NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Bồ-tát Thế Thân giải thích
Trần, Thiên Trúc tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 12

Y tuệ học thắng tướng 8

Luận nói: Như vậy là đã nói về y định học sai biệt.

Thế nào là nên biết về y tuệ học sai biệt?

Giải thích: Định của Bồ-tát và định của Nhị thừa đã có sai biệt. Định là y chỉ của tuệ. Tuệ y vào định được thành. Tuệ của Bồ-tát với tuệ của Nhị thừa cũng phải có sai khác.Làm sao biết được? Lấy pháp gì y tuệ học? Vô phân biệt trí y tuệ học là vô phân biệt trí sai biệt. Nên biết tức là y tuệ học sai biệt. Vô phân biệt trí này có 3 thứ: Một là gia hành vô phân biệt trí. Nghĩa là tầm tư v.v… các trí, tức là nhân của đạo. Hai là vô phân biệt trí, tức chính thể của đạo. Ba là vô phân biệt hậu trí, tức trí sau khi xuất quán, nghĩa là đạo quả. Ba trí này đều y vào thể của tuệ học. Tầm tư trí y vào tuệ học là người tu quán y vào đương lai vô phân biệt trí nên tu phương tiện trí. Do cầu quả vị lai vô phân biệt trí nên hiện đời này được thành phương tiện. Vì năng y này nên gọi là y tuệ học. Lại phương tiện trí này có thể dẫn đến đương lai vô phân biệt trí. Vô phân biệt trí khởi ắt y vào phương tiện này được thành. Vì sở y này nên gọi là y tuệ học. Nói chính thể của đạo nghĩa là y nội khởi trí tại quán. Lìa tán động nên gọi là nội. Trí này y vào quán khởi nên gọi là y tuệ học. Lại có tự thể là nội. Nhân đã tạ diệt, quả chưa khởi, đạo thể tự tương tục, tức nói tự thể là nội. Y tự thể khởi nên gọi là y tuệ học. Nói trí sau khi xuất quán là y tuệ học, tức y vô phân biệt trí thành trí này gọi là y tuệ học. Bởi vì sao? Khi nhập quán, sau khi duyên cảnh được trí là duyên đây sinh.

Trong 3 trí, nên thành lập trí nào?

Nên chỉ thành lập vô phân biệt trí. Nếu thành lập trí này tức thành lập bao nhiêu trí khác. Nếu thành lập trí trước thì chỉ hiển thị nghĩa của nhân mà không hiển thị nghĩa của quả. Tự tính v.v… 19 nghĩa sai biệt cũng không thành. Nếu thành lập trí sau thì chỉ hiển thị nghĩa của quả mà nhân không hiển thị. Tự tính v.v…19 nghĩa sai biệt cũng không thành. Bởi vì sao? Trí này lấy trí tầm tư làm nhân. Trí này là quả của tris tầm tư. Tria này là nhân của trí sau. Trí sau là quả của trí này. Bởi trí này thành lập, trí trước trí sau đều được thành lập. Vì vậy chỉ nên thành lập trí này. Trong khi thành lập, trước nên nói tự tính của vô phân biệt trí. Tự tính tức thể tướng.

Luận nói: Là do tự tính của trí vô phân biệt, như y chỉ tướng mạo cảnh giới duyên khởi, lập cứu nạn, nhiếp trì, trợ bạn, quả báo, đẳng lưu, xuất ly, cứu cánh, hành thiện, gia hành, công đức trí vô phân biệt, trí hậu đắc, gia hành không sai biệt, trí vô phân biệt hậu đắc, thí dụ, uy đức, không công dụng, tác sự, nghĩa sâu xa. Vì vậy phải biết y tuệ học sai biệt.

Do y tuệ học sai biệt, phải biết trí vô phân biệt sai biệt.

Giải thích: Nghĩa là do tự tính của trí vô phân biệt, nên phải biết y tuệ học sai biệt. Do y tuệ học sai biệt nên phải biết trí vô phân biệt sai biệt. Nếu nói theo thứ tự thì có 19 nghĩa phải nói. Nay vì đại lược nên lấy một do trí vô phân biệtnêu lên trước. Tiếp theo liệt kê ra 19 nghĩa rồi sau nói chung phải biết y tuệ học sai biệt.. Do y tuệ học sai biệt nên phải biết trí vô phân biệt sai biệt. Lấy 19 nghĩa thành lập trí vô phân biệt. Trí này là thể của tuệ học. Tuệ học sai biệt tức là trí sai biệt này. Phải biết như vậy.

Tự tính của trí vô phân biệt như thế nào?

Luận nói: Tự tính của trí vô phân biệt là phải biết lìa 5 thứ tướng.

Giải thích: Nếu lìa hết 5 tướng tức là trí vô phân biệt. Nếu không lìa đủ 5 tướng không phải trí vô phân biệt.

Luận nói: Năm tướng là: 1.Lìa phi tư duy, 2.Lìa chỗ phi giác quán, 3.Lìa diệt tưởng thụ định vắng lặng, 4. Lìa tự tính của sắc, 5.Trong nghĩa chân thật, lìa phân biệt khác.

Giải thích: Trí này nếu do lìa tư duy mà được trí vô phân biệt thì ngủ mê hay cuồng say đều là lìa tư duy cũng được trí vô phân biệt? Nếu do quá giác quán cũng gọi là trí vô phân biệt? Từ định thứ hai trở lên quá giác quán phải được trí vô phân biệt? Nếu theo 2 nghĩa này thì phàm phu cũng phải được trí vô phân biệt. Ở đây thì có thể lìa tâm và tâm pháp nên nói là trí vô phân biệt. Nghĩa là tưởng thụ diệt định v.v…nếu người ở trong địa vị này được trí vô phân biệt thế là không thành trí. Bởi vì sao? Ở trong địa vị diệt định v.v…không tâm và tâm pháp cho nên nếu nói như tự tính của sắc, tự tính của trí cũng như vậy. Nếu sắc đần độn không biết thì trí này cũng phải đần độn không biết. Nếu nơi nghĩa chân thật, do đã phân biệt hiển hiện thì phân biệt này phải thành trí vô phân biệt. Bởi vì sao? Cái phân biệt này có thể phân biệt nghĩa chân thật. nghĩa là nghĩa này chân thật.

Luận nói: Đó là 5 tướng tách rời khỏi trí. Phải biết đó là trí vô phân biệt.

Giải thích: Nếu trí lìa 5 tướng, duyên nghĩa chân thật khởi. Nếu không phân biệt khác nghĩa chân thật, nghĩa là pháp chân thật này chỉ duyên nghĩa chân thật. Như nhãn thức không lấy phân biệt làm tính. Đó gọi là trí tướng vô phân biệt.

Luận nói: Những điều nói đây là tính của trí vô phân biệt. Cho nên có bài kệ như sau:

Giải thích: Ở trong y tuệ học này, như trước nói 19 nghĩa hiển thị trí tính vô phân biệt. Lại nói kệ thành lập nghĩa này.

Kệ này muốn nói rõ điều gì? Muốn nói rõ sự vượt trội nhất của trí vô phân biệt, đứng đầu trong các hạnh tu.

Luận nói:

Tự tính các Bồ-tát,

Tách rời năm thứ tướng.

Tính trí vô phân biệt,

Chân như vô phân biệt.

Giải thích: Bồ-tát lấy trí vô phân biệt làm thể. Tria vô phân biệt với Bồ-tát không khác. Tự tính trí vô phân biệt tức tự tính của Bồ-tát. Trí vô phân biệt lìa 5 tướng, tức là Bồ-tát lìa 5 tướng. Do ở chân không có phân biệt nên lìa 5 tướng được tên là vô phân biệt. Chúng sinh là giả danh. Pháp là thật hữu. Nếu lìa trí này không có pháp nào khác được gọi là Bồ-tát. Tận vô sinh trí là Bồ-đề. Chúng sinh này lấy Bồ-đề làm thể. Bồ-đề tức là trí vô phân biệt. Trí vô phân biệt tức là Bồ-tát. Muốn hiển thị trí vô phân biệt tức là Bồ-tát cho nên nói tự tính Bồ-tát lìa 5 tướng, không nói trí vô phân biệt hậu đắc. Như thế là đã nói tự tính của Bồ-tát rồi. Do y chỉ này tính được sinh. Nay sẽ nói y chỉ này. Trước nói trí này gọi là vô phân biệt. Trí này là y chỉ tâm sinh hay không y chỉ tâm sinh? Nếu y chỉ tâm sinh, có thể tư duy nên gọi là tâm. Tư duy tức là phân biệt. Trí này nếu y phân biệt sinh thì không gọi là vô phân biệt. Nếu không y chỉ tâm sinh thì đồng với sắc v.v…các pháp, lại không nên gọi là trí. Muốn nói rõ 2 lỗi này nên nói kệ trở lại.

Luận nói:

Y chỉ các Bồ-tát,

Phi tâm, phi phi tâm.

Là trí vô phân biệt.

Chẳng thuộc loại tư lường.

Giải thích: Trí này không lấy tâm làm y chỉ, bởi trí này không phải nghĩa tư duy, cũng không lấy phi tâm làm y chỉ, bởi lấy tâm tật lợi loại tương tục làm y chỉ. Tật lợi loại là chủng tính của tâm. Đã lấy đây làm y chỉ nên không thể nói phi tâm là y chỉ. Để rõ nhân duyên sinh khởi trí này nên nói kệ trở lại.

Luận nói:

Nhân duyên các Bồ-tát,

Có nói văn huân tập,

Là trí vô phân biệt.

Như lý chính tư duy.

Giải thích: Trong 4 duyên trừ 3 duyên, chỉ lấy nhân duyên. Nhân duyên có tướng như thế nào? Nếu nhân và quả đồng loại họi là nhân duyên. Ví như thiện tâm trước làm nhân cho thiện tâm sau. Theo người khác nghe được pháp âm khởi nhân văn huân tập. Huân tập này sau sinh chính tư duy. Chính tư duy này là do từ nghe chính thuyết của người khác mà khởi nên kệ nói “Có nói “. Nhân duyên của trí này lấy văn huân tập và chính tư duy làm thể. Do nhân duyên này, nhân của trí vô phân biệt chưa sinh thì khiến cho sinh, đã sinh thì thì khiến trụ vững. Nếu không có huân tập này, trí vô phân biệt không sinh được, nên nói đây là nhân duyên. Trí này do văn huân tập khởi.

Duyên pháp gì làm cảnh?

Luận nói:

Cảnh giới các Bồ-tát,

Pháp tính không thể nói.

Là trí vô phân biệt.

Hai vô ngã chân như.

Giải thích: Kệ trước nói nhân duyên của Bồ-tát. Kệ này nói duyên duyên của Bồ-tát. Cảnh giới tức là duyên duyên.

Duyên duyên có tướng như thế nào?

Như pháp duyên đây sinh, giống như người gầy yếu nhân cây gậy mà đứng dậy được. Nếu quán pháp này, pháp kia được sinh thì đây là duyên của kia. Như 5 trần sinh 5 thức. Cảnh này có 2 nghĩa: một là y chỉ duyên duyên, hai là tỷ đạc duyên duyên. Như người y chỉ vào tướng vô thường của tâm, so sánh lường đạc các pháp như sắc v.v… đều là vô thường. Không thể nói pháp tính là duyên duyên của Bồ-tát. Tất cả pháp do tính phân biệt không thể nói. Bởi vì sao? Do các pháp không có tự thể, do tâm phân biệt hiển hiện nên tất cả pháp không thể nói là có, cũng không thể nói là không. Nó hiển hiện như thế chứ không phải nó có như thế, cho nên không thể nói là có. Nó không có như thế nhưng không phải là không, vì là hiển hiện nên không thể nói là không. Nếu biết pháp sở duyên không có như thế, cho nên là phân biệt cái tướng vô thể. Phân biệt cái tướng vô thể này là có hay là không? Nếu không có cái thể vô thể, như vậy tức là có. Nếu có cái vô thể, thì không thể nói là không. Do nghĩa này nên pháp tính, chân tục đều không thể nói có không. Pháp tính lấy chân như 2 vô ngã làm thể. Do phân biệt tính nên tính y tha không nhân không pháp gọi là 2 vô ngã. Để lìa bỏ đoạn trừ kiến chấp vô ngã không phải không này, nên nói là chân như. Chân như này là cảnh của Bồ-tát. Bởi vì sao? Bởi trí vô phân biệt này nếu khởi ắt phải duyên cảnh này khởi cho nên trí này duyên không thể nói là chân như khởi.

Tướng mạo của thủ cảnh như thế nào?

Luận nói:

Tướng mạo các Bồ-tát,

Ở trong cảnh chân như,

Là trí vô phân biệt.

Không tướng, không sai biệt.

Giải thích: Trí này trong cảnh chân như, bình đẳng bình đẳng sinh, không khác không tướng là tướng, tức là tướng của nó. Ví như nhãn thức thủ sắc, như hiển hiện các tướng màu xanh v.v…không khác các sắc màu xanh v.v…Trí này với cảnh chân như cũng vậy. Lại không đồng nhãn thức với sắc. Sắc là vô thể có sắc. Nhãn thức là hữu thể vô sắc. Tria này tương xứng với cảnh chân như, không thể nói là khác.

Nếu tất cả pháp không thể nói là tính, thì pháp nào là sở phân biệt?

Luận nói:

Tương ưng nghĩa tự tính,

Sở phân biệt, chẳng khác.

Giải thích: Tất cả mọi ngôn thuyết đều có 3 thứ tương ưng: nghĩa là số tập, tương tục và thứ tự. Ba cái này không lìa nhau nên gọi là tương ưng. Lại 3 pháp hòa hợp thành nghĩa nên gọi là tương ưng. Tương ưng này là nghĩa của tự tính. Nghĩa này tức là sở phân biệt. Nếu lìa nghĩa này không có nghĩa nào khác. Vì vậy tất cả pháp không thể dùng ngôn thuyết.

Làm sao biết lìa tính này không có nghĩa nào khác?

Để thành lập nghĩa này nên Luận nói:

Chữ chữ tiếp nối nhau,

Làm thành nghĩa tương ưng.

Giải thích: Chữ chữ kết nối nhau tức tương ưng thứ nhất. Do tương ưng này tức đủ 2 tương ưng khác. Ba tương ưng này nên được đủ nghĩa. Do tương ưng nên nói nghĩa này được thành. Ví như nhãn căn v.v…trong ngôn từ tương tục, chúng sinh chấp cho là nghĩa cho nên nói là tương ưng. Nghĩa này là sở phân biệt. Vì vậy sở phân biệt chỉ có ngôn thuyết. Nghĩa cũng chỉ có ngôn thuyết.

Nếu tất cả pháp không thể dùng ngôn thuyết thì nghĩa này làm sao thành?

Luận nói:

Trí tuệ ly ngôn thuyết,

Không khởi nơi sở tri.

Giải thích: Nếu người chưa hiểu rõ mới nói. Ở cảnh sở ngôn, tức cảnh được nói ra, trí tuệ không sinh, nếu ông nói trong ngôn thuyết cái được nói ra sinh trí tuệ, nghĩa này không phải vậy. Bởi vì sao?

Luận nói:

Không giống như ngôn thuyết,

Tất cả không thể nói.

Giải thích: Ngôn thuyết này không giống với cái được nói vì tướng mạo khác nhau. Ngôn tướng khác, sở ngôn tướng khác. Cho nên tất cả ngôn từ và những gì được nói ra đều là không thể nói.

Pháp gì là pháp được trí vô phân biệt nhiếp trì?

Luận nói:

Nhiếp trì của Bồ-tát,

Là trí vô phân biệt.

Hành trì hậu đắc này,

Làm sinh trưởng cứu cánh.

Giải thích: Là hậu sở đắc trí của trí vô phân biệt có thể được 2 hạnh phúc tuệ của Bồ-tát. Hai hạnh y chỉ trí này được sinh trưởng nối nhau cho đến cứu cánh. Cho nên vô phân biệt hậu trí có thể sinh trưởng chính hạnh của Bồ-tát. Vô phân biệt hậu trí là năng nhiếp trì. Bồ-tát là sở nhiếp trì.

Pháp gì là trợ bạn của trí vô phân biệt?

Luận nói:

Trợ bạn của Bồ-tát,

Là nói 2 thứ đạo.

Là trí vô phân biệt.

Của 5 Ba-la-mật.

Giải thích: Bạn loại lấy tương trợ làm tướng. Tương trợ cùng làm thành một việc nên gọi là tương trợ. Một việc là quả Bồ-đề. Hai thứ đạo là trợ bạn của Bồ-tát. Đó là tư lương đạo và y chỉ đạo. Thí v.v…4 Ba-la-mật là tư lương đạo. Định Ba-la-mật là y chỉ đạo. Bởi vì sao? Từ 4 Ba-la-mật sinh ra thiện pháp. Thiện pháp này sinh Bát-nhã Ba-la-mật. Bát-nhã Ba-la-mật này y chỉ định sinh. Bát-nhã Ba-la-mật tức là trí vô phân biệt. Chưa được vô thượng Bồ-đề, trong khoảng giữa thường hay sinh khởi trí vô phân biệt cho đến cực quả. Lìa thì có 5 Ba-la-mật, hợp thì có 2 đạo, có thể trợ giúp Ba-la-mật thứ 6, cộng thành một cực quả, nên gọi là trợ bạn.

Nếu trí vô phân biệt y 2 đạo thành được quả báo gì?

Luận nói:

Quả báo các Bồ-tát,

Trong Phật hai viên mãn.

Là trí vô phân biệt,

Do gia hành đạt tới.

Giải thích: Có chỉ quả mà không báo và có quả có báo. Nếu từ nhân sinh, dùng chung gọi là quả. Nếu từ nhân sinh, dùng riêng gọi là quả báo. Quả có nghĩa là sinh. Báo có nghĩa là chín muồi. Ứng hóa 2 thân gọi là hợp 2 viên mãn của Phật. Quả báo của trí vô phân biệt thành thục trong sự hợp lại 2 viên mãn của Phật. Nếu quả sinh trong khi trí vô phân biệt gia hành thì quả này thuộc hóa thân. Nếu quả sinh trong khi trí vô phân biệt đạt được, thì quả thuộc ứng thân.

Làm sao biết?

Luận nói:

Quả đẳng lưu Bồ-tát,

Sinh trong các đời sau.

Là trí vô phân biệt,

Do dần tăng lên thắng.

Giải thích: Quả có đẳng nhân, có thắng nhân. Quả này do đồng loại làm nhân, nên gọi là quả đẳng lưu. Quả đẳng lưu của trí vô phân biệt, trong 2 viên mãn , chuyển sơ địa thành nhị địa, cho đến chuyển thập địa thành Phật. Ở trong các địa vị sau chuyển tăng dần thành thắng. Như sơ địa là nhân đồng loại của nhị địa. nhị địa là quả đẳng lưu của sơ địa. các địa khác đều như vậy. Đối lợi tha là tăng, đối tự lợi là thắng. Lại hữu học vị là tăng, vô học vị là thắng.

Trí vô phân biệt xuất ly được thành tựu, nghĩa ấy như thế nào?

Luận nói:

Chư Bồ-tát xuất ly,

Vì được thành tương ưng.

Là trí vô phân biệt,

Nơi 10 địa nên biết.

Giải thích: Diệt hoặc nghiệp là xuất. Diệt quả báo là ly. Tức là 2 thứ Niết-bàn hữu dư và vô dư.

Xuất là nghĩa của ly. Ly là nghĩa của xuất. Sao nói lặp trở lại? Do ly có 3 nghĩa nên lập ra 2 tên. Một vĩnh ly, hai thượng ly, ba quyết ly. Trí vô phân biệt, trong xuất ly, tương ưng với 2 nghĩa: một cùng được tương ưng, hai cùng thành tựu tương ưng. Nên biết rằng 2 tương ưng này không ra ngoài 10 địa. Sơ địa mới được trí vô phân biệt, gọi là được tương ưng. Từ sau sơ địa đến 10 địa, trong vô số kiếp tu vô phân biệt trí cho đến cứu cánh, gọi là thành tựu tương ưng. Trí vô phan biệt này nhờ vào 2 đạo trong 3 a-tăng-kìkiếp tu học.

Lấy pháp gì làm cứu cánh?

Luận nói:

Chư Bồ-tát cứu cánh,

Do được tịnh 3 thân.

Là trí vô phân biệt,

Được tự tại tối thượng.

Giải thích: Cứu cánh có 2 thứ: một là thanh tịnh cứu cánh, hai là tự tại cứu cánh. Thanh tịnh cứu cánh nghĩa là sơ địa mới được thanh tịnh. Sau trong mỗi địa chuyển chuyển thanh tịnh đến 10 địa là cứu cánh thanh tịnh. Ví như luyện kim. Do thanh tịnh này, Bồ-tát được 3 thân sau tiếp tục chuyển thanh tịnh. Tự tại cứu cánh là không chỉ được 3 thứ thân thanh tịnh cứu cánh, mà còn có cứu cánh khác. Nghĩa là 10 thứ tự tại, như luận sẽ nói sau. Mười tự tại này sau chuyển dần thành thắng. Hai pháp này cuối cùng chuyển thắng đến cùng cực. Đó là cái cứu cánh trí vô phân biệt đạt được, gọi là tăng thượng quả.

Công đức của trí vô phân biệt như thế nào?

Vô phân biệt có 3 thứ: một là gia hành vô phân biệt, hai là căn bản vô phân biệt, ba là hậu đắc vô phân biệt.

Vì sao gia hành được gọi là vô phân biệt?

Trước từ người khác nghe nói trí vô phân biệt là chân Bồ-tát. Bồ-tát tự chưa chứng chân đạo lý, chỉ khởi tâm tín lạc đối với trí này. Di y chỉ vào tâm tín lạc này sau mới được nhập độ lý của trí vô phân biệt này. Trí vô phân biệt từ tín lạc này sinh khởi nên nói tín lạc này là gia hành vô phân biệt. Công đức của gia hành vô phân biệt này gọi là vô nhiễm.

Ví dụ như thế nào?

Luận nói:

Như hư không chẳng nhiễm,

Trí vô phân biệt này,

Các thứ ác nghiệp nặng,

Nhờ tín lạc được chuyển.

Giải thích: Trí vô phân biệt này thanh tịnh không nhiễm. Ví như hư không không bị nhiễm 4 trần. Pháp gì không thể nhiễm? Là các thứ ác nghiệp nặng do thân khẩu ý sinh có kiến chấp khác tu đạo. Có 10 ác khác nhau nên gọi là các thứ. Phiền não cực trọng làm duyên khởi hằng tạo tác. Nếu tạo tác mà không hối tâm, không đối trị, có đồng bạn nên gọi là nặng. Nhân ác nghiệp này không thể nhiễm ô. Nếu người từ người khác nghe chính thuyết, sinh tín lạc đối với vô phân biệt trí, do tín lạc này phá 4 ác nghiệp đạo. Bởi vì sao? Ác nghiệp là dựa vào phi lý sinh. Tín lạc là từ lý sinh. Dựa vào phi lý khởi nên hư. Từ lý này sinh nên thật. Hư, không thể đối lại với thật, nên nói là phá. Kệ này nói rõ gia hành vô phân biệt trí có thể đối trị 4 ác nghiệp đạo. Do không xen tạp với ác nghiệp, đây tức là công đức của gia hành.

Căn bản của trí vô phân biệt có công đức và thanh tịnh như thế nào?

Luận nói:

Như hư không thanh tịnh,

Trí vô phân biệt này,

Giải thoát tất cả chướng,

Do được và thành tựu.

Giải thích: Như hư không, không có khói mây 4 chướng, người đời nói là thanh tịnh. Thanh tịnh của trí vô phân biệt cũng vậy. Lìa pháp gì thì được thanh tịnh?

Luận nói:

Giải thoát tất cả chướng,

Giải thích: Tất cả chướng là 3 chướng: bì, nhục, tâm, hoặc 4 đức chướng: Nhất-xiển-đề, ngoại đạo, Thanh Văn,Độc Giác. Do giải thoát hết các chướng này nên được thanh tịnh. Giải thoát này do đâu thành?

Luận nói:

Do được và thành tựu.

Giải thích: Do tương ưng với chí đức của các địa, do thành tựu nhân trong địa thứ 10, do thành tựu quả trong Phật địa nên được giải thoát tát cả chướng. Đây tức công đức căn bản. Công đức của vô phân biệt hậu đắc trí và không nhiễm là thế nào?

Luận nói:

Như hư không chẳng nhiễm,

Là trí vô phân biệt,

Nếu xuất hiện ra đời,

Pháp thế gian chẳng nhiễm.

Giải thích: Hư không nước không thể làm ướt, lửa không thể đốt cháy, gió không thể lay động, trí vô phân biệt không nhiễm cũng vậy. Không biến khác nên nói không nhiễm. Bởi vì sao? Bồ-tát y vào trí này quán việc lợi ích tất cả chúng sinh, do sức của trí này Bồ-tát vận tâm vào trong ba cõi, hiện các thứ bản sinh, tuy sinh ra trong thế gian không bị 8 pháp của thế gian làm biến khác. Tám pháp là: được, không được, tiếng tốt, tiếng xấu, khen, chê, vui, khổ. Nhân 8 pháp này nên khởi dục, sân. Dục, sân không thể biến khác. Dục, sân căn bản vô minh không thể khiến động. Bởi vì sao? Vì hư vọng không thể đối lại với chân thật. Trí này từ trí vô phân biệt sinh nên gọi là vô phân biệt. Kệ này để nói rõ trí hậu đắc có thể miễn báo chướng. Không trụ ở 2 nơi sinh tử Niết-bàn, chỉ vì lợi tha. Đây tức là công đức của trí hậu đắc.

Sự khác nhau của 3 thứ vô phân biệt là như thế nào? Để làm rõ các sai biệt này không lẫn lộn nên lập thí dụ .

Luận nói:

Như người câm muốn biết,

Như người câm biết được,

Như người không câm biết,

Ba trí ví như vậy.

Giải thích: Ví như người câm muốn biết điều gì mà không thể nói điều mình muốn biết. Gia hành vô phân biệt cũng vậy.Trong phương tiện đạo tìm hiểu suy tư chân như mà không thể nói được. Ví như người câm chính lúc đã biết được mà không thể nói điều mình biết. Căn bản vô phân biệt cũng vậy. Chính trong lúc quán chân như, chứng thấy được cũng không thể nói điều mình chứng thấy. Ví như người không câm biết có thể nói điều mình biết. Trí hậu đắc cũng vậy. Như chỗ thấy, có thể lập chính giáo giảng giải cho người khác. Ban đầu chưa được đến được, lìa phân biệt không nói nhân duyên, nên không thể nói. Tiếp đến chính khi được, lìa phân biệt không nói nhân duyên nên không thể nói. Sau khi đã được, do xuất quán nên có thể nói điều đã thấy mà không điên đảo. Kệ này nói rõ 3 khác nhau của vô ngôn thuyết và hữu ngôn thuyết.

Luận nói:

Như người ngu muốn biết,

Như người ngu có biết,

Như người không ngu biết,

Ba trí ví như vậy.

Giải thích: Chưa biết vật loại gọi là ngu. Thí dụ về người ngu,tuần tự có 3 nghĩa như trước giải thích. Kệ này làm rõ sự khác nhau của vô phân biệt hữu phân biệt. Vô ngôn thuyết lấy vô phân biệt làm nhân, vì vô phân biệt nên vô ngôn thuyết. Hữu ngôn thuyết lấy hữu phân biệt làm nhân, vì hữu phân biệt nên hữu ngôn thuyết. Thí dụ người ngu hiển thị vô phân biệt.

Cảnh của 3 trí này hư thật như thế nào?

Luận nói:

Như 5 thức muốn biết,

Như 5 thức được biết,

Như ý thức được biết,

Ba trí ví như vậy.

Giải thích: Năm là 5 thức nhãn v.v…vô phân biệt. Ví như người ở trong 5 thức tìm hiểu 5 trần, hoặc duyên thật hoặc duyên hư, ý thức cùng 5 thức cùng khởi, gia hành vô phân biệt trí cũng vậy, hoặc chứng một phần là thật, hoặc không chứng là hư. Ví như người chính lúc trong 5 thức được cảnh chân thật vô phân biệt vô ngôn thuyết, căn bản vô phân biệt trí cũng vậy được cảnh chân thật vô phân biệt vô ngôn thuyết. Ví như người ở trong ý thức chỉ duyên với trần trước đã thụ, gọi là duyên hư cảnh hữu phân biệt hữu ngôn thuyết. Kệ này làm rõ 3 thứ cảnh sở duyên có thật có hư nên có sai biệt.

Luận nói:

Như chưa biết muốn hiểu,

Như khi đọc được biết,

Như biết được nghĩa lý,

Tuần tự ví 3 trí.

Giải thích: Ví như người chưa biết chữ chỉ cầu biết chữ, gia hành vô phân biệt trí cũng vậy, chưa biết chân như, chỉ học thấy phương tiện của chân như. Đây là hiển thị sự chưa hiểu. Ví như người đã biết chữ khi đọc chỉ đọc được văn chưa hiểu được nghĩa, căn bản vô phân biệt trí cũng vậy, dụng công tự lợi đã thành chưa có dụng công lợi tha. Đây là hiển thị sự đã hiểu. Ví như người đã biết chữ, đã hiểu nghĩa, trong lúc suy nghĩ người này đủ 2 khả năng: khả năng biết chữ và khả năng hiểu nghĩa, vì công dụng cứu cánh, vô phân biệt hậu trí cũng vậy, đã thông đạt chân như lại đã xuất quán, những gì trước thấy, hiểu rõ và nói không điên đảo. Đây là hiển thị sự hiểu đã cứu cánh. Kệ này muốn nói công học có khác nên có sai biệt. Trước đã nói rõ tuần tự 3 thứ tức là chưa hiểu, đã hiểu, hiểu cứu cánh. Trước một không có cảnh. Sau hai có cảnh là pháp và nghĩa.

Sau hai có cảnh, tướng khác nhau thế nào?

Luận nói:

Như người lúc nhắm mắt,

Vô phân biệt cũng vậy,

Như người lúc mở mắt,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Giải thích: Kệ này chỉ làm rõ căn bản trí và hậu đắc trí. Do y chỉ không đồng nhau nên có sai biệt. Căn bản trí y chỉ phi tâm phi phi tâm. Hậu đắc trí y chỉ tâm nên 2 trí có khác đối với cảnh. Căn bản trí không thủ cảnh, vì cảnh và trí không khác nhau. Hậu đắc trí thủ cảnh, vì cảnh và trí khác nhau. Căn bản trí không duyên cảnh, như nhắm mắt. Hậu đắc trí duyên cảnh, như mở mắt. Kệ này nói rõ thủ cảnh và không thủ cảnh khác nhau nên có sai biệt.

Oai đức của 2 trí này khác nhau thế nào?

Luận nói:

Hư không vô phân biệt,

Không nhiễm ngại khác bên,

Như hư không sắc hiện,

Trí hậu đắc cũng vậy.

Giải thích: Ví như hư không có 4 đức: một không nhiễm, hai không ngại, ba không phân biệt, bốn không biên giới. Căn bản trí cũng vậy. Tám pháp, 7 lưu chuyển v.v…của tất cả thế gian không thể nhiễm, là do nó đối trị nên nói không nhiễm đối với tất cả cảnh. Như lý như lượng, không chướng ngại, không bám dính, nên nói là không ngại. Đối với tất cả pháp , một vị chân như không, biến khắp, nên nói là không phân biệt. Lìa tất cả các bên, trung đạo không thể lường, nên nói là không biên giới. Ví như sắc hiện trong hư không, hư không không thể phân biệt, sắc có thể phân biệt. Hậu đắc trí cũng vậy, nhân không thể phân biệt, trí này có thể phân biệt. Nghĩa là đây là năng phân biệt, cũng là sở phân biệt.

Nếu Phật quả là do vô phân biệt trí hiển hiện, lìa phân biệt chúng sinh thì làm sao có thể làm việc lợi ích chúng sinh? Như lý không điên đảo. Để hiển thị việc làm vô công dụng nên nói lại bài kệ.

Luận nói:

Như Ma-ni, trống trời,

Vô tư thành tự sự.

Không phân biệt như thế,

Các thứ Phật sự thành.

Giải thích: Ví như ngọc báu Như ý, không phân biệt, có thể đáp nguyện vọng của chúng sinh. Ví như trống trời không có người đánh, có thể tùy ý muốn chúng sinh phát ra 4 thứ âm thanh: oán đến, oán đi, thụ dục, sinh chán. Chư Phật cũng vậy, đã lìa phân biệt mà có thể khởi các việc lợi ích chúng sinh. Có 2 thứ việc lợi ích: Một là hóa than lợi ích, như ngọc báu Như ý. Hai là thuyết pháp lợi ích, như trống trời.

Nghĩa rất sâu của trí vô phân biệt này như thế nào? Đứng về cảnh lập nghĩa rất sâu, trí này duyên sở phân biệt của tính y tha mà khởin haybduyên các cảnh khác khởi? Nếu vậy có hại gì? Nếu lấy sở phân biệt của tính y th làm cảnh thì nghĩa vô phân biệt của trí này bất thành. Nếu duyên các cảnh khác khởi, thì lìa cảnh này không có các cảnh khác, nên nói duyên các cảnh khác cũng không có nghĩa.

Lại nữa nếu duyên các cảnh khởi thì nghĩa của cảnh trí vô sai biệt bất thành.

Luận nói:

Chẳng phải đây mà đây,

Chẳng phải trí mà trí.

Với cảnh không sai biệt,

Trí là vô phân biệt.

Giải thích: Trí này không duyên tính y tha làm cảnh. Bởi vì sao? Vì trí này không lấy phân biệt làm cảnh, nên nói chẳng phải đây. Cũng không duyên các cảnh khác. Bởi vì sao? Trí này chỉ duyên pháp như của tính y tha làm cảnh nên pháp và pháp như không thể nói là một hay khác, vì là cảnh phi thanh tịnh thanh tịnh, là thông tướng bất thông tướng. Chẳng phải không duyên thức nên nói chẳng phải chẳng phải đây. Lại nữa trí này là trí hay là chẳng phải trí? Nếu vậy có hại gì? Nếu trí là tính làm sao không phân biệt, bởi trí là tính phân biệt? Nếu chẳng phải trí là tính làm sao gọi là trí? Vì vô phân biệt chẳng phải là tính của trí làm sao nói là trí vô phân biệt?

Luận nói:

Chẳng phải trí mà trí

Giải thích: Nguyên văn câu kệ là “Phi trí phi phi trí”. Thế nào là phi trí? Vì trong gia hành và hậu đắc trí không sinh, nên nói phi trí. Nếu vậy làm sao không thành phi trí, hoặc nghĩa này cũng bất thành. Bởi vì sao? Phi trí hoặc là từ không chính tư duy sinh, có thể khởi dục đẳng lưu. Đây là từ vô phân biệt gia hành trí sinh, có thể sinh vô phân biệt hậu đắc trí, cho nên nói phi phi trí. Lại nữa do trí này không sinh trong phân biệt, nên nói là phi trí. Do trí này không sinh ở các nơi khác, chỉ sinh trong phân biệt pháp như, nên nói là phi phi trí. Kệ này câu trước là giải thích câu sau.

Luận nói:

Với cảnh không sai biệt,

Trí là vô phân biệt.

Giải thích: Nếu trí do 2 tướng năng thủ sở thủ khởi có phân biệt, nhưngia hành trí không gọi là vô phân biệt. Nếu trí không khác với sở thủ, bình đẳng bình đẳng khởi thì gọi là vô phân biệt trí. Trong các kinh, Phật nói tất cả các pháp tự tính là vô phân biệt. Để hiển thị đạo lý này nên lại nói kệ.

Luận nói:

Phật nói tất cả pháp,

Tự tính không phân biệt.

Vì sở phân biệt: không,

Vô phân biệt cũng không.

Giải thích: Tất cả pháp tự tính không phân biệt. Làm sao biết được nghĩa này? Để chứng minh nghĩa này nên lập ra câu thứ 3. Do có thể phân biệt loại thật, là không có nghĩa, cho đến vô phân biệt pháp chân thật là có, nên nói tất cả pháp tự tính vô phân biệt.

Nếu do sở phân biệt là không có nên tất cả pháptự tính vô phân biệt, vậy vì sao chúng sinh không tự tính giải thoát?

Luận nói:

Vô phân biệt cũng không.

Giải thích: Do các pháp tự tính vô phân biệt, trí như cảnh vô phân biệt. Nếu vậy vì sao không tự tính giải thoát? Thật vậy các pháp tự tính vô phân biệt, trí như cảnh cũng tự tính vô phân biệt, mà không được tự tính giải thoát. Tu được trí có thể chứng pháp này. Do phi trí chướng nên trí không khởi được. Phải tu trí diệt chướng mới được giải thoát. Nghĩa của vô tự tính giải thoát, trong tự tính vô phân biệt nếu khởi phân biệt thì đây là phi trí, tức là vô minh.

Trong tự tính vô phân biệt pháp có trí vô phân biệt. Nay sẽ nói chỗ sai biệt đó.

Luận nói: Trong đây có 3 thứ vô phân biệt: 1.Gia hành vô phân biệt, 2.Trí vô phân biệt, 3.Hậu trí vô phân biệt.

Giải thích: Trong tự tính vô phân biệt nếu nói chung có 3 thứ. Ba thứ này hiển thị đạo phương tiện, đạo chính sự và đạo cứu cánh. Tức là vào trong phương tiện, ở trong phương tiện và ra khỏi phương tiện. Nếu đứng về mặt nhân duyên, con người, sự việc nói riêng biệt có 11 thứ.

Luận nói: Gia hành vô phân biệt có 3 thứ là do nhân duyên, dẫn thông và sức tập nhiều lần mà sinh khởi sai biệt.

Giải thích: Ba cái này đứng về nhân có sai biệt. Gia hành vô phân biệt do 3 lực tạo thành, hoặc do nhân duyên lực, hoặc do dẫn thông lực, hoặc do sổ tập lực. Do 3 sức này tạo thành nên có sinh khởi sai biệt. Nếu do sức nhân duyên thành tức là do sức của tính. Nếu do sức dẫn thông thành tức do sức của đời trước. Nếu do sức tu tập nhiều lần thành, tức do làm công lực trong hiện tại.

Luận nói: Trí vô phân biệt cũng có 3 thứ là biết đủ, không điên đảo và không hý luận. Đó là sai biệt của vô phân biệt.

Giải thích: Ba cái này đứng về mặt con người có sai biệt là phàm phu, Nhị thừa và Bồ-tát. Nên biết tri túc vô phân biệt là do được cứu cánh văn tư 2 tuệ, do tri túc nên không phân biệt, vì vậy nói là tri túc vô phân biệt. Nếu phàm phu Bồ-tát đến cứu cánh văn tư tuệ, những gì phải chứng đắc đều đã chứng đắc, sinh tâm tri túc nên không phân biệt. Lại nữa chúng sinh ở thế gian có tri túc vô phân biệt. Do tri túc này, chúng sinh kia sinh lên cõi Hữu đỉnh, trong khi đó chấp cho là hoàn toàn xuất ly, qua cõi này không còn nơi đâu đi đến nữa, khởi tâm tri túc không muốn tiến tu nên không phân biệt. Không điên đảo vô phân biệt là Nhị thừa. Do họ đã thông đạt chân cảnh vô thường v.v… 4 tướng không điên đảo. Do vô thường v.v…4 tướng không điên đảo, hằng không phân biệt trở lại nên vô phân biệt. Không hý luận vô phân biệt là chư Bồ-tát. Chư Bồ-tát không phân biệt tất cả pháp, cho đến không phân biệt vô thượng Bồ-đề. Bởi vì sao? Vì các pháp là vô ngôn thuyết. Trong vô ngôn thuyết cưỡng lập ngôn thuyết, nên gọi là hý luận. Có 4 thứ ngôn thuyết gọi là Tứ báng. Nếu nói có là tăng ích báng. Nếu nói không là tổn giảm báng. Nếu nói cũng có cũng không là tương vi báng. Nếu nói chẳng phải có chẳng phải không là hý luận báng. Bồ-tát được vô phân biệt trí, không thể dùng ngôn thuyết hiển thị nên nói là không hý luận vô phân biệt. Bởi vì sao? Vì vượt quá trí thế gian nên chẳng phải trí thế gian có thể biết được.

Luận nói: Trí vô phân biệt hậu đắc có 5 thứ sai biệt là thông đạt, ức trì, thành lập, tương tạp và như ý, hiển thị sự sai biệt.

Giải thích: Năm thứ này là sai biệt về sự. Trí hậu đắc lấy sự hiển thị làm tính. Trong đó hiển thị là lấy sự hiểu ngộ làm nghĩa. Do trí này sau khi thông đạt hiển thị sự việc như vậy. Rằng trong khi tu quán ta thấy như vậy, sự việc như vậy, nên gọi là thông đạt hiển thị. Do trí này sau khi xuất quán nhớ lại duy trì không mất chỗ đã thông đạt, có thể lập chính giáo dạy khiến người khác tu hành, nên gọi là thành lập hiển thị. Do trí này Bôt-tát như trước duyên tất cả pháp làm cảnh. Nghĩa là như trước tạp cảnh giới, trí quán sát cảnh này, do quán sát tức được chuyển y, nên gọi là tương tạp hiển thị. Do trí này Bồtát đã được chuyển y. Như ý muốn của Bồ-tát đều được thành tựu. Nghĩa là như đất v.v… các đại chuyền thành ra vàng v.v…nên gọi là như ý hiển thị.

Luận nói: Để thành lập trí vô phân biệt. Lại nói kệ khác như sau:

Giải thích: Đã nói nghĩa sai biệt của trí vô phân biệt, lại muốn thành lập nghĩa vô phân biệt nên lại nói kệ.

Luận nói:

Ngạ quỷ, súc sinh, người,

Chư thiên, tùy thích ứng.

Một cảnh do tâm khác,

Mà thành cảnh giới kia.

Giải thích: Ví như một dòng sông có 4 loài chúng sinh phân biệt mà thành 4 cảnh: ngạ quỷ coi đó là máu mủ, các loài sinh vật như cá v.v…coi đó là nơi ở, người gọi đó là nước, trời gọi đó là đất, tùy chỗ phân biệt mà thanhg một cảnh khác nhau. Nếu cảnh là thật thì phải trở ngại nhau, không thể một nơi, một lúc mà có 4 cảnh. Nên biết đó là ý thức phân biệt tạo ra. Nếu ông chấp nhận 4 thức đều duyên, mà thức không lìa cảnh thì ông cũng phải chấp nhận cùng một lúc ở một nơi đều có 4 cảnh. Nếu chấp nhận đều có 4 cảnh thì phải tin tất cả phân biệt đều chẳng phải thật có. Nếu không thật cảnh thì thức phải tự sinh chứ không duyên cảnh khởi. Nếu vậy trong duy thức 4 trường hợp khó hoàn thành, không thành 4 nghĩa. Cái khó này như luận kia giải thích.

Có thức không cảnh thì có lỗi gì?

Để nó nghĩa này nên lại nói kệ.

Luận nói:

Trong quá khứ, vị lai,

Như hai ảnh chiêm bao.

Trí duyên cảnh phi hữu,

Đây không chuyển làm cảnh.

Giải thích: Những việc quá khứ vị lai chỉ có tên gọi không có thể. Nếu tâm duyên 2 đời này thì chỉ có thức không có cảnh. Duyên trong chiêm bao cũng vậy. Ảnh có 2 thứ: một là ảnh trong gương, hai là ảnh trong định. Định tâm khởi các tướng xanh, vàng v.v…, lìa tâm không có pháp nào khác, nên gọi là ảnh. Nếu tâm duyên 2 ảnh này, cũng chỉ có thức không có cảnh.

Nếu không có 4 cảnh này thức duyên vào đâu?

Luận nói:

Đây không chuyển làm cảnh.

Giải thích: Ngoại trần xưa nay vốn không mà do thức biến hiện. Thức liền duyên đây làm cảnh nên nói không chuyển làm cảnh. Nghĩa này đã được lập, không nên nghi ngờ nữa. Bởi vì sao? Nếu bác bỏ không có lý này thì không có nghĩa thành Phật. Để rõ nghĩa này nên lại nói kệ.

Luận nói:

Nếu trần thành ra cảnh,

Không trí vô phân biệt.

Giải thích: Nếu trần là hữu thể, thì nghĩa của cảnh thành, tức không có trí vô phân biệt. Bởi vì sao? Cảnh sở phân biệt nếu là thật có, thì năng phân biệt không thành điên đảo, mà vô phân biệt thành điên đảo. Nếu vậy tất cả phàm phu đều lìa điên đảo, và tất cả Thánh nhân đều thành điên đảo.

Đây có lỗi gì?

Luận nói:

Như vậy không Phật quả,

Không có chuyện như thế.

Giải thích: Trí vô phân biệt là chính đạo. Nếu nói không có trí này mà nói được Phật quả là không có chuyện như thế. Chỗ chấp này là tría với A-hàm và đạo lý. Cho nên phải biết rằng các trần là vô thể, có thể phân biệt. Do có thể phân biệt cái thể của nó là không, nên phân biệt cũng không. Cho nên trí vô phân biệt là đúng lý không điên đảo. Lại nữa còn có đạo lý khác chứng minh các trần là vô thể, có thể phân biệt được.

Luận nói:

Bồ-tát được tự tại,

Do thực thi nguyện lực,

Muốn gì cũng như ý,

Người được định cũng vậy.

Giải thích: Bồ-tát đối với định nhập trụ xuất đều được tự tại, đối với thông tuệ biến hóa chiết phục thông đạt đều được tự tại, đối với các địa được 10 tự tại. Bồ-tát trước phát nguyện làm việc lợi ích chúng sinh, được trí vô phân biệt, sau xuất quán tùy ý Bồ-tát những điều muốn làm đều được thành tựu. Hoặc do nguyện hiện tại, hoặc do bản nguyện, nguyện vì nhân, lạc vì quả, trước phát nguyện làm lợi ích chúng sinh, sau tùy tâm muốn điều gì đều được thành tựu. Nghĩa là chuyển đổi địa v.v…Nếu thiển hành Bồ-tát muốn làm việc lợi ích chúng sinh, trong hiện tại, trước phát nguyện, phát nguyện xong liền nhập quán, sau khi xuất quán tùy ý muốn đều được toại nguyện. Nếu thâm hành Bồ-tát muốn làm việc lợi ích chúng sinh, hiện tại không phải phát nguyện, và nhập quán xuất quán chỉ do sức bản nguyện tùy ý muốn làm đều được thành tựu. Nếu Thanh Văn được 9 định tự tại, nhân định này tự tại được lục thông tự tại. Đối với một vật tùy sức nguyện lạc có thể biến đổi thành vô lượng thứ. Nếu các trần thật có tự tính thì việc này không thành được. Ví như 2 không, tất cả tự tại không thể biến đổi khác. Bởi vì sao? Vì chân thật. Kệ này là đứng về ngoại cảnh cho thấy các trần là không có tự tính.

Đối với nội cảnh, nghĩa vô tự tính là thế nào?

Luận nói:

Người thành tựu giản trạch,

Người có trí được định.

Nội cảnh quán các pháp,

Như nghĩa được hiện tiền.

Giải thích: Giản trạch tức Tì-bà-xá-na. Được 3 căn vô lưu gọi là thành tựu. Từ Tu-đà-hoàn hướng đến A-la-hán quả gọi là người thành tựu giản trạch. Người có trí là Bồ-tát. Muốn hiển thị không lấy người ở địa vị văn tư làm người trí, chỉ lấy địa vị nhập tu làm người trí, nên nói là được định. Thanh Văn và Bồ-tát đối với nội cảnh khi tu duy suy lường tất cả pháp, như như 2 người tư duy 12 bộ kinh pháp, nghĩa hiển thị như vậy như vậy, nghĩa được hiển thị ở 2 người. Nếu tư duy về nghĩa Phật, nghĩa Phật được hiển hiện trong các thứ pháp. Như nghĩa Phật hiển hiện, sắc v.v…5 ấm và vô thường v.v…10 tưởng cũng hiển hiện như vậy. Kệ này là đứng về nội cảnh cho thấy các trần là không có tự tính.

Làm sao biết nội cảnh ngoại cảnh đều không tự tính?

Luận nói:

Khi tu vô phân biệt,

Các nghĩa không hiển hiện.

Phải biết không có trần,

Do đó thức cũng không.

Giải thích: Nếu Bồ-tát ở trong quán vô phân biệt, tất cả nghĩa hoặc nội hoặc ngoại hoặc nội ngoại không hiển hiện nữa thì biết các trần đều không thật có. Nếu không ngoại trần thì không nội thức. Bởi vì sao? Sở thức đã không có, năng thức làm sao có. Nghĩa này thật vậy. Sở thức phi hữu nên năng thức cũng phi hữu. Nên biết trong thắng tướng đã đủ rõ nghĩa này.

Trí này với Bát-nhã Ba-la-mật là một hay khác?

Luận nói: Trí vô phân biệt này tức là Bát-nhã Ba-la-mật. Khác tên mà nghĩa như nhau.

Giải thích: Không vì tên không giống nhau mà cho là khác. Vì nghĩa giống nhau nên là một. Vì một nên nói là “tức là”. Nếu tên khác với nghĩa sao gọi là đồng? Như Lai lập pháp là theo nghĩa tự tính. Thâu nhiếp các pháp là đồng, không thâu nhiếp tên gọi mà nói là đồng. Bởi vì sao? Tên gọi thì mỗi nơi không đồng nhau, nhưng nghĩa thì các nơi đồng nhau. Tên là giả lập, chỉ có nghĩa đối với mình, không đồng với các nơi khác. Nghĩa có tính nhất định nên nghĩa đồng. Hành là y vào nghĩa mà thành, không y vào tên.

Làm sao biết nghĩa đồng?

Luận nói: Như kinh nói: Nếu Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật, do phi xứ tu hành có thể tu tập viên mãn các Ba-la-mật khác.

Giải thích: Muốn thành tựu trí vô phân biệt, vì không khác với Bát-nhã Ba-la-mật nên dẫn Kinh Bát-nhã Ba-la-mật làm chứng. Bồtát tu Bát-nhã Ba-la-mật không thoái mất nên gọi là trụ. Lại Bồ-tát muốn tu các Ba-la-mật khác, trước tu Bát-nhã Ba-la-mật làm phương tiện. Các Ba-la-mật khác trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật mà thành, nên nói là trụ. Bồ-tát trụ trong Bát-nhã Ba-la-mật, lìa 5 xứ tu hành các Ba-la-mật, trong mỗi một Ba-la-mật trải bao nhiêu thời gian tu tập nay được thành tựu nên gọi là viên mãn.

Luận nói: Thế nào là phi xứ tu hành có thể viên mãn các Ba-lamật khác?

Nghĩa là lìa 5 chỗ: 1.Lìa chỗ chấp ngã của ngoại đạo.

Giải thích: Như ngoại đạo trụ Bát-nhã kia khởi ngã chấp. Nghĩa là nay ta trụ Bát-nhã. Bát-nhã tức là ngã sở. Chư Bồ-tát trụ Bát-nhã thì không như vậy. Cho nên nói là lìa chỗ chấp ngã kiến. Bởi không hợp với chỗ của họ.

Luận nói: 2.Lìa chỗ phân biệt của Bồ-tát chưa thấy chân như.

Giải thích: Như các Bồ-tát ở địa tiền chưa thấy chân như, phân biệt vô phân biệt là Bát-nhã Ba-la-mật. Nghĩa là đây tức là Bát-nhã Ba-la-mật. Nếu Bồ-tát đã thấy chân như thì ở trong Bát-nhã Ba-lamật không có phân biệt này. Cho nên nói là lìa chỗ phân biệt. Bởi không hợp với chỗ của họ.

Luận nói: 3.Lìa hai bên đối lập của sinh tử và Niết-bàn.

Giải thích: Như chúng sinh phàm phu ở bên sinh tử, người Thanh Văn trụ bên Niết-bàn. Bồ-tát trụ Bát-nhã Ba-la-mật, lìa cả 2 bên nên nói lìa 2 bên. Bởi không hợp với chỗ của họ.

Luận nói: 4.Lìa ý tưởng chỉ diệt trừ hoặc chướng là đủ.

Giải thích: Như Thanh Văn đối với chỗ diệt hoặc chướng sinh ý tưởng cho là đủ, không còn ý muốn gì khác. Tức là chỗ diệt trí chướng. Bồ-tát thì không như vậy, vì để diệt trí chướng Bồ-tát tu học Bát-nhã Ba-la-mật. Cho nên nói là lìa tri túc hành xứ. Bởi không hợp với chỗ của họ.

Luận nói: 5.Lìa chỗ trụ vô dư Niết-bàn không thấy việc lợi ích chúng sinh.

Giải thích: Như Độc Giác trụ vô dư Niết-bàn, không quán lợi ích chúng sinh. Bồ-tát thì không như vậy, trụ Bát-nhã Ba-la-mật, không bỏ việc làm lợi ích chúng sinh. Niết-bàn cũng có hữu dư và vô dư. Nơi pháp thân là vô dư. Nơi ứng hóa thân là hữu dư. Nói lìa chỗ trụ vô dư Niết-bàn vì không hợp với chỗ của họ. Trí vô phân biệt có 5 thứ sai biệt khác với 5 chỗ phải lìa bỏ ở trước: Một là vô đảo sai biệt. Vì đây không điên đảo, kia có điên đảo. Hai là vô phân biệt sai biệt. Vì đây không phân biệt, kia có phân biệt. Ba là vô trụ xứ sai biệt. Vì đây không có trụ xứ, kia có trụ xứ. Bốn là chính hành sai biệt. Vì chính hạnh đây có thể diệt 2 chướng là hoặc và trí, chính hành kia chỉ có thể diệt hoặc chướng. Năm là đắc quả sai biệt. Vì đắc quả đây là 3 thân thường trú, đắc quả kia là vĩnh đoạn Niết-bàn.

Luận nói: Trí tuệ Thanh Văn với trí tuệ Bồ-tát khác biệt nhau thế nào?

Giải thích: Đã nói trí vô phân biệt với Bát-nhã Ba-la-mật là một. Nay lại muốn hiển thị sự sai biệt giữa trí vô phân biệt Bát-nhã Ba-la-mật với trí Nhị thừa.

Luận nói: Phải biết sai biệt là do vô phân biệt.

Giải thích: Thanh Văn có phân biệt. Bồ-tát không phân biệt. Phải biết do nghĩa này nên có sai khác.

Luận nói: Do không phân biệt ấm v.v…các pháp môn.

Giải thích: Thanh Văn do trí tuệ lấy ấm v.v…các pháp môn làm cảnh nên có tướng phân biệt khởi. Bồ-tát không phân biệt ấm v.v… các pháp môn nên tướng không phân biệt khởi. Vì vậy có sai khác.

Luận nói: Do chẳng phải một phần sai khác, thông suốt hai không chân như, nhập vào tướng nhất thiết sở tri, y chỉ vào tất cả việc lợi ích chúng sinh.

Giải thích: Phần có 2 thứ: một là sở tri phần, hai là lợi ích chúng sinh phần. Trong sở tri phần lại có 2 thứ là nhân pháp 2 không. Trong lợi ích chúng sinh phần cũng có 2 thứ là tự thân tha thân. Trong sở tri phần, Thanh Văn chỉ thông đạt nhân không, chỉ trong khổ v.v… tứ đế sinh trí vô lưu. Trong lợi ích chúng sinh phần thì chỉ dựa vào lợi ích tự thân phát nguyện tu hành. Trong hai phần chỉ có một phần. Bồ-tát trong sở tri phần thông đạt đủ cả nhân pháp hai không. Đối với tất cả sinh trí như lý như lượng. Trong lợi ích chúng sinh phần thì vì tự tha thân phát nguyện tu hành. Trong hai phần này phần nào cũng đủ hai phần. Hai phần khác một phần nên nói “chẳng phải một phần sai khác”.

Luận nói: Do không trụ nơi sai biệt, mà trụ ở Niết-bàn vô trụ xứ.

Giải thích: Thanh Văn trụ trước Niết-bàn, như phàm phu trụ trước sinh tử. Bồ-tát không như vậy, thấy sinh tử Niết-bàn đều do phân biệt tạo ra. Đều là tính không có tướng nên không trụ hai nơi.

Luận nói: Do hằng khác biệt về Niết-bàn vô dư, không rơi vào biên giới của đoạn diệt và cùng tận.

Giải thích: Hai người đối với vô dư Niết-bàn có sai khác, vì trí tuệ sai khác. Đối với vô dư Niết-bàn, Nhi thừa không có ứng hóa hai thân, vì không quán lợi tha. Không ứng thân nên đọa vào đoạn. Không hóa thân nên đọa vào tận. Bồ-tát trong vô dư Niết-bàn hằng khởi hai thân không có biên giới huống chi là pháp thân. Bởi tự lợi lợi tha viên mãn nên có ứng thân không sa vào đoạn, có hóa thân không sa vào tận.

Luận nói: Do khác biệt về nghĩa vô thượng, vì thật không có một thừa nào khác vượt hơn Đại thừa này.

Giải thích: Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa có thừa ở bậc trên, vì không bằng Đại thừa. Bồ-tát thừa là vô thượng, vì không có thừa nào hơn Đại thừa. Thừa lấy trí làm thể. Trí trong Đại thừa là trên hết. Do 5 nghĩa này nên trí của Nhị thừa với trí của Bồ-tát có sai biệt.

Luận nói: Ở đây có bài kệ như sau:

Giải thích: Để tóm thâu 5 nghĩa trước và hiển thị công đức của 5 nghĩa nên lại nói kệ.

Luận nói:

Do trí, 5 sai biệt,

Y Đại bitu phúc.

Giải thích: Trí tuệ chư Bồ-tát do 5 thứ sai biệt nên thắng hơn Nhị thừa. Không chỉ thắng hơn trí tuệ tri túc mà còn y vào trí tuệ tu phúc đức. Phúc đức tức 5 độ kia của Lục độ. Câu này hiển thị tự lợi thắng hơn Nhị thừa. Lại còn nghĩa thắng hơn nữa là vì lợi tha y vào Đại bitu phúc đức. Phúc đức tức 5 độ kia.

Nếu người đủ cả 2 công năng này thì được quả báo gì?

Luận nói:

Phú lạc thế xuất thế,

Nói đây là chẳng xa.

Giải thích: Làm Chuyển luân vương, 5 Thiên vương trên của Dục giới, Phạm thiên của Sắc giới, cho đến định của Vô sắc giới và Bồ-tát riêng được định của thế gian gọi là Thế phú lạc. Nhị thừa giải thoát và vô thượng Bồ-đề gọi là Xuất thế phú lạc. Quả như vậy như ý dễ được nên nói “là chẳng xa”. Chư Bồ-tát đã đến địa vị cực tự tại, hằng hành từ bi đối với chúng sinh bần khổ ở thế gian.

Bồ-tát do ý đó không thí tài vật, dụng ý ấy là thế nào?

Luận nói: Nếu trên thế gian này thật có Bồ-tát thì cũng có thể biết được.

Giải thích: Đây là hiển thị hữu thể và hữu ân của Bồ-tát. Hữu thể cho nên thật có. Hữu ân nên nói có thể biết.

Luận nói: Nếu Bồ-tát y vào giới đinh tuệ học, nhóm họp công đức, được 10 thứ tự tại, đối với tất cả việc lợi tha có khả năng đạt được sự thù thắng vượt trội.

Giải thích: Ba học gồm thâu 10 độ và tất cả công đức thế gian, nên gọi là nhóm họp công đức. Nếu Bồ-tát chưa được thì được, đã được không mất, gọi là tương ưng, tức nhân viên mãn, đến 10 thứ tự tại tức quả viên mãn. Lợi tha có 2 thứ , hoặc có 4 thứ. Hai thứ là trước suy nghĩ sau làm. Lại có 2 thứ, tức 2 vô úy sau. Hoặc có 4 thứ như trước nói. Được như vậy là được năng lực vượt trội không ai bằng, tức ân đức viên mãn. Trong 3 đức, nhân quả 2 đức hiển thị tự lợi, ân đức hiển thị lợi tha. Đã nói 3 học xong, muốn hiển thị 3 đức viên mãn của Bồ-tát, nên nói rõ nghĩa này.

Luận nói: Vì sao thấy trong thế gian có chúng sinh gặp khổ nạn nặng?

Giải thích: Lần này đặt câu hỏi. Nếu 3 đức của Bồ-tát như thế đều để cứu tế tất cả chúng sinh, vì sao chúng sinh gặp đời khổ nạn? Nếu thấy khổ không cứu thì không thắng năng. Nếu không thắng năng cũng không có Bồ-tát. Khổ nạn có 2 thứ là trong và ngoài. Hai khổ nạn trong ngoài này có nhẹ có nặng. Đối trị được là nhẹ, không thể đối trị là nặng.

Luận nói: Do Bồ-tát thấy chúng sinh kia tạo nghiệp có thể cảm khổ báo, chướng ngại quả vui.

Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh có nghiệp chướng, chướng ngại thắng năng của Bồ-tát mà cảm khổ báo. Bồ-tát đối với chúng có trí nghiệp này. Tuy hoại thắng năng, bỏ mà không dùng. Đây tức nghiệp lực của Bồ-tát. Ví như có con sông có nước 8 công đức, tùy chúng sinh uống dùng không ai ngăn cản hay ủng hộ. Ngạ quỷ do nghiệp chướng nên không thể uống được. Bồ-tát như con sông, của cải như nước, chúng sinh có nghiệp chướng như ngạ quỷ. Do nghiệp chướng nên không thụ dụng được của cải của Bồ-tát.

Luận nói: Do Bồ-tát thấy thế, nếu thí cho chúng điều kiện an vui thì sẽ chướng ngại việc phát sinh thiện pháp.

Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh không nghiệp chướng, nếu bần cùng có thể sinh trưổng thiện pháp, nếu giàu có sung sướng thì buông lung tạo tội, Bồ-tát muốn chúng trong đời hiện tại chịu khổ bần cùng, tùy thuận thành tựu sinh khởi thiện pháp. Vì vậy cho nên Bồ-tát không cho chúng điều kiện an lạc. Đây tức là xứ phi xứ lực của Bồ-tát.

Luận nói: Do Bồ-tát thấy chúng không có điều kiện an vui thì có thể hiện tiền chán ghét sinh tử.

Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh do bần cùng nghèo khổ, thường hiện tiền có tâm chán ghét sinh tử. Bồ-tát muốn chúng không có điều kiện an vui, thành tựu tâm chán ghét, tùy thuận thiện hạnh, nên không thí cho điều kiện an vui. Đây tức là căn dục tính lực của Bồ-tát.

Luận nói: Do Bồ-tát thấy nếu thí cho chúng điều kiện an vui là nhân duyên sinh trưởng tất cả ác pháp.

Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh cho đến hằng thụ báo bần cùng, trong thời gian ấy ác pháp không tăng trưởng. Bồ-tát muốn chúng hằng thụ báo bần cùng, không muốn chúng thụ báo phú lạc một sát-na mà làm các nhân duyên ác pháp là yêu mình ghét người. Hai nhân duyên này có thể sinh trưởng ác pháp. Bồ-tát nếu thí cho chúng của cải tức làm thành tựu tâm yêu ghét của chúng. Cho nên Bồ-tát không thí cho chúng điều kiện an vui. Đây tức là biến hành đạo trí lực của Bồ-tát.

Luận nói: Do Bồ-tát thấy nếu thí cho chúng điều kiện an vui tức đó là nhân duyên làm hại bao nhiêu vô lượng chúng sinh khác.

Giải thích: Bồ-tát thấy có chúng sinh nếu được giàu có lớn thì chẳng phải chỉ tự tổn mà có thể làm tổn não vô lượng chúng sinh. Bồ-tát muốn chúng chịu khổ bần cùng, không muốn chúng do giàu có sung sướng mà làm tổn não thân tâm cho đến thiện căn của chúng sinh. Vì vậy Bồ-tát không thí cho chúng điều kiện an vui. Đây tức là biến hành đạo trí lực của Bồ-tát.

Luận nói: Cho nên chẳng phải Bồ-tát không có thắng năng làm được như vậy. Và trong thế gian cũng có hiển hiện những chúng sinh như vậy.

Giải thích: Thắng năng tức năng lực vượt trội. Thắng năng có 3, tức 3 đức: Một là khả năng được nhân, tức 3 học xứ. Hai là khả năng được quả, tức 10 tự tại. Ba là khả năng lợi tha, nghĩa là hiểu rõ căn, dục, tính v.v…của chúng sinh, nếu thấy thí có lọi ích thì thí, nếu thấy không thí có lợi ích thì không thí. Bồ-tát lấy lợi ích làm quyết định, không lấy thí hay không thí làm quyết định. Do có thí không lọi ích nên thế gian có chúng sinh thụ khổ.

Luận nói: Ở đây có bài kệ như sau:

Giải thích: Để thâu tóm 5 nghĩa trước, nên lại nói kệ.

Luận nói:

Thấy nghiệp chướng ngại thiện,

Hiện ra điều chán ghét.

Sợ hại chúng sinh kia,

Mà Bồ-tát chẳng thí.

Giải thích: Có chúng sinh có nghiệp chướng không cảm Bồtát thí. Có chúng sinh có điều kiện an lạc thì trở ngại thiện pháp. Có chúng sinh do nghèo khổ mà tâm thường chán ghét sinh tử. Có chúng sinh có điều kiện an lạc thì sinh trưởng ác pháp. Có chúng sinh do đại phú lạc mà bách hại người khác. Bồ-tát thấy những việc như thế muốn khiến lìa tự tổn tổn tha, nên không thí cho điều kiện an lạc. Vì vậy mà những chúng sinh ấy không cảm Bồ-tát thí.