: Như nước bốn biển, văn nghĩa đều nói sơ lược.

Lại nữa, do cấu uế nên phải dứt trừ. Pháp vô lậu không có cấu uế, nên không dứt.

Hỏi: Nếu pháp vô lậu không dứt, thì kinh Phật nói làm sao hiểu được? Như nói: Tỳ-kheo! Nếu các thầy đã hiểu pháp dụ về chiếc bè, thì pháp còn nên dứt huống chi chẳng phải pháp!

Đáp: Dứt có hai thứ:

  1. Dứt trừ ái.
  2. Dứt trừ xả.

Trong đây nói về xả dứt trừ xả. Pháp vô lậu dù không có dứt trừ ái mà vẫn có xả dứt. Vì có xả dứt nên nói: Các Tỳ-kheo! Xả bỏ Thánh đạo đã dứt hết lậu. Vì nhớ ơn, nên thường khởi Thánh đạo hiện ở trước, chịu khổ của các thứ thân, đó là khổ như nhức đầu v.v… Cho nên Đức Phật nói rằng: Tỳ-kheo nên biết, việc nên làm của Thánh đạo, ta đều đã làm xong, lẽ ra phải bỏ đạo nầy để vào Niết-bàn. Như người nương vào chiếc bè để sang sông, vì nhớ ơn nên đầu đội vai mang chiếc bè. Người khác bảo: nầy em trai! Việc chiếc bè nên làm đều đã làm xong. Nay em nên bỏ, tùy ý mà đi! Việc bỏ đạo vào Niết-bàn kia cũng giống như thế.

Thế nào là pháp? Thế nào là phi pháp?

Đáp: lời nói của nội đạo là pháp, lời nói của ngoại đạo là phi pháp. Pháp của nội đạo thuận theo nơi không, thuận theo vô ngã, thuận theo Niết-bàn. Pháp còn nên bỏ, huống chi là lời nói của ngoại đạo, khiến cho Hữu nối tiếp nhau, làm cho sinh, già, bệnh, chết tiếp nối nhau.

Lại nữa, khéo thọ trì danh, cú, vị, thân là Pháp, không khéo thọ trì là phi pháp. Khéo thọ trì danh, cú, vị, thân còn bỏ, huống chi không khéo thọ trì danh, cú, vị, thân?

Tôn giả Cù-sa nói: Khéo thọ trì kinh A-hàm, gọi là pháp, không khéo thọ trì gọi là phi pháp. Do tăng trưởng sinh tử nên phải bỏ, huống chi là phi pháp.

Tôn giả Ba-xa nói: Chánh quán là pháp, không chánh quán là phi pháp. Pháp của chánh quán hãy còn nên bỏ, huống chi là pháp không chánh quán!

Lại nữa, hổ thẹn là pháp, không biết hổ thẹn là phi pháp. Ba căn thiện là pháp, ba căn bất thiện là phi pháp. Bốn niệm xứ là pháp, bốn điên đảo là phi pháp. Năm căn là pháp, năm cái là phi pháp. Sáu niệm là pháp, sáu ái thân là phi pháp. Bảy giác chi là pháp, bảy sử là phi pháp. Tám đạo chi là pháp, tám tà chi là phi pháp. Chín định thứ lớp là pháp, chín kiết là phi pháp. Mười nghiệp đạo thiện là pháp, mười nghiệp đạo bất thiện là phi pháp.

Các pháp như thế hãy còn nên dứt trừ huống chi là phi pháp.