Những Cánh Hoa Đàm
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

TẬP III

Lời Nói Đầu

Trong thời gian theo Hòa thượng học đạo, Tăng Ni và Phật tử chúng tôi, người thì thắc mắc về ý nghĩa Phật Tổ dạy trong Kinh Luận đem ra thưa hỏi, xin Hòa thượng giải nghi. Người thì gặp chướng ngại trên đường tu, trình Hòa thượng xin chỉ dạy để khắc phục vượt qua. Người thì tu tiến được những bước khả quan cũng trình Hòa thượng xin chỉ dạy để tiến xa hơn nữa. Tất cả những câu hỏi của chư Tăng Ni và Phật tử nêu lên đều được Hòa thượng giải đáp tường tận.

Chúng tôi nhận thấy những câu giải đáp của Hòa thượng rất thiết thực giúp cho người học đạo những kinh nghiệm trong lúc dụng công tu hành, thêm sáng tỏ lý đạo và tăng trưởng tín tâm. Thế nên chúng tôi sưu tập thành sách để có tài liệu tu học và nhiều người cùng được lợi ích.

Sau khi ghi xong, chúng tôi trình Hòa thượng xem, được Hòa thượng hoan hỷ cho xuất bản. Mong tập sách này giúp thêm những kinh nghiệm cho các bạn đồng tu học để có được niềm vui lớn. Tuy chúng tôi đã trình Hòa thượng xem qua, nhưng chắc chắn quyển sách không tránh khỏi sai sót, xin độc giả niệm tình bỏ qua cho.

TV. Hương Hải, mùa an cư 2006

Kính ghi

THUẦN GIÁC

***

HỎI: Thưa thầy, khi ngài Duy-ma-cật bệnh Phật sai Bồ-tát Văn Thù đến thăm, đến nơi Bồ-tát Văn Thù hỏi ngài Duy-ma-cật: “Tại sao Ngài bệnh”. Duy-ma-cật đáp: “Tại vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh, chúng sanh hết bệnh thì tôi hết bệnh”. Tâm trí con còn hạn hẹp chưa hiểu được ý này kính xin thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Khi Ngài Duy-ma-cật nằm bệnh, Phật bảo Bồ-tát Văn Thù đến thăm, khi đến thăm Ngài hỏi: “Bệnh ông nhiều ít, gần mạnh chưa?”. Duy-ma-cật đáp: “Vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh, nếu chúng sanh hết bệnh tôi sẽ hết bệnh”.

Trong kinh nói Duy-ma-cật là một vị cổ Phật hiện thân cư sĩ để giúp cho đức Phật Thích-ca trên đường giáo hóa. Bây giờ chúng ta chỉ nói Bồ-tát thôi. Tâm Bồ-tát là tâm lợi ích chẳng sanh, thương chúng sanh như thương thân mình cho nên Bồ-tát thấy chúng sanh bệnh là thấy mình bệnh, bệnh của chúng sanh là bệnh gì? – Bệnh si mê. Vì si mê mà tạo nghiệp trầm luân trong tam giới không ra khỏi, Bồ-tát vì thương muốn tạo phương tiện giáo hóa chúng sanh thức tỉnh, hết tạo nghiệp mới thoát khỏi trầm luân trong tam giới. Vì tâm nguyện rộng lớn của Bồ-tát, khi chúng sanh còn bệnh tức là còn si mê thì Bồ-tát thấy mình bệnh nên lăn lóc trong cõi trần để độ. Khi chúng sanh hoàn toàn tỉnh giác không cần độ nữa thì Bồ-tát hết bệnh. Như Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện độ chúng sanh ở địa ngục, bao giờ địa ngục trống không thì Ngài mới thành Phật. Chỗ này nói lên tình thương chúng sanh như trời bể của Bồ-tát. Người tu chân chính phải theo hạnh nguyện Bồ-tát mới có thể làm lợi ích chúng sanh.

Như vậy bệnh của ngài Duy-ma-cật là do chúng sanh mê lầm mà Ngài giả bệnh. Khi nào chúng sanh hết mê thì Ngài hết bệnh.


HỎI: 
Thấy được lý nhân quả, sống theo lý nhân quả có phải là huệ không? Đa số người nghĩ khi nào tôi khá giả mới có tài vật để giúp người. Có người lại nói khi nào có tâm muốn giúp người thì mới có đồ vật để cho. Kính bạch thầy như vậy ý nào đúng?

ĐÁP: Trong nhà Phật có nói tam huệ là văn, tư, tu. Chúng ta thấy được lý nhân quả, rồi ứng dụng lý nhân quả thì đó là huệ học. Còn đợi khá giả có tài vật nhiều mới bố thí, nếu cả đời chưa khá giả thì cả đời không làm được việc thiện. Còn nói rằng tâm mình nghĩ bố thí liền có tài vật để bố thí thì duy tâm quá. Vậy Phật tử phải dung hợp hai ý, vừa nghĩ bố thí vừa ráng làm cho có tiền, tiền mình làm ra thấy có phần nào hơi dư thì phát tâm bố thí. Đó là vừa nghĩ bố thí vừa làm ra tiền của để bố thí chớ đừng một bên thì không hợp.


HỎI: Kính bạch thầy, chúng con tu chưa chứng A-la-hán, vậy khi thân tứ đại tan rả Tánh giác có đi đầu thai không? Nếu không thì ở đâu? – Tánh giác và giác linh khác nhau thế nào?

ĐÁP: Nếu tu chưa chứng A-la-hán thì bảo đảm còn tái sanh. Tái sanh thì lúc chỗ này lúc chỗ kia, tùy nghiệp lành dữ của mình mà đến chỗ tốt xấu không cố định. Phật tử đừng lo khi chưa chứng A-la-hán không biết Tánh giác đi đâu, sẽ đi dài dài trong vòng luân hồi chớ chưa dừng đâu.

Tánh giác và giác linh chỉ là hai từ ngữ thôi. Tánh giác là cái biết sáng suốt mà ai cũng có. Người tu khi chết rồi thường được tôn xưng là giác linh, vì người ta tin rằng người tu có cái sáng suốt hơn thế tục nên gọi là giác linh. Còn nói hương linh hay linh hồn nghe nó phàm tục quá. Cho nên đối với những vị xuất gia gọi là giác linh, đó chỉ là danh từ thôi.


HỎI: 
Kính bạch thầy, khi tọa thiền xong, sau phần hồi hướng con thành tâm cầu nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho thầy, cho Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt thường trụ với thời gian để nêu cao ngọn đèn chánh pháp của đức Như Lai. Con nghĩ vậy để góp công với Thiền viện có đúng không, cúi xin thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Phật tử này nói trong hằng ngày lúc tu hành chỉ phát tâm cầu nguyện cho Thiền viện Trúc Lâm sớm thành tựu và được lâu dài để lưu truyền ngọn đèn chánh pháp. Dù chỉ là phát tâm hồi hướng cũng là một sự đóng góp rồi, điều đó rất tốt. Nhưng quý vị thấy tôi xây cất Thiền viện ở Đà Lạt, nghe thì vui mừng mà không biết tôi làm với mục đích gì. Tiện đây tôi xin nói cho quý Phật tử được rõ, tôi xây cất Thiền viện ở Đà Lạt với mục đích làm một cái gì cho Phật giáo Việt Nam. Vì hiện giờ ở Việt Nam chưa có chùa nào tu thiền theo tinh thần Phật giáo Việt Nam. Nếu chùa tu theo Đại thừa thì tụng kinh chữ Hán, còn chùa Nguyên thủy thì tụng kinh Pali, vậy có cái nào là Việt Nam đâu! Đến ngày rằm hoặc ba mươi Phật tử tới chùa lạy sám hối, lẽ ra sám hối là phơi bày những lỗi lầm mà mình đã phạm, đằng này chỉ quỳ xuống đọc: “Như thị đẳng nhất thiết chư Phật…” đọc xong rồi lạy, lạy xong rồi đi về mà không hiểu gì hết. Như vậy tụng đọc mà không hiểu kinh nói cái gì thì nghi thức ấy có phải là Phật giáo Việt Nam không? Khi Phật tử cúng cầu gì đó thì quý Thầy phục nguyện toàn âm Hán tự chớ không có một âm tiếng Việt. Tìm một ngôi chùa tu theo Phật giáo Việt Nam không có!

Tại sao Phật giáo ở Ấn-Độ khi truyền sang Trung Hoa họ chuyển thành nghi thức Trung Hoa, sang Nhật Bản chuyển thành nghi thức Nhật Bản, mà Việt Nam cứ giữ y nguyên không chuyển nổi? – Đó là do chúng ta lệ thuộc văn hóa của nước Tàu. Ở Thiền viện Trúc Lâm tôi quy định phải thực hành nghi thức Việt Nam, chúng ta tu Phật nhưng Phật ở Việt Nam.

Lâu nay ở các chùa, Phật tử thường lạy Lương Hoàng Sám hoặc Từ Bi Thủy Sám v.v… những nghi thức đó do Tổ Trung Hoa đặt ra, chưa có nghi thức nào của Tổ Việt Nam. Ở Việt Nam đời Trần vua Trần Thái Tông soạn Lục Thời Sám Hối trong Khóa Hư Lục rất hay. Lỗi lầm từ sáu căn mà ra cho nên trong kinh Lăng Nghiêm Phật nói sáu căn là nhân luân hồi, sáu căn cũng là gốc giải thoát. Sáu căn là cái gốc để chúng ta tu. Lâu nay nghi thức của chư Tổ Việt Nam soạn chúng ta lại lờ đi không để ý, còn nghi thức của Trung Hoa thì đem ra tụng đọc hàng ngày. Do đó ở Trúc Lâm chúng tôi quy định phải sám hối sáu căn theo Lục Thời Sám của vua Trần Thái Tông. Còn tu thì chúng tôi tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành đúng với tinh thần Thiền Tông Việt Nam, Thiền viện Trúc Lâm ra đời nhằm vào mục đích đó và cũng là chỗ Phật tử hướng tâm cầu nguyện.


HỎI: 
Trong kinh dạy: Một cơn sân nổi lên đốt cháy cả rừng công đức. Xin thầy ví dụ cho chúng con được hiểu. 

ĐÁP: Thí dụ một ông thầy tu ở Thường Chiếu năm mười năm tích công bồi đức cũng khá, nhưng hôm nào đó bị Thầy Trụ Trì hay Tri sự rầy một trận, ông ấy bỏ tu hoàn tục. Một lần nổi sân là cởi áo nhà tu trở về thế gian thì công đức ông ấy bồi đắp bấy lâu nay có còn không? – Tiêu mất hết.

Một ví dụ khác, có nhiều Phật tử biết tu phước làm việc từ thiện. Khi làm, trong ban tổ chức có người nói trái ý liền nổi sân bỏ việc, không tiếp tục nữa, có khi cơn sân nổi lên nói càn làm bậy khiến cho công đức tích chứa từ trước mất hết. Nên nói sân là một tai họa lớn làm mất công đức lành, Phật tử nên dè dặt.


HỎI: 
Trong thời tổ Ca-na-đề-bà có một vị Tỳ-kheo thành cây nấm đền nợ thí chủ. Theo con hiểu luân hồi trong lục đạo là làm hữu tình chúng sanh có Phật tánh chớ vô tình chúng sanh cũng có Phật tánh sao?

ĐÁP: Chỗ này nếu Phật tử học tới sẽ thấy. Chuyện kể có một vị Tỳ-kheo tu hành tương đối tốt, nhưng chưa ngộ đạo, ông thọ nhận của thí chủ nhiều nên khi tịch thành cây nấm. Vị thí chủ đó nhổ nấm ăn đến khi chết thì nấm không mọc nữa, tức là hết nợ rồi. Trường hợp này trong nhà Phật gọi là hoa báo là cái báo tạm, chỉ trong thời gian ngắn chớ không phải quả báo luân hồi làm thú để trả. Kinh nói chúng sanh hữu tình thì có Phật tánh, vô tình thì có Pháp tánh. Nhưng có chỗ lại nói: “Tình dữ vô tình tề thành Phật đạo”, tức là hữu tình vô tình đều thành Phật đạo. Có Phật tánh tức là có Cái Biết. Cây cỏ có biết không? Nếu nói không sao nó biết kiếm chỗ nào có phân nước để nó hút, còn chỗ nào che rợp thì nó tránh? Đó cũng là một hình ảnh cho chúng ta thấy Tánh Biết của loài vô tình. Nó có biết nhưng Cái Biết đó rất thô sơ nên chúng ta tưởng như nó không có.


HỎI: Theo sử ghi tổ Bát-nhã Đa-la (Tổ thứ hai mươi bảy) lúc còn là đồng tử Anh Lạc, gặp tổ Bất-như-mật-đa (Tổ thứ hai mươi sáu) thưa: “Tôi nhớ xưa đồng trong pháp hội, tôn giả giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tôi giảng Tu-đa-la thậm thâm”.

Xin thầy giảng nghĩa Tu-đa-la thậm thâm cho con được rõ.

ĐÁP: Tu-đa-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Kinh. Kinh Bát-nhã có khi nói là Kinh, có khi nói là Tu-đa-la liễu nghĩa.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng xin giảng cho con hiểu, theo luật nhân quả nói có vay thì có trả, con thấy có một ông thầy xuất gia sau này xả giới hoàn tục có vợ, có con như người đời. Vậy sau khi lâm chung có bị đọa địa ngục không?

ĐÁP: Phật tử này lo cho quý vị xuất gia rồi hoàn tục, vay nợ đàn na thí chủ có bị đọa địa ngục không?

Tôi xin giải thích: Nếu hiểu luật nhân quả một cách cố định có vay có trả thì không đúng, vì lý nhân quả rất tế nhị. Trong nhân gian thường nói: “gieo gió gặt bão”, hay nói “nhân nào quả nấy”. Như vậy chưa hiểu thấu lý nhân quả của đạo Phật. Đạo Phật nói nhân quả là một chuỗi dài thời gian. Ví dụ hạt xoài ươm xuống đất cho đến thành cây có trái, phải mất bốn năm năm và phải có người săn sóc đúng mức, nếu thiếu sự săn sóc chưa chắc có trái xoài. Hiểu như vậy mới là hiểu nhân quả, chớ quyết định nhân nào quả nấy thì không được. Tôi thường nói tôi sống nhờ Phật tử giúp đỡ về tiền bạc vật chất, như vậy tôi có vay không? Nếu khẳng định vay tiền trả tiền, vay lúa trả lúa thì không trả được. Vay lúa vay tiền mà lại trả bằng thứ khác, như vay nợ tiền mà tôi trả bằng Phật pháp. Tiền quý Phật tử giúp tôi ăn năm ba tháng thì hết, còn tôi cho quý Phật tử pháp cả đời xài không hết, áp dụng tu hành cho tới khi nào thành Phật mới thôi. Tính ra thì tôi lời hơn, cho nên nói thuyết Pháp có phước là vậy.

Trở lại ông thầy xuất gia hoàn tục, nếu vì chướng duyên không thể tu nữa ông xả giới hoàn tục, chặng xuất gia của ông là tốt, bây giờ ông không kham thì ông trở về đời sống người tại gia. Nếu trong thời gian xuất gia ông tu hành đàng hoàng thì có phước, trong giai đoạn cư sĩ tại gia lỡ tạo tội thì lấy phước đó mà bù. Nếu thời gian xuất gia tu hành lôi thôi không có phước, trong giai đoạn cư sĩ tại gia ông lại tạo tội thì không có phước khi chết bị đọa. Còn ông sống đời cư sĩ đúng đắn thì cũng còn cái phước thừa xuất gia của ông, đời sau ông có thể xuất gia tu trọn vẹn hơn.


HỎI: Con nghe quý thầy dạy thức thì tỉnh, ngủ thì mê. Khi con phát tâm tu hành muốn đoạn trừ phiền não và loạn tâm. Tuy nhiên khi thức con điều phục được, khi ngủ thì bị dẫn đi lung tung. Vậy con phải thức hoài để tu có chướng đạo không?

ĐÁP: Muốn đoạn trừ phiền não và vọng tâm thì khi tu mình cố gắng tỉnh táo để có sức mạnh trị nó, còn khi ngủ thì mê, không có sức tỉnh nên bị nó dẫn, nhưng không sợ, vì trong mộng không có tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì không có quả báo. Bây giờ Phật tử phải cố gắng huân tu trí huệ càng ngày càng mạnh, nhờ sức mạnh đó mà dẹp bỏ phiền não dễ. Chừng nào đạo lực thật vững mạnh thì thức ngủ mới như nhau.


HỎI: 
Kính bạch thầy, thầy nói nhất cử nhất động là duyên nghiệp? Làm sao phân biệt được nghiệp và duyên?

ĐÁP: Tôi xin đặt câu hỏi lại cho quý Phật tử theo dõi kỹ. Duyên nghiệp mà Phật tử này hiểu là duyên nghiệp của quá khứ hay hiện tại?

Nếu nói của quá khứ thì chưa thấu đáo, bởi vì đời sống chúng ta một là trả nợ quá khứ, hai là tạo duyên vị lai. Đành rằng tất cả hành động đều là duyên nghiệp nhưng nếu duyên nghiệp thuộc quá khứ thì ta thấy như định nghiệp, nghĩa là bắt buộc mình phải như vậy, tức là phải theo một cái khuôn đã định, người ta thường nói là số mạng. Nhà Phật không chấp nhận số mạng vì quá khứ có những duyên nghiệp xấu nhưng hiện tại tạo duyên nghiệp tốt thì nghiệp xấu ở quá khứ sẽ giảm, không có cái khuôn nhất định, cũng không giống số mệnh như nhà Nho nói: Số mệnh là cái đã định sẵn không đổi được, còn nghiệp duyên theo nhà Phật thì có thể chuyển đổi xấu thành tốt.


HỎI: 
Xưa nay theo phong tục tập quán con thờ rất nhiều bàn thờ, nay con được nghe thầy giảng con thấy có phần phức tạp. Vậy con có thể bớt lại chỉ thờ cửu huyền thất tổ, đức chí tôn và các vị Bồ-tát được không?

ĐÁP: Hồi chưa biết đạo ai chỉ sao làm vậy, bây giờ biết đạo thì thờ một bàn ông bà để tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên, ở giữa thì thờ Phật để chứng tỏ mình là đệ tử Phật, ngày đêm thường nhớ Phật, như vậy đủ rồi.


HỎI: 
Làm sao biết được vấn đề nhân quả luân hồi để có thể giải thích được hiện tượng bất công của xã hội?

ĐÁP: Cái bất công ở đây không nói bất công của tổ chức xã hội, mà bất công ngay nơi con người với con người. Khi sanh ra có người đẹp, người xấu, người khỏe mạnh, người đau yếu, người tật nguyền, người lành lặn, người sanh trong gia đình sung túc, người sanh trong cảnh thiếu thốn. Những điều bất công đó không phải người ta làm nên mà sanh ra mình đã mang sẵn rồi. Làm sao giải thích có nhân quả luân hồi để mọi người thừa nhận? Về luân hồi, ngày xưa thì khó tin thật, nhưng bây giờ rất dễ tin, vì tất cả sự vật đều chuyển biến chớ không mất hẳn. Gần nhất là quả đất, không cố định một chỗ mà cứ quay vòng vòng hoài đó là luân hồi chứ gì? Đến thời tiết thay đổi qua bốn mùa cũng luân hồi. Đó là vạn vật bên ngoài luân hồi. Nhìn lại ngay con người mình, máu huyết lưu thông từ tim ra động mạch, đi khắp cơ thể rồi trở về tim, lưu chuyển không dừng. Xa hơn nữa là từ đời này sang đời khác, chúng ta thấy một khoảng cách thời gian, tuy không có dữ kiện chứng minh, nhưng nó có mang cái bản chất cụ thể. Thí dụ như một đứa bé sanh ra chưa ai dạy mà nó lại ăn chay không chịu ăn mặn, hoặc có những đứa bé bảy tám tuổi học ít mà biết nhiều gọi là thần đồng. Vì sao có những hiện tượng lạ đó, có phải do mỗi người mang sẵn chủng tử từ trước nên khi được khơi dậy là phát triển liền. Trong một lớp học, thầy giáo dạy như nhau mà năng khiếu phát triển của học trò lại khác nhau, có trò giỏi toán, có trò giỏi văn… Từ đó chúng ta biết là do luân hồi.

Quý Phật tử hiểu vậy rồi thì biết sự bất công trong xã hội này là do phước nghiệp lành dữ của mình đã tạo, nên phải ráng tu sửa chớ đừng oán trách ai hết, vì phước lành hay nghiệp xấu gì cũng do mình tạo ra chớ không phải ngẫu nhiên mà có.

HỎI: Kính bạch thầy, là Phật tử đối với cha mẹ lúc hấp hối hay sau khi qua đời lo ma chay, trong vòng bốn mươi chín ngày chúng con phải làm gì để có kết quả tốt, đúng hành động của người Phật tử chân chính.

ĐÁP: Thường lúc cha mẹ hấp hối cơ thể bị rã rời đau đớn, khổ trăm bề, lại thêm lo sợ không biết đi về đâu, có lúc không làm chủ được. Kinh dạy, nếu trong gia đình có người hấp hối, người nhà nên hội lại tụng kinh hoặc niệm Phật, để giúp cho người hấp hối được tỉnh táo chỉ nhớ Phật bớt khổ. Nơi nào có quý thầy, quý cô nên rước đến trợ niệm là nhắc nhở người hấp hối chuyên nhớ Phật niệm Phật, để được an vui sinh về thế giới có Phật, tiếp tục tu hành.

Khi mất rồi việc lo ma chay thì tùy khả năng. Trong vòng bốn mươi chín ngày tốt nhất là mỗi đêm tụng kinh, cầu nguyện cho thân nhân mình, hoặc cúng dường tạo phước đức cho cha mẹ. Trong các kinh thường dạy như vậy.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, theo kinh điển nhà Phật con không thấy dạy cúng sao, tại sao mỗi năm ngày mồng tám tháng giêng các Chùa lại cúng sao hạn. Vậy sao hạn từ đâu mà có và cúng sao có phải là mê tín không?

ĐÁP: Phật tử này hỏi rất thực tế, không thấy kinh dạy mà tại sao có làm. Quý vị nếu chịu khó đọc kinh thì trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, kinh Di giáo, Phật quở những vị Tỳ-kheo coi tướng coi tuổi, coi sao hạn, mà bây giờ trong chùa lại cúng sao cúng hạn là sao?

Hồi xưa xứ mình chịu ảnh hưởng Nho giáo nhiều, việc cúng sao hạn là do các ông nhà Nho coi trong lịch rồi cúng cho dân chớ không phải quý thầy trong chùa. Nhưng sau này không ai học chữ Nho nữa, lịch không ai coi, chỉ có mấy ông thầy tu còn học kinh chữ Hán, biết đọc chữ Hán cho nên dân đến chùa nhờ thầy coi giùm. Khi coi thấy tuổi đó bị sao đó, bị hạn đó, họ sợ nên nhờ thầy cúng giùm luôn. Quý thầy lại quá từ bi, nếu từ chối thì người ta sợ, tội nghiệp, cho nên phải cúng giùm. Từ đó thành thói quen nhưng cúng từng người thì mất thì giờ, thôi thì chọn ngày mồng tám đầu năm dồn lại cúng một lần cho tiện.

Đó là quý thầy làm thế việc của mấy ông Đồ Nho, việc làm đó không phải là chân lý, không đúng lời Phật dạy. Phật tử mà tin điều đó là mê tín chớ không phải chánh tín.

Phật dạy chúng ta tin nhân quả, hiện tại chúng ta vui hay khổ, tốt hay xấu là do nhân mình tạo ra chớ không phải do sao hạn. Bây giờ khoa học tiến bộ khám phá ra mỗi ngôi sao là một hành tinh. Trái đất chúng ta đang ở cũng là một hành tinh, nếu mình ở hành tinh nào đó nhìn qua trái đất thấy họ cúng thì mình có cười không? Đó là một việc làm không đúng lẽ thật nên gọi là mê tín.


HỎI: Kính mong Hòa thượng từ bi giải thích cho con hiểu: Phật dạy thân người do tứ đại hợp thành, theo luật vô thường mà tan hoại. Trên cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà tất cả mọi vật đều hiện hữu bất diệt. Vậy thân hình của những vị ở Cõi Cực Lạc được cấu tạo bằng yếu tố nào mà được tồn tại như vậy?

ĐÁP: Phật tử này nghe mà chưa thấu đáo nghĩa cùng tột. Sinh về cõi Cực Lạc mà cõi đó không phải mãi mãi bất diệt, nó chỉ lâu dài hơn cõi Ta-bà cho nên dùng chữ vô lượng thọ. Tuổi thọ vô lượng chớ không phải bất tử. Trong kinh A-di-đà, Phật dạy người chết sanh về cõi Cực Lạc từ hoa sen mà hóa sanh chứ không phải do tứ đại kết hợp.

Chúng ta căn cứ vào câu kinh Kim Cang “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, cái gì có tướng thì không thật, không bền lâu, chỉ tạm ngắn thôi. Như cõi chúng ta sống sáu, bảy chục năm, còn cõi Cực Lạc có thể hai ba ngàn năm thấy nó dài, nên nói vô lượng thọ, mà đã có sống tất có chết. Như cõi Trường thọ thiên sống lâu rồi cũng chết, có thân có cảnh thì có vô thường, chỉ khác là sớm muộn thôi. Hiểu như vậy thì cái chuyện sống chết cõi này cõi kia nó sai biệt chớ không phải không chết. Chỉ có nhập Niết-bàn mới là vô sanh.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, nếu mình không bám vào người khác mà người đó bám vào mình thì liệu trong kiếp tương lai người đó và mình có liên hệ không?

ĐÁP: Mình không dính mắc với họ mà họ đuổi theo mình. Thí dụ như đi đường, mình đi trước có người đi sau, người đi sau theo mình mà mình cứ đi nhanh về phía trước, họ đi không kịp thì tuy họ đuổi theo mà không gặp, còn nếu mình xoay mặt lại thì gặp họ. Vậy nếu Phật tử muốn không gặp họ thì hãy ráng đi nhanh và xoay lưng với họ thì nhất định sẽ không gặp, cái nghiệp họ tạo với mình không thành. Còn nếu mình giáp mặt đối đầu với họ thì nghiệp sẽ thành.


HỎI: Kính bạch Hòa thượng, làm sao hướng dẫn cha mẹ hướng về đạo khi cơ duyên chưa đến. Người thì thích danh, người thì thích tiền bạc?

ĐÁP: Phật tử này có hiếu, biết rằng danh lợi tiền của không đem theo được ở đời sau, mà cha mẹ già lại thích hai thứ đó. Đó là điều thao thức của người con hiếu mong cha mẹ thức tỉnh. Thật ra điều này hỏi tôi phải làm sao thì tôi cũng chịu thôi, vì đang say mê theo danh theo lợi thì rất là khó nói. Phật tử là một người con hiếu muốn nhắc thức cha mẹ thì tôi khuyên phải tùy duyên. Phải biết tâm ý cha mẹ thích cái gì, hoặc khi cha mẹ có điều gì buồn phiền hay bệnh hoạn, hoặc khi trong thân quyến có người chết. Khi đó Phật tử nhắc để cảnh tỉnh thì mới giật mình tỉnh thức, còn lúc bình thường thì khó chuyển lắm.


HỎI: 
Bạch Hòa thượng con năm nay bị sao Thái bạch lại nhằm năm tuổi, không biết do sao hạn hay do căn nghiệp nhân quả của con, mà mấy tháng vừa qua con gặp nhiều việc phiền não về tiền tài vật chất và cả tinh thần. Kính xin Hòa thượng giải nghiệp cho con.

ĐÁP: Bây giờ nên hỏi lại người đặt ra sao Thái bạch này là căn cứ ngôi sao mà đặt tên? Những hành tinh trên hư không, mỗi cái giống như thế giới mình đang ở hoặc lớn hơn hoặc nhỏ hơn thì những hành tinh đó có hại gì mình không? Bởi vì nếu nó có chiếu thì chiếu hết cả vùng, ánh sáng soi đâu nhắm vào cá nhân nào. Cho nên cái nghĩa sao chiếu này tôi không chấp nhận được, không hợp lý.

Còn hỏi về duyên nghiệp thì chúng ta có thể giải quyết theo tinh thần nhà Phật. Phật dạy cái thân của chúng ta hiện giờ là thân tổng báo, tức là cái quả báo chung. Tôi lấy kinh nghiệm thực tế nói cho quý Phật tử hiểu. Quý Phật tử kiểm lại tâm mình từ lúc bé cho đến bây giờ là bốn năm mươi tuổi, mình toàn nghĩ thiện làm thiện hay có thiện ác lẫn lộn? Có khi thì tâm mình từ bi như Bồ-tát, có khi nổi sân như cọp sói, tốt xấu lẫn lộn. Bởi tốt xấu lẫn lộn nên nghiệp quả cũng lẫn lộn, có lúc mình gặp việc tốt gọi là may mắn, là trùng hợp với quả của nghiệp thiện trong quá khứ, có lúc trùng hợp với nghiệp ác đến thì gặp chuyện rủi ro. Cái may mắn hay rủi ro, đó là nghiệp thiện ác của quá khứ hiện hành. Cho nên những cái khổ vui trong cuộc sống hiện tại của mình, không phải ai tạo ra, mà chính mình tạo từ thuở trước còn đọng lại nên mình phải chịu. Bây giờ muốn được yên ổn, chúng ta quán xét khi việc thiện hoặc việc ác đến, biết rõ đó là dư báo của chính mình, chấp nhận nợ trước phải trả, trả hết rồi thì nó qua, đừng quá hoảng sợ đâm ra cuồng loạn rồi sanh bệnh.

HỎI: Kính bạch thầy, giảng cho chúng con hiểu về Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa.

ĐÁP: Ở đây tôi chỉ nói sơ thôi chớ không có thì giờ giảng kỹ.

Từ Tiểu thừa và Đại thừa là ngày xưa, còn bây giờ thì gọi là Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Bắc tông hay là Phát triển, chớ nói Tiểu thừa, Đại thừa thì có cái lớn cái nhỏ. Về mặt hình thức giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển khác nhau chỗ nào? Buổi ban đầu lúc đức Phật mới thành Phật chưa có bổn đạo, chưa có chùa chiền, Phật đi khất thực nơi này nơi kia, không có trú xứ nhất định, đến khi vua Tần-bà-sa-la và trưởng giả Cấp Cô Độc cúng tinh xá, chừng đó mới có chỗ nơi. Nhưng Phật cũng không ở một chỗ, không thấy đó là chùa của mình nên được người tán thán: Phật sanh dưới cội cây, thành đạo dưới cội cây và nhập diệt cũng ở dưới cội cây, Phật nêu cái hạnh xuất gia là ra khỏi nhà. Còn bây giờ xuất gia ra khỏi cái nhà thế tục rồi vào cái nhà chùa, khác chỗ đó. Thứ hai là đời sống của Tăng đoàn bấy giờ là đi khất thực, ai cho món gì ăn món nấy cho nên không ăn chay được. Phật giáo Nguyên thủy căn cứ giai đoạn đầu nên các Ngài ăn mặn khác với Phật giáo Phát triển ăn chay. Thứ ba là ngày xưa chư Tăng ba y một bát đi khất thực sống qua ngày, mà ba y nếu thiếu một y thì không được, vì tối ngủ dưới gốc cây, y ngũ điều dùng quấn vào mình cho muỗi khỏi cắn, y thất điều thì phủ, còn y cửu điều thì cuốn lại làm gối nằm.

Phật giáo Phát triển sau này tùy hoàn cảnh mỗi nơi linh động ứng dụng chớ không theo hình thức cổ truyền. Cho nên khi Phật giáo sang Trung Hoa có vua quan hay những vị trưởng giả hiến đất cất chùa cho chư Tăng tu, lại có đất canh tác trồng rau đậu rồi tự nấu ăn. Nếu ăn mặn thì phải đi mua cá thịt phạm tội sát sanh, cho nên ăn chay để tránh nghiệp sát, và ở một chỗ không ôm bình bát đi khất thực nên dùng chén đũa để ăn, Phật giáo Phát triển tùy theo theo xứ sở mà có cách sống khác nhau. Đó là những điểm khác về mặt hình thức.

Về mặt giáo lý: Phật giáo Nguyên thủy nhắm vào chỗ cứu kính là A-la-hán, mà muốn chứng A-la-hán thì phải tu được diệt thọ tưởng định, có chỗ gọi là diệt tận định, tức là ngồi thiền quên tất cả bên ngoài đến độ ngay nơi bản thân mình không còn cảm giác nóng lạnh nữa.

Phật giáo Phát triển thì không chấp nhận như vậy, cũng ngồi thiền mà không cho diệt tận định, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, cảm giác vẫn bình thường. Chỗ cứu kính của Phật giáo Phát triển là khai mở trí tuệ toàn diện và thành Phật. Đó là nói sơ lược những chỗ khác nhau giữa hai phái Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển, nói hết thì không đủ thì giờ.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, nếu như vô thường đến với người thân chúng con, chúng con phải cầu nguyện làm sao cho hợp lẽ đạo, thay vì cầu siêu cầu an?

ĐÁP: Nếu mình tu, khi vô thường đến, cha hoặc mẹ hay thân nhân mất, đa số thì nguyện cho cha mẹ được về cõi Phật, nhưng mâu thuẫn ở chỗ, nguyện thì nguyện về cõi Phật mà rước thì rước về nhà. Nghĩa là khi tụng kinh cầu nguyện thì nguyện siêu thăng Tịnh độ, nhưng lại nhờ thầy ra mộ rước vong về thờ! Như vậy tính sao đây? Bây giờ muốn đừng mâu thuẫn thì nên thế này cho tiện: Biết rằng nguyện cho cha mẹ siêu sanh Tịnh độ là nguyện lành của người con và những vị hộ niệm, còn được hay không lại là chuyện khác, đâu phải ai nguyện cũng đều được hết, nếu nguyện mà được chắc khỏi tu. Vì vậy mà chúng ta nguyện cho thân nhân, cha mẹ được sanh về cõi Phật, còn nếu chưa được về cõi Phật thì sanh về cõi người sớm gặp Phật pháp để tu hành, tránh tạo tội ác, đó là cái nguyện của người con đối với cha mẹ khi trăm tuổi.


HỎI: 
Vào những ngày kỵ giỗ ông bà cha mẹ chúng con phải nguyện thế nào cho hợp với lẽ đạo? Cúi xin Hòa thượng chỉ dạy.

ĐÁP: Việc kỵ giỗ ông bà cha mẹ, theo tôi đó là cái phong tục tập quán tốt của dân tộc Việt Nam chớ không phải kinh Phật. Nhưng đạo Phật tùy thuận theo tập tục tốt của thế gian.

Nếu là Phật tử khi tới ngày giỗ ông bà cha mẹ, nên làm hai việc: một là tạo phước lành như bố thí, phóng sanh để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ được sanh về cõi lành; hai là tụng kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ được phước lành, sanh về cõi lành. Hai điều đó cụ thể hơn hết.


HỎI: Kính bạch Hòa thượng, kinh Phạm Võng của giới Bồ-tát và trong bộ A-hàm có khác nhau không?

ĐÁP: A-hàm thuộc về giáo lý Nguyên thủy, còn kinh Phạm Võng là giới Bồ-tát, giới Đại thừa. Hai quan điểm một bên là tích cực, một bên là tiêu cực không giống nhau.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, ngài Mục-kiền-liên là vị đệ tử gần gũi với Phật, sao trong các thời khóa lễ rất ít đề cập đến tên Ngài cho Phật tử lễ lạy?

ĐÁP: Giải thích câu này phải có nhiều thì giờ, bây giờ tôi nói đơn giản. Thường chúng ta thờ Phật Thích-ca thì bên phải thờ Bồ-tát Văn Thù, bên trái thờ ngài Phổ Hiền, còn nếu thờ Phật A-di-đà thì bên phải là Bồ-tát Quán Thế Âm, bên trái là đức Đại Thế Chí, không ai nói tới ngài Mục-kiền-liên là vì sao?

Cõi Ta-bà này là cõi khổ, cõi uế, đức Phật Thích-ca từ cõi khổ mà thành Phật, trí tuệ sáng ngời không còn khổ, không còn uế nữa nên khi thờ Ngài chúng ta tạc tượng Ngài ngồi trên tòa sen, đó là hình ảnh tượng trưng hoa sen từ nơi chỗ bùn lầy ô uế mà vượt lên. Hai vị Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền cũng là hai vị tượng trưng. Chúng sanh ở cõi Ta-bà can cường nan điều, nan phục cho nên trong cõi khổ này muốn tu hành tiến được thì phải mở sáng trí tuệ, Bồ-tát Văn Thù tượng trưng cho trí tuệ, Ngài cỡi sư tử, tiếng rống của sư tử các loài thú đều phải sợ đó là biểu trưng trí tuệ hàng phục được tất cả phiền não của chúng sanh. Bên trái là ngài Phổ Hiền tượng trưng cho hạnh nguyện. Có trí tuệ rồi mà không có hạnh nguyện để cứu đời là trí tuệ suông. Ngài Phổ Hiền cỡi voi là tượng trưng cho sức mạnh của hạnh nguyện. Trí tuệ và hạnh nguyện đầy đủ mới đến chỗ viên mãn. Đó là hai vị Bồ-tát tượng trưng chúng ta lạy để nhắc nhở trên đường tu phải có đủ hai điều kiện ấy.

Cực Lạc là cõi vui, cõi Ta-bà chúng sanh còn nhiều khổ đau. Bồ-tát nào muốn độ sanh ở cõi Ta-bà thì trước nhất phải có lòng từ bi rộng lớn, ngài Quán Thế Âm tượng trưng cho đức đại từ đại bi; kế là phải có ý chí mãnh liệt, ngài Đại Thế Chí tượng trưng cho sức mạnh của ý chí vào cảnh khổ không chán nản, không thối chí.

Còn ngài Mục-kiền-liên là tiêu biểu cho tấm gương hiếu thảo nên mỗi năm vào ngày Vu Lan mới có lễ lạy Ngài. Đó là ý nghĩa trong nhà Phật chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa tại sao mình phải thờ phải lễ lạy.

 

HỎI: Kính bạch thầy, hiện tại con mang nhiều bệnh tật đã chín năm rồi, tự biết mình mang nghiệp rất nặng nên con phóng sanh, niệm Phật nhiều và lập các hạnh khác, tuy nhiên con vẫn còn mang nhiều bệnh. Vậy con phải lập hạnh gì để tiêu được bệnh?

ĐÁP: Bệnh mà đã chín năm rồi là bệnh kinh niên chớ không phải bệnh mới có. Vậy Phật tử muốn hết bệnh hết khổ, nên dùng trí tuệ quán chiếu như trong kinh Bát-nhã dạy: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Thấy thân năm uẩn không thật thì khổ ách qua hết. Cái hạnh đó dễ nhất chớ các hạnh khác thì chắc chưa hết, sở dĩ khổ vì thấy thân mình thật, bây giờ nhân bệnh khổ mình soi lại năm uẩn không thật, thân không thật thì bệnh đâu có thật, vì bệnh không thật nên coi như không bệnh. Thấy được như vậy thì sẽ hết khổ.


HỎI: 
Chúng con thắc mắc về vấn đề chữa bệnh bằng nhân điện ở Mỹ và hiện nay đã lan tràn sang Việt Nam. Con vì tính tò mò đã đến khóa sơ và trung cấp, chỉ trong sáu ngày được khai mở luân xa, có thể trị bệnh cho mình và người khác bằng cách tọa thiền thu nhân điện vũ trụ vào hai bàn tay. Con thấy có nhiều người bệnh nặng mà nay đã khỏe hoặc giảm nên họ rất tin, có một số tu sĩ xuất gia cũng theo học.

Bạch Hòa thượng, con thắc mắc tu sĩ Phật giáo thì phải trường chay tuyệt dục, công phu tu tập lâu ngày mới đạt được. Thế mà khoa nhân điện này chẳng cần gì hết, ông thầy dạy cũng chẳng cần trường chay. Có người nói rằng đó là các vị Bồ-tát thị hiện cho phương pháp tu rút như vậy để cứu dân độ thế. Thực hư ra sao kính xin Hòa thượng từ bi giảng dạy cho chúng con được rõ?

ĐÁP: Đây là vấn đề hơi mới. Thật ra đứng về mặt tu thiền của Thiền tông mà nói thì chúng tôi thường khuyên Phật tử rằng: Mình tu là phải định tỉnh cái tâm và tự sáng cái thể sẵn có của mình, chớ không mong cầu bên ngoài. Nếu như Phật tử nói trị bệnh bằng nhân điện ngồi để hai bàn tay rồi thu điện trời đất vào, đó là chuyện chuyên môn nghề nghiệp tôi không nói, vì tôi không có đi trong đó tôi không biết. Còn theo chủ yếu của Thiền tông là ngộ được cái bất sinh bất diệt nơi chính mình, chớ không lệ thuộc vào điện hoặc sức hấp dẫn của vũ trụ bên ngoài, nếu lệ thuộc e rằng mình chưa tự tại, mà chưa tự tại thì dù có tác dụng gì cũng chỉ là tác dụng tạm thời thôi, dù học nhân điện giỏi mấy mai kia rồi cũng chết, những người mình trị họ hết bệnh rồi có khỏi chết đâu. Chỉ trở về với cái thân thật của mình mới là bất sanh bất diệt. Nói những vị trị bệnh đó là Bồ-tát thì e quá đáng, Bồ-tát là giác chớ không phải Bồ-tát nhờ điện. Chắc quý vị thỉnh thoảng cũng nghe có nhiều vị trị bệnh bằng nước lạnh, hoặc thứ này thứ nọ, cũng nổi tiếng một lúc rồi đâu vào đó thôi, cho nên mình đừng quan trọng để sau này khỏi hối hận.


HỎI: Kính bạch Hòa thượng, qua bộ Thiền sư Trung Hoa do Hòa thượng dịch, con nhận thấy chư Tổ ngày xưa ngộ đạo từ lục căn, chủ yếu là con mắt, lỗ tai, kế đến là lỗ mũi và thân ý, nhưng chưa thấy vị Tổ nào ngộ đạo từ cái lưỡi. Như vậy trên thực tế có ai ngộ đạo từ cái lưỡi chăng và trường hợp ngộ như thế nào? Cúi xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ. 

ĐÁP: Ngộ đạo thì đa số ở cái thấy cái nghe. Nhưng trong kinh Lăng Nghiêm hai mươi lăm vị Thánh trình sở ngộ, có vị nếm cây thuốc mà ngộ, đó là từ cái lưỡi.

Hơn nữa nói trong sáu căn thì lỗ tai, lưỡi và ý là ba căn viên thông hơn hết, nhưng sao ít có trường hợp ngộ ở lưỡi? Vì lưỡi để diễn thuyết cái hay cái quý Phật đã dạy cho mọi người nghe, ngộ được lẽ thật đó là công dụng bất tư nghì của cái lưỡi, còn ngộ từ lưỡi thì chỉ có nếm mới ngộ.


HỎI: 
Kính xin Hòa thượng giải thích cho con hiểu sự đồng và khác nhau giữa Thiền và Lão Trang?

ĐÁP: Lão Trang cũng tu thiền nhưng thiền của Lão Trang đi vào thể tánh vô vi, còn thiền của đạo Phật do định mà sanh tuệ, chỗ nhắm của hai bên khác nhau. Vô vi là chỉ cho cuộc sống trong đời mà không bị đời lôi cuốn, Lão Trang gọi là tự tại. Còn đạo Phật lấy giác ngộ làm chủ yếu cho nên ngồi thiền để được định, mà định để được giác ngộ. Giới, định, tuệ là ba môn giải thoát của đạo Phật là vậy.

 

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, khi Phật còn tại thế mỗi khi đệ tử đến thưa hỏi điều gì thì bày vai hữu và đi nhiễu ba vòng là ý nghĩa thế nào?

ĐÁP: Đây là phong tục của người Độ-độ. Ở Độ-độ khi muốn thưa hỏi điều gì quan trọng liền trịch vai áo bên mặt xuống, bày cái vai mặt lên rồi thưa hỏi, thưa hỏi xong đi nhiễu ba vòng. Trong kinh có nói bày vai hữu là nói lên sự gánh vác, khi hỏi đạo lý, bậc thầy hay đức Phật trả lời là mình nhận việc đó, thường thì đa số gánh vai mặt cho nên trịch bày vai mặt. Sau khi hỏi xong đi nhiễu ba vòng là để tỏ lòng cung kính, đó là thưa hỏi và cung kính hứa sẽ thực hành.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, trong kinh Trường A-hàm, bài kinh Thích Đề Hoàn Nhơn có nói: Trong mười sáu đại quốc, Phật đều thọ ký cho họ, riêng người nước Ma-kiệt-đà tại sao Phật không thọ ký? Cũng trong đoạn này nói: Tất cả Sa-môn Bà-la-môn điệu hý không thể an trú trong cảnh giới tịch điệt, vì ở thế gian có những cõi mà chúng sanh đều y cứ theo cảnh ấy và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, họ cho đây là thật còn ngoài ra là hư dối. Đoạn này con không hiểu. Xin Hòa thượng giải giùm con từ “điệu hý” là gì? Và những người tu hành đắc đạo thì được Phật thọ ký sẽ thành Phật, còn những người tu hành đắc đạo mà không được Phật thọ ký thì như thế nào?

ĐÁP: Câu thứ nhất hỏi tại sao Phật thọ ký cho mười sáu nước, riêng người nước Ma-kiệt-đà không được thọ ký. Phật tử nên hiểu, Phật thọ ký cho người đủ duyên tu hành có tiến, có đạt từ sơ quả Tu-đà-hoàn đến A-la-hán chẳng hạn. Còn những người tu hành chưa tiến, Phật làm sao thọ ký. Người nước Ma-kiệt-đà lúc đó chưa có ai phát tâm dõng mãnh tu hành đạt đạo nên chưa được thọ ký, đó là chuyện thường.

Câu thứ hai nói rằng tất cả Sa-môn, Bà-la-môn không trừ hết “điệu hý” Phật tử này không hiểu điệu hý là gì? Điệu là trạo cử, tức là lăng xăng. Hý là hý luận, tức là nói đùa cợt. Điệu hý là thân và miệng đều không an định, lăng xăng lộn xộn. Bởi còn điệu hý nên không được tịch diệt, vì vậy mà còn ở trong hư dối không thấy được đạo quả.

Câu chót hỏi những người tu thành đạo thì được Phật thọ ký thành Phật. Còn những người tu hành đắc đạo mà không được thọ ký thì như thế nào?

Quý vị có hồi hộp, sợ mai kia mình đắc đạo không được Phật thọ ký thì không biết ra sao! – Không có gì phải lo hết, chúng ta sẵn có Tánh giác khi chúng ta sạch hết vô minh, phiền não thì Tánh giác hiển hiện thành Phật. Khi đã thành Phật tức là được Phật thọ ký rồi. Phật ở tại tâm chớ không phải bên ngoài, chỉ cần lo dẹp vô minh phiền não đừng lo được thọ ký hay không được thọ ký.


HỎI: Kính bạch thầy, nếu người xuất gia tu hành gặp phải vị thầy ham mê ngũ dục, không dạy dỗ đệ tử lúc đầu cũng như lúc cuối đệ tử không hiểu biết gì cả. Vậy đệ tử bỏ thầy đi nơi khác thì có lỗi phản thầy hay không?

ĐÁP: Câu hỏi này rõ lắm, trong kinh A-hàm có một bài kinh đức Phật dạy rằng: Nếu có người đi cầu thầy học đạo, đến ở với vị thầy, nơi đó có cơm dư, áo ấm, tiện nghi đầy đủ mà ông thầy không dạy đạo lý thì nên ra đi khỏi chào ông thầy. Còn nếu có người đến học đạo với một vị thầy, nơi đó thiếu ăn, thiếu mặc mà ông thầy dạy đạo lý đạo lý đầy đủ thì dù có bị đuổi, các ông cũng xin ở lại mà học đạo. Hiểu rõ như vậy thì không sợ bị tội phản thầy, bởi vì cầu học đạo để tu, mà không dạy đạo mà dạy cái khác thì bỏ nơi đó đi tìm đạo thì không có lỗi gì cả.

Quý Phật tử có nhớ xưa đức Phật đi tu trước hết là học với mấy vị tiên A-la-lam, Uất-đầu-lam-phất nhưng thấy không đúng với bản nguyện Ngài bỏ đi. Vậy Ngài có bị tội phản thầy không? – Không. Trừ khi nào thầy dạy đạo lý đầy đủ mà mong ngóng chỗ này chỗ kia, hiếu danh hiếu lợi bỏ đi, đó là phản thầy. Nếu vì đạo mà tìm chỗ tu học thì không có phản thầy.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, một Thiền sư đã triệt ngộ, hoặc một vị A-la-hán thoát khỏi luân hồi, các Ngài tùy duyên thọ sanh, khi vào bào thai có bị cách ấm hay không; xin Hòa thượng từ bi giải đáp.

ĐÁP: Câu hỏi này có một cái lỗi. Hỏi Thiền sư đã triệt ngộ, các Ngài tùy duyên thọ sanh, khi vào bào thai có bị cách ấm không thì được. Còn những vị A-la-hán đã khỏi sanh tử luân hồi thì đâu có đầu thai nữa mà cách ấm. Tôi xin giải thích: Chư vị Bồ-tát vào thai còn cái gọi là vô minh cách ấm, đó là cái mờ tối khi thân này chuyển sang thân khác. Vì sau khi sanh ra khỏi lòng mẹ, lúc đó cơ quan chưa thuần thục làm sao hoạt động như người lớn được, phải chờ thời gian các cơ quan phát triển đầy đủ chừng đó mới sáng, và một lý do nữa là từ đời này qua đời khác nên các Ngài có quên một chút, đó gọi là cách ấm, nhưng gặp duyên nhắc lại thì nhớ. Ví như mình quen làm một việc rất thuần thục, sau đó nghỉ năm mười năm không làm, một hôm có người kêu mình làm lại thì lúc đầu hơi quên và dần dần sẽ thuần thục.

Như vậy đối với người tu hoặc là những vị Thiền sư tu Bồ-tát hạnh vào bào thai vẫn vị mê cách ấm chớ chưa hết. 


HỎI: Kính bạch Hòa thượng, Thiền sư tu tới nhà có phải là triệt ngộ không? Xin Hòa thượng vì con giải đáp.

ĐÁP: Tới nhà có hai cách: một là mình đã thấy nhà, tới rồi nhưng chưa vô nhà. Còn người tới nhà mà vô nhà thì khác. Như trong kinh Lăng Nghiêm ngài A-nan đã ngộ, Ngài nói bài kệ phát nguyện thấy thân này như cát bụi và sau đó Ngài thưa với Phật: con hiện giờ như người nhà quê được vua ban cho ngôi nhà đẹp, con đến cửa nhà mà chưa mở cửa vào nhà được, cúi xin Thế Tôn chỉ cho con cách mở cửa vào nhà. Như vậy tới cửa chưa phải là ngồi trong nhà một cách thong thả. Tới đó cũng là triệt ngộ nhưng cái ngộ đó vẫn còn vô minh vi tế, chừng nào mở cửa được vào trong nhà tự tại mới là xong việc.


HỎI: 
Có người nói tu một hạnh trong sáu độ, hoặc từ bi nhẫn nhục như Quan Âm Thị Kính tu nhẫn nhục vẫn được giải thoát. Rồi vị này cho thí dụ như cái nhà có sáu cửa khi vô một cửa thì vào được nhà. Theo con hiểu Bồ-tát Quán Thế Âm tu nhĩ căn viên thông, chớ không phải tu nhẫn nhục mà được giải thoát. Kính xin Hòa thượng vì con mà giải rõ.

ĐÁP: Trong lục độ nếu tu một hạnh mà đến nơi đến chốn thì gồm hết sáu độ. Thí dụ tu nhẫn nhục, người ta chửi mình, mình thấy lời chửi đó như gió thổi qua rồi mất không thật, bởi thấy không thật nên không tức giận, đó là có trí tuệ, trí tuệ này thường xuyên soi sáng đó là tinh tấn, nhờ có trí tuệ soi sáng tâm không phiền não, được an định đó là thiền định. Như vậy một hạnh nhẫn nhục mà tu đến nơi đến chốn thì có đủ hết năm hạnh kia. Nếu không có đủ thì chỉ nhịn ngoài miệng thôi không gọi là ba la mật được. Vì vậy tu đến nơi đến chốn thì sáu hạnh đồng nhau.


HỎI: Cầu siêu cho người mới chết và chết đã lâu có ích gì cho người chết không? Và phóng sanh để rồi nó lại ăn biết bao nhiêu con khác, như vậy có nên phóng sanh không, mong Hòa thượng chỉ dạy.

ĐÁP: Cầu siêu cho người chết là việc hợp lý. Thí dụ như ông bà ta chết mấy chục năm rồi. Theo lời Phật dạy người chết quá bốn mươi chín ngày đã sanh nơi khác, vậy thì thần thức họ đâu còn lẩn quẩn đâu đây mà cầu. Nhưng Phật tử nên biết việc cầu siêu có hai cái lợi. Nếu cha mẹ sanh trong kiếp ngạ quỷ thì cả ngàn năm chưa ra được, nhờ sức chú nguyện của người tu hành chân chính cũng có chút ít sức mạnh giúp cho người đó dễ tỉnh, dễ nhớ, đó là một cái lợi. Còn nếu thân nhân sanh ở cõi trời, hoặc cõi người chúng ta cầu vì lòng hiếu thảo, với tâm kính tin Tam Bảo cũng là cái phước cho chúng ta được hưởng chứ không thiệt thòi.

Còn vấn đề phóng sanh Phật tử nên hiểu rõ, phóng sanh là lòng từ bi của chính mình. Ví dụ như tiền thân đức Phật bố thí thân cho cọp ăn, như vậy con cọp đó nó sống rồi mai kia nó bắt heo rừng, bắt nai nó ăn vậy Phật có tội không? Chúng ta làm việc bố thí là vì lòng từ bi của mình mà làm không nghĩ con vật đó mai kia làm cái gì, chỉ nghĩ rằng nó đang khổ mình cứu nó, chớ lo xa quá thì không dám làm gì hết.


HỎI: 
Kính nhờ thầy chỉ giùm con. Bạn con hỏi con hằng ngày tụng kinh gì? Con đáp: Tụng Bát-nhã. Bạn nói: Chị phải tụng kinh khác nữa để khi chị ngã xuống bạn bè đến tụng kinh khác chị không hiểu làm sao mà đi? 

ĐÁP: Phật tử này kỹ quá! Tụng Bát-nhã, Kim Cang hoặc Pháp Hoa, A-di-đà gì cũng tốt. Vì người sắp chết không đủ trí giác phân biệt nhiều như lúc khỏe mạnh, lúc đó rối bời, chỉ cần nghe tiếng chuông tiếng mỏ, tiếng tụng kinh cho tâm nhẹ nhàng để ra đi được thảnh thơi chớ đâu có phân biệt Bát-nhã, A-di-đà gì mà nói là biết hay không biết.


HỎI: Bạch thầy, nhờ thầy chỉ dạy cho con, khi chết thần thức rời khỏi thân xác này vô cùng đau đớn, lúc đó nếu không làm chủ được, đi không đúng đường mà hằng ngày đã chọn, đến lúc thức tỉnh lại quay về có được không thưa thầy?

ĐÁP: Trường hợp này tôi xin nhắc Phật tử rằng: Trong tâm chúng ta có hai thứ nghiệp: Tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp. Tích lũy nghiệp là nghiệp dồn chứa lâu ngày rất sâu dày. Hằng ngày chúng ta tạo nghiệp lành hay nghiệp dữ đều tích chứa, đến khi gần nhắm mắt, lúc đó mắt tai không còn duyên bên ngoài nữa, chỉ còn tâm thức đang chuẩn bị chuyển thân, khi ấy nghiệp nào nặng thì nó dẫn đi theo hướng đó. Còn cận tử nghiệp là cái nghiệp lúc gần chết. Ví dụ bình thường người đó tạo nghiệp ác nhưng lúc già bệnh gần chết được nghe kinh, tỉnh giác biết lỗi lầm ăn năn sám hối dẹp bỏ thói quen cũ, nhớ được thói quen mới thì lúc nhắm mắt thói quen mới còn đang mạnh, có tác dụng mạnh dẫn đi theo thói quen mới, đó là cận tử nghiệp.

Cả hai đều có tác dụng. Vậy chúng ta tu nếu lúc gần nhắm mắt thì đừng nhớ việc ác, đừng oán trách ai chỉ một tâm thiện thì nhất định đi đường lành không nghi ngờ. Nếu để cho tâm sân hận sống dậy thì nghiệp sân sẽ dẫn đi đường ác, mà đi đường ác rồi thì lâu lắm mới tỉnh, rất khó trở lại, đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh khi ấy muốn tiến lên khó lắm. Vì vậy nên lúc lâm chung cần có thầy có bạn tới nhắc nhở cho nhớ không để niệm ác khởi lên. Cho nên việc hộ niệm cần thiết.


HỎI: 
Bạch thầy, mỗi con người sanh ra đời đều có tội, hoặc tội nặng hay tội nhẹ, nhưng trước phút lâm chung người đó hối hận, tuy hối hận muộn. Xin thầy dạy cho con biết tội đó có hết không, khi chết tâm hồn có thanh thản không?

ĐÁP: Phật tử này quan niệm rằng ai sanh ra cũng đều có tội, nói như vậy chưa đúng lắm. Có người sanh ra có tội, có người sanh ra có phước. Thí dụ sanh ra làm con Tổng thống, Thủ tướng thì sung sướng quá chừng, hoặc giả có người sanh ra không ăn mặn được mà ăn chay luôn đến lớn rồi đi tu thì có phước chớ không có tội, cho nên nói sanh ra đều có tội hết là không đúng.

Và một ý nữa nói rằng có tội mà biết ăn năn hối hận, vậy tội có hết không, tâm hồn có thanh thản không? Điều đó tôi đáp rằng nếu chúng ta biết ăn năn hối hận buông bỏ lỗi lầm, tâm trong sạch thì sẽ được thanh thản, nếu còn chấp nê buồn giận thì không thanh thản. Vì vậy quý thầy hay nhắc nhở trong nhà có người sắp chết thì thân quyến đừng khóc nhiều, nhất là đừng tranh cãi nhau làm cho người sắp lâm chung đang nửa tỉnh nửa mê rất dễ bị buồn giận xâm chiếm, có thể nguy hiểm trong việc tái sanh.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, theo kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật dạy tu thiền phải đoạn tuyệt ngũ vị tân. Như vậy có bắt buộc kiêng cữ không? Cũng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, trong giới sát không được ăn thịt chúng sanh và dùng sửa tô lạc, đề hồ vậy có bắt buộc không?

ĐÁP: Phật tử nên hiểu cho rõ, kinh Phật có nhiều loại thuộc về hiển giáo, nghĩa là nói tỏ rõ, có loại thuộc về mật giáo là giáo lý thầm kín có vẻ huyền bí. Kinh Thủ Lăng Nghiêm có hai phần, phần trước thì nói rõ giáo lý, phần sau thì nói chú Lăng Nghiêm, có cả hiển và mật. Những người tu mật thì tránh ngũ vị tân, vì dùng năm thứ đó bị hôi tanh trì chú không linh. Vì vậy mà bên mật giáo cấm ngũ vị tân còn hiển giáo thì không cấm.

Lại nói kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy giới không sát sanh thì không được ăn thịt cho tới sữa… Như vậy có phải cấm tuyệt đối hay không, tôi xin giải thích.

Nói về giới sát sanh chúng ta thường hiểu theo nghĩa: không sát sanh thì trên từ chư Tăng, phụ mẫu cho tới vi tế côn trùng cũng không được giết. Hiểu như vậy e rằng không ai giữ được giới sát sanh hết. Tôi xin nêu thí dụ cho quý vị thấy, như bệnh nhân lao phổi bác sĩ cho thuốc kháng sinh đặc trị vi trùng lao để chữa lành bệnh, như vậy có phạm tội sát sanh không? Hoặc giả quý vị uống nước sợ có vi trùng phải nấu chín, vậy khi nấu nghĩ rằng mình giết vi trùng không? Phải hiểu trong cuộc sống này không có gì là tuyệt đối, Phật chế giới sát sanh là không giết người bằng thân, bằng miệng, bằng ý, người với người thương nhau đừng giết hại nhau là quá tốt rồi, còn giữ cho tới vi tế côn trùng thì thôi hết tu được. Chúng ta tu là tu những điều có thể làm được, chớ đừng nói những điều không làm được. Muốn ứng dụng giáo lý có kết quả là phải đi từ những cái gần, từ chỗ không giết người lần lần thương những con vật lớn như trâu bò, heo, chó thì có thể làm được. Quý vị còn nhớ khi Phật tu khổ hạnh đến ngất xỉu, có người mục nữ cúng dường Ngài một bát sữa, Ngài thọ dụng, bây giờ mình là đệ tử Phật mà kiêng cữ thì hơi quá hơn Phật rồi. Chúng ta tu phải thực tế, nhiều khi kinh điển nói có chỗ quá xa, chúng ta cứ chấp vào đó thì không làm gì được hết. Vì vậy chúng ta nên nhìn thực tế cuộc đời đức Phật thế nào mình ứng dụng thế ấy.

HỎI: Kính bạch thầy, xin thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con phương pháp trừ bệnh ái dục, chúng con ở cõi dục hình như hầu hết mắc chứng bệnh này. Con được biết có người đã dùng pháp quán bất tịnh, có người lắng tâm soi chiếu những cảm giác từ tâm lý dấy khởi rồi tác động qua sinh lý, quán sát những hiện tướng như thế, nhưng cũng có lúc không tiêu trừ được tình dục. Kính xin Hòa thượng thương xót chỉ dạy cho chúng con tu được lợi lạc.

ĐÁP: Quý Phật tử nên nhớ bệnh này là bệnh của tất cả chúng sanh chớ không phải bệnh của cá nhân, vì chúng sanh có nghiệp ái dục nên sanh trong cõi dục, đã sanh trong cõi dục thì không thể tránh cái bệnh ái dục. Ái dục là cái nghiệp truyền giống, có như vậy mới nối tiếp và duy trì được nòi giống, nếu không có thì đâu còn nòi giống nữa. Giả dụ như con bò con chó nó đâu có biết tình cảm là gì mà cũng theo nghiệp truyền giống để duy trì chủng loại của nó, con người cũng không ngoài quy luật này.

Nhưng làm sao cho hết thì là một vấn đề không đơn giản. Thật ra hết thì không hết được, nhưng cũng có cách để điều phục nó. Trong kinh A-hàm có kể một câu chuyện: Một hôm ngài A-nan cùng với Tỳ-kheo trẻ đi khất thực, gặp một cô thiếu nữ rất xinh đẹp, vị Tỳ-kheo khởi niệm ái dục khiến tâm rối loạn, ông âm thầm quán bất tịnh nhưng không đối trị được và sau cùng ông thú thật, cầu cứu với ngài A-nan. Ngài A-nan nói dục từ tưởng sanh, nếu dứt tưởng thì dục sẽ không còn. Vị Tỳ-kheo ứng dụng điều phục tâm mình khi tưởng dục dấy khởi liền buông thì niệm ái dục dứt lặng. Quý vị thử nghiệm lại, một người nam, một người nữ đứng gần hoặc ngồi gần mà đừng có khởi niệm gì hết thì có gì là tội, nhưng vừa khởi nghĩ thương ghét gì đó mới có tội phải không? Nên nói dục từ tưởng mà ra. Vậy khi có niệm dục dấy khởi liền buông thì được an ổn. Vậy thôi, chớ nói dứt hết thì phải tu triệt ngộ hoặc nhờ mấy ông bác sĩ.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, khi tu đến quả vị A-la-hán hoàn toàn giải thoát, nhưng gần đây quý Thầy giảng có đề cập đến những vị đại A-la-hán và tiểu A-la-hán. Như vậy quả vị A-la-hán có cao thấp sao? Xin thầy hoan hỷ giản trạch cho chúng con được rõ.

ĐÁP: Trong kinh thường nói đại A-la-hán, vậy thì A-la-hán có đại có tiểu sao? Phật dạy khi chứng A-la-hán rồi các Ngài không thích độ sanh, vì độ sanh là còn đi trong sanh tử mới độ được, các Ngài không muốn trở lại trong sanh tử nữa, các Ngài nhập Niết-bàn, nên gọi là tiểu A-la-hán. Còn chứng A-la-hán rồi hồi tâm tu hạnh Bồ-tát nguyện độ tất cả chúng sanh thì gọi là hồi tâm đại A-la-hán tức là A-la-hán hướng tâm về hạnh đại thừa Bồ-tát. A-la-hán không cao không thấp, nhưng mà ngang đó dừng lại thì gọi là tiểu A-la-hán, ngang đó hướng về đại thừa Bồ-tát hạnh để độ chúng sanh thì gọi là đại A-la-hán.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, người chức quyền giàu sang nhưng hống hách với dân chúng hoặc đè ép nhân viên dưới quyền, nhưng họ cũng đi chùa cúng dường hoặc là đóng góp theo các phái đoàn từ thiện xã hội cứu trợ bão lụt… Như vậy đời sau họ tái sanh hưởng phước giàu sang quyền thế lại quen tánh hách dịch cửa quyền nữa sao?

ĐÁP: Tôi thường nói chúng ta sanh làm người có phước hơn sanh làm thú. Thế mà có nhiều người bần cùng khổ sở không đủ ăn, ngược lại có những con chó của ông nhà giàu nuôi cho ăn thịt bò, bệnh thì đưa đi bác sĩ. Như vậy chó có phước hơn những người nghèo thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thuốc thang. Đứng về nghiệp thì làm chó là có tội hơn làm người. Phật dạy thân này là tổng báo. Nếu người đó hách dịch đàn áp người ta thì có tội, còn cúng dường, làm việc thiện là phước. Nhiều khi hung hăng hách dịch thì họ bị đọa, nhưng phước thì họ hưởng, như những con vật được chủ chăm lo, sung sướng, nó trả nghiệp phải đọa làm thú mà hưởng phước là được sung sướng.


HỎI: 
Bạch Hòa thượng, con nghe có một số bộ lạc thiểu số có tập tục khi cha mẹ già họ dẫn vô rừng bắt leo cây, ở dưới gốc cây họ xúm nhau rung cây, nếu cha mẹ không chết họ đem về nuôi tiếp, nếu cha mẹ rớt xuống chết thì họ có phạm tội sát sanh và bất hiếu không?

ĐÁP: Căn cứ theo nhà Phật và phong tục Á Đông thì họ phạm tội sát sanh và bất hiếu, nhưng mà theo tập tục của bộ lạc đó, họ đâu có biết phạm hay không phạm. Chỉ khi nào họ biết: Họ rung cha mẹ họ, thì sau này con họ rung họ, và chính họ bãi bỏ tập tục lạc hậu đó thì mới tốt.


HỎI: 
Ngài Ương-quật-ma-la và ngài Mục-kiền-liên do tạo nghiệp sát hại, nên sau bị người ném đá và giết chết. Những kẻ xúc phạm các vị Thánh Tăng là do nghiệp lực xui khiến họ làm vậy, thế họ có bị quả báo không?

ĐÁP: Các Ngài phải trả quả đời trước, nhưng người có ác tâm hại các Ngài thì cũng không tránh khỏi quả báo. Quả không phải do các Ngài trả mà là người khác trả. Cho nên Phật dạy: Oan gia nên giải chớ không nên kết. Giả sử trước đây có ai đó đã làm khổ mình, bây giờ mình có thế lực mình nghĩ phải trả lại cho đã giận thì đó là họ gây nhân mình trả quả, rồi trở lại tạo nhân tiếp. Vì vậy cho nên ngang đây chúng ta dứt hẳn thì nghiệp quả được cởi mở.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, người tham lam, trộm cắp ở thế gian bị bắt ở tù, vậy sau này người đó còn trả nghiệp quả của họ gây tạo không?

ĐÁP: Nếu người tham lam trộm cắp bị bắt ở tù ba năm bảy năm mãn tù ra, ngang đó họ hối cãi làm lành thì dứt quả, còn nếu họ tiếp tục thì trả liên miên.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, người tham lam công quỹ, tham nhũng sau này họ trả quả ra sao nếu họ trốn khỏi hoặc qua mặt được pháp luật thế gian?

ĐÁP: Người có lòng tham lường gạt của công, của tư, đều có tội; có tội thì phải trả hoặc trả trong trường hợp công hoặc tư, tùy theo duyên nghiệp của họ mà trả.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, như tất cả chúng sanh sao lại có người sanh nước này có người sanh nước khác. Như người sanh vùng biên địa hạ tiện thì cho rằng người đó thiếu phước, nhưng nếu có dịp nào đó họ được ra nước ngoài sống đầy đủ vật chất thì làm sao khẳng định họ thiếu phước?

ĐÁP: Câu hỏi này quy định không hợp lý, hỏi tại sao người sanh nước này người sanh nước khác thì đó là tùy duyên nghiệp của mỗi người chớ không tại sao hết.

Trong kinh nói chỗ biên địa hạ tiện là chỗ thiếu phước. Chữ biên địa trong kinh dùng là để chỉ ở những chỗ ít gặp được thiện hữu tri thức. Như bây giờ chúng ta thấy ở thành phố thì học đạo dễ hơn ở vùng xa vùng sâu; nói ít phước là không học đạo hiểu đạo chớ không hẳn ít phước là nghèo. Có những người ở biên địa người ta cũng giàu có, hoặc xứ này chưa giàu họ đến xứ khác làm giàu, nhưng chưa chắc họ hiểu đạo bao nhiêu, chưa được gần thiện hữu tri thức chưa hiểu đạo thì đó là thiếu phước chớ không hẳn thiếu phước là nghèo.


HỎI: 
Xin thầy hoan hỷ giải thích giùm con.

Sanh từ đâu đến? Khi chết sẽ về đâu?

ĐÁP: Câu hỏi này tôi theo lý kinh mà trả lời chớ không phải cái biết riêng tôi.

Trong kinh Phật có dạy rằng: Con người ở trong lục đạo luân hồi. Nếu ở cõi trời xuống thì người đó vừa đẹp vừa hiền lành đức hạnh, vì hết phước ở cõi trời nhưng còn cái phước dư được sanh làm người.

Nếu từ A-tu-la đến thì người đó cũng sang cả, vì A-tu-la cũng có phước khá nhưng mà nóng giận nhiều.

Người nào có tư cách tốt, không có tâm ác hại người, không có tâm tham lam trộm cắp, không tà dâm, không ưa nói dối cũng không thích say sưa thì đó là đời trước làm người trở lại làm người.

Nếu từ súc sanh hết tội đến thì tuy được làm người nhưng còn si mê, không được thông minh sáng suốt.

Nếu ở ngạ quỷ hết tội lên thì họ bỏn xẻn lắm, có tiền không dám xài, không dám làm việc tốt vì cái tâm bỏn xẻn còn thừa.

Nếu ở địa ngục hết tội được sanh lên cõi người thì thân bệnh hoạn, xấu xa tật nguyền.

Chết đi về đâu thì cũng tùy theo duyên nghiệp. Tu thập thiện thì chết về cõi trời, giữ năm giới thì trở lại làm người, hoặc trong thập thiện tu được bảy tám giới còn sân thì sanh vào A-tu-la. Người nào làm trọn mười điều ác thì đọa địa ngục, bảy tám điều ác thì vào ngạ quỷ, ba bốn điều ác thì làm súc sanh.

Đó là sáu đường luân hồi qua lại, tôi theo kinh Phật mà nói cho quý vị tự nghiệm chớ không thể nói riêng ai được.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, trong kinh Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng một chúng sanh làm tội thì Phật tánh đồng chịu tội sao? Vẫn biết rằng Phật tánh vốn không hình tướng mà tội cũng không hình tướng. Xin Hòa thượng giải cho con được hiểu.

ĐÁP: Nói cách khác chúng sanh làm tội bị đọa địa ngục, Phật tánh có xuống địa ngục không? – Chúng sanh đọa địa ngục Phật tánh cũng ở địa ngục nhưng Phật tánh không có khổ, không có khổ tức là không tội. Bởi vì tội là do nghiệp chiêu cảm, mà nghiệp là tướng sanh diệt, Phật tánh thì không sanh diệt. Ví dụ nơi chúng ta đang sống đây có nhà cửa cây cối và bao bọc chúng ta là bầu hư không, có người đốt cỏ khô làm cháy cây, cháy nhà, cháy người mà hư không thì không cháy. Cũng vậy nghiệp là tướng sanh diệt có tướng thì có khổ có vui. Còn Phật tánh không có tướng sanh diệt nên không vui không khổ, ngay cả địa ngục cũng không khổ. Chúng ta theo nghiệp xuống địa ngục, Phật tánh không theo nghiệp nhưng vẫn luôn có.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, phần đông mọi người cúng dường với lòng ham cầu phước báu tức là có lòng tham ở bên trong. Vậy cúng dường thế nào mới tốt? Cúi xin Hòa thượng giảng cho con được hiểu.

ĐÁP: Câu hỏi này rất thiết yếu đối với Phật tử. Trong nhà Phật có dạy rõ: Người sơ cơ cúng dường cầu phước thì tốt, vì họ mới phát tâm làm lành, nếu không phước thì họ không làm lành, nhờ cầu phước mà họ làm việc thiện, như vậy họ cũng tạo được nghiệp quả tốt. Nếu người hiểu biết Phật pháp khá thì cúng dường với cái tâm gieo duyên với Tam Bảo, để đời đời gặp Phật pháp mà tu chớ không cầu phước. Còn đối với người hiểu được lý tột của Phật pháp thì bố thí mà tam luân không tịch, tức là không thấy có mình, không thấy có người, không thấy có người, không thấy có vật bố thí đó mới là siêu xuất.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, có người nói rằng người ăn xin do nghiệp bỏn xẻn tham lam nên bị đói khổ, nếu mình bố thí cho họ tức là làm trái luật nhân quả, như vậy phải trả lời với người đó thế nào?

ĐÁP: Chúng ta là người biết đạo tức là có tâm từ bi nên thương người khổ. Dù người đó trước đã tạo tội nên bây giờ họ chịu khổ, chúng ta thương họ khổ thì chúng ta giúp, đó là lòng từ bi của người Phật tử. Còn nói mặc kệ để cho họ trả hết cái nghiệp của họ thì đâu gọi là từ bi. Cho nên dù biết rằng họ đã tạo nghiệp không may phải chịu khổ, nhưng thấy ai khổ chúng ta thương giúp là vì lòng từ bi.


HỎI: Kính bạch Hòa thượng, đời nay có số người giả làm Tăng Ni đi khất thực hoặc quyên tiền, họ không biết tội báo như kinh Địa Tạng đã nói. Vậy con phải hỏi câu gì về Phật pháp để phân biệt chơn giả, khuyên họ thế nào để họ biết tội lỗi báo ứng? 

ĐÁP: Muốn phân biệt được người tu chơn hay tu giả tôi khuyên quý Phật tử hỏi bằng cách này. Nếu thấy họ mang hình thức xuất gia thì chỉ cần hỏi: Thưa thầy hoặc thưa cô: “Xuất gia có mấy nghĩa?”. Nếu là người tu thật thì họ biết trả lời, còn tu giả thì không trả lời được. Phật dạy xuất gia có mấy nghĩa quý vị biết không? – Xuất gia trong nhà Phật có ba nghĩa: Một là xuất thế tục gia, hai là xuất phiền não gia, ba là xuất tam giới gia. Xuất thế tục gia là ra khỏi nhà thế tục, xuất phiền não gia là ra khỏi nhà phiền não, xuất tam giới gia là không còn bị rơi trong tam giới, tức được giải thoát mới gọi là xuất gia. Hỏi một câu đó thôi là biết tu thật hay tu giả liền. Nếu biết họ tu giả thì quý vị nên khuyên thế này: Thường tôi nghe quý thầy quý cô dạy Phật tử tránh tội làm phước, mà không biết quý thầy quý cô có nhớ làm sao để tránh tội làm phước không? Chỉ nhắc như vậy họ sẽ tự ý thức được việc họ phải tránh, không nên nói nặng nhẹ họ nhiều thêm tội.


HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con đang ở xa, không hiểu vì sao mỗi lần nghe băng và xem phim thầy giảng tự nhiên con rơi nước mắt. Xin thầy từ bi giảng giải cho con được rõ là do duyên gì?

ĐÁP: Có nhiều người khi đến chùa lễ Phật hoặc khi nghe chư Tăng Ni tụng kinh xúc động rơi nước mắt, đó là duyên lành lâu đời. Như chúng ta có người thân đi xa quá lâu, nay bất chợt gặp mừng rơi nước mắt – Rơi nước mắt vì mừng, vì tủi. Cũng vậy, vì chúng ta có duyên lành với Phật pháp cho nên bây giờ nghe kinh khơi lại duyên lành đã có, chúng ta xúc động rơi nước mắt.

 

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có chút thắc mắc kính nhờ thầy giải đáp: Có phải Phật giáo chính thống không nhìn nhận một đấng Thượng đế tối cao, trong khi đó thì các tôn giáo khác chẳng hạn như Thiên chúa giáo và Cao đài giáo lại nhìn nhận có một đấng tối cao cầm đầu vũ trụ. Như vậy Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng, chúng ta giải thích như thế nào là ngày phán xét sau cùng và Long Hoa hội?

ĐÁP: Tôi xin trả lời tóm tắt, tôi không dám nói qua tôn giáo bạn, mà tôi chỉ nói riêng bên Phật giáo thôi. Phật giáo không thừa nhận có một đấng tối cao cai quản và thưởng phạt, vì Phật giáo chủ trương nhân duyên, tạo nhân lành thì được quả lành, tạo nhân ác gây quả ác, nhân quả theo chúng ta như hình với bóng, có nhân thì có quả, nếu nhân duyên hội đủ thì quả đủ, chớ không ai đứng ra xét công luận tội chúng ta. Chính mình là chủ chịu trách nhiệm cái tốt, cái xấu của mình.

Còn nói chuyện ngày phán xét sau cùng thì bên Công giáo chớ Phật giáo không có nên tôi không bàn.

Lại nói về Long Hoa hội tôi xin giải thích. Từ Long Hoa hội của đạo Phật những tôn giáo khác mượn nói. Trong đạo Phật có hai quyển kinh nói về vấn đề này là kinh Di-lặc Thượng Sanh tức là sanh lên cõi trời và kinh Di-lặc Hạ Sanh tức là sanh vào cõi này. Đức Phật Thích-ca nói rằng: Giáo pháp của Ngài có ba thời kỳ: Thời chánh pháp, thời tượng pháp và thời mạt pháp. Thời chánh pháp là thời đức Phật còn tại thế thì mười người tu mười người ngộ, vì Phật trực tiếp giảng và dạy tu nên ai cũng ngộ được. Thời tượng pháp là thời Phật Niết-bàn thì chư Tỳ-kheo là những vị chứng A-la-hán dạy mười người tu chỉ sáu bảy người ngộ thôi. Hiện nay chúng ta đang ở thời mạt pháp, không có Phật, không có A-la-hán, những người truyền dạy chỉ là phàm Tăng vì vậy mà muôn người tu chưa được một người ngộ. Gọi mạt pháp là tu nhiều mà ngộ ít chớ không phải mạt là dứt hết.

Đức Phật dạy đến khi nào ở thế gian không còn ai biết tới danh từ Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng, lúc đó là thời cuối của giáo pháp đức Phật Thích-ca thì đức Di-lặc ra đời. Hai vị Phật không cùng ra đời, khi giáo pháp của đức Phật trước còn phổ cập trong nhân gian thì vị Phật sau không ra đời, vì Phật trước và Phật sau dạy không khác nhau. Khi đức Phật Di-lặc ra đời Ngài ngộ đạo ở dưới cây Long hoa, nói pháp tại đó nên gọi là hội Long Hoa. Như vậy còn lâu lắm, thôi thì chúng ta cứ lo tu chứ chờ hội Long Hoa làm chi.


HỎI: Đạo Phật chủ trương giải thoát có phải là giải thoát phần ý thức và giải thoát cả phần tiềm thức? Người trước đây hay mộng mị, ngủ mê hay nói lảm nhảm… nhưng từ ngày điều phục tâm vọng, thì không còn tình trạng cũ. Như vậy có phải đi đúng con đường của Phật dạy không? Danh từ tiềm thức của Phân tâm học có phải là danh từ tàng thức của Phật giáo thường nói không?

ĐÁP: Phật tử này muốn hỏi khi ngồi thiền buông vọng tưởng, tối ngủ không còn mộng mị có phải do tu đúng không?

Tôi xin giải thích, người tu thiền buông vọng tưởng thì không còn mộng mị, nhưng nếu kềm vọng tưởng thì vọng tưởng càng nhiều và đêm ngủ mộng mị càng hơn nữa. Bởi vì khi mộng mị nhiều là do tâm thức lăng xăng, bây giờ buông bỏ thì nó yên tĩnh bớt mộng mị. Có người tu vừa có niệm khởi liền đè không cho nó khởi, ban ngày không thấy gì hết, tối ngủ mộng liên miên. Cũng là tu theo Phật nhưng trường hợp đè và không đè nó có khác chỗ đó.

Danh từ tiềm thức với danh từ tàng thức tôi xin giải thích. Theo Phân tâm học cái gì có hiểu biết mà thầm kín ở trong thì gọi là tiềm thức. Theo Duy thức học của Phật giáo thì ngoài sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý có sáu thức do sáu căn duyên sáu trần mà có sáu thức đó ở bên ngoài; bên trong còn có thức thứ bảy là mạt na thức và thức thứ tám là tàng thức, hai thức đó tiềm tàng ở trong không thể thấy được. Như vậy bên Phân tâm học nói tiềm thức có thể là mạt na cũng có thể là tàng thức, vì bên này nói hai mà bên kia có một tên nên không biết nó thuộc phần nào. Theo tôi phân tích thì như vậy.


HỎI: 
Thưa thầy, gia đình con sống về nghề chăn nuôi gà đẻ. Có người khuyên con: Muốn tu hành được kết quả thì phải chuyển nghề. Nhưng con quan niệm con vật cũng là một sanh linh, chúng là loài cầm thú ngu si, hung dữ, nhưng nếu mình nuôi dạy đàng hoàng và chấp nhận tính thú vật của chúng thì cũng là phương tiện tốt để mình có nghề nuôi thân và hóa độ chúng dễ dàng hơn, tức là mình không nên trực tiếp sát sanh. Con không rõ ý đó có đúng không kính xin thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Nếu nuôi gà vịt để lấy trứng thì không có lỗi gì hết, nhưng mà khi nó hết trứng rồi thì sao? Đó là cái khó xử! Hết trứng rồi thì tới phiên nó, vậy giải quyết thế nào để tránh được nghiệp sát? Bán cho người ta thì cũng tội nghiệp nó.

Thôi thì trong cuộc sống tương đối không thế nào muốn được phước trọn vẹn, nếu tôi bảo bỏ nghề chăn nuôi thì đâu có nghề khác mà làm. Vậy thôi có phước chút chút rồi lỡ phạm tội chút chút thì sám hối chớ biết sao!


HỎI: Kính xin Hòa thượng giải đáp cho con một số câu hỏi:

– Tu theo đạo Phật có lợi ích gì cho bản thân gia đình và xã hội?

– Tu là cốt yếu điều phục thân khẩu ý vậy tại sao phải xuất gia. Tu tại gia và xuất gia có ưu khuyết chỗ nào?

– Nhập thất có những ưu điểm nào, có phải lúc nhập thất là chuyên điều phục sáu căn hay chỉ niệm Phật thôi?

– Làm thế nào để điều phục sáu căn, xin cho thí dụ?

– Phiền não là bệnh của chúng sanh, làm thế nào để hết phiền não?

ĐÁP: Năm câu hỏi này rất là phổ thông, tôi tuần tự giải đáp.

Câu thứ nhất: Hỏi tu theo đạo Phật có lợi ích gì cho bản thân, gia đình và xã hội? Đầu tiên tu theo đạo Phật quý vị phải làm gì? – Quy y Tam Bảo và thọ trì năm giới phải không? Căn bản của người Phật tử là giữ năm giới, nên tôi thường dạy rằng ăn chay nhiều, niệm Phật giỏi mà không giữ năm giới là chưa có tu. Nếu Phật tử thực hiện được trọn năm giới thì bản thân mình không bị tù về tội giết người, tội trộm cướp, tham lam của công, không bị khinh miệt về lỗi ngoại tình, không bị chê bai là người xảo trá, không say sưa chè chén. Bao nhiêu đó đã thành người tốt rồi. Trong gia đình mà cả hai vợ chồng đều giữ tròn năm giới, chắc chắn không có gì nghi ngờ nhau, không nghi ngờ thì gia đình không xào xáo, cuộc sống được an ổn.

Trong một thôn ấp mà mọi người đều giữ tròn năm giới thì thôn ấp đó được an bình. Người đến thôn ấp đó không phải lo sợ? Đến chỗ lạ chúng ta thường lo sợ, sợ bị cướp giật, móc túi, lừa gạt… nhưng nếu nơi đó mọi người đều là Phật tử giữ gìn năm giới thì không còn gì phải lo sợ nữa.

Như vậy chỉ giữ tròn năm giới thôi thì bản thân mình là người tốt, gia đình được hạnh phúc, xóm làng được yên ổn, đời sống được vui hòa. Phật tử nếu muốn tu thì năm giới là căn bản, giữ được năm giới thì những cái sau mình tiến không khó.

Câu hỏi thứ hai: Tu cốt điều phục thân khẩu ý vậy tại sao phải xuất gia. Tu tại gia và xuất gia có ưu khuyết chỗ nào? – Phật tử nên hiểu người tại gia có cái hay của tại gia, người xuất gia có cái tốt của xuất gia. Đứng về mặt xã hội người tại gia sống trong gia đình giữ gìn năm giới, làm việc thiện, giúp người nghèo khổ… Đó là cái tốt của người tại gia, nhưng nó giới hạn trong phạm vi nhỏ, vì người tại gia còn trách nhiệm với con cái, với xóm giềng nên tu học và truyền bá Phật Pháp không được rộng rãi.

Còn người xuất gia có cái ưu của người xuất gia. Người xuất gia là rời khỏi gia đình, dứt hết mọi ràng buộc với thân bằng quyến thuộc, chỉ một việc lo tu, phát huy trí tuệ và đức hạnh để sau này có đủ khả năng giáo hóa. Như vậy nhờ dứt hết mọi ràng buộc với thế sự mà người xuất gia có thời gian chuyên tâm tu học để mở mang chánh pháp rộng, truyền dạy cho mọi người, đó là cái ưu của người xuất gia.

Câu thứ ba: Hỏi nhập thất có những ưu điểm nào, nhập thất là điều phục sáu căn hay chỉ niệm Phật thôi? – Nói đến nhập thất thường thì đặt nặng cho người xuất gia hơn tại gia. Nhập thất là thời gian ở riêng một nơi thanh tịnh không tiếp xúc với ngoại duyên, chỉ còn một việc là tu thôi. Lúc đó dồn hết lực tu để điều phục sáu căn, nhất là ý căn chớ không phải nhập thất chỉ niệm Phật thôi. Nếu người tu Tịnh độ thì mượn câu niệm Phật để điều phục, còn người tu thiền thì buông bỏ vọng tưởng. Hai cách khác nhau nhưng trong tâm chỉ có một việc là điều phục sáu căn không dính mắc với sáu trần cho tâm được an ổn.

Câu hỏi thứ tư: Làm thế nào để điều phục sáu căn, cho ví dụ? – Trong kinh Kim Cang đức Phật dạy: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tất cả sáu trần đều là tướng duyên hợp giả có không phải thật. Thí dụ như cái đồng hồ này, tự nó không có cái đồng hồ mà do nhiều bộ phận ráp lại có hình dáng cái đồng hồ, nếu gỡ từng bộ phận ra thì có còn là cái đồng hồ không? – Không. Như vậy nếu nhìn đồng hồ mà cho là đẹp xấu, là dính với sắc trần, vì dính sắc trần nên cho nó là đẹp; ngược lại biết nó duyên hợp giả có không thật, tâm không dính nhiễm, đó là điều phục được nhãn căn đối với sắc trần. Đến thanh, hương, vị, xúc, pháp trần cũng như vậy. Nói tóm lại tất cả các xúc chạm của sáu căn với sáu trần đều không thật nên không chấp trước, không cầu, không đòi phải thế này thế nọ thế kia, đó là điều phục sáu căn.

Còn một lối tu nữa là khi mắt vừa thấy cảnh chưa nghĩ đẹp xấu liền dừng ngay đó không khởi niệm, tai nghe tiếng, lưỡi nếm vị, mũi ngửi mùi cũng vậy. Có thấy, có nghe, có nếm mà không khởi niệm, đó cũng là điều phục sáu căn. Vậy nhà Thiền điều phục sáu căn hoặc dùng pháp quán đúng như thật sáu trần là hư dối không thật để đừng dính nhiễm, hoặc khi căn tiếp xúc với trần không khởi niệm là chân tâm hiện tiền.

Câu hỏi thứ năm: Phiền não là bệnh của chúng sanh, làm thế nào để hết phiền não? Tôi xin hỏi: Phiền não là bệnh mà hiện giờ ngồi đây nghe pháp quý vị có phiền não không? – Bây giờ không có nhưng một chút ra về lên xe kẻ ngồi trước người ngồi sau thì có! Vậy khi bình thản thì không có phiền não, quý vị thử tìm xem phiền não do đâu mà ra? Do hai cái chấp: một là chấp thân, hai là chấp tâm. Ví dụ không biết mình đẹp hay xấu, mà có ai nói chị đó xấu quá thì phiền não. Đó là chấp thân này tốt đẹp nên nghe ai chê là phiền não. Vậy gốc của phiền não từ chấp thân mà ra. Kế đến là chấp tâm, cho cái nghĩ của mình là đúng, nếu có ai nói anh nghĩ bậy thì nổi giận liền. Thật ra cái suy nghĩ của mình có khi cũng sai lầm chớ đâu phải hoàn toàn đúng hết vậy mà nghe chê cũng giận. Vì chấp cái sai lầm của mình cho là đúng, rồi cãi lộn đánh lộn ầm ầm, thường trong gia đình bất an là do chấp cái suy nghĩ của mình là đúng. Như vậy gốc của phiền não là do chấp thân, chấp tâm mà ra. Biết vậy rồi chúng ta phải thấy thân này không thật, tâm này không thật thì mới hết phiền não. Quý vị thử nghĩ nếu thân này thật thì tại sao sống mấy mươi năm rồi lại chết, đem chôn xuống hố lấp đất hoặc đem thiêu còn một hủ xương tro! Đó là việc xảy ra hằng ngày, vậy mà đối với thân này chúng ta vẫn thấy nó thật. Đó là điều hết sức lầm lẫn mê muội.

Tâm vọng tưởng cũng vậy, đâu phải sự suy nghĩ của mình là chân lý. Hôm nay mình nghĩ và sắp đặt thế này cho là đúng, nhưng đến ngày mai lại thấy nó sai, nên sửa sai. Vậy cái nghĩ đó không thật, nếu chấp cho là thật càng thêm lỗi. Vì vậy muốn hết phiền não thì đừng cố chấp, vì chấp là gốc của khổ đau. Phật dạy chúng ta tu muốn hết khổ phải phá chấp thân, chấp tâm, phá được hai cái chấp đó là hết khổ được vui.

Quý vị tu cứ thấy cõi Ta-bà này là khổ, đòi về Cực Lạc cho an vui chớ không biết rằng khổ là do mình chấp. Nếu chúng ta bỏ hết chấp thì cõi Ta-bà này biến thành Cực Lạc, tạo dựng Cực Lạc ngay nơi Ta-bà này, chứ ôm cái chấp mà đòi về bên kia cho hết khổ thì không chắc, bởi vì chấp nặng như núi Thái sơn thì làm sao về bên kia được. Cho nên tu người biết tu phải thực tế, ngay trong cõi đời này, trong cuộc sống này, chúng ta xả bỏ cố chấp thì sạch phiền não, hết khổ đau. Đó là Phật dạy chúng ta tu để hết khổ.

HỎI: Xin thầy từ bi giảng cho con hiểu hai chữ Trung Thiên, trong câu Nam mô Trung Thiên Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích-ca Mâu Ni Phật.

ĐÁP: Chữ Trung là giữa, chữ Thiên là Trời, thường trong nhà Phật hay nói câu Thiên nhơn chi đạo sư, tứ sanh chi từ phụ, ý nói rằng đức Phật là thầy của Trời, người, là cha lành của bốn loài. Như vậy cõi người là cõi dưới gọi là hạ giới, cõi Trời ở trên gọi là thượng giới, Phật là thầy của hai cõi đó nên gọi là Trung Thiên, thầy cả thượng giới và hạ giới nên gọi là Trung Thiên Giáo Chủ.


HỎI: 
Kính xin Hòa thượng giải đáp cho con hiểu: Diệt tận định và định sanh hỷ lạc (tức là nhị thiền) khác nhau thế nào?

ĐÁP: Phật tử này hỏi xa quá trong khi mình chưa được hai cái đó.

Tôi căn cứ trong kinh: Định sanh hỷ lạc; hỷ là mừng, lạc là vui. Trong nhà Thiền có chia ra bốn bậc thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sơ thiền ly dục sanh hỷ lạc, nhị thiền định sanh hỷ lạc, tam thiền ly hỷ diệu lạc, tứ thiền xả niệm thanh tịnh. Như vậy định sanh hỷ lạc là cái định của nhị thiền, đứng về mặt giáo lý mà nói thì tứ thiền thuộc về phàm phu thiền. Còn Diệt tận định là thiền của A-la-hán. Thiền phàm phu mà mới ở bậc thứ hai thì đối với thiền của A-la-hán là Diệt tận định hay diệt thọ tưởng định, khác xa trăm phần chớ không giống.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, người ta cho rằng nhập Diệt tận định thì tất cả các hệ thống trong cơ thể con người như tim, mạch… ngưng hoạt động giống như xác chết, như vậy làm duy trì được sanh mạng, điều này đối với khoa học có trái không? Khi nhập Diệt tận định có tâm sở biến hành không? 

ĐÁP: Về việc này nếu lấy cái nhìn của khoa học để quyết định thì xin nói chưa bảo đảm, vì có những cái khoa học chưa giải quyết được mà chỉ có trong đạo Phật biết thôi.

Trong Kinh thường kể nhập Diệt tận định rồi thì không còn hơi thở, không còn cảm xúc bên ngoài chỉ còn hơi ấm, không thở mà còn ấm, cho nên khi xả định này thì liền có cuộc sống bình thường trở lại. Chỗ này khoa học chưa tìm tới, chưa giải thích được, vì vậy chúng ta không thể lấy khoa học mà định đúng hay sai. Khi nhập Diệt tận định thì tâm sở biến hành cũng lặng luôn.


HỎI: 
Con xem quyển Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, nhiều chỗ nói đi nói lại thấy Tánh thì thành Phật, thấy tánh thì không còn cái khổ nào chi phối mình. Vậy nên con muốn thấy tánh quá mà không biết làm sao để thấy được tánh. Bạch thầy có phải thấy tánh là thấy tâm thanh tịnh của mình không? Xin thầy từ bi chỉ dạy cho con thấy được Tánh.

ĐÁP: Phật tử này tha thiết thấy Tánh bởi vì thấy Tánh là thành Phật, thấy Tánh là hết khổ, nhưng làm sao để thấy Tánh. Phật tử này lại hiểu lầm rằng thấy Tánh là thấy cái gì. Nếu thấy được Tánh mình thì cái thấy của ai chớ không phải của mình nữa.

Trong Kinh nói thấy Tánh là thế này. Khi tu được an định, biết rõ tâm sinh diệt, vọng tưởng là cái bóng không thật, nhận ra tâm chân thật hiện hữu của mình không còn chút nghi ngờ, đó gọi là thấy Tánh. Vậy thấy Tánh là thầm nhận ra bản Tánh thanh tịnh của chính mình. Còn bảo chỉ cho Phật tử thấy được Tánh thì Phật chỉ cũng không ra đừng nói tôi.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, vợ chồng con đã quy y Tam Bảo rồi, mà thỉnh thoảng vợ con bị ma quỷ nhập xác để gây sự bất hòa trong gia đình, kính xin Hòa thượng giải thích cho con.

ĐÁP: Ma quỷ có hai loại: loại ma quỷ ở trong tâm do bực tức mà nói không được, hoặc giả vợ chồng không thuận, vợ nói chồng không chịu nghe, bực quá nổi điên khùng nói ra như ma quỷ nhập, đó là ma quỷ do nội tâm bất an. Thường thường người nào hay bị ma quỷ nhập là do tâm phóng đãng chạy khơi khơi không làm chủ được, nên ma quỷ ở ngoài dễ dựa, dễ nhập. Nếu người tu Tịnh độ thì đi đứng nằm ngồi thảy đều niệm Phật, còn người tu Thiền thì đi đứng nằm ngồi đều xả bỏ vọng tưởng cho tâm an định thì ma quỷ không biết đâu mà vào. Ma dựa vào cái tâm lăng xăng nghĩ vơ nghĩ vẫn mà nhập. Vì vậy khéo giữ tâm an ổn kiên định thì không có ma quỷ nào nhập được hết. Tôi nói cho Phật tử hiểu rõ về xem lại hoàn cảnh gia đình và giải quyết cho tốt.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, những người tu Thiền trên đường đến Phật quả họ phải dứt hết các chấp ngã, chấp pháp… Vậy họ có đắc bốn Thánh quả không? Ví như người muốn đậu Tiến sĩ họ phải đậu Tiểu học, Trung học, Đại học. 

ĐÁP: Nói người tu Thiền muốn tiến tới Phật quả; nói muốn tiến là một lối nói thật sự tu là buông xả tất cả vọng niệm điên đảo cho nó lặng sạch, vì vọng tưởng còn thì còn phiền não che đậy là mê, vọng tưởng hết thì phiền não hết là giác. Vọng tưởng điên đảo không thật, nên không phải qua các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.

Còn như ở thế gian, đạo hữu này ví dụ vô trường học phải qua Tiểu học, Trung học, Đại học rồi mới lên Tiến sĩ. Tôi xin hỏi, học qua cấp một, cấp hai, cấp ba, Đại học, Tiến sĩ được cấp văn bằng, nhưng giữa ông có bằng Tiến sĩ và ông không có bằng Tiến sĩ, đứng về mặt tâm niệm của họ quý vị thấy có cấp này cấp kia không? – Không. – Đó là người đời đặt ra để đánh giá thôi, hình thức cấp bậc là phương tiện để khuyến khích người ta học chớ không phải thật, mà cái thật là ở nơi tâm, lấy cấp bằng mà đánh giá cái tâm con người thì không thể được vì đó chỉ là phương tiện thôi.


HỎI: 
Kính bạch Sư ông, xin Sư ông giải thích cho con hiểu một đoạn kinh Trung bộ tập ba, kinh Hành Trì và Không Nên Hành. Vì sao người nữ không thành Đế Thích, Phạm Thiên, A-la-hán, Ma Vương, cũng không thể thành Phật được. Điều này có trái với kinh Đại thừa là mỗi người đều có Phật tánh và có thể thành Phật? Con sin Sư ông giải cho con rõ.

ĐÁP: Điều này là do hai hệ kinh có chỗ khác nhau: Hệ A-hàm hay Nykaya là hệ Nguyên thủy, nên căn cứ trên hình thức sự tu hành tiến thối tùy theo nghiệp nhẹ, nghiệp nặng. Còn bên Đại thừa đứng về nội tâm mà định nên nói mỗi người đều có Phật tánh và có thể thành Phật.

Về mặt hình thức nói chung thì người nữ nghiệp nặng hơn người nam một chút. Đó là đứng về mặt nghiệp tướng chớ không phải nội tâm. Thường người ta nói mấy ông ở chung với nhau có giận nhau thì hét vài ba câu thôi, còn mấy bà ở chung với nhau hay tỉ mỉ rồi cằn nhằn hoài, đó cũng là nghiệp nặng hơn một chút rồi. Do căn cứ trên nghiệp tướng mới nói rằng người nữ không thể chứng Đế Thích, Phạm Thiên… Còn kinh điển Đại thừa thì căn cứ trên nội tâm, ai mê là chúng sanh, ai giác thì thành Phật dù người đó là nam hay nữ. Người nam mê cũng là chúng sanh, người nữ giác cũng là Phật. Cho nên Phật nói tâm thể bình đẳng không có sự sai biệt giữa nam và nữ, quý vị đọc kinh Pháp Hoa sẽ thấy rõ điều này. Long nữ thành Phật, vậy Phật nói chứ không phải tôi nói.


HỎI: 
Vì sao Phật ngộ lý nhân duyên lại thuyết pháp Tứ diệu đế cho năm anh em Kiều Trần Như mà không thuyết lý nhân duyên?

ĐÁP: Thật ra tứ đế cũng là nhân duyên chớ không có gì khác. Phật tử này chưa hiểu rõ nên mới thắc mắc.

 

HỎI: Kính bạch Sư ông, Ngài dạy chúng con tu từ thấp lên cao, ở mọi hoàn cảnh nào tu cũng được, sao có nhiều thầy về thành phố ở các chùa khác để tu học?

ĐÁP: Phật tử này nghi tại các Thiền viện chư Tăng được quý thầy dạy từ thấp lên cao, sao có nhiều thầy bỏ Thiền viện về thành phố ở học tu? Điều này dễ hiểu lắm, bởi vì tâm chúng sanh không bao giờ bằng lòng với gì mình đang có nên ở đây lại trông kia. Về thành phố học ba bốn năm mãn khóa cơ bản, học thêm bốn năm cao cấp thì được cấp văn bằng. Còn ở đây chỉ học chữ Hán, học kinh ngồi thiền không có bằng cấp, tu mười năm hai mươi năm cũng chỉ là một thiền Tăng bình thường thôi không có học vị gì hết. Đó là người ta không thấy sự lặng lẽ chuyên tu là quý, cho nên nãn lòng muốn tìm cái học có cấp bậc học vị. Đó là lý do rõ ràng.


HỎI: 
Có một thầy nói rằng Hòa Thượng chỉ dạy Đại thừa chớ không dạy Tiểu thừa. Có phải vậy không xin Hòa thượng chỉ dạy.

ĐÁP: Ở đây không chuyên dạy Đại thừa hay Tiểu thừa, mà hướng dẫn cho mọi người hiểu được lời Phật dạy để tu. Khi dạy Phật nói về nghiệp tướng của chúng sanh thì đó là Tiểu thừa, còn khi Phật nói thẳng về tâm tánh của chúng sanh thì đó là Đại thừa. Những năm về trước tôi dạy kinh A-hàm, Tứ Thập Nhị Chương, kinh Di Giáo đó là kinh Tiểu thừa sao? Rồi đối chiếu kinh A-hàm với các bộ Nykaya đó cũng là kinh Tiểu thừa. Chẳng qua người nói đây không hiểu gì về Đại thừa Tiểu thừa nên nói càng đó thôi.


HỎI: 
Chúng con ở xa mới quy y, mỗi tháng về Thiền viện nghe pháp một lần, còn những ngày khác chúng con phải đến chùa hay tịnh xá gần nhà để thọ trì bái sám, hay chúng con phải làm thế nào? Nếu ở nhà thì chúng con phải hành trì công phu bái sám cách nào xin thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con. 

ĐÁP: Phật tử này đã quy y rồi mà ở xa thầy, xa chùa. Nếu gần nhà có chùa hoặc tịnh xá thì nương quý vị đó, tới lui tu hành cũng tốt. Còn nếu ở nhà tu thì ngày đêm chỉ tụng Bát-nhã và sám hối. Ngoài ra đi, đứng,nằm, ngồi lúc nào cũng nhớ lời Phật Tổ dạy để đừng làm ác, đừng tạo tội, nhất là phải nhớ giữ năm giới đừng phạm, đó là cái gốc của sự tu.


HỎI: 
Có những người trước đây tạo tội đáng đọa vào ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhưng sau đó họ ăn năn thọ tam quy ngũ giới. Theo kinh thì thọ tam quy ngũ giới sẽ không đọa vào ba đường ác. Như vậy, người đó sau này có thọ ba đường ác không? Nếu không thì quả báo sẽ như thế nào?

ĐÁP: Điều này tôi xin nói rõ cho Phật tử hiểu, cũng trong kinh mà có chỗ nói: nếu nói nhân nào quả ấy là phỉ báng Phật pháp. Tại sao vậy? – Bởi vì nhân quả theo thời gian mà biến chuyển, đã biến chuyển thì nó có thể khác chớ không cố định. Có biến chuyển mới tu chớ nhân nào quả nấy thì tu làm chi; tu để chuyển những cái xấu trở thành cái tốt, điều đó quá rõ ràng. Ngày xưa có tội; ngày nay mình thức tỉnh thì tội giảm và có thể hết chớ không cố định mãi.


HỎI: 
Thường sau thời tụng kinh sám hối, nghe pháp… thì hồi hướng công đức về cho tất cả chúng sanh, làm như thế thì tâm trở nên rộng rãi bao la, nhưng con muốn hồi hướng cho người thân thôi vì con nghĩ như thế sẽ tập trung phước báu nhiều hơn. Theo kinh Địa tạng thì người mất chỉ nhận được một phần bảy phước hồi hướng, cho nên nếu hồi hướng chp tất cả chúng sanh thì người thân của mình sẽ nhận được quá ít ỏi.

ĐÁP: Tôi nói cho Phật tử hiểu, phước đức tùy ở tâm, tâm rộng thì phước lớn, tâm hẹp thì phước nhỏ. Cho nên khi tụng kinh hồi hướng nên cầu cho tất cả chúng sanh đó là mở tâm rộng, do có tâm rộng phước mới lớn và chia được cho nhiều người. Nếu tâm hẹp hòi chỉ nghĩ cho người thân thì làm cho phước ít thêm chút nữa. Ở chùa chiều nào cũng cúng thí thực, chỉ một chung muối, gạo hay cháo thôi mà nói cúng cho tất cả các cô hồn được ăn, làm sao ăn đủ, vậy phải làm sao? – Lúc đó chư Tăng phải tưởng gạo, cháo này đầy dẫy hết cho tất cả chúng sanh đều no. Vậy thì vật thực tùy tâm tưởng mà hiện. Phước cũng như vậy, phát tâm rộng rãi thì phước lớn, tâm hẹp hòi thì phước cũng theo đó mà hẹp, Phật tử nên hiểu rõ điều này.


HỎI: 
Những giảng đường Phật giáo Nam tông con thấy Phật tử đa số rất thành kính và cúng dường rất nhiều đến giảng sư, trong khi ở giảng đường Bắc tông người Phật tử ít thành kính và cúng dường có phần ít hơn. Vì sao có sự hơn kém như vậy, có phải do quý sư Nam tông giới luật chặt chẽ hơn, tạo sự trang nghiêm công đức nên khiến được như vậy?

ĐÁP: Bên Nam tông đặt nặng về người tu xuất gia thọ giới lớn thì công đức nhiều, người thọ giới nhỏ thì công đức ít, căn cứ vào giới luật là căn cứ trên hình thức, mà hình thức thì dễ thấy. Bên Bắc tông như tôi đã nói là căn cứ vào nội tâm, quý Phật tử gặp quý thầy Bắc tông thì có khi xá có khi lễ, còn gặp quý sư Nam tông thì phải lễ nhất định. Ở Campuchia, Miến điện, Tích lan một vị Tăng quấn y đi ngoài đường Phật tử thấy thì quỳ mọp xuống đất lạy, còn ở Việt Nam gặp quý thầy Phật tử chỉ xá chào, cười là đủ rồi, đơn giản thôi.

Vậy phải chăng những vị Nam tông tu nhiều, còn những vị Bắc tông tu ít? – Không phải vậy, mà như tôi đã nói Bắc tông đặt nặng phần nội tâm, Phật tử không kẹt hình thức nhiều nên chỉ chào hỏi là tốt không đợi lễ lạy mới tốt. Còn Nam tông đặt nặng hình thức nếu không lễ thì phạm tội khinh Tăng. Ở Camphuchia hồi xưa tới chùa, ở ngoài đi vô phải đi bằng đầu gối, nhưng đến chùa chừng mất lòng tin thì họ bắn tượng Phật, còn bên Việt Nam thì không đến nỗi như vậy. Chúng ta thấy đặt nặng hình thức quá, khi mất cái hình thức thì không hay, còn quý trọng nội tâm thì bền hơn. Chỗ khác nhau như vậy chớ không phải bên nào hơn bên nào.


HỎI: 
Vì sao Phật giáo Nam tông không thờ những vị Bồ-tát, nhưng trong kinh Nam tông có nói đến Bồ-tát?

ĐÁP: Nam tông đặt nặng quả vị A-la-hán cho nên không thờ các vị Bồ-tát, dù kinh Bổn Sanh đức Phật nói Ngài tu hạnh Bồ-tát; kinh Bổn Sanh thì Nam tông và Bắc tông đều có. Nam tông thừa nhận mà không thờ vì đặt quả vị A-la-hán là cứu kính, còn Bắc tông quả vị Phật là cứu kính, mà muốn đến quả Phật phải hành hạnh Bồ-tát, cho nên thờ các Ngài để nhờ trợ lực đó mà thực hành hạnh Bồ-tát.


HỎI: 
Trong kinh nói Tăng chúng là phước điền của chúng sanh. Một thửa ruộng mà được gieo gặt nhiều quá thì thửa ruộng đó sẽ cằn cõi khô kiệt. Cũng vậy, nhà sư thọ cúng dường của Phật tử quá nhiều, nhà sư đó có bị suy giảm phước đức không?

ĐÁP: Ở đây có hai trường hợp: Nếu người tu, chưa ra gì mà nhận của cúng dường nhiều thì tổn phước. Còn nếu người tu hiểu đạo lý rõ ràng, tu hành tốt và những gì Phật tử cúng đều đem ra làm lợi ích cho chúng sanh thì không tổn phước, các sư là người giúp đỡ cho Phật tử làm phước thôi.

HỎI: Xin Hòa thượng giảng giải việc làm nào tạo phước đức và việc làm nào tạo công đức. Công đức khác với phước đức ra sao?

ĐÁP: Câu hỏi này tương tợ như vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Bồ-đề Đạt-ma. Vua Lương Võ Đế hỏi: “Tôi cất chùa, nuôi Tăng… vậy có công đức gì không?” Tổ đáp: – “Không”.

Công đức là tự tâm, tâm mình vắng lặng, thanh tịnh thì đó là công đức. Còn làm việc lành cất chùa, nuôi Tăng giúp đỡ người nghèo… đó là phước đức chớ không phải công đức.


HỎI: 
Kính bạch thầy, con nghe nói người bị huyết áp cao không ngồi thiền được có phải vậy không?

ĐÁP: Bệnh huyết áp cao có thể ngồi thiền được nhưng phải khéo, bởi vì huyết áp cao mà trụ tâm trên đầu thì thêm bệnh. Người huyết áp cao theo hơi thở chú ý dưới đơn điền nhiều hơn, áp huyết thấp xuống không có hại.


HỎI: 
Con có điểm thắc mắc kính mong Hòa thượng chỉ giáo:

Quả vị A-la-hán có đủ lục thông, trong đó có lậu tận thông, và kinh A-hàm nói A-la-hán sanh đã tận phạm hạnh đã thành. Vậy lậu hoặc sạch và phạm hạnh thành thì đã bằng Phật chưa?

ĐÁP: Đức Phật giác ngộ rồi, trong quá trình tu tập Ngài trải qua nhiều kiếp tu hạnh Bồ-tát làm lợi ích chúng sanh, nên gọi là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Tự giác là Ngài đã giác ngộ rồi, Ngài cứ tiếp tục sanh nơi này nơi nọ để giáo hóa chúng sanh được giác ngộ viên mãn, thì lúc đó Ngài mới thành Phật. Còn A-la-hán lậu hoặc đã tận rồi các Ngài nhập Niết-bàn không giáo hóa thêm nữa; cho nên phần tự giác thì có mà giác tha thì chưa đủ, không bì được với Phật.


HỎI: 
Con có vài điều không hiểu xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy:

Đức Phật Thích-ca và Phật A-di-đà là hai người bạn thân, đức Thích-ca là Bảo Hải, đức A-di-đà là Bảo Tạng bằng tuổi nhau sau bỏ ngôi vua đi tu, sao trong kinh lại nói Phật A-di-đà là Phật quá khứ, Phật Thích-ca là Phật hiện tại?

ĐÁP: Ở đây chẳng những hai đức Phật Thích-ca và A-di-đà chí thân mà Phật nào cũng chí thân hết. Tại sao vậy? – Vì không có phiền não thì có gì mà không thân, chỉ có phàm phu mới còn thân sơ, có thương có ghét thì có thân sơ, hết thương hết ghét nên Phật nào cũng thân hết. Phật Thích-ca là Phật hiện tại vì Ngài giáng sinh ở cõi Ta-bà, ngay trong thế gian này nên gọi là Phật hiện tại. Còn Phật A-di-đà ở cõi Cực Lạc quá xa mình chưa tới lần nào, Ngài đã thành Phật từ thuở nào rồi mà Ngài vẫn ở bên đó nên gọi Ngài là Phật quá khứ.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, Kinh nói sau khi cha mẹ chết, người con hướng về Phật pháp cố gắng tu hành đạt đạo thì cha mẹ được lên cõi Trời; trong trường hợp mấy chục năm sau hay mấy kiếp sau chí nguyện người con mới thực hiện được, giả sử cha mẹ lúc đó đang luân hồi ở cõi nào thì nguyện này có tác dụng nữa không? 

ĐÁP: Kinh nói con tu ngộ đạo thì cha mẹ được sanh thiên, Phật tử này vì thương cha mẹ nghĩ rằng mình tu đắc đạo để độ cha mẹ. Nhưng nếu mình tu đời này không ngộ đạo rồi năm mười kiếp sau mới ngộ, lúc đó cha mẹ mình lang thang trong kiếp luân hồi, như vậy cha mẹ có được sanh lên cõi Trời không? Giả dụ đời này tôi tu hành ngộ đạo thì cha mẹ đối với cái thân này của tôi được sanh lên cõi Trời. Nhưng nếu đời này tôi không ngộ, đời sau tu cũng không ngộ, đến đời thứ ba thứ tư tôi mới ngộ thì cha mẹ của thân trong đời thứ ba thứ tư đó được sanh lên cõi Trời. Còn cha mẹ đời này sanh nơi nào, tôi phải tùy duyên tìm tới đó giáo hóa cho cha mẹ tu được sanh lên cõi Trời. Tuy không trực tiếp mà nhờ sự giáo hóa được sanh lên cõi Trời cũng được hữu ích. Vậy cho nên quý vị là người con hiếu thảo phải ráng tu, đời này chưa độ được cha mẹ thì đời sau, chỉ sợ cha mẹ thiếu đức phải luân hồi sanh tử, quý vị không tu cũng luân hồi theo thì không ai cứu được ai hết.


HỎI: 
Kính thưa thầy, màu vàng trong Phật giáo có ý nghĩa gì?

ĐÁP: Trong luật nhà Phật dạy tu sĩ phải mặc y phục màu khác với thế tục, là màu hoại sắc. Nhưng sau này có phái Đàm Vô Đức rất thạnh trong Phật giáo Nam tông, các Ngài mặc màu vàng, bởi vì màu vàng có vẻ chói chang người đời ít chịu mặc. Tóm lại cái gì mà thế gian chê thì mình dùng để tránh lẫn lộn, đó là lý do tu sĩ Phật giáo mặc màu vàng.


HỎI: 
Kính bạch Sư ông con quy y với Sư ông đã hơn mười năm nay. Thường đêm trước khi ngủ con niệm Phật lần chuỗi, ông bà cha mẹ con đã qua đời lâu rồi mà sao ngủ vẫn thấy hoài không biết có hại không? Xin Sư ông chỉ dạy.

ĐÁP: Nằm mộng thấy cha mẹ thì không có hại, có hại là nghe cha mẹ mộng nói cái gì rồi làm theo đó thì nguy. Vì sao? – Vì thấy Phật tử có tâm kính mến cha mẹ đã mất. Có khi quỷ thần hiện ra giống ông bà cha mẹ mình nếu có dạy gì mình cũng làm theo thì nguy.


HỎI: 
Kính bạch thầy, con thắc mắc không biết tổ Bá Trượng có nói: Một vị Tăng khi tịch mà chưa ngộ đạo thì nên tụng kinh cầu siêu, để cầu vãng sanh và niệm Phật A-di-đà. Ngày xưa các Thiền viện đối với các vị Tăng không được tự tại trong lúc tịch thì Tăng chúng tụng kinh gì bạch thầy?

ĐÁP: Phật tử này nghe nói tổ Bá Trượng có nói khi chưa ngộ đạo gần tịch phải niệm Phật A-di-đà để cầu về bên kia thế giới Cực Lạc, như vậy không biết Tổ có nói câu đó không? – Tôi đã đọc hết sử của tổ Bá Trượng không thấy câu này bao giờ, tôi khẳng định rằng không có câu đó mà e rằng có một người nào đó gá vô để cho có uy tín vậy thôi.

Ý thứ hai hỏi rằng trong các Thiền viện hoặc là tu Thiền khi có người tịch thì tụng kinh gì? Ngày xưa ngũ tổ Hoằng Nhẫn dạy đệ tử tại gia, xuất gia đều tụng kinh Kim Cang. Có hai trường hợp: Nếu tụng nhiều thì tụng kinh Kim Cang, nếu tụng ít thù tụng kinh Bát-nhã. Trong Bát-nhã có câu: Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, tụng chừng năm mười lần có thể họ cũng tỉnh được, bởi vì mục đích tu là dẹp sạch phiền não bằng trí tuệ chớ không phải bằng lòng tin, tụng kinh nhắc tới nhắc lui để người bệnh mở sáng trí tuệ không đi lạc vào đường tà.

HỎI: Kính bạch thầy, con nghe nói tu có thể chuyển nghiệp. Người xuất gia có thể chuyển nghiệp. Người xuất gia có thể chuyển được, vậy người tại gia có chuyển được không? Xin thầy từ bi giải thích.

ĐÁP: Quý Phật tử có biết nghiệp xuất phát từ đâu không? – Từ thân, miệng, ý. Ví dụ người nam thích hút thuốc, người nữ thích ăn trầu; hút thuốc ăn trầu quen rồi thành nghiệp. Vậy quý bà ăn trầu có bỏ được không? Quý vị hút thuốc có bỏ được không? – Ăn trầu bỏ được, hút thuốc bỏ được. Vậy nghiệp người thế gian bỏ được chớ không riêng gì người xuất gia. Tôi nói xa hơn một chút, người thế gian mỗi khi giận hay mắng chửi con cháu, nếu biết tu rồi thì khi giận cứ làm thinh, đi đâu đó cho nó quên, như vậy dần dần sẽ chuyển được nghiệp. Tóm lại dù xuất gia hay tại gia khéo tu thì chuyển được nghiệp.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, kết quả hiện tại là do chính bản thân mình gieo nhân ở quá khứ, nhưng tại sao nói “con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ”. Vậy hành động của cha mẹ có ảnh hưởng đến con cái không? Có trường hợp người cha hoặc mẹ làm việc bất thiện, sau đó người con ra đời không được bình thường, có phải do cha mẹ làm ác hay là một sự trùng hợp?

ĐÁP: Thường ở thế gian hay nói: “Con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ”. Như vậy thì sự tu của mình ảnh hưởng với cha mẹ nhiều ít? Đúng ra thì tu là gốc nhưng trong nhà Phật nói chúng ta sinh ra đời còn có sự đồng nghiệp với cha mẹ; cha mẹ ác chiêu cảm với ác nghiệp của người con, nên con mới thọ sanh vào gia đình đó. Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ cha mẹ thiện mà con lại ác, đó cũng là nghiệp cảm. Nghiệp cảm có hai là nghiệp cảm do lòng thương quý, nghiệp cảm do lòng thù hằn cho nên tôi khuyên Phật tử gần tắt thở đừng giận ai, cũng đừng thương ai. Tôi hỏi Phật tử lúc ngồi rảnh rang thường nhớ cái gì nhiều nhất? Một là nhớ người mình thương, hai là nhớ người mình thù. Khi sắp ra đi mọi việc bỏ qua hết chỉ còn trong ký ức người mình nhớ nhiều, hoặc là thương, hoặc là có ghét. Có ghét có thương mới chui vào nhà họ, chiêu cảm với nhay để đền trả. Khi biết tu rồi, biết rõ ôm lòng oán thù thương ghét không có lợi gì cho mình hiện tại mà còn quả khổ cho mai sau. Như vậy là do nghiệp thiện ác huân tập trong ký ức, nếu chứa nghiệp tốt thì dễ gặp người tốt, chứa nghiệp xấu dễ gặp người xấu. Còn nói câu “con gái nhờ đức cha con trai nhờ đức mẹ” thì không phải chân lý.

HỎI: “Nói tâm bình thế giới bình”, là nói về tâm của người tu hành, chớ thế giới này còn bao nhiêu người khác còn mê, còn khổ, còn bị động chưa bình thì sao nói bình được?

ĐÁP: Phật tử này hỏi: “Nói tâm bình thì thế giới bình”, nhưng tâm mình bình, chớ cả thiên hạ thế giới xôn xao làm sao mà bình được phải vậy không?

Phật tử này hiểu rằng bình là tất cả mọi người đều bình hết, nhưng làm sao có chuyện đó! Tâm bình thế giới bình là tâm bình của bản thân mình. Thí dụ tâm tôi bình dù chung quanh tôi có người làm phiền nhưng tôi không động tâm. Như vậy do tâm tôi bình nên dù thế giới có chiến tranh sôi sục, tâm tôi vẫn không động thì tôi thấy cả thế giới đều bình. Thế giới bình là với cái nhìn của mình, chớ không phải tất cả đều bình hết.


HỎI: 
Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi chưa xuất gia học đạo mà tại sao khi gặp tổ Tăng Xán, Tổ bảo qua phương Nam giáo hóa, như vậy Ngài chưa học, chưa biết gì mà giáo hóa độ sanh?

ĐÁP: Câu hỏi này là lầm. Ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã xuất gia Độ-độ, lúc chư Tổ đã mang y bát về Trung Quốc. Nghe nói tổ Tăng Xán được truyền y bát và ở tại núi Tư Không, Ngài tìm đến đó. Qua cuộc gặp gỡ, hai bên có chỗ tương hội, tổ Tăng Xán thầm nhận nên mới dạy Ngài qua phương Nam giáo hóa.

HỎI: Cổ nhân dạy: Người tu Thiền mà không tu Tịnh thì mười người lầm hết chín, người tu Tịnh mà không tu Thiền thì muôn người tu muôn người được vãng sanh. Nhưng con nghe nói là Thiền Tịnh song tu cao cổ nhân dạy như thế? Xin Sư ông hoan hỷ giảng cho con hiểu. 

ĐÁP: Quý vị nghĩ tất cả cổ nhân nói đều là chân lý hết? Cổ nhân này cổ nhân khác nói có giống nhau không? Căn cứ theo một cổ nhân này để phủ nhận hết thì có đúng không? Nếu nói cổ nhân thì có cổ nhân nói “tu Thiền tu Tịnh như cọp mọc sừng”, có cổ nhân khác nói “Thiền Tịnh hai pháp cùng tu giống như người muốn qua sông nhanh một chân đứng trên chiếc thuyền này, một chân đứng trên chiếc thuyền kia”. Vậy có nhanh không? Bây giờ chúng ta xét thấy cổ nhân nào nói hợp với mình thì theo, chớ đừng cho rằng cổ nhân nói đúng trăm phần hết.


HỎI: 
Tu pháp nhẫn nhục nếu có bị oan ức gì không nên biện bạch, vậy nếu không biện bạch thì ai biết mình bị oan ức, lúc đó mình bị đuổi đi. Vậy phải làm sao? 

ĐÁP: Nói về oan ức có hai trường hợp: Bị oan ức mà có người bảo giải thích cho phân minh thì mình giải thích, nếu không ai bảo thì bỏ qua. Nhưng thường chúng ta đâu chịu bỏ qua, nói không được với người này thì nói với người khác. Khi mình muốn giải oan ức, mình cho họ là người xấu, vì điều đó tôi không có mà người kia nói tôi như thế, đó là kết tội người ta, làm cho người ta giận mình thêm, do đó không nên bày tỏ biện bạch gì cả. Trường hợp trong gia đình anh em gây chuyện oan ức cho nhau, cha mẹ kêu lại hỏi sự việc thí bổn phận mình phải tách bạch rõ ràng, hoặc ra làng xã cũng phải nói phân minh tỏ rõ. Còn trường hợp chưa ai hỏi mà đi phân bua cho mình đúng, kết tội người khác đó là không tốt.


HỎI: 
Kính bạch Sư ông, Phật tử chúng con có những thắc mắc như sau, xin Sư ông giảng rõ cho chúng con.

Phương thức sám hối có thời gian nhất định bao lâu?

Có giảm được nghiệp chướng như bệnh tật… không?

Sao gọi là hồng danh sám hối? Danh từ hồng danh nghĩa thế nào?

Sám hối hồng danh so với sám hối sáu căn có tác dụng và phước lực như thế nào?

ĐÁP: Ở đây tôi giải thích từng câu:

Sám hối tùy theo lòng thành của mình chớ không ấn định thời gian. Ví dụ con lỡ cãi lời cha mẹ làm điều sai quấy khi biết lỗi tha thiết nhận lỗi xin cha mẹ tha thứ cho, với lòng thành, cha mẹ cảm nhận được sẽ tha thứ. Còn như nói nói cười cười không tỏ ra phục thiện dù cho nói nhiều lần cha mẹ cũng không tha thứ. Cho nên giá trị của sám hối là lòng thành chớ không phải thời gian.

Sám hối có giảm được nghiệp chướng, bệnh tật không? Như ví dụ trên, con cãi lời cha mẹ bỏ nhà đi lêu lỏng làm nhiều điều sai quấy, nếu biết lỗi về thành tâm tha thiết sám hối thì cha mẹ cảm động tha thứ cho con về với gia đình không còn lang thang đói rách nữa. Còn nếu con chưa thật tâm chí thành hối lỗi, cha mẹ chưa tha thứ thì chưa được.

Sao gọi là hồng danh sám hối? Chữ hồng đây có nghĩa là to lớn. Danh là danh hiệu Phật. Lạy danh hiệu Phật để bày tỏ lòng cung kính tha thiết đối với Phật, sám hối lạy và xưng danh hiệu Phật gọi là sám hối hồng danh.

Sám hối hồng danh là lạy Phật cầu xin Phật chứng minh tha thứ cho những lỗi lầm mà mình đã tạo. Còn sám hối sáu căn là kể lại những sai quấy của sáu căn để nhớ tránh. Từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý phạm lỗi gì, nhớ tránh không phạm nữa.

Như vậy sám hối sáu căn thì thực tế, ôn đi nhắc lại lỗi của mình mỗi đêm, để tránh cụ thể ngay nơi mình. Còn sám hồng danh là nhờ Phật gia hộ cho mình hết tội, đó là nhờ thần lực của Phật. Nếu ai tin vào thần lực của Phật nhiều thì sám hối hồng danh tốt.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, theo sử 33 vị Tổ thì Ngũ Tổ là thân sau của Tài Tòng đạo giả. Theo lý nhân duyên thì muốn có thai phải hội đủ hai giới tính âm dương, nhưng ở đây cô gái nhà họ Châu chỉ gặp Đạo giả một lần và hứa cho Ngài ở trọ trong nhà nếu cha mẹ nàng ưng thuận. Sau đó Đạo giả đi ngay không tá túc trong nhà cô gái họ Châu. Vậy nhân duyên gì khiến cô gái nhà họ Châu thọ thai sanh hài nhi trai đến bảy tuổi gặp Tứ Tổ làm đệ tử xuất gia?

ĐÁP: Cái nghi này rất là có lý, tôi xin nói một cách phân hai cho quý vị dễ hiểu. Câu chuyện không chồng mà có con là chuyện khó tin, nhưng gần đây các nhà khoa học ở Pháp họ phát minh ra một con ếch cha; và rồi người ta nhắc lại có một nước toàn là phụ nữ, không biết sao mà họ còn hoài không mất dòng giống. Như vậy thì có trường hợp ngoại lệ. Bây giờ sử sách ghi sao hay vậy chớ luận bàn đúng sai thì tôi xin chịu. Thôi thì biết có Ngài ngộ đạo giảng kinh cho mình nghe là tốt rồi.


HỎI: 
Kính bạch thầy, con ăn chay trường đã ba năm rồi nhưng thỉnh thoảng con có ăn trứng gà công nghiệp và nấu thức ăn có dùng hành tỏi. Con nghe nói ăn như vậy có tội, con xin thầy giải đáp cho con rõ.

ĐÁP: Ăn chay không phải là cái gốc của đạo Phật, vì hồi Phật còn tại thế Ngài phải đi khất thực, mà theo luật thì chư Tăng đi khất thực vào lúc chín giờ, để tránh cái lỗi là người đó làm thức ăn riêng vì mình, mà người ấy làm là vì gia đình và chia lại phần nào cho mình. Đó là giai đoạn đầu không có quy định chư Tăng phải ăn chay, cho nên bây giờ Phật giáo nguyên thủy không ăn chay là theo lối sinh hoạt ban đầu.

Nhưng khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, Việt Nam, các bậc vua chúa kính trọng chư Tăng, cất chùa cho chư Tăng ở và cấp đất đai để làm ruộng lấy lúa ăn. Bắt đầu thời điểm đó Tăng chúng sống tự túc, để tránh việc giết hại sinh vật nên trồng rau cải ăn chay cho khỏi nghiệp sát sanh. Đó là lý do cùng tu theo đạo Phật mà bên Nguyên thủy không ăn chay còn bên Bắc tông ăn chay là vậy. Như vậy Phật tử hiểu ăn chay là tránh sát sanh, ăn trứng gà công nghiệp không sát sanh thì không sao, tôi nói không sao chớ không nói cho ăn. Còn nói về hành tỏi thì những vị tu bên Mật tông ăn những thứ ấy trì chú không linh, đây Phật tử không trì chú thì tùy, có ăn hay không ăn không phải là tội, chớ tôi cũng không bảo ăn.


HỎI: 
Xin thầy giảng cho con hiểu tại sao Phật Thích-ca và ngài Bồ-tát Quán Thế Âm xuất gia mà còn để tóc, mà bây giờ xuất gia phải xuống tóc?

ĐÁP: Đức Phật Thích-ca có ba mươi hai tướng tốt, trong đó có một tướng tốt là tóc Ngài xoáy óc vòng phải, khi Ngài ra khỏi thành xuất gia là Ngài cắt tóc rồi. Sau khi thành đạo thâu nhận đệ tử Ngài dạy phải cạo bỏ râu tóc, nhưng bây giờ tạc tượng họ muốn để tóc xoáy cho thấy đủ ba mươi hai tướng tốt của đức Phật.

Bồ-tát Quán Thế Âm tượng trưng cho hạnh tu Bồ-tát độ chúng sanh không nhất thiết phải cạo tóc. Người tu hạnh Bồ-tát có thể là cư sĩ, có thể là quan tước, cho nên kinh Phổ Môn nói: Ưng Tỳ-kheo tức hiện Tỳ-kheo thân đắc độ giả, ưng hiện đồng nam, đồng nữ tức hiện đồng nam đồng nữ… muốn cảm hóa chúng sanh ở hạng nào thì Ngài hiện tướng đó, hình ảnh đó biểu trưng rằng Ngài tùy theo sở nguyện của chúng sanh mà hiện thân không cố định. Vì vậy tạc tượng Ngài qua hình thức cư sĩ để thực hành hạnh Bồ-tát theo sở nguyện của chúng sanh. Còn chư Tăng ni bây giờ xuất gia cạo tóc hết là thực hành theo luật nhà Phật dạy.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, con thường nghe nói: Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy đựng sách. Nhưng con cũng nghe nói người tu thời nay thường hay kẹt vào sở tri chướng. Xin Hòa Thượng chỉ dạy cho con làm sao dung hòa hai điều này để tiến tu mà không bị kẹt.

ĐÁP: Muốn dung hòa hai điều này thì tu phải học, nhưng mà học để tu chớ không phải để nói. Nếu học để nói là đãy đựng sách, học để khoe cái không, cái tài của mình thì đó là sở tri chướng, còn học hiểu để ứng dụng tu thì không có chướng gì hết. Đó là dung hòa cả hai.


HỎI: 
Con quy y được pháp danh là Từ Bi Thọ bảy mươi tuổi, muốn biết khi chết có đem pháp danh theo hay để lại. Xin thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Câu hỏi này có chỗ nhầm lẫn pháp danh với lá phái. Pháp danh là cái tên trong đạo, lá phái trong đó có ghi pháp danh. Lá phái thì để lại còn tên trong đạo đi tới đâu người ta hỏi pháp danh gì thì nói tôi là đệ tử Phật tên gì đó. Tên thì tự mình nhớ thôi, còn lá phái đem theo làm chi.


HỎI: 
Kính thưa thầy, con sống trong ngành y nên khi đứng trước một người sắp chết con làm đủ mọi cách để kéo lại mạng sống, nhưng họ vẫn lần lần đi vào cõi chết và tim ngừng đập. Nhưng khi con học Thiền với thầy con thầy ông Bàng Uẩn và cô Linh Chiếu không hề bệnh tật, ngồi kiết già chấp tay thị tịch. Thiền sư Động Sơn Lương Giới ngồi yên mà tịch, đại chúng khóc Sư mở mắt quở và kéo dài thọ mạng đến bảy ngày sau, Sư bảo chớ ồn náo rồi ngồi yên mà tịch. Vậy giữa y học và đạo Phật sự sống khác nhau ở điểm nào, xin thầy hoan hỷ giải tỏa thắc mắc cho con.

ĐÁP: Chúng ta sống có hai phần là thể chất và tinh thần. Về mặt thể chất chúng ta sống bằng tất cả động cơ thúc dục của cơ thể, khi đói đòi ăn, khát ta đòi uống, cơ thể cần cái gì chúng ta đáp ứng theo cái ấy. Cơ thể là chủ mọi nhu cầu và chúng ta tùy thuộc cái chủ đó gọi là tùy thuộc vào chiếc xe. Còn Thiền sư sống làm chủ cái tâm tức là làm chủ con trâu, mà con trâu thì điều khiển chiếc xe, làm chủ được tâm rồi thì mọi hoạt động của cơ thể các ngài làm chủ được. Có những cái người đời không làm chủ được, người tu làm chủ được. Ví dụ Phật tử chưa quen làm chủ tham sân si, nếu việc sai quất người ta kêu tên mình chửi thì mình nổi sân phát ra ngôn ngữ, phát ra hành động cân xứng với câu chửi mắng đó. Nhưng người tu làm chủ được tâm khi bị người chửi vẫn ngồi yên mặt bình thản. Như vậy nếu lấy tâm niệm của người thế gian để đối chiếu với người tu thì làm sao hiểu nổi. Đó là nói trường hợp tu sơ sơ, còn tu đến lúc làm chủ hoàn toàn thì chết sống tự tại. Chúng ta sống là nhờ tim đập, hơi thở ra vào, các Ngài không muốn thở nữa thì ngưng lại, tim ngừng đập thì chết, muốn thở thì thở khì ra, tim hoạt động thì sống lại, đó là chỗ tự tại của các Ngài không thể nào so sánh các Ngài với người thường tình của thế gian, vì các Ngài đã làm chủ được mình rồi.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, con là Phật tử ở Sông Bé, hiện con đang thờ Phật mẫu và mẹ sanh mẹ độ. Con đang lo không biết làm thế nào cho đúng chánh pháp. Xin Hòa Thượng chỉ dạy cho con.

ĐÁP: Phật tử khi quy y có đọc: Quy y Phật không quy y thiên thần quỷ vật, Quy y Pháp không quy y ngoại đạo tà giáo. Chúng ta đã theo Phật rồi thì thờ Phật là trên, vì Phật là bậc giác ngộ, là cha lành của chúng sanh trong tam giới, thờ Phật là đủ hết, còn mấy vị kia chỉ là phụ thôi. Phật tử đã quy y Phật rồi, thì tôi khuyên Phật tử thờ Phật cho hợp với chánh pháp.


HỎI: 
Kính xin Sư ông giải cho con được. Con tu theo pháp môn niệm Phật, tâm con luôn tưởng cảnh Tịnh độ an vui có đức Phật A-di-đà đang thuyết pháp, như vậy có đúng không bạch Sư ông? Và theo con hiểu cảnh Niết-bàn là nơi chư Phật chư Bồ-tát mới đến được, còn chúng sanh thì siêu sanh về Tịnh độ. Như vậy thì hai chỗ tu hành riêng biệt với trình độ cao thấp khác nhau? Kính xin Sư ông khai mở tâm trí cho con được sáng suốt.

ĐÁP: Nếu tu Tịnh độ mà được lòng tin đó thì càng tốt chứ không sao. Nhưng nói cảnh Niết-bàn là nơi chư Phật và chư Bồ-tát mới được đến đó, còn chúng sanh siêu sanhh về Tịnh độ thì câu này không phải. Niết-bàn là tâm không còn mầm sanh tử nữa, cho nên đức Phật mấy mươi năm đi giáo hóa mà Ngài vẫn ở trong Niết-bàn chớ không phải chết mới gọi là Niết-bàn. Niết-bàn có hai loại: Một là còn sống được Niết-bàn gọi là Hữu dư y Niết-bàn. Hai là bỏ thân này vào Niết-bàn gọi là Vô dư y Niết-bàn. Phật, Bồ-tát, A-la-hán ngộ đạo dứt được mầm sanh tử luôn ở trong Niết-bàn, thuyết pháp, làm Phật sự cũng luôn sống trong Niết-bàn, chớ không phải đợi chết mới vào Niết-bàn. Nếu dứt được cái niệm hai bên sanh diệt là Niết-bàn, chớ không phải đợi về Tịnh độ mới là quả cuối cùng của người tu.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, tại sao nói trắng ra hiểu rồi thì không ngộ, xin thầy dạy cho con biết.

ĐÁP: Vì khi chúng ta nghe, hiểu rồi thì không có nghi, không có tìm kiếm. Không nghi không tìm thì không ngộ. Ngồi yên rồi tự nó phát ra, hoặc nghi không biết nó ở chỗ nào, đến khi chợt bật ra mới “À!” lên một tiếng đó là ngộ.


HỎI: 
Kính xin thầy chỉ dạy cho con biết sự ân oán. Thầy giảng chúng sanh nên xả hết ân oán không nên ôm ấp trong tâm để tránh kiếp sau gặp lại. Nhưng có người không xả được, ân gặp lại không sao, còn oán gặp lại là tiếp tục đau khổ, kẻ chết người sống vậy người chết trả oán hay người sống trả oán?

ĐÁP: Vị này hiểu sai rồi. Nói ân nói oán gặp lại là gặp ở đời sau chớ không phải mình còn sống gây ân oán rồi người chết họ tìm lại trả ân oán với mình. Nếu mình còn ân còn oán với ai thì tâm mình nhớ người đó nhiều hoặc người đó nhớ mình nhiều, cho nên chết hai người dễ có chuyện gặp nhau. Vì vậy mà có trường hợp người thân của mình lại là người làm khổ mình. Ân oán nó là vậy.


HỎI: 
Phái nữ tu không chứng đạt vậy tu có ích gì, và phải làm thế nào để chứng đạt như phái nam. Kính mong Sư ông giảng giải cho chúng con rõ.

ĐÁP: Phật tử này hiểu lầm. Tôi thường kể bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề là người nữ xuất gia đầu tiên lãnh đạo năm trăm Ni chúng. Một hôm Phật báo tin sau ba tháng Ngài vào Niết-bàn. Nghe vậy bà dẫn Ni chúng đến đãnh lễ Phật, bà thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, con không nỡ nhìn thấy Phật Niết-bàn, xin Thế Tôn cho chúng con Niết-bàn trước”. Phật hứa khả. Bà về tịnh xá cùng năm trăm Ni chúng ngồi an nhiên thị tịch, sự việc này được ghi trong sử. Như vậy bà và Ni chúng có chứng A-la-hán mới tự tại ra đi, chắc gì năm giới tịch một lượt, giỏi vậy sao! Phật tử này chưa hiểu nên thắc mắc.


HỎI: 
Kính xin Hòa Thượng từ bi chỉ dạy cho con, mỗi tháng con về Thường Chiếu nghe Hòa thượng giảng pháp Thiền, con thấy tu Thiền hợp với hoàn cảnh bận rộn của con. Mỗi Khuya con dậy sớm ngồi Thiền được bốn mươi phút tâm con còn vọng tưởng nhiều, mỗi khi có chuyện gì trái ý thì con nổi nóng. Vậy sau khi chết con sẽ sanh về đâu?

ĐÁP: Điều này dễ hiểu lắm, người nào sân nhiều thì có một cõi dành riêng cho họ là A-tu-la, người nào hung hiểm thì vào cõi ngạ quỷ. Như vậy Phật tử xét mình có nghiệp gì hợp với cõi đó thì sẽ đi về đó. Tôi nói không phải bi quan, vì nóng nảy là cái nhân rơi vào đường A-tu-la. Nhưng biết nóng tai hại thì phải làm sao? Phải thường nghe kinh nghe pháp, giữ tâm tánh ôn hòa bớt nóng nảy thì tốt biết mấy. Phật tử nói tánh nóng nảy, tôi không đồng ý câu đó. Nếu tánh cố định nóng thì chỗ nào cũng nóng được hết, nhưng thử xét lại, đối với người ngang mình hoặc nhỏ hơn mình thì mình dễ nóng, còn người lớn hơn mình, có địa vị cao thì mình có dám nóng không? – Dạ không. Như vậy thì đâu phải là tánh nóng mà là thói quen phải không? Nó không phải là tánh thì bỏ dễ ợt! Thôi chịu khó bỏ đi thì bảo đảm đi đường Thiên, Nhơn chớ không thì rơi vào A-tu-la.


HỎI: 
Kính bạch Sư ông, xin Sư ông từ bi chỉ dạy:

Con ở với thầy con cũng khá lâu, con phục vụ việc chùa và lo cho thầy không nản chí. Nhưng đến khi con biết được giải thoát thì nhận ra mình thiết sự tu học, con xin thầy ra đi để tìm chỗ tu học. Vậy con có lỗi gì không?

Khi ra đi giới pháp chưa đủ, đến lúc có nhân duyên con thỉnh hai vị thượng tọa yết ma truyền giới Tỳ-kheo. Vậy con có lỗi gì không?

Khi đã đầy đủ giới pháp, có hai huynh đệ ở chung một thất cùng nhau tu học và nương theo giáo pháp Sư ong chỉ dạy, thầy con có điều không vừa ý hay nói khó khăn làm cho con mất thanh tịnh. Vậy con có lỗi gì với thầy con không?

ĐÁP: Trung thành với thầy là điều tốt, nếu thầy dạy mình tu đủ điều kiện để giải thoát thì không nên đi, còn nếu thầy không dạy tu thì đi cũng không có lỗi gì.

Trường hợp thọ giới là có lỗi. Vì thọ giới Tỳ-kheo phải có đủ tam sư thất chứng, ngoại trừ trường hợp đặc biệt quý vị đạo cao đức trọng mới tác pháp truyền giới tại thất được.

Tu mà có niệm bất bình thầy là có lỗi.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, cha mẹ con qua đời đã mười lăm năm. Nay con làm lễ cầu siêu cho cha mẹ thì con có phước chi không? Xin Hòa thượng chỉ dạy cho con được rõ.

ĐÁP: Làm lễ cầu siêu có hai cái phước. Cái phước thứ nhất là hiếu thảo nhớ ơn cha mẹ, nhờ có tâm hiếu thảo gọi là có phước. Phước thứ hai là thỉnh chư Tăng Ni tụng kinh gia đình được nghe.


HỎI: 
Kính thưa thầy, người tuổi từ năm sáu mươi trở lên hay dễ quên và khó có được trí nhớ tốt, có khi họ quên ngay cả những việc mới xảy ra. Về tu hành: Khi tu buông xả mọi chuyện và cố quên, vì vậy dễ quên là điều khó tránh được. Về y học gọi đó là sự suy thoái trí nhớ liên hệ với tuổi. Kính mong thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Câu hỏi này ý nói rằng người lớn tuổi thì dễ quên, đó là hợp với y học mà cũng hợp với sự tu là xả bỏ.

Nhưng tôi xin nói rõ, người chú tâm tu thì quên mà không có lảng. Thường người đời khi lớn tuổi hay bị bệnh lảng tức là nói chuyện không trúng vào đâu, gọi là bệnh lầm lẫn, người bị bệnh này thường quên việc hiện tại mà nhớ chuyện quá khứ. Lỗi ở chỗ không chú tâm. Người lớn tuổi tu Thiền hay tu Tịnh độ đều phải chú tâm, khi ngồi thiền đếm hơi thở thì để tâm theo hơi thở và số đếm, đó là chú tâm; chú tâm thường xuyên như vậy thì không bị xao lảng. Niện Phật thì tâm luôn nhớ câu niệm Phật, chăm chú vào danh hiệu Phật thì không bị lảng. Nhờ sự chú tâm như vậy mà quý thầy cao tuổi lâu lâu cũng có quên chút chớ không đến đổi bị lẫn. Tóm lại là chúng ta biết tu thì sự chú tâm giúp cho chúng ta ít rơi vào bệnh lẫn khi cao tuổi.


HỎI: 
Kính xin thầy cho con được biết, năm ngữ lục của năm vị nào mà thuộc tông phái nào? Mười hai phần giáo là mười hai bộ kinh nào? Kính xin tri ân thầy.

ĐÁP: Phật tử chịu khó coi lại các bài lục, vị lục rất là nhiều, mỗi Thiền sư đều có những bài lục. Nhưng người ta thường đề cập đến các bài lục của những vị Thiền sư lớn như: Tông Lâm Tế thì có Lâm Tế ngữ luc4, tông Tào Động thì có ngài Động Sơn, Tào Sơn, tông Quy Ngưỡng thì có ngài Quy Sơn hoặc Ngưỡng Sơn, tông Pháp Nhãn, tông Vân Môn, thì những vị chủ tông phái đó là năm ngữ lục lớn. Ngoài ra còn rất nhiều ngữ lục có giá trị chớ không phải chỉ có bấy nhiêu đó thôi.

Còn mười hai phần giáo tức là một bộ kinh Phật chia ra làm mười hai phần, như trong bộ kinh đó chia ra nào là Trùng tụng, Cô khởi, Luận nghị… Đó là mười hai thể loại chớ không phải mười hai bộ kinh.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, con đang sống trong một gia đình chồng tuổi Mậu Dần 58 tuổi, vợ tuổi Giáp Thân 52 tuổi, con trai tuổi Đinh Tỵ 18 tuổi. Chồng con lúc nào cũng gắt gỏng, khó tính làm cho con buồn phiền, dần dần đau đầu mất ngủ, con trai thì bỏ nhà đi từ năm 9 tuổi. Kính thưa Hòa thượng có phải do tứ hành xung không? Làm thế nào cho chồng con tính nết được hiền hòa để con khỏi khổ tâm? Con xin Hòa thượng chỉ dạy.

ĐÁP: Đây không phải là tứ hành xung mà tại khẩu ý xung khắc, chồng nói vợ không nghe, vợ nói chồng không nghe, ý của chồng khác ý của vợ, khác ý nhau đó là xung khắc. Bây giờ Phật tử chịu khó chiều chuộng một chút, ý chồng thế nào cũng tùy thuận cho khỏi buồn, hoặc hướng dẫn chồng nghe kinh học đạo, cho ông bớt nghĩ sai lầm thì bớt xung khắc. Còn con vì chưa có duyên tốt nên nó bỏ nhà đi, từ từ tìm cách dạy dỗ hoặc an ủi lần lần nó tỉnh thì sẽ về. Không nên đi cầu cúng, nếu không sửa tâm tánh, ngôn ngữ, của mình với người xung quanh, thì dù cho có cầu cúng cũng không kết quả.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, trong kinh nói rằng: Người mới chết nóng ở đỉnh đầu thì sinh lên cõi trời; nóng ở ngực được sinh làm người; nóng ở bụng thì sinh làm súc sanh; nóng ở chân sinh làm ngạ quỷ. Vậy người thoát ra khỏi tam giới khi chết nóng ở đâu? Xin Hòa thượng hoan hỷ chỉ dạy cho con hiểu.

ĐÁP: Còn sinh trong lục đạo còn có chỗ trụ, hết sinh trong lục đạo toàn thân đều mát.

HỎI: Kính thưa Hòa thượng, người tu Thiền học Anh văn có lỗi gì không?

ĐÁP: Người tu Thiền học Anh văn không có lỗi gì, nhưng muốn tu Thiền đến nơi đến chốn thì phải dồn hết tâm lực để tu. Nếu học mắc lo nhớ chữ không dồn hết tâm lực nên tu chậm, thay vì tu mười năm thì kéo dài ba – bốn chục năm.  

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, cho con hỏi những điều sau đây:

– Tổ sư Đạt-ma vác cây gậy trên vai quảy một chiếc dép là nghĩa gì?

– Tại sao các chùa mỗi chiều cúng thí cô hồn tại bàn hộ pháp? Vậy hộ pháp là cô hồn sao?

– Thờ ông Tiêu Diện có ý nghĩa gì?

Xin thầy hoan hỷ chỉ dạy.

ĐÁP: Vai chỉ cho sự gánh vác, mục đích của Tổ từ Độ-độ sang Trung Hoa là gánh vác sự nghiệp vượt ngoài đối đãi. Con người có hai chân để đi một đôi dép, bây giờ bỏ một chiếc thì chiếc kia vô dụng. Ngài quảy có một chiếc, chủ trương của Ngài là đi đến Trung Hoa để truyền đạo vượt ngoài đối đãi, tượng trưng Ngài quảy một chiếc dép. Người ta nghi, khi hết đối đãi rồi còn lại một cái gì? Hình ảnh Ngài cưỡi cành lau đi qua biển, tượng trưng ý nghĩa khi hết đối đãi rồi liền có cái diệu dụng không thể nghĩ bàn.

Các chùa hay cúng thí cô hồn, các vị hộ Pháp tượng trưng cho các vị Bồ-tát ủng hộ ngôi già lam. Cô hồn là quỷ đói cũng như mấy đứa con nít, cho nó ăn mất trật tự lắm, nó tranh giành nhau, nên nhờ các vị hộ pháp gìn giữ trật tự. Mỗi khi cúng có các vị hộ pháp làm chứng để giữ trật tự cho cô hồn khỏi làm rộn, khỏi làm mất trật tự, chứ không phải hộ pháp là cô hồn.

Tiêu Diện là vị hộ pháp mặt mày dữ dằn trong miệng có lửa đỏ, hay trừng trị những đứa quỷ hung dữ, ngỗ nghịch. Khi Tiêu Diện hét lên trong miệng tóe lửa, nó thấy hoảng sợ bỏ chạy không dám phá nữa. Trong đạo Phật có nhiều hình ảnh ý nghĩa rất thâm trầm; những bậc hiền lành, chân chánh có từ bi thuận hạnh, từ bi nghịch hạnh. Thuận hạnh là thấy người khổ thì an ủi, vỗ về, giúp đỡ; nghịch hạnh là gặp mấy chú côn đồ, hung dữ vỗ về không nghe nên phải hóa ba đầu sáu tay dữ dằn hét ra lửa nó mới sợ. Những người cảnh sát hay những người có binh khí trong tay là để dọa, để hét những đứa hung dữ, nhờ đó nó biết phục thiện, đó cũng là từ bi. Đừng nghĩ rằng chỉ có an ủi vỗ về giúp đỡ mới là từ bi.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, cha mẹ có con xuất gia, khi cha mẹ đã già muốn quy y Tam Bảo, vậy quy y với con được không hay phải quy y với Thầy khác? Nếu quy y với con phải đúng như pháp mà cung kính và hầu hạ thầy thì con có lỗi bất hiếu với cha mẹ không?

– Ở chùa mỗi buổi tối và sáng thỉnh Đại hồng chung có ý nghĩa gì? 

– Đại ngộ khác với tiểu ngộ như thế nào?

– Quán Tự Tại Bồ-tát có phải là Quán Thế Âm Bồ-tát không?

– Địa Tạng Bồ-tát có phải là Tam Tạng thỉnh kinh không?

ĐÁP: – Người được phước nên có con đi tu, nhưng muốn quy y thì quy y với người khác cho dễ. Bởi vì cha mẹ nghĩ đó là con mình thì không có tâm kính Tăng đúng như nghĩa đệ tử trọng thầy. Còn nếu cha mẹ trọng Tăng như người đệ tử trọng thầy, mà Tăng là con mình thì cũng khó xử sự. Bởi vì coi cha mẹ như đệ tử thì trái với luân lí, còn coi cha mẹ là cha mẹ thì trái với pháp quy y.

– Thỉnh chuông với ý nghĩa cảnh tỉnh hay là đánh thức. Ở chùa thức khuya dậy sớm im lặng thì không có gì lạ. Tại sao lại thỉnh chuông? – Người đời nghe tiếng chuông dễ thức tỉnh, Phật tử đi đâu nghe tiếng chuông ngân thấy có cái gì nao nao trong lòng, làm cho tỉnh thức. Vì vậy khuya đang ngủ mê, nghe tiếng chuông, chúng ta thức dậy tụng kinh niệm Phật, đó là cảnh tỉnh để bớt mê.

– Đại ngộ với tiểu ngộ khác nhau: Như chúng ta học kinh có câu, có vấn đề không hiểu, một hôm nào đó ngồi thiền tâm yên chợt hiểu ra. Điều mình không hiểu bây giờ bất chợt hiểu gọi là tiểu ngộ. Còn thấu triệt toàn bộ gọi là đại ngộ hay triệt ngộ.

– Bồ-tát Quán Thế Âm, trong kinh Bát-nhã gọi là Quán Tự Tại.

– Địa tạng Bồ-tát có phải là Tam Tạng thỉnh kinh không? – Không. Tam Tạng thỉnh kinh là ngài Đường Huyền Trang ở bên Trung Hoa đi Độ-độ du học và thỉnh kinh. Còn Bồ-tát Địa Tạng là vị Bồ-tát nguyện ở địa ngục độ chúng sanh. Hai vị khác nhau không phải là một.


HỎI: 
Kính thưa Hòa thượng, “Biết tâm không gọi là thấy Phật, chẳng thấy tâm gọi là thấy Phật” là sao? Con không hiểu, xin Hòa thượng giúp cho con được sáng suốt để con không thấy mâu thuẫn khi tìm thấy tâm.

ĐÁP: “Biết tâm không gọi là thấy Phật” nghĩa là trong kinh Bát-nhã nói thấy tất cả pháp không có thực thể. Thấy được tánh không là cái gì thấy? Biết thấy được tánh không là trí tuệ Bát-nhã, nên nói trí tuệ Bát-nhã soi thấy các pháp đều không mà trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ Phật, nên thấy biết tất cả đều không gọi là thấy Phật. “Chẳng thấy tâm gọi là thấy Phật” nghĩa là tâm này không còn vọng tưởng sinh diệt nữa, đó là tâm thể thanh tịnh là tâm Phật, nên không có gì mâu thuẫn.


HỎI: 
Kính thưa thầy, hôm 16-9 vừa qua thầy giải về Phật thật Phật giả, chúng ta là Phật thật chưa thành kính lễ đức Phật thuở xưa, nên hằng đêm đều lấy Phật thật chưa thành này lạy Phật giả ở trên bàn. Vậy là sao? Xin thầy giải cho các tín đồ Phật tử hiểu.

ĐÁP: Chúng ta có hai cách tu, một là dùng trí tuệ quán chiếu, hai là dùng lòng thành kính quy hướng về Phật, thờ đức Phật trên bàn dù biết đó là Phật gỗ hay Phật thạch cao, nhưng cứ tin như đức Phật đang ngự trong nhà mình, tin và thành kính lễ Phật, cung kính dâng nước, cung kính cúng hoa… Chính do niềm tin mạnh và lòng cung kính chân thành làm cho tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì có kết quả tốt. Còn dùng trí quán thì biết rõ thân này không thật, chùa không thật, Phật ngồi trên bàn cũng không thật. Quán thấy rõ tường tận như vậy nên tâm không chấp vào thân, không chấp vào cảnh, không chấp tất cả, rất tốt. Nhưng chưa quán được như vậy thì nên kính Phật có phước. Chúng ta tu chưa thấy thân không thật thấy cảnh không thật, mà lại chấp, không lễ kính tượng Phật thì trở thành ngã mạn bất kính không có lợi. Vậy tôi khuyên khi chưa thấy thân, cảnh, ngã, pháp đều không thật thì nên kính Phật, kính Pháp, kính Tăng, hay kính các bậc tiền bối, để tâm mình thuần thục thì tốt không có hại gì.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng xin Hòa thượng từ bi giải thích cho con biết rõ về pháp môn tu Thiền để điều trị bệnh mãn tính của thân và có trị huyệt bệnh không?

ĐÁP: Tu Thiền trị bệnh tâm chứ không chú trọng về bệnh thân. Nếu bệnh thân có bớt thì đó là phần phụ, trọng tâm là trị bệnh tâm là loạn tưởng, phóng ngoại… còn bệnh thân nhất là bệnh mãn tính tu Thiền hết thì tôi không bảo đảm, và tuyệt hết bệnh tôi cũng không bảo đảm. Người tu Thiền chỉ khác người không tu Thiền ở chỗ, khi đau người không tu thấy thân đau đớn khổ sở, khổ thân lại dẫn đến khổ tâm. Người tu Thiền thấy rõ thân này có tụ ắt phải tan chứ đâu có giữ hoài được. Phật nói có sanh ắt có già bệnh chết. Phật cũng đã trải qua những cơn đau, nên bệnh là lẽ thường, không đáng sợ. Đó là nhờ tu Thiền.

HỎI: Kính bạch Sư ông hoan hỷ giải đáp thắc mắc cho con. Tổ Đạt-ma có tịch không? Tại sao khi mở quan tài chỉ thấy có một chiếc dép còn một chiếc ở đâu? Con kính đội ơn Sư ông.

ĐÁP: Tượng tổ Đạt-ma chúng ta thờ ở nhà Tổ, thấy Ngài quảy một chiếc dép đi về Độ-độ nên quý vị thắc mắc. Trong sử có ghi Tống Vân đi sứ Độ-độ về tới dãy núi Thông Lãnh thấy Tổ Đạt-ma quảy một chiếc dép đi về Độ-độ.

Tống Vân hỏi: Sao Ngài không ở Trung Hoa giáo hóa?

Tổ Đạt-ma nói: Ta hết duyên ở Trung Hoa.

Về tới nhà, Tống Vân nghe nói Ngài tịch rồi. Ông trình việc này lên vua cho người mở tháp Ngài trong núi Hùng Nhĩ, thấy trong tháp chỉ còn một chiếc dép. Như vậy là một chiếc quảy về Độ-độ, một chiếc ở trong quan tài. Thiền sư Việt Nam là Ngài Thường Chiếu phản đối việc này. Khi hỏi tới đó Ngài nói: “Một con chó lớn sủa láo, bầy chó nhỏ sủa theo”. Vì nếu tổ Đạt-ma không tịch thì sao trong sử ghi sau khi truyền y bát cho Tổ Huệ Khả, Ngài kêu các đệ tử tới trình kiến giải thì Tổ Huệ Khả đứng khoanh tay. Ngài nói: “Ngươi được phần tủy của ta”, từ đó Ngài xong việc. Ngài tịch tại chùa Thiếu Lâm, sau đó được để vào quan tài khiêng lên núi Hùng Nhĩ xây tháp để thờ.

Việc Tống Vân gặp Tổ quảy một chiếc dép về Độ-độ và chuyện mở tháp ra thấy trong quan tài chỉ còn một chiếc dép, đó là câu chuyện tuy sử có ghi, nhưng dưới con mắt của Thiền sư Thường Chiếu thì đó là chuyện dối gạt, không thật. Tại sao vậy? Vì nếu tổ Đạt-ma không tịch thì Tổ hơn Phật Thích Ca. Phật từng nói: “Có sinh thì phải có tử, không ai sinh mà không tử” và Phật đã Niết-bàn. Vậy tổ Đạt-ma không tử thì trái với giáo lý Phật nói. Nếu Ngài không tịch thì từ đó tới giờ có ai gặp Ngài ở đâu không? – Không. Như vậy là Ngài tịch rồi!


HỎI: 
Hệ thống kinh điển Đại thừa thường chứa đựng nghĩa lý ẩn dụ, người tu Thiền mãi truy tìm nghĩa lý có rơi vào vọng tưởng chăng?

ĐÁP: Người tu Thiền nhận hiểu đúng đắn rồi thì lo tu khỏi đi tìm hiểu, tìm hoài thì rơi vào vọng tưởng, kiến thức. Nếu chưa hiểu chúng ta phải tìm cho hiểu. Khi đã hiểu nhận ra rồi thì cố gắng tu, tìm hoài mắc lỗi nặng về tri kiến hay mắc kẹt trong vọng tưởng.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng khi ngồi thiền được trạng thái khinh an bỗng nhiên thấy sáng xung quanh khoảng 4 mét, hành giả vẫn biết mình ngồi. Trong ánh sáng đó biết sự sống của các loại côn trùng, vừa mừng liền mất, mặc dù biết không nên lưu luyến phút giây đặc biệt đó nhưng cứ ám ảnh. Kính xin Hòa thượng khai thị. 

ĐÁP: Trong khi ngồi thiền thấy sáng xung quanh mình khoảng bốn mét, lúc đó mừng, ánh sáng liền mất. Quý vị biết tại sao mừng không? Mừng mình có hào quang, mừng mình sắp thành Phật cho nên mất liền. Người tu Thiền đặc biệt kỵ hai bệnh sợ và mừng; ngồi thấy cảnh tốt cũng thản nhiên, cảnh xấu cũng thản nhiên. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy những cảnh đó là do nội tâm yên tĩnh hiện ra, chứ không có thật, biết từ nội tâm yên tĩnh hiện ra, nên cảnh tốt không mừng, cảnh xấu cũng không sợ. Thân đã không thật thì bất kỳ cái gì hiện ra đều không thật hết. Không mừng không sợ là trọng tâm của người tu Thiền. Còn tu Thiền hay mừng hay sợ thì mất hết công dụng, như vậy là tâm chưa được an tĩnh. Tâm an tĩnh thì cảnh có mất đi cũng không sao hết. Cứ giữ tâm tịch tĩnh sáng suốt thì trúng, đừng mừng đừng sợ.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giải giùm con những nghi vấn sau:

– Trong kinh Lăng Nghiêm có nói dù biết hết thảy những thứ thấy nghe hay biết, mà giữ cái u tịch tối chứng ở trong lòng, cũng còn là bóng dáng của pháp trần phân biệt?

– Hành động của ngài Đơn Hà, Nam Tuyền, Quy Tông có rơi vào nhân quả hay không? Nếu có thì các Ngài vẫn phạm. Biết đó chỉ là phương tiện để dạy dỗ chúng, nhưng chẳng lẽ không còn phương tiện nào khác hơn sát sanh chăng? Nếu không, chẳng lẽ đã là Thiền sư các Ngài muốn gieo nhân thế nào cũng được sao? Như thế làm sao giải thích câu Bồ-tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Nếu câu hỏi của con có mạo phạm kính xin đê đầu đảnh lễ sám hối. 

ĐÁP: – Phật tử hỏi: Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói rằng: Nếu mình biết hết những cái thấy nghe hay biết ở bên ngoài vẫn còn giữ cái u tịch tối chứng ở trong, cũng là còn bóng dáng của pháp trần phân biệt? Quý vị đừng hiểu lầm cái biết hết thảy thấy nghe hiểu biết. Cái biết là biết, thấy nghe hiểu biết mà dính mắc với sáu trần, dứt cái dính mắc chứ không phải dứt cái hiểu biết làm cho mắt mình mù. Hiểu cho rõ ràng đừng hiểu lầm. Vậy sáu căn tiếp xúc với sáu trần không cho dính mắc, còn nếu dứt mà vẫn giữ cái tối âm u chưa yên thì trật. Vì Tánh giác lúc nào cũng sáng mà lấy cái tối cho là giác thì trật rồi.

– Phật tử này thắc mắc: Ngài Đơn Hà thì thiêu tượng Phật, ngài Nam Tuyền chặt con mèo, ngài Quy Tông chặt con rắn, vậy có rơi vào nhân quả không? Nếu ba vị này làm việc đó mà cố tâm cố ý thì nhất định rơi vào nhân quả, còn nếu các Ngài làm với tâm ý tốt, tâm ý thiện thì khác. Trong Kinh nói rất rõ, nếu thành nghiệp cố định thì việc làm đó ba nghiệp hợp lại trọng tâm là ý mới bị tội, bị nghiệp cố định gọi là định nghiệp nhất định phải trả. Còn nếu chỉ có thân, không có miệng, không có ý thì nghiệp đó là bất định, bất định thì chuyển được. Hỏi có rơi vào nhân quả không thì tôi trả lời: Những hành động đó thuộc về nghiệp bất định, bất định thì tùy duyên mà chỉnh. Chứ không phải cố định làm như vậy phải chịu như vậy.

Sở dĩ các Ngài làm như vậy vì đối cơ để khai thị đương sự, trong khi đối cơ thì gặp cảnh nào thích ứng các Ngài làm ngay chứ không lựa chọn. Phật tử hỏi không còn cách nào khác để làm sao phải làm như vậy? – Vì lúc đối cơ các Ngài phải làm tức thì với cơ hội hiện có để khai ngộ chứ không chờ cơ hội khác. Vì vậy các Ngài chấp nhận cái gì đến với các Ngài, miễn làm cho người được giác ngộ, chứ không nghĩ làm như vậy mình sẽ bị tội. Trong nhà Phật có những câu nói: Vì lợi ích chúng sanh mà Bồ-tát có khi phải phạm tội, biết là phạm tội mà Bồ-tát vẫn làm để lợi ích chúng sanh. Chúng ta không thể đặt các Ngài trong phạm vi thường như mình được.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, con có hai thắc mắc, xin Hòa thượng giải thích cho con hiểu:

– Một hôm con tình cờ đọc lại những dòng chữ ghi chú trong sổ tay của con, con có ghi như sau: Tứ diệu đế có hai tầng nhân quả, Khổ đế và Tập đế nói về nhân quả thế gian, Diệt đế và Đạo đế nói về nhân quả xuất thế gian. Thật tình con không hiểu hai tầng nhân quả trong Tứ diệu đế là gì? Kính xin Hòa thượng hoan hỷ giảng dạy cho con được thông ý nghĩa hai tầng nhân quả.

– Trong lúc công phu tọa thiền con có cảm nhận lưng con không được thẳng mà hơi thụt xuống, khi ấy con ngồi thẳng lại, nhưng sau đó thì trạng thái ấy cứ lập đi lập lại nhiều lần trong một thời công phu tọa thiền. Con chỉ ngồi được một giờ, nên con chưa thật an định. Vậy kính xin Hòa thượng hoan hỷ chỉ dạy cho con phương pháp khắc phục tốt nhất để tâm con sớm an định.

ĐÁP: – Phật tử này thắc mắc trong pháp Tứ Đế có hai tầng nhân quả: Khổ đế và Tập đế là nhân quả thế gian, Diệt đế và Đạo đế là nhân quả xuất thế gian. Như chúng ta biết, Phật chứng được lậu tận minh, biết rõ mình không còn rơi trong đường sinh tử nữa. Ngài thấy rõ manh mối đưa con người đi trong sanh tử và dứt được manh mối này thì được giải thoát. Thấy được chỗ này Ngài mới giải thoát sanh tử, nên gọi là lậu tận minh. Khi giải thoát được sanh tử Ngài chỉ rõ cái nhân sanh tử cho người thế gian biết, nên nói Khổ đế và Tập đế là nhân quả thế gian.

Tập đế là những cái nhân xấu đã tích lũy đưa tới quả đau khổ. Những nhân xấu đó là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… Đó là những cái nhân dẫn con người đi trong luân hồi sinh tử. Tham, quý Phật tử có không? – Có. Sân, quý Phật tử có không? – Có. Si, quý Phật tử có không? – Có. Nếu không có si thì thấy đời như mộng, thấy đời thật thì có si rồi. Mạn là ngã mạn, lúc nào cũng thấy mình hơn người coi thiên hạ không ra gì. Có không? Chắc cũng có. Nghi, đối với đạo lý có nghi không? – Cũng có. Ác kiến hay tà kiến là thấy thiên lệch không đúng lẽ thật. Những cái đó là những nhân khiến tạo nghiệp dẫn đi trong lục đạo luân hồi, gọi là tập đế. Chúng ta chết đây sanh kia không phải ngẫu nhiên, mà do nhân chiêu cảm, chuốc lấy. Quý Phật tử nhìn lại đời mình khi ra đời quý vị có chọn lựa cha mẹ, gia đình thân tộc để đến hay ai đó đẩy mình tới? Sanh ra ở cảnh tốt thì vui, ở cảnh xấu thì chịu, chứ có lựa chọn gì đâu? Vậy cái gì dẫn mình tới? – Nghiệp. Nếu chúng ta tích lũy nghiệp lành nhiều, thì khi bỏ thân trước nó dẫn thân sau tới cảnh tốt, nên có nhiều người sinh ra làm con thủ tướng, làm con tổng thống… Còn tích lũy nghiệp ác nhiều thì sanh trong cảnh rất khổ sở. Chỗ sinh ra không phải mình chọn mà do nghiệp chọn. Nghiệp là Tập đế cho nên sinh ra thân có đủ thứ khổ.

Trong nhà Phật nói có tám khổ: Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương yêu xa lìa khổ, oán thù gặp gỡ khổ, mong muốn mà không được khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Quý vị kiểm xem có khổ thật không? Khi mới sanh ra tại sao đứa bé lại khóc oa oa? Khóc oa oa tức là khổ rồi! Kiểm nghiệm lại trong cuộc sống của mình và của muôn loài là sống trong cái chết của chúng sanh khác. Chẳng hạn bữa ăn sáng, bữa ăn trưa, bữa ăn chiều ít ra cũng có mấy mạng chúng sanh. Nếu ăn cá ít ra cũng năm bảy con, nếu ăn gà vịt thì một hai con; còn nếu ăn bò, heo thì ít ra cũng một phần thân thể của nó. Như vậy sự sống của mình trên cái chết của loài khác; mà cái chết của loài khác là khổ hay là vui? – Khổ. Nếu kiểm từ hồi nhỏ cho tới già thì bao nhiêu mạng chúng sanh nuôi mình? Ngày nay chúng ta sống khỏe mạnh thì bao nhiêu sinh mạng đã kêu gào dãy dụa để cho chúng ta được sống được khỏe? Có phải chúng ta sống trong đau khổ của loài khác không? Vậy sinh là khổ hay vui? Mình vui mà loài khác khổ, vậy sinh là khổ rồi.

Già quý vị có khổ không? Chúng ta thấy ông già, bà già đi lụm khụm, chân mõi gối chùng đi đứng mõi mệt; già cũng khổ.

Bệnh có khổ không? Trên đời có ai không bệnh? Ai cũng bệnh nên già hay trẻ ai cũng biết.

Tử có khổ không? – Chắc chắn là khổ. Như vậy sanh, già, bệnh, chết ở thế gian này có người nào thoát khỏi không? – Không.

Ái biệt ly khổ, cha mẹ mình thương, anh em mình thương… mà rồi phải xa lìa; nên gọi là ái biệt ly khổ.

Oán tắng hội khổ là người mình ghét cay ghét đắng mà cứ ở với mình hoài, có khổ không? – Khổ.

Cầu bất đắc khổ, cái mình muốn được mà không được cũng khổ. Cuối cùng thân này có đủ thứ khổ.

Sáng lăng xăng việc vệ sinh phải mất nửa giờ, một lát bao tử thiếu khó chịu phải kiếm cái gì cho vô mới khỏe, trưa cũng phải lo cho nó nữa, rồi chiều cũng vậy. Mỗi ngày chúng ta chỉ lo cho thân này hết bù đắp cái mới vô, phải loại cái cũ ra. Cứ làm chuyện đem vô đem ra hết ngày này tới ngày khác, làm cả đời!

Khổ đế là thân này chịu đủ thứ khổ. Tập đế là nhân, Khổ đế là quả. Nhân quả đó là nhân quả đi trong sanh tử luân hồi, cho nên gọi là nhân quả thế gian; đó là tầng thứ nhất là tầng mê đi trong luân hồi.

Tầng thứ hai là Diệt đế và Đạo đế. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến là gốc dẫn đi trong luân hồi. Giờ muốn hết luân hồi phải dứt tham, dứt sân, dứt si, không ngã mạn, hết nghi… Những cái này diệt sạch hết gọi là diệt đế. Nhân đã diệt, quả không còn thì được an lạc, Niết-bàn. Nếu bây giờ hết tham, quý vị có đỡ khổ không? – Dạ đỡ. Thí dụ ưa mặc đồ đẹp, mà không có tiền mua quý vị có khổ không? – Dạ khổ. Không ưa đồ đẹp, không có tiền mua, có khổ không? – Hết khổ ngay. Như vậy do tham nên khổ, bây giờ hết tham, thấy thân giả tạm không có gì quan trọng, không tham sống cũng không sợ chết, thì không còn khổ. Như vậy hết tham, hết sân, hết si thì hết khổ. Vậy diệt hết các thứ đó là diệt đế là an lạc, là Niết-bàn. Tuy nhiên, nói diệt không phải bỗng dưng diệt được liền, đức Phật dạy các phương pháp để diệt, gọi là đạo đế. Thí dụ quý vị hay nóng giận, Phật dạy phải quán từ bi. Người nào quý vị thương nhiều, họ làm một hai chuyện sai nói một hai lời trật quý vị không bắt bẻ không rầy la. Còn người nào quý vị ghét, làm sai, nói vô phép liền la rầy. Cho nên muốn hết nóng giận thì phải quán từ bi. Đạo đế là những phương pháp đối trị tâm tham, tâm sân, tâm si, hết tham, sân, si thì được an lạc, Niết-bàn, giải thoát, gọi là xuất thế gian. Hai tầng nhân quả là như vậy.

– Phương pháp khắc phục tốt nhất là thấy các pháp như mộng, thấy các pháp như mộng thì dễ yên lắm. Thấy các pháp thật thì khó yên. Nếu ai đó chửi mình cả mười phút, mình thấy lời nói đó hư giả không thật, không trả lời câu nào hết, tới giờ ngồi thiền, ngồi rất yên. Ngược lại ngồi thiền nhớ chuyện chửi lộn hồi sáng, nhớ coi họ chửi mình câu gì, bây giờ mình nghĩ câu nào chửi lại nặng hơn, nghĩ hết giờ thiền loạn cả tâm. Như vậy thấy lời chửi là thật, thì không làm sao ngồi yên. Nghe lời chửi, lời chê như gió thổi qua mất thì người ta có chửi gì chửi, lòng mình bất động, không loạn, đó có phải là cách khắc phục tốt nhất không? Tại vì không có gan cứ thấy nó thật nên thấy phải khắc phục, quá khó!

– Hình dáng ngồi lưng không thẳng, lâu lâu bị thụt xuống phần nhiều người ngồi không được người theo dõi sửa giùm, lúc thấy thẳng lúc thấy cong, nhưng cong hay thẳng đều là triệu chứng. Nếu ngồi thẳng quá dễ ran ngực, cong quá lâu ngày sẽ đau xương sống, cho nên ngồi phải vừa, đừng thẳng lắm cũng đừng cong, giữ thái độ vừa chừng. Cố gắng thẳng, ển ngực lâu ngày xương sống bệnh gai. Khi nào thấy hơi cong thì nên chỉnh cho ngay thẳng.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng:

– Đạo Bà-la-môn và giai cấp Bà-la-môn là hai hay một? Nếu hai thì đạo Bà-la-môn nghĩa là như thế nào?

– Tại sao ở đầu kinh Bát-nhã có câu: “Bổ khuyết Tâm kinh” và bổ chỗ nào?

ĐÁP: Giai cấp Bà-la-môn và đạo Bà-la-môn không phải hai mà cũng không phải một. Đạo Bà-la-môn là một tôn giáo lớn ở Độ-độ thờ Phạm Thiên và dạy tu để trở về với Phạm Thiên. Xã hội Độ-độ thời bấy giờ chia ra bốn giai cấp: Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Vệ-xá và Thủ-đà-la. Giai cấp Bà-la-môn được tất cả quyền lợi trong xã hội; nhất là có quyền cúng tế các lễ lớn như cúng tế Phạm Thiên. Người ở giai cấp Bà-la-môn theo đạo Bà-la-môn. Theo đạo Bà-la-môn thì giai cấp Bà-la-môn sanh từ đảnh Phạm Thiên, những giai cấp khác thì sanh ở miệng, ở bụng, ở tay chân, nên giai cấp Bà-la-môn là trên hết trong xã hội Độ-độ.

– Hồi xưa có người cho rằng bốn chữ bổ khuyết Tâm kinh là khi tụng kinh A-di-đà, tụng kinh Phổ Môn xong thì tụng kinh Bát-nhã, gọi là bổ khuyết Tâm kinh. Có người hỏi tụng kinh Bát-nhã bổ khuyết là tại sao? – Vì người tụng kinh A-di-đà hay kinh Phổ Môn sợ nhảy câu hoặc thiếu chữ, cho nên phải tụng Bát-nhã để bù lại cho đủ, nên gọi là bổ khuyết Tâm kinh, có một số Sư giảng như vậy. Nhưng sự thực không phải vậy vì đạo Phật là đạo giác ngộ lấy trí tuệ làm đầu. Dù tu pháp môn nào Phật dạy chúng ta phải nhắc lại trí tuệ là gốc. Tụng Phổ Môn, tụng A-di-đà… rồi cuối cùng tụng Bát-nhã Tâm kinh. Tụng Bát-nhã là để nhắc chúng ta hằng nhớ hằng sống với trí tuệ không còn mê lầm nữa, nên cuối bài kinh A-di-đà hay Phổ Môn phải tụng Bát-nhã là vậy.

HỎI: Tạp báo, tạp sanh, tạp thọ là nghĩa thế nào? Kính mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Tạp báo, tạp sanh, tạp thọ. Tạp là lẫn lộn, lẫn lộn thế nào? Như Phật tử hồi nãy hỏi hồi nhỏ ăn chim Bồ Câu bây giờ tu Bát quan trai… Đời sống của một Phật tử có khi đoạn trước là ác, đoạn sau là thiện, hoặc trước thiện sau ác lẫn lộn không nhất định, nên sau được thân tổng báo cũng không nhất định, lúc thì tốt khi thì xấu. Có nhiều người lúc trẻ sung sướng tiền bạc dư thừa, nhưng tới già nghèo thôi là nghèo. Còn có người hồi nhỏ nghèo cháy da phỏng trán, mà tới chừng lớn từ từ khá giả lên. Như vậy gọi là tạp báo, quả báo lẫn lộn có tốt có xấu không nhất định, là vì đời sống trước của họ, lúc làm thiện lúc làm ác không nhất định. Tạp báo nghĩa là quả báo lẫn lộn. Còn người tạo nghiệp toàn là tốt thì họ sinh ra từ thủy tới chung đều tốt.

Tạp sanh là sanh lẫn lộn, trong lục đạo lúc sanh chỗ này lúc sanh chỗ kia, khi làm người, khi làm thú, khi làm chư thiên… lẫn lộn không cố định gọi là tạp sanh.

Tạp thọ là cảm thọ trong cuộc sống có khi vui, có khi khổ, lẫn lộn không có nhất định; nên gọi là tạp thọ.

Đó là nói về nghiệp báo đời này, đời kia liên hệ nên có những sự lẫn lộn như vậy.


HỎI: 
Bài kệ của Thiền sư Mãn giác:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tùng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Thỉnh thầy giảng giải nghĩa lý của bài kệ này.

ĐÁP: “Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai”. Mùa xuân chỉ cho thời gian. Bách hoa chỉ cho muôn vật, thời gian trôi qua muôn vật cũng theo đó mà biến hoại. Hết xuân tới hạ, hết hạ tới thu tới đông rồi trở lại xuân. Xuân trở lại tức là thời tiết trở lại thì trăm hoa theo đó nở. Hai câu này nói lên ý nghĩa cuộc đời, con người cũng như muôn vật luôn luôn bị thời gian chi phối, nên việc tốt xấu vinh nhục sanh tử luôn chịu ảnh hưởng của thời gian. Có người nào vật nào không bị thời gian chi phối không? Mỗi năm qua người vật lần lần lớn lên rồi già từ từ. Già thì suy, trẻ thì thịnh. Vậy thời gian chuyển biến người và vật cũng theo đó chuyển biến không có cái gì đứng dừng một chỗ, nên muôn vật cũng như tất cả chúng sanh trên thế gian này bị thời gian chi phối, bào mòn, mỗi ngày mỗi giảm tuổi thọ. Đó là hai câu chỉ cho sự vật chuyển biến theo thời gian.

“Sự trục nhãn tiền quá, lão tùng đầu thượng lai”. Sự vật đã trôi qua trước mắt mà cứ nghĩ cây này mình mới trồng nay nó đã lớn già, cái nhà mình mới cất nay đã cũ… Cứ nhớ những chuyện mới cũ trẻ già. Nhưng sực nhớ lại thì tóc đã bạc đầy đầu rồi. Chúng ta và muôn sự muôn vật luôn bị thời gian chi phối, bị lôi cuốn theo chứ không ai thoát khỏi.

“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai”. Ngài dùng hai câu này để nói ngược lại, đừng tưởng rằng mùa xuân hết là hoa rụng hết, đêm hôm qua ở trước sân còn một cành mai. Tại sao vậy? Người đời cứ nghĩ mùa xuân thì hoa nở, mùa đông thì hoa tàn rụng hết. Nhưng không, ở đây mùa đông các thứ hoa rụng hết, mà còn một cành mai ở trước sân chùa nở đầy hoa. Hình ảnh này nói lên ý nghĩa, trên hiện tượng thì muôn sự muôn vật bị thời gian chi phối, vô thường biến đổi, nhưng trên bản thể chân thật vẫn có cái không bị vô thường chi phối, giống như trong lò lửa có hoa sen nở tươi thắm. Cũng vậy, cảnh chúng ta đang sống bị thời gian vô thường chi phối, nhưng trong chúng ta còn có một cái chưa từng bị vô thường chi phối. Nếu cứ nhìn cái biến thiên dời đổi của ngoại cảnh và của bản thân thì chúng ta cảm thấy cuộc đời buồn, cuộc đời bị tàn phai, nhưng thấy sâu nơi mình có thể chân thật thì lúc đó sự tàn phai ở bên ngoài chỉ là trò chơi, không đáng buồn, mà an lòng rằng nơi mình có thể chân thật, thời gian không hủy hoại được. Ở trong cảnh vô thường, mà vẫn có cái không bị vô thường chi phối, cho nên Ngài nói đêm qua sân trước một cành mai, hay nói trong lò lửa có một đóa sen đang nở tươi thắm. Đó là ý nghĩa của bài kệ này.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, con có những thắc mắc như sau mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy: Trong kinh Lăng Nghiêm ngài A-nan đã ngộ rồi, nhưng sau khi Phật nhập diệt rồi Ngài còn hỏi tổ Ma-ha Ca-diếp ngoài chiếc y Kim lan ra, Thế Tôn còn truyền cho sư huynh cái gì nữa không? Tổ Ma-ha Ca-diếp gọi: A-nan! A-nan: Dạ! Ngài liền đại ngộ. Tại sao A-nan đã ngộ rồi mà còn đại ngộ với ngài Ca-diếp nữa? Xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Tôi nhắc lại cho quý vị nhớ, trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A-nan nhờ đức Phật gạn bảy chỗ hỏi tâm, rồi sau nói về nghĩa thất đại thì Ngài ngộ được bản tâm. Sau khi ngộ bản tâm, Ngài trình với Phật: Con giống như người nhà quê được nhà vua tặng cho một ngôi nhà đẹp, con đã thấy biết nhà đẹp nhưng chưa có chìa khóa mở cửa. Sau đó đức Phật dạy hai mươi lăm vị Thánh trình sở ngộ… Bồ-tát Quán Thế Âm trình sở ngộ của Ngài là phản văn văn tự tánh. Như vậy hai mươi lăm vị Thánh trình sở ngộ không biết ngài A-nan có được chìa khóa chưa. Ngộ thì ngộ nghĩa là biết mình có nhà quý, thấy được nhà quý, mà chưa có chìa khóa mở cửa vô nhà. Tới nhà rồi phải có chìa khóa mở cửa vô nhà, vô nhà còn phải dọn dẹp nữa, không phải vô là xong. Ngài thấy rõ ràng mình có thể chân thật mà chưa nhập được; thấy có tức là ngộ, nhưng chưa nhập cho nên xin chìa khóa để vào. Khi Ngài hỏi thì tổ Ca-diếp gọi: A-nan! Ngài: Dạ! Tổ nói: Cây phướn trước chùa ngã, ngài A-nan đại ngộ. Như vậy có cho chìa khóa chưa? Ngài A-nan đã được chìa khóa rồi! Hồi xưa ngộ chưa có chìa khóa vào cửa, bây giờ có chìa khóa vào cửa hay là được vào nhà, như vậy mới hoàn toàn thành Tổ.


HỎI: 
Kinh là lời Phật thuyết, ngài Duy-ma-cật là Bồ-tát tại gia đàm đạo với các vị Thánh Tăng. Tại sao để là kinh Duy-ma-cật, vẫn biết Ngài là người có trí tuệ nhưng theo luật của Phật thì Ngài không đứng vào hàng Tam Bảo?

ĐÁP: Cư sĩ Duy-ma-cật luận đạo với các vị Bồ-tát, các vị La Hán sau kết tập lại gọi là kinh Duy-ma-cật. Phật tử này nghi kinh là do Phật nói, tại sao cư sĩ nói gọi là kinh? Tất cả kinh đều là Phật nói. Tuy nhiên có kinh Bồ-tát nói, có kinh Thanh văn nói được gọi là Kinh vì các Ngài giảng cho Phật tử nghe, giảng xong các Ngài đem hỏi Phật con giảng vậy đúng không, Phật xác nhận giảng như vậy đúng nên được chép thành Kinh. Cư sĩ Duy-ma-cật trong buổi đối đáp với các vị Bồ-tát và các vị Thanh văn, A-la-hán sau đó dẫn đến trước Phật, Phật tán thán lời nói đó là đúng nên được chép lại thành kinh Duy-ma-cật; Phật thừa nhận đúng như lời Phật nói thì nhận đó là Kinh.


HỎI: 
Bạch Hòa thượng, trong tứ quả Thanh văn tại sao chỉ có người xuất gia mới đạt được quả A-la-hán, hàng tại gia chỉ từ sơ quả đến tam quả?

ĐÁP: Chỉ có người xuất gia tu mới đắc được quả A-la-hán, còn tại gia chỉ tới Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm thôi, không được quả A-la-hán. Tại sao vậy? Vì quả A-la-hán dứt hết nhân sinh tử, người tại gia còn gia đình thì mầm sanh tử chưa dứt, nên không chứng được quả A-la-hán. Nhưng Phật tử sau này tu cứ nói rằng phải tu làm sau một đời giải thoát, muốn một đời giải thoát thì phải xuất gia, tại gia không giải thoát được. Vừa rồi có một Phật tử hỏi tôi câu đó, tôi quở Phật tử sao tham quá vậy! Tu là cốt được giác ngộ để tiến lên Phật quả. Giác ngộ, chúng ta cứ tu đời này đời khác để tự giác và giác tha. Tự giác giác tha viên mãn mới thành Phật. Tu đòi thành Phật liền có phải tham không? Muốn thành Phật thì phải có đủ hạnh Bồ-tát, phải tự giác giác tha rồi sau mới thành Phật. Ngay lúc đầu muốn thành Phật thì đâu có hạnh giác tha mà không giác tha thì đâu thành Phật. Quý vị có mâu thuẫn không, tu đòi thành Phật ngay lúc đầu thì làm sao có giác tha viên mãn? Phật tử bây giờ là cư sĩ tu có giác ngộ là có tinh thần Bồ-tát rồi, sau đó vừa tu vừa chỉ dẫn nhắc nhở anh em cùng tu thì đó là giác tha. Khi viên mãn thì thành Phật. Giả sử chúng ta tu còn trở lại một đời hai đời chúng ta cũng cười thôi, vì mình đang làm hạnh Bồ-tát để mình được tự giác giác tha rồi đời chót đi xuất gia là thành Phật.

Thái tử Tất-đạt-đa tu một đời thành Phật, bao nhiêu đời trước Ngài với Da-du-đà-la có oan trái không? Oan khiên bao nhiêu đời rồi tới đời chót mới hết. Nếu tu một đời là xong thì không có hạnh Bồ-tát, mà không có hạnh Bồ-tát làm sao thành Phật được?


HỎI: 
Thưa thầy Thiền Tông nói kiến tánh thành Phật, kinh sách Phật nói tánh có thể và dụng; vậy tánh nào đúng và được thành Phật? Nhờ thầy giải giùm cho Phật tử rõ.

ĐÁP: Chữ kiến tánh thành Phật này đa số Phật tử hiểu lầm. Kiến tánh là nhận ra chứ không phải mắt thấy. Con mắt thấy vật chứ không thấy cái không vật, mà tánh không phải là vật thì làm sao con mắt thấy được? Đối với bản tánh chân thật của mình, mình nhận ra rồi không còn nghi ngờ gì nữa hết, mình biết rõ nó hiện hữu ở sáu căn, không chút nghi ngờ thì đó gọi là kiến tánh. Nhận ra gọi là kiến tánh, biết mình có tánh chân thật thì sớm muộn gì cũng thành Phật, cho nên gọi là kiến tánh thành Phật, chứ không phải kiến tánh là thành Phật liền.

Phật tử này hỏi tánh có thể và dụng, nhận ra tánh có khi nhận thẳng từ thể, nhưng có khi nhận từ dụng rồi mới đi tới thể. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật nói mặt trăng thứ hai và mặt trăng thật. Mặt trăng thứ hai là chỉ cho sáu căn có cái dụng của thể, khi nhận ra thể từ sáu căn là từ dụng mà nhận được thể. Đối với sáu trần không dính mắc là từ thể khởi dụng. Chỗ đó gọi là kiến tánh khởi tu, tu viên mãn thì thành Phật. Theo kinh Nguyên thủy thì người tu đối với pháp Tứ đế không còn nghi ngờ là chứng quả Tu-đà-hoàn và phải sanh tử bảy đời nữa mới chứng A-la-hán. Người chứng Tu-đà-hoàn nhận được lý Tứ đế là một lẽ thật, không còn nghi ngờ thì dù sanh tử bao nhiêu lần cũng không quên, cho nên tiến mãi tới quả A-la-hán. Bây giờ chúng ta tu Thiền nhận ra bản tánh chân thật không còn nghi ngờ nữa, dầu còn có đi trong luân hồi mấy đời nữa cũng vẫn không quên, không mất, rồi cũng sẽ thành Phật. Kiến tánh thành Phật là chỗ đó.

HỎI: Bạch thầy người tu Tịnh độ đến lúc lâm chung phải niệm Phật A-di-đà để được siêu sanh Tịnh độ, còn người tu Thiền đến lúc ấy phải làm sao?

ĐÁP: Tôi xin xác nhận một lần nữa, người tu Tịnh độ đến lúc lâm chung niệm Phật là được vãng sanh trăm phần trăm, mà có người được người không được. Nhiều Phật tử cứ tưởng niệm Phật khi chết là được vãng sanh. Không phải như vậy. Vì sao? Trong kinh A-di-đà có nói người nào muốn vãng sanh Cực Lạc thì phải niệm Phật từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung mới thấy Phật và được hướng về Cực Lạc hết. Đó là Phật tử tưởng tượng thôi chứ trong kinh nói rất rõ. Tôi hỏi lại, những người tu Tịnh Độ có người nào được nhất tâm chưa? – Chưa. Chưa thì chắc gì được rước về Cực lạc! Nếu nói tôi tu Tịnh độ gần chết niệm Phật được vãng sanh, còn tu Thiền sắp chết thì làm sao? Quý vị tu Thiền hoảng không biết mình đi đâu? Đây tôi giải thích: Người tu Thiền lấy giác ngộ làm gốc, nên lúc sắp lâm chung biết mình chưa được kiến tánh, chưa được nhất tâm thì phải quán lý Bát-nhã. Thí dụ trong kinh Kim Cang có những câu: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” hay câu “Nhất thiết pháp hữu vi như mộng huyễn bào ảnh” nhớ đọc đi đọc lại và nhớ rõ là có trí tuệ thì tới chỗ sáng suốt. Nếu không có trí tuệ thì sanh vào chỗ không tốt. Vậy người tu Thiền khi sắp lâm chung, huynh đệ tới hộ niệm thì tụng Bát-nhã hoặc đọc kinh Kim Cang cho nghe, rồi nhắc những bài kệ đó để người sắp chết thường dùng trí tuệ quán chiếu, thấy rõ không lầm, không rơi vào đường tối tăm, sẽ đi đường lành để tiếp tục tích chứa hạt giống trí tuệ.

Vậy các đạo tràng Phật tử nhớ tụng kinh Bát-nhã. Nếu người bệnh yếu quá thì tụng một bài kệ, bốn câu cũng được, nhắc tới nhắc lui hoài cho họ nhớ.


HỎI: 
Kính xin thầy chỉ dạy cho con được rõ, khi Phật còn tại thế có bốn mươi chín năm thuyết pháp, sau này kết tập lại thành mười hai bộ kinh vậy là những bộ kinh nào?

ĐÁP: Mười hai bộ kinh gồm những thể loại: Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Nhân duyên, Thí dụ, Tự thuyết, Bổn sự, Phương Quảng, Vị tằng hữu, Luận nghị… Như bộ kinh Pháp Hoa, chánh văn ở trên là Trường hàng tới bài kệ là Trùng tụng đó là một phần kinh, chỗ thí dụ ông trưởng giả trở thành một bộ kinh, như vậy tổng số là mười hai phương thức nói Kinh của Phật. Như Cô khởi tức là không hỏi mà Phật nói, hoặc là Nhân duyên, Thí dụ… đó đều gọi là một bộ chứ không phải có mười hai bộ riêng biệt, kinh Phật mang tính chất mười hai thể loại, đó mới đầy đủ tinh thần của giáo lý Phật.


HỎI: 
Con có đọc nhiều kinh sách Đại thừa nhưng không thể nhận được tự tánh, kính xin thầy chỉ giúp cho con chóng nhận được tự tánh, để áp dụng vào thực tế tu hành. Xin thầy cho một thí dụ để con dễ nhận biết.

ĐÁP: Chỗ này không chỉ được, mỗi người tự nhận, tự biết chứ người khác chỉ cho không được. Bây giờ tôi ví dụ: Nhìn bình hoa trên bàn thì tất cả quý vị và tôi đều thấy bình hoa gồm có ba hoa hồng, hai đỏ, một trắng, có người nào thấy khác không? – Không. Có người nào thấy bốn cái, hai trắng hai đỏ không? – Không. Tất cả đều thấy giống nhau. Như vậy quý vị thấy bình hoa hồng cũng như tôi thấy không khác. Nhưng qua mặt phân tích, hoa hồng trắng đẹp hay hoa hồng đỏ đẹp, có người thấy đỏ đẹp. Như vậy, đứng về mặt phân tích thì có sai biệt, nhưng đứng về mặt tổng quát thì không có sai biệt. Cái gì sai biệt thì cái đó là nghiệp, còn cái gì không sai biệt và nhận ra thì cái đó không phải là nghiệp. Như vậy khéo thấy thì biết chứ hết cách chỉ rồi.


HỎI: 
Kính bạch Sư ông từ bi chỉ dạy cho con cách tu đối cảnh như:

– Đối với những người làm khó con, con chưa làm chủ tâm mình nên không bình thản trước đối phương cố ý khiêu khích. Mặc dù con không cãi hay lớn tiếng mà con nhìn đối phương bằng cặp mắt không bình thường. Sau đó con nhớ lời dạy của Sư ông, con mới bình tỉnh lại thì cũng phải mất mười phút đến mười lăm phút, con tỉnh giác quá chậm, làm sao con tỉnh giác nhanh hơn? Xin Sư ông chỉ dạy.

– Con đang ngồi thiền bình thường, thời gian gần đây con bị bệnh viêm khớp ở hai đầu gối, nên khi ngồi thiền con không thể ngồi bán già được, có hôm khớp xương hai đầu gối bị cứng đi đứng hơi khó, đến giờ thiền con phải ngồi ghế dựa, tâm con vẫn vui, bình an, nhưng như thế con có sai trái điều gì không? Đối với chư Phật con có tội bất kính không?

ĐÁP: Đây không có cách gì làm cho nhanh hết, mà phải nhờ huân tu mới thuần thục. Ví dụ như một câu nói hay, câu châm ngôn hay, quý Phật tử đọc thuộc mà thuộc lơ mơ chưa thấm, thì khi ai hỏi câu đó, quý Phật tử nói nhanh liền được không? – Không. Chắc phải ôn lại một chút rồi mới dám nói. Còn nếu thuộc làu thì đọc vanh vách liền. Vậy cái nhanh cái chậm là do thuộc làu hay chưa làu. Cũng vậy tu mà thuần thục là do huân tu từ từ, không ai chỉ cho mình mau được.

– Người tu tùy theo hoàn cảnh, tùy theo sức khỏe, khéo ứng dụng tu thế nào mà tâm được yên, trí được sáng thì thích hợp, chứ đừng cố chấp vào cách ngồi hay cố chấp vào một cách nào đó, nghĩa là tạo duyên sao thuận để tu cho tâm an trí sáng, là hợp đạo lý.


HỎI: 
Xin thầy từ bi chỉ dạy cho con:

1. Trong kinh Phật dạy là người Phật tử thà mình chịu khổ đừng để người khác khổ vì mình. Vậy thân con bệnh hoạn phải làm bao nhiêu người thân khổ vì con, nếu con hy sinh sẽ phạm giới thứ nhất. Như vậy con cứ đày đọa người thân con mãi hay sao? Xin thầy chỉ dạy.

2. Có nhiều người vì hoàn cảnh nào đó xuất gia tu học không phải do lòng tự nguyện vì đạo, vậy việc tu học có đạt được kết quả gì không?

ĐÁP: 

1. Phật tử bệnh nhiều, người thân chăm sóc thật là khổ cực, thức khuya dậy sớm lo lắng việc nọ việc kia. Nếu người bệnh được săn sóc lại còn bực bội nói nặng nói nhẹ thì mới là cực khổ. Còn nếu người bệnh được săn sóc, lúc nào mình cũng tỏ vẻ biết ơn người săn sóc, vui vẻ hoan hỷ để người chăm sóc được vui thì người săn sóc không buồn mà không buồn thì không khổ. Người bệnh đừng nhân cái đau, bực bội la rầy hoài thì vừa mệt về thể xác vừa khổ về tinh thần, đây mới thật là khổ. Bệnh là cái ngoài ý muốn làm cho người ta khổ, bây giờ người thân thương, giúp thì mình phải sống có đạo lý; dù bệnh vẫn có đạo lý như thường. Biết ơn người săn sóc và lúc nào cũng lo công phu tu, người săn sóc thấy mình sống một ngày người ta có phước một ngày thì không buồn khổ.

2. Trong kinh A-hàm có ghi, hồi Phật còn tại thế có những cô dâm nữ đi tu, có những người giết người cũng đi tu. Có nhiều người thắc mắc hỏi Phật thì Phật trả lời dù hoàn cảnh nào người ta đi tu, nếu từ ngày đó cho đến ngày nhắm mắt tu đúng với chánh đạo và tinh tấn mãi mãi thì có kết quả tốt. Còn nếu hoàn cảnh tốt xuất gia vì đạo, vô chùa chễm chệ ăn ngủ mà không chịu tu thì cũng trở thành xấu. Bất cứ ở hoàn cảnh nào, nếu từ ngày vào chùa về sau siêng năng tu hành và học đạo một cách đúng đắn, mãi mãi tinh tấn không lùi thì có kết quả tốt.


HỎI:
 Con là Phật tử tại gia chỉ giữ năm giới, không tụng kinh không ngồi thiền chỉ làm phước cúng dường. Vậy có được kết quả gì không? Và công đức phải làm như thế nào mới đạt được? Xin thầy từ bi chỉ dạy cho con.

ĐÁP: Phật tử tại gia chỉ giữ năm giới và làm phước thì có kết  quả đời sau được làm người, phước báo đầy đủ và được giàu sang sung sướng. Ngồi thiền tụng kinh là tu huệ có thể tiến thêm một nấc nữa.

HỎI: Người xưa nói sống không lìa phiền não là sao? Nếu không lìa phiền não, hay nói không dẹp được phiền não làm sao thấy đạo? Kính bạch Hòa thượng từ bi giảng dạy. 

ĐÁP: Sống không lìa phiền não như hồi nãy tôi đã nói, đạo Phật lấy giác ngộ làm trên, đã giác ngộ thì tùy duyên lợi ích chúng sanh, có khi các Ngài dùng thuận hạnh, có khi các Ngài dùng nghịch hạnh. Có nhiều vị Bồ-tát không làm những việc hiền lành, vì các Ngài nguyện làm nghịch hạnh nhưng đều ở trong giác ngộ. Làm nghịch hạnh coi như sống trong phiền não, mà không phiền não, nên các Ngài vẫn ở trong tỉnh giác, sáng suốt chứ không mê lầm.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng có một đoạn sách viết như vầy:

1. Có một Thiền sư dạy học trò, Ngài nói học ở đây ta dạy có khác, chỉ học có mười chữ thôi chứ không học nhiều. Chữ đầu tiên là chữ Phật chữ cuối cùng là chữ Phật, tức hai đầu đều là chữ Phật, kế là chữ Pháp. Chữ Pháp Ngài chỉ dạy nửa chữ chứ không dạy hết, Ngài nói ta đã dạy đủ mười chữ rồi. 

2. Khi nhỏ chân ta bị bệnh ta dùng gậy để đi, đến khi chân hết đau ta không dùng gậy nữa. Đến lúc về già ta dùng gậy để đi, khi ta chết gậy bỏ ta hay ta bỏ gậy?

Kính mong Hòa thượng từ bi thương xót chúng con mà giải giúp để chúng con được am tường hai câu nói trên. Rất mong.

ĐÁP:

1. Hồi nãy nói Phật có mười thân, vậy mười thân có rời một thân không? Tuy mười nhưng không rời một. Biết được Phật thì biết được mười thân vì vậy đầu chữ Phật cuối cũng là chữ Phật. Chữ Pháp dạy có nửa chữ không dạy nửa vì chữ Pháp bên này là bộ thủy bên kia là chữ khứ, chữ Hán đọc là Pháp, dạy có nửa tức là dạy phía bên này, tức là ba điểm không dạy thêm đó là dạy Pháp. Chữ Pháp có ba chấm thủy, ba chấm thủy này giống như chữ tâm, nên ông cho rằng đủ hết mười chữ ở trong đó. Vậy chữ Pháp nếu dùng có ba chấm thì tương tự như chữ tâm, tam điểm như tinh tượng, do đó nên ông nói đã đủ hết rồi. Như vậy Phật đầu Phật cuối muốn được quả Phật phải từ tâm mà ra, Ngài đã dạy đủ chưa? – Dạy đủ rồi.

2. Khi nhỏ chân ta bị bệnh ta dùng gậy để đi, đến khi chân hết đau ta không dùng gậy nữa. Nghĩa này dễ rồi! Về già ta dùng gậy để đi, khi ta chết gậy bỏ ta hay ta bỏ gậy? Chỗ này muốn hiểu ý sau phải hiểu ý trước. Chúng ta tu lúc ban sơ thì phải nhờ phương tiện đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, khi thuần thục thì bỏ đếm, theo hơi thở. Đếm hơi thở và theo hơi thở là phương tiện. Cũng vậy, phương tiện ở đây là cây gậy, khi mạnh chân hết đau thì không dùng gậy nữa. Phương tiện chỉ giúp cho chúng ta ban đầu và khi về già là lúc ra giáo hóa. Chúng ta tu khi công phu thuần thục rồi thì không dùng phương tiện nữa, nhưng khi ra giáo hóa mọi người, không có phương tiện thì họ không tu được, cho nên phải dùng phương tiện (gậy) lại. Khi nhắm mắt nghĩa là trở về với thể chân thật của mình thì cả hai không cần biết nhau. (Gậy không cần mình, mình không cần gậy) không ai bỏ ai hết mà tự nó không có dính dáng gì với nhau nữa.

HỎI: Kính bạch thầy từ khi con xuống Thường Chiếu được nghe quý thầy giảng về tiểu sử đức Phật Thích Ca, các vị Tổ Trung Hoa con vẫn chưa thông suốt. Con rất ngưỡng mộ và sùng kính Bồ-tát Quán Thế Âm nhưng con không hiểu Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện là vị hóa thân, có chân Kinh để lại như đức Phật Thích-ca hay chỉ là huyền thoại? Kính mong thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Chúng ta thờ Phật, nếu thờ Phật Thích-ca thì bên phải thờ Bồ-tát Văn Thù, bên trái thờ Bồ-tát Phổ Hiền. Còn nếu thờ Phật A-di-đà thì bên phải thờ Bồ-tát Quán Thế Âm, bên trái thờ Bồ-tát Đại Thế Chí. Hai hình ảnh này mang ý nghĩa rất là thâm trầm. Đức Phật Thích-ca là đức Phật đang giáo hóa ở cõi Ta-bà, nói đang giáo hóa vì giáo hóa của Ngài còn đang lưu truyền chứ Ngài tịch rồi. Cõi Ta-bà trong Kinh giải thích là cõi khổ, là cõi uế trược. Chúng sanh can cường khó điều phục lắm, ngày nay họ tin, ngày mai họ không tin, hoặc ngày nay họ tốt, ngày mai họ không tốt, bất thường lắm. Cho nên muốn giáo hóa cõi Ta-bà khổ, đức Phật phải có đủ hai điều kiện, một là trí tuệ, hai là hạnh nguyện. Bồ-tát Văn Thù cỡi sư tử tượng trưng cho trí tuệ, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi trắng tượng trưng cho hạnh nguyện. Muốn đến chỗ khó khổ giáo hóa chúng sanh thì phải trang bị đủ hai điều kiện trí tuệ mạnh và hạnh nguyện lớn mới làm được. Nếu tới đó mà không đầy đủ trí tuệ để tùy nghi giải quyết thì có thể thối tâm. Nếu có trí tuệ mà thiếu hạnh nguyện thì không bền, làm một hồi thấy khó quá chán nản rút lui, nên phải có hạnh nguyện, đó là ý nghĩa hình tượng đức Phật Thích-ca.

Ý nghĩa hình tượng đức Phật A-di-đà và cõi Cực Lạc thanh tịnh; Phật A-di-đà đang ở cõi Cực Lạc là chỗ thanh tịnh vui tột, muốn đến chỗ khổ để giáo hóa độ chúng sanh phải có lòng từ bi và chí nguyện lớn. Thí dụ có một người sang trọng rất là trang nghiêm sạch sẽ, thấy năm bảy người rớt dưới hầm nước đen hôi hám, người đó muốn lội vớt những người kia lên thì phải có tình thương rất lớn mới có thể sẵn sàng hy sinh cái sạch sẽ để vớt người. Tình thương là đức từ bi biểu trưng Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhưng có từ bi mà thấy dơ, gớm quá, không muốn xuống, nên phải có ý chí mãnh liệt tượng trưng Bồ-tát Đại Thế Chí, thì mới có thể lao mình tới chỗ khổ, chỗ nhớp nhúa vớt người lên. Bồ-tát đều là những hình ảnh tượng trưng. Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí là hai vị biểu trưng cho từ bi ý chí giúp đức Phật A-di-đà đến chỗ nhơ nhớp hóa độ chúng sanh. Còn Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Thị Kính, Quán Âm Diệu Thiện là những vị Quán Âm chỉ có chút ít di tích ở thế gian, mà di tích đó có tính cách thần thoại hay huyền thoại để cho người đời phát tâm tu chứ không phải là Phật. Đó là hóa thân của Bồ-tát Quán Âm chứ không có thật.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng xin Ngài giải thích cho con mối nghi như sau:

– Chú Đại Bi được các Hòa thượng tôn túc trì tụng có nhiều linh nghiệm, nhưng con lại thấy các thầy bùa lỗ ban cũng trì chú Đại Bi. Như vậy chú Đại Bi do đức Quán Âm chế ra không lẽ Ngài cũng hộ trì cho các thầy bùa sao?

– Kính bạch Hòa thượng cả ngày con phải vất vả trong cuộc sống, nên tối đến phải nghỉ, khoảng 12 giờ hoặc một giờ khuya con thức dậy để ngồi thiền; có khi ngồi yên ổn có khi vọng tưởng lăng xăng không thể dừng được, con chỉ còn cách lạy Phật thôi. Một hôm con nghe trong băng nhựa có một Phật tử thưa hỏi thời khóa ngồi thiền, Hòa thượng dạy tránh ngồi lúc 12 giờ khuya. Bạch Hòa thượng có phải ngồi vào giờ này khó dừng được vọng tưởng chăng?

ĐÁP: – Chú Đại Bi (Đại Bi Tâm Đà-la-ni) là chú Quán Âm nói về công dụng của Bồ-tát Quán Thế Âm. Người nào có lòng thành tín trì chú này sẽ thấy hiệu dụng. Có hiệu dụng là do lòng thành tín trì tụng; người tu mà có lòng thành tín trì tụng thì có hiệu dụng, thầy bùa có lòng thành tín trì tụng cũng có hiệu dụng, không phải Bồ-tát thương người này bỏ người kia. Đừng nghĩ Bồ-tát chỉ thương mấy ông thầy tu mà không thương thầy bùa. Cái giá trị ở tâm thành tín, ai thành tín trì tụng thì có hiệu nghiệm, ai không thành tín trì tụng thì không có hiệu nghiệm.

– Vì nhọc nhằn nên tới 12 giờ hay 1 giờ khuya mới ngồi thiền vọng tưởng nhiều, có phải giờ đó vọng tưởng nhiều không trị được chăng? Tôi giải thích cho Phật tử rõ, chúng ta tu không chọn giờ tốt giờ xấu, quan trọng giờ nào tâm mình được thảnh thơi nhẹ nhàng và khí hậu bên ngoài mát mẻ thì ngồi có lợi ích. 12 giờ khuya là giờ ngủ chưa đầy đủ, quý Phật tử ngồi một chút rồi ngủ lại chập chờn không tốt. Cho nên tôi thường khuyên Phật tử nên ngồi vào lúc từ 3 giờ khuya đến 5 giờ sáng, khoảng đó ngồi lúc nào cũng được, vì đức Phật Thích-ca thành đạo vào lúc sao mai mọc. Giờ này ngủ cũng đủ rồi, nên khỏe tỉnh cộng với khí trời thanh thản ngồi thiền tốt hơn. Còn buổi khuya một giờ hay 12 giờ lúc đó đang ngủ say, giật mình thức dậy ngồi một chút ngủ lại thì giấc ngủ không đầy đủ nên ngồi không tốt, chứ không phải ngồi giờ đó sanh ra những thứ vọng tưởng.


HỎI: 
Kính bạch thầy xin thầy từ bi chỉ dạy những thắc mắc của con sau đây:

1. Nhạc mẫu con đã lâm chung đến nay gần bốn mươi chín ngày, người thân có thỉnh mười vị thầy làm lễ trai Tăng và cúng cầu siêu. Vậy người chết có ảnh hưởng lợi ích gì không? Và có nên làm như vậy hay không?

2. Phật dạy tất cả việc ở thế gian đều là vô thường giả tạm, vậy sao làm việc thiện thì được phước làm ác thì có tội?

3. Mỗi người sống ở thế gian đều có số mạng, hay do nghiệp duyên tạo tác mà chết sớm hay muộn? 

4. Tu như thế nào trong một đời có thể thoát khỏi luân hồi?

5. Con có người thân rất thích ăn diện đua đòi, con đã khuyên đủ cách và thuyết phục đủ điều, nhưng không được. Không lẽ con để vậy khi hậu quả không tốt xảy ra, con đồng gánh chịu? Hay con bỏ người thân chịu một mình? Con có nên làm vậy không? Xin thầy từ bi chỉ dạy. 

ĐÁP: 

Tôi xin trả lời câu 1: Trong kinh Địa Tạng Phật dạy: Nếu cha mẹ Phật tử mất, thỉnh Tăng, Ni hay bạn bè tụng Kinh cầu nguyện thì mười phần phước người mất được có ba, còn người sống được bảy phần. Vì lễ cầu nguyện là do tâm của người con hay người trong gia đình hiếu thảo thỉnh Tăng, Ni tụng kinh cầu nguyện và cúng dường trai Tăng. Đó là phát tâm lớn của người sống; nên mười phần công đức thì người sống được bảy phần còn người chết thì được có ba phần. Nếu người chết chưa đi thọ sanh còn ở lại nhờ nghe Kinh mà tâm tỉnh giác được phần nào, gọi đó là lợi ích đôi ba phần, chứ không phải tất cả cho người chết hết. Người chết có lợi ích, nhưng một phần nhỏ thôi chứ không lớn.

2. Người đời nói Thế gian là vô thường, cuộc đời là giả tạm. Nhưng bây giờ quý vị có chửi ai thì người đó có đánh lại quý vị không? – Đánh. Vô cớ chửi người ta, người ta đánh, như vậy làm ác có tội không? – Có. Giả sử quý vị biết thế gian là vô thường tạm bợ, có ai đang đi đường họ té bất tỉnh, quý vị có phương tiện dìu chở họ vô bệnh viện, thuốc thang cho họ mạnh đưa họ về nhà, họ có cám ơn quý vị không? – Có. Vậy việc làm tạm bợ cũng có quả báo tạm bợ, làm thiện thì được quả báo thiện tạm bợ, làm ác cũng bị quả báo ác tạm bợ. Tuy tạm bợ nhưng thiện tốt hơn, nên tôi mới khuyên quý vị làm lành, đừng nói là không có quả báo.

3. Từ lâu người đời cứ tin vào số mạng, số mạng không có thật, không phải là chân lý. Tại sao? Ví dụ có anh thanh niên giở sách số ra coi thấy mình sống được tám mươi tuổi. Nhưng anh ấy bị người ta rủ hút xì ke, nếu anh ghiền xì ke thì chắc năm mười năm sẽ chết, đâu sống tới tám mươi tuổi. Như vậy có cãi số không? Bởi mạng sống không phải do nơi số mạng, mà do nơi chúng sanh tạo nghiệp lành hay nghiệp dữ. Dù có được thân thể khỏe mạnh mà tạo nhiều nghiệp dữ, cũng không sống lâu, dầu cho thân thể yếu đuối nhưng tạo nghiệp lành có thể sống lâu hơn.

4. Trong một đời, người tu có thoát được luân hồi sanh tử không? Câu hỏi này chưa chính xác. Nói tu một đời mà tu lừng chừng hay tu quyết liệt? Giả sử cạo tóc ở chùa như chúng tôi mà tu lừng chừng qua ngày tháng thì một đời cũng không được giải thoát. Còn tóc như quý Phật tử, khi phát tâm tu thì tu mãnh liệt, quyết rời bỏ tất cả ái dục thế gian, không để sáu căn dính mắc với sáu trần thì người đó chắc chắn được giải thoát. Như vậy giải thoát hay không tùy theo quyết tâm của người tu. Một khi đã quyết tâm là dứt khoát không dính mắc gì cả thì người đó có thể giải thoát. Còn người không quyết tâm thì dầu mười đời chưa chắc được giải thoát.

5. Nếu người thân ăn diện quá, có niệm xấu, có hành động ác mình đem hết lòng chân thành khuyên, họ không nghe thì lỗi ở họ chứ đâu phải lỗi ở mình mà phải cùng chịu tội. Nếu thương người đó không nỡ để họ một mình chịu tội thì cùng chịu như nhau. Tại sao? Vì ái còn nặng quá nên sau khi chết gặp lại nhau nữa, người kia họ không biết tu, mình biết tu, nhưng vì ái họ quá tất nhiên họ khổ mình cũng khổ lây. Chứ không phải bị tội lây, khổ lây là bị niệm ái nó trói buộc. Nếu ngang đây không có niệm ái trói buộc thì không cùng chịu.


HỎI: 
Sau đây con có hai câu hỏi kính mong thầy hoan hỷ chỉ dạy giúp con:

1. Thưa thầy đứa nhỏ bảy tuổi có thể tập tọa thiền theo pháp môn của thầy dạy được không?

2. Thưa thầy vấn đề ngừa thai và phá thai theo Phật giáo có phạm tội không? Kính mong thầy từ bi chỉ dạy giúp con.

ĐÁP:

1. Dù năm tuổi hay bảy tuổi mà đứa bé chịu ngồi thì mình tập cho nó thở vô thở ra cho dài và đếm một tới mười bỏ, thì tốt chứ không sao hết.

2. Thời đức Phật không có chuyện phá thai ngừa thai, nhưng với đạo Phật lúc nào cũng nhìn hai mặt; nhìn về tình thương và nhìn về mầm sống. Trong luật Tỳ-kheo, một số Tỳ-kheo không được phá hoại mầm sống của các loài vật cây cối. Như hạt đâm mầm không được đập phá, không được hủy diệt. Đối với người tu thì quý trọng mầm sống, căn cứ vào đó thì phá thai chắc không hoan hỷ. Giả sử gia đình đó có hai vợ chồng bệnh hoạn làm ăn không ra tiền đã có ba bốn đứa con rồi bây giờ có nên ngừa không? Nếu không ngừa sanh ra nuôi không nổi thì khổ. Đó là lòng thương, phải thấy hoàn cảnh của họ, chứ không nên nhìn một mặt một chiều. Theo quan niệm của tôi thì ngừa thai tốt hơn là phá thai. Ngừa thì chưa có cái mầm sống không có hại nhiều. Khi đã có mầm sống rồi phá không tốt.

HỎI: Chúng con xem cuốn Xuân Trong Cửa Thiền tập 4 đến mục “Cuộc Đời Tu Của Tôi” thầy nói khi đó các thầy có cầu Phật gia hộ và được Phật thương, Tam Bảo gia hộ ưu đãi thầy. Cầu Phật gia hộ có phải thầy cầu tha lực không?

ĐÁP: Đối với việc tu tập chúng ta có quyết tâm tu hành nhưng không bao giờ dám xem thường Tam Bảo. Khi quyết tâm tu hành chúng ta kính trọng Tam Bảo là bậc quý. Chúng ta đi trên con đường giác ngộ nên lúc nào cũng cung kính Tam Bảo, đã cung kính nên tha thiết đảnh lễ nguyện Tam Bảo gia hộ thêm cho ý chí, sở nguyện của mình được thành tựu. Không phải không làm mà cầu xin, mình quyết tâm làm nhưng cũng tha thiết nguyện Tam Bảo gia hộ việc làm đó được thành tựu, vậy là không ỷ lại vào tha lực. Cũng như đứa học trò rất chăm nó học thuộc bài và kính trọng thầy giáo, kính thầy giáo không có nghĩa ỷ vào tha lực. Học thuộc bài, mà thầy giáo là người ơn vẫn kính trọng là tự lực. Còn cầu tha lực là nó cứ nịnh thầy giáo, cầu cho thầy cô giáo cho điểm cao mà bài không học thuộc thì rơi vào lỗi ỷ vào tha lực. Sở nguyện muốn làm thì cố gắng tha thiết làm, nhưng với tâm kính trọng Tam Bảo, lúc nào cũng kính trọng cho nên không phải là tha lực.


HỎI: 
Từ khi con theo học thiền với thầy đến nay, vì sợ hướng tâm ra ngoài nên con không có tâm cầu Phật gia hộ hay Tam Bảo gia hộ, bây giờ sau khi xem xong cuốn Xuân Trong Cửa Thiền khiến con cảm thấy như mình bị thiệt thòi, vì con cũng muốn được Tam Bảo gia hộ. Xin thầy hoan hỷ chỉ dạy, khi cầu Tam Bảo gia hộ con phải để tâm ở đâu mới khỏi bị cái lỗi hướng tâm ra ngoài. Con xin tri ân thầy.

ĐÁP: Phật tử này lâu nay tu nặng về tự lực, cố gắng tu chứ không cầu Tam Bảo gia hộ, cái đó là hướng nội. Khi nãy tôi nói, một đứa học trò thầy giáo cho bài nó chăm chỉ học thuộc lòng, làm bài rất đầy đủ nó không cầu xin gì cả và thầy giáo cũng thương, nhưng thương chưa được tha thiết lắm. Nếu nó học bài thuộc và nó lễ phép quý kính thầy giáo thì thầy giáo thương nhiều hơn. Nó được hai cái lợi: Tự lực và được người có thẩm quyền thương nhiều thì kết quả tốt hơn. Cũng vậy người Phật tử tu đối với lời Phật Tổ dạy thực hiện tốt, đồng thời đối với Phật Tổ lúc nào cũng tha thiết đảnh lễ nguyện cầu các Ngài gia bị cho, để đường tu tiến tới mục đích cuối cùng. Tâm tha thiết cầu nguyện là tốt chứ không hại gì cả, đừng có kẹt một bên, nhiều khi Phật tử không kẹt ở chỗ ỷ lại thì kẹt ở chỗ tự lực, nên không kế tới ai cả. Không ỷ lại và cũng không xem thường Phật Tổ, như vậy là tốt, là quý.


HỎI: 
Tại sao niệm Phật mà tâm không được thanh tịnh?

ĐÁP: Khi niệm Phật lẽ ra phải chí thành quý kính, tưởng nhớ Phật nhưng thỉnh thoảng lại nhớ chuyện buồn hôm qua hôm kia, nhớ chuyện buồn thì lúc đó không thanh tịnh. Có khi lại còn muốn ăn thua với người ta nữa. Niệm Phật mà tâm không được thanh tịnh vì thiếu tâm tha thiết; niệm Phật tay lần chuỗi niệm mong cho rồi, niệm một hơi cho hết chuỗi. Niệm “Nam Mô A-di-đà Phật” phải tha thiết chí tâm lắng nghe từng tiếng niệm, nhờ chí tâm nghe từng tiếng niệm thì tâm bớt chạy theo cảnh. Còn nếu niệm tính số thì cứ lần cho hết chuỗi mà tâm nghĩ lung tung. Nhiều khi tôi thấy tội nghiệp, có nhiều người đang nói chuyện mà tay cứ lần chuỗi đều đều, không biết là lần chuỗi niệm Phật hay lần chuyện thế gian? Niệm Phật như thế thành thói quen, không có tâm tha thiết và không lắng nghe thì làm sao tâm thanh tịnh được?Cho nên niệm Phật muốn tâm thanh tịnh thì phải niệm với tâm chí thành chí thiết và lắng nghe từng câu một thì mới được thanh tịnh.


HỎI: 
Con cúi đầu đảnh lễ thầy xin thầy giải cho con hai thắc mắc:

1. Con đọc trong trang sách của thầy và Tổ nói: Khi kiến tánh rồi thì phải vào nơi thanh vắng để trưởng dưỡng Thánh thai. Con không có điều kiện để vào nơi thanh vắng, thậm chí con cũng không có duyên để vào chùa tu, nên con quyết định ở nơi ồn náo mà hằng nhớ tánh Biết. Vậy quyết định này có sai lầm, hoặc làm chậm tiến trình giải thoát của con không?

2. Con hay đứng ở cái Biết nhìn niệm sanh diệt mà quên nhìn thân sanh diệt. Vậy khi thành thục con có rơi vào vọng tâm không và thân giả có không?

ĐÁP: 

1. Khi nhận ra bản tánh rồi thì phải tìm cảnh vắng vẻ để tiện tu nhưng Phật tử này không có điều kiện, kể cả đi chùa cũng không có điều kiện nữa. Nên quyết định ở chỗ ồn náo hằng nhớ Tánh giác. Quyết định như vậy không sai lầm. Thật ra người tu phải khôn ngoan sáng suốt, biết tùy duyên, tùy cảnh đừng nghe người ta làm như thế, mình cũng phải làm như thế trong khi hoàn cảnh của mình không cho phép. Thí dụ quý thầy tu nhận ra mình có Tánh giác rồi nhập thất một mình tu năm năm bảy năm. Còn Phật tử năm bảy đứa con nheo nhóc mười tuổi, tám tuổi, sáu tuổi, cũng nhận ra mình có Tánh giác, bây giờ muốn nhập thất tu được không? – Không. Nếu nhập thất tu mấy đứa nhỏ tới cửa thất khóc hết cả ngày, thì không thể được. Nếu cứ lấy việc của người tu làm việc của mình thì trật rồi, cho nên phải tùy duyên tùy cảnh. Ông thầy không có gì bận rộn, khi nhận ra Tánh giác rồi ngồi yên, có chư Tăng nuôi ông tu, còn Phật tử bây giờ lỡ chuyện nợ nần thế gian nhiều quá, phải ở tại chỗ làm ra tiền để nuôi mấy đứa nhỏ, vừa làm vừa tu là khôn chứ còn bỏ nó mà chạy trốn là không khôn. Nếu vô chùa xin tôi tu thì tôi đuổi về mau. Ở ngay trong hoàn cảnh mà tu được thì đáng khen, chứ không phải là sai lầm, tuy có chậm chút ít cũng không đáng buồn, chậm mà mạnh cũng thành nhanh.

2. Còn đứng ở cái Biết nhìn các niệm sinh diệt mà quên nhìn thân sanh diệt như vậy khi thành thục có rơi vào vọng tâm không? Ở đây tôi nhắc lại cho Phật tử biết Tổ Lâm Tế có lập Tứ Liệu Giản là: Đoạt nhân chẳng đoạt cảnh, đoạt cảnh chẳng đoạt nhân, nhân cảnh đều đoạt, nhân cảnh đều chẳng đoạt. Thứ nhất là dẹp ở trong nội tâm mà không dẹp cảnh ở ngoài, nghĩa là nhìn từng niệm khởi không theo, còn cảnh ở ngoài thị kệ không dính dáng gì hết gọi là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh. Thứ hai là người tu không nhìn nội tâm mà nhìn ra ngoài biết người vật hư huyễn giả dối, như kinh Kim Cang Phật dạy “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng…” thấy rõ nhớ rõ như vậy nên đối người đối cảnh không dính mắc là đoạt cảnh chẳng đoạt nhân. Thứ ba nhân cảnh huyễn hóa không dính mắc. Thứ tư nhân cảnh đều chẳng đoạt, là về thời gian và không gian tâm nhất như rồi thì nhân cảnh đều chẳng đoạt nó tự là nó, không gian vẫn là không, không còn gì để đuổi dẹp nữa. Đó là lối tu Thiền của Tổ Lâm Tế.


HỎI: 
Kính xin Hòa thượng giải giùm thắc mắc cho con: Trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn nói ngài Nguyệt Quang khi còn là Tỳ-kheo tu tập pháp quán thủy, một hôm Ngài đang tọa thiền có người đệ tử nhìn qua cửa sổ thấy trong phòng nước đầy khắp, liền lượm hòn sỏi ném vào phòng. Sau khi xả thiền Ngài cảm thấy đau bụng. Nghe chú tiểu thuật lại chuyện như trên, Ngài dạy khi Ngài nhập định chú thấy nước hãy lượm hòn sỏi ra. Chú tiểu làm y như lời Ngài dạy, sau đó Ngài hết đau bụng. Thưa Hòa thượng nếu ngài Nguyệt Quang quán thủy thì chỉ một mình Ngài thấy nước tràn ngập gian phòng của Ngài, tại sao chú tiểu là người thứ hai lại thấy nước ở trong phòng Ngài? Nước đó có thật không mà chú tiểu ném hòn sỏi nghe cái bõm? Nếu nước có thật thì khi Ngài xả thiền nước đi về đâu? Xin Hòa thượng từ bi giải nghĩa cho chúng con được rõ.

ĐÁP: Đây là trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy ngài Văn Thù chọn lựa các căn, căn nào viên thông để chỉ cho người sau tu. Khi chọn các căn thì hai mươi lăm vị Thánh mới trình sở ngộ của mình. Ngài Nguyệt Quang thuật lại chỗ ngộ của Ngài là quán nước. Đây tôi nói cho cách quán nước. Người tu thiền để một chum nước nhỏ trước mặt, rồi quán nước tủa ra lần lần đầy cả phòng, rồi tiếp tục nước đầy khắp hư không thì thành công. Bấy giờ ngài Nguyệt Quang quán nước tràn đầy cả phòng. Chú tiểu ở ngoài thấy thầy ngồi lặng im, chú mới hé cửa nhìn vào sao thấy nước không thấy thầy, chú mới lượm cục sỏi chọi vô nước nghe cái bõm chú đóng cửa đi ra. Tới chừng ngài Nguyệt Quang xả thiền Ngài nghe đau bụng, Ngài nghĩ trong khi hành thiền đâu có gì sai sao lại đau? Thầy kêu chú đệ tử hỏi trong khi ta tọa thiền ngươi làm gì kể lại ta nghe thì chú kể lại việc chú đã làm. Ngài biết rồi, mới nói: Mai ta ngồi thiền ngươi cứ lại mở cửa xem nếu thấy nước thì ngươi lặn trong nước lấy cục sỏi lên. Bữa sau Ngài ngồi thiền chú lại hé cửa thấy nước không, chú lặn trong nước lấy cục sỏi đem ra, xả thiền Ngài hết đau bụng.

Phật tử này thắc mắc, nếu Ngài quán nước thì chỉ mình Ngài thấy nước tràn ngập gian phòng của Ngài thôi, tại sao chú tiểu là người thứ hai thấy nước ở trong phòng Ngài? Nước có thật hay không mà chú tiểu ném hòn sỏi nghe cái bõm. Nếu nước có thật, vậy sau khi Ngài xả thiền nước đó đi về đâu? Thông thường mình quán mình thấy chứ người khác không thấy, nhưng đây không phải vậy. Tại vì Phật tử chưa hiểu rõ, ban đầu mình quán mình thấy nhưng quán gần tới thành tựu thì mình thấy người khác cũng thấy nữa. Quý vị còn nhớ khi các Ngài sử dụng thần thông, quán tưởng lửa thì lửa hiện lên cháy, tưởng nước thì nước tràn ngập hết. Khi thành công rồi mình thấy người khác cũng thấy, còn lúc đang tập mình thấy người khác không thấy. Phật tử này chỉ biết lúc đang tập chứ không biết lúc thành công. Còn nước khi mình quán thì có nước khi mình ngưng quán thì hết, cho nên nói thâu thần thông, tức là không quán nữa thì hết. Như vậy nước không thật nhưng người tu nếu có sức quán mạnh thì thành thật. Nhưng nước đi về đâu? Tôi chỉ nói còn tưởng thì còn thấy, hết tưởng thì hết thấy, chứ không thể nói về đâu.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng từ bi giảng dạy cho con được hiểu rõ, trong kinh Đại Bát Niết-bàn Phật nói Tỳ-kheo Thiện Tinh giỏi về mười hai bộ kinh, chứng được tứ thiền rồi vì lý do gần bạc ác thối thất việc tu hành, Phật thọ ký cho Tỳ-kheo Thiện Tinh sẽ bị đọa. Trong kinh Phật nói trong tứ quả Thanh văn, người tin sâu lời Phật dạy, nghiêm trì giới luật tinh tấn tu hành thì được vào Thánh quả Tu-đà-hoàn còn sanh tử bảy lần, lần thứ bảy được chứng quả A-la-hán nhập Niết-bàn Phật nói Tỳ-kheo Thiện Tinh chứng được tứ thiền mà còn kiến chấp tà để cho Phật thọ ký sẽ bị đọa trở lại. Kính xin Hòa thượng từ bi giảng cho con hiểu.

ĐÁP: Trong cuốn Nguồn Thiền của ngài Tông Mật có chia ra năm thứ Thiền: Một là Phàm phu thiền, hai là Ngoại đạo thiền, ba là Tiểu thừa thiền, bốn là Đại thừa thiền, năm là Tối thượng thừa thiền. Phàm phu thiền là tứ thiền: Sơ thiền, Nhị Thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Người chứng Tứ thiền chưa được giác ngộ chỉ nhờ định sanh các cõi trời sắc giới, gọi là Phàm phu thiền. Phàm phu thiền chứng Tứ thiền chưa hoàn toàn giác ngộ nên hưởng hết phước phải đọa trở lại. Các vị tu chứng Tu-đà-hoàn là do ngộ được lý Tứ đế. Khi chứng được Tu-đà-hoàn bảy phen sanh tử thì chứng A-la-hán được vô sanh, được Niết-bàn. Vậy giá trị của người tu tập không phải ở chỗ được định nhiều mà ở chỗ giác ngộ, có trí tuệ mới dứt được sinh tử, còn được định, hưởng phước nhưng chưa hết sanh tử. Vì vậy Tỳ-kheo Thiện Tinh tuy chứng được Tứ thiền, tuy có tụng kinh Niết-bàn song gần bạn ác thối thất đối với cảnh giải thoát chấp trước chỗ không, không có Niết-bàn. Phát sanh tà kiến không tin nhân quả, khởi ác tâm với Phật, sau khi chết đọa địa ngục vô gián.


HỎI: 
Trong gia đình con có người chị thường bị ma nhập làm cho mọi người hoang mang, chúng con không biết gở rối bằng cách nào. Kính xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy, chúng con phải làm cách nào cho chị con được tỉnh tâm không bị ma mị mê hoặc nữa. Chúng con thành tâm biết ơn Hòa thượng.

ĐÁP: Diệt trừ ma, tôi thì không có thần chú không có bùa làm sao mà diệt? Thường người học đạo có hai tâm trạng: Một tâm trạng học đạo là tầm chân lý để giác ngộ lẽ thật, một tâm trạng muốn được những huyền bí để trị tà bắt quỷ. Tôi thuộc về hạng tìm chân lý, nên nói tới tà ma thì tôi bất lực không có quyền năng gì hết. Phật dạy đức trọng thì quỷ thần kinh, người nào có đức lớn thì quỷ thần sợ; không phải sợ vì có bùa có phép mà sợ đức hạnh của người tu. Vậy nên có những người tu không bùa phép gì mà ma quỷ vẫn sợ, có những người tu có bùa phép nhưng phạm trai giới ma quỷ cũng phá như thường. Với cái nhìn riêng tôi, Phật tử này gặp hoàn cảnh khó xử lo sợ, chỉ có hai cách để giúp cho gia đình tạm bớt sợ bớt lo. Nếu người bệnh còn tỉnh có thể khuyên đến chùa, tìm những thầy có phước đức cho quy y, thọ giới để chánh đến thì tà lui là trường hợp thứ nhất. Trường hợp thứ hai, nếu người đó không có tâm tỉnh táo để đi quy y thì Phật tử nên khuyên ở trong nhà đừng sợ sệt, mà chí thành trì tụng kinh Phật mỗi đêm để cầu nguyện cho người đó sớm tỉnh, ma quỷ tránh xa.

HỎI: Kính bạch thầy con có hai điều thắc mắc kính xin thầy giải đáp giùm con để con hiểu rõ thêm trên đường tu học:

1. Ông Bàng Uẩn khi đã thấy đạo đem tất cả của cải đổ xuống sông. Tại sao không bố thí, vì hạnh bố thí là đứng đầu trong lục độ?  

2. Ngồi thiền để giữ gìn sức khỏe và để cột tâm nơi chóp mũi nhưng trường hợp con là không cột tâm nơi mũi mà chỉ ngồi yên theo dõi tâm, như thế có sai không? Kính xin thầy giải dùm.

ĐÁP:

1. Ông Bàn Uẩn là một nhà Nho, sau khi hiểu Phật rồi nhất là hiểu được lý Thiền, ông chở tiền của đồ đạc đổ hết xuống sông Tương, rồi ông cất am nhỏ để tu và con trai, con gái cũng cùng tu. Phật tử này nói rằng theo pháp Lục độ bố thí là số một, tại sao có của không bố thí mà đem đổ, như thế ông có lãng phí không? Điều này có nhiều người thắc mắc. Nhưng tôi đọc kỹ thì Bàng Uẩn có nói: Đồ đạc tiền của là vật thế gian tham, bây giờ mình biết những thứ này là nhân ham muốn mình bỏ, nếu đem cho người khác thì vô tình gieo nhân xấu cho họ, nên ông đem đổ xuống sông, mình hết tham người khác cũng hết tham. Đó là cái nhìn của ông.

Bởi vì ông Bàn Uẩn ngộ đạo ở Mã Tổ và ngài Thạch Đầu. Đây là hai vị Thiền sư lớn trong thời đó nên ông ngộ rất sâu, ông thấy tất cả thế gian đều là hư ảo không có gì quan trọng, chỉ có Thể chân thật mới là tối thượng thôi. Vậy nên tiền của không quan trọng, kể cả phước bố thí vì phước bố thí (tài thí) là phước hữu lậu sinh diệt, nên ông thấy không quan trọng, bởi không quan trọng nên ông làm theo ý của ông. Phật tử còn muốn có phước, thích làm phước đời này lỡ tu chưa chứng đạo, đời sau sanh ra có của đỡ buồn, giàu sang đỡ khổ, thích có phước nên tiếc của ông đổ. Cái nhìn của ông khác với cái nhìn của Phật tử, phải xét kỹ coi việc làm của ông và việc làm của Phật tử ai hay hơn rồi tự giải quyết.

2. Phật tử nói ngồi thiền để giữ gìn sức khỏe và để cột tâm nơi chóp mũi điều này tôi không chấp nhận, vì tôi không dạy cách đó. Chủ yếu ngồi thiền là để buông xả vọng tưởng, chứ không phải cột tâm nơi chóp mũi để được sức khỏe; nếu có sức khỏe là cái phụ chứ không phải là chánh. Trọng tâm của ngồi thiền là buông xả vọng tưởng, làm chủ không chạy theo nó. Vọng tưởng là mê thấy biết không theo nó là giác, đó là trong định có huệ, trong huệ có định, chứ không phải chỉ cột tâm ở chóp mũi. Nếu Phật tử chỉ biết ứng dụng ngồi nhìn thấy niệm khởi không theo là đủ, là hợp với đạo lý chứ không sai.

HỎI: – Kính bạch Hòa thượng con thấy loài kiến rất nhiều, đâu đâu cũng có, con nghĩ đây là nghiệp xấu, mà nghiệp xấu này chúng sanh hay phạm, nhưng con không biết kiến do nghiệp gì mà thành. Kính xin Hòa thượng chỉ dạy để chúng con biết đường tránh.

– Có người nói rằng mình giết những con vật như heo, gà, chó… là giúp chúng thoát kiếp súc sanh sớm, có phải khi bị giết như vậy chúng bi thoát kiếp súc sanh không? Kính mong Hòa thượng chỉ dạy.

ĐÁP: – Kiến nhiều quá không biết nghiệp gì sinh ra kiến? Tôi giải thích theo ý tôi chứ tôi chưa thấy kinh nói nghiệp gì sanh kiến hết. Nghiệp nhỏ nhặt sanh ra kiến tức là tâm nhỏ mọn đó. Tâm mình mở rộng lớn thì hết sanh kiến. Quý vị mở tâm rộng lớn thương hết mọi người, mọi loài nhất định không sanh kiến, còn tâm ích kỷ nhỏ mọn quá e rằng nó có thể thành kiến.

– Giả sử mình đang khỏe mạnh chưa biết tu hành gì, chưa có đạo đức gì, có khi mình cũng làm tội nữa. Có ai đó cầm cây súng lại nói anh hay chị sống không có ích gì còn làm tội nữa, tôi bắn cho chết để để thoát kiếp cho khỏe. Tất cả quý vị có ai bằng lòng không? – Không. Như vậy, gà, vịt, heo, chó… khi người muốn cắt cổ, đâm họng, nó có bằng lòng không? – Nó giãy la. Tại mình mạnh muốn giết nó để ăn thịt lại nói cho nó thoát kiếp! Có người hỏi ngược lại: Anh hay giết gà, giết vịt, giết heo… đó là anh làm tội. Bây giờ tôi giết anh cho anh thoát kiếp tội, chịu không? Nếu chịu sẽ thoát kiếp, nếu không chịu chắc không phải thoát kiếp đâu! Ở đời có những lý luận để bảo vệ cái sai quấy của mình, mà không thấy được lẽ thật. Cái gì bất công, cái gì làm chúng sanh khổ thì cái đó là không tốt. Trên lý công bằng ai cũng sợ chết, ai cũng muốn sống, kể cả người bệnh tật cũng muốn sống. Bây giờ súc vật đang khỏe mạnh lôi đầu ra giết, mà nói giết cho thoát kiếp thật không công bình chút nào hết. Lý thoát kiếp không phải là lẽ thật, mà chỉ là lý của kẻ mạnh giết kẻ yếu.


HỎI: 
Kính bạch thầy, khi học kinh Pháp Hoa đến phẩm Hiện Bảo Tháp, con có cảm nhận thật sâu sắc và tự hứa rằng bằng mọi cách phải mở được tháp đa bảo của mình, nhưng đến nay con vẫn chưa làm được, con câu thầy dạy cho con cách mở tháp.

ĐÁP: Muốn mở Tháp thì đừng có thấy hai bên, đừng thấy nhơ sạch, đừng hơn thua, đừng phải quấy… thì mở được liền, đó là chìa khóa mở tháp rồi.

HỎI: Kính bạch thầy con tha thiết học Thiền, học qua băng giảng của thầy nhưng con không kiểm nhận được làm sao để biết con có căn với Thiền? Xin thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Quý vị không ai mà chẳng có tâm, có tâm thì có Phật, có Phật là có căn. Phật là gốc, chỉ vì ba thứ phiền não dấy động che mờ tâm Phật, bây giờ hết phiền não tâm Phật hiện ra. Ai cũng có căn với Phật cho tới đứa bé ba tuổi cũng có nữa.


HỎI: 
Bạch thầy, Ngũ ấm xí thạnh khổ: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó có thọ được chia ra thọ khổ, thọ lạc, thọ không lạc không khổ. Tại sao thọ lạc cũng là khổ? Con mong thầy giải thích giùm con.

ĐÁP: Pháp tu Tứ niệm xứ, một là quán thân, hai là quán thọ, ba là quán tâm, bốn là quán pháp. Trong phần giải thích về thọ thì đức Phật chia ba thứ: Thọ lạc, thọ khổ, thọ không khổ không lạc. Quý vị biết thọ là gì chưa? Trong mười hai nhân duyên có xúc thọ, xúc là chạm, mắt chạm với sắc, tai chạm với tiếng, mũi chạm với mùi, lưỡi chạm với vị, thân chạm với cảnh vật. Năm căn chạm với năm trần ở ngoài, vừa xúc chạm thì chưa có cái thích hay không thích. Khi có niệm thích và không thích thì có thọ. Ví dụ mắt vừa thấy đồng hồ biết cái đồng hồ liền khởi niệm cái đồng hồ này đẹp thích quá, đó là thọ. Cái đẹp mình thích gọi là thọ lạc, cái xấu không ưa gọi là thọ khổ, còn thấy không đẹp cũng không xấu là thọ không khổ không lạc. Để vào miệng thức ăn ngon, lúc đó chưa phải là thọ, mới là xúc, lưỡi nghiền ngẫm cái ngon đó là thọ. Trong khi thọ lạc mình thích muốn được ăn hoài. Nếu cho một món ăn dỡ hay thuốc đắng để vô lưỡi cảm thấy khó chịu, đó là khổ. Bình thường chưa khát lắm ai cho mình ly nước lã, uống cũng không chê, đó là thọ không khổ không lạc. Thọ có thọ lạc thọ khổ, thọ không khổ không lạc. Phật nói tất cả thọ đều khổ, vì nó vô thường nên khổ. Dù thọ lạc cũng khổ, vì có tham đắm si mê đi kèm nên khổ. Ví dụ thọ lạc của lưỡi là ăn ngon và muốn thưởng thức món ngon đó hoài. Nhưng nuốt qua khỏi cổ là hết, muốn mà không thỏa mãn nên khổ.


HỎI: 
Bạch Hòa thượng giải cho con thắc mắc như sau:

Sau khi chết chúng con có nên tự nguyện hiến một phần thân thể của mình như cặp mắt, tim, gan… cho những người bệnh đang cần không? Hay phải bảo toàn nguyên vẹn cơ thể? Xin Hòa thượng chỉ cho con được rõ. Con xin tri ân Hòa thượng. 

ĐÁP: Việc này rất tốt, mình chết rồi thân này vô dụng, nếu giúp cho người khác họ sống thêm năm tháng bảy tháng cũng là quý. Đó là một điều đáng khen chứ không có gì chê, đừng hiểu lầm phải chu toàn thân này để đi đầu thai thân sau mới nguyên vẹn. Chết rồi hiến một phần thân thể, thân sau không cần thiết, ai có gan thì dâng hiến, ai không gan thì thôi, không ép mà cũng không xúi, cũng không ngăn, tùy sở nguyện. Phật tử nào có thiện tâm thiện chí thì hiến tặng ai dùng được thì cho, đó là tốt không nặng về thân.

HỎI: Kính bạch thầy con học thiền tại gia, con có nghe băng của thầy Trí Chơn và hành theo lời trong băng. Khi con ngồi thiền vọng tưởng dấy lên con thấy nó là hư dối con không theo, kế tiếp con nghe cơ thể con ở đằng sau lưng có một luồng gió mát tấp vào người con, như vậy con có bệnh không? Xin thầy từ bi hoan hỷ chỉ cho.

ĐÁP: Thường ngồi thiền có cảm giác nóng hoặc có luồng gió mát, cảm giác nóng mát không phải là bệnh, nhưng nếu chấp thì thành bệnh. Nóng mát là phản ứng trong lúc ngồi tu, nhưng dù nóng hay mát mình biết đây là những hiện tượng do công phu tu khởi lên tướng lạ đó thôi, không có gì thật hết chốc lát sẽ qua, coi thường thì hết không có gì. Nếu chấp, hôm nay mình được mát mẻ chắc sắp vào Niết-bàn thì bệnh.


HỎI: 
Kính thưa thầy, con được một Phật tử hỏi nguồn gốc của Phật tánh từ đâu mà có, con trả lời từ không có vô minh mà có, nhưng vị Phật tử này không đồng ý. Bạch thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Nếu hỏi Phật tánh từ đâu mà có thì câu hỏi này đã trật xa quá rồi. Nếu có cái gì đó mới có Phật tánh, như vậy Phật tánh bị cái kia sanh ra, đó là mê lầm thấy không đúng lẽ thật. Phật tánh là Tánh giác sẵn có của mỗi người, không có trước không có sau. Hỏi từ đâu có tức là hỏi cái trước, thấy có trước có sau là không hiểu về Phật tánh rồi. Phật tánh không lệ thuộc thời gian không lệ thuộc không gian. Phật tánh có sẵn nơi mỗi người không có trước cũng không có sau, nhưng vì vô minh che lấp nên chúng ta không thấy, khi sạch vô minh thì chúng ta nhận ra.


HỎI: 
Kính bạch thầy, khi trước con thường trì kinh Pháp Hoa, trong lúc trì kinh con có cảm giác rất khinh an, trên đỉnh đầu dường như mở ra nhận lời Phật dạy và con thấy rất gần Phật. Nhưng đêm ngủ con mơ có cảm giác rát ê trên đỉnh đầu như bị điện giật. Trong mơ con nghĩ bị ma phá và cố niệm Phật để đẩy ra. Trải qua một thời gian lâu như vậy con đều đẩy ra khỏi, nhưng lần sau này, cũng nằm mơ ê trên đỉnh đầu như vậy mà con không đẩy ra được, con nghĩ ma ấn xuống đỉnh đầu của con, từ đó về sau trì kinh niệm Phật con không có cảm giác khinh an như trước kia nữa, con cũng không tập trung được tư tưởng, tâm rất tán loạn và con thấy Phật rất xa cách. Thưa thầy có phải con bị ma ám không? Con phải tu theo phương pháp nào để tập trung tư tưởng lại, khi trì kinh có được cảm giác khinh an như trước. Con xin cảm ơn thầy.  

ĐÁP: Không phải là ma mà là những cảm giác do tưởng tượng thành, vì khi tụng kinh, Phật tử tưởng tượng nhớ Phật, thấy như Phật tới xoa đầu, hay ban ân huệ cho mình, nghe nó nhẹ, tưởng như được gần gũi Phật. Tưởng trên đầu nhiều quá nên tối ngủ trên đầu ê nặng khó chịu, tưởng đâu ma về đè trên đầu. Lúc đầu tưởng ma rồi niệm Phật quên đi được nhẹ, sau này tưởng trên đầu nhiều quá, đau nhiều niệm Phật không hết tưởng đâu ma nhập, đó cũng tại tưởng nhiều nên đầu nóng đau. Phật tử tụng kinh là tụng kinh, đừng tưởng trên đầu, cứ chăm chỉ mắt nhìn chữ, miệng tụng rất bình thường, không khởi tưởng gì khác là trúng, còn khởi tưởng gì đó là trật, bởi tưởng trật nên thành bệnh chứ không phải ma phá.

HỎI: – Kính bạch Hòa thượng, kính xin Hòa thượng chỉ giùm con điều kiện nào được sơ quả, có phải do thắng khát, cơ, hàn, nhiệt là được phải không? Hay phải thêm những điều kiện nữa?

– Việc thọ giới, hiện tại con có năm giới mà con thấy con phạm hết bốn giới, giới nào con cũng phạm sơ sơ, có bạn rủ con nên thọ giới Bồ-tát vậy con nên hay không nên thọ? Có thầy giảng nên thọ giới Bồ-tát vì qua kiếp sau vẫn còn.

– Làm thế nào để mình tạo được thức vô lậu?

ĐÁP: Trong tứ quả Thanh văn Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, người đạt được sơ quả Tu-đà-hoàn thì không còn thối chuyển, bảy lần sanh tử rồi sẽ nhập Niết-bàn, cho nên nói được sơ quả là không thối chuyển. Phật tử này hỏi làm sao được sơ quả, có phải thắng khát (khát nước), cơ (đói), hàn (lạnh), nhiệt (nóng) là được không? Tôi khẳng định là không. Ngày xưa đức Phật còn tại thế có những vị cư sĩ đến nghe Phật thuyết Pháp. Thấy Phật tử căn cơ trình độ sáng suốt lãnh hội pháp mau, Phật liền nói pháp Tứ Đế cho nghe. Sau khi nói pháp Tứ Đế xong, có cư sĩ ngộ được lý Tứ Đế liền chứng được sơ quả. Ngộ lý Tứ Đế chứng sơ quả, chứ không phải nhịn đói, nhịn khát, chịu nóng, chịu lạnh mà chứng sơ quả.

– Phật tử này thú thật thọ năm giới mà phạm hết bốn giới, bây giờ hỏi có nên thọ giới Bồ-tát không? Tôi khuyên bao giờ năm giới Phật tử giữ gìn trong sạch như băng tuyết thì chừng đó thọ Bồ-tát giới rất tốt. Bây giờ còn bốn giới không xong, thôi ráng trở về giữ năm giới cho tròn đã.

– Thức vô lậu không làm thế nào hết, trong kinh Phật dạy ba môn vô lậu là giới, định, tuệ. Người nào tu giới, định, tuệ được đầy đủ thì được vô lậu tức là không còn rơi rớt trong tam giới lục đạo nữa.


HỎI: 
– Kính bạch Sư ông, trong kinh Kim Cang có đoạn nói: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, tức là vật có tướng đều là hư vọng. Ví dụ như thân chúng ta, vật lớn như các hành tinh cũng đều là hư vọng, vì tất cả đều có hình tướng. Trong phần này con có ghi như sau: Hữu tướng là hư vọng, vậy vô tướng như vọng tưởng sao cũng hư vọng? Ngưỡng mong Sư ông từ bi giản trạch cho con được am tường.

ĐÁP: Kinh Kim Cang Phật dạy rằng: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Tất cả tướng người, tướng vật cho đến quả địa cầu cũng là tướng đều là duyên hợp hư dối. Phật tử này thắc mắc vọng tưởng không tướng tại sao cũng nói là hư vọng? Phật tử này nói nghe dường như là phải mà thật sự là sai. Vọng tưởng có tướng chứ không phải không tướng. Nếu nghĩ người thì hình ảnh người hiện ra, nghĩ vật thì hình ảnh vật hiện ra, khởi nghĩ cái gì thì có hình ảnh cái đó hiện, nhà Phật gọi là Pháp trần. Pháp trần cũng là tướng, tướng đó là cái bóng của ngoại trần do năm căn trước duyên còn lưu lại, tướng đó giả dối hơn tướng ở ngoài nữa, cho nên mọi khởi nghĩ đều là vọng tưởng. Khởi nghĩ là bóng dáng hiện, bóng dáng đó là hư dối. Bây giờ quý vị thử nghĩ một cái đừng có bóng dáng coi? Cái không hình không tướng thì chắc chắn không nghĩ được. Ví dụ nhớ anh hai anh ba gì đó thì có hình ảnh anh hai anh ba, nhớ hình ảnh nhà tốt nhà xấu thì có hình ảnh nhà tốt nhà xấu. Vì vậy tất cả vọng tưởng đều có tướng ở nội tâm mình, chứ không phải tướng ở bên ngoài.


HỎI: 
Kính thưa Hòa thượng, con có hai điều xin Hòa thượng chỉ dạy:

– Con là Phật tử tại gia, con không có thời gian đi chùa thường xuyên để nghe Hòa thượng giảng dạy, con rất muốn tu Thiền vậy bước đầu con phải làm sao cho đúng?

– Con thắc mắc vì sao trong mùa an cư kiết hạ mà có bóng dáng sư khất thực. Nếu con không lầm thì những vị này giả dạng mượn áo nhà Sư, như vậy có tội không? Mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy vì con quá tối tăm không biết làm thế nào cho đúng?

ĐÁP: – Quý thầy đã giảng rất kỹ và có những cuốn sách dạy Phật tử sơ cơ tu Thiền. Sử dụng phương pháp sổ tức là đếm hơi thở. Tu Thiền là phản quan soi lại mình, trước dùng hơi thở để làm chỗ tựa. Hít vô cùng thở ra sạch đếm một, hít vô cùng thở ra sạch đếm hai. Giai đoạn đầu nương hơi thở để xoay lại nhìn mình sau mới tiến thêm nữa. Coi rất tầm thường nhưng giá trị rất lớn, vì nương hơi thở vô hơi thở ra lâu mình thấm nhuần thấy rõ mạng sống trong hơi thở, là vô thường, thở ra mà mà không hít vào là chết. Mạng sống rất mỏng manh tạm bợ, thấy được lẽ vô thường là thức tỉnh, không còn mê được lẽ vô thường là thức tỉnh, không còn mê lầm cho thân là quý, là thật. Nhờ không mê lầm chúng ta giảm bớt tham sân si, đó là bước đầu quay lại.

– Phật tử này nói mùa an cư chư Tăng, Ni ở yên một nơi, sao thỉnh thoảng cũng có nhiều sư đi khất thực? Đây tôi giải thích về phần đúng còn phần sai là chuyện khác. Ngày xưa thuở đức Phật còn tại thế mùa an cư chư Tăng, chư Ni không được đi xa, nhưng Phật thường cho kiết giới rộng. Thí dụ như chùa ở đây thì kiết giới từ đây tới chợ Long Thành, đi khất thực trong phạm vi đó thì được, ra khỏi phạm vi đó mới phạm giới. Chứ không phải ở một chỗ. Tại sao vậy? Vì ngày xưa sống bằng khất thực. Ngày nay thì khác, đối với chư Tăng Bắc Tông thì mùa an cư kiết giới trong phạm vi chùa của mình không được đi ra ngoài, trừ trường hợp bệnh, trừ trường hợp duyên sự đặc biệt mới được đi. Nếu nói theo tinh thần khất thực hồi Phật còn tại thế thì có quyền đi ra tới một giới hạn nào do chư Tăng quyết định thì không lỗi, chứ không phải bắt buộc ở một chỗ, trừ khi bây giờ có người nào lợi dụng khất thực kiếm tiền thì cái đó tôi không dám nói.


HỎI: 
Kính bạch Hòa thượng, con xin Hòa thượng giải cho con những mối nghi sau:

– Xin Hòa thượng giải thích sự khác nhau giữa Đại thừa, Tiểu thừa và Nhị thừa.

– Những kinh nào là kinh Tiểu thừa, bộ kinh A-hàm và kinh An Ban Thủ Ý thuộc về thừa nào?

– Thời Phật còn tại thế, Ngài dạy thiền như thế nào mà các vị chỉ chứng A-la-hán, trong khi Phật diệt rồi sau đó các Tổ dạy chúng ta tu thấy tánh thành Phật. Tại sao hồi đó Phật không dạy các Tỳ-kheo tu thấy tánh thành Phật? Hai lối tu khác nhau như thế nào xin Hòa thượng dạy cho chúng con, kẻo chúng con ngồi thiền đi vào định như các vị A-la-hán, không được thấy tánh thì lộn đường mất. Chúng con đội ơn Hòa thượng.

ĐÁP: – Đại thừa, Tiểu thừa là danh từ có sau này, thời gian trước chưa có. Những quyển kinh Phật dạy tu Bồ-tát-hạnh, như kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết bàn, Bát nhã… là Kinh thuộc Đại thừa. Dùng từ Tiểu thừa và Đại thừa mất lòng lắm, vì có kỳ thị trong đó. Bây giờ gọi là Phật giáo Phát triển và Phật giáo Nguyên thủy chứ không gọi Tiểu thừa và Đại thừa nữa. Thanh văn thừa, Duyên giác thừa gọi là Nhị thừa.

– Trong nhà Phật thường nói, những kinh thuộc hệ Nguyên thủy là bốn bộ A-hàm, kinh An Ban Thủ Ý thuộc hệ A-hàm. Còn các kinh Lăng Nghiêm, Bát-nhã, Pháp Hoa, Niết-bàn, Hoa Nghiêm… là những bộ kinh Đại thừa. Trong kinh Pháp Hoa quý vị thấy Phật dạy chỉ có một thừa không có hai không có ba, một thừa là Phật thừa.

– Hồi Phật còn tại thế Phật dạy cho chư Tăng, chư Ni tu các pháp quán như tứ niệm xứ… những pháp quán đó nằm trong hệ kinh Nguyên thủy hay kinh A-hàm. Tại sao Ngài dạy pháp đó? – Vì khi Ngài ra đời giáo hóa người hiểu Phật chưa có bao nhiêu, nên Phật đem cái gì thực tế gần gũi và làm được chỉ cho ứng dụng tu có kết quả, người đời mới chịu tu. Còn những gì cao siêu chỉ người ta làm chưa được, nên không chịu tu. Do đó phải dạy những pháp thực tế cho tu chứng được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán (bốn quả Thanh văn) ngay trong đời này. Nhờ vậy người ta mới phát tâm tu. Còn sau này chư Tổ dạy khác, nhưng không có nghĩa thời đó Ngài ngộ thể Tánh và được Phật truyền tâm ấn. Như vậy Phật tùy trình độ người hợp pháp nào thì Phật dạy tu pháp ấy, ai có trình độ cao thì Phật chỉ cao chứ không phải cố định dạy chứng tứ quả Thanh văn.

Tu để chứng A-la-hán và tu để thấy tánh thành Phật, hai pháp tu đó mỗi bên có một hướng rõ rệt. Tu chứng A-la-hán đặt nặng về pháp quán như quán ngũ đình tâm, hay quán tứ niệm xứ… nhờ quán mà tâm an trú, an trú rồi đi tới chỗ định, từ định mới chứng từ Tu-đà-hoàn trở lên. Còn phương pháp tu Thiền là đi thẳng trong nội tâm, không quán các pháp bên ngoài, như ở đây chúng tôi chỉ thẳng phải thấy được nội tâm mình cái gì là hư dối, cái gì là chân thật, nhận thấy được cái hư dối, cái chân thật mới hiển bày. Đó là phương pháp tu có khác, nhưng thật tình tu pháp nào cũng là tu theo Phật, pháp nào cũng có lợi ích lớn. Bây giờ chúng ta tu dù cho pháp Tiểu thừa hay pháp Nguyên thủy đều là pháp quý hết, còn mình nói tu Đại thừa cao mà tu lơ mơ cũng không quý. Nên trọng tâm pháp nào mình tu có kết quả tốt và thực hiện đầy đủ thì pháp đó là quý, chứ đừng có tâm niệm cho pháp này cao pháp kia thấp. Chúng ta nói quả A-la-hán không cao nhưng nếu tu chứng được tới đó cũng không phải dễ, rất là quý.

Đại thừa hay Thiền tông lấy giác ngộ làm chủ yếu, sau khi giác ngộ rồi mới khởi niệm từ bi độ chúng sanh. Không chỉ giải thoát cho riêng mình mà đi trong sanh tử để độ sanh. Nguyên thủy thì lấy giải thoát làm trên, đặt giới luật làm chủ yếu để dứt hết nghiệp được giải thoát sanh tử. Hai bên, bên đặt nặng giải thoát là tu theo Nguyên thủy, bên đặt nặng giác ngộ để giáo hóa chúng sanh mãi mãi một đời, hai đời cho tới nhiều đời không nghĩ tới giải thoát vì vậy gọi là Đại thừa.

HỎI: Kính bạch thầy xin thầy hoan hỷ giảng cho con một điều mà từ lâu chúng con chưa được hiểu. Thưa thầy có người nói: Ông nội chết mà mộ kết cho người cháu trai đích tôn, do đó người cháu này trở nên giàu có. Vậy vấn đề này có đúng không? Con cứ thắc mắc, theo luật luân hồi nhà Phật thì chết đây sinh kia, vậy việc mộ kết này có đúng không? Kính mong thầy giảng cho con hiểu.

ĐÁP: Mộ kết tôi không biết kết làm sao? Có lẽ mộ có hiện tượng gì lạ đó. Đứng về mặt địa lý người nghĩ rằng lựa chỗ nào đất tốt, nếu đất ở đó có hàm rồng thì con cháu phát quan chẳng hạn. Còn chỗ nào không có hàm rồng là xấu, nhưng trong nhà Phật không đặt cái đó là chính mà đặt nhân quả làm chính. Nếu người đó làm lành sẽ được những phước lành, người đó làm ác thì phải chịu những quả xấu, dù cho lựa mấy cũng không được. Quý vị nhớ các ông thầy địa lý đi lựa chỗ cho người ta đặt mộ để con cháu phát quan, sao ổng không lựa chỗ cho ổng phát quan làm giàu, mà chỉ để cho người ta không vậy? Như vậy, ổng không có phước phát quan thì ổng không lựa cho mình, còn người đó có phước đặt đâu trúng đó, họ phát quan rồi đổ thừa tại cái mộ, nếu không có phước thì suốt kiếp cũng không phát nổi. Vậy được tốt bị xấu đều do phước duyên lành của mình mà có, chứ không phải do mộ. Nếu do mộ thì khỏi tu, đó là điều không hợp lý.


HỎI: 
Kính thưa Hòa thượng, Hòa thượng giảng giải cho con được biết:

– Nguồn gốc ở đâu có ba ngày rằm lớn trong năm: Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười.

– Ông bà cha mẹ qua đời đến bảy ngày làm một thất cho đến bảy thất bốn chín ngày, sao không làm các ngày khác mà phải đúng bảy ngày, có phải lấy theo ngày nhập định của đức Bổn Sư bốn chín ngày ở dưới cội Bồ-đề?

– Trong kinh Vu Lan có nói cha mẹ bảy đời, vậy ý nghĩa của bảy đời là thế nào?

ĐÁP: – Tôi không phải nhà Nho nên tôi không định rõ nguồn gốc, nhưng tôi xin nói hồi xưa nhà Nho thường hay nói câu tam nguôn tứ quý. Tam nguôi tức là ba rằm lớn, tứ quý tức là bốn mùa. Xưa kia Tổ tiên mình chịu ảnh hưởng của nhà Nho cho nên mới chia tam ngươn tứ quý, cộng thêm ảnh hưởng của Lão nữa cho nên mới cộng những ngày đó thành tập tục từ trước tới giờ, bây giờ con cháu nhớ làm theo những ngày đó không phải gốc từ đạo Phật, tôi không nghiên cứu kỹ vấn đề này.

– Đây không phải theo bốn chín ngày Phật ngồi dưới cội Bồ-đề, Phật ngồi dưới cội Bồ-đề là ngồi một mạch luôn chứ không phải bảy ngày. Ở đây các vị Tổ nghiên cứu thấy rằng thân này là thân tiền ấm, khi thân này chết mang thân trung ấm, từ trung ấm mới sinh ra thân sau gọi là hậu ấm. Thân trung ấm thế gian gọi là linh hồn, thân trung ấm bảy ngày hoại một lần, khi nó sắp hoại làm cho người chết khổ sở. Vì vậy mới chế ra bảy ngày tụng kinh cầu nguyện cho người chết nghe kinh thức tỉnh bớt khổ, khi thân trung ấm hoại, thân trung ấm chỉ có bốn chín ngày rồi gặp duyên hay không gặp duyên nó cũng phải đi thọ sanh nơi khác, khi đó không cầu siêu nữa. Vậy số bảy này là căn cứ theo các Tổ, nói về thân trung ấm bảy ngày hoại một lần. Vì thương người chết nên chúng ta cầu nguyện ngày thứ bảy cho họ bớt khổ.

– Trong kinh có nói cha mẹ hiện đời là một đời, còn cha mẹ những đời trước nữa. Trong nhà Phật muốn nói, chúng ta không chỉ thương quý cha mẹ trong đời này mà còn nhớ bao nhiêu lần sanh tử luân hồi, mỗi lần sinh ra đều có cha có mẹ, cho nên nhớ tới bảy đời cha mẹ là nói gần, thật ra nếu có khả năng thì vô số đời chúng ta đều cầu nguyện hết.

HỎI: Kính thưa Hòa thượng, con rất mộ thiền trong khi con ngồi được một tiếng rưỡi thì cả thân thể đau cho nên định trước quên hết chỉ còn định sau. Vậy làm thế nào cho được hai tiếng? Cúi xin Sư ông chỉ dạy cho con tu.

ĐÁP: Muốn chỉ dạy ngồi thiền tròn hai tiếng không có phương pháp nào hữu hiệu bằng nỗ lực cố gắng chịu đau. Chịu đau quen rồi hết đau. Ngày xưa khi tôi bắt đầu ngồi thiền tôi cũng đau như vậy thôi, có lần tôi ngồi từ một tiếng rưỡi để vươn lên tới một tiếng bốn lăm phút, nó tê rồi đau lên tới bụng chứ không phải ít, tôi nói thà chấp nhận ngồi trên bồ đoàn chết, cho mày chết một phen, sau ráng tới hai tiếng hết đau. Gan dạ nỗ lực sẽ hết đau.

HỎI: Kính bạch Sư ông, chúng con vô cùng ngưỡng mộ tài đức của Sư ông nên cương quyết noi theo gương sáng của Người. Xin Sư ông hoan hỷ chỉ dạy chúng con để đạt đến chỗ cứu cánh của đạo Phật:

– Mùa an cư nhắc chúng con nhớ ngày Vu lan đã đến là hiếu tử chúng con phải làm gì đối với song thân hiện tiền và quá cố?

– Tại sao tu hành trước tinh tấn sau lại biếng lười?

– Tại sao nói biết đạo từng giây từng phút không bỏ phí, ngày lại ngày qua nuôi chí xuất gia trong khi trong gia đình có xảy ra biến cố thì tư tưởng lại đổi thay. Nay gió đã lặng trời đã yên mà tâm vẫn không yên.

ĐÁP: Nếu song thân còn hiện tiền chúng ta phải làm hai việc; một là tùy khả năng mình cung cấp phần vật chất cho cha mẹ, tùy theo khả năng có nhiều thì nuôi cha mẹ sung túc, có ít thì nuôi ít, nhưng đem hết khả năng của mình để nuôi dưỡng cha mẹ về phần vật chất. Thứ hai nếu cha mẹ biết đạo mình trợ duyên giúp cha mẹ làm lành, làm phước và tu hành tiến thêm, còn nếu cha mẹ không biết đạo thì khéo dùng điều kiện tốt phương tiện hay để khuyến khích cha mẹ phát tâm tu hành, phát tâm quy y Tam Bảo, đó là bổn phận người con hiếu thảo đối với cha mẹ hiện tiền. Nếu cha mẹ quá cố mình cũng làm hai việc: Một tùy theo sức của mình có thể đến những nơi nghèo khổ, đói thiếu bệnh tật giúp đỡ họ rồi hồi hướng công đức cho cha mẹ được phước sanh cõi lành. Hai là tự mình nỗ lực tu, nỗ lực làm những điều thiện cho công đức tăng trưởng để hồi hướng cho cha mẹ mình. Đó là hai cách người Phật tử làm. Cha mẹ mất rồi chỉ còn có cách hồi hướng hoặc làm phước thiện hồi hướng, hoặc cố gắng tu để hồi hướng chứ không có cách nào khác hơn.

Trong kinh Phật thường dạy: Chúng ta tu đừng có một ngày nắng mười ngày mưa, nghĩa là một ngày siêng mười ngày lười biếng. Tu phải cho đều, đừng có lúc thì tiến nhanh lúc thì buông bỏ là không hay. Nhưng Phật tử hỏi tại sao tu hành trước tinh tấn mà sau lười biếng? Tại vì con người không có ý chí mãnh liệt bền bỉ, là tâm trường viễn lâu dài; khi mới hiểu Phật pháp chút chút thì hăng lắm tu nhanh, nhưng lâu lâu chưa thấy cái gì hay thì lười. Bệnh này không chỉ cư sĩ mới có mà người xuất gia cũng có nữa. Trong nhà Phật thường dùng câu nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, nghĩa là năm đầu Phật ở trước mắt, năm thứ hai Phật lên trời, để chỉ cho bệnh không kiên cố và lâu dài, nghĩa là một năm, hai năm, ba năm luôn tiến chứ không lùi; đó là người biết vươn lên cho đến đỉnh. Có nhiều người khi học đạo hiểu rồi mừng quá, nguyện giống như Bồ-tát là hy sinh thân, hy sinh tất cả cho chúng sanh. Khi nguyện thì mạnh mẽ nhưng chừng năm, bảy tháng rồi cũng y nguyên xê xích không nổi. Có người thấy vậy buồn quá không biết làm sao! Phật từ bi lắm, dạy nguyện lâu lâu có nguội lạnh thì nguyện lại lần khác để cho mạnh lên, rồi lâu lâu hơi nguội nguyện nữa. Phật tử cũng nên bắt chước theo, khi đầu tinh tấn lâu lâu nguội lạnh lười biếng, liền tới trước bàn Phật mặc áo tràng phát nguyện với Phật kể từ nay con tinh tấn tu.

Chúng ta là những người dễ quên là những người thích được nghĩ cho khỏe là lười biếng. Hứa với người ta coi bộ khó thì bỏ qua, quên đi, huống nữa là hứa với mình. Hứa với mình dễ quên lắm cho nên Phật bắt phải quy y Tam Bảo, tức là lên chùa nguyện trước chư Tăng, trước Phật rằng con giữ giới này, con giữ giới kia nhờ vậy không quên. Phật tử này muốn tu gặp trở ngại thối chí, qua trở ngại cũng thả luôn. Bây giờ nên thế này, khi đã qua cơn khó khăn phải thấy thân này là khó được, Phật Pháp khó nghe, để nỗ lực tu chứ qua một đời này không tu muôn kiếp khó gặp lại Phật Pháp. Nhớ cái quý, nhớ cái khó mà cố gắng tu không thả trôi; nếu thả trôi thì uổng đi một đời rất đáng tiếc.


HỎI:
 Kính thưa Hòa thượng, làm sao thắng được lòng mình trước sự cám dỗ của bả lợi danh và tình cảm thân thuộc buộc ràng từ quá khứ đến vị lai?

ĐÁP: Thấy lợi danh là bả thì thắng rồi? Thấy lợi danh là quý trọng thì không thắng, chứ biết nó là bả là mồi nhử thì thắng dễ ợt. Nếu thấy quý thì thắng không được. Muốn thắng những lợi danh cám dỗ thì thấy lợi danh chỉ là trò ảo ảnh không có thật, được rồi mất không bền lâu, đuổi theo cái không bền không lâu thì uổng đi một kiếp người, vì vậy chúng ta phải vượt qua để tu hành. Tìm đến chỗ an ổn chân thật mới cứu được mình, còn lợi danh chỉ là trò tạm bợ giả dối có gì mà quý tiếc. Nhớ như vậy luôn luôn thì thắng được, quên đi thì khó thắng.

HỎI: Kính thưa Hòa thượng, làm sao có ý chí và nghị lực để vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, tâm không vướng mắc để bước lên bờ giác một cách dũng mãnh?

ĐÁP: Nghị lực và ý chí có người có sẵn nhưng có người thì chưa. Nếu người chưa có nghị lực và ý chí phải rèn luyện cho có. Muốn rèn luyện nghị lực, ý chí chúng ta phải mở sáng con mắt trí tuệ. Con mắt trí tuệ sáng thì nghị lực, ý chí sẽ theo đó mà có. Thí dụ bình thường có ai kêu tên chúng ta chửi thì làm sao nhịn được? Ráng đè phải không? Nếu ráng đè thì tức ngực, một lát nhớ lại tức nhiều hơn, nghĩ tại sao hồi đó không chửi để người ta về nhà rồi mới chửi? Như vậy cũng chưa thắng, dù có sức mạnh cố kềm, kềm đến mức tức ngực, rồi tới chỗ khác xổ ra mắng lại như thường, hoặc đợi cơ hội trả thù. Như vậy là chưa thắng. Muốn thắng phải mở sáng mắt trí tuệ, biết ngôn ngữ là hư dối không thật. Họ chửi mình ngu như bò, dại như heo… Họ nói mình ngu, mà mình không ngu thì thôi có gì sợ. Như vậy nhờ có trí tuệ mình biết được lẽ thật lời nói là rỗng vô giá trị, như vậy là thắng. Như vậy muốn có nghị lực phải có trí tuệ.