SỐ 190
KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP
Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-quật-đa, người Ấn độ
Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh.

QUYỂN I

Phẩm 1: PHÁT TÂM CÚNG DƯỜNG

(Phần 1)

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, Đức Như Lai ngự tại tinh xá Trúc lâm, nơi chim Ca-lan-đà thường ở, thuộc thành Vương xá, cùng tất cả năm trăm vị đại Tỳ-kheo. Bấy giờ, Đức Như Lai trú trong hạnh Phật, không có phiền não, cho nên gọi là Bậc Chiến Thắng, chứng Nhất thiết trí, thực hành Nhất thiết trí, biết Nhất thiết trí, sống trong hạnh chư Thiên, Phạm hạnh và Thánh hạnh, tâm được tự tại, y như các Đức Thế Tôn muốn thực hiện các hạnh, hết thảy đều được thực hiện. Ngài ở trong bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, nhận nhiều sự cúng dường cung kính, tôn trọng. Lại ở trong các hàng: Quốc vương, đại thần, tể tướng, ngoại đạo, Bà-la-môn, Sa-môn… Đức Phật luôn luôn được bốn sự lợi dưỡng: Đồ ăn uống, y phục, giừờng chiếu, thuốc thang. Mọi thứ đều được đầy đủ, tốt đẹp, không ai sánh bằng!

Trí tuệ của Ngài là bậc nhất, danh tiếng vang khắp mọi nơi, tuy thọ lợi dưỡng mà tâm không mê đắm, cũng như hoa sen chẳng nhiễm nước bùn hôi. Âm thanh thuyết pháp của Thế Tôn được ngợi khen là hết sức siêu việt, ở trong thế gian không ai hơn. Đầy đủ mười hiệu: Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… như vậy.

Ngài thường xuât hiện trong các loài người và trời: Thiên ma, Phạm thiên, Đế Thích, Sa-môn, Bà-la-môn, do thần thông biết tất cả căn cơ, biết rồi mới thuyết diệu pháp. Ngài du hành trong thế gian, tất cả các thời, đều dùng lời nói khéo léo, trước, sau và giữa đều thiện, ngôn từ lưu loát, ý nghĩa sâu xa, tinh diệu. Ngài không thiếu một tướng tốt nào, phạm hạnh thanh tịnh, tuyên dương chánh pháp.

Bấy giờ, khi trời vừa tảng sáng, Tôn giả Mực-kiền-liên sửa y, bưng bình bát, sắp vào thành khất thực, Tôn giả đứng một mình thầm nghĩ: “Hiện còn quá sớm, chưa tới giờ khất thực, ta sẽ đến cõi trời Tịnh cư”. Tôn giả Mục-kiền-liên nghĩ như vậy rồi, ví như khoảng thời gian lực sĩ duỗi cánh tay, nơi thành Vương xá, tôn giả liền ẩn thân rồi bỗng nhiên xuất hiện nơi cung điện của chư Thiên cõi trời Tịnh cư.

Vào lúc ấy, vô lượng chư Thiên cõi trời Tịnh cư vừa thấy Tôn giả Mục-kiền-liên từ từ đi đến, liền rất vui mừng, mọi người nói với nhau: Chúng ta ngay bây giờ nên cùng đến nghinh đón Tôn giả. Rồi họ cùng nhau đến chỗ Tôn giả Mục-kiền-liên, đầu mặt đảnh lễ sát chân Tôn giả, lui đứng một bên, bạch:

-Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên, thật hy hữu! thật hy hữu!

Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên, ở trong thế gian khó thấy, khó gặp! Đó là chư Phật, Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp siêng tu các hạnh. Rồi nói kệ:

Ở trong trăm ngàn kiếp,
Siêng cầu đạo Bồ-đề
Qua nhiều kiếp đến nay,
Quý nhất trong chúng sinh,
Thế gian khố được gặp,
Đó là Phật, Thế Tôn.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, ở cõi trời Tịnh cư, nghe bài kệ này rồi, toàn thân rúng động, lông tóc dựng ngược, suy nghĩ: Thật hy hữu thay, không thể nghĩ bàn, khó thấy khó gặp! Đó là Đức Thế Tôn, Như Lai, Chánh Đẳng Chánh Giác, thế gian khó gặp, trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp chỉ xuất hiện một lần.

Tôn giá Đại Mục-kiền-liên ở cõi trời Tịnh cư, vì hàng chư Thiên nói vô lượng giáo pháp, chỉ dạy vô lượng pháp nghĩa thanh tịnh, diễn giải các pháp trọng yếu, sâu xa, khiến chư Thiên đều sinh tâm vui vẻ. Tôn giả giáo hóa chỉ bày các giáo pháp quan trọng rồi, liền ẩn thân trở về cõi Diêm-phù-đề, trong khoảng thời gian nháy mắt, như lực sĩ co duỗi cánh tay, Tôn giả đi đến thành Vương xá theo thứ tự khất thực, rồi trở về tinh xá Trúc lâm. Thọ trai xong, thâu cất y bát, rửa chân, tôn giả liền đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ nơi chân Thế Tôn, lui ra ngồi một bên, rồi hướng về Đức Phật trình bày mọi sự việc vừa qua: Thưa Thế Tôn, sáng sớm này trên đường đi tới thành Vương xá khất thực, nhân vì còn sớm nên con đi đến cõi trời Tịnh cư. Chư Thiên nói với con thế này: Như Lai, Thế Tôn ở trong thế gian thật khó thấy, khó gặp… Tôn giả bạch Đức Phật đầy đủ sự việc như trên.

Thưa Đức Thế Tôn, con chưa từng nghe những lời nói như vậy, thật khó nghĩ bàn. Đó là vấn đề chư Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp chỉ xuất hiện một lần.

Đức Phật bảo Tôn giả Mục-kiền-liên:

-Này Mục-kiền-liên, chư Thiên nơi cõi trời Tịnh cư nhìn không rộng, thấy không xa, do vì trí tuệ họ còn cạn cợt hạn chế, nên chỉ có thể biết những việc trong vòng trăm ngàn kiếp. Tại sao vậy?

Này Mục-kiền-liên, nhớ về quá khứ, Ta đã từng ở nơi vô lượng vô biên chư Phật vun trồng các căn lành, cho đến cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ về thời quá khứ khi làm Chuyển luân thánh vương, gặp được ba mươi ức Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Thích-ca Như Lai cùng chúng Thanh văn, Ta luôn vâng theo lời chỉ dạy, cung kính, tôn trọng, cúng dường bốn sự đầy đủ, là: Y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc thang. Lúc đó chư Phật đã thọ ký cho Ta: Ông ở đời vị lai sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Thế Gian Giải, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ về quá khứ làm Chuyển luân thánh vương, gặp tám ức chư Phật đều đồng một tôn hiệu, là Nhiên Đăng Như Lai cùng chúng Thanh văn. Ta cung kính, tôn trọng thực hành bốn Sự cúng dường, là: Y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc thang cùng lọng phướn, hoa hương. Lúc đó chư Phật đều đã thọ ký cho Ta: Ông sẽ thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Thế Gian Giải, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ làm Chuyển luân thánh vương, gặp ba ức chư Phật đều đồng một tôn hiệu, là Phất-sa Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường luôn được Ta thực hiện đầy đủ. Lúc đó chư Phật đều đã thọ ký cho Ta: Ông sẽ thành Phật… như nói ở trên.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, gặp chín vạn chư Phật đồng một tôn hiệu, là Ca-diếp Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ…, cho đến câu: đều thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật..Ể như nói ở trên.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, gặp sáu vạn chư Phật đồng một tôn hiệu, là Đăng Minh Như Lai cùng chúng Thanh văn, bôn sự cúng dường đều được Ta thực hiện đầy đủ…, cho đến câu: đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật như nói ở trên.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, từng cúng dường một vạn tám ngàn chư Phật đều đồng một tôn hiệu, là Ta-la vương Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hiện đầy đủ, sau đó mới xuất gia, và suy nghĩ: Ở đời vị lai Ta sẽ thành Phật, giữ gìn cấm giới. Lúc đó chư Phật đều thọ ký cho Ta, cho đến thành Phật… như nói ở trên.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, từng cúng dường một vạn Đức Phật, đều đồng một tôn hiệu, là Năng Độ Bỉ Ngạn Như Lai cùng chúng Thanh văn bốn sự cúng dường đều được Ta thực hiện đầy đủ, cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường một vạn năm trăm ngàn Đức Phật, đều đồng một tôn hiệu, là Nhật Như Lai và chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu: Đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường hai ngàn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Kiều-trần-như Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường sáu ngàn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Long Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường một ngàn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, tên là Tử Tràng Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ, cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường năm trăm Đức Phật, đồng một tôn hiệu, là Liên Hoa Thượng Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ… cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường sáu mươi bốn Đức Phật đều đồng một tôn hiệu, là Loa Kế Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được Ta thực hành đầy đủ… cho đến câu đều đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Phật.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, làm Chuyển luân thánh vương, đã từng cúng dường cho một Đức Phật, hiệu là Chánh Hạnh Như Lai cùng chúng Thanh văn, bốn sự cúng dường đều được ta thực hiện đầy đủ. Đức Phật này cũng đã thọ ký cho Ta sẽ được thành Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thế Gian Giải.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, đã từng cúng dường tám vạn tám ngàn ức Bích-chi-phật, nào phướn lọng hương hoa, bốn sự cúng dường đều được đầy đủ. Cho đến Đức Phật thuở ấy, sau khi diệt độ, Ta lại xây tháp cúng dường như trước, nên đã thọ ký cho Ta: Ông sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, có một Đức Phật hiệu là Thiện-Tư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, ở nơi Đức Phật này, Bồ-tát Di-lặc lần đầu tiên phát tâm trồng các căn lành, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy Bồ-tát Di-lặc thân làm Chuyển luân thánh vương, tên là Tỳ-lô-giá-na. Này Mục-kiền-liên, bấy giờ nhân loại thọ tám vạn tuổi. Này Mục-kiền- liên, hội thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật Thiện Tư có chín vạn sáu ngàn ức người chứng quả A-la-hán. Hội thuyết pháp thứ hai có tám vạn bốn ngàn ức người chứng quả A-la-hán. Hội thuyết pháp thứ ba có bảy vạn hai ngàn ức người chứng quả A-la-hán. Này Mục-kiền- liên, Chuyển luân thánh vương Tỳ-lô-giá-na, kia cúng dường Đức Phật Thiện Tư và chúng Thanh văn, cung kính tôn trọng, nào phướn lọng hoa hương, tứ sự luôn đầy đủ. Này Mục-kiền-liên, Chuyển luân thánh vương Tỳ-lô-giá-na, thấy Đức Như Lai này có đủ ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân và tám mươi vẻ đẹp, cùng chúng Thanh văn, cõi nước Phật trang nghiêm, với số tuổi thọ mạng, liền phát tâm Bồ-đề, tự nói: Thế Tôn ít có! Ta nguyện vào đời vị lai sẽ thành Phật đầy đủ mười tôn hiệu cũng như Đức Như Lai Thiện Tư ngày nay, được đại chúng Thanh văn, người trời cung kính, vây quanh nghe Phật thuyết pháp, kính tin, thọ trì vâng giữ, giống nhau không khác. Bồ-tát Di-lặc lại nói: Ta nguyện vào đời vị lai; vì tất cả chúng sinh tạo nhiều lợi ích, ban cho họ sự an lạc, thương xót tất cả trời người trong thế gian. Này Mục-kiền-liên, Bồ-tát Di-lặc phát tâm Bồ-đề trước Ta trên bốn mươi kiếp, rồi Ta sau này mới phát đạo tâm, trồng các căn lành, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Mục-kiền-liên, Ta nhớ thuở quá khứ, có một Đức Phật tên là Thị Hối Tràng Như Lai. Này Mục-kiền-liên, lúc ấy Ta làm Chuyển luân thánh vương tên là Lao-cung ở trong quốc độ của Đức Phật này. Lần đầu tiên phát tâm Bồ-đề, trồng các căn lành, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ Ta cúng dường Đức Phật Thế Tôn này và chúng Thanh văn mãn một ngàn năm. Thuở ấy Ta đem năm trăm bộ y phục tuyệt đẹp, cung kính tôn trọng lễ bái, tán thán cúng dường, tứ sự đều được đầy đủ. Cho đến sau khi Đức Phật này vào Niết-bàn, ta lại xây tháp cao một do-tuần, rộng nửa do tuần, dùng bảy thứ báu trang nghiêm để thờ xá-lợi.         Bảy thứ báu đó là: Vàng, bạc, pha lê, lưu ly, xa cừ, xích trân châu và mã não để trang hoàng. Lại đem các thứ cờ phướn lọng báu, chuông rung, hoa hương, đèn đuốc để cúng dường. Này Mục-kiền-liên, Ta bày biện các thứ cúng dường như vậy rồi, ngày đêm siêng năng tinh tấn phát nguyện rộng lớn: Vào đời vị lai Ta sẽ thành Phật, có những chúng sinh bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, ở trong tộc họ không biết kẻ lớn người nhỏ, kẻ xa người gần, không tâm kính tin, không tin nghiệp báo, nhân duyên ba đời, không tin hiện tại có Thánh nhân, không hành động theo đúng pháp, chỉ làm theo lòng tham dục, sân hận, ngu si, đầy mười điều ác, chỉ tạo nghiệp tạp nhiễm, không một điều lành, Ta nguyện sinh vào thế giới ấy, sẽ chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thương xót tất cả chúng sinh đó, thuyết pháp giáo hóa làm nhiều điều lợi ích cứu giúp họ, dùng sức từ bi cứu vớt họ ra khỏi bể khổ, đặt vào nơi an lạc. Rồi vì loài người và loài trời ở thế giới này, thuyết giảng nhiều Phật pháp. Này Mục-kiền-liên, chư Phật Như Lai vì chúng sinh mà tu tập những khổ hạnh ít có như vậy.

Này Mục-kiền-liên, chư Bồ-tát đều có bốn tánh hạnh vi diệu. Bốn tánh hạnh đó là gì? Một là Tự tánh hạnh; hai là Nguyện tánh hạnh; ba là Thuận tánh hạnh và bốn là Chuyển tánh hạnh.

Này Mục-kiền-liên, thế nào là Tự tánh hạnh? Nếu chư Bồ-tát, bản tánh từ xưa đến nay hiền lành, chất trực, vâng lời cha mẹ, tin kính Sa-môn, Bà-la-môn, ở trong tộc họ biết rõ kẻ lớn người nhỏ, kẻ gần người xa, biết rồi cung kính vâng thờ không thiếu sót, làm đủ mười điều lành, lại thực hành nhiều nghiệp thiện khác. Như vậy gọi là Tự tánh hạnh của Bồ-tát.

Thế nào là Nguyện tánh hạnh? Nếu chư Bồ-tát phát nguyện thế này: Ta ở vào thời kỳ nào đó sẽ thành Phật, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác đầy đủ mười tôn hiệu. Như vậy gọi là Nguyện tánh hạnh của Bồ-tát,

Thế nào là Thuận tánh hạnh? Nếu chư Bồ-tát thành tựu đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Sáu pháp đó là gì? Là Bố thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật. Như vậy gọi là Thuận tánh hạnh của Bồ-tát.

Thế nào gọi là Chuyển tánh hạnh? Như Ta cúng dường Đức Thế Tôn Nhiên Đăng, nhờ nhân duyên này, Ta đọc tụng kinh điển, hiểu biết Phật pháp. Như vậy gọi là Chuyển tánh hạnh của Bồ-tát.

Này Mục-kiền-liên, đó là bốn thứ tánh hạnh của Bồ-tát.

Bấy giờ, Đức Phật ngự tại khu lâm viên Kỳ-đà cấp cô độc thuộc nước Xá vệ, đã chứng Phật quả, sống trong hạnh Phật, đại khái như đã trình bày ở trên.

Khi Đức Phật thọ trai rồi, nhập định trong bảy ngày, nghĩ về chư Phật, Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác về thời quá khứ.

Sau bảy ngày, lúc ấy Tôn giả A-nan đến đảnh lễ nơi chân Đức Phật, lui về ngồi một bên, bạch:

-Thưa Đức Thế Tôn, Đức Như Lai thật hiếm có! Thân thể thanh tịnh, sắc diện tươi sáng, oai nghiêm. Như từ trước con đã từng chiêm ngưỡng, nhưng ngày nay tôn nhan càng tươi sáng khác thường, tăng thêm bội phần. Các căn của Thế Tôn hết sức vắng lặng, không biết Ngài nhập vào pháp chánh định nào, hay nghĩ về những pháp tướng gì?

Bấy giờ, Đức Như Lai bảo Tôn giả A-nan:

-Này A-nan, đúng như lời ông hỏi, Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc ở trong định nghĩ về chư Phật Như Lai nơi đời quá khứ, đã chứng đắc thần thông hết sức tự tại, muốn trụ một kiếp hay dưới một kiếp; hoặc nghĩ đến trí tuệ của trăm ngàn ức chư Phật, mà trí tuệ của Ta không hề bị ngăn ngại. Vì sao? Do vì Ta đã chứng đắc đầy đủ trí tuệ của chư Phật, qua đến bờ giải thoát.

Này A-nan, Ta chỉ trong thời gian một bữa ăn, hoặc trụ trong một kiếp hoặc dưới một kiếp, muốn trụ nơi định lâu hay mau, tùy ý tự tại không có cực nhọc. Vì sao? Vì Ta đã chứng được chánh định của chư Phật, qua đến bờ giải thoát. Trong các pháp Tam-muội, Tam-muội này là hơn hết.

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Ta nhớ nơi thời quá khứ, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Đế Thích Tràng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, hay vì tất cả chúng sinh làm nơi nương tựa, làm căn nhà Từ bi, khéo đem tình thương ban bố cho muôn loài, khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt đến chốn an lạcề Đức Phật này gồm đủ oai đức lớn, vô lượng thánh chúng vây quanh trước sau.

Này A-nan, Đức Như Lai Đế Thích Tràng này có năm trăm ức chúng Thanh văn, tất cả đều chứng quả A-la-hán, thọ mạng năm ngàn tuổi. Đức Phật Đế Thích-tràng này thọ ký cho một vị Bồ-tát kế tiếp sẽ thành Phật hiệu là Thượng Tràng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thượng Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tràng Tướng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tràng Tướng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Hỷ Tràng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Hỷ Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ- tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thập Tràng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thập Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nan Phục Tràng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Nan Phục Tràng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Minh Đăng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Minh Đăng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Minh Đăng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Minh Đăng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Kiến Lập Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Kiến Lập này lại thọ ký cho một vị Bồ- tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Kiến Lập Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Kiến Lập này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Tiên Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Long Tiên này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Tỷ Oai Đức Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô Tỷ Oai Đức này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thánh Sở Sinh Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Thánh Sở Sinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Diệu Thắng Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Diệu Thắng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tiên Thắng Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Tiên Thắng này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Ấn Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Phố An này, lại thọ ký cho một vị Bỗ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Dự Tướng Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Dự Tướng này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thượng Tộc Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thượng Tộc này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tự Cảnh Giới Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tự Cảnh Giới này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Đẳng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô Đẳng này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Câu-lưu-tôn Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Câu-lưu-tôn này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Quang Minh Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Đại Quang Minh này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Ly Ưu Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Ly Ưu này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Xả Hồng Thủy Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Xả Hồng Thủy này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Lực Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Đại Lực này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chí Bỉ Ngạn Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Chí Bỉ Ngạn này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhật Như Lai.

Này A-nan, Đức Nhật Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tịch Diệt Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tịch Diệt này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Chấn Thinh Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Đại Chấn Thinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tự Vương Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tự Vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Bảo Vương Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Bảo Vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Túc Vương Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Túc Vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vi Diệu Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Vi Diệu này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phạm Âm Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Phạm Âm này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Công Đức Sinh Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Công Đức Sinh này có bảy mươi ức đệ tử Thanh văn, tất cá đều chứng quả A-la-hán. Thọ mạng của Đức Phật này đủ bảy vạn tuổi. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế đủ ba ngàn năm.

Này A-nan, Đức Như Lai Công Đức Sinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Quán Như Lai.

Đức Phật Long Quán chứng đạo Bồ-đề rồi, vì tất cả chúng sinh trụ ở đời một kiếp.

Này A-nan, Đức Như Lai Long Quán này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Úy Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô úy Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Long Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiên Đức Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thiên Đức này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thân Phần Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thân Phần Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Tỷ Nguyệt Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô Tỷ Nguyệt này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhân Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Nhân Thượng này có một ngàn sáu trăm đệ tử Thanh văn, đều là A-la-hán.

Này A-nan, Đức Như Lai Nhân Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tử Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tử Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đa-già-la-thi-khí Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Đa-già-la-thi-khí này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Liên Hoa Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Liên Hoa Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Kiều trần-như Như Lai.

Này A-nan, có một trăm Đức Phật đồng danh hiệu với Đức Phật Kiều-trần-như này, đồng trụ trong kiếp Tiểu liên hoa, mỗi Đức Phật Kiều-trần-như đều có ba trăm ức chúng đệ tử Thanh văn, thảy là bậc A-la-hán. Mỗi Đức Phật này đều trụ ở đời ba trăm năm. Sau khi các Đức Phật diệt độ, chánh pháp cũng trụ thế ba trăm năm.

Này A-nan, Đức Như Lai Kiều-trần-như cuối cùng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chiên-đàn Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Chiên-đàn này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Minh Đăng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Minh Đăng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Lợi Ích Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Lợi ích này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Đức Như Lai.

Đức Phật Thiện Đức dùng Phật nhãn quán sát tất cả chúng sinh vì lòng thương xót họ không muốn cho Phật chủng bị gián đoạn, nên Ngài trụ thế một ngàn kiếp. Đức Phật Thiện Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác này có ba mươi hai ức na-do-tha chúng đệ tử Thanh văn, đều là bậc A-la-hán. Đức Như Lai Thiện Đức này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Minh Tinh Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Minh Tinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Hộ Thế Tri Túc Như Lai.

Đức Phật Hộ Thế Tri Túc này trải qua vô lượng na-do-tha kiếp sau đó mới thành Phật. Này A-nan, Đức Phật Hộ Thế Tri Túc này có hai mươi ức chúng đệ tử Thanh văn, đều là A-la-hán.

Này A-nan, Đức Như Lai Hộ Thế Tri Túc này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thi-khí Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Thi-khí này thành Phật vào kiếp Liên hoa. Trong số kiếp này có sáu mươi hai Đức Phật đồng hiệu là Thi-khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, kế tiếp nhau thành Phật.

Này A-nan, Đức Như Lai Thi-khí sau cùng, sau khi chứng quả Bồ-đề lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Xuất Sinh Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Xuất Sinh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác ấy, vì lòng thương xót tất cả chúng sinh, nên trụ ở đời giáo hóa mãn hai ngàn kiếp. Này A-nan, Đức Như Lai Xuất Sinh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Mục Như Lai.

Này A-aan, Đức Như Lai Thiện Mục này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thương Chủ Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thương Chủ này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Sinh Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Thiện Sinh Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thọ mạng rất ngắn, chỉ trụ ở đời một ngày. Ở trong khoảng thời gian ấy đã giáo hóa tám vạn bốn ngàn chúng Thanh văn, tất cả đều chứng A-la-hán.

Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Sinh ấy lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phạm Đức Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Phạm Đức này có ba mươi hai ức chúng đệ tử Thanh văn đều là bậc A-la-hán. Đức Phật Phạm Đức ấy sau khi nhập diệt, chánh pháp trụ ở đời mãn ba vạn năm.

Này A-nan, Đức Như Lai Phạm Đức này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thanh Liên Hoa Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thanh Liên Hoa này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thiện Kiến Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Thiện Kiến Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác này có ba ngàn ức chúng đệ tử Thanh văn, đều là bậc A-la-hán.

Này A-nan, Đức Như Lai Thiện Kiến này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Kiến Chân Đế Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Kiến Chân Đế này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Căn Như Lai.

Này A-nan, Đức Căn Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tử sắc Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tử sắc này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vị Tha Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vị Tha này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nam-đẩu-túc Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Nam-đẩu-túc này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Sa-la Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Sa-la này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chủ Lãnh Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Chủ Lãnh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Chủ Lãnh Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Đại Chủ Lãnh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Trí Thắng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Trí Thắng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Hiền Như Lai.


PHẦN 2

(Hán Tạng Quyển 2)

Này A-nan, Đức Như Lai Phổ Hiền này lại thọ ký cho một vị Bồ- tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nguyệt Như Lai.

Này A-nan, Đức Nguyệt Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phân-đà-lợi Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Phân-đà-lợi này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô cấu Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô cấu này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Chứng Ngã Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Chứng Ngã này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Vũ Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Đại Vũ này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Úy Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô Úy này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tự Quang Minh Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tự Quang Minh này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Đại Lực Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Đại Lực này lại thọ ký cho một vị Bồ- tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhật Như Lai.

Này A-nan, Đức Nhật Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thu Quang Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thu Quang này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhiệt Quang Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Nhiệt Quang này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tướng Như Lai.

Này A-nan, Đức Tướng Như Lai này, lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Tỷ Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô Tỷ này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thắng Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Thắng Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tướng Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tướng Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Ta-la vương Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Ta-la vương này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thân Thượng Như Laiệ

Này A-nan, Đức Như Lai Thân Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Xử úy Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô Xử Úy này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Hóa Như Lai.

Này A-nan, Đức Hóa Như Lai này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Tịch Định Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Tịch Định này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thắng Vương Như Lai.

Này A-nan, thuở Đức Phật Thắng Vương thành tựu đạo quả Bồ-đề nhằm vào đời Hiền kiếp, có ba trăm Đức Phật đồng một hiệu Thắng Vương. Này A-nan, Đức Phật Thắng Vương cuối cùng lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Nhất Thế Sự Kiến Như Lai.

Này A-nan, Đức Phật Nhất Thế Sự Kiến này có ba ức chúng đệ tử Thanh văn, đều là A-la-hán. Này A-nan, Đức Phật Nhất Thế Sự Kiến này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Vô Ưu Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Vô Ưu này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Long Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Long Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Diêm Phù Thượng Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Diêm Phù Thượng này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Ni-câu-đà Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Ni-câu-đà này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Quảng Tín Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Quảng Tín này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Cứu Thoát Như Lai.

Này A-nan, Đức Như Lai Cứu Thoát này lại thọ ký cho một vị Bồ-tát khác kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Thắng Thượng Như Lai.

Này A-nan, chư Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác này, mỗi mỗi vị theo thứ lớp chuyển tiếp thọ ký, cho đến vị Phật cuối cùng là Thắng Thượng, chính Ta đã vâng thờ, cúng dường tất cả chư vị.

Thế Tôn nói kệ:

Các Đấng Như Lai này
Đại Sư Tử Thích-ca
Dùng mắt Phật thanh tịnh
Nhìn thấy khắp tất cả
Trí Như Lai như vậy
Hạnh Phật khó nghĩ bàn.
Tất cả hàng trời người
Đều không thể biết được.
Nhân quả và trí Phật
Tướng các pháp rõ ràng.
Riêng cảnh giới chư Phật
Phàm phu không thể biết.
Bao nhiêu danh hiệu Phật
Thể hiện hạnh chư Phật.
Có tướng oai đức lớn
Dùng mắt Phật thấy khắp.
Như có người trí tuệ
Muốn cầu đạo Bồ-đề
Nên niệm danh hiệu Phật
Chẳng bao lâu thành Phật.

Tôn giả A-nan bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn, con đã từng nghe những gì từ kim khẩu của Phật nói ra, con gắng tâm ghi nhớ chẳng quên, đó là trí tuệ của chư Phật thông suốt, không bị chướng ngại, không ai sánh bằng… Bạch Thế Tôn, phải chăng trí tuệ của Như Lai thật sự nhận biết như vậy?

Thế Tôn bảo A-nan:

-Trí tuệ của Như Lai biết rõ tất cả. Cho nên sư hiểu biết của Như Lai không có chướng ngại. Như Lai muốn tạo ra cảnh giới rộng hẹp, nghĩ đến trí tuệ của chư Phật, mức độ rộng hẹp ấy đều được tùy ý.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan lại bạch Phật:

-Thưa Thế Tôn, cũng như Tôn giả A-ni-lô-đậu dùng Thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy được một ngàn thế giới. Còn như Thế Tôn nói: “Ta thấy vô biên thế giới”, nghĩa này như thế nào?

Lúc ấy Đức Phật im lặng. Tôn giả A-nan lại hỏi như vậy, cho đến lần thứ ba, sau đó Đức Phật mới trả lời.

Đức Phật bảo:

-Này A-nan, ông chớ đem trí tuệ của hàng Thanh văn để so sánh với trí tuệ của Như Lai! Vì sao? Ta nay dùng Thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt nhân gian, thấy trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật ở phương Đông, có các vị Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề, trồng các thiện căn. Hoặc thấy trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật ở phương Đông có vô lượng Bồ-tát được thọ ký.         Hoặc thấy trong hằng hà sa số cõi nước của chư Phật ở phương Đông có chư vị Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát. Hoặc thấy vô lượng Bồ-tất gần gũi nơi chư Phật, tu hạnh thanh tịnh, sau sinh lên cung trời Đâu-suất, giáng thần nhập vào thai mẹ. Hoặc thấy Bồ-tát đản sinh từ hông bên phải của Thánh mẫu. Hoặc thấy Bồ-tát sống cuộc đời đồng tử. Hoặc thấy Bồ-tát ở trong cung thị hiện thú vui năm dục. Hoặc thấy Bồ-tát bỏ ngôi Chuyển luân thánh vương, xuất gia tu đạo giải thoát. Hoặc thấy Bồ-tát hàng phục bốn thứ ma. Hoặc thấy Bồ-tát ngồi bên gốc cây Bồ-đề chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hoặc thấy Bồ-tát chứng đạo Bồ-đề rồi, thọ hưởng an vui giải thoát. Hoặc thấy có Bồ-tát thiền tọa tư duy hai thứ phân biệt. Hoặc thấy có Bồ-tát khi chuyển pháp luân. Hoặc thấy Bồ-tát khi vì chúng sinh xả bỏ thân mạng, sắp vào Niết-bàn vô dư. Hoặc thấy Bồ-tát sau khi nhập Niết-bàn, thời kỳ Chánh pháp và Tượng pháp trụ ở đời của mỗi vị xa gần, nhiều ít, lâu mau.

Này A-nan, Ta thấy hằng hà sa số chư Phật thành đạo trong các cõi nước Phật ở phương Đông như vậy, sau khi các ngài diệt độ, thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp đều qua hết. Như những nước của chư Phật ở phương Đông, các phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương phụ và phương trên phương dưới cũng lại như vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A-nan:

-Này A-nan, Ta nhớ thuở xa xưa trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, không thể dùng số để tính toán, không thể dùng lời nói để trình bày, lúc ấy, có một vị Chuyển luân thánh vương tên là Thiện Kiến, thống lãnh bốn phương, đem chánh pháp trị đời, dân chúng dưới sự cai trị của Chuyển luân thánh vương này đều được giàu có, an vui. Nhà vua không dùng các thứ hình phạt đánh đập, cũng không sát hại; chấm dứt cảnh binh đao, đem chánh pháp dạy dân. Này A-nan, kinh thành của vua Thiện Kiến đang ở tên là Diêm-phù-đàn. Thành này mặt Đông Tây rộng mười hai do tuần, bề mặt Nam Bắc rộng bảy do tuần. Này A-nan, thành Diêm-phù ấy thanh tịnh trang nghiêm, đẹp đẽ lạ thường, đều dùng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, lưu ly và pha lê trang trí. Ngoài thành lại có bảy lớp bờ thành khác, mỗi thành đều cao bảy tầm, dày ba tầm, có bảy lớp lan can bao quanh, đều được chạm trổ tinh vi, đẹp đẽ hết mực, ít có thành nào sánh bằng, cũng dùng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê cấu trúc. Hoặc lan can bằng vàng ròng, trụ cột bằng vàng ròng, bệ cửa sổ bằng bạc trắng. Hoặc lan can bằng bạc trắng, trụ cột bằng bạc trắng, bệ cửa sổ bằng vàng ròng. Hoặc lan can bằng pha lê, trụ cột bằng pha lê, bệ cửa sổ bằng lưu ly. Hoặc lan can bằng lưu ly, trụ cột bằng lưu ly, bệ cửa sổ bằng pha lê. Trong mỗi thành cửa bảy lớp thành này đều có bảy lớp hàng cây Đa-la báu, trong thành hàng bao quanh. Những cây này hoa quả phơi bày, cành lá sum suê, tươi tốt, thu hút người xem. Thân và rễ của nó đều bằng bốn thứ báu là vàng ròng, bạc trắng, lưu ly, pha lê. Cây Đa-la bằng vàng, rễ thân bằng vàng, cành lá bằng bạc, hoa quả bằng vàng. Cây Đa-la bằng bạc, rễ thân bằng bạc, cành lá bằng vàng, hoa quả bằng vàng. Hoặc cây Đa-la bằng pha lê, rễ thân bằng pha lê, cành lá bằng lưu ly, hoa quả bằng lưu ly. Hoặc cây Đa-la bằng lưu ly, rễ thân bằng lưu ly, cành lá bằng pha lê, hoa quả bằng pha lê.

Những cây Đa-la này đều có lưới giăng, trong khoảng không nơi lưới giăng ấy đều có treo linh báu. Những lưới treo và linh này, đều làm bằng bảy thứ báu, đó là: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, pha lê.

Ở bên ngoài những thành ấy, có bảy lớp hào vây quanh. Hào đó rất sâu, chứa đầy nước có đủ tám đặc tính ưu việt. Mặt hào phẳng lặng, trong hào có rất nhiều loài hoa quý, đó là: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen trắng lớn trải khắp trên mặt nước. Dưới đáy những hào này rải bằng cát vàng. Giáp vòng chung quanh bờ hào có lưới bằng bảy báu giăng bủa khắp nơi.

Này A-nan, thành Diêm-phù ấy, bốn mặt đều có mười sáu cửa. Các cửa thành đều làm bằng bốn chất liệu quý báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê và lưu ly. cửa bằng vàng thì cánh cửa bằng bạc, cửa bằng bạc thì cánh cửa bằng vàng. Hoặc cửa bằng pha lê thì cánh cửa bằng lưu ly, hoặc cửa bằng lưu ly thì cánh cửa bằng pha lê.

Các cửa thành này, mỗi mỗi cửa đều có một vọng đài canh gác, trước thềm nơi mỗi tầng lầu cao vút đều treo những bức lưới bằng bảo châu. Đài này cũng dùng bảy thứ báu trang hoàng tinh xảo đẹp đẽ, khiến người xem vô cùng thích thú.

Những cửa thành ấy đều có bảy lớp bình phong làm bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, đứng yên không lay động, trước khi mở hay đóng cửa, bức bình phong tỏa ra ánh sáng rực rỡ, dịu dàng dễ chịu. Các cửa thành này, bên ngoài trông thấy suốt từ xa. Như khi muốn mở thì có gió thổi cửa tự mở, lúc muốn đóng lại có gió thổi cửa tự đóng. Bảy lớp bình phong này khi gió thổi mở ra, cửa cửa tương xứng đều trông thấy thông suốt lẫn nhau. Khi muốn đóng cửa gió thổi tự đóng, bảy bình phong tự khép kín trở lại.

Này A-nan, bên trong thành Diêm-phù-đàn này có một ao lớn tên là Hoan hỷ. Ao này mặt Đông Tây rộng một do-tuần, mặt Nam Bắc rộng nửa do tuần. Bốn bờ ao có bốn bức tường gạch chạy dài ngay thẳng, tường được tô điểm bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, pha lê, lưu ly đẹp đẽ, trông rất vừa ý. Bốn mặt ao đều có đường đi được lát bằng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê và lưu ly, nền đường thẳng, phẳng, trông rất vừa ý. Vàng ròng lót đường thì bạc trắng làm thềm bệ. Bạc trắng lót đường thì vàng ròng làm thềm bệ. Lưu ly lót đường thì pha lê làm thềm bệ. Pha lê lót đường thì lưu ly làm thềm bệ. Trên vệ đường đều có vọng gác cũng được trang hoàng bằng bảy thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách và lưu ly hết sức đẹp đẽ. Bốn phía bờ ao đều có lan can, cũng dùng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê, lưu ly tổng hợp tạo thành, ngay ngắn chỉnh tề, hài hòa. Mặt ao phía Đông, lan can làm bằng vàng ròng, mặt ao phía Nam lan can làm bằng bạc trắng, mặt ao phía Tây làm bằng lưu ly, mặt ao phía Bắc làm bằng pha lê. Lan can làm bằng vàng ròng thì trụ làm bằng vàng ròng, bệ cửa sổ làm bằng bạc trắng. Lan can làm bằng bạc trắng thì trụ làm bằng bạc trắng, bệ cửa sổ làm bằng vàng ròng. Lan can làm bằng pha lê thì trụ làm bằng pha lê, bệ cửa sổ làm bằng lưu ly. Lan can làm bằng lưu ly thì trụ làm bằng lưu ly, bệ cửa sổ làm bằng pha lê.

Này A-nan, ao Hoan hỷ ấy có bảy hàng cây Đa-la bao bọc chung quanh, khoảng giữa các cây đều có lưới bằng bảy báu trang nghiêm bủa giăng. Khoảng giữa nơi các lưới đều có treo chuông rung báu. Bên ngoài hàng cây Đa-la có bảy lớp hào bao bọc, đều đặn, ngay ngắn. Trong ao Hoan hỷ có các loài hoa: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Trên bờ ao lại có các loài hoa sống trên đất, như: Hoa Chiêm-bà, hoa A-đa-mục-đa, hoa Bà-lợi-sư và hoa Kiền-đà bà-lợi-sư. Ao ấy chứa đầy nước có đủ tám đặc tính ưu việt, khi các loài chim khát nước, uống vào đều được bình yên. Đáy ao rải toàn cát vàng. Lưới bằng bảy thứ báu phủ khắp trên mặt ao, từng mắc lưới mềm mại, đẹp đẽ này đều treo các chuông rung quý.

Này A-nan, thành Diêm-phù ấy, đường sá đều bằng phẳng, ngay thẳng, hai bên vệ đường đều có cây Đa-la; nơi tàng cây Đa-la xen lẫn lưới giăng, khoảng giữa các mắc lưới đều treo chuông rung bằng bảy báu. Gió thoảng thổi động, các chuông rung bảy báu này phát ra âm thanh vi diệu khiến cho mọi người đều muốn nghe, tâm sinh hoan hỷ, giống như người đời trổi nhạc ngũ âm.

Này A-nan, tất cả dân chúng trong thành Diêm-phù này đều thuần lương, chánh trực, họ cùng thích vui đùa, không bao giờ tranh cãi. Nghe tiếng chuông reo bỗng nhiên hoan hỷ, ca múa vui chơi, lại không mơ tưởng về một âm nhạc nào khác.

Này A-nan, thành Diêm-phù ấy thường có nhiều thứ nhiều loại âm nhạc vi diệu, như là: tiếng chuông, tiếng trống, tiếng linh, tiếng ốc, tiếng đàn cầm, tiếng đàn sắt, đàn không hầu, tiếng còi, tiếng sáo, tiếng đàn tỳ-bà, tiếng đàn tranh, tiếng địch, đại thể là tất cả những âm thanh như vậy. Lại có vô lượng tiếng chim hót lảnh lót, như tiếng chim Sáo, chim Anh võ, chim Khổng tước, chim Câu-sí-la, chim Mạng mạng… vô lượng vô biên các loài chim như thế, phát ra âm thanh lạ thường, không lúc nào ngừng nghỉ.

Trên mặt đất đều tung rải các thứ hoa đẹp, như là: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và loại hoa sen trắng lớn, cùng các loài hoa được trồng trên đất liền.

Này A-nan, trong thành ấy không có những việc bất như ý, bức xúc làm khổ não. Tất cả tiện nghi đều đầy đủ, không có thiếu thôn, vật dụng dư giả, đồ ăn uống cũng vậy, đầy đủ các hương vị. Mọi nơi chốn nhà cửa đều đông đúc, không bỏ đất hoang, dân chúng với cuộc sống thịnh vượng, oai đức hiện rõ. Sự sinh hoạt trong thành này giống như thành A-la-ca của vua Tỳ-sa-môn ở phương Bắc không hơn không kém.

Này A-nan, trong thời gian này có một Đức Phật ra đời tên là Bảo Thể, đầy đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… Này A-nan, Đức Phật Bảo Thể trước khi chưa thành đạo, lúc còn là một vị Bồ-tát, thường thích tu hạnh thanh tịnh. Dân chúng trong thành này cũng Ưa tu hạnh thanh tịnh. Lúc đó, Đức Phật Bảo Thể ở ngoại ô thành Diêm-phù-đàn, vào một buổi sớm mai sắp vào xóm làng thôn ấp trong thành để khất thực, tức thì có ngàn vạn vô lượng chư Thiên giáng hạ xuống chỗ Đức Như Lai Bảo Thể, vây quanh hộ vệ cúng dường. Khi Đức Bảo Thể sắp vào thành, chân Ngài vừa bước đến cửa thành, thời dân chúng trong thành hết thảy đều nhờ oai lực thần thông của chư Thiên hộ trì, cho nên họ đều phát tâm cúng dường Đức Phật Bảo Thể. Nào quét dọn phẩn uế, rưới nước hoa và dùng hồ thơm tô trên mặt đất, trên mặt đường đầy những hoa quý, khắp mọi nơi đều đặt lư xông hương thượng diệu, đốt các thứ hương vô giá, các thứ cờ, lọng, phướn rợp cả mặt đường. Vô lượng vật dụng cúng dường như vậy để cúng dường Đức Phật Bảo Thể.

Thuở ấy, có một chàng trai thôn quê ở ngoài thành cùng với một người trong thành sắp kết hôn. Khi chàng ta vào thành, thấy quang cảnh thành ấp sao hôm nay trang nghiêm đẹp đẽ khác lạ, ít có trong đời, từ nhỏ đến giờ mắt chưa từng mục kích, trong tâm hết đỗi kinh ngạc, nên hỏi người trong thành: Thành này hôm nay tổ chức lễ hội gì?

Người trong thành trả lời cho kẻ thôn quê:

-Ở đây có Đức Như Lai xuất thế, tên là Bảo Thể Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong chốc lát, Ngài sẽ vào thành khất thực. Vì lý do đó nên đường sá trong thành đều được quét dọn rưới nước hoa, trang trí đẹp đẽ. Họ lại còn trình bày rõ ràng cho chàng trai nông thôn này về công đức vô lượng vô biên của Như Lai, cũng tán dương công Đức Phật gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác… lại ca ngợi công đức của Pháp bảo và xưng tụng công đức của Tăng bảo.

Chàng trai được nghe nói về công đức của Tam bảo, nên vui mừng vô lượng, bèn suy nghĩ: “Đức Thế Tôn Bảo Thể Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác là Bậc ít thấy ở đời, ta nay nên đến chỗ Đức Phật ấy.” Suy nghĩ như vậy rồi, chàng trai liền cùng với những người nơi các xóm làng, thành ấp chen nhau đến chỗ Đức Phật Bảo Thể. Khi đến nơi, lại suy nghĩ: “Nếu Như Lai là Bậc Nhất Thiết Trí tất biết được tâm ta, Ngài nên đối với ta bày tỏ lời an ủi chỉ dạy trước.”

Bấy giờ, Đức Phật Bảo Thể biết được tâm niệm của người nông thôn kia, nên trước nói lời an ủi, khiến người ấy vô cùng hoan hỷ. Thỏa mãn được ý nguyện của mình, anh ta liền thỉnh Đức Như Lai qua ngày hôm sau xin cúng dường và Đức Phật đã im lặng nhận lời.

Người nông thôn ấy được Đức Như Lai nhận lời thỉnh cầu của mình nên rất vui vẻ, vội trở về nhà để sắm các thức ăn uống.         Lúc này, trời Tứ Thiên vương, trời Phạm vương và Đế Thích… cùng đại chúng chư Thiên, đem theo các thứ phẩm vật nơi cõi trời đến chỗ của Đức Như Lai dâng hiến, cúng dường.

Khi ấy người nông thôn về đến nhà, đếm đó lo sắm sửa các thức ăn uống cao lương mỹ vị. Mọi thứ sắm đầy đủ rồi, vào sáng hôm sau, cho người quét dọn nhà cửa sạch sẽ, lấy hồ thơm tô lên mặt đất, lại dùng nước thơm rưới khắp mọi nơi, kế đến rải các thứ hoa tươi đẹp và trần thiết tòa ngồi, mọi việc chu toàn, liền cho người đi thỉnh Thế Tôn. Người nhà đến bạch Phật:

-Bạch Đức Như Lai, đã đúng giờ, xin Ngài quang lâm đến tệ xá của chúng con.

Sáng sớm hôm ấy, Đức Phật Bảo Thể đắp y, mang bình bát, cùng một ngàn ức chúng Tỳ-kheo Thanh văn, trước sau vây quanh cùng đến nhà thí chủ. Đến nơi, chư vị Tỳ-kheo theo thứ lớp an tọa.

Thí chủ thấy Đức Thế Tôn cùng đại chúng an tọa xong xuôi, liền tự tay mình bưng lấy các thứ ăn uống thượng diệu dâng cúng Đức Như Lai và bạch:

-Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Phật và chư Tỳ-kheo tăng tùy ý thọ dụng.

Đến khi Đức Phật và đại chúng thọ trai xong, vật dụng cúng dường dùng không hết, người chủ thầm nghĩ: “Thức ăn trăm vị này, Đức Phật và đại chúng dùng không hết, quyết định là do oai đức từ thần lực của Như Lai, khiến cho đồ ăn dư dật. Đồ ăn còn lại quá nhiều, ta nay có thể mời số người đến chiêm ngưỡng Như Lai hiện có, thết đãi họ những thức ăn này, như vậy thì tâm ta mới hoàn toàn vui vẻ”.

Rồi lại nghĩ tiếp: “Pháp Phật không thể nghĩ bàn, thật ít có, ít có thay! Nhờ đại lực từ oai thần của Đức Phật Bảo Thể, khiến cho quyến thuộc của ta không mời mà họ tự đến giúp đỡ. Ta cũng chưa từng nhờ cậy một người nào, lại không tốn nhiều công sức, mà mọi sự việc cùng một lúc đều được chu toàn”.

Khi Đức Phật Bảo Thể thọ trai xong, tùy theo căn cơ của thí chủ mà thuyết pháp, khiến người nghe hoan hỷ sinh tâm chưa từng có. Đức Như Lai lại đưa người ấy hội nhập với Chánh pháp, cả đại chúng nghe pháp thảy đều vui mừng, có người chứng được đạo quả. Rồi Đức Phật rời khỏi nhà trai chủ trở về tinh xá.

Khi người nông thôn, lãnh hội được giáo pháp rồi, tâm rất vui mừng, phát lời thề rộng lớn: Nguyện đời vị lai ta cũng giống như Đức Như Lai Bảo Thể, chứng đức đầy đủ tất cả pháp! Lại nguyện: Ta ở trong đại chúng thuyết pháp như vậy, khiến cho thính giả nghe một cách hoan hỷ. Cũng như hôm nay, Đức Thế Tôn Bảo Thể giáo hóa chúng Tỳ-kheo an vui tu tập không khác.

Sau khi người nông thôn đem tâm chí thành tôn trọng cung kính cúng dường Như Lai rồi, theo Phật về tinh xá, cạo bỏ râu tóc xả tục xuất gia, được trao giới Tỳ-kheo.

Bấy giờ Đức Như Lai Bảo Thể vì chúng sinh trụ thế thuyết pháp, hạnh nguyện viên mãn mới nhập Niết-bàn. Sau khi Phật vào Niết-bàn, vô lượng vô biên đại chúng trời, người làm lễ trà-tỳ thân Phật, lại đem vô lượng vật dụng quý giá đến chỗ hỏa táng thiết lễ cúng dường.

Lúc ây, Tỳ-kheo nông thôn vừa nghe Như Lai nhập Niết-bàn, nên hết sức buồn rầu, thầm nghĩ: “Ta nay phải đi đến chỗ làm lễ trà-tỳ, hoặc đến đó sẽ được phép lạ chăng?” Thầy Tỳ-kheo ấy vội vã đến chỗ làm lễ trà-tỳ, vừa đến nơi, liền được viên ngọc quý lạ, nhưng viên ngọc ấy không được sạch, vì bị bao phủ một ít bụi.

Bấy giờ Tỳ-kheo lau sơ viên ngọc thử xem, liền biết nó là viên ngọc chân lưu ly thanh tịnh, giá trị đến vài trăm ngàn lượng vàng. Viên ngọc ma-ni để chỗ nào thì ở đó ban đêm cũng sáng như ban ngày, tất cả phòng xá, đền đài đều được soi tỏ.

Lúc này trời người thâu xá-lợi của Phật rồi, xây tháp phụng thờ. Tỳ-kheo nông thôn thầm nghĩ: “Ta nay nên dùng viên ngọc ma-ni thay cho chiếc bình bằng ngọc, đem đặt trên đỉnh của bảo tháp.” Suy nghĩ như vậy rồi, khi đến bảo tháp, vị ấy lại nghĩ: “Viên bảo châu ma-ni của ta giá trị đến trăm ngàn lượng vàng, ta nay đem nó đặt trên bảo tháp, vì Đức Như Lai là Bậc Thầy tôn quý của ta.

Dù ánh sáng của viên ngọc ma-ni tỏa chiếu trên ngọn bảo tháp vô lượng ngàn năm, mà vị Tỳ-kheo đó lại còn thắp sáng vô lượng ngọn đèn để tôn kính cúng dường tháp báu đủ một ngàn năm. Mãn thời gian ấy, tâm thường không lãng quên, luôn giữ chánh định niệm Phật. Vị Tỳ-kheo do trì giới thanh tịnh, lại thêm cúng dường bảo tháp của Như Lai, nên sau khi mạng chung ở trong sinh tử, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn kiếp thọ hưởng phước lạc cõi trời, người, chưa từng rơi vào đường ác.

Này A-nan, sau khi vị Tỳ-kheo ấy trải qua trăm ngàn vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, lại gặp một Đức Phật ra đời hiệu là Năng Tác Quang Minh Như Lai. Vị Tỳ-kheo ấy cúng dường Đức Phật rồi xuất gia giữ gìn giới cấm, phạm hạnh thanh tịnh như trước. Lại phát tâm: “Nguyện nơi đời vị lai, nhờ công đức này, ta đời đời kiếp kiếp không sinh vào cõi ác.”

Lúc đó, Đức Phật Năng Tác Quang Minh biết được sở nguyện của vị Tỳ-kheo kia, liền thọ ký:

-Này nhân giả, ông ở đời vị lai, trải qua trăm ngàn vô lượng vô số a-tăng-kỳ kiếp, sẽ thành Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, hiệu là Nhiên Đăng.

Đức Phật Nhiên Đăng khi còn là Bồ-tát, thân sau cùng sinh vào cung trời Đâu-Suất, giáng thần xuống nhân gian, nhập vào hông bên hữu nương gá mẫu thai, ở trong thai mười tháng, rồi nhất tâm chánh niệm, khi sắp đản sinh liền phóng hào quang chiếu sáng khắp cõi nước Phật.

Một hôm, sắp đến lúc đản sinh Bồ-tát, Thánh mẫu thưa với Đại vương:

-Xin Đại vương biết cho, ý của thần thiếp muốn ra lâm viên dạo chơi, thưởng ngoạn.

Nhà vua nghe phu nhân nói như vậy, liền lệnh cho đại quan giữ nội thành, các trưởng giả hào phú, các thương gia và cư sĩ:

-Phu nhân ta ngày nay muốn ra lâm viên dạo chơi, thưởng ngoạn, ngay nơi tư gia các khanh đều trang hoàng nghiêm chỉnh, đường sá trong thành phải sạch sẽ, những nơi nào dơ nhớp hoặc sỏi gạch gồ ghề cần phải dọn sạch, dùng các thứ nước hoa, hồ thơm rưới tô khắp trên đường, và đem hoa thơm tươi đẹp rải khắp các nơi đó. Mọi chốn đều đặt bình bằng ngọc, xông các thứ danh hương. Lại bày biện các bình ngọc đựng đầy nước thơm, trong bình cắm các thứ hoa quý, như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Không nơi nào là không trưng bày những cây chuối, tùy theo lớn nhỏ cao thấp, treo trên đó các cờ phướn đủ màu sắc, mỗi mỗi cây cờ, lá phướn đều tua tủa vô số mành lưới bằng bảy báu, chuỗi trân châu anh lạc, nơi từng mắt lưới đều có treo chuông rung bằng chất liệu quý như những vì sao xuất hiện vào ban đêm nơi cõi trời Tịnh cư. Lại khắp mọi nơi đều treo những tấm gương bằng ngọc sáng như vầng nhật nguyệt, hoặc giăng những rèm đủ màu sắc rực rỡ, hoặc vô số những dải lèo bằng vàng, bạc bủa giăng khắp. Đường sá nơi thành này đều được trang hoàng với tất cả những thứ hết sức đẹp đẽ trang nghiêm như vậy, giống như thành Kiền-thát-bà của Thiên thần.

Vương phu nhân ngồi trên kiệu báu, có kỹ nhạc mở đường âm thanh vang dội, cùng một ngàn tùy từng bao quanh hầu hạ trước sau chật ních cả lối đi. Từ cung điện, Thánh mẫu ung dung chậm rãi bước ra, đưa mắt quan sát bốn bề, oai đức tôn nghiêm, so trong hội không ai sánh bằng! Đoàn người hướng về khu lâm viên, đến nói lại từ từ đi về phía sông. Lúc đến bên bờ liền xuống thuyền, thuyền lướt nhẹ tới giữa dòng, bỗng nhiên thấy một ngọn đèn sáng lớn, cao, rộng ngang dọc mười hai do tuần. Trong ánh sáng ấy, thấy rõ một bãi cỏ gấu cao chừng bốn ngón tay, thân cỏ mềm mại màu trắng tươi, giống như lông chim Ca-da-lân-đề, tỏa ra mùi hương ngào ngạt dường như mùi hương hoa Chiêm-bà-ba-lợi-sư. Trong lâm viên có nhiều loại cây quý nơi cõi trời, cõi người, những hoa lạ trái ngon đua nhau đơm, kết đầy khắp.

Lúc ấy, Bồ-tát thánh mẫu ngửa mặt nhìn lên hư không, từ từ đưa tay phải vói lấy cành cây, cành ấy tự nhiên rũ xuống, vương phu nhân liền dùng tay nắm lấy, ngay lúc đó ngang hông bên phải đản sinh một vị đồng tử, dung mạo khả ái, quý danh là Nhiên Đăng.

Khi Đồng tử Nhiên Đăng đản sinh, ngài tự nhiên chắp tay, hào quang sáng chói chiếu khắp cõi nước Phật này. Trên trời chư Thiên rải vô lượng các loại hoa để cúng dường, như hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn. Lại tung rải vô lượng bột hương chiên-đàn, đầy khắp chu vi mười hai do tuần, cùng thả xuống vô số nhạc khí của chư Thiên, không người sử dụng mà tự nhiên phát ra vô lượng âm thanh ca nhạc, tán thán. Lồng trong âm thanh này có tiếng nói: Làm ngọn đèn sáng vô lượng! Làm ngọn đèn sáng vô lượng! Thích hợp với tên tốt của Bồ-tát này, nên gọi là Nhiên Đăng.

Đức đại sĩ Nhiên Đăng các căn hoàn hảo, đầy đủ tướng tốt, không hề suy giảm, xấu xí. Trải qua ngày tháng đến tuổi trưởng thành, đồng tử ở nơi lầu son thọ hưởng mọi thú vui của năm dục, chợt sinh ý nghĩ: Cảnh ái dục của thế gian có tính chất hư huyễn, tạm thời, thay đổi trong chốc lát, chẳng bao lâu sẽ hoại diệt. Suy nghĩ như vậy rồi, liền xa rời cung điện, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục, sống cuộc đời xuất gia.

Sau khi Ngài xuất gia cầu đạo Bồ-đề, đến ngồi bên gốc cây lần lần tu tập Chánh giác. Chứng quả Chánh giác rồi, Ngài dùng Phật nhãn quán sát tất cả thế gian, liền khởi suy niệm: Có ai là người đầu tiên đến nghe chánh pháp. Ngài thấy thế gian không có người để giáo hóa. Lại quán sát đến lần thứ ba, cũng thấy thế gian không có người nghe pháp và người để được hóa độ.

Đức Phật Nhiên Đăng trụ thế trải qua ba ngàn năm, độc nhất không có pháp lữ, sau khi trải qua ba ngàn năm tọa thiền, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác thầm nghĩ: Các chúng sinh này mãi tham đắm nơi năm dục, luôn phóng dật, đam mê không biết nhàm chán, Ta nay phải dốc sức giáo hóa khiến họ thức tỉnh.

Suy nghĩ như vậy rồi, từ thành Đăng chú, Ngài bay lên trụ trong hư không, hóa hiện một thành tên là Diêm-phù-đàn, Trong thành, Ngài biến hóa ra những ngôi nhà bằng lưu ly, bên ngoài thành hiện bảy lớp hàng cây Đa-la bằng bảy báu. Sự câu trúc của hóa thành cũng dùng bảy thứ báu để trang nghiêm như nói ở trên. Thành này ngang dọc đông tây nam bắc đều năm ngàn do-tuần, vật dụng trang hoàng trong thành giống như cõi trời Đao-lợi. Dân chúng ở đây tuổi thọ đến ba ngàn năm.

Tất cả chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề, từ xa trông thấy dân chúng nơi cõi hóa thành kia thọ hưởng hoan lạc, mặc tình buông lung theo thú vui năm dục. Những gì chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề thấy, nghe, hiểu biết về thành kia, thảy đều tỏ ra ham thích.

Đức Phật Nhiên Đăng trải qua ba ngàn năm như vậy, ngài lại suy nghĩ: Ta nay có thể dùng thần thông biến hóa khiến cho người cõi Diêm-phù-đề sinh tâm nhàm chán cảnh năm dục.

Ngay khi đó, tất cả dân chúng ở hóa thành bỗng thấy bốn mặt thành lửa bốc cháy ngùn ngụt, trong lòng kinh hãi, lo sợ tìm nơi ẩn náu, lại không có người giúp đỡ, muốn tìm đường trốn thoát mà không ai che chở.

Cũng vào lúc này, chúng sinh cõi Diêm-phù-đề lại thấy bốn bức tường của hóa thành nơi Đức Phật Nhiên Đăng đang ngự phát hỏa cháy ngùn ngụt, họ càng lo sợ cùng bảo nhau: Ôi thôi! Thành kia tự nhiên lửa bốc cháy cùng khắp mọi nơi, chẳng mấy chốc sẽ bị tiêu diệt. Nói xong, họ lại nguyện: Nguyện hóa thành kia giáng hạ xuống nơi đây, hoặc thành này dời đến hóa thành kia, để chúng ta dập tắt những ngọn lửa đó.

Khi ấy, tất cả chúng sinh cõi Diêm-phù-đề căn cơ đã thuần thục, đúng lúc được Đức Phật giáo hóa, nên ngay lúc ấy, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Nhân và Phi nhân v.v… xuất hiện nơi hóa thành, bảo dân chúng Diêm-phù-đề: Tại sao hóa thành này tự nhiên bốc cháy? Cùng lúc đó, trước mặt hóa thành bỗng nhiên xuất hiện ba cầu thang: Cầu thang thứ nhất bằng vàng, cầu thang thứ hai bằng bạc và cầu thang thứ ba bằng pha lê. Khoảng giữa hai cầu thang có xen lẫn những hàng cây Đa-la bằng ngọc quý. Những cây Đa-la này phát ra những âm thanh vang dội: Này các người, tất cả hãy mau tập trung về một chỗ. Nếu tâm các người muốn thấy Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài chẳng bao lâu sẽ giáng xuống cõi Diêm-phù-đề.

Lúc này, tất cả dân chúng của cõi Diêm-phù-đề đều tập họp nơi cầu thang, thấy Đức Phật Nhiên Đăng từ trong hóa thành tiến ra bước xuống cầu thang. Khi ấy Tứ Thiên vương, Phạm vương, Đế Thích… vây quanh hộ vệ trước sau. Chúng sinh nơi cõi Diêm-phù-đề được thấy Đức Phật Nhiên Đăng thảy hết sức hoan hỷ, mỗi người đều thầm nghĩ: Trước kia chúng ta mong muốn được thấy Như Lai, ngày nay chúng ta đã được chiêm ngưỡng. Họ lại sinh tâm niệm: Nếu chúng ta đến trước Đức Phật thưa hỏi việc này: Hóa thành kia vì cớ gì lửa bốc cháy như vậy? Đức Như Lai chắc chắn sẽ vì chúng ta mà giải thích.

Khi Đức Phật đã bước chân xuống đất, tất cả dân chúng cõi Diêm-phù-đề mỗi người đều nghĩ: Riêng ta đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật và tự nói: Ta là người trước tiên đảnh lễ nơi chân Phật.

Đức Phật Nhiên Đăng an tọa nơi tòa Sư tử xong xuôi, liền vì chúng sinh thuyết pháp; ca ngợi pháp bố thí, trì giới, ly dục để được chứng pháp dứt sạch các lậu tận, nói về lợi ích của công đức xuất gia, giảng giải ba mươi bảy pháp trợ đạo thanh tịnh. Đức Như Lai thấy dân chúng cõi Diêm-phù-đề này nghe Phật thuyết pháp tin tưởng vui mừng, thọ lãnh, tâm sinh hoan hỷ, tâm ý thuận hòa không có chướng ngại. Đức Như Lai lại vì họ mà giảng nói các pháp, như tiền thân của Đức Phật. Ngài thuyết pháp hợp với căn cơ của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Những pháp đó là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Ngày nay, Đức Thế Tôn cũng lại vì chúng sinh cõi Diêm-phù-đề mà thuyết giảng đầy đủ bốn chân lý này.

Thuở đó, Đức Phật Nhiên Đăng thuyết pháp, ngày đầu tiên giáo hóa độ thoát sáu trăm ức người, đều trừ hết các lậu dứt sạch phiền não, chứng quả A-la-hán, tâm được tự tại. Ngày thứ hai giáo hóa năm trăm ức người, ngày thứ ba giáo hóa bốn trăm ức người, ngày thứ tư giáo hóa ba trăm ức người, ngày thứ năm giáo hóa hai trăm ức người, ngày thứ sáu giáo hóa một trăm ức người, ngày thứ bảy giáo hóa năm mươi ức người, tất cả đều chứng đạo quả A-la-hán. Cho đến trong tuần lễ thứ hai, Ngài giáo hóa độ thoát một trăm ức người, cuối cùng, trong tuần lễ thứ ba lại độ được bảy mươi lăm ức chúng sinh, tất cả đều được lợi ích, tâm ý sáng suốt, diệt sạch phiền não, thành bậc A-la-hán.

Đức Phật Nhiên Đăng trụ thế một kiếp cùng với chư vị đệ tử Thanh văn, vì chúng sinh nơi thế gian làm những điều lợi ích.

Này A-nan, chư Phật theo thứ lớp thọ ký cho nhau. Đức Phật Nhiên Đăng ban đầu trồng các thiện căn, cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến chuyển pháp luân, vì giáo hóa chúng sinh nên trụ thế một kiếp.

Này A-nan, lúc Đức Phật Nhiên Đăng còn là vị Bồ-tát, ở trên thuyền tuy thọ nhận thú vui năm dục, nhưng ở trong thế gian luôn sinh tâm nhàm chán, suy nghĩ như thế, lại cũng phát tâm: “Ta có thể ngồi trên thuyền để vượt qua sông, đến bờ bên kia.” Ngay khi đó, liền hiện ra một đóa hoa sen xanh thật lớn, đồng tử Nhiên Đăng bước vào trong hoa này, ngồi kiết già, hoa sen tự nhiên khép kín thành đóa hoa sen búp. Lúc ấy đám thể nữ tìm kiếm không biết đồng tử ở đâu, liền về tâu lại với Đại vương.

Nhà vua cho người đi tìm khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc đều không biết đồng tử ở chỗ nào. Cho đến tìm bốn phương phụ cũng không rõ là ở đâu.

Bồ-tát Nhiên Đăng do sức thần thông nên có oai đức lớn, ngồi kiết già trong hoa sen trên thuyền mà mọi người không thấy, khi ấy chứng được năm thần thông, phi hành nơi hư không, cho đến khi ngồi bên cội cây Bồ-đề chứng quả Nhất thiết trí, rồi chuyển pháp luân, độ thoát được sáu mươi tám ức trăm ngàn người, thảy đều ở nơi thế gian giáo hóa chúng sinh.


Phần 3

(Đầu Quyển 3)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở thành Xá-vệ bảo Tôn giả A-nan:

-Này A-nan, chư Phật và Bồ-tát ngày đêm thường nói: Tất cả các pháp có bốn thứ thâu tóm để nhiếp hóa chúng sinh. Bốn pháp thâu nhiếp đó là gì? Một là Bố thí, hai là Ái ngữ, ba là Lợi ích và bốn là Đồng sự.

Tôn giả A-nan bèn rời tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch áo vai bên hữu, đầu gối hữu quỳ sát đất chắp tay bạch Phật:

-Bạch Đức Thế Tôn, thuở xưa ngài cúng dường bao nhiêu Đức Phật để cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Ngài ở nơi Đức Phật nào vun trồng các thiện căn, vì đời vị lai cầu đạo Bồ-đề?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Hãy chú ý lắng nghe, khéo suy nghĩ ghi nhớ, Ta nay sẽ vì ông kể các danh hiệu chư Phật mà Ta đã từng vun trồng thiện căn trong quá khứ:

Này A-nan, Ta nhớ thuở xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nơi Đức Phật này, Ta trồng thiện căn, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Thế Vô Tỷ. Lúc ấy Ta trồng các thiện căn, cúng dường Đức Phật, cầu đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Liên Hoa Thượng. Lúc đó Ta trồng các thiện căn, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Tối Thượng Hành. Lúc đó Ta trồng các thiện căn nơi Đức Phật ấy, cầu ở đời vị lai thành đạo vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời, hiệu là Đức Thượng Danh Xưng. Ta lúc đó trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Ta lúc đó trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Đế-sa. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Phất-sa. Ta lúc ấy trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Kiến-nhất-thiết-lợi. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Thi-khí. Ta lúc ấy trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ-sa-môn. Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Câu-lưu-tôn. Ta bấy giờ trồng các thiện căn cho đến tu tập phạm hạnh, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Câu-na-hàm Mâu-ni. Ta lúc ấy trồng các thiện căn, dốc tu tập phạm hạnh, cùng cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Có một Đức Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Ta bấy giờ trồng các thiện căn cho đến dốc tu tập phạm hạnh, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này A-nan, Ta ở luôn trú nơi xứ của Bồ-tát Di-lặc trồng các thiện căn, cầu vào đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi nói kệ:

Chư Phật oai đức lớn,
Lìa dục chứng Niết-bàn.
Phật Thích-ca Mâu-ni
Cúng dường khắp tất cả.

Bấy giờ Tôn giả A-nan bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn, Như Lai cúng dường chư vị Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đó, đã đem những gì để cúng dường và trồng những thiện căn gì để cầu vào đời vị lai thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

-Ta nhớ về đời quá khứ trải qua vô lượng kiếp có vị quốc vương tên là Hàng Oán, thuộc dòng Sát-đế-lợi thừa kế ngôi vị đế vương. Nhà vua đầy đủ phước đức, tuổi thọ rất lâu, dung mạo đoan nghiêm, tiếng tốt vang khắp mọi nơi.

Này A-nan, vua Hàng Oán đóng đô nơi một thành lớn tên là Liên hoa. Nhà vua ở trong thành này cai trị dân chúng, xây dựng cung điện. Thành này mặt Đông, Tây rộng mười hai do tuần, mặt Nam, Bắc rộng bảy do tuần, đất đai phì nhiêu, mưa thuận gió hòa, lúa thóc dồi dào, không một ai nghèo khổ. Dân cư đông đúc khắp chốn, không một nơi nào bỏ hoang. Vườn hoa, rừng cây hoa quả sum suê. Mặt nước sông suối, ao hồ thường phẳng lặng. Hai bên đường, phố xá tấp nập, người buôn bán qua lại không ngớt. Giống như thành A-la-ca của trời Tỳ-sa-môn ở phương Bắc, bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc của thành Liên hoa này cũng dùng đủ các thứ trang nghiêm không khác.

Này A-nan, trong thành của vua Hàng Oán có một vị Đại Bà-la- môn thuộc loại hào phú, tên là Nhật Chủ, sức lực dũng mãnh cường tráng, của cải châu báu, rất nhiều tôi tớ, voi ngựa, trâu dê, tất cả đều dư dật không thiếu món chi. Trong kho tàng của ông ta toàn là các thứ vật báu đặc biệt như: Vàng ròng, bạc trắng, ngọc báu, trân châu, trân bảo, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, giống như vua Tỳ-sa-môn ở phương Bắc.

Này A-nan, lúc ấy, Đại Bà-la-môn Nhật Chủ đặc biệt được nhà vua đem tâm ái mộ, kết làm bạn thân, gắn bó mật thiết.

Này A-nan, một hôm, vua Hàng Oán có một sự việc, đem giao cho Bà-la-môn Nhật Chủ, ra lệnh phải giải quyết cho hợp lý. Bà-la-môn Nhật Chủ theo đúng như pháp giải quyết xong, lại hợp ý với nhà vua, nên đối với vị Bà-la-môn ấy, vua Hàng Oán càng sinh tâm hoan hỷ bội phần, chia đôi đất nước, phong cho Bà-la-môn Nhật Chủ làm vua một nửa kia để cai trị muôn dân.

Đại vương Hàng Oán, lại còn xây dựng cho vua Nhật Chủ một thành riêng tên là Diên chủ. Bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc, đường sá, ngã tư, thành quách đều được trang hoàng đẹp đẽ giống y như thành Liên hoa.

Này A-nan, vua Nhật Chủ này có một phu nhân tên là Nguyệt Thượng. Bồ-tát Nhiên Đăng khi rời cõi trời Đâu-suất giáng thần xuống cung vua Nhật Chủ, nhập vào hông bên phải của phu nhân Nguyệt Thượng, khi ở trong thai vẫn thân ngồi yên ngay ngắn, kế đến là đản sinh, thành đạo, thuyết pháp giáo hóa muôn người, đều được chứng quả A-la-hán. (Nhân duyên như trên có nói trong kinh Bản Hạnh phần Bồ-tát Nhiên Đăng).

Đức Phật Nhiên Đăng tuần tự du hóa qua lại trong hai thành này, thuyết pháp độ sinh. Phụ vương Nhật Chủ thường dùng bốn sự để cúng dường, luôn cung kính, tôn trọng Đức Phật, được Phật ca ngợi.

Này A-nan, sự việc dần dần truyền đến tai vua Hàng Oán. Nhà vua nghe nơi thành Diên chủ, trong cung vua Nhật Chủ, đại phi thứ nhất phu nhân Nguyệt Thượng vừa sinh một đồng tử tên là Nhiên Đăng, dung mạo tuấn tú, thân như vàng ròng, đầy đủ tướng tốt, thế gian không ai sánh bằng. Đồng tử được đem đến tướng sư Bà-la-môn nổi tiếng trong nước để đoán xem tướng mạo như vậy thì về sau sẽ như thế nào? Tướng sư trả lời: Vị đồng tử này phước đức trang nghiêm, nếu ở tại gia sẽ là Chuyển luân thánh vương, làm chủ cõi đại địa thống lãnh bốn châu thiên hạ, đầy đủ bảy thứ báu: Một là xe báu bằng vàng, hai là ngọc báu như ý, ba là ngọc nữ báu, bốn là voi báu, năm là ngựa báu, sáu là quan báu thống lãnh quân lính, và bảy là quan báu coi giữ kho tàng. Lại có một ngàn Thái tử tướng mạo đều đoan nghiêm, đầy đủ tướng trượng phu, có tài đánh đuổi giặc thù, oai thế vang khắp chốn, bốn biển núi rừng đâu đâu cũng hàng phục. Quốc gia an ninh, mưa thuận gió hòa, năm thứ lúa thóc tươi tốt, dân chúng an lạc, không có cảnh khổ não tật bệnh, không dụng binh chinh phạt, đem chánh pháp trị dân. Còn nếu đồng tử xuất gia thì sẽ thành Phật đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác…, danh tiếng vang khắp mọi nơi.

Này A-nan, Đồng tử Nhiên Đăng bỏ tục xuất gia, cho đến thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và chuyển pháp luân danh tiếng vang khắp mọi nơi, đúng như lời tướng sư đã tiên đoán.

Lúc ấy, vua Hàng Oán thầm nghĩ: “Đức Thế Tôn ít có! Rất khó có cơ duyên xuất hiện ở đời, lâu lâu mới nghe danh hiệu một lần, nhưng lại khó được chiêm ngưỡng.” Đại vương Hàng Oán liền sai sứ mau đến kinh thành của vua Nhật Chủ tỏ lời thế này:

-Ta nay nghe lời khẩu truyền: Đại phu nhân của nhà vua sinh hạ được một đồng tử hết sức đoan nghiêm, đầy đủ các tướng tốt… Ta nay muốn thỉnh Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác đến thành Liên hoa là kinh đô của ta, để thọ dụng phẩm vật cúng dường, Nếu nhà vua đồng ý để Đức Phật đến thì cả hai nước đều được lợi ích. Còn như không thuận theo yêu cầu này thì ta sẽ cử bốn binh chủng trang bị đầy đủ đến chinh phạt.

Sứ giả nhận sắc lệnh như vậy rồi, liền đi đến thành Diên chủ là kinh đô của vua Nhật Chủ, tâu lên nhà vua đầy đủ những lời như vậy.

Vua Nhật Chủ vừa nghe qua lời tâu này, lòng Ưu sầu tấm tức, trong dạ mang lấy sự việc chẳng vui. Nhà vua liền triệu tập quần thần, đối trước bá quan trình bày đầy đủ sự việc. Đại vương Hàng Oán có ý như vậy, các khanh suy nghĩ là ta nên phúc đáp như thế nào?

Quần thần đồng tâu vua Nhật Chủ:

-Đại vương nên biết, đối với sự việc ấy, chúng ta nên đến thưa hỏi Đức Phật Nhiên Đăng xem thử Ngài dạy ra sao. Vì Đức Nhiên Đăng Như Lai Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác luôn sẵn lòng đại Từ bi.

Vua Nhật Chủ bảo quần thần:

-Ta cũng có suy nghĩ như vậy.

Liền khi ấy nhà vua cùng quần thần đích thân đến nơi Đức Phật Nhiên Đăng đang ngự thưa hỏi sự việc.

Đức Phật an ủi nhà vua:

-Phụ vương an tâm, chớ nên kinh hãi sợ sệt, chẳng nên sinh tâm ưu sầu. Vì sao? Ta nay cũng sắp du hóa đến nước đó để hóa độ dân chúng, vì Thế Tôn thương xót tất cả chúng sinh.

Lúc ấy, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác cùng vô lượng vô số trăm ngàn chúng Tỳ-kheo tùy tùng đồng du hành đến nước vua Hàng Oán để hóa độ chúng sinh.

Trước khi Đức Phật du hóa, vua Nhật Chủ cúng dường cung cấp Đức Như Lai Nhiên Đăng, bốn sự cúng dường đầy đủ không có thiếu hụt, rồi đi theo sau tiễn đưa Đức Phật đến tận biên giới của mình. Nhà vua nhiễu quanh ba vòng đảnh lễ dưới chân Phật, bùi ngùi rơi lệ trở về hoàng cung.

Lúc nghe tin Đức Phật Nhiên Đăng cùng vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo Thanh văn, đều là bậc A-la-hán đồng đến thành Liên hoa, vua Hàng Oán rất đỗi vui mừng, ra lệnh sửa sang đường sá nghiêm chỉnh, nơi nào nhơ bẩn đều được tẩy trừ, trưng bày bố trí nghiêm trang…, cho đến mọi thứ đều như thành Càn-thát-bà.

Vua Hàng Oán ban sắc lệnh, loan báo cho tất cả dân chúng trong thành và cách ngoài thành mười hai do tuần đều biết không được tự do buôn bán các thứ tràng hoa thơm, nơi nào có hoa để nhà vua mua lấy, sắp đem cúng dường Đức Phật Nhiên Đăng. Lúc ấy Đại vương Hàng Oán đem bốn đại hùng binh đầy đủ oai thế, xuất phát từ hoàng thành đi nghinh rước Đức Phật Nhiên Đăng.