NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Bồ-tát Thế Thân giải thích
Trần, Thiên Trúc tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 13

Học quả tịch diệt thắng tướng 9

Luận nói: Như vậy là đã nói về y tuệ học sai biệt.

Thế nào là tịch diệt sai biệt?

Giải thích: Bồ-tát đạo và Nhị thừa đạo đã có sai biệt do đạo được diệt. Bồ-tát diệt với Nhị thừa diệt cũng phải có sai biệt.

Làm sao biết được?

Luận nói: Chư Bồ-tát hoặc diệt, tức Niết-bàn vô trụ xứ.

Giải thích: Nhị thừa và Bồ-tát đều lấy hoặc diệt làm diệt đế. Nhị thừa hoặc diệt thì một bề bỏ sinh tử hướng đến Niết-bàn. Bồ-tát hoặc diệt không bỏ sinh tử không bỏ Niết-bàn nên khác với Nhị thừa. Cái diệt này của Bồ-tát là vô trụ xứ trong 4 thứ Niết-bàn: 1.Bản lai thanh tịnh Niết-bàn. 2.Vô trụ xứ Niết-bàn. 3.Hữu dư. 4.Vô dư. Bồ-tát không thấy sinh tử Niết-bàn khác nhau. Do Bát-nhã không trụ sinh tử. Do từ bi không trụ Niết-bàn. Nếu phân biệt sinh tử thì trụ sinh tử. Nếu phân biệt Niết-bàn thì trụ Niết-bàn. Bồ-tát được trí vô phân biệt, không có chỗ phân biệt nên không chỗ trụ.

Luận nói:Tướng ấy như thế nào?

Giải thích: Niết-bàn vô trụ xứ lấy pháp gì làm tướng?

Luận nói: Lìa bỏ hoặc và không lìa bỏ sinh tử. Chuyển y hai chỗ dựa làm tướng.

Giải thích: Nếu Bồ-tát ở địa vị chuyển y, không cùng ở chỗ các hoặc duyên khởi, nên gọi lìa bỏ. Hoặc ở trong lúc xuất quán ắt khởi phân biệt, nên gọi không lìa bỏ sinh tử. Nếu quán một bên trước sau thì rõ hai nghĩa này. Và cũng đồng thời được đủ hai nghĩa. Nếu quán cả hai nghĩa song song ắt cùng một lúc. Hai nghĩa này đều lấy tính y tha làm y chỉ. Niết-bàn vô trụ xứ lấy chuyển y làm tướng, tức chuyển hai chấp trước. Phàm phu chấp trước sinh tử. Nhị thừa chấp trước Niết-bàn. Bồ-tát được trí vô phân biệt không thấy sinh tử Niết-bàn có sai biệt. uy diệt hoặc không trụ Niết-bàn. Tuy khởi phân biệt không trụ sinh tử. Cho nên Niết-bàn này lấy chuyển y làm tướng. Chuyển y này tức y chỉ tính y tha.

Luận nói: Trong đây sinh tử là tính y tha, một phần bất tịnh phẩm làm thể. Niết-bàn là tính y tha, một phần tịnh phẩm làm thể.

Giải thích: Đây là giải thích nghĩa của hai chỗ y chỉ. Bản thức gọi là tính y tha. Nếu bản thức khởi phân biệt tức là bất tịnh phẩm. Nói một phần này là thể của sinh tử, như tính phân biệt y tha. Tính này không có như vậy. Cái phân biệt vô sở hữu này tức là tịnh phẩm. Y vào một phần này là thể của Niết-bàn.

Luận nói: Còn bản y là đủ hai phần tịnh phẩm và bất tịnh phẩm của tính y tha.

Giải thích: Tính phân biệt là sinh tử. Tính chân thật là Niết-bàn. Từ xưa đến nay hai phẩm này lấy tính y tha làm y chỉ. Tức là nói tính y tha là bản y.

Luận nói: Chuyển y là lúc khởi lên sự đối trị, tính y tha này do phần bất tịnh phẩm luôn luôn biến đổi bản tính, do phần tịnh phẩm thì luôn luôn thành bản tính.

Giải thích: Chuyển y cũng thuộc tính y tha. Tam thừa đạo là đối trị. Y tha tính đạo này khi chưa khởi, như kiến đế v.v…hoặc có thể khởi các nghiệp cảm báo ác đạo, gọi là bất tịnh phẩm. Sau khi đạo khởi, bất tịnh phẩm như thế diệt không sinh lại, cho nên nói luôn luôn thay đổi bản tính. Y tha tính đạo này và đạo quả gọi là tịnh phẩm. Đạo tức giới định tuệ. Đạo quả có 2 thứ là hữu vi và vô vi. Hữu vi tức giải thoát giải thoát tri kiến. Vô vi tức bản hoặc diệt và vị lai hoặc không sinh. Khi đạo chưa khởi, giới v.v…các tịnh phẩm chưa thành lập, chỉ có bản tính thanh tịnh. Do đạo khởi cho nên cùng 5 phần pháp thân và vô cấu thanh tịnh tương ưng. Tương ưng như vậy cho đến thành Phật không biến đổi, cho nên nói luôn luôn thành bản tính.

Luận nói: Chuyển y này, nếu nói đại lược có 6 thứ:

Giải thích: Nếu đứng về tam thừa đạo và đạo quả nói rộng thì chuyển y có nhiều nghĩa. Nay đại lược chỉ nói 6 thứ.

Luận nói: Một là chuyển y bằng cách tăng thêm sức mạnh làm tổn giảm năng lực, do sức mạnh của tùy tín, lạc vị trụ, văn, huân tập.

Giải thích: Do tam thừa thánh đạo khởi trong thức A-lê-da, công năng văn huân tập càng tăng, gọi là thêm sức. Trong thức A-lêda, có các hoặc huân tập, do đối trị khởi nên không trở lại bản dụng, gọi là tổn giảm năng lực.

Hai việc này ở địa vị nào, nhân gì được thành?

Nếu người ở trong nguyện lạc vị, nghe Như Lai nói chính giáo rộng lớn rất sâu, trong đó khởi 3 đức tin nguyện lạc tu hành, tùy thuận không trái. Sự tổn ích này lấy sức văn huân tập làm nhân. Văn tư tuệ là thể của văn huân tập. Nhân 2 tuệ này sinh tu tuệ. Tu tuệ là sức của văn huân tập. Nếu không tu tuệ, bản y sẽ không chuyển được. Do sức này thành nghĩa của tổn ích.

Nếu người đã được chuyển y này, hành tướng phiền não đối với người này như thế nào?

Luận nói: Do phiền não có sự biết xấu hổ nên trở thành suy yếu hoặc vĩnh viễn không hiện hành.

Giải thích: Nếu người đã được chuyển y này, nếu khởi phiền não liền biết xấu hổ, khởi lên không lâu sẽ suy yếu, hoặc vĩnh viễn không khởi. Bởi vì sao? Vì hay hổ thẹn bản thân, thấy sâu sắc các lỗi lầm.

Luận nói: Hai là chuyển y do sự thông đạt. Nghĩa là các Bồ-tát đã đăng địa, do chân thật hư vọng hiển hiện làm năng lực.

Giải thích: Được trí vô phân biệt, chứng chân như nên gọi là thông đạt. Do thông đạt này có sự đổi khác với trước khi đăng địa. Nếu đã đăng địa, có khi nhập quán, thông đạt này là nhân hiển hiện chân thật. Bởi vì sao? Như mới thông đạt chứng chân như, sau nhập quán cũng vậy. Có khi xuất quán, thông đạt này là nhân hiển hiện hư vọng. Bởi vì sao? Như trước chưa nhập quán, do tán tâm tu tự lợi lợi tha tục hạnh, nay xuất quán cũng vậy.

Luận nói: Đây chuyển từ sơ địa đến địa thứ sáu.

Giải thích: Trong đây đều có xuất nhập quán khác nhau, nên lấy địa thứ 6 làm vị trí.

Luận nói: Ba là chuyển y bằng sự tu tập. Nghĩa là người chưa lìa chướng thì tất cả các tướng không hiển hiện. Chân thật hiển hiện nơi y chỉ này.

Giải thích: Tu tập ở địa vị trước y vào tướng khởi. Tu tập ở địa vị này y vào vô tướng khởi. Đã lìa hoặc chướng, chưa lìa hết nhất thiết trí chướng, là người Đại thừa hữu học có thể được sự chuyển y này. Tất cả các tướng nghĩa là tướng tướng, sinh tướng, chân thật tướng. Thể của 3 tướng này không hiển hiện, y chỉ vào chuyển y này mà thành. Ba vô tướng được hiển hiện cũng y chỉ vào chuyển y này mà thành.

Luận nói: Đây chuyển từ địa thứ bảy đến địa thứ mười.

Giải thích: Trong đây đều tu hạnh vô tướng, nên lấy địa thứ tư làm vị trí.

Luận nói: Bốn là chuyển y bằng quả viên mãn. Nghĩa là người đã lìa chướng thì tất cả tướng không hiển hiện, thanh tịnh chân như hiển hiện, cho đến được tất cả tướng tự tại.

Giải thích: Đầy đủ 3 đức gọi là quả viên mãn. Người đã lìa tất cả chướng tức là chư Phật. Được chuyển này, tất cả tướng không hiển hiện, tức là đoạn đức. Do tất cả tướng diệt nên chân như thanh tịnh hiển hiện, tức là trí đức. Trí như lý như lượng viên mãn nên nói là đủ nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí.. Cho đến tất cả tướng tự tại , tức là ân đức. Y chỉ trong tất cả tướng được tự tại. Do được tự tại này có thể như ý làm các việc lợi ích chúng sinh. Ba đức đều lấy chuyển này làm y chỉ.

Luận nói: Năm là chuyển hạ liệt. Nghĩa là do Thanh Văn thông đạt nhân vô ngã cho nên cứ một mực nghịch sinh tử mà vĩnh viễn lìa bỏ sinh tử.

Giải thích: Người, cảnh, công năng 3 nghĩa đều thấp kém. Đó là người Thanh Văn, nên là người thấp kém. Chỉ quán nhân vô ngã, nên là cảnh thấp kém. Cầu thoát khỏi sinh tử, chưa được cứu cánh ra khỏi 3 cõi, lại không thể tế độ chúng sinh, nên gọi là công năng thấp kém. Thân kiến là trói buộc của Thanh Văn. Để trừ thân kiến này, người tu quán vô ngã. Chung cả khổ, tập, gọi là sinh tử. Nếu được nhân vô ngã thì có thể hết khổ bỏ tập.

Luận nói: Sáu là chuyển một cách rộng lớn. Nghĩa là Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã.

Giải thích: Người, cảnh, công năng 3 nghĩa đều rộng lớn. Là người Bồ-tát nên nói là người quảng đại. Quán pháp vô ngã nên cảnh quảng đại. Tự độ độ tha, lại cứu cánh nên công năng quảng đại. Phân biệt là trói buộc Bồ-tát. Để trừ trói buộc này, tu quán pháp vô ngã. Pháp vô ngã là gốc. Nhân vô ngã là ngọn. Nếu được pháp vô ngã ắt phải trước được nhân vô ngã. Tuy là được trước, còn chưa thanh tịnh bởi gốc chưa trừ, nên sau chứng pháp vô ngã mới được thanh tịnh. Cảnh của pháp vô ngã có thể hiển thị 4 đức, nên quán cảnh này được lìa 8 điên đảo.

Luận nói: Trong đó quán công đức vắng lặng,

Giải thích: Nghĩa là ở trong sinh tử, quán pháp vô ngã nên gọi là công đức vắng lặng.

Luận nói: cho nên là xả bỏ mà không xả bỏ.

Giải thích: Đây hiển thị công năng của quán pháp vô ngã. Đối với sinh tử do quán vắng lặng có thể lì phân biệt. Không bị hoặc nhiễm nên xả bỏ phiền não. Do thấy sinh tử vắng lặng với chân như không khác nên không bỏ sinh tử.

Luận nói: Nếu Bồ-tát chuyển vị thành thấp kém thì có lỗi gì?

Giải thích: Muốn nói rõ thì có 3 lỗi, nên có câu hỏi này.

Luận nói: Lỗi không quán sát sự lợi ích chúng sinh.

Giải thích: Đây nói mất ân đức của Bồ-tát.

Luận nói: Lỗi xa lìa pháp Bồ-tát.

Giải thích: Như lý như lượng và tùy trí khởi phúc đức là pháp Bồ-tát. Không thực hành pháp trí tuệ của Bồ-tát là lỗi. Bỏ xa pháp phúc đức của Bồ-tát là lìa. Đây là nói mất trí đức.

Luận nói: Đồng được giải thoát như những kẻ hạ thừa. Đó là lỗi.

Giải thích: Chỉ diệt hoặc chướng, không diệt trí chướng. Đây là nói mất đoạn đức.

Luận nói: Các Bồ-tát nếu chuyển vị ở địa vị rộng lớn thì có công đức gì?

Giải thích: Để nói rõ có 3 đức, nên lập câu hỏi này.

Luận nói: Đó là ở trong pháp sinh tử, do tự chuyển y làm chỗ dựa nên được tự tại.

Giải thích: Được trí vô phân biệt, diệt chủng tử trí chướng. Cái diệt này tức chuyển y. Lấy chuyển y này làm y chỉ. Bồ-tát trong tất cả các pháp được 10 thứ tự tại.

Luận nói: Trong tất cả các nẻo đường sinh tử , có thể hiện tất cả thân hình.

Giải thích: Lấy tự tại làm y chỉ, trong lục đạo tùy theo thân hình của chúng mà thị hiện các thứ thân.

Luận nói: Trong phú lạc thế gian và trong ba thừa, do phương tiện giáo hóa thù thắng có thể an lập chúng sinh vào trong chính giáo. Đó là công đức của chuyển y rộng lớn.

Giải thích: Phú lạc là nói tam giới thiện đạo. Trước nói được thiện đạo thế gian, sau khiến được Thánh đạo tam thừa. Dùng tam luân hóa độ khiến trụ chính pháp.

Pháp gì là Đại Bồ-đề tự tính chuyển y?

Khác với Nhị thừa là tự tính Đại Bồ-đề. Phải biết chuyển y này có 4 tướng: Một, sinh khởi y chỉ là tướng. Hai, vĩnh viễn không sinh y chỉ là tướng. Ba, thành thục tư lường sở tri quả là tướng. Bốn, pháp giới thanh tịnh là tướng.

Sinh khởi y chỉ là tướng nghĩa là được Phật tương tục nhiếp hóa, y chỉ xuất thế đạo. Nếu không thế chưa đến chuyển y này.

Thánh đạo của Phật không thành, không ứng hợp đạo lý. Nếu Phật đạo lìa chuyển y này mà thành thì y chưa chuyển, đạo đã trước thành rồi.

Vĩnh viễn không sinh y chỉ là tướng nghĩa là tất cả hoặc và tập khí vĩnh viễn không sinh y chỉ. Nếu không vậy, nhân duyên đã tụ họp chưa đến chuyển y này, các hoặc và tập khí vĩnh viễn không sinh là bất thành, không ứng hợp đạo lý.

Thành thục tư lường sở tri quả y chỉ là tướng nghĩa là thành thục tầm tư và khéo thông đạt sở tri chân như, sở tri thật tế quả. Nếu không vậy thì tự tính chư Phật cũng phải tầm tư lại, cũng phải diệt chướng lại.

Pháp giới thanh tịnh là tướng nghĩa là đè bẹp tiêu diệt tất cả tướng, hiển thị pháp giới hết sức thanh tịnh. Nếu không vậy thì tự tính chư Phật phải là vô thường. Phải nghĩ tự tính của Phật là thường trụ, không thể nghĩ là tướng, cũng không thể nói được. Luận nói: Ở đây có bài kệ như sau:

Giải thích: Để làm rõ chuyển y này nên lại nói kệ.

Luận nói:

Phàm phu, chân thật che,

Còn hư vọng hiển lộ.

Giải thích: Kiến đế vô minh đối với phàm phu, che lấp tất cả pháp nhân vô ngã, chân không đối với chúng. Nghĩa là ở phàm phu cái cái vô minh này làm điên đảo tâm chúng, khiến kiến, ngã tướng, chúng sinh tướng v.v… và tướng 6 trần, các pháp hư vọng nhân đây hiển hiện vô minh làm chỗ y chỉ.

Luận nói:

Bồ-tát chỉ một bề,

Bỏ hư, hiển chân thật.

Giải thích: Trí vô phân biệt của Bồ-tát, do diệt vô minh nên bỏ tất cả pháp hư vọng. Nghĩa là ngã tướng v.v…hiển hai không chân như. Vô minh sinh là phàm phu y. Vô minh diệt là Bồ-tát y. Kệ này nói diệt là tướng chuyển y.

Luận nói:

Không hiển hiện, hiển hiện,

Hư vọng và chân thật,

Gỉ thích: Hư vọng là tính phân biệt. Phân biệt không khởi tức hư vọng không hiển hiện. Chân thật là 3 vô tính. Hư vọng không hiển hiện nên chân thật hiển hiện.

Luận nói:

Là Bồ-tát chuyển y,

Giải thoát được như ý.

Giải thích: Không hiển hiện hiển hiện là chuyển y của Bồ-tát. Chuyển y này tức Bồ-tát giải thoát. Được giải thoát rồi không trói buộc nữa. Vì lợi tha nên như ý đi khắp trong lục đạo. Không như Nhị thừa giải thoát, vĩnh viễn diệt không có nghĩa lợi tha. Như bị chém đầu, mạng không tiếp tục sống được. Kệ này nói giải thoát hư vọng và pháp thân thanh tịnh, hai cái này do trí vô phân biệt được thành. Tức đến 3 đức nói rõ chuyển y.

Luận nói:

Với sinh tử, Niết-bàn,

Nếu khởi trí bình đẳng,

Giải thích: Sinh tử Niết-bàn đều do phân biệt tạo ra. Cùng một chân như. Nếu được trí vô phân biệt, duyên đây bình đẳng khởi.

Luận nói:

Sinh tử tức Niết-bàn,

Hai, không có đây kia.

Giải thích: Bất tịnh phẩm là sinh tử. Tịnh phẩm là Niết-bàn. Sinh tử là hư vọng. Không nhân pháp hai ngã tức là Niết-bàn. Được trí vô phân biệt thấy sinh tử là vô sở hữu, tức là thấy Niết-bàn vô sở hữu. Cho nên không có kia đây khác nhau.

Nếu được trí này thì có công năng gì?

Luận nói:

Cho nên với sinh tử,

Không bỏ, không không bỏ.

Giải thích: Tuy quán vô ngã không lìa sinh tử, đó là nghĩa không bỏ. Tuy ở trong sinh tử thường quán vô ngã, đó là không không bỏ.

Nếu vậy với Niết-bàn thì sao?

Luận nói:

Với Niết-bàn cũng vậy,

Không được, không không được.

Giải thích: Lìa sinh tử không có một pháp nào khác gọi là Niếtbàn. Bồ-tát đã không được sinh tử, cũng không được Niết-bàn. Đó là nghĩa của không được. Bồ-tát trong sinh tử thường quán thắng diệu tịch tĩnh. Đó là nghĩa không không được.

Trí sai biệt thắng tướng 10

Luận nói: Như vậy đã nói về tịch diệt sai biệt.

Thế nào là nên biết trí sai biệt?

Giải thích: Như trước đã nói Bồ-tát giải thoát khác với Nhị thừa giải thoát. Bồ-tát giải thoát tri kiến cũng phải khác với Nhị thừa giải thoát tri kiến. Làm sao biết được?

Luận nói: Do Phật có ba thân nên biết trí sai biệt.

Giải thích: Trí sai biệt là Bồ-tát giải thoát tri kiến, tức quả cứu cánh của Bồ-đề đạo. Như quả cứu cánh của Nhị thừa đạo là giải thoát tri kiến. Trong Nhị thừa giải thoát tri kiến không có ba thân. Trong Bồ-tát giải thoát tri kiến có ba thân sai biệt. Bởi vì sao? Nhị thừa không thể diệt trí chướng vì không có nhất thiết trí, không được pháp thân viên mãn thanh tịnh vì không có Đại bikhông hành lợi tha, không có ứng hóa hai thân. Bồ-tát đủ hai nghĩa này nên có ba thân. Cho nên lấy ba thân hiển thị trí sai biệt.

Pháp gì gọi là ba thân?

Luận nói: Ba thân là tự tính thân, thụ dụng thân và biến hóa thân.

Giải thích: Thân lấy y chỉ làm nghĩa. Do có khả năng duy trì các pháp, các pháp theo thân mà thành, không theo thì không thành. Thân là y chỉ của các pháp. Ví như thân căn là y chỉ của các căn nên được gọi là thân. Pháp thân cũng vậy. Ứng hóa thân là sở y của tất cả công đức Như Lai, nên gọi là thân. Lại thân là lấy thật làm nghĩa. Không phá hoại nên gọi là thật. Thân tức là thể. Thể lấy tính làm nghĩa. Tính này ở trong tất cả địa vị không đổi nên gọi là thật. Thật nên không phá hoại. Thân có 2 thứ: một là tự nhiên được, hai là nhân công được. Tự nhiên được như kinh nói dù Phật xuất thế hay không xuất thế pháp tính thường nhiên. Nghĩa là tất cả pháp do nhị không bất không. Nhị không do hư vọng bất không. Hai pháp này đều tự nhiên được, nên nói là tự tính. Nhân công được là các thân trong lục đạo do y vào hoặc khởi bất động nghiệp thiện ác, do nghiệp được bảy thứ quả, y vào quả lại sinh hoặc, đó gọi là nhân công mà được. Thân Như Lai cũng được do hai thứ: Một là tự tính được, đó là pháp thân. Hai là nhân công được, đó là ứng hóa hai thân. Để hiển thị cái khác với nhân công nên lập tự tính thân. Y chỉ tự tính thân, khởi hai hạnh phúc đức và trí tuệ. Quả đạt được do hai hạnh là Tịnh độ thanh tịnh và đại pháp lạc. Có thể thụ dụng hai quả nên gọi thụ dụng thân. Trong các địa tu hành khác, do sức bản nguyện tự tại của Phật nên thức kia biến hiện tựa chúng sinh nên gọi biến hóa thân.

Luận nói: Trong đó, tự tính thân là pháp thân của chư Như Lai,

Giải thích: Trong ba thân này, nếu lấy tự tính làm pháp thân, tự tính có hai thứ định, lấy tự tính nào làm pháp thân? Vì tất cả chướng diệt nên tất cả bạch pháp viên mãn. Chỉ có chân như và chân trí riêng tồn tại gọi là pháp thân.

Thân lấy y chỉ làm nghĩa. Pháp nào là y chỉ?

Luận nói: y chỉ tất cả pháp tự tại.

Giải thích: Tất cả pháp tự tại nghĩa là 10 thứ tự tại. Lại nữa 10 Ba-la-mật trong nhân, tất cả pháp bất cộng trong quả đều đã được không mất, như ý vận dụng nên gọi là tự tại, tự tại không thể tính kể, tùy theo các pháp số lượng tự tại cũng vậy.

Làm sao biết pháp này y chỉ pháp thân? Vì không lìa thanh tịnh và viên trí, tức trí như như như như.

Luận nói: Thụ dụng thân là các thứ cõi quốc độ của chư Phật, hiển hiện nơi y chỉ của các bậc đại nhân.

Giải thích: Cõi có các thứ báu khác nhau không thể tính kể số lượng nên gọi là các thứ. Cõi có vô lượng báu là y vào ứng thân Phật mà thành. Chư Bồ-tát gọi là đại nhân tập, là chúng Bồ-tát thân cận thiện hữu. Chính văn, chính tư, chính tu v.v…gọi là luân thể. Như Thánh vương kim luân có thể từ đây đến kia. Chưa được khiến được, được rồi khiến không mất, có thể lên xuống đi ngang là dụng luân. Bồ-tát cũng vậy. Nếu lìa ứng thân thì hai việc không thành. Cho nên hai việc này lấy ứng thân làm y chỉ. Do thành năng y chỉ nên hiển hiện sở y chỉ.

Luận nói: Thụ dụng thân này lấy pháp thân làm y chỉ,

Giải thích: Pháp thân không y chỉ. Thân này có y chỉ. Như trước nói vì trong tất cả pháp tự tại y chỉ nên đây tức nói ứng thân y chỉ pháp thân nên hai thân có khác.

Luận nói: là cõi thanh tịnh của chư Phật, là nhân thụ dụng thụ lạc pháp Đại thừa.

Giải thích: Bồ-tát ở trong cõi Tịnh độ của chư Phật tự nghe thụ pháp Đại thừa, thụ pháp lạc, vì người khác nói pháp Đại thừa cũng thụ pháp lạc. Bồ-tát thụ dụng đủ hai thứ pháp lạc này. Nếu không có ứng thân thì không có hai thụ dụng pháp lạc này. Cho nên ứng thân là nhân của hai thụ dụng pháp lạc này. Còn có giải thích thụ dụng có hai nghĩa: Một là thụ dụng trần, tức thụ dụng Tịnh độ. Hai là thụ dụng pháp lạc, tức thụ dụng Đại thừa pháp lạc. Nếu không có ứng thân thì không có hai thụ dụng này. Cho nên lấy ứng thân làm nhân của hai thụ dụng này.

Biến hóa thân với pháp thân ứng thân, tướng khác nhau như thế nào?

Luận nói: Biến hóa thân là lấy pháp thân làm y chỉ,

Giải thích: Pháp thân không y chỉ.Thân này có y chỉ. Như trước nói vì trong tất cả pháp tự tại y chỉ, cho nên đây là nói biến hóa thân y chỉ pháp thân. Vì vậy hai thân có khác.

Luận nói: từ trời Đâu-suất-đà hiện thân thụ sinh,

Giải thích: Dưới đây nói hóa thân thể khác với ứng thân. Ứng thân lấy đại trí đại định Đại bi làm thể. Hóa thân chỉ lấy sắc hình làm thể. Sắc hình trước ở trời Đâu-suất-đà, sau sinh trong cói người. Trước 20 năm thụ thân trung ấm, sau thụ sinh vào dòng họ Thích-ca.

Luận nói: thụ học, thụ dục trần,

Giải thích: Học tập 64 kỹ năng bí mật, công xảo, thu nạp cung phi, thụ dục lạc.

Luận nói: xuất gia, đến tu khổ hạnh với ngoại đạo,

Giải thích: từ bỏ ngôi vua đến chỗ người tiên Uất-đà A-la-la tu tập các khổ hạnh của ngoại đạo.

Luận nói: chứng vô thượng Bồ-đề, chuyển pháp luận, nhập Đại Niết-bàn các việc.

Giải thích: Sau từ bỏ ngoại đạo, không tu theo khổ hạnh, thành vô đẳng giác, thuyết giáo 3 thừa, sau mới xả hóa, biến hóa rất nhiều việc cho đến sau khi nhập diệt còn có di thể, vì Phật sự nên nói các việc. Những việc này hiển thị nơi hóa thân.

Vì sao Phật trước trụ nơi trời Đâu-suất-đà, sau sinh vào loài người? Vì muốn hiển thị tự thân là loài nhân thiên. Vì nhân thiên là khí cụ của Thánh đạo. Vì làm vị thầy của trời người nhiếp hóa đồng loại. Vì đoạn trừ các hủy báng của ngoại đạo.

Luận nói: Chư Phật Như Lai có tướng pháp thân như thế nào?

Giải thích: Muốn dẫn các tướng có 10 nghĩa chứng thành pháp thân. Nếu thành pháp thân, hai thân kia cũng thành. Vì vậy có câu hỏi này.

Luận nói: Nếu nói sơ lược có 5 thứ.

Giải thích: Nếu nói rộng như vô sinh vô diệt v.v…thì có vô lượng tướng. Nay lược nói có 5 tướng, tức đệ nhất nghĩa trong 10 nghĩa.

Luận nói: Ở đây có nói bài kệ Uất-đà-na như sau:

Giải thích: Để tóm thâu các nghĩa rải rác nên nói kệ này. Mười nghĩa trong kệ sẽ lần lượt giải thích.

Luận nói:

Tướng, chứng đắc, tự tại,

Y chỉ và nhiếp trì,

Sai biệt, đức, rất sâu,

Phật thân niệm, nghiệp, rõ.

Năm tướng là: Một là pháp thân chuyển y làm tướng.

Giải thích: Pháp thân tức là Bồ-tát chuyển y.

Luận nói: Tất cả chướng và phần bất tịnh phẩm, tính y tha đã diệt xong,

Giải thích: Chướng có 2 thứ: chướng toàn phần và chướng một phần. Bồ-tát đã đoạn tất cả trí chướng, thông trong ngoài 3 cõi nên gọi là toàn phần, tức là tất cả chướng. Nhị thừa chỉ đoạn hoặc chướng, chỉ một phần chướng trong 3 cõi, tức là phần bất tịnh phẩm và lấy tính y tha làm y chỉ. Khi trị đạo khởi liền đoạn 2 chướng này nên nói đã diệt xong.

Luận nói: giải thoát tất cả chướng,

Giải thích: Do 2 phần chướng đã diệt, một phần tính y tha, giải thoát tất cả chướng.

Luận nói: được tự tại đối với tất cả pháp,

Giải thích: Một phần tính y tha này có thể thông đạt tất cả pháp đồng một vô tính. Đã được không mất, nên gọi là tự tại

Luận nói: là phần tính thanh tịnh, tính y tha chuyển y làm tướng.

Giải thích: Để hiển thị cái khác của vô phân biệt hậu trí lìa tất cả phân biệt nên nói phần tính thanh tịnh. Vô phân biệt trí này lại là một phần của tính y tha. Tính y tha có 2 phần. Trước đã nói xong về diệt chướng hiển vô phân biệt. Sau nói được tự tại trong tất cả pháp để có thể hiển thị trí vô phân biệt. Hai phần này là chuyển y. Chuyển y là tướng của pháp thân.

Luận nói: Hai là pháp bạch tịnh là tướng.

Giải thích: Tất cả pháp có 2 tướng: một là hắc hai là bạch. Hắc tức là ác. Bạch tức là thiện. Trong thiện tự có 4 thứ. Pháp thân là chân thật thiện nên nói pháp bạch tịnh là tướng.

Luận nói: Nghĩa là do Lục độ viên mãn, nơi pháp thân được 10 thứ năng lực thù thắng tự tại làm tướng.

Giải thích: Do cứu cánh tu Lục độ, trong pháp thân được 10 tự tại. Mười tự tại này là thắng năng, tức năng lực thù thắng, của pháp thân, tức lấy pháp thân làm tính.

Do Lục độ cứu cánh, được 10 tự tại, nghĩa ấy là thế nào?

Luận nói: Những gì là mười? 1.Thọ mạng tự tại,

Giải thích: Đối với thọ mạng, muốn ngắn dài hay xả bỏ đều được như ý.

Luận nói: 2.Tâm tự tại,

Giải thích: Trong sinh tử, việc thụ sinh không bị sinh tử nhiễm ô.

Luận nói: 3.Của cải tự tại.

Giải thích: Trước tiên là 10 thứ của cải, ăn uống, tùy lúc tùy nơi đều được như ý.

Luận nói: Ba tự tại này do Thí độ viên mãn mà thành tựu,

Giải thích: Nếu người bố thí tất cả mọi nơi, tất cả thí vật, lấy tâm Đại bi mà hành thí thì sự bố thí viên mãn. Do Đại bi hành thí làm nhân, tâm được tự tại. Do hành thí mọi nơi làm nhân, được thọ mạng tự tại. Do bố thí tất cả vậ làm nhân, được tài vật tự tại.

Luận nói: 4.Nghiệp tự tại, 5.Sinh tự tại, hai tự tại này do Giới độ viên mãn mà thành tựu,

Giải thích: Nghiệp là nhân, sinh là quả nên hai cái này tương ưng. Do có thể chế ngự thân khẩu nghiệp nên được nghiệp tự tại. Cho đến từng phần từng phần đoạn trừ thân tâm là biến đổi thân khẩu nghiệp. Do tâm thành nên Giới độ viên mãn. Do Giới độ viên mãn, nếu muốn thụ sinh đời sống khác có thể được như ý. Nghiệp này đều khiến hiện tiền nên gọi là nghiệp tự tại. Do nghiệp tự tại nên đối với nghiệp quả trong đời cũng được tự tại. Tùy theo loài trong lục đạo có thể như ý sinh qua đó làm việc lợi ích. Nếu là cảnh, có thể như ý xả bỏ. Công năng thủ xả hai việc không ngại, nên gọi là sinh tự tại.

Luận nói: 6.Dục lạc tự tại, đây do Nhẫn độ viên mãn mà thành tựu,

Giải thích: Nhẫn có 3 thứ: một là nhẫn nhúc nhẫn, hai là an thụ nhẫn, ba là thông đạt nhẫn. Chịu đựng được sự hủy báng hay làm ổn hại của người là nhẫn nhục nhẫn. Chịu đựng được cái khổ của mình tâm không biến đổi là an thụ nhẫn. Đối với đạo lý rất sâu của chính pháp, tâm có thể minh chứng là thông đạt nhẫn. Do 3 nhẫn này các pháp đều tùy theo tâm, sau ở trong các pháp tùy theo chỗ muốn đều được như ý.

Luận nói: 7.Nguyện tự tại, do Tinh tiến độ viên mãn mà thành tựu,

Giải thích: Do Tinh tiến Ba-la-mật có thể vượt qua được tất cả việc làm, vào đời sau tất cả sở nguyện đều được như ý, nên gọi là nguyện tự tại.

Luận nói: 8.Thông tuệ tự tại, đây gồm trong ngũ thông, do Định độ viên mãn mà thành tựu,

Giải thích: Trong ngũ thông, cái chưa được thì được, cái được rồi không mất, nên gọi tự tại. Lại đối với ngũ thông có thể tự dùng, có thể khiến người khác dùng như mình, nên gọi là tự tại. Do Bồ-tát có thể được định tâm rất sâu của chư Bồ-tát, tùy sự điều phục. Nếu dẫn ngũ thông, đối với mình và người đều thành tựu như ý.

Luận nói: 9.Trí tự tại, 10.Pháp tự tại, hai tự tại này do Bát-nhã Ba-la-mật viên mãn mà được thành tựu.

Giải thích: Bồ-tát do Bát-nhã Ba-la-mật viên mãn. Do trí vô phân biệt đối với ấm v.v…các pháp môn tâm thông đạt trọn vẹn, được nhất thiết chủng trí, gọi là trí tự tại. Do vô phân biệt hậu trí, thông đạt phẩm loại tất cả các pháp, được nhất thiết trí, gọi là trí tự tại. Do vô phân biệt hậu trí như tự sở chứng, vì người khác an lập pháp môn, như lý được thành, gọi là pháp tự tại.

Luận nói: Ba là không hai là tướng, do không có hai tướng có không,

Giải thích: Vô nhị tức không hai, là vô hữu và vô vô, nghĩa là không có và không không. Hữu vi thường, vô vi đoạn, không có không không tức không thường không đoạn, lìa hai biên.

Luận nói: tất cả pháp là vô sở hữu, không tướng chẳng không là tướng.

Giải thích: Lại giải thích câu nói trên. Tất cả pháp đều do phân biệt mà ra. Tất cả đều vô sở hữu, tức là hai không tướng, không có không không là hai không tướng, không không pháp thân tức là hai không, vì không hai biên là pháp thân tướng.

Luận nói: Lại nữa hữu vi vô vi không hai là tướng,

Giải thích: Không hai là không hữu vi, không vô vi. Tất cả pháp hữu lưu đều lấy hữu vi làm tướng. Tất cả pháp vô lưu có 2 thứ . Nếu đạo v.v…lấy hữu vi làm tướng. Trạch diệt v,\.v…lấy vô vi làm tướng. Pháp thân với hữu vi vô vi chẳng phải một chẳng phải khác, nên không được thiên một bên lấy hữu vi hay vô vi làm tướng. Do chân như là tướng thông cả hữu vi vô vi, không thể nói là khác. Chân như là cảnh thanh tịnh, hữu vi vô vi không phải cảnh thanh tịnh, không thể nói là một. Pháp thân phi hữu vi vô vi là tướng, phi phi hữu vi vô vi là tướng. Bởi vì sao?

Luận nói: vì chẳng phải hoặc nghiệp họp lại sinh ra,

Giải thích: Tất cả pháp hữu vi đều từ hoặc nghiệp sinh. Pháp thân không từ nghiệp hoặc sinh, nên phi hữu vi.

Luận nói: do được tự tại có thể hiển hiện tướng hữu vi.

Giải thích: Pháp thân do được tự tại, có thể thường thường hiển hiện tướng hữu vi. Tức là ứng hóa 2 thân, cho nên phi vô vi.

Luận nói: Lại nữa, một khác không hai là tướng, vì chư Phật Như Lai y chỉ không khác,

Giải thích: Không hai là không một không khác. Pháp thân 3 đời các đức Phật là không khác. Pháp thân tức là y chỉ, cho nên không khác.

Luận nói: do vô lượng y chỉ có thể chứng.

Giải thích: Do pháp thân vô lượng đã thành thục thiện căn các Bồ-tát, liên tục chứng đắc không ngớt nên không thể nói là một. Nếu là một thì những người khác tu hành sẽ vô dụng.

Luận nói: Ở đây có bài kệ như sau:

Giải thích: Để hiển thị nghĩa pháp thân không một không khác nên lại nói kệ.

Luận nói:

Vì không còn ngã chấp,

Trong không có y khác.

Giải thích: Trong thế gian do tùy theo ngã chấp phân biệt, chúng sinh y chỉ có sai biệt. Đối với pháp thân không có ngã chấp phân biệt nên Như Lai y chỉ không sai biệt.

Nếu vậy sao lập ra có nhiều Phật?

Luận nói:

Như trước nhiều y chứng

Giả nói là chẳng một.

Giải thích: Do nhân địa trước vô lượng y chỉ có thể chứng cho nên nếu mỗi một thế gian thân không có pháp thân thì Bồ-tát không có sở chứng. Vì Bồ-tát mỗi mỗi y tự thân chứng pháp thân này. Vì vậy đứng về giả danh không thể nói là một.

Luận nói:

Tính hành khác, chẳng rỗng,

Viên mãn không bắt đầu.

Vì chẳng một, không khác,

Chẳng nhiều, y chân như.

Giải thích: Chư Bồ-tát phát tâm nhiều nên tính khác. Do tính khác nên gia hành không giống nhau. Do gia hành khác nên có công lực. Do có công lực nên có thể đắc quả. Có nhân nghĩa nên chẳng phải trống rỗng. Nếu chỉ có một Phật, thì bao nhiêu Bồ-tát tu hành thành ra không có chỗ chứng đắc. Chư Phật làm việc lợi ích chúng sinh, không gì không viên mãn. Do an lập chúng trong 3 thừa nên nếu chư Phật không an lập chúng nơin vô thượng Bồ-đề thì việc làm Phật sự không viên mãn. Do việc lợi ích viên mãn nên Phật không phải một. Như sinh tử không có cái bắt đầu, vô lượng chư Phật cũng vậy. Không có bắt đầu, vô lượng, nếu chỉ một Phật, không có Phật trước Phật sau, thì một Phật vừa là Phật bắt đầu vừa là Phật cuối cùng mới thành nghĩa. Do 5 nghĩa này nên Phật không phải một.

Luận nói: Không khác nên không nhiều.

Giải thích: Y chỉ không khác nên chư Phtj không nhiều. Không nhiều nên không khác.

Y chỉ cái gì?

Luận nói: Y chân như.

Giải thích: Chân như tức pháp giới thanh tịnh. Pháp giới không khác nên chư Phật y chỉ không sai biệt. Hai kệ này hiển thị pháp thân không có tướng một hay khác.

Luận nói: Bốn là thường trụ là tướng. Vì tướng chân như thanh tịnh,

Giải thích: Dưới đây dẫn 3 chứng lập nghĩ pháp thân thường trụ. Chân như nếu lìa khỏi tất cả cấu uế, vô cấu thanh tịnh gọi là Phật quả.Chân như này thường trụ. Chư Phật là chân như thanh tịnh hiển hiện, cho nên pháp thân thường trụ.

Luận nói: vì nguyện xưa dẫn phát đến tột cùng,

Giải thích: Từ sơ phát tâm cho đến bát địa, trải 27 Đại kiếp a-tăng-kì, trong thời gian đó Như Lai y pháp giới phát nguyện thành tựu. Nguyện duy trì thệ nguyện gọi là dẫn. Không ngại đối với tất cả mọi nơi gọi là thông. Tận cùng biên giới của sinh tử gọi là tột cùng. Do y pháp giới khởi nguyên này nên nếu pháp giới vô thường thì nguyện này có chấm dứt. Nguyện đã không chấm dứt nên biết pháp giới thường trụ. Lại do nguyện này dẫn thông đến tột cùng, bất không vô quả nên được pháp thân. Nguyện đã vô tận nên pháp thân thường trụ.

Luận nói: vì việc đúng phải làm chưa rốt ráo.

Giải thích: Nếu nói Phật làm việc lợi ích chúng sinh xong thì nguyện trước phải hết. Không thể lấy nguyện để chứng pháp thân là thường trụ. Nghĩa ấy không phải như vậy. Bởi vì sao? Vì chính sự chưa cứu cánh. Từ thời nay cho đến cùng thế, chính sự vô biên. Nếu chúng sinh đều chưa đắc Phật, chưa tất cả Bát-niết-bàn, thì chính sự này không dứt. Chính sự là do pháp thân thành, chính sự không dứt nên pháp thân thường trụ.

Luận nói: Năm là không thể nghĩ bàn là tướng. Vì chân như thanh tịnh chỉ có trí tự chứng mới biết, không có thí dụ, chẳng phải chỗ thực hành giác quán.

Giải thích: Pháp thân có 3 nhân duyên nên khổ thể nghĩ bàn. Một là không phải cảnh giới của 3 tuệ nên không thể nghĩ bàn. Không phải chỗ thực hành của giác quán, nên chẳng phải cảnh của văn tuệ. Không có thí dụ, nên chẳng phải cảnh của tư tuệ. Trí tự chứng, biết được. Chẳng phải cảnh của tu tuệ của thế gian và Nhị thừa, cho nên không thể nghĩ bàn. Hai là vô phân biệt tối thượng chân thật, nên không thể nghĩ bàn. Cái vô phân biệt này trí tự chứng của Bồ-tát biết, không phải cảnh giới phân biệt của phàm phu. Phàm phu như người mù bẩm sinh không thể phân biệt được màu sắc vì chưa hề trông thấy màu sắc bao giờ. Cũng chẳng phải cảnh giới phân biệt của Nhị thừa. Cảnh này là tột cùng, chẳng phải chỗ chứng của Nhị thừa, nên không thể phân biệt. Nhị thừa như đứa trẻ sơ sinh không thấy mặt trời, vì nhãn lực còn yếu. Cao tột là không có thí dụ. Trong tất cả các pháp, pháp thân là tột cùng không có gì so sánh, không có pháp nào làm thí dụ, cho nên không có một bậc thượng nhân nào có thể biết được. Chân thật là không thể ngôn thuyết. Nếu không thể ngôn thuyết chưa từng thấy chân thật. Chúng sinh không thể phân biệt. Tất cả giác quán tùy theo ngôn thuyết khởi. Đã không ngôn thuyết nên không phải hành xứ của giác quán. Cho nên là không thể nghĩ bàn. Ba pháp thân là trí chứng của Phật biết, chẳng phải người thông tuệ thế gian phân biệt được. Trong thế gian không một vật gì sánh được với pháp thân, do thấy vật này đem so sánh biết pháp thân. Trong pháp thân tuyết dứt tất cả tâm hành, vì cảnh trí không sai biệt. Cho nên không thể nghĩ bàn.

Luận nói: Lại nữa pháp thân này chứng đắc như thế nào?

Giải thích: Có chứng mà không đắc. Có đắc mà không chứng. Có cũng chứng cũng đắc. Có không chứng không đắc. Nay muốn hiển thị cũng chứng cũng đắc. Tất cả chúng sinh ở trong sinh tử, không có chúng sinh nào vốn không có pháp thân. Vì hằng tương ưng với pháp thân nên, sự tương ưng này là pháp tự nhiên thành từ vô thủy. Tương ưng như vậy gọi là đắc. Cái đắc này không phải chạm xúc đến được mà gọi là đắc, chẳng phải căn thức chứng được. Vì lìa tương ưng đắc nên lập câu hỏi này. Như kinh nói trong chúng sinh khôngn có chúng sinh nào ở ngoài pháp thân. Như không có một sắc nào ở ngoài hư không. Là vì tất cả chúng sinh không lìa pháp thân. Pháp thân trong chúng sinh, bản lai là đắc.

Nghĩa đắc như vậy, nghĩa chứng như thế nào?

Luận nói: Được từ tiếp xúc đầu tiên,

Giải thích: Để hiển thị tiếp xúc được có bắt đầu.Do phương tiện thành lợi ích vô cùng cho nên như mắt chứng kiến sắc ắt có 5 nghĩa: Một là có thật cảnh đối căn, hai là không hoại, ba là có giác quán, bốn là thức không loạn, năm là không ám v.v…các chướng. Nếu không đủ 5 nghĩa thì không thể chứng sắc. Chứng biết pháp thân cũng vậy, ắt phải đủ 5 nghĩa.

Luận nói: do duyên tạp tướng của pháp Đại thừa làm cảnh.

Giải thích: Chân như là pháp Đại thừa. Các pháp môn nói trong 12 bộ kinh Đại thừa đều cùng hiển thị chân như này. Tất cả chính thuyết đối với pháp chân như thì đồng một vị, nên gọi là tương tạp. Như các dòng sông chảy về biển, tương tạp nhau cùng làm một vị. Trí với cảnh không sai biệt nên nói là duyên. Bồ-tát duyên tương tạp pháp chân như trong Đại thừa làm cảnh. Đây tức là hiển thị thứ nhất cảnh thật có và tối thắng.

Luận nói: Trí vô phân biệt, trí vô phân biệt hậu sở đắc

Giải thích: Chứng trí lấy vô phân biệt làm tướng. Do trí này khởi trong cảnh chân như, lìa phân biệt nên thanh tịnh thành chứng trí. Đây tức là hiển thị thứ hai trí thanh tịnh như căn không hoại. Trí vô phân biệt hậu sở đắc là trợ pháp trước sau. Do trí này, sau lại nhập chân quán, sau chuyển thành thắng. Đây là thứ ba nói trợ pháp như giác quán. Nếu có Tì-bát-xá-na không có Xa-ma-tha không chứng đắc nghĩa, cho nên phải tu Xa-ma-tha. Tu Xa-ma-tha có 3 tướng: Một là được nhân, hai là được các trợ giúp, ba là được công năng.

Luận nói: tu 5 tướng thành thục,

Giải thích: Đây nói được nhân. Năm tu tập và 5 quả do 5 tu tập đạt được. Như nói trong Nhân quả tu sai biệt. Được, không thoái mất, gọi là thục. Được tối thượng thượng phẩm, gọi là thành. Thường thường quán sát, gọi là tu tập. Đây nói 2 thứ nhân: Một là nhân không mất, hai là nhân viên mãn, nên gọi là được nhân.

Luận nói: ở tất cả các địa khéo tập họp tư lương,

Giải thích: Đây là nói được trợ bạn. Từ sơ địa đến thập địa tập họp hạnh phúc đức trí tuệ làm tư lương, nên gọi là được các loại trợ giúp.

Luận nói: có thể phá các chướng vi tế khó phá.

Giải thích: Đây là nói được công năng. Do 2 nghĩa trước nên có thể phá trí chướng. Phiền não này với đạo vô lưu của Nhị thừa đều khởi, nên gọi là vi tế. Chướng này không phải Nhị thừa đạo có thể phá được nên gọi là khó phá. Vì vậy gọi là được công năng. Đây là hiển thị thứ tư được định biết thức không loạn.

Luận nói: Kim cương ví Tam-ma-đề

Giải thích: Có 4 nghĩa lấy kim cươngví Tam-ma-đề: 1.Có thể phá núi phiền não. 2.Có thể phát triể rộng các công đức. 3.Cứng chắc không thể hủy hoại. 4.Dùng lợi có thể khiến trí tuệ thông đạt tất cả pháp không ngại.

Luận nói: tức sau Tam-ma-đề này diệt lìa tất cả chướng.

Giải thích: Được định này rồi, diệt tất cả chướng mới hết. Đây là thứ năm nói diệt hoặc, như các chướng vô ám v.v…

Luận nói: Lúc bấy giờ do y chỉ chuyển thành chứng đắc.

Giải thích: Khi Kim cương tâm diệt, gọi là “Lúc bấy giờ”. Lúc bấy giờ thập địa y chỉ chuyển thành Phật y chỉ, gọi là chứng đắc.

Luận nói: Pháp thân này trong đó có bao nhiêu tự tại được tự tại?

Giải thích: Muốn nói rõ phải nói chuyển y của 5 ấm, nói rõ pháp thân tự tại. Vì vậy có câu hỏi này.

Luận nói: Nói đại lược trong đó có 5 tự tại được tự tại:

Giải thích: Nếu nói rộng có vô lượng tự tại. Nay lược nói 5 thứ.

Luận nói: Tự tại thứ nhất là Tịnh độ, hiển thị tự thân, tướng hảo, âm thanh vô biên, vô kiến đỉnh tướng,

Giải thích: Như ý có thể hiển hiện Tịnh độ như ngọc Pha-lêkha v.v… tùy loại chúng sinh như ý hiện thân, trong Đại tập hội đều đối chúng sinh không bội nghịch. Lại là đối tượng chúng sinh thích chiêm ngưỡng. Hiện các thứ thân chúng sinh thích chiêm ngưỡng, hiện các tướng tốt thuyết pháp như ý, biến khắp 10 phương thế giới. Trong mỗi một âm thanh, tùy loại chúng sinh thích nghe pháp đều được nghe. Các Phạm thiên v.v…khi thấy Phật, thấy thân Như Lai cao hơn họ gấp bội nên không thể thấy đỉnh đầu. Tất cả việc này đều được như ý, nên gọi là tự tại.

Nhân đâu được tự tại này?

Luận nói: do y chuyển sắc ấm.

Giải thích: Mỗi một ấm đều có, như trong Diệt sai biệt đã nói 4 chuyển y trước. Sắc thức gọi là sắc ấm. Hình ngại là thể của sắc. Khi khởi đối trị, do một phần bất tịnh phẩm của tính phân biệt hằng được tách rời, một phần tịnh phẩm được hằng được tương ưng. Tức là sắc ấm chuyển y. Trong chuyển y này được Tịnh độ v.v…tự tại.

Luận nói: Tự tại thứ hai là không mất vô lượng đại an lạc trụ,

Giải thích: Không bị các hoặc và tập khí ô nhiễm, nên gọi là không mất. Như Lai an lạc trụ không thể tính kể, nên nói là vô lượng.

Cái an lạc hơn cả, 3 cõi không sánh bằng, nên gọi là đại an lạc trụ. Các việc này đều được như ý, nên gọi là tự tại.

Luận nói: do chuyển y thụ ấm.

Giải thích: Thụ thức gọi là thụ ấm. Nhận lãnh sự khổ vui là thể của thụ. Do chuyển y thụ ấm nên được tự tại này.

Luận nói: Tự tại thứ ba là chính thuyết đầy đủ tất cả danh tự, câu văn, chương phẩm,

Giải thích: Tất cả danh tự, và câu văn trong ngôn giáo, từ kệ đến một chương một phẩm, một bộ gọi là tụ. Tất cả đều có thể hiểu rõ như ý chính thuyết, nên gọi là tự tại.

Luận nói: do chuyển y sự chấp tướng sai biệt của tưởng ấm.

Giải thích: Tưởng thức là tưởng ấm. Chấp tướng sai biệt là thể của tưởng. Do chuyển y tưởng ấm nên được tự tại này.

Luận nói: Tự tại thứ tư là biến hóa, cải đổi, dẫn nhiếp đại hội, dẫn nhiếp bạch tịnh phẩm,

Giải thích: Chưa có hiện ra có và phân chia một thành nhiều là biến hóa. Chuyển đổi bản tính thành ra khác là vì muốn thấy chúng sinh tùy chỗ xa gần mà dẫn dắt như ý. Trời, người, Dạ-xoa v.v… đến Đại tập hội, tùy theo sự thích nghi của chúng, dùng Tứ nhiếp mà nhiếp hóa. Hữu lưu thiện gọi là bạch. Vô lưu thiện gọi là tịnh. Dẫn đạo pháp bạch tịnh phẩm này sinh khởi liên tục, tất cả những việc này đều được như ý nên gọi là tự tại.

Luận nói: do sự chuyển y của hành ấm.

Giải thích: Hành thức là hành ấm. Tác ý là thể của hành. Do chuyển y hành ấm nên được tự tại này.

Luận nói: Tự tại thứ năm là hiển rõ trí bình đẳng, trí hồi quán, trí tác sự,

Giải thích: Như Lai đối với tất cả pháp không có lỗi lầm, chứng biết chẳng phải cảnh hiện tiền như đối cảnh hiện tiền. Ví như người nhớ thuộc những câu văn đã luyện tập, gọi là hiển rõ trí. Từ thông đạt chân như đến nay, đối với tất cả chúng sinh được tâm bình đẳng. Do chứng pháp thanh tịnh bình đẳng nên gọi là trí bình đẳng, có thể giữ gìn Tam-ma-đề Đà-la-ni môn. Trong pháp môn này muốn lấy một pháp nào đều được như ý không ngại. Ví như người tài chủ giữ kho tàng của mình lấy ra dùng không ngại, gọi là trí hồi quán. Có thể thể thụ sinh trởi Đâu-suất và Bát-niết-bàn để tạo thiện căn vô lưu cho Thanh Văn và Bồ-tát ở bậc thấp, có thể hiển thị việc của Như Lai, gọi là trí tác sự. Tất cả các việc như thế đều được như ý , nên gọi là tự tại.

Luận nói: do chuyển y thức ấm.

Giải thích: Thức thức là thức ấm. Hiểu rõ phân biệt là thể của thức. Chuyển y thức ấm thì được tự tại này.

Luận nói: Pháp thân này y chỉ bao nhiêu pháp?

Giải thích: Muốn hiển thị vô lượng công đức của Như Lai đều từ pháp thân sinh, lấy pháp thân làm y chỉ, nên có câu hỏi này.

Luận nói: Nếu nói đại lược chỉ có ba.

Giải thích: Nếu nói rộng là vô lượng pháp y chỉ. Nay lược nói chỉ có ba.

Luận nói: Đó là chỗ y chỉ các trụ xứ của chư Phật Như Lai.

Giải thích: Trụ có 4 thứ: Thiên trụ, Phạm trụ, Thành trụ và Phật trụ. Trong các trụ, Như Lai phần nhiều trụ nơi 4 pháp này. Cho nên riêng nói 4 thứ này. Đắc có 2 thứ: một là tự tại đắc , hai là hiện tiền đắc. Khi mới thành Phật, tất cả pháp Như Lai đều được đầy đủ, gọi là tự tại đắc. Sau đó tùy chỗ sử dụng, gọi là hiện tiền đắc. Nếu chứng pháp thân, tất cả pháp Như Lai đều được tự tại. Pháp thân là trụ v.v..các pháp y chỉ. Bởi vì sao? Vì không lìa pháp thân, mới được pháp này.

Luận nói: Ở đây có bài kệ như sau:

Giải thích: Muốn làm rõ pháp thân là trụ.v.v…pháp y chỉ, nên lại nói kệ

Luận nói:

Chư Phật Như Lai thụ năm hỷ,

Giải thích: Bồ-tát cũng có 5 thứ này, có điều là chưa viên mãn. Chỉ có Phật đầy đủ cho nên nói “Chư Phật Như Lai”. Thể của hỷ chỉ có một, nhưng bởi không mất tối thắng làm thể, do 5 nhân mà được, nên nói 5 hỷ.

Chư Phật tự được giải thoát, dùng hóa thân giáo hóa người Nhị thừa khiến được giải thoát. Vì sao Như Lai tự thụ 5 hỷ mà Nhị thừa không được?

Luận nói:

Đều do đã chứng được tự giới.

Nhị thừa không có do không chứng,

Giải thích: Do nhân khác nên quả không giống nhau. Do chứng tự giới là nhân. Năm hỷ là quả. Giới là tính của Như Lai, tức tính tịnh pháp thân. Như Lai chứng do đại công năng, không do không có nhân, không do gì khác mà được, nên nói chứng tự giới. Do chứng tự giớinên được quả 5 hỷ. Nhị thừa không chứng giới này, nên không có 5 hỷ.

Luận nói:

Muốn được thì phải chứng Phật giới.

Giải thích: Nếu người muốn cầu pháp 5 hỷ, ắt phải tu đạo chứng pháp thân. Bởi vì sao? Bởi quả không tách rời nhân mà được. Kệ này cho thấy pháp thân là y chỉ của 5 hỷ. Do chứng pháp thân nên được 5 hỷ, không chứng pháp thân thì không có 5 hỷ.

Luận nói:

Do năng vô lượng và tác sự,

Do pháp mỹ vị muốn được thành.

Giải thích: Kệ này cũng do 5 nhân nên gọi 5 hỷ. Năm đó là gì? Một là nhân tự năng lực vô lượng nên sinh hỷ. Tất cả Phật đồng giác liễu pháp thân. Tất cả Phật đồng được thắng năng. Thắng năng của tất cả Phật tức thắng năng của một Phật. Thắng năng một Phật bằng thắng năng tất cả Phật. Bởi vì sao? Chư Phật đồng một pháp thân làm thể. Thể đã là một nên thắng năng của bao nhiêu Phật tức là thắng năng của một Phật. Thắng năng của chư Phật vô lượng. Thắng năng của một Phật cũng vô lượng. Cho nên thắng năng của một Phật được bằng thắng năng của chư Phật. Pháp thân chư Phật đồng được thắng năng cho nên sinh hỷ. Do thấy chứng tự giới được thắng năng này cho nên sinh hỷ.

Hai là nhân tác sự nên sinh hỷ. Một Phật làm việc lợi ích chúng sinh là chính sự của tất cả Phật, là việc lợi ích tất cả chúng sinh. Bởi vì sao? Tất cả Phật kiến tạo Tịnh độ lợi ích chúng sinh, tức là chính sự của một Phật. Giả như tất cả Phật không làm chính sự, một Phật làm chính sự thì đều thông đến chính sự của chư Phật. Nếu lợi ích một chúng sinh, tức lợi ích tất cả chúng sinh. Nếu mọt chúng sinh thành Phật, chúng sinh này lại có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, như vậy chuyển sinh lợi ích. Nếu chư Phật đã chứng tự giới, thì thành lập chính sự này. Do thấy chứng tự giới làm chính sự nên sinh hỷ.

Ba là nhân pháp mỹ vị nên sinh hỷ. Do Như Lai xưa kia học 3 thừa, 12 bộ kinh, sau khi thành Phật đều quán tất cả pháp, không pháp nào không từ pháp than này sinh, không một pháp nào không hoàn chứng pháp thân này. Cho nên tất cả pháp môn đều đồng một pháp thân làm vị. Do thấy Tu-đa-la, Kì-dạ v.v…các kinh cùng một vị pháp thân nên sinh hỷ.

Bốn là nhân dục đức thành nên sinh hỷ. Sở dục được thành, công đức cũng thành. Sở dục thành là như Phật nghĩ điều gì thì không điều gì không thành tựu. Nghĩa là Tịnh độ và Đại tập hội các việc v.v…Công đức thành là 10 lực, 4 không sợ hãi v.v…pháp không chung của tất cả Như Lai không pháp nào không viên mãn. Do thấy hai việc thành nên sinh hỷ.

Luận nói:

Được hỷ tối thắng mà không mất,

Giải thích: Quá sự hỷ lạc của 3 cõi nên tối thắng. Tất cả hoặc cho đến tập khí đều hết không còn thừa nên không mất.

Luận nói:

Chư Phật hằng thấy bốn vô tận.

Giải thích: Lại nữa Như Lại thấy 4 hỷ trước, cho đến tận cùng sinh tử không diệt hết, dẫu nhập vô dư Niết-bàn cũng không diệt hết, nên sinh hỷ.

Tướng hỷ lạc này như thế nào?

Một là vượt trội hơn cả, quá hơn cả hỷ lạc của 3 cõi và Nhị thừa. Hai là không mất. Tất cả hoặc cho đến tập khí diệt hết không sót. Đây rõ ràng là rất viên mãn và rất thanh tịnh. Đó gọi là thứ nhất y chỉ của tự lợi.

Luận nói: Y chỉ của các thứ thụ dụng thân là để thành thục thiện căn chư Bồ-tát.

Giải thích: Ứng thân chư Phật vô lượng, nên nói “Các thứ”. Lại nữa ứng thân của mỗi vị Phật không thể nói hết phẩm loại, nên nói “Các thứ”. Pháp thân này là y chỉ của ứng thân.

Vì sao là y chỉ? Vì sinh thân này, nếu lìa ứng thân thì thiện căn của đăng địa Bồ-tát không thành thục được, nên phải có ứng thân.

Ứng thân do pháp thân lập nên pháp thân là y chỉ của ứng thân. Đây tức là thứ hai lợi ích y chỉ của Bồ-tát.

Luận nói: Y chỉ của các thứ hóa thân là để thành thục nhiều thiện căn cho Thanh Văn, Độc Giác.

Giải thích: Pháp thân này không chỉ là y chỉ của ứng thân mà cũng là y chỉ của hóa thân. Bởi vì sao? Nếu lìa hóa thân thì hạ nguyện chúng sinh, tức Thanh Văn, Độc Giác, thiện căn của họ không thành thục được. Nói “nhiều” nghĩa là không chỉ lợi ích nguyện lạc cho Nhị thừa, mà trong đây thiện căn của Bồ-tát cũng nhân hóa thân mà được thành thục. Cho nên pháp thân là y chỉ của hóa thân. Đây tức thứ ba lợi ích y chỉ của Nhị thừa.