Nói về Pháp Thiền định tới Niết Bàn

 

Nam mô A Di Đà Phật.

Pháp Thiền định tới Niết Bàn được Phật nói trong Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Mười dừng ở và một số Kinh khác. Bài này chỉ là tập hợp, tóm lược lại các Kinh đã được Phật nói.

Các Bồ Tát Bồ Tát lớn đã đầy đủ Bậc thứ bốn, muốn được Bậc thứ năm. Dùng mười tâm bình đẳng, có thể nhập vào Bậc thứ năm. Thế nào là mười ?

Một là Pháp Phật thời Quá khứ bình đẳng, hai là Pháp Phật thời Tương lai bình đẳng. Ba là Pháp Phật thời Hiện tại bình đẳng, bốn là Giới Thanh tịnh bình đẳng, năm là Tâm Thanh tịnh bình đẳng. Sáu là trừ bỏ thấy nghi hối Thanh tịnh bình đẳng, bảy là thấy Đạo, Đạo sai Thanh tịnh bình đẳng. Tám là thực hành Thấy biết Thanh tịnh bình đẳng, chín là các phần Pháp Bồ Đề chuyển đổi được Thanh tịnh bình đẳng. Mười là đều cảm hóa chúng sinh Thanh tịnh bình đẳng.

Các Bồ Tát Bồ Tát lớn dùng mười tâm Thanh tịnh bình đẳng đó, đầy đủ được nhập vào Bậc năm. Do hay tu Pháp Bồ Đề, do tâm thâm sâu Thanh tịnh, do cầu chuyển được Đạo, chắc là có thể được Đạo Phật. Bồ Tát đó được lực nguyện lớn, dùng tâm Từ Bi, không vứt bỏ với tất cả. Dùng thế lực Đạo lý được tâm nhớ Trí tuệ. Tu luyện được Phúc Tuệ, không vứt bỏ phát ra Phương tiện. Muốn được chuyển Bậc cao Đạo tốt hơn. Sáng suốt quan sát Pháp, nhận lấy Thần lực giúp đỡ của các Phật, sinh yên định tâm không lui. Biết chân lý bậc Thánh khổ đó như thực, chân lý tập hợp khổ đó, chân lý diệt mất khổ đó, chân lý được Đạo diệt mất khổ đó.

Bồ Tát đó hay biết thực rõ Thế gian, hay biết thực rõ nghĩa Không có hình tướng, hay biết thực rõ hình tướng, hay biết thực rõ khác biệt. Hay biết tỏ ra được chân lý, hay biết thực rõ sự việc, hay biết thực rõ phát ra sinh. Hay biết thực rõ tận cùng không sinh, hay biết giúp cho nhập vào thực rõ Đạo. Do lần lượt được các Bậc Bồ Tát. Hay biết tu tập Trí tuệ chân thực của Như Lai. Khi đó Bồ Tát thường ở tại Pháp Bậc Phật. Hay biết thực rõ nghĩa Không có hình tướng, tùy theo ý của chúng sinh, do giúp cho vui mừng. Biết thực rõ Thế gian, do phân biệt tự hình tướng của các Pháp. Biết thực rõ hình tướng, do các Pháp đều khác biệt. Biết thực rõ khác biệt, do phân biệt nhập vào các cõi Uẩn. Biết tỏ ra được thực rõ, do vì khổ não của thân tâm. Biết thực rõ Khổ, do liên tục sinh các Đạo. Biết thực rõ tập hợp Khổ, do thành quả diệt mất tất cả nóng Phiền não. Biết thực rõ diệt mất Khổ, do phát ra không hai Pháp. Biết thực rõ Đạo diệt mất khổ, dùng Tất cả loại Trí tuệ. Biết lần lượt tất cả Pháp, do được tất cả Bậc Bồ Tát. Hay biết tập luyện thực rõ Trí tuệ Như Lai. Do dùng lực tin hiểu, biết được Trí tuệ thực rõ vô tận sai. Bồ Tát dùng các Trí tuệ thực rõ này như thế, biết như thực tất cả Pháp Có hình tướng. Hình tướng giả dối cuồng hoặc xảo trá bại hoại. Giả vờ dừng ở giây phút, lừa gạt người Phàm trần.

Bồ Tát khi đó ở trong chúng sinh Đại Bi chuyển đổi tốt hơn, mà hiện ra phía trước. Hay sinh Quang sáng Đại Từ, được lực Trí tuệ như thế, không vứt bỏ tất cả chúng sinh. Thường cầu Trí tuệ của Phật, quan sát như thực tất cả Pháp Có hình tướng, đời trước đời sau. Biết chúng sinh từ đời trước, do Ngu tối Có Yêu, sinh ra lưu chuyển sinh chết. Với năm Uẩn trở về nơi ở, không thể phát động, tăng thêm tụ tập khổ não lớn. Trong đó không có bản thân, bản thân không được. Không có chúng sinh, không có người. Không biết, không có thọ mệnh. Đời sau cũng như thế, toàn bộ không có như thế, mà ngu si tham nương nhờ không cắt đứt. Không biết không có giới hạn, có sinh ra không có sinh ra.

Khi đó làm nghĩ nhớ như thế, chúng sinh người Phàm, rất là quái lạ. Do Ngu tối ngu si, có vô lượng vô biên A tăng kì thân. Đã mất, nay mất, đang mất, như thế thường nhận lấy sinh chết. Không thể với thân sinh tưởng nhớ chán rời bỏ, càng chuyển tăng cao cơ quan thân khổ. Thường bị phiêu dạt theo giòng sinh chết. Không thể đảo ngược được, trở về nơi ở của năm Uẩn. Không thể rời bỏ, không sợ rắn độc bốn Lớn. Không thể rút ra mũi tên thấy kiêu mạn, không thể diệt trừ ngọn lửa tham lam giận hờn ngu si. Không thể phá hỏng Ngu tối ngu ám, không thể khô cạn yêu nương nhờ biển lớn. Không cầu mười lực của Thầy dẫn Thánh lớn. Thường theo ý của Ma ở trong thành sinh chết. Đa phần bị các ác được giác quan chuyển tới. Khổ não như thế, chúng sinh cô độc cùng quẫn, không có người cứu. Không có nơi ở, không có thành quả Đạo. Chỉ có một người là bản thân mình, đơn độc không có bạn. Tu tập hợp Phúc Đức Trí tuệ. Dùng nó làm lương thực tư trang, giúp cho tất cả chúng sinh này. Được dừng ở thành quả Thanh tịnh. Thậm chí sử dụng được trong tất cả Pháp. Tư duy như thế Trí lực không trở ngại của Phật. Từ quan sát đúng sinh ra lực Trí tuệ. Phát nguyện làm được tất cả Căn thiện, đều do vì độ thoát các chúng sinh. Do vì cầu việc tốt lành của tất cả chúng sinh, vì cầu yên vui, do vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Do vì Giải thoát tất cả chúng sinh, do vì không có khổ não của tất cả chúng sinh. Do vì không còn ác độc thô lỗ của tất cả chúng sinh, do vì Thanh tịnh tâm của tất cả chúng sinh. Do vì điều phục tất cả chúng sinh, do vì thỏa mãn nguyện của họ diệt mất các lo âu khổ não của tất cả chúng sinh.

Bồ Tát như thế khi đó dừng ở trong Bậc Khó Được thứ năm này. Do không quên mất các Pháp, tên là Nghĩ nhớ. Do Trí tuệ quyết định, tên là người Trí tuệ. Do lần lượt biết ý nghĩa của Kinh sách, tên là người có Đạo. Do tự bảo vệ mình bảo vệ người, tên là biết xấu hổ. Do không vứt bỏ giữ Giới, tên là người tâm kiên cố. Do hay tư duy nơi đúng nơi sai, tên là người hiểu biết. Do không thuận theo khác, tên là người thuận theo Trí tuệ. Do hay phân biệt nghĩa câu đoạn của các Pháp, tên là người thuận theo Trí tuệ. Do hay tu Thiền Định, tên là người được Thần thông. Do thực hành thuận theo Pháp Thế gian, tên là Phương tiện. Do thường tập hợp Phúc Đức lương thực tư trang, tên là người đủ không chán. Do thường cầu Nhân duyên Trí tuệ, tên là người không vứt bỏ. Do tập hợp Nhân duyên Đại Từ Đại Bi, tên là người không mệt mỏi. Do thường tưởng nhớ nghĩ nhớ đúng, tên là người xa rời phá Giới. Do tâm thâm sâu cầu mười lực của Phật, bốn Không sợ hãi, mười tám Không cùng Pháp, tên là người thường nhớ Pháp Phật. Do thường giúp cho chúng sinh rời ác tu thiện, tên là trang nghiêm Nước Phật. Do trồng các Phúc Đức ba mươi hai hình tướng, tám mươi diện mạo tốt trang nghiêm, tên là người thực hành đủ loại Nghiệp thiện. Do cầu trang nghiêm Nghiệp Thân miệng ý của Phật, tên là người thường thực hành Tinh tiến. Do cúng dưỡng tất cả Bồ Tát nói Pháp, tên là người vui thích cung kính lớn.

Bồ Tát này thành công Nhớ đúng bậc nhất. Chưa từng tán loạn. Kiên cố không hỏng. Vô lượng Thanh tịnh tốt nhất bậc nhất. Vứt bỏ ngu tối. Phân biệt Nhớ đúng. Dễ hay nhận giữ Kinh luận Thế gian, ra ngoài Thế gian. Kinh luận Pháp Sắc, Pháp Sắc sai. Kinh luận Nhận, Nhớ, Làm, Biết. Không có ngu si não loạn, chết nơi này sinh nơi kia. Không có ngu si não loạn ở trong bào thai, ra ngoài bào thai. Không có ngu si não loạn dừng ở tâm Bồ Đề. Không có ngu si não loạn, thân thiết Tri thức thiện. Không có ngu si não loạn, học các Pháp Phật. Không có ngu si não loạn, hiểu các việc Ma. Không có ngu si não loạn, rời xa việc Ma. Không có ngu si não loạn, với vô lượng Kiếp tu hành hạnh Bồ Tát.

Bồ Tát thành công như thế cùng với vô lượng vô số Nhớ đúng kiên cố. Với vô lượng vô số A tăng kì Kiếp. Từ các Phật Bồ Tát, Tri thức thiện được nghe nhận Pháp đúng. Gọi là Pháp rất sâu, Pháp vi diệu. Pháp trang nghiêm, đủ loại Pháp trang nghiêm, đủ loại Pháp tên vị câu cú của thân. Pháp trang nghiêm Bồ Tát, Pháp trang nghiêm Bình Đẳng của các Phật, Pháp hi vọng đúng Thanh tịnh. Pháp không lây nhiễm tất cả Thế gian, Pháp phân biệt tất cả Thế gian, Pháp rộng khắp. Pháp vô lượng, Pháp rời bỏ ngu tối phân biệt Thế gian, Pháp cùng, Pháp không cùng. Pháp cảnh giới Trí tuệ của Bồ Tát, Pháp Tự do của Tất cả Trí tuệ. Bồ Tát nghe Pháp này xong. Với vô lượng vô biên A tăng kì Kiếp. Chưa từng quên thoái lui. Cớ là sao ?

Vô lượng Kiếp trước kia của Bồ Tát Bồ Tát lớn khi tu hành hạnh Đạo. Chưa từng não loạn chúng sinh. Tam muội Nhớ đúng. Không cắt đứt Pháp đúng. Không cắt bỏ Căn thiện. Cho nên không cắt bỏ Trí tuệ. Vô lượng loại âm thanh của Bồ Tát này không thể nhiễu loạn. Gọi là : Tiếng to lớn, tiếng não loạn. Tiếng làm cho người sợ hãi, tiếng vi diệu, tiếng không thể yêu thích, tiếng tán loạn sáu Căn.

Bồ Tát nghe như thế cùng với vô lượng vô số các tiếng tốt xấu. Với Nhớ đúng không loạn. Tam muội không loạn. Cảnh giới không loạn. Nhập vào Pháp vi diệu không loạn. Hạnh Bồ Tát không loạn. Tu luyện tâm Bồ Đề không loạn. Tam muội Nhớ Phật không loạn. Quan sát Pháp chân thực không loạn. Giáo hóa Trí tuệ chúng sinh không loạn. Thành công chúng sinh không loạn. Thiết lập yên Trí tuệ Thanh tịnh chúng sinh không loạn. Quan sát nghĩa rất sâu không loạn. Do không làm Nghiệp ác. Chướng ngại Nghiệp ác không có. Do không gây Phiền não. Không có chướng ngại Phiền não. Do không làm không cung kính. Đều cung kính chướng ngại. Do không làm hủy báng Pháp. Không hủy báng chướng ngại Pháp. Như thế cùng với vô lượng đủ loại âm thanh. Mỗi một âm thanh tràn đầy vô lượng vô biên A tăng kì Thế giới mười phương. Với vô lượng vô biên A tăng kì Kiếp. Chưa từng cắt đứt. Đều có thể phá hỏng các Căn của chúng sinh loạn. Làm cho họ phát cuồng. Mà không thể não loạn Tam muội rất sâu của Bồ Tát này.

Bồ Tát ở trong Tam muội. Suy nghĩ phân biệt tất cả âm thanh, hình tướng sinh mất dừng ở. Dễ phân biệt biết tính sinh mất dừng ở. Cũng dễ quan sát các người nghe âm thanh. Nghe âm thanh tốt xấu. Tâm không yêu ghét. Nhớ đúng không loạn. Với các âm thanh đó dễ lấy hình tướng của nó mà không nhiễm nương nhờ. Biết tất cả âm thanh đều toàn bộ không có. Tính chân thực sai. Không có tạo ra cũng không có giới hạn của bản thân nó. Với tính Pháp ngang bằng không có sai khác. Bồ Tát đó thành công Hạnh Thân miệng ý Tĩnh lặng. Không trở lại chuyển lui. Yên dừng ở các Nhận đúng Thiền Tam muội. Hiểu tất cả Pháp. Thành công Trí tuệ. Được ly rời Tam muội tất cả âm thanh. A tăng kì môn Tam muội dùng làm quyến thuộc. Ở trong từng nghĩ nhớ nuôi lớn Đại Bi. Hay được vô lượng A tăng kì Tam muội. Cuối cùng thành công Tất cả loại Trí tuệ.

Bồ Tát nghe điều này đã có thể phá hỏng các âm thanh rất ác của các Căn. Làm nghĩ nhớ như thế. Con đang giúp cho tất cả chúng sinh. Yên dừng ở Nhớ đúng Thanh tịnh. Với Tất cả Trí tuệ được Không chuyển lui. Cuối cùng thành công Niết Bàn Không thừa.

Tất cả Bồ Tát trong các Phương tiện của Thế gian, do tâm không thù hận trở ngại, tên là người không trở ngại tâm. Do thường thích giáo hóa chúng sinh, tên là ngày đêm xa rời tâm khác. Bồ Tát như thế lúc thực hành Bố thí, cũng giáo hóa chúng sinh. Lời nói êm dịu lợi ích cùng công việc, cũng giáo hóa chúng sinh. Lại dùng Sắc thân tỏ ra, cũng giáo hóa chúng sinh. Cũng dùng nói Pháp, giáo hóa chúng sinh. Cũng tỏ ra việc làm của Bồ Tát, giáo hóa chúng sinh. Cũng tỏ ra việc lớn của các Phật, giáo hóa chúng sinh. Cũng tỏ ra tội cũ sinh chết, giáo hóa chúng sinh. Cũng tỏ ra lợi ích Trí tuệ của các Phật, giáo hóa chúng sinh. Bồ Tát tu luyện như thế, dùng Thần lực lớn đủ loại Đạo Phương tiện Nhân duyên, giáo hóa chúng sinh.

Bồ Tát đó tuy đủ loại Phương tiện Nhân duyên, tâm thường ở trong Trí tuệ Phật, mà không lui mất Căn thiện. Mới lại thường cầu chuyển đổi được Pháp lợi ích chúng sinh. Người đó vì lợi ích chúng sinh. Tất cả Kinh sách kĩ nghệ Thế gian, văn chương toán số. Tên Tính Kinh sách, phương thuốc chữa bệnh. Gọi là trị bệnh viêm gan, bệnh trẻ em, bệnh Quỷ nương nhờ, bệnh trùng độc, bệnh hói đầu u nhọt. Âm nhạc ca múa, Kinh sách cười đùa vui mừng tiêu khiển. Đất nước thành bao quanh, làng xóm phòng ở nhà ở, vườn lều quán ao giếng. Hoa quả cỏ thuốc cây rừng, vàng bạc châu Như ý, lưu ly san hô hổ phách, xa cừ mã não. Tỏ ra tụ tập các vật báu. Mặt Trời mặt Trăng năm Vì sao lớn, hai mươi tám Vì sao nhỏ. Xem tướng lành dữ, động đất mộng mị viết cảnh kì quái. Các cảnh trong thân Bố thí giữ Giới. Hút lấy hàng phục tâm họ, Thiền định Thần thông, bốn bậc Thiền, Từ Bi Hỉ Xả, bốn Định Không có Sắc thân hay là bốn Định trong Cõi Không có Sắc thân. Tất cả không não loạn việc chúng sinh, yên vui việc chúng sinh. Do thương xót chúng sinh, hiện ra giúp cho nhập vào Pháp Bình Đẳng của các Phật.

Bồ Tát dừng ở Bậc Khó Được đó, gặp ngay số trăm nghìn vạn trăm triệu Phật, cúng dưỡng tôn trọng ca ngợi. Quần áo thực phẩm, đồ ngủ thuốc bệnh, thân thiết nghe Pháp, nghe Pháp xong Xuất gia. Đã Xuất gia ở nơi ở của các Phật, được nghe nhận Kinh Pháp, mà làm Thầy Pháp, nói lợi ích của Pháp. Được chuyển đổi tốt hơn, được nghe nhiều Tam muội tích tụ. Thậm chí trải qua trăm nghìn vạn trăm triệu Kiếp, không quên mất việc này. Bồ Tát như thế khi đó tất cả Phúc Đức Căn thiện, chuyển đổi được sáng sạch. Ví như luyện thành vàng mười, dùng xa cừ đánh bóng sáng, quang của nó chuyển đổi tốt hơn.

Bồ Tát dừng ở trong Bậc đó do lực Trí tuệ Phương tiện, công Đức Căn thiện chuyển đổi sáng sạch tốt hơn, Bậc dưới không sánh kịp. Lại như mặt Trời mặt Trăng Tinh Tú, các cung điện Trời, giữ gió giúp rời đi, không mất Pháp Niết Bàn. Bồ Tát dừng ở Bậc Khó Được, do dùng Phương tiện tư duy, Phúc Đức Căn thiện, chuyển đổi được sáng sạch gấp bội. Mà không cầm lấy chứng nghiệm, cũng không nhanh tới Đạo Phật. Tên là Bậc Khó Được của các Bồ Tát Bồ Tát lớn, nay đã nói sơ qua.

Bồ Tát Bồ Tát lớn dừng ở trong Bậc này, đa phần làm Vua Trời Đâu Suất Đà, các Căn sắc mạnh. Có thể hàng phục tất cả ngoài Đạo, có làm được Nghiệp, hoặc Bố thí lời nói êm dịu, lợi ích cùng công việc. Đều không rời nhớ Phật nhớ Pháp, nhớ bạn Bồ Tát. Thậm chí không rời nhớ đầy đủ Tất cả loại Trí tuệ. Bản thân cần lúc nào ở trong chúng sinh, là hàng đầu là tôn quý. Thậm chí ở trong tất cả chúng sinh là người dừng dựa.

Bồ Tát đó nếu muốn như thế siêng thực hành Tinh tiến, thời gian giây phút. Có thể được nghìn trăm triệu Tam muội, thậm chí tỏ ra nghìn trăm triệu Bồ Tát, dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng lực nguyện, Thần lực Tự do lại vượt hơn số đó, bao nhiêu trăm nghìn vạn trăm triệu không thể được biết.

Phật Tử đã vượt qua được bậc thứ năm, cần Tinh tiến vượt bậc để có thể nhập vào Pháp Trí tuệ tới Niết Bàn. Đây là môn Pháp cuối cùng trong sáu Pháp tới Niết Bàn của Đạo Bồ Tát, cũng là môn Pháp căn bản nhất của Đạo Bồ Tát.

Nam mô A Di Đà Phật.
Phật Tử Bùi Đức Huề biên soạn tháng 1/2015.