NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Bồ-tát Thế Thân giải thích
Trần, Thiên Trúc tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 8

Chương 7: Nhập tư lương quả

Giải thích: Do nhập ưng tri thắng tướng, Bồ-tát được quả gì? Bồ-tát được 8 thứ quả tư lương.

Luận nói: Do nhập tướng này, được nhập Sơ hoan hỷ địa,

Giải thích: Do văn thấy rõ 3 quả. Một là được thắng thời, hai là được thắng phương tiện, ba là được thắng quả. Nói “Sơ” tức thứ nhất nói rõ được quả thắng thời. Từ lúc mới phát tâm tu hành cầu đến lúc này mới được nên gọi là “sơ”. Lúc cầu tức là lúc nhập chân quán. Đây cho thấy được trụ quả chân như. Lại xả bỏ địa vị phàm phu Nhị thừa mới được địa vị chân Bồ-tát nên gọi là thắng thời. Lúc này là lúc chuyển y cho nên gọi lúc sơ thời này là thắng thời, tức cho thấy quả chuyển y. Hoan hỷ tức thứ hai nói rõ được quả thắng phương tiện. Bỏ tự ái là hoan, sinh tha ái là hỷ. Nếu không tham tiếc tự thân, không ghét người khác, đối với các hạnh không có hạnh gì là khó làm, cái tâm này là hơn tất cả trong các phương tiện. Vì là căn bản trong các hạnh nên sơ địa lấy đây đặt tên. Lại nữa chưa từng được cái dụng to lớn và tâm xuất thế, nên khi được thì rất vui mừng nên gọi là Hoan hỷ địa, tức cho thấy được thắng quả thứ ba. Trụ nhiếp là nghĩa của địa, xuất ly chân như là thể của địa. Trụ ở nơi thể này nên gọi là thắng quả. Nhân của địa là nhiếp, tức 2 thứ tư lương là phúc đức và trí tuệ.

Lại nữa sở nhiếp gọi là nhiếp, tức chỗ lợi ích chúng sinh. Lại nữa quả là nhiếp, tức vô thượng Bồ-đề. Lại nữa chướng là nhiếp, tức 3 phiền não. Như vậy các nghĩa ấy gọi là địa vì do gồm thâu trong địa này.

Luận nói: khéo thông đạt pháp giới,

Giải thích: Tức nói rõ được quả thắng thông đạt thứ tư. Thắng thông đạt có 3 nghĩa. Một là do được 4 y cho nên Bồ-tát y pháp không y nhân v.v…Do đó thông đạt tất cả 3 tạng của 3 thừa do Như Lai sở thuyết. Bồ-tát đúng như lý giải thích văn, cho nên do văn có thể làm cho mình và người hiểu pháp giới chân như. Hai là Như Lai lập ra 10 địa là do có 10 tầng lớp pháp giới. Từ ban đầu thông đạt cho đến địa cao tột đều khéo thông suốt. Ba là do 4 thứ phương tiện nên khéo thông đạt pháp giới. Tức có thể thông đạt cái khổ sinh tử mà có thể hằng nhập vào 2 phương tiện này có thể thông đạt Niết-bàn mà không vội cầu 2 phương tiện này. Có thể thông đạt cái khổ khác với phàm phu, vào trong khổ mà không chán sợ khác với Nhị thừa. Có thể thông đạt cái vui Niết-bàn khác với phàm phu, mà cũng không vội cầu Niết-bàn khác với Nhị thừa.

Luận nói: được sinh vào nhà Như Lai của mười phương chư Phật,

Giải thích: Đây tức nói rõ được quả thứ năm thắng định vị. Do nhập thắng tướng này, người này quyết chắc phá vỡ cái vỏ vô minh bao bọc như cái vỏ bọc làm cho hủ hoại bỏ mạng bên trong. Lại nữa người này do nhập thắng tướng này, chắc chắn tiếp nối không dứt chủng tính của chư Phật 10 phương để tự mình thành Phật còn khiến người khác thành Phật. Lại nữa Phật tử có 5 nghĩa. Một, nguyện yêu thích vô thượng thừa làm chủng tử. Hai lấy Bátnhã làm mẹ. Ba lấy định làm bào thai. Bốn lấy Đại bilàm nhũ mẫu. Năm lấy chư Phật làm cha. Do các nghĩa như thế nên nói được sinh vào nhà của Phật.

Luận nói: được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh,

Giải thích: Đây là nói rõ được quả thứ sáu thắng ân dưỡng. Ân dưỡng, tức ơn nuôi dưỡng, có 4 thứ: 1.rộng lớn, 2.không cùng tột, 3.không biên giới, 4.không lay đổ. Do 4 nghĩa này nên đối với chúng sinh có ơn nuôi dưỡng bình đẳng. Lại nữa nếu Bồ-tát tự thân khởi tâm Bát-niết-bàn tức là đối với tất cả chúng sinh bình đẳng khởi tâm Bát-niết-bàn. Lại nữa do Bồ-tát đã được bình đẳng giữa mình và người, cho nên cầu diệt khổ cho người cũng như cầu diệt khổ cho chính mình.

Luận nói: được tâm bình đẳng tất cả Bồ-tát,

Giải thích: Đây là nói rõ được quả thứ bảy: thắng ý dụng. Bồ-tát nếu muốn ra làm điều gì, ắt tư duy suy lường trước, nên gọi là ý. Sau ra làm như đã tư duy suy lường, nên gọi là dụng. Lại nữa cầu được 3 việc gọi là ý. Tức là chưa xuống giống thì khiến xuống giống, chưa thành thục thì làm cho thành thục, chưa giải thoát thì khiến giải thoát. Thực hành 4 nhiếp là dụng. Do 2 nhiếp trước khiến phát tâm, do lợi hành làm cho thành thục, do đồng lợi khiến giải thoát.

Luận nói: được bình đẳng với tâm tất cả chư Phật Như Lai.

Giải thích: Đây tức nói rõ được quả thứ tám là thắng chí. Bồ-tát ở trong kiến vị, đã được pháp thân Như Lai. Do được pháp thân này nên bình đẳng với tâm chư Phật. Lại nữa đối với tự thân thấy pháp giới không sai biệt nên không thấy pháp giới của tam thế chư Phật khác với pháp giới của mình nên được tâm bình đẳng của chư Phật.

Luận nói: Quán này gọi là Bồ-tát kiến đạo.

Giải thích: Bồ-tát có 3 thứ kiến đạo: 1.trừ phương tiện kiến, 2.ưng trừ kiến, 3.trừ diệt kiến. Trừ phương tiện kiến tức là 4 thứ trí như thật. Ưng trừ kiến là 2 tính phân biệt y tha. Trừ diệt kiến là 3 vô tính. Ba kiến này đều nhân duy thức quán mà thành đạt nên gọi là lần lượt thấy rõ tướng kiến đạo sinh.

Chương 8: Hai trí dụng

Luận nói: Lại nữa vì sao Bồ-tát nhập Duy thức quán?

Giải thích: Câu hỏi này cho thấy 2 nghĩa. Một là cho thấy khó nhập duy thức quán. Hai là cho thấy nếu được nhập duy thức quán thì có cái dụng lợi ích vô cùng.

Luận nói: Do duyên các pháp hết sức thông đạt làm cảnh,

Giải thích: Trước tiên nói nhập trước và sau 2 phương tiện quán, trả lời câu hỏi thứ nhất về nhập duy thức quán đạo. Trí này có 4 đức: 1.không chuyển đảo, 2.thanh tịnh, 3.vắng lặng, 4.vi tế. Đây tức nói cái thứ nhất là không chuyển đảo. Pháp chung có 4 phẩm: hạ, trung, thượng và thượng thượng. Hạ phẩm là tất cả cái khổ hữu lưu.

Trung phẩm là tất cả hữu vi vô thường. Thượng phẩm là tất cả pháp vô ngã. Thượng thượng phẩm là 3 vô tính. Duyên 3 vô tính làm cảnh nên không chuyển đảo.

Luận nói: trí xuất thế,

Giải thích: Tức thứ hai là thanh tịnh, vì đó là trí xuất thế vô lưu nên thanh tịnh.

Luận nói: Xa-ma-tha,

Giải thích: Tức thứ ba là vắng lặng, vì trí này dựa vào Xa-matha khởi, lìa tán động địa, là trí Xa-ma-tha nên gọi là vắng lặng.

Luận nói: Tì-bát-xá-na,

Giải thích: Tức thứ tư là vi tế, nói rõ là tu tuệ của Bồ-tát, không phải văn tư tuệ và tu tuệ của Nhị thừa. Đây là đầu tiên nhập duy thức quán phương tiện.

Luận nói: do trí vô phân biệt hậu sở đắc.

Giải thích: Muốn cho thấy rõ trí này từ trí không chuyển đảo sinh nên không lay đổ, không lay đổ nên là trí như thật.

Luận nói: Các thứ tướng thức là tướng trí,

Giải thích: Đây là nói trí như lượng tương tự tất cả trí cảnh khởi, lấy tất cả cảnh thức làm tướng, vô ngại đối với tất cả sở tri. Do trí này được nhập duy thức hậu quán. Đây tức là nhập hậu quán phương tiện. Do tiền hậu phương tiện đều khó nhập nên khó được duy thức quán.

Luận nói: Để diệt trừ tất cả chủng tử các pháp có nhân chung trong bản thức A-lê-da,

Giải thích: Dưới đây nói rõ 2 trí dụng. Có 3 thứ trí dụng: Một là diệt chướng, hai là lập nhân, ba là được cái dụng của Phật pháp. Câu này tức nói rõ cái dụng thứ nhất là diệt chướng. Hiện tại hoặc chưa diệt khiến diệt. Nói trừ cái hoặc vị lai chưa sinh, ngăn chận không cho sinh nên nói là diệt. Trong duy thức đạo nói chung là diệt chủng tử nhân quả của bất tịnh phẩm. Có 3 thứ nhân: 1.nhân duyên, 2.tăng thượng duyên, 3.duyên duyên. Quả tức là chủng tử bất tịnh phẩm. Đã diệt chung chủng tử nhân quả nên gọi là chung. Thức A-đà-na và Lục thức là nhân duyên bất tịnh phẩm nên gọi là bản thức A-lê-da, là tăng thượng duyên của bất tịnh phẩm. Duyên duyên tức là 6 trần. Sáu trần là chủng tử duyên duyên cho nên chủng tử tất cả pháp tức chủng tử tất cả pháp bất tịnh phẩm. Chủng tử tức là quả. Quả này có duyên duyên v.v… 3 nhân. Thức A-lê-da đã là chủng tử tăng thượng duyên cho nên chủng tử ở trong thức A-lê-da.

Luận nói: để sinh trưởng chủng tử các pháp có khả năng đạt tới pháp thân,

Giải thích: Đây nói cái dụng thứ hai là lập nhân. Các pháp tức là Lục độ. Bồ-tát thực hành 6 Ba-la-mật huân tập có thể làm nhân vô thượng Bồ-đề nên gọi là chủng tử. Chủng tử này nếu sinh ra lớn lên có thể chứng đắc pháp thân Như Lai cho nên gọi là đạt tới, là sinh trưởng 2 nhân phúc tuệ. Nhập duy thức quán nên duy thức quán có thể lập nhân khiến được vô thượng Bồ-đề.

Luận nói: để chuyển y,

Giải thích: Dưới đây nói cái dụng thứ ba là được Phật pháp. Để được pháp thân thanh tịnh vô cấu của Như Lai, tức lậu tận vô úy.

Luận nói: để được chính pháp của tất cả Như Lai,

Giải thích: Tức có thể nói 2 sự không sợ hãi là chướng đạo và tận khổ đạo để lợi tha và an lập chính pháp.

Luận nói: để được trí nhất thiết trí,

Giải thích: Tức là tất cả trí không sợ hãi. Ba câu này là hiển thị 3 đức. Trước nói đoạn đức, tiếp nói ân đức, sau nói trí đức.

Luận nói: nên nhập Duy thức quán.

Giải thích: Để thành tựu 3 cái dụng trước nên nhập duy thức quán. Nếu do trí vô phân biệt diệt chướng, lập nhân, đắc quả nên nhập duy thức quán vậy sau khi nhập quán cái dụng của hậu trí vô phân biệt là như thế nào? Nếu dựa vào trí vô phân biệt tức là nói nhân quả các pháp không có công năng, bởi trí này vô phân biệt cho nên do hậu trí vô phân biệt mà trong tướng các pháp Bồ-tát tự không điên đảo. Như chỗ tự chứng cũng có thể vì người nói nhân quả các pháp. Để được 2 cái dụng này, Bồ-tát tu hậu trí vô phân biệt.

Luận nói: Cái trí vô phân biệt, cái trí hậu sở đắc ở trong bản thức và cái thức sinh tất cả thức và trong tướng của tướng thức

Giải thích: Câu này nói Bồ-tát do trí này không điên đảo nhân quả. Bản thức là tính y tha, tức là nhân chính sinh ra thức của tất cả thức, tức là quả do bản thức sinh. Thất thức tức là thức phân biệt tính tướng, tức là khí thế giới và 6 trần cũng là quả của bản thức, cũng là tính phân biệt. Câu này nói rõ đủ 3 tướng, tức là nội tướng, ngoại tướng và nội ngoại tướng, nên nói là trong tướng. Bồ-tát cũng không điên đảo trong nhân quả này.

Luận nói: do quán các thí dụ tựa như ảo hóa, tự tính không điên đảo.

Giải thích: Bồ-tát dùng cái hậu trí vô phân biệt quán tướng nhân quả này, tự nhiên không điên đảo, không chấp có ngoại trần nội căn, chỉ có thức là pháp thật hữu. Bởi vì sao? Bồ-tát đã hiểu rõ các pháp này tựa như các thí dụ ảo hóa v.v…không thể dựa vào chỗ thấy nghe hay biết mà phán đoán các pháp là thật có. Bởi vì sao? Vì tâm này từ nguồn gốc thanh tịnh lưu xuất.

Luận nói: Do ý nghĩa này, Bồ-tát cũng như nhà ảo thuật, đối với các trò ảo thuật tự biết rõ ràng không đảo lộn.

Giải thích: Như nhà ảo thuật đối với các trò ảo thuật làm ra thấy nghe v.v…4 thức, không dựa vào thức này mà hiểu biết các trò ảo thuật. Nếu như vốn đã hiểu rõ các trò ảo thuật thì không đảo lộn đối với các ảo thuật. Bồ-tát cũng vậy. Do dựa vào bản trí mà hiểu rõ nên đối với tất cả các tướng và trong nhân quả không điên đảo nữa. Đó là Bồ-tát tự lợi.

Luận nói: Trong nhân duyên và quả đối với tất cả tướng, khi thuyết giảng thường không lệch lạc hay đảo lộn.

Giải thích: Nếu Bồ-tát dựa vào bản trí làm việc lợi tha, nghĩa là khi thuyết giảng về 3 tạng, 3 thừa và nghĩa của ngũ minh v.v… thường không thiên lệch, đảo lộn, mâu thuẫn. Không thật, không nhất định là thiên. Hợp lý không thể lay động là không thiên. Lạm dụng thời xứ lẫn nhau là đảo. Tùy xứ, tùy thời, tùy tướng là không đảo. Đó là Bồ-tát lợi tha.

Chương 9: Hai trí y chỉ

Luận nói: Bấy giờ khi chính nhập Duy thức quán có 4 thứ Tamma-đề. Đó là 4 thứ thông đạt phần làm y chỉ cho thiện căn.

Bồ-tát phải thấy như thế nào?

Giải thích: Câu hỏi này muốn nói rõ nhập quán có 3 nghĩa: 1.chân cảnh, 2.Xa-ma-tha, 3.Tì-bát-xá-na. Để nói rõ chỗ nên nhập cho nên nói chính nhập. Trong duy thức quán vị, duy thức xứ tức 3 vô tính chân như. Chân như này không phải trí cảnh tán động, cho nên nói 4 thứ Tam-ma-đề là y chỉ. Cảnh và trí này không thể phân biệt cho nên nói 4 thứ thông đạt phần thiện căn là năng chứng. Phải thấy pháp này như thế nào?

Luận nói: Do 4 thứ tầm tư, ở bậc hạ phẩm vô trần quán nhẫn,

Giải thích: Nghĩa của lạc quán vô trần gọi là nhẫn. Nhẫn này chưa lìa 3 tướng, nghĩa là quán khéo thành tựu nhân duyên hoặc ô thanh tịnh chưa tùy ý tu tập nên là hạ phẩm.

Luận nói: quang đắc Tam-ma-đề.

Giải thích: Trí vô trần gọi là quang. Định này lấy trí vô trần làm sở đắc. Định này là y chỉ của trí vô trần nên gọi là quang đắc. Định tức Xa-ma-tha. Trí tức Tì-bát-xá-na. Nếu đủ 5 phần 5 trí, định này gọi là Tam-ma-đề.

Luận nói: là thiện căn y chỉ của noãn hành thông đạt phần.

Giải thích: Phúc đức trí tuệ 2 hành là thể của noãn hành, tức 37 phẩm. Hành này là tướng lửa đạo có thể thiêu đốt củi hoặc loạn phiền não nên gọi là noãn. Noãn hành này đã qua 4 vị địa tiền, quyết định hiểu rõ trí chân như gọi là thông đạt. Phương tiện đạo này có khả năng trợ giúp thành tựu trí thông đạt nên gọi là phần, có khả năng giúp sinh cứu cánh vị nên gọi là thiện căn. Định này có khả năng làm tăng thượng duyên cho thông đạt phần nên gọi là y chỉ. Lại nữa trong 37 phẩm lập định làm sở y chỉ, còn lại 36 làm năng y chỉ. Trong 36 thì Bát-nhã là thông đạt, còn lại 35 là phần. Ba mươi sáu gọi chung là thiện căn. Lại nữa 4 thiện căn tức là 4 phần.

Luân nói: Trong tối thượng phẩm vô trần quán, nhẫn, quang, tăng, Tam-ma-đề là thiện căn y chỉ của đỉnh hành thông đạt phần.

Giải thích: Đã lìa 3 tướng nên là tối thượng phẩm. Vô trần quán nhẫn như trước đã giải thích. Trí vô trần gọi là quang, nghĩa là sáng. Trí này vượt trội hơn trong các phương tiện nên gọi là tăng, nghĩa là tăng thêm. Định này là y chỉ của trí vô trần thắng tiến nên gọi là quang tăng, cũng lấy 2 hành phúc đức trí tuệ làm thể của đỉnh hành. Đỉnh có 3 nghĩa: Một là như cái đầu của con người có khả năng gìn giữ thân mạng. Người tu đạo cũng vậy, nếu đến địa vị này rồi thì thiện căn không thể đoạn mất. Hai là như đỉnh núi, tức lúc đến đó rồi trở lui. Có người đến đỉnh núi rồi lui về. Người tu đạo cũng vậy, có người đến địa vị này rồi dừng lại trong phương tiện không tiến tới nên gọi là thoái lui. Ba là như đỉnh núi là lúc thăng tiến. Có người đến đỉnh núi rồi còn thăng tiến. Người tu đạo cũng vậy, có người đến địa vị này mà còn tiến vào địa vị ưu thắng nên gọi tên là đỉnh. Đã nói Bồ-tát trong 4 thứ tầm tư, tu 2 thứ phươn tiện đạo là noãn và đỉnh. Vậy trong 4 thứ trí như thật thì tu như thế nào?

Luận nói: Trong 4 thứ trí như thật, Bồ-tát đã nhập vào Duy thức quán, hiểu rõ vô trần,

Giải thích: Nếu Bồ-tát qua 4 thứ tầm tư, vượt qua 2 địa vị noãn và đỉnh thì trong địa vị 4 thứ trí như thật Bồ-tát duyên cảnh gì? Bồtát chỉ duyên duy thức làm cảnh. Duyên cảnh duy thức thì sao gọi là hiểu rõ được nghĩa vô trần? Vì trừ vô minh và nghi hoặc nên gọi là hiểu rõ. Ba câu này nói rõ địa vị, cảnh và trí.

Luận nói: nên chính thức nhập vào một phần chân nghĩa.

Giải thích: Do trí này nên Bồ-tát ngộ nhập một phần chân nghĩa.

Nghĩa là vô tướng tính, chưa nhập vô sinh tính và vô tính tính.

Luận nói: Thông hành Tam-ma-đề là tùy phi an lập đế nhẫn y chỉ.

Giải thích: Thể của trí vô trần gọi là thông. Định này lấy trí vô trần làm hành, tức y chỉ vô trần trí hành nên gọi là thông hành, được hiển thị bởi 3 vô tính. Nhân pháp 2 không gọi là phi an lập đế. Bởi vì sao? Đế lý này thông tất cả pháp không có sai biệt nên gọi là phi an lập. Không điên đảo, không biến đổi khác nên gọi là đế nhẫn. Có thể phù hợp theo nghĩa này nên gọi là tùy. Cũng lấy 2 hành là phúc đức trí tuệ làm thể của nhẫn. Bồ-tát đã hiểu rõ nghĩa không có ngoại trần, đối với nghĩa không có năng thủ sở thủ tâm sinh tín lạc nên gọi là nhẫn. Lại có khả năng an ổn tiếp thụ nghĩa của đế lý thượng phẩm nên gọi là nhẫn. Đối với đế lý thượng phẩm tâm không thoái thất nên gọi là nhẫn.

Luận nói: Tam-ma-đề này, sát-na sau cùng dẹp bỏ được tưởng duy thức,

Giải thích: Tam-ma-đề này là thông hành Tam-ma-đề, lấy định của một sát-na sau cùng của thượng thượng phẩm thông hành, do trước hiểu rõ tính vô tướng, sau lại tư duy sở duyên, đã là vô sở hữu thì năng duyên ắt không được sinh. Do hiểu rõ như vậy nên có thể đè bẹp tiêu diệt cái tưởng về duy thức. Duy thức tưởng đã diệt, từ sát-na sau cùng tiến đến sát-na thứ hai tức nhập vào sơ địa.

Luận nói: đổi gọi tên là Vô gián Tam-ma-đề.

Giải thích: Định này với sơ địa gần nhau, không bị các tâm xen cách nên gọi là vô gián. Lại nữa các hoặc của địa dưới không thể làm chướng ngại việc nhập sơ địa, không phải như địa dưới cách trở thắng phương tiện không được nhập ngay vào sơ địa nên gọi là vô gián.

Luận nói: Phải biết đây là y chỉ của Thế đệ nhất pháp.

Giải thích: Bồ-tát lấy địa tiền làm thế pháp, đăng địa làm xuất thế pháp. Vô gián định này còn là thế pháp. Trong các thế pháp, đây là pháp không có pháp nào so sánh được nên gọi đệ nhất. Bởi vì sao? Chúng sinh trong thế gian không có pháp tu hành nào có thể sánh bằng pháp này. Lại nữa tuy định này là thế pháp nhưng có khả năng làm tăng thượng duyên cho xuất thế đạo của Bồ-tát. Các thế pháp khác không có được nghĩa này nên gọi là đệ nhất. Lại nữa chỉ một sát-na nên gọi là đệ nhất.

Luận nói: Bốn thứ Tam-ma-đề này là tiền phương tiện của Bồtát nhập phi an lập đế quán.

Giải thích: Hai định trước là vô gián tu, 2 định sau là cung kính tu. Muốn nói rõ 4 định này chẳng phải chân đạo nên nói là tiền phương tiện.

Chương 10: Hai trí sai biệt

Luận nói: Nếu Bồ-tát nhập sơ địa đã được kiến đạo như thế thì được thông đạt nhập duy thức.

Giải thích: Dưới đây cho thấy kiến đạo là y chỉ của tu đạo. Do trước thành lập kiến đạo nên tu đạo được thành. Nếu Bồ-tát ở trong nguyện lạc địa tu đủ các phương tiện được nhập sơ địa, sở dĩ được nhập sơ địa là do được kiến đạo. Kiến đạo tức trí vô phân biệt. Sở dĩ được trí vô phân biệt là do thông đạt chân như và tục đế. Cho nên biết trần vô sở hữu là thông đạt trí chân như, chỉ có thức là thông đạt tục. Lại nữa biết thức này không có sinh tính là thông đạt trí chân như, thức này giả có là thông đạt tục. Nếu không thông đạt tục thì không lấy gì có thể thấy chân, vì lìa tục không có chân. Nếu không thông đạt chân không lấy gì để khiển trừ tục, vì tục không có cái thể riêng biệt. Sở dĩ có thể thông đạt chân tục là do có thể hiểu rõ lý duy thức. Câu văn này làm rõ 4 nghĩa: 1.xuất thế quả, 2.xuất thế hành, 3.xuất thế cảnh, 4.xuất thế phương tiện. Sơ địa là quả. Chung cả pháp hữu vi vô vi là thể. Hành phúc đức trí tuệ là hữu vi. Chân như và phiền não không sinh là vô vi. Sơ địa là giả danh. Do đó nói chung kiến đạo là hành, chỗ thông đạt chân tục là cảnh, nhập duy thức là phương tiện.

Do nhập duy thức là phương tiện cho nên có thể thông đạt cảnh chân tục. Do thông đạt cảnh chân tục nên được trí hành vô phân biệt. Do được thắng hành nên được quả sơ địa.

Luận nói: Thế nào là Bồ-tát tu tập quán hạnh vào trong tu đạo?

Giải thích: Chữ “Thế nào” là hỏi tất cả 10 nghĩa: 1.tướng, 2.thứ tự, 3.tu 4 sai biệt, 5.nhiếp tương trợ, 6.nhiếp tương ngại, 7.công đức, 8.quan sát lẫn nhau, 9.danh, 10.tịnh bất tịnh. Tu nhiều lần được là tu tập. Phúc đức trí tuệ là hành. Bát-nhã là quán. Tấ cả các hành đều là việc Bát-nhã, đều thuộc Bát-nhã nên gọi là quán hành. Lại trong Lục độ Bát-nhã là đứng đầu nên gọi là quán hành. Lại nữa kiến đạo gọi là quán. Từ sau kiến đạo những gì đạt được đều gọi là hành. Bồ-tát y chỉ kiến đạo dùng những tướng gì được nhập sơ địa?

Luận nói: Như Phật đã nói rộng an lập pháp tướng trong 10 địa của Bồ-tát,

Giải thích: Trong đây trước nói cảnh của 3 tuệ, sau nói công năng của 3 tuệ. Câu văn này nói cảnh của 3 tuệ. Phật nói rộng là cảnh của văn tuệ. Pháp tướng được an lập tức tướng v.v…10 thứ pháp tướng là cảnh của tư tuệ. Trong 10 địa của Bồ-tát tức cảnh của tu tuệ. Tiểu thừa cũng có 10 địa cho nên lấy Bồ-tát làm tiêu biểu. Mỗi địa mỗi địa đều có 10 tướng cho nên nói 10 địa.

Luận nói: do gồm thâu tất cả 12 bộ kinh Đại thừa Như Lai đã nói, nên được hiện tiền,

Giải thích: Dưới đây nói công năng của 3 tuệ. Văn tuệ có thể thông đạt 12 bộ giáo pháp nên nói là gồm thâu.

Luận nói: do đối trị 2 cảnh thông và biệt đã nói,

Giải thích: Đây là nói công năng của tư tuệ. Thông biệt 2 cảnh tức tướng v.v… 10 pháp. Tư tuệ có khả năng nghiên cứu thực hành 10 pháp này nên nói là đối trị.

Luận nói: do sinh khởi duyên cảnh cực kỳ thông suốt,

Giải thích: Dưới đây nói công năng của tu tuệ. Phương tiện là sinh, chính quán là khởi. Vô gián đao là sinh, giải thoát đạo là khởi. Nhập phần là sinh, xuất phần là khởi. Kiến đạo là sinh, tu đạo là khởi. Xuất thế đạo là sinh, thế gian đạo là khởi. Trí như lý như lượng sở duyên là cảnh cực kỳ thông suốt.

Luận nói: trí xuất thế vô phân biệt và trí vô phân biệt hậu sở đắc, Giải thích: Đây là nói cái thể của tu tuệ.

Luận nói: trí Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na,

Giải thích: Đây nói 2 trí vắng lặng không lay đổ. Do Xa-ma-tha nên vắng lặng. Do Tì-bát-xá-na nên không lay đổ.

Luận nói: do dựa vào sự tu tập không gián đoạn trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi đại kiếp,

Giải thích: Câu văn này cho thấy 3 tuệ đủ 4 thứ tu. Không thể dùng các thứ thí dụ biết đượclà vô lượng. Không thể đếm biết được là vô số. Một trăm ức là một câu-chi. Không phải một câu-chi nên nói ngàn. Cũng không phải một ngàn nên nói trăm. Chẳng phải tiểu kiếp nên nói đại. Đây tức là nói thời gian dài tu tập, nhiều lần tu tập thường xuyên, tức cho thấy 3 sự tu tập là vô gián, cung kính và vô dư.

Luận nói: do xưa và nay được chuyển y,

Giải thích: Trước nơi nhập kiến vị khi được chuyển y, pháp này là tu đạo nhiếp trì cho nên tất cả chỗ tu đều thành Thánh đạo vì đã quá địa vị nguyện lạc.

Luận nói: vì để được 3 thứ Phật thân nên lại tu gia hành.

Giải thích: Đây là tu đạo nhiếp trì cứu cánh dụng. Do đạo lý này Bồ-tát lại tu gia hành nữa. Trước tu đạo là thấy chân như, nay tu đạo trở lại để được 3 thân cho nên nói lại tu nữa. Lại nữa

Luận nói: Thế nào

Giải thích: Thế nào là một vấn từ, tức một từ dùng để hỏi. Vấn từ này hỏi tất cả 6 nghĩa. Một là hỏi về cảnh giới tu vị. Cảnh giới tu đạo tự có 3 thứ : 1.gia hành y chỉ, tức là văn giáo, 2.hành tư lương, tức dựa vào lý phán xét nghĩa, 3.chỗ tu hành thông đạt, tức cảnh giới tu tuệ. Ba câu sau nói cảnh giới của 3 tuệ để đáp câu hỏi này. Hai là hỏi về công năng của tu vị 3 tuệ. Ba câu sau nói công năng của 3 tuệ để đáp câu hỏi này. Ban đầu nói văn tuệ là phương tiện của tu tuệ. Tiếp đến nói tư tuệ là tư lương của tu tuệ. Sau nói trí vô phân biệt là thể của tu tuệ. Ba là hỏi về nhân quả của tu vị tu tuệ. Sau nói rõ trí vô phân biệt hậu sở đắc để đáp câu hỏi này. Do tu tuệ trí này được sinh cho nên là quả của tu tuệ. Nếu không có trí này không thể tiến tới đạo lý sau cho nên là nhân của tu tuệ. Bốn là hỏi về 4 pháp tu của tu vị. Sau nói rõ tu trường kỳ cho đến vô dư tu để đáp câu hỏi này. Năm là hỏi về y chỉ của tu vị. Sau nói rõ chuyển y để đáp câu hỏi này. Nếu không có chuyển y này làm y chỉ tu vị sẽ không thành Thánh đạo. Bởi vì sao? Vì phàm phu dựa vào chỗ chưa chuyển. Sáu là hỏi về cái dụng vượt trội của tu vị. Sau nói 3 thân để đáp câu hỏi này. Để viên mãn 2 cái dụng tự lợi lợi tha nên tu gia hành. Lại nữa,

Luận nói: Thế nào

Giải thích: Hỏi chung thứ tự của tu vị. Sau nói rõ đầy đủ thứ tự từ mới khởi tâm tu hành cho đến tu vị cứu cánh để đáp câu hỏi này. Trước lấy 3 câu nói văn tư tu vị, tức cảnh của 3 tuệ. Tiếp đến 3 câu cho thấy rõ có thể nhập vào công năng của 3 cảnh, tức 3 tuệ. Tiếp đến cho thấy công năng của lợi tha, tức trí vô phân biệt hậu sở đắc, như vì người khác giải thuyết chỗ mình chứng được. Tiếp đến nói 4 pháp tu làm rõ tu vị, do 4 pháp tu được thành tựu viên mãn. Tiếp đến nói chuyển y làm rõ tự lợi chuyển y là được nguồn gốc 4 đức của pháp thân cho nên là tự lợi. Tiếp đến nói 3 thân. Ba thân được thành tựu trong cứu cánh tu vị, có thể bình đẳng lợi ích tự tha. Pháp thân là tự lợi.Ứng hóa 2 thân là lợi tha. Lại nữa Luận nói: Như Phật đã nói rộng an lập pháp tướng trong 10 địa của Bồ-tát,

Giải thích: Mười địa tức đoạn văn nói rõ trong Phẩm thập địa Kinh Hoa Nghiêm. Trong đoạn văn này Như Lai rộng nói đạo lý tùy sở an lập. Lại nữa,

Luận nói: do gồm thâu tất cả 12 bộ kinh Đại thừa Như Lai đã nói nên được hiện tiền.

Giải thích: Hợp tất cả pháp Như Lai đã nói chung làm một cảnh. Lại nữa,

Luận nói: do đối trị 2 cảnh chung và riêng đã nói,

Giải thích: Cảnh được hợp lại là cảnh đơn hay là phức tạp, để làm rõ 2 pháp quán chân tục thông một vô tướng. Lại nữa,

Luận nói: do sinh khởi duyên cảnh cực kỳ thông suốt, trí xuất thế vô phân biệt và trí vô phân biệt hậu sở đắc, trí Xa-ma-tha Tì-bát-xá-na,

Giải thích: Cho thấy đạo 2 thể gồm thâu lẫn nhau, do Xa-matha nên trí không tán loạn, do Tì-bát-xá-na nên định không thụ các vị nhiễm ô v.v… Lại nữa,

Luận nói: trí vô phân biệt hậu sở đắc, trí Xa-ma-tha Tì-bát-xána, do dựa vào sự tu tập không gián đoạn trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi đại kiếp, do xưa và nay được chuyển y, để được 3 thứ Phật thân lại tu gia hành.

Giải thích: Trí này là thế trí hay xuất thế trí? Không thể nói là thế trí vì chẳng phải thế gian tu tập. Không thể nói là xuất thế trí vì nó khởi trong tâm thế gian cho nên tâm này khác với tâm vô phân biệt trí. Tâm này cũng có thể nói là thế xuất thế và phi thế phi xuất thế. Hai tâm này tu tập trường kỳ nên được chuyển y. Do chuyển y nên Bồ-tát tâm niệm rằng ta nay quyết định sẽ được 3 thứ Phật thân.

Vì nghĩa này nên lại tu gia hành.

Luận nói: Kiến đạo của Thanh Văn và kiến đạo của Bồ-tát, hai thứ kiến đạo này khác nhau thế nào?

Giải thích: Kiến đạo của Thanh Văn là tha đạo. Kiến đạo của Bồ-tát là tự đạo. Hai kiến đạo này là đạo sai biệt và quả sai biệt. Tướng ấy như thế nào?

Luận nói: Phải biết kiến đạo của Thanh Văn và Bồ-tát có 11 thứ khác nhau.

Giải thích: Năm cái trước nói khác nhau về đạo. Sáu cái sau nói khác nhau về quả. Năm cái trước khác nhau về đạo là

Luận nói: Mười một thứ là gì? Một do khác cảnh giới. Nghĩa là Bồ-tát duyên pháp Đại thừa làm cảnh.

Giải thích: Như Lai nói 12 bộ kinh Đại thừa, nói pháp tu hành, duyêncác pháp nàylàm cảnh nên phát đạo tâm. Tiểu thừa đạo thì không có việc này.

Luận nói: Hai, do y chỉ khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát dựa vào tư lương đại phúc đức trí tuệ làm y chỉ.

Giải thích: Đạo này khác với Nhị thừa và thế gian đạo. Thế gian tu phúc đức mà không trí tuệ. Nhị thừa chỉ tu trí tuệ mà không phúc đức. Bồ-tát tu đủ phúc đức và trí tuệ nên trợ đạo được thành tựu. Trợ đạo tức là y chỉ. Y chỉ này tại trong phương tiện đạo tức tư tu 2 tuệ.

Luận nói: Ba, do thông đạt khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát thông suốt nhân và pháp cả hai là vô ngã.

Giải thích: Trước ở trong phương tiện đã được tư tu tuệ, từ đó được nhập chân quán, có thể thông đạt lý nhân pháp 2 vô ngã, đối với nhân pháp không sinh ái trước. Phàm phu chấp nhân. Nhị thừa chấp pháp. Bồ-tát cả 2 đều không chấp, cho nên nói ly dục nhân pháp. Đây tức nói sở đắc chân tu tuệ của Bồ-tát là thể của chính đạo khác với Tiểu thừa.

Luận nói: Bốn, do Niết-bàn khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát lấy vô trụ xứ Niết-bàn làm trụ xứ.

Giải thích: Niết-bàn này không phải là đạo quả mà là đạo trụ xứ. Bởi vì sao? Do Bồ-tát hành Bát-nhã, quán sát tội lỗi sinh tử, tu đạo không ở sinh tử, do Bồ-tát hành Đại bi, quán chúng sinh khổ khởi tâm cứu tế. Tuy không ở sinh tử mà không bỏ sinh tử, không trụ Niết-bàn. Do đạo trụ nơi đây không chấp chân tục 2 tướng sinh nên gọi là vô tướng đạo. Tiểu thừa đạo thì không có việc này.

Luận nói: Năm, do địa vị khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát lấy 10 địa làm quá trình xuất ly.

Giải thích: Đạo có 3 bậc hạ trung và thượng. Thượng tức 10 địa. Mười địa này thoát khỏi 10 thứ sinh tử là công năng chung. Dựa vào Bồ-tát đạo của 10 địa này có thể xuất ly khác với Tiểu thừa. Sáu cái sau nói sai biệt của quả.

Luận nói: Sáu và bảy, do tính thanh tịnh khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát diệt phiền não tập khí và đối trị Tịnh độ làm thanh tịnh.

Giải thích: Trước có 5 việc đã nói rõ sai biệt của đạo. Dưới đây 6 việc tiếp nói sự đắc quả của Bồ-tát tu đạo khác với Nhị thừa. Cái thứ 6 nói về thanh tịnh bên trong, thứ 7 thanh tịnh bên ngoài. Bên trong là do tự tương tục tu đạo diệt trừ phiền não tập khí nên gọi là thanh tịnh bên trong. Ngoài do tu hạnh Tịnh độ, cõi nước cư trú không có 5 thứ uế trược như thế giới của ngọc pha lê gọi là thanh tịnh bên ngoài. Trong là tự mình thanh tịnh, ngoài là thanh tịnh tha nhân. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói: Tám, do tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh có khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát vì thành thục chúng sinh không bỏ gia hành công đức thiện căn.

Giải thích: Bồ-tát tự thân phải Bát-niết-bàn và muốn Bát-niếtbàn tất cả chúng sinh. Do tâm bình đẳng này không bỏ công đức gia hành thiện căn. Các độ khác là công đức Bát-nhã là thiện căn. Lại 5 độ là công đức tinh tiến là thiện căn. Lại Bát-nhã tinh tiến là thiện căn. Các độ khác là công đức. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói: Chín, do chỗ thụ sinh khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát sinh vào nhà Như Lai gọi là sinh.

Giải thích: Thấy lý chân như, chứng pháp thân Phật có thể khiến chủng tính Như Lai không tuyệt dứt cho nên gọi là sinh nhà Như Lai. Do sinh nhà Như Lai cho đến đương lai sẽ được thành Phật nên nói là sinh. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói: Mười, do sự hiển hiện khác nhau. Nghĩa là Bồtát trong các đại tập hội của Phật tử, thường hiển hiện nhiếp thụ chính pháp.

Giải thích: Các Bồ-tát gọi chung là Phật tử. Một pháp hội tụ họp đông đảo nhiều Bồ-tát gọi là đại tập. Pháp Như Lai nói ra có 3 nghĩa nên gọi là luân: 1.thích hợp trên dưới, 2.chưa được khiến được, được rồi khiến giữ gìn, 3.có thể từ đây đến kia. Bồ-tát trong các đại tập hội thường thị hiện không phá tăng, thường thị hiện hộ trì chính pháp. Đã được khiến không mất gọi là nhiếp. Chưa được khiến được gọi là thụ. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói: Mười một, do quả khác nhau. Nghĩa là Bồ-tát lấy các pháp của Như Lai như 10 năng lực, 4 sự không khiếp sợ, 18 pháp không chung và vô lượng công đức làm quả.

Giải thích: Bồ-tát tu đạo vì được các quả này của Như Lai. Tiểu thừa thì không có việc này.

Luận nói: Ở đây có 2 bài kệ như sau:

Giải thích: Chữ “Ở đây” tức trong kiến đạo, có 2 bài kệ nói rõ từ phương tiện kiến đạo nhập chân như quán.

Luận nói:

Danh, nghĩa, khách của nhau,

Bồ-tát phải tầm tư.

Phải quán hai duy lượng,

Và hai giả thuyết kia.

Từ đó sinh thật trí,

Lìa trần ba phân biệt.

Nếu thấy là phi hữu,

Tức nhập ba vô tính.

Luận nói: “Danh, nghĩa, khách của nhau, Bồ-tát phải tầm tư.”

Giải thích: Trong nghĩa, danh là khách, trong danh, nghĩa là khách, vì không phải loại thuộc bản tính. Bồ-tát nhập tịch tĩnh vị quán đạo lý này. Đây tức là tầm tư phương tiện thứ nhất.

Luận nói: “Phải quán hai duy lượng và hai giả thuyết kia.”

Giải thích: Bồ-tát phải quán 2 pháp danh và nghĩa. Duy vô sở hữu là lượng. Bởi vì sao? Nghĩa có 2 thứ: 1.tự tính, 2.sai biệt, đều vô sở hữu, chỉ là giả thuyết. Giả thuyết này với nghĩa giống nhau. Nghĩa vô sở hữu, giả thuyết cũng vô sở hữu. Nếu không giống nhau với nghĩa tức tự nhiên vô sở hữu. Giả thuyết tức là danh. Danh vô sở hữu nên trong nghĩa nó là khách. Nghĩa vô sở hữu nên trong danh nó là khách. Vô sở hữu là bản tính của danh nghĩa cho nên lấy bản tính làm duy lượng. Nếu phân biệt làm danh nghĩa thì vì bản tính phân biệt là vô tướng nên lấy vô tướng làm duy lượng của danh nghĩa. Đây là phương tiện như thật trí phương tiện thứ hai.

Luận nói: “Từ đó sinh thật trí, lìa trần ba phân biệt.”

Giải thích: Từ 4 thứ tầm tư sinh 4 thứ trí như thật. Ai có thể được 4 thứ trí này? Nếu người nào có thể thấy 3 thứ chỉ là phân biệt, thật không có ngoại trần, người này sẽ được một phần trí như thật. Những gì là 3 thứ phân biệt? Một là phân biệt tên, hai là phân biệt tự tính, ba là phân biệt sự khác nhau.

Luận nói: “Nếu thấy là phi hữu, tức nhập ba vô tính.”

Giải thích: Hai câu trước nói sự hiểu rõ 3 phân biệt, được nhập vô trần quán. Dựa vào tính y tha để khiển trừ tính phân biệt. Câu này cho thấy dựa vào chân như khiển trừ tính y tha. Làm sao có thể khiển trừ? Do danh nghĩa vô sở hữu, năng phân biệt cũng không có được. Bởi vì sao? Nếu danh nghĩa của sở phân biệt là có, năng phân biệt duyên danh nghĩa này có thể nói là có. Do danh nghĩa vô sở hữu, nhân duyên của sở phân biệt đã là không, thì thể của năng phân biệt vô sở hữu. Nếu Bồ-tát thấy danh nghĩa là vô sở hữu nên năng phân biệt cũng vô sở hữu thì Bồ-tát này được nhập vào quán gì?

Luận nói: “Được nhập 3 vô tính “.

Giải thích: Bồ-tát thấy danh nghĩa là khách của nhau là nhập vào tính phân biệt danh nghĩa khác nhau. Nếu Bồ-tát thấy giả thuyết tự tính, giả thuyết sai biệt, chỉ phân biệt là thể thì được nhập vào tính phân biệt vô tướng. Nếu Bồ-tát chỉ thấy loạn thức, không có 6 thứ tướng thì thể của loạn thức không thành nên không thể nói được. Nhân duyên không thành nên không thể chấp là có sinh khởi. Trong đây phân biệt đã không, ngôn thuyết cũng bất khả đắc thì nhập vào y tha vô sinh tính. Nếu Bồ-tát thấy 2 nghĩa hữu vô này là vô sở hữu thì nhập vào 3 vô tính phi an lập đế.

Luận nói: Lại có 2 bài kệ chính giáo, nói trong Phân Biệt Quán Luận như sau:

Giải thích: Nay trong luận này cho thấy nhập cảnh trí kiến đạo là không viên mãn nên dẫn 2 bài kệ trong Luận Phân Biệt Quán để hiển thị trọn nghĩa này. Người nào, địa vị nào có thể thấy tâm này? Chỉ là hình bóng không phải nghĩa thật pháp.

Luận nói:

Bồ-tát ở trong định,

Quán tâm chỉ là ảnh.

Lìa bỏ tướng ngoại trần,

Chỉ định quán tự tưởng.

Bồ-tát trụ nội tâm,

Nhập sở thủ phi hữu.

Rồi quán năng thủ không,

Sau, xúc đều không được.

Luận nói: “Bồ-tát ở trong định, quán tâm chỉ là ảnh.”

Giải thích: Chỉ người Bồ-tát ở trong tịch tĩnh vị mới có thể quán pháp này. Nghĩa thật là vô sở hữu, tâm tựa như nghĩa của pháp hiển hiện, cho nên nói chỉ là hình bóng.

Luận nói: “Lìa bỏ tướng ngoại trần, chỉ định quán tự tưởng.”

Giải thích: Nếu người ở trong tịch tĩnh vị, đã hiểu rõ tâm chỉ là hình bóng, có thể trừ tướng ngoại trần, đó là tự tâm khởi tướng tựa như pháp và nghĩa. Tác quán như vậy.

Luận nói: “Bồ-tát trụ bên trong,”

Giải thích: Nếu tâm Bồ-tát trụ được như vậy thì thật không có trần, tâm duyên nội tâm khởi, không duyên ngoại trần nên trụ ở trong. Nếu trụ ở trong, sở quán của định tâm này là gì?

Luận nói: “Nhập sở thủ phi hữu.”

Giải thích: Nghĩa của sở thủ này, thật không có sở hữu. Bồ-tát có thể thấy cảnh sở thủ là không.

Luận nói: “Tiếp, quán năng thủ không.”

Giải thích: Do nghĩa của sở thủ là phi hữu, thì cái thế gian nói tâm là năng thủ, theo đạo lý này cũng không thành được. Vì vậy người tu quán hành cũng không thấy có tâm năng thủ. Trước đã không thấy sở thủ, sau cũng không thấy năng thủ, vậy khi ấy người tu quán hành được cái gì?

Luận nói: “Sau xúc, hai đều không được.”

Giải thích: Chân như phi sở thủ phi năng thủ, bởi lấy vô sở đắc làm thể nên nói chân như là nhị vô đắc, hai đều không được. Người này trước đã nhập tính vô tướng, tiếp đến nhập tính vô sinh, sau nhập tính chân như vô tính. Xúc lấy nhập đắc làm nghĩa, do nhập đắc chân như nên gọi là xúc. Hai kệ trước với 2 kệ sau khác nhau thế nào? Hai kệ trước là nói về danh nghĩa và giả thuyết, cho thấy 4 tầm tư và 4 trí như thật là phương tiện được nhập chân quán. Hai kệ sau nói thể của 3 tính và 3 vô tính. Lại nữa 2 kệ trước hiển thị chính giáo, nói rõ nhập 3 tính và 3 vô tính. Hai kệ sau hiển thị sở nhập 3 tính và 3 vô tính.

Luận nói: Lại nữa trong Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh có nói 5 bài kệ để làm rõ đạo lý này như sau:

Giải thích: Nghĩa kinh sâu kín khó hiểu. Hiển thị rõ như thật đúng nghĩa của kinh nên gọi là trang nghiêm kinh. Luận giải kinh này nên được tên là trang nghiêm. Trong Trang Nghiêm Kinh Luận có nhiều nghĩa. Nay chỉ lược lấy 5 kệ. Các kệ này muốn hiển thị những gì? Kệ này hiển thị các nghĩa khó hiểu trong tu đạo.

Luận nói:

Bồ-tát sinh trưởng phúc và tuệ,

Hai thứ tư lương không giới hạn.

Với pháp tư duy tâm quyết định,

Hiểu rõ nghĩa loại phân biệt nhân.

Luận nói: “Bồ-tát sinh trưởng phúc và tuệ,”

Giải thích: Như giải thích ở trước, Bồ-tát sinh ở kiến vị, trưởng thành ở tu vị. Lại nữa sát-na đầu tiên gọi là sinh, sát-na sau gọi là trưởng. Lại nữa đơn gọi là sinh, phức gọi là trưởng. Chỗ tu của Bồ-tát là chỉ có phức hợp chứ không đơn thuần. Sinh và trưởng một lúc mà thành. Sinh trưởng pháp gì? Là phúc và tuệ. Thí v.v…3 độ là phúc. Bát-nhã là tuệ. Tinh tiến và định nếu vì sinh phúc thì thuộc phúc, nếu vì sinh tuệ thì thuộc tuệ. Sở dĩ như vậy là nếu tinh tiến là sinh bố thí thì trì giới nhẫn nhục thuộc phúc, nếu là sinh văn tư tu tuệ thì thuộc tuệ. Định nếu dựa vào 4 vô lượng khởi, duyên chúng sinh làm cảnh thì thuộc phúc, nếu vì sinh tận trí, vô sinh trí,và vô phân biệt trí v.v… thì thuộc tuệ. Ai có thể sinh trưởng? Là người Bồ-tát.

Luận nói: “Hai thứ tư lương không giới hạn.”

Giải thích: Phúc và tuệ này có 2 thứ công dụng. Một là có khả năng trợ đạo. Hai là có khả năng thành đạo thể. Do có 2 công dụng này nên đạo được thành tựu cho nên nói 2 thứ này là 2 mon tư lương của đạo. Hai công dụng này có bao nhiêu công lực? Phàm trải bao nhiêu thời gian được thành tựu đạo, công lực không lường hết, thời tiết không bờ bến. Chữ vô là không, hiển thị sự dài lâu, ví như nói đại hải vô lượng hay đại kiếp vô tế. Vì lâu xa cho nên tư lương cũng vậy. Tu mỗi độ mỗi độ trải 3 a-tăng-kì kiếp, nên trải qua thời gian không giới hạn.

Luận nói: “Với pháp tư duy tâm quyết định,”

Giải thích: Do sau khi định, tâm quán sát các pháp cho nên đối với pháp tâm được quyết định. Lại nữa Bồ-tát tu đủ ngũ minh, đối với độ lượng phương tiện tự mình đầy đủ, đối với tư duy tâm được quyết định.

Luận nói: “Có thể hiểu rõ nghĩa loại phân biệt nhân.”

Giải thích: Bồ-tát có khả năng so sánh có khả năng chứng minh cho nên nói có thể hiểu rõ. Chân tục 2 đế gọi là nghĩa loại. Biết nghĩa loại này chỉ lấy phân biệt làm nhân, cho nên có thể hiểu rõ.

Luận nói:

Đã biết nghĩa loại là phân biệt,

Được trụ tựa nghĩa trong duy thức.

Nên người tu quán chứng pháp giới,

Lìa được hai tướng với hai không.

Luận nói: “Đã biết nghĩa loại là phân biệt,”

Giải thích: Do Bồ-tát tâm đã quyết định đối với nghĩa loại và phân biệt nên

Luận nói:Được trụ tựa nghĩa trong duy thức.”

Giải thích: Do Bồ-tát tư duy như vậy, chỉ biết tựa trần hiển hiện nên tâm Bồ-tát trụ trong duy thức không duyên ngoại trần khởi.

Luận nói: “Nên người tu quán chứng pháp giới”,

Giải thích: Do người tu quán lìa ngoại trần, chỉ duyên thức mà trụ, biết trần là không có tướng, gọi là chứng pháp giới.

Luận nói:” Lìa được hai tướng với hai không.”

Giải thích: Pháp giới sở chứng có tướng như thế nào? Lìa 2 tướng năng thủ sở thủ và không nhân pháp 2 phân biệt. Bồ-tát đã chứng pháp giới như vậy.

Luận nói:

Nếu biết lìa tâm không gì khác,

Do đây liền thấy tâm phi hữu.

Người trí thấy đây là không hai,

Được trụ không hai chân pháp giới.

Luận nói: “Nếu biết lìa tâm không gì khác,”

Giải thích: Do phương tiện này có thể chứng pháp giới, nay hiển thị phương tiện này, biết tách rời duy thức ra ngoài, không có một pháp gì khác.

Luận nói: “Do đây liền thấy tâm phi hữu.”

Giải thích: Do thấy nghĩa sở duyên là phi hữu nên biết tâm năng duyên cũng phi hữu.

Luận nói:” Người trí thấy đây là không hai,”

Giải thích: Người trí là gọi các Bồ-tát. Thấy cảnh và tâm đều phi hữu.

Luận nói:” Được trụ không hai chân pháp giới.”

Giải thích: Nếu Bồ-tát thấy hai đều phi hữu thì được trụ chân pháp giới. Chân pháp giới tức là không trần không thức nên nói là không hai, lìa 2 hư vọng là điên đảo và biến dị nên nói là chân, là tính thứ nhất của các pháp nên gọi là pháp giới.

Luận nói:

Do người trí tuệ không phân biệt,

Thường hành bình đẳng khắp tất cả.

Nhiễm ô y chỉ quá tụ tính,

Tiêu diệt như thuốc trừ độc chất.

Luận nói: “Do người trí tuệ không phân biệt, thường hành bình đẳng khắp tất cả.”

Giải thích: Bồ-tát đã thấy chân như này gọi là tuệ nhân, tức người có trí tuệ trong kiến đạo đã được trí vô phân biệt. Tướng trạng của trí này như thế nào? Một, lấy sự không thoái lui làm tướng. Không thoái nên gọi là hằng thường. Hai, lấy hạnh bình đẳng làm tướng. Trí này thấy lý bình đẳng của tất cả pháp giống như hư không. Trong các pháp 3 thừa Như Lai nói trong 12 bộ Tu-đa-la, đều thấy chỉ một vị không sai biệt. Nội pháp ngoại pháp gọi là tất cả. Nội ngoại các pháp đồng một tính nhất như nên gọi là biến khắp. Hạnh bình đẳng hiển thị thể của trí tuệ. Biến khắp tất cả là hiển thị cảnh giới trí tuệ. Bồ-tát trí vô phân biệt như thế muốn làm điều gì?

Luận nói: “Giải thoát khỏi cấu uế đậm đặc,”

Giải thích: Ba thứ bất tịnh phẩm gọi là nhiễm. Cái nhiễm này lấy tính tích tụ quá nhiều làm chỗ dựa. Từ tính tích tụ quá nhiều sinh nên tính tích tụ quá nhiều này gọi là rậm rạp vì khó giải khó phá nên lìa chính giáo Như Lai. Các giáo khác không thể khiến giải được nên nói là khó giải. Lìa trí vô phân biệt bao nhiêu trí khác không thể phá bỏ được nên gọi là khó phá. Tất cả pháp nhiễm ô huân tập là thể của tính tích tụ quá nhiều.

Luận nói: “Tiêu diệt như thuốc trừ độc chất.”

Giải thích: Tính này là nhân của 3 phẩm pháp bất tịnh. Chủng tử huân tập là tính của các hoặc khó giải khó phá. Do trí vô phân biệt, người thông tuệ có thể khiển trừ có thể tiêu diệt cái tính tích tụ quá nhiều này như thuốc A-già-đà có thể trừ các độc. Khiển trừ là nói về hiện tại, tiêu diệt là nói về vị lai, tức trí tân vô sinh của Bồ-tát.

Luận nói:

Phật khéo thành lập nói chính pháp,

Hữu căn tâm an trụ pháp giới.

Đã biết ức niệm là phân biệt,

Bờ biển công đức , người trí đến.

Luận nói: “Phật khéo thành lập nói chính pháp,”

Giải thích: Tất cả 3 đời các đức Phật đều nói pháp này. Các lý nói ra đều đồng không trái nhau nên gọi là chính pháp. Lại muốn hiển thị người nói là tối thắng nên nói Phật thuyết. Do đạo lý nói ra là thù thắng và quả đạt được là thù thắng nên gọi là chính pháp. Như Lai thành lập chính pháp có 3 thứ: Một là lập Tiểu thừa, hai là lập Đại thừa, ba là lập Nhất thừa. Trong ba thừa này thừa thứ ba là ưu việt hơn cả, nên nói là khéo thành lập.

Luận nói: “An tâm trong pháp giới hữu căn.”

Giải thích: Bồ-tát trước đã được văn tư 2 tuệ an tâm trong chính pháp Như Lai, sau hợp quán tất cả chính giáo của Như Lai làm cảnh giới, tức là trí vô phân biệt. Trí này gọi là hữu căn. Được trí này rồi các trí khác đều diệt, chỉ có trí này là không thể động không thể hư hoại nên gọi là hữu căn. Lại nữa ở trong 3 vô lưu căn, trí này là thứ nhất, tức là vị tri dục tri căn, nên gọi là hữu căn. Lại nữa giải thoát có 3 việc: Một là năng sinh giải thoát, hai là năng trì giải thoát, tức khiến trụ không mất, ba là năng dụng giải thoát, tức tự lợi lợi tha. Ba việc giải thoát này tức phối hợp với 3 vô lưu căn. Trí vô phân biệt này thông cả 3 nơi nên có tên. Tự thể là căn. Lại có thể vì người khác làm căn nên gọi là hữu căn. Tâm hữu căn này an trụ trong pháp giới.

Luận nói: “Đã biết ức niệm là phân biệt,”

Giải thích: Bồ-tát đã trụ trong tâm hữu căn, sau khi xuất quán ở trong tâm hậu trí vô phân biệt. Như những việc trước khi nhập quán đều có thể nghĩ nhớ thì biết những nghĩ nhớ này chẳng phải thật có, chỉ là phân biệt. Do vô phân biệt trí và vô phân biệt hậu trí Bồ-tát được tiến đến địa vị gì?

Luận nói: “Bờ biển công đức người trí đến.”

Giải thích: Trong nhân công đức của Như Lai có 10 địa, 10 Bala-mật v.v…Trong quả có trí đức, đoạn đức, ân đức. Các đức này chỉ Phật mà thôi, người khác không thể có được cho nên gọi là biển. Cứu cánh nhân quả gọi là bờ. Người trí tức Bồ-tát. Hai trí trước của Bồ-tát thừa có thể đến được bờ biển công đức chưa từng đến. Trong đây 5 bài kệ nói rõ tất cả các nghĩa. Kệ thứ nhất hiển thị đạo tư lương. Kệ thứ hai hiển thị đạo gia hành. Kệ thứ ba hiển thị kiến đạo. Kệ thứ tư hiển thị tu đạo. Kệ thứ năm hiển thị cứu cánh đạo