Nói về Người chết thấy cảnh giới trong bóng tối

 

Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.

Người đã sinh ra nhất định phải chết. Đó là quy luật hiển nhiên không một người đời nào tránh khỏi. Nhưng lại gây ra sợ hãi nhất cho con người. Để có thể giúp cho người đời nắm được hiện tượng trước và sau khi chết, mà ghi nhớ hiện tượng này không quên khi còn sống. Sẽ có lợi cho người khi chết, giúp cho họ lựa chọn đúng, không phải nhập vào sinh chết luân hồi Sáu Đạo.

Con người trước khi chết thì Từ Đại (Bốn Lớn) phân rời.

Một là Đất lớn hút lấy, nhập vào Nước lớn. Thời gian khoảng bốn tuần lễ, cảm giác thấy có một Lực rất lớn, áp Lực tới bức bách khắp cả, cùng với mỗi lỗ chân lông của toàn thân. Sau đó nhập ngay vào tạng bên trong và xương khớp. Ngạt thở trầm trọng đau khổ bức bách, khổ không thể nói. Biến hóa ở bên ngoài như gân thịt rung động, chân tay co rút.

Hai là Nước lớn hút lấy, nhập vào Lửa lớn. Lúc này cảm thấy khí lạnh bức bách khắp cơ thể, nhập sâu vào xương tủy. Nội tạng lạnh cóng đau khổ không chịu được. Khí nóng, bếp lửa đều không thể khiến cho nóng ấm. Sắc mặt chuyển sang trắng xám. Hơi thở ngắn gấp.

Ba là Lửa lớn hút lấy, nhập vào Gió lớn. Theo lý người sống đã lui mất một nửa của Bốn Lớn. Do vậy đau khổ thêm kịch liệt. Họ cảm thấy được Lực nóng bỗng nhiên phát ra. Giống như lửa cháy mạnh thiêu đốt khắp cả trong ngoài thân thể. Đau khổ giống như rang nấu trưng luộc. Cơ thịt gân khớp rất đau mà biến thành như gỗ cứng. Lúc này mặt má đều đốt nóng sắc hồng, Thần sắc mê muội, sinh ra hiện tượng khí thở ra nhiều so với hít vào.

Bốn là Gió lớn chia rời. Người sắp chết bỗng nhiên cảm thấy một trận gió rất lớn thổi tới. Thân thể tay chân như cắt rời, các khớp như phá nát. Sau thời gian này Bốn Lớn chia rời, sáu Căn tan hỏng dần, Thần thức ly rời thân thể. Tùy theo Nghiệp làm trước kia lưu truyền nhận quả báo.

Sau khi người sắp chết tắt thở, Thần thức còn chưa bỏ đi. Trong khoảng thời gian hấp hối vẫn còn hiểu biết. Nếu không có tình huống đặc biệt, đợi sau qua mười hai giờ, toàn thân hoàn toàn lạnh giá. Sau khi Thần thức rời ra, mới tính là chết.

Cảnh giới trong bóng tối.

Sau khi chết Thân trong bóng tối hay gọi là Trung âm thân. Đi liền với nó là tục lệ Bốn mươi chín ngày sau khi chết. Tục lệ này là do Lực nguyện, Lực uy Thần công Đức Phúc Đức Trí tuệ của các Phật Bồ Tát mà có. Vì muốn giúp cho con cháu, thân thuộc, bạn thiện của người chết và chúng sinh còn sống ở Cõi Sa Bà tu công Đức, hồi hướng cho người chết. Giúp cho Thần thức của người chết nhận được công Đức này, mà được diệt tội và được Giải thoát.

Mặt khác sau khi chết, Trí tuệ của người chết được tăng gấp chín lần so với lúc còn sống. Giúp cho người chết có Trí tuệ lớn, phân biệt nhận biết tránh nhập vào cảnh giới sai, mà rơi xuống Sáu Đạo luân hồi sinh chết. Đây cũng là do Lực uy Thần công Đức Phúc Đức Trí tuệ, Lực nguyện của các Phật Bồ Tát dành cho người chết.

Khi người đang còn sống đọc Kinh nghĩ nhớ Phật Bồ Tát, thì các Phật Bồ Tát đều hóa hiện Thân tới trước họ. Do vậy người chết sẽ được nghe Kinh, được thấy hóa thân Phật Bồ Tát. Giúp cho Thần thức của người chết yên định. Lúc đó người chết cũng có thể cùng với người đang sống đọc Kinh, nghĩ nhớ Phật Bồ Tát, tự tạo ra công Đức cho bản thân, mà diệt mất tội và được Giải thoát.

Đối với người sống khi đọc Kinh, nghĩ nhớ Phật, cúng dưỡng Phật Pháp Tăng, cũng tự trừ bỏ tội Nghiệp của mình, làm tròn bổn phận báo Hiếu. Hiện tại được yên vui, mọi việc thuận theo ý muốn, khi chết được Giải thoát. Ở đây người đọc Kinh Chú, nghĩ nhớ Phật Bồ Tát, không cần nghĩ rằng phải có công phu gì cả, mà chỉ cần thành tâm kính lễ, đọc Kinh Chú, nghĩ nhớ Phật sẽ được toại nguyện. Do chúng ta đang sống học tập và làm việc, đều luôn luôn dựa vào Lực uy Thần công Đức Phúc Đức Trí tuệ, Lực nguyện của các Phật Bồ Tát và Lực của Kinh Chú Pháp Phật, chứ không thể dựa vào Lực công phu của chúng ta. Vì chúng ta sinh ra từ Pháp, mà Pháp vốn dĩ không có. Cho nên chúng ta cũng chẳng có, huống chi có Lực công phu. Mặt khác thành tâm chính là Lực công phu.

Hiện nay trong rất nhiều đám tang có mở đài đọc các bài Kinh Chú, đọc tên hiệu Phật. Việc này chỉ lợi ích cho người còn sống nghe biết và tu học. Đối với người chết hoàn toàn không có lợi ích, không giúp cho họ siêu thoát. Do vì các giác quan hay là sáu Căn của người chết : Mắt tai mũi lưỡi thân ý đã bị hủy hoại, chỉ còn lại Tâm thức thứ bảy và thứ tám : Tâm biết, tâm mắt, tâm tai, tâm mũi, tâm lưỡi, tâm thân, tâm ý. Do vậy phải dùng Lực tâm đọc của người còn sống, mới giúp cho Tâm thức của người chết nghe được. Khi đài đọc Kinh Chú và tên hiệu các Phật Bồ Tát, thì các Phật Bồ Tát không hóa hiện thân tới. Người chết cũng không trông thấy thân hóa hiện của Phật Bồ Tát mà cầu Giải thoát.

Cần thực hiện việc đọc Kinh, nghĩ nhớ Phật Bồ Tát càng sớm càng tốt. Tốt nhất là khi biết người bị chết sắp tắt thở, hoặc sau khi tắt thở, đọc ngay trong vòng từ hai mươi đến ba mươi phút đầu tiên. Vì đây là khoảng thời gian mà người chết còn ở trong cảnh giới Quang sáng, giống như là cảnh giới của người bình thường, như là cảnh giới của người nằm ngủ, chưa phải cảnh giới của người chết, chưa vào cảnh giới hôn mê.

Cần đặt người chết ở tại nơi đã tắt thở, ở trong tư thế như người nằm ngủ, không được khóc không được vuốt nắn, xoa bóp quấy rối, không gây ồn ào náo loạn, thậm chí vui vẻ như không có gì xảy ra. Mọi việc cần diễn ra như bình thường.

Nếu khi còn sống người chết này có tu Đạo Tinh tiến, có tin nguyện làm đúng. Người này có thể tự mình tới sinh Tây Phương Cực Lạc, không cần trợ giúp của người khác. Tự bản thân Phật A Di Đà, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và các Chúng Thánh tới đón rước, được nói như ở trong Kinh Quan sát Vô Lượng Thọ Phật. Nếu tu chưa Tinh tiến hoặc không tu Đạo, con cháu thân thuộc cần tập trung đọc Kinh Chú, đọc tên hiệu Phật Bồ Tát và đọc sám hối Quy y phát nguyện hồi hướng, cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, cầu siêu tới sinh Tây Phương Cực Lạc.

Phương Pháp cần tiến hành là đọc tên hiệu các Phật Bồ Tát, cúng dưỡng Phật Pháp Tăng, đọc Kinh Chú Pháp Phật. Phần đọc tên hiệu các Phật Bồ Tát, cúng dưỡng Phật Pháp Tăng, đọc Kinh Chú Pháp Phật. Đã được nói rõ trong Kinh Nguyện trước kia của Địa Tạng Bồ Tát. Các Phật Tử cứ theo Kinh Nguyện trước kia của Địa Tạng Bồ Tát mà tiến hành.

Về việc đọc Kinh Chú Pháp Phật. Chúng ta có thể đọc Kinh Nguyện trước kia của Địa Tạng Bồ Tát. Cũng có thể đọc các Kinh Đại Thừa Pháp Bình đẳng Bậc Phật khác, đặc biệt là nên đọc Kinh Đà La Ni Hộp ấn báu Xá Lợi toàn thân bí mật của tất cả Tâm Như Lai. Kinh này ngắn, dễ hiểu, dễ đọc, mà Lực uy Thần công Đức của Kinh này thuộc loại cao nhất và được tất cả các Phật Ba Đời mười phương nhớ giúp, do vậy hiệu quả cũng cao nhất.

Sau khi tắt thở hơn mười hai giờ, thân thể của người chết đã lạnh cứng và chuyển sang cảnh giới Tiếp tục phát Quang sáng. Lúc này người chết chưa tự biết là mình đã tắt thở hết mệnh. Vẫn nghe, vẫn biết mọi người gọi nhau, nói chuyện. Lực Nghiệp đáng sợ, ảo ảnh và hình ảnh của Ma Quỷ Diêm La còn chưa hiện ra.

Nếu khi còn sống người chết này có tu Đạo Tinh tiến nhưng chưa thực tin, người này có thể  tới sinh Tây Phương nhưng chỉ sinh ở biên giới của Tây Phương Cực Lạc và sinh trong bào thai. Nếu tu chưa Tinh tiến hoặc không tu Đạo, con cháu thân thuộc cần tập trung đọc Kinh Chú, đọc tên hiệu Phật Bồ Tát và đọc sám hối Quy y phát nguyện hồi hướng, cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, cầu siêu tới sinh Tây Phương Cực Lạc.

Trong thời gian này người chết nếu như có trông thấy thân thích : Như ông bà cha mẹ anh chị em, cô dì chú bác bạn bè đã chết, hoặc xuất hiện oán gia trái chủ, hoặc là thấy cảnh tượng sợ hãi khác. Đều là Quỷ Thần của ba Đạo ác : Địa ngục Quỷ đói Súc sinh biến hóa ra. Chủ yếu là lừa dối bức ép người chết nhập vào Ba Đạo ác nhận lấy đau khổ. Do vậy tuyệt đối không nghe lời nói của họ và đi theo họ, mà rơi xuống ba Đạo ác. Hoặc thấy Tiên Trời tới đón rước, nhất định không đi theo họ. Nếu không lại rơi vào biển khổ sinh chết của luân hồi Sáu Đạo. Lúc này cần chuyên tâm nghĩ nhớ A Di Đà Phật cầu sinh về Tây Phương Cực Lạc.

Nếu bỏ lỡ các cơ hội này, thì có thể tiếp tục thực hành trong khoảng thời gian bốn mươi chín ngày. Sau đây là cảnh hiện ra trong bốn mươi chín ngày. Cũng là cảnh giới Thân trong bóng tối của người chết hay còn gọi là Trung âm thân.

Tuần lễ đầu tiên.

Sau khi chết ba ngày rưỡi. Người chết do còn ở trạng thái hôn mê, dần dần hiểu lý lẽ. Người chết sở dĩ thấy được, nghe được tiếng khóc thương của bạn bè thân thuộc, kêu khóc, kêu gọi. Chỉ là bạn bè thân thuộc của người chết không nhận thấy, không nghe được tiếng nói kêu gọi của người chết, cũng cảm thấy không còn sự tồn tại của người chết. Do vậy người chết nghi hoặc, không thấy còn có người nào quan tâm đến người chết, mà thường hay không vui, người chết mất hứng thú liền rời xa người sống.

Ở giai đoạn này ảnh ảo của Lực Nghiệp bắt đầu hiện ra. Người chết tuy có bảy cơ hội được độ thoát. Nhưng cũng có bảy lần rơi vào nạn hiểm luân hồi. Nếu như người chết trước kia khi sống chưa hay am hiểu, chưa nhớ kiên cố Pháp Phật. Sau khi chết lại không có thầy thiện, bạn thiện giúp đỡ tỏ ra dẫn hướng. Tự mình cũng chưa hay nhất tâm đọc nghĩ nhớ câu A Di Đà Phật. Thường hay thấy trong nạn hiểm hiện ra Lực Nghiệp. Sáu Thần thức kinh hoàng không có chủ, bỏ chạy. Vì thế mà nhập vào trong ba Đạo ác : Địa ngục Quỷ đói Súc sinh.

Ngày thứ nhất của Tuần lễ đầu.

Thân trong bóng tối của người chết thấy được một vầng sáng xuyên qua, màu xanh lam, quang Trí tuệ cõi Pháp sáng rực. Tự thân Tì Lư Giá Na Như Lai, thân trắng, tay cầm tám vầng Pháp trục bánh xe, ngồi trên tòa báu Sư Tử hướng về người chết, chiếu sáng qua lại. Đồng thời cũng có một đường quang sáng Đạo Trời màu trắng lẫn lộn, đều cùng chiếu tới. Lúc này không nên cầm lấy quang trắng mềm mại yêu tiếc. Tránh phải bay vào cung điện Trời, rơi vào trong Sáu Đạo luân hồi. Cần lập tức nhảy vào quang sáng xanh lam của Tì Lư Giá Na Như Lai. Cùng nhập vào quang sáng xanh lam, liền sinh ở giữa Đất Phật Mật Nghiêm. Vĩnh thoát khổ của Sáu Đạo luân hồi.

Ngày thứ hai của Tuần lễ đầu.

Có quang sáng màu trắng, quang sáng của mắt chiếu sáng rực rỡ. Do A Súc Phật ở phương Đông, tức là Kim Cương Tát Đỏa, thân màu xanh, cầm năm loại chày Kim Cương, ngồi ở trên tòa báu Voi chúa. Chiếu sáng Thân trong bóng tối của người chết. Bên cạnh Phật có hai Bồ Tát lớn, là Địa Tạng và Di Lặc. Đồng thời cũng có luồng khói sương giống như quang sáng của Địa ngục mờ tối, đều cùng chiếu tới. Lúc này không thể nhận lấy quản chế của Lực Nghiệp. Mà sợ hãi trốn chạy quang của Phật chiếu sáng. Do vì một sớm nhảy vào trong quang khói sương, liền rơi xuống Đạo Địa ngục, nhận khổ vô cùng. Nếu hay nhất tâm trở về kính nghĩ nhớ Phật, nhảy vào quang trắng sáng rực rỡ của Phật, liền sinh ở Đất Phật Diệu Lạc nơi phương Đông. Thoát khỏi khổ luân hồi sinh chết.

Ngày thứ ba của Tuần lễ đầu.

Có quang sáng sạch màu vàng, sáng mạnh chiếu sáng rực rỡ. Do Bảo Sinh Phật ở phương Nam, thân màu vàng, tay cầm báu vật vi diệu, ngồi trên lưng Ngựa. Chiếu sáng Thân trong bóng tối của người chết. Bên cạnh Phật có hai Bồ Tát lớn, là Hư Không Tạng và Phổ Hiền. Đồng thời cũng có quang sáng màu vàng mờ tối mơ hồ của Đạo nhân gian, đều tới chiếu sáng. Lúc này Thân trong bóng tối cần phải hết sức tránh mở, kiềm chế tâm công cao kiêu mạn. Nhanh nhảy vào trong quang màu vàng sáng rực rỡ. Liền được yên ở Đất Phật Chúng Bảo Trang Nghiêm nơi phương Nam. Vĩnh thoát đau khổ luân hồi sinh chết. Cần nhớ không được nhảy vào quang vàng mờ tối, hướng về tự ích kỷ công cao, kiêu mạn của bản thân tích lũy thành tập tính. Mà rơi vào Đạo Nhân gian, nhận lấy đủ các loại Phiền não và đau khổ của sinh chết ly biệt.

Ngày thứ tư của Tuần lễ đầu.

Có quang sáng sạch sáng tỏ rực rỡ lấp lánh màu hồng. Do A Di Đà Phật, thân màu hồng, tay cầm hoa Sen báu vi diệu, ngồi trên tòa báu Khổng Tước. Chiếu sáng Thân trong bóng tối của người chết. Bên cạnh Phật có hai Bồ Tát lớn, là Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Đồng thời cũng có quang sáng màu hồng mờ tối mơ hồ của Đạo Quỷ đói, đều cùng tới chiếu sáng. Lúc này cần hết sức tránh mở ra chướng ngại che lấp, kiềm chế tham tiếc luyện tập ác. Cần nhảy vào trong quang sáng màu hồng Thanh tịnh sáng rực rỡ. Liền được yên ở Đất sạch Tây Phương Cực Lạc, mà được Giải thoát. Cần nhớ không được nhảy vào quang sáng màu hồng mềm mại mờ tối, hướng về ích kỷ tham tiếc, tập tính cố chấp nương nhờ. Mà rơi vào Đạo Quỷ đói, nhận lấy khổ đói khát.

Ngày thứ năm của Tuần lễ đầu.

Có quang sáng sạch sáng chói, sáng tỏ màu xanh. Do Bất Không Thành Tựu Phật ở phương Bắc, thân màu xanh, tay cầm chày Kim Cương mười chữ, ngồi trên tòa Giác Ưng đầu quạ thân người. Chiếu sáng Thân trong bóng tối của người chết. Bên cạnh Phật có hai Bồ Tát lớn, là Kim Cương Thủ và Trừ Cái Chướng. Đồng thời cũng có quang sáng màu xanh tối của Đạo A Tu La, đều cùng tới chiếu sáng. Lúc này cần hết sức tránh mở ra chướng ngại che phủ, kiềm chế Nghiệp ác và ghen tị. Cần nhảy vào trong quang sáng màu xanh Thanh tịnh sáng rực rỡ. Liền được yên ở Đất Phật Diệu Hạnh Thành Tựu mà được Giải thoát. Cần ghi nhớ tuyệt đối không được nhảy vào trong quang sáng màu xanh tối nghi hoặc, hướng về tự ích kỷ ghen tị Nghiệp ác, mà rơi vào Đạo A Tu La, chắc sẽ nhận lấy khổ luân hồi tranh đấu vô cùng.

Ngày thứ sáu của Tuần lễ đầu.

Có Cõi Phật năm phương và quyến thuộc của họ, cùng nổi lên phóng quang rực rỡ sáng lòa. Quang năm màu : Xanh lam, trắng, vàng, hồng, xanh, chiếu sáng Thân trong bóng tối của người chết. Đồng thời cũng có quang sáng luân hồi của Sáu Đạo, tới chiếu sáng dụ dẫn. Đạo Trời quang trắng mờ nhạt. Đạo A Tu La quang xanh mờ nhạt. Đạo Nhân gian quang vàng mờ nhạt. Đạo Súc sinh quang xanh lam mờ nhạt. Đạo Quỷ đói quang hồng mờ nhạt. Đạo Địa ngục quang màu khói sương mờ nhạt. Lúc này cần phải hết sức tránh mở ra dẫn dụ của quang sáng luân hồi Sáu Đạo mờ nhạt. Đuổi theo nhanh nhận biết cảm ứng tính Phật của tự mình, mà tới quang sáng của Phật Thanh tịnh sáng rực rỡ, màu xanh lam, trắng, vàng, hồng, xanh. Cùng biết nhập vào trong một loại quang sáng của Phật Thanh tịnh sáng rực rỡ. Liền có thể yên ở Đất Phật mà được Giải thoát, không nhận lấy khổ luân hồi sinh chết.

Ngày thứ bảy của Tuần lễ đầu.

Có giữ lấy quang sáng năm phương : Đông Nam Tây Bắc và Giữa của các Phật. Tay giữ Đao báu hình Trăng khuyết, cùng với chứa đầy xương, che đầu người, máu nước dịch, biểu thị vứt bỏ sinh mệnh của người, ném bỏ dây buộc luân hồi sinh chết, tay phải nâng lên cao, kết ấn tay hàng phục. Một đường vui ca múa mà tới, phóng ra quang Trí tuệ năm màu, chiếu sáng Thân trong bóng tối của người chết. Lúc này cũng có quang màu xanh lam mờ tối của Đạo Súc sinh, cùng tới chiếu sáng.

Giữ lấy sáng suốt Quang Trí tuệ năm màu của các Phật, cùng nương nhờ Pháp, cảnh chân thực của nó và nghìn tiếng chim hót lớn, nương nhờ tiếng nói hỗn tạp : Giết nó ! Giết nó ! Đẩy núi lật biển mà tới. Thân trong bóng tối của người chết thấy quang Trí tuệ mãnh liệt năm màu, tiếng vang lớn này. Nhất định không được kinh hoàng sợ hãi bỏ chạy. Cần phải bình tĩnh phát ra nghĩ nhớ đúng. Cần dũng mãnh nhập vào vì cầu được Giải thoát.

Tuần lễ thứ hai.

Bảy ngày trước đây Phật Bồ Tát dùng hình tượng Từ Bi hút nhận người chết. Chỉ là tâm của người chết chưa biết độc lập tự chủ. Liên tiếp hai ba lượt bị hãm vào trạng thái hôn mê. Hoặc nhận lấy hạn chế của lượng Lực Nghiệp ác sâu nặng. Chưa thể biết nhập vào Giải thoát. Do điều này Phật Bồ Tát ở trong Tuần lễ thứ hai, thời gian sau khi chết từ mười ngày rưỡi tới mười bảy ngày rưỡi. Sẽ dùng uy mãnh Phẫn nộ tức giận cao lớn không sánh, cảnh tỉnh Thân trong bóng tối ở hình tượng vầng lửa cháy mạnh, hút lấy người chết. Vì thế người chết lại có bảy cơ hội được Giải thoát.

Ở trong thời gian Tuần lễ thứ hai, sau khi tan mất một loại quang sáng. Một loại quang sáng khác liền hiện ra. Người chết liền không có thời gian phân tâm. Tâm họ biết tới biến hóa, được tất cả chú ý của Thần thức. Nếu người chết với sống trước kia từng nghe tu học Pháp này. Ở giai đoạn này nhận biết hòa nhập vào, mà được Giải thoát, đều không có khó khăn. Chỉ là trước kia chưa nghe Pháp này, thường không có cách nhận biết các Phật Phẫn nộ, mà sợ hãi kính phục hoảng sợ, nản chí trốn chạy. Thậm chí rơi xuống vách núi, mà rơi vào Đạo ác, nhận khổ vô cùng.

Ngày thứ tám.

Có uống máu Phẫn nộ tới trước Tôn Giả phóng quang hút nhận, Thân người đó màu nâu, ba mặt sáu tay, chín mắt bốn chân, má bên phải màu trắng, má bên trái màu hồng, giữa hai má màu nâu đậm. Xung quanh thân phóng ra ánh sáng Trí tuệ. Răng xấu phóng quang nhấp nháy. Trong miệng phát ra âm thanh kêu gọi sắc nhọn : Được lắm, hay là tiếng cười hặc hặc. Đây thực là thân Phẫn nộ của Tì Lư Giá Na Như Lai tới hút nhận. Vì thế không được kinh hãi bỏ chạy. Cần nhận biết lặng lẽ, hòa nhập vào trong ánh quang đó, liền được yên ở Nước Phật Trang Nghiêm. Đang hạ xuống được Giải thoát.

Ngày thứ chín.

Có các Tôn Giả Phẫn nộ uống máu Kim Cương Bộ, tới trước phóng quang hút nhận. Thân người đó màu xanh lam đậm, ba mặt sáu tay bốn chân. Đây thực là thân Phẫn nộ của A Súc Phật ở phương Đông tới hút nhận. Vì thế không được kinh hãi bỏ chạy. Cần nhận biết lặng lẽ, hòa vào trong ánh quang đó. Liền được yên ở Đất Phật Trang Nghiêm Thanh tịnh. Đang hạ xuống được Giải thoát.

Ngày thứ mười.

Có các Tôn Giả Phẫn nộ uống máu Bảo Bộ, tới trước phóng quang hút nhận. Thân người đó màu vàng, ba mặt sáu tay bốn chân, má bên phải màu trắng, má bên trái màu hồng, ở giữa màu vàng đậm. Dừng ở trong vầng ánh lửa. Đây thực là thân Phẫn nộ của Bảo Sinh Phật ở phương Nam tới hút nhận. Vì thế không được kinh hãi bỏ chạy. Cần nhận biết lặng lẽ, hòa vào trong ánh quang đó. Liền được yên ở Đất Phật Trang Nghiêm Thanh tịnh. Đang hạ xuống được Giải thoát.

Ngày thứ mười một.

Có các Tôn Giả Phẫn nộ uống máu Liên Hoa Bộ, tới trước phóng quang hút nhận. Thân người đó màu hồng đậm, ba mặt sáu tay bốn chân, má bên phải màu trắng, má bên trái màu xanh lam, ở giữa màu hồng đậm. Đây thực là thân Phẫn nộ của A Di Đà Phật ở phương Tây tới hút nhận. Vì thế không được kinh hãi bỏ chạy. Cần nhận biết lặng lẽ, hòa vào trong ánh quang đó. Liền được yên ở Đất Phật Trang Nghiêm Thanh tịnh. Đang hạ xuống được Giải thoát.

Ngày thứ mười hai.

Có các Tôn Giả Phẫn nộ uống máu Yết Ma Bộ, tới trước phóng quang hút nhận. Thân người đó màu xanh đậm, ba mặt sáu tay bốn chân, má bên phải màu trắng, má bên trái màu hồng, ở giữa màu xanh đậm. Đây thực là thân Phẫn nộ của Bất Không Thành Tựu Phật ở phương Bắc tới hút nhận. Vì thế không được kinh hãi bỏ chạy. Cần nhận biết lặng lẽ, hòa vào trong ánh quang đó. Liền được yên ở Đất Phật Trang Nghiêm Thanh tịnh. Đang hạ xuống được Giải thoát.

Ngày thứ mười ba.

Có Tôn Giả Phẫn nộ tám nơi và Tôn Giả thân nữ đầu thú tám nơi, tới trước phóng quang hút nhận. Đều ngồi ở tám phương, hai tầng vây quanh. Đều hiện ra tướng mạo tàn bạo hung ác. Lúc này không được sợ hãi, lo bị hại. Cần phải bình tĩnh nhận biết, mà cầu được Giải thoát.

Ngày thứ mười bốn.

Có Tôn Giả Phẫn nộ thân nữ, bốn người đầu thú, phóng quang chiếu sáng Thân trong bóng tối của người chết. Bên ngoài cũng có hai mươi tám người : Đông Tây Nam Bắc đều có sáu người, bốn cửa bên ngoài cùng đều có một người. Thần nữ Lực lớn đều giữ lấy đủ các loại vũ khí, tới trước phóng quang chiếu sáng. Lúc này không được hoảng sợ, cần nhận biết lặng lẽ nhảy vào. Liền được yên ở Đất Phật Trang Nghiêm Thanh tịnh. Đang hạ xuống được Giải thoát.

Thân trong bóng tối nếu như do vì sợ hãi mà không có cách nhập vào trong ánh quang. Cõi Phật năm phương do có Hỉ Lạc Bộ Thánh Tôn, sẽ biết dùng trạng thái cảnh tượng của Trời Đại Hắc, tới trước phóng quang. Toàn bộ Thánh Tôn Bộ Phẫn nộ sẽ dùng Vương Pháp Diêm La, Vua Quỷ Tư Mệnh, lính Quỷ hiện thân, ác mạnh cao lớn, ăn uống máu của người, tay giữ sổ Nghiệp thiện ác, trong miệng không ngừng kêu thét : Đánh giết. Đầy Trời kín đất mà tới. Lúc này tuyệt đối không được sợ hãi, hoảng sợ. Do vì Thân trong bóng tối là một loại Nghiệp tập luyện của cha mẹ. Chính là bị giết rồi băm nát, cũng không biết chết. Huống chi đây là cảnh tượng hiếm, tính của nó vốn Rỗng, không thực như ảo. Cần phải lặng lẽ nhận biết cầu được Giải thoát.

Trong mười bốn ngày đầu đều do Lực nguyện, Lực uy Thần công Đức Phúc Đức Trí tuệ của các Phật Bồ Tát, mà các Phật Bồ Tát tự tới cứu thoát tất cả các chúng sinh bị chết. Vì muốn giúp cho người chết  được tới sinh Đất Phật Trang nghiêm Thanh tịnh. Thoát khỏi sinh chết luân hồi của Sáu Đạo. Nếu như con cháu, thân thích, bạn thiện đọc Kinh Chú, cúng dưỡng Phật Pháp Tăng, nghĩ nhớ Phật Bồ Tát. Dùng để hỗ trợ thêm cho người chết. Chắc chắn là người chết được độ thoát.

Trên đây là các cảnh giới của người chết ở trong thời gian bốn mươi chín ngày. Chúng sinh khi còn sống nhất định phải học và ghi nhớ Pháp này không được quên. Ngoài ra có thể đọc thêm cảnh sinh của chín phẩm Đài sen, được nói ở trong Kinh Quan sát Vô Lượng Thọ Phật. Để có thể lợi ích cho chúng sinh trong mọi hoàn cảnh sau khi chết.

Nam mô A Di Đà Phật.
Phật Từ Bùi Đức Huề biên soạn năm 2015.