NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Bồ-tát Thế Thân giải thích
Trần, Thiên Trúc tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 6

Phẩm thứ năm: PHẢI BIẾT THẮNG TƯỚNG 2

Luận nói: Làm sao biết được tính y tha này?

Do tính phân biệt hiển hiện pháp tương tự, không đồng thể với tính phân biệt.

Giải thích: Câu hỏi này nói tính phân biệt hiển hiện tựa như pháp. Pháp tương tự này không lìa tính y tha, phải đồng thể với tính y tha sao nói không đồng thể?

Luận nói: Vì trước khi chưa được tên thì theo nghĩa không được sinh trí. Nếu pháp thể và tên là một, thì trái với nghĩa này.

Giải thích: Tính y tha lại do một phần của tính phân biệt hiển thị, không đồng thể với tính phân biệt. Để làm rõ nghĩa này nên lập 3 chứng. Đây là chứng thứ nhất. Nếu y tha và phân biệt cùng chung một thể thì cái chấp này thành trái nhau. Nếu y tha và phân biệt cùng một thể thì trí không sinh ra tên gọi và nghĩa. Ví như lìa tên cái bình thì trí không sinh nghĩa cái bình. Nếu nghĩa cái bình và tên cái bình là một thể thì việc này sẽ không thành, vì tên gọi và nghĩa không đồng tướng. Nếu chấp tên và nghĩa đồng một thể thì chấp này thành trái nhau. Luận chứng này cho thấy tên là y tha, cho thấy nghĩa là phân biệt. Bởi vì sao? Vì y tha do tên phân biệt.

Luận nói: Vì tên có nhiều, cho nên nếu tên và nghĩa là một, thì tên nhiều nghĩa cũng phải nhiều. Đây trái với thể của nghĩa.

Giải thích: Đây là luận chứng thứ hai. Hoặc một nghĩa có nhiều tên. Nếu tên và nghĩa cùng một thể thì tên nhiều nghĩa cũng phải nhiều. Nếu vậy một nghĩa phải có nhiều thể. Một vật mà nhiều thể là trái với nghĩa này. Vì vậy nếu hai tính một thể tức là trái với luận chứng thứ hai.

Luận nói: Do tên không nhất định, thể đa tạp nên trái với nghĩa này.

Giải thích: Thí dụ như tên chữ “cù” có 9 nghĩa. Nếu nói tên và nghĩa một thể thì hai thể trái nhau sẽ trái với luận chứng thứ ba. Tên “cù” chỉ các nghĩa tướng mạo không đồng. Nếu chấp nhận cho là một thể thì pháp trái nhau có thể ở cùng một chỗ. Không có nghĩa như vậy. Cho nên hai tính không thể là một thể được.

Luận nói: Ở đây có bài kệ nói rằng:

Giải thích: Làm rõ lại nghĩa trước nên nói kệ. Bại kệ đầu tiên nói rõ y tha, phân biệt không cùng một thể. Thành được nghĩa này do 3 sự trái nghịch nhau.

Luận nói:

Trước tên: không có trí,

Tên nhiều, không nhất định.

Nghĩa thành do đồng thể,

Đa tạp thể trái nhau.

Pháp không hiển, tựa có,

Không nhiễm mà có tịnh.

Nên ví như ảo hóa,

Cũng ví như hư không.

Luận nói: Nghĩa thành.

Giải thích: Tức nói rõ là thành cái nghĩa tính y tha và tính phân biệt không đồng thể.

Luận nói: Trước tên không trí. Đồng thể trái nhau.

Giải thích: Đây là cái trái nhau thứ nhất.

Luận nói: Nhiều tên đồng thể. Nhiều thể trái nhau.

Giải thích: Đây là cái trái nhau thứ hai.

Luận nói: Và bất định. Đồng thể tạp thể trái nhau.

Giải thích: Đây là cái trái nhau thứ ba. Bài kệ sau là dạy đệ tử. Đệ tử sinh nghi đối với 2 việc.

Luận nói: Pháp không hiển, tựa có, không nhiễm mà có tịnh.

Giải thích: Đây nói rõ 2 thứ trái nhau sinh nghi. Không có pháp, hiển hiện tựa như có pháp là cái trái nhau thứ nhất. Trong không nhiễm mà có tịnh là cái trái nhau thứ hai.

Luận nói: Cho nên ví như ảo hóa cũng ví như hư không.

Giải thích: Tức là dùng thí dụ này giải thích chỗ nghi của đệ tử. Ví như hình tượng ảo hóa, không thật mà hiển hiện ra có. Các pháp phân biệt cũng vậy. Thật không mà hiển hiện tựa như có, có thể trông thấy. Ví như hư không, tự tính thanh tịnh không bị mây v.v…5 thứ chướng ngại nhiễm. Sau khi mây v.v…các thứ chướng ngại diệt cũng nói hư không là thanh tịnh. Các pháp cũng vậy, tự tính thanh tịnh vốn không nhiễm ô. Sau khi khách trần chướng ngại diệt thì thấy thanh tịnh.

Luận nói: Vì sao hiển hiện như vậy mà chẳng phải thật có? Tính y tha nhất thiết chủng chẳng phải không có.

Giải thích: Đây hỏi nếu tính y tha hiển hiện như thế là vô sở hữu, tất cả tất cả mọi thứ cũng chẳng phải không có tính này. Ý này là thế nào?

Luận nói: Nếu không có tính y tha thì tính chân thật cũng không. Tất cả không là không đúng. Nếu không có tính y tha và tính chân thật thì có lỗi là không có phẩm nhiễm ô và thanh tịnh. Phải biết rằng hai phẩm này chẳng phải là không, cho nên chẳng phải tất cả đều không. Ở đây có bài kệ rằng:

Nếu không tính y tha,

Tính chân thật cũng không.

Thế thì không hai phẩm:

Nhiễm ô với thanh tịnh.

Chư Phật Thế Tôn, trong Đại thừa nói Kinh Tì-phật-lược. Trong kinh này có nói: Nên biết tính phân biệt như thế nào? Nên biết tính này là không có phẩm loại. Nên biết tính y tha như thế nào? Nên biết tính này như các thí dụ trò ảo hóa, con nai khát nước, chiêm bao, bóng trong gương, tiếng vang trong hang sâu, bóng trăng dưới nước v.v… Nên biết tính chân thật như thế nào? Nên biết là 4 pháp thanh tịnh.

Giải thích: Nếu không tính này, tính chân thật cũng không. Bởi vì sao? Nếu có nhiễm ô thì có thanh tịnh. Nếu 2 pháp đều không thì tất cả đều không. Cái tất cả không này do phương tiện này cho thấy sự bất thành kia. Thứ gì là phương tiện? Bác bỏ sinh tử Niết-bàn, nghĩa này không thể thành lập do phẩm nhiễm ô và phẩm thanh tịnh có thể thấy được. Vì vậy hai pháp hiển hiện rõ rằng nếu bác bỏ nói là không, tức thành tà kiến, cũng gọi là hủy báng tổn giảm. Cho nên tính phân biệt là không, tính y tha không thể bác bỏ nói là không. Cho nên biết rằng y tha và phân biệt không được đồng thể.

Luận nói: Bốn pháp thanh tịnh của tính này là: Một là pháp này xưa nay tự tính thanh tịnh. Tức pháp giới chân thật như như, chân không, thật tế không có tướng.

Giải thích: Do tự tính pháp này xưa nay thanh tịnh. Cái thanh tịnh này được gọi là như như. Trong tất cả chúng sinh đều có một cách bình đẳng. Vì cái tướng chung đó pháp này là thật có, nên nói tất cả pháp là Như Lai tạng.

Luận nói: Hai là thanh tịnh không cấu uế. Tức pháp này ra khỏi tất cả khách trần cấu uế ngăn che.

Giải thích: Như Lai tạng này lìa hoặc trí 2 chướng, do đó hằng thanh tịnh được chư Phật Như Lai hiển hiện.

Luận nói: Ba là được chí đạo thanh tịnh. Tức tất cả pháp trợ đạo và các Ba-la-mật v.v…

Giải thích: Vì được Bồ-tát thanh tịnh hành đạo, đạo này có thể được thanh tịnh nên cũng gọi là thanh tịnh đạo, tức Bát-nhã Ba-lamật, và niệm xứ v.v…các pháp trợ đạo.

Luận nói: Bốn là đạo sinh cảnh giới thanh tịnh. Tức chính nói pháp Đại thừa.

Giải thích: Đạo và pháp trợ đạo sinh cảnh giới sở duyên. Nghĩa là Tu-đa-la v.v…12 bộ chính thuyết là tư lương thanh tịnh nên cũng gọi là thanh tịnh.

Luận nói: Bởi vì sao?

Giải thích: Thế nào là sinh đạo cảnh giới thanh tịnh? Là thâu nhiếp tính chân thật, chẳng phải phân biệt và y tha.

Luận nói: Vì điều nói đây là nhân thanh tịnh, nên chẳng phải phân biệt, từ pháp giới thanh tịnh lưu xuất nên chẳng phải y tha. Do 4 pháp thanh tịnh này bao gồm hết tất cả pháp thanh tịnh.

Giải thích: Đây chính là nói nếu thuộc tính phân biệt phải thành nhân nhiễm ô. Vì là nhân thanh tịnh nên chẳng phải tính phân biệt. Nếu thuộc tính y tha như tính y tha cũng phải thành hư vọng. Đây là cái thể thanh tịnh từ pháp giới lưu xuất nên không phải hư vọng. Do thoát ra ngoài 2 tính nên thuộc tính chân thật. Nếu nói trong 4 thanh tịnh tùy theo một thanh tịnh, thuyết này trong Đại thừa nên biết là thuộc tính chân thật. Thứ nhất thứ hai thanh tịnh, do không biến đổi nên thành chân thật. Thứ ba thứ tư do không điên đảo nên thành chân thật.

Luận nói: Ở đây có bài kệ rằng:

Giải thích: Để làm rõ lại nghĩa này một lần nữa nên nói kệ.

Luận nói:

Như huyễn …hiển y tha,

Không hiển là phân biệt.

Nếu nói 4 thanh tịnh,

Đó là thuộc chân thật.

Thanh tịnh do bản tính,

Đạo vô cấu duyên duyên.

Tất cả pháp thanh tịnh,

Bốn thứ bao gồm hết.

Luận nói: Ảo hóa v.v…là y tha.

Giải thích: Chỗ này Như Lai nói tất cả các pháp như ảo hóa, cho đến các thí dụ như biến hóa, phải biết đó là nói y tha.

Luận nói: Nói không hiển là phân biệt.

Giải thích: Nếu nói không có sắc, cho đến không có tất cả pháp, phải biết đó là nói phân biệt. Vì dụng ý này Như Lai nói tính y tha. Lấy việc ảo hóa v.v…làm thí dụ. Nay sẽ nói đến nghĩa này.

Luận nói: Nếu nói 4 thanh tịnh, nói thế là thuộc chân thật. Thanh tịnh do bản tính đạo vô cấu duyên duyên. Tất cả pháp thanh tịnh, 4 thứ bao gồm hết phẩm loại.

Vì nhân gì duyên gì là tính y tha?

Như kinh nói các thí dụ về ảo hóa v.v…để làm rõ trong tính y tha, loại trừ các nghi hoặc hư vọng.

Những nghi hoặc hư vọng trong tính y tha sinh khởi như thế nào?

Có các thuyết đối với tính y tha có tâm hư vọng nghi ngờ như thế này:

Nếu thật không có vật, vì sao thành cảnh giới?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ như ảo hóa.

Giải thích: Trong hư vọng khởi nghi tâm cho là thật có, không tin là hư vọng nên gọi là hư vọng nghi. Pháp này nếu hiển hiện thành cảnh giới làm sao nói là hư vọng. Cho nên dùng việc ảo hóa ví cho tính y tha. Ví như hình tượng ảo hóa chẳng phải thật cũng thành cảnh giới. Các pháp cũng vậy. Để loại trừ nghi ngờ này nên phải lập thí dụ.

Luận nói: Nếu không cảnh giới làm sao có tâm và tâm pháp sinh ra?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ như con nai khát nước.

Giải thích: Con nai khát nước thí dụ cho tâm và tâm pháp. Nước thí dụ cho trần cảnh. Con nai khát nước dao động sinh thức, duyên nước làm cảnh, thất ra không có nước. Như thế tâm và tâm pháp khởi biến dị, đối với không trần cảnh mà sinh ra thức duyên trần cảnh.

Luận nói: Nếu thật không có trần thì làm sao có thụ dụng ái, phi ái?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ như tướng trong chiêm bao.

Giải thích: Ví dụ như trong chiêm bao không có trần cảnh thật cũng thấy có cảm thụ yêu ghét. Đây trong tính y tha cũng vậy. Không có thật trần cũng thấy có cảm thụ yêu ghét.

Luận nói: Nếu thật không có pháp, làm sao sinh quả báo ái phi ái của hai nghiệp thiện ác?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ như ảnh tượng.

Giải thích: Ví dụ như trong gương không có ảnh trần thật. Nơi tướng mặt khởi nhận thức về ảnh. Ảnh trần này không phải không hiển hiện. Hai quả yêu ghét cũng vậy. Thật chẳng có mà hiển hiện tựa như có.

Luận nói: Nếu thật không có pháp làm sao sinh khởi các chủng trí?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ bóng sáng.

Giải thích: Ví như người chơi đùa với bóng, thấy bóng có các tướng mạo rồi theo bóng sinh các nhân thức. Thật không có ảnh trần, các thức trần cũng vậy, thật vô sở hữu mà có các thứ trần hiển hiện

Luận nói: Nếu thật không có pháp, làm sao khởi các thứ ngôn thuyết?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ như tiếng vang trong hang.

Giải thích: Ví như thật không có tiếng vang mà hiển hiện nghe được. Ngôn thuyết cũng vậy, thật vô sở hữu mà hiển hiện có thể nghe.

Luận nói: Nếu thật không có pháp, làm sao duyên pháp chân thật trong cảnh giới định tâm?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ trăng và nước.

Giải thích: Ví dụ như mặt trăng trong nước là không thật có mà hiển hiện có thể thấy. Đó là do nước trong yên lặng, cho nên nếu tâm người được định thì cảnh trần không thật cũng hiển hiện thấy được. Nước ví dụ cho định. Do định tâm yên lặng thanh tịnh.

Luận nói: Nếu thật không có pháp, vì sao chư Bồ-tát cố tạo tâm không điên đảo, thụ sinh trong sáu đường, làm các việc lợi tha?

Để giải quyết nghi ngờ này nên nói thí dụ như biến hóa.

Giải thích: Ví như cảnh trần biến hóa không thật, tùy theo biến hóa làm ra. Tất cả mọi sự tạo tác đều là cảnh trần biến hóa, không gì không hiển hiện. Bồ-tát thụ sinh cũng vậy. Thật sự không có thân thụ sinh trong 6 đường, mà cũng hiển hiện thân thụ sinh và làm các việc lợi ích chúng sinh.

Lại nữa Phật Thế Tôn nói các thí dụ như ảo hóa v.v…còn có ý nghĩa gì khác?

Còn có ý nghĩa khác. Nay sẽ nói ý của Phật. Thí dụ ảo hóa là để đối trị 6 nội căn như nhãn v.v…Các căn như ảnh tượng ảo hóa chẳng thật có mà hiển hiện tựa như có. Con nai khát nước thí dụ cho khí thế giới. Do đại này nên hiển hiện như nước, thật sự là vô sở hữu mà đối với con nai khát nước thì hiển hiện tựa như có. Do dao động mà chúng sinh chấp cái khí thế giới này là có sắc v.v…những pháp có thể thụ dụng như nước trong lúc con nai đang khát cho là có thể uống. Để đối trị chấp này nên nói thí dụ tướng trong chiêm bao. Ví dụ như sắc v.v…các trần trong chiêm bao là vô sở hữu, nhân đó có cảm thụ yêu ghét. Để đối trị thân nghiệp nên nói thí dụ ảnh, y vào thân nghiệp thiện ác có các sắc tựa như ảnh tượng sinh. Để đối trị khẩu nghiệp nên nói thí dụ tiếng vang trong hang. Do thí dụ này làm rõ khẩu nghiệp là nhân có quả báo của khẩu nghiệp như tiếng vang trong hang. Ý nghiệp có 3 thứ. Một trường hợp không vắng lặng, tức như các nghiệp tán động ở cõi Dục. Hai là trường hợp vắng lặng, tức tu tuệ. Ba là trường hợp văn tư 2 tuệ. Để đối trị ý nghiệp trong trường hợp không vắng lặng nên nói thí dụ như bóng sáng. Do thí dụ này rõ được quả báo của ý nghiệp ví như bóng sáng. Để đối trị ý nghiệp trong trường hợp vắng lặng nói mặt trăng dưới nước làm rõ quả báo của ý nghiệp. Ví như mặt trăng dưới nước. Mặt trăng dưới nước thật sự không có mặt trăng mà hiển hiện tựa như mặt trăng. Tâm vắng lặng cũng vậy, thật sự là vô sở hữu. Trong tâm vắng lặng mà có dao động thì sẽ hiển hiện quả hiện tại và đời sau. Lìa cái tâm vắng lặng này không có quả nào khác. Để đối trị ý nghiệp của phẩm loại văn tư nói thí dụ biến hóa. Nếu là văn tư huân tập thì sinh nghiệp quả báo.

Ví như các phẩm loại biến hóa là phi hữu mà hiển hiện là hữu. Văn tư sinh nghiệp quả báo cũng vậy. Do pháp này 3 tính là tướng Như Lai đã nói trong kinh đều phải tùy thuận. Nay sẽ nói về tùy thuận nghĩa kinh.

Luận nói: Trong Bà-la-môn Vấn Kinh có nói: Thế Tôn dựa vào nghĩa nào nói điều này: Như Lai không thấy sinh tử không thấy Niếtbàn. Trong tính y tha, dựa vào tính phân biệt và dựa vào tính chân thật. Nói sinh tử là Niết-bàn là dựa vào nghĩa không sai biệt. Bởi vì sao? Tính y tha này, do một phần phân biệt thành sinh tử, do một phần chân thật thành Niết-bàn.

Giải thích: Tính y tha là phi sinh tử. Do tính này, nhân tính chân thật thành Niết-bàn. Tính này phi Niết-bàn. Bởi vì sao? Đây là do phân biệt tức là sinh tử. Cho nên không thể nhất định nói một phần. Nếu thấy một phần thì tính các phần khác cũng không khác. Cho nên không thấy sinh tử cũng không thấy Niết-bàn. Do ý này Như Lai trả lời người Bà-la-môn như vậy.

Luận nói: Trong Kinh A-tì-đạt-ma, Phật Thế Tôn nói pháp có ba thứ: một là phần nhiễm ô, hai là phần thanh tịnh, ba là phần nhiễm ô và thanh tịnh.

Dựa vào nghĩa gì mà nói ba phần này?

Trong tính y tha, tính phân biệt là phần nhiễm ô, tính chân thật là phần thanh tịnh, tính y tha là phần nhiễm ô và thanh tịnh. Dựa vào nghĩa đó mà nói ba phần.

Giải thích: Trong Kinh A-tì-đạt-ma nói tính phân biệt lấy phiền não làm tính, tính chân thật lấy thanh tịnh phẩm làm tính, tính y tha do đủ 2 phần nên lấy 2 tính làm tính. Nói pháp có 3 thứ: Một, phiền não là một phần. Hai, thanh tịnh là một phần. Ba, 2 pháp làm một phần. Dựa theo nghĩa đó nên nói như vậy.

Luận nói: Trong nghĩa này lấy gì làm thí dụ?

Thí dụ như vàng trong đất. Nghĩa là thí dụ như trong đất có vàng. Ta thấy có 3 pháp: một là địa giới, hai là vàng, ba là đất. Trong địa giới này, đất chẳng phải thật có mà hiển hiện, vàng thật có thì không hiển hiện. Nếu dùng lửa nung luyện đất này, đất sẽ không hiện mà tướng vàng tự hiển hiện. Trong địa giới này, khi đất hiển hiện là do tướng hư vọng hiển hiện. Khi vàng hiển hiện, đó mới là do tướng chân thật hiển hiện. Vì vậy địa giới này có 2 phần.

Giải thích: Như Lai vì để làm rõ nghĩa này nói thí dụ vàng trong đất. Vàng là vật được chứa, địa giới là chủng tử của vàng nên nói đất chứa vàng. Lấy tính chạm thấy cứng làm địa giới, lấy sắc được tạo ra làm đất. Nghĩa là sắc trần v.v…Ba cái này có thể hiểu được. Địa giới này trước do tướng đất hiển hiện. Sau do tướng vàng hiển hiện. Bởi vì sao? Địa giới này nếu được lửa nung luyện thì tướng vàng sẽ hiện ra. Cho nên trong địa giới thật có vàng. Nghĩa này có thể tin được.

Luận nói: Như bản thức này khi chưa được lửa vô phân biệt trí nung luyện thì thức này do tính phân biệt hư vọng hiển hiện, không do tính chân thật hiển hiện. Vì vậy nên cái thức của tính phân biệt hư vọng, tức tính y tha có 2 phần. Thí dụ như địa giới có vàng trong đất.

Lại nữa, có chỗ Thế Tôn nói tất cả pháp thường trú, có chỗ nói tất cả pháp là vô thường, có chỗ nói chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Vậy dựa vào nghĩa gì nói là thường?

Tính y tha này, do phần của tính chân thật nên nói thường trú, do phần của tính phân biệt nên nói vô thường, do phần của hai tính phi thường phi vô thường. Như dựa vào nghĩa này nói thường, vô thường là không hai. Cũng thế nói khổ, vui là không hai, thiện, ác là không hai, không, bất không là không hai, có ngã, không có ngã là không hai, tịnh, bất tịnh là không hai, hữu tính, vô tính là không hai, có sinh, không sinh là không hai, có diệt, không diệt là không hai, bản lai tịch tĩnh, không tịch tĩnh là không hai, bản lai Niết-bàn, phi Niết-bàn là không hai, sinh tử, Niết-bàn là không hai. Do các sai biệt như thế, Chư Phật Như Lai dựa vào nghĩa của mật ngữ, do 2 tính này, nên phải tùy trường hợp mà quyết định thường, vô thường như trên đã giải thích. Ở đây có bài kệ như sau:

Như pháp thật chẳng có,

Như kia các thứ hiện.

Do đây pháp phi pháp,

Nên nói nghĩa không hai.

Giải thích: Các pháp là phi pháp, phi phi pháp. Do pháp thật sự vô sở hữu nên là phi pháp, như có hiển hiện nên là phi phi pháp. Do phi pháp phi phi pháp nên nói nghĩa không hai.

Luận nói:

Dựa một phần nên nói,

Hoặc hữu hoặc phi hữu.

Dựa hai phần nên nói,

Phi hữu, phi phi hữu.

Giải thích: Nếu dựa vào một phần một phần, không thể nói các pháp là hữu hay phi hữu. Như chỗ hiển hiện không phải hữu là như vậy nên không thể nói là hữu. Tuy thật sự là phi hữu, nhưng hiển hiện như là hữu nên không thể nói là phi hữu. Nếu nắm bắt lấy một phần một phần thì nên phán đoán như vậy. Nếu là tính y tha có đủ 2 phần thì nói các pháp là phi hữu phi phi hữu.

Luận nói:

Như hiển hiện chẳng có,

Cho nên nói hằng không.

Như hiển hiện thật có,

Cho nên nói chẳng không.

Giải thích: Như chỗ hiển hiện không phải là có như vậy. Dựa vào nghĩa không có nên nói là hằng không. Tuy là không có nhưng không phải không hiển hiện. Dựa vào nghĩa chỉ có hiển hiện nên nói là chẳng phải không.

Luận nói:

Do tự thể phi hữu,

Vì tự thể không trụ.

Vì như thủ không có,

Ba tính thành vô tính.

Do vô tính nên thành,

Trước là sau y chỉ.

Không sinh diệt vốn lặng,

Và tự tính Niết-bàn.

Luận nói: Do tự thể phi hữu.

Giải thích: Nay sẽ giải thích rõ ý Như Lai nói về vô tính. Câu thứ nhất một phần nói vô tính thông có Đại thừa Tiểu thừa. Đây chính hiển thị ý vô tính. Phi hữu là nói chung về vô tính. Do các pháp lìa nhân duyên hòa hợp, không quan hệ ngoại duyên mà tự nhiên thành là không có nghĩa như vậy. Tất cả pháp vô tính, thể phi hữu cũng là vô tính. Đây là có ý khác. Nghĩa là nếu lấy quá khứ vị lai thì thể này đã diệt, do cái thể này lại lập pháp là hữu thì không có nghĩa như vậy. Thể này chưa có mà lấy thể này dự lập pháp là hữu, cũng không có nghĩa như vậy. Cho nên quá khứ vị lai 2 thời đều không có tự tính.

Luận nói: Vì tự thể không trụ.

Giải thích: Các pháp đã sinh qua, chỉ khi sinh là không có thể dừng trụ. Không thể dừng trụ thì hiện tại cũng không có cái thể của hiện tại. Ba thời vô tính là chung cả Đại Tiểu 2 thừa.

Luận nói: Vì như thủ không có, ba tính thành vô tính.

Giải thích: Do tính phân biệt hiển hiện, thật vô sở hữu nên tính vô tướng, tính phân biệt là không có thể tướng. Vì y tha không có chỗ y chỉ nên là tính vô sinh. Hai vô tính này là vô vô tính nên là tính chân thật vô tính. Ba vô tính này chi có trong Đại thừa, các thừa khác thì không.

Luận nói: Do vô tính nên thành trước là y chỉ của sau, không sinh diệt bản tịnh và tự tính Niết-bàn.

Giải thích: Do các pháp hằng thật vô tính mà thành 4 nghĩa nhất thiết vô sinh v.v… Bởi vì sao? Nếu các pháp vô tính nên vô sinh. Nếu vô sinh thì vô diệt. Do vô sinh vô diệt nên bản lai tịch tĩnh. Do bản lai tịch tĩnh nên thành tự tính Niết-bàn. Cái trước là cái y chỉ cho cái sau thành lập. Nghĩa là thành lập vô tính. Vô sinh nên là y chỉ của vô sinh. Ba cái sau cũng vậy.

Chương 4: Làm rõ ý y

Luận nói: Lại nữa có 4 ý và 4 y. Tất cả giáo pháp của Chư Phật Thế Tôn phải biết tùy trường hợp quyết định.

Giải thích: Như Lai nói chính pháp không ra ngoài 4 ý và 4 y. Ý và y này do 3 tính nên có thể quyết định rõ. Nếu tách rời 3 tính sẽ không có đạo lý nào khác có thể quyết định pháp này.

Luận nói: Bốn ý là: Một, bình đẳng ý.

Giải thích: Ví như có người giữ pháp bình đẳng, nói kia tức là ta, Thế Tôn cũng vậy, pháp thân bình đẳng an trí trong tâm. Nói như vậy.

Luận nói: Ví như nói trong thời xa xưa ta tên Tì-bà-thi, thành Phật đã lâu.

Giải thích: Chẳng phải Tì-bà-thi xưa là Thích-ca Mâu-ni ngày nay. Trong câu nói này là lấy ý bình đẳng là thông bình đẳng. Nếu nói biệt bình đẳng thì nhân quả ân đức đều đồng. Đó là bình đẳng ý.

Luận nói: Hai, biệt thời ý.

Giải thích: Nếu có chúng sinh do biếng nhác chướng ngại không siêng năng tu hành, Như Lai dùng phương tiện nói. Do đạo lý này, trong chính pháp của Như Lai là nói phương tiện có thể siêng tu.

Luận nói: Ví như nói nếu người trì tụng danh hiệu Phật Đa Bảo, chắc chắn sẽ không thoái đọa vô thượng Bồ-đề.

Giải thích: Là thoái đọa thiện căn do trì tụng danh hiệu Phật Đa Bảo để tiến lên thượng phẩm công đức. Ý Phật là nói rõ thượng phẩm công đức trong sự thực hành cạn cợt muốn bỏ sự lười biếng siêng năng tu đạo, không phải chỉ do tụng danh hiệu Phật tức không thoái đọa, quyết định được vô thượng Bồ-đề. Ví như một đồng tiền vàng đem làm kinh doanh kiếm được một ngàn tiền vàng, không phải một ngày mà được một ngàn, do thời gian khác mới được một ngàn. Ý Như Lai cũng vậy. Một đồng tiền vàng này là nhân của một ngàn đồng tiền vàng. Trì tụng danh hiệu Phật cũng vậy. Đó là nhân không thoái đọa Bồ-đề.

Luận nói: Lại có thuyết nói do chỉ phát nguyện sinh về cõi Phật an lạc là được vãng sinh.

Giải thích: Phải hiểu như trước. Đó gọi là biệt thời ý.

Luận nói: Ba, biệt nghĩa ý.

Giải thích: Câu nói này nói rõ sự tự hiểu rõ thật tướng. Do đạo lý về nghĩa của 3 tính, nếu chỉ nghe mà hiểu nghĩa thì ý của Như Lai là trẻ thơ, người phàm phu cũng có thể nghe hiểu. Cho nên ý Như Lai không như vậy. Ý Như Lai thế nào?

Luận nói: Ví như nói phụng sự hằng sa chư Phật thì được hiểu rõ nghĩa của pháp Đại thừa.

Giải thích: Sự hiểu rõ này không phải do nghe mà được. Người đã phụng sự hằng hà sa số chư Phật mới thành tựu được. Đó gọi là biệt nghĩa ý.

Luận nói: Bốn, chúng sinh lạc dục ý. Ví như Như Lai trước vì một người khen ngợi bố thí, sau lại chê.

Giải thích: Có chúng sinh Như Lai trước khen ngợi công đức bố thí, sau hoặc vì người này lại chê sự bố thí. Ý này là tùy theo người. Bởi vì sao? Nếu người có tâm keo kiệt đối với tiền của, để trừ tâm này nên trước ca ngợi sự bố thí. Nếu người này đã vui thích hạnh bố thí rồi, thí là hạ phẩm thiện căn nên sau đó Như Lai lại chê sự bố thí này khiến khao khát ngưỡng mộ các hạnh vượt trội hơn. Nếu không do ý này thì khen chê thành trái nhau. Do Như Lai có biệt ý nên đối với một sự bố thí có khen chê mà không trái nhau.

Luận nói: Như thí giới và các tu pháp khác cũng vậy. Đó gọi là bốn ý.

Giải thích: Giới v.v…cũng như vậy. Có người Như Lai khen chê đối với sự tu hành của họ. Đó là tu theo hành thế gian là đáng chê, nếu tu hành theo xuất thế gian thì không thể chê. Nghĩa của ý và y có tướng khác nhau, sao tâm Như Lai trước duyên việc này, sau vì người khác nói, nên gọi là ý. Do nhân này chúng sinh quyết định nhập Chính định tụ, nên gọi nhân này là y.

Luận nói: Bốn y là: Một, khiến nhập y, tức dựa vào sự dẫn nhập. Ví như trong Đại Tiểu thừa, Phật nói hai thứ nhân và pháp, hai tướng chung và riêng, được bao gồm trong tục đế.

Giải thích: Trong giáo pháp của Phật về lý thế tục đế nói có 2 tướng nhân và pháp, chung và riêng để khiến chúng sinh dựa vào đó mà dẫn nhập vào nghĩa đúng, nên gọi là khiến nhập y.

Luận nói: Hai, tướng y, tức dựa vào tướng. Ví như tùy chỗ nói pháp tướng, ắt có 3 tự tính.

Giải thích: Trong giáo pháp của Phật, nếu nói pháp tướng ắt nói 3 tính. Ba tính là tướng chung của tất cả pháp. Nếu muốn hiểu rõ tất cả pháp ắt phải dựa vào 3 tướng này, nên gọi là tướng y.

Luận nói: Ba, đối trị y, tức dựa vào sự đối trị. Trong đây nói đối trị tám vạn bốn ngàn hành tướng phiền não của chúng sinh.

Giải thích: Trong giáo pháp của Phật nếu nói đối trị các hành của chúng sinh thì không ngoài 8 vạn 4 ngàn. Tức là nói Tứ đế v.v… Đây là nói khả năng trừ nghi về thân kiến giới thủ trong nhân quả của chúng sinh. Vì có thể thành lập pháp đối trị phiền não của chúng sinh, nên gọi đối trị y.

Luận nói: Bốn, phiên y, tức dựa vào sự chuyển đổi. Trong đây dùng ngôn từ với nghĩa riêng để làm rõ các thí dụ có nghĩa riêng. Như kệ nói:

Giải thích: Trong giáo pháp của Phật do làm rõ nói nghĩa riêng, văn tự chỉ nói nghĩa riêng, nên gọi phiên y. Như kệ nói.

Luận nói:

A sa ly sa la ma đa da,

Tì bạt da tư giả tu hi đa,

Li thi na giả tăng kha lí đa,

La bàn để bồ đề vật đa ma.

Luận nói: A sa ly

Giải thích: Nghĩa là định. Bởi vì sao? Sa ly có 2 nghĩa: một là thật, hai là động. A sa ly nghĩa là không thật không động. Không thật là câu văn rõ nghĩa. Không động là nghĩa bí mật. Không động nên gọi là định.

Luận nói: Sa la ma đa da

Giải thích: Danh khởi thật tâm. Nghĩa là trong định khởi tâm tôn trọng.

Luận nói: Tì bạt da tư giả

Giải thích: Nghĩa là Tứ niệm xứ trí tuệ. Bởi vì sao? Tì bạt da tư giả cũng có 2 nghĩa: một là đảo, nghĩa là đối với vô thường khởi điên đảo cho là thường v.v…, hai là phiên đảo, nghĩa là đối với thường hiểu là vô thường. Đảo là nghĩa rõ ràng của câu văn. Phiên đảo là nghĩa bí mật.

Luận nói: Tu hi đa

Giải thích: Nghĩa là thiện trụ. Khéo an trụ nơi niệm xứ.

Luận nói: Li thí na giả

Giải thích: Nghĩa là Chính cần. Bởi vì sao? Li thí na giả cũng có 2 nghĩa: một là phiền não, hai là khổ nạn. Phiền não là là nghĩa rõ ràng của câu văn. Khổ nạn là nghĩa bí mật của Chính cần.

Luận nói: Tăng kha lí đa

Giải thích: Cũng có 2 nghĩa: một nhiễm ô, hai mệt mỏi. Nhiễm ô là nghĩa rõ ràng của câu văn. Mệt mỏi là nghĩa bí mật. Bồ-tát vì chúng sinh ở trong sinh tử hằng khổ hạnh thời gian lâu nên mệt mỏi, như pháp sư La-hầu-la nói: Thế Tôn thời gian lâu cực nhọc trong sinh tử là chỉ vì Đại bikhông vì gì khác.

Luận nói: La bàn để Bồ-đề vật đa ma

Giải thích: La bàn để dịch là đắc, Bồ-đề dịch là giác, vất đa ma dịch là thắng. Nếu đem kệ này phán đoán văn hiểu nghĩa sẽ thành trái nhau. Nếu lấy nghĩa bí mật phán đoán văn thì đúng chính giáo. Muốn khiến chúng sinh dựa vào lý phán đoán văn, lấy lý làm chỗ dựa, không nên dựa vào văn, nên nói kệ này. Hoặc cũng có người kiêu mạn khinh miệt nói tự mình không thể phán đoán nghĩa đúng như lý. Muốn phá bỏ tâm kiêu mạn kia nên nói kệ này. Đây gọi là phiên y.

Luận nói: Nếu người muốn giải thích rộng pháp Đại thừa thì nói chung nên giải thích do 3 tướng này: một giải thích rộng thể tướng duyên sinh, hai giải thích rộng về việc dựa vào nhân duyên đã sinh thật tướng các pháp, ba rộng giải thích sự thành lập các nghĩa.

Giải thích rộng về thể tướng duyên sinh là như kệ nói các pháp do huân tập sinh, cái này từ cái kia, như quả báo thức này với sinh khởi thức làm nhân cho nhau sinh khởi.

Giải thích: Do phân biệt ngoại trần sinh, huân tập thành chủng tử trong bản thức, gọi là huân tập. Tất cả pháp lấy đó làm nhân được sinh, gọi sinh khởi thức là tính. Ngôn thuyết huân tập lấy các pháp làm nhân, nên nói pháp này từ cái kia sinh. Do ngôn thuyết này đã rõ bản thức cùng với sinh khởi thức làm nhân cho nhau.

Luận nói: Giải thích rộng về việc dựa vào nhân duyên đã sinh thật tướng các pháp là các pháp lấy sinh khởi thức làm tướng, có tướng và kiến thức làm tự tính.

Giải thích: Là các pháp có kiến có tướng làm tự tính. Sinh khởi thức làm tướng. Nên như thế biết các pháp có 2 thể. Nếu là trần thức thì lấy tướng làm thể. Nếu là thức thức thì lấy kiến làm thể. Từ nhân duyên sinh pháp có 3 thứ tính tướng.

Luận nói: Lại nữa, các pháp y chỉ làm tướng, Giải thích: Là tính y tha. Luận nói: phân biệt làm tướng, Giải thích: Là tính phân biệt.

Luận nói: pháp nhĩ làm tướng.

Giải thích: Là tính chân thật.

Luận nói: Do đó, thể tướng các pháp được hiển hiện trong ba tính.

Giải thích: Do ngôn thuyết đó, tất cả pháp là từ nhân duyên sinh, do pháp nhĩ nên hư giả, hư giả thành điên đảo, do điên đảo mà được quả hư giả, do có quả nên có phân biệt, do phân biệt nên có pháp nhĩ. Vì vậy hoặc thuận tướng thành, hoặc nghịch tướng thành.

Ba thứ tính tướng này gồm thâu tất cả quả.

Luận nói: Như kệ nói:

Giải thích: Để rõ nghĩa này nên lại nói kệ.

Luận nói:

Từ có tướng có kiến,

Mà biết pháp ba tướng.

Giải thích: Các pháp không ra ngoài 2 thứ: một là tướng, hai là kiến. Trong tướng kiến phải hiểu rõ 3 tính là tướng. Ba tướng này như phương tiện này phải giải thích. Nay sẽ nói rõ.

Luận nói: Làm sao có thể giải thuyết tính phân biệt của pháp tướng này?

Ở nơi tính y tha, thật không có tính phân biệt, trong tính chân thật thì có. Do hai cái có và không có này mà chẳng phải chứng đắc với chứng đắc, chưa thấy chân lý và đã thấy chân lý, nơi chân như đồng thời tự nhiên thành. Trong tính y tha vì không có tính phân biệt mà có tính chân thật cho nên nếu thấy cái kia thì không thấy cái này, nếu không thấy cái kia thì thấy cái này.

Giải thích: Hai là tính phân biệt và tính chân thật. Hai này, cái thứ nhất không, cái thứ hai có, nên nói hai cái này không có và có. Do thấy phân biệt không thấy chân thật. Nghĩa là người chưa thấy chân thật là phàm phu khi không thấy. Thánh nhân không thấy phân biệt tức thấy chân thật.

Luận nói: Như kệ nói:

Giải thích: Để làm rõ nghĩa này nên nói kệ trở lại.

Luận nói:

Y tha không phân biệt,

Mà chỉ có chân thật.

Nên không được và được,

Trong đây hai bình đẳng.

Giải thích: Đây là nói ở trong tính y tha. Hai bình đẳng này nghĩa là trong tính y tha không có phân biệt, có chân thật. Nên người phàm phu chấp điên đảo. Như thế là được và không được chính kiến của Thánh nhân. Vì vậy trong y tha cũng có nghĩa được và không được.

Luận nói: Giải thích rộng về sự thành lập các nghĩa, tức là ví như nói câu đầu tiên, rồi hiển thị phân biệt bằng các câu khác, hoặc do y chỉ công đức, hoặc y chỉ vào nghĩa nhân sự. Y chỉ công đức là rộng nói công đức của Phật Thế Tôn: 1.Tuệ thanh tịnh cao tột.

Giải thích: Nhân trước có 2 nghĩa. Tất cả những điều được nói, phải giải thích như thế này. Nay sẽ nói phương tiện này. Trong đây những điều được nói hoặc dựa vào nghĩa công đức, hoặc dựa vào nghĩa nhân sự. Dựa vào nghĩa công đức, đó là tuệ thanh tịnh cao tột. Đây là câu đầu tiên. Các câu khác đều làm rõ nghĩa này.

Luận nói: 2. Không hai hành. Nghĩa là đối với sở tri, tất cả không có hành chướng, phát khởi công đức.

Giải thích: Không như Thanh Văn, Độc Giác trí tuệ có chướng. Không chướng do có chướng, nên không thanh tịnh, do không chướng nên thanh tịnh. Trí tuệ Như Lai trong tất cả mọi chỗ mọi nơi đều không có chướng, cho nên không có tịnh nào mà chẳng tịnh. Do nghĩa này nên không hai.

Luận nói: 3. Pháp vô tướng là chỗ dựa thù thắng ý hành. Nghĩa là đối với hữu vô không có 2 tướng. Chân như thanh tịnh cao tột khiến nhập công đức.

Giải thích: Tức là chân như thanh tịnh không cấu uế, gọi là pháp vô tướng. Do tất cả pháp lấy vô sở hữu làm thể, nên pháp này lìa hữu tướng. Do tự thể thật hữu, nên pháp này lìa vô tướng. Trong pháp vô tướng, do thanh tịnh cao tột cho nên tự có thể thông đạt, cũng có thể khiến người khác thông đạt cho nên nói pháp vô tướng là thắng y ý hành.

Luận nói: 4. Trụ nơi Phật trụ. Nghĩa là không do công dụng, không bỏ sự nghiệp của Như Lai, Phật trụ công đức.

Giải thích: Đây là nói Niết-bàn vô trụ xứ. Không ở nơi sinh tử nên tâm vô công dụng, không tại Niết-bàn nên không bỏ sự nghiệp Như Lai làm lợi ích chúng sinh. Hai nghĩa này do Niếtbàn vô trụ xứ mà được thành lập. Nói tên Niết-bàn này gọi là Phật trụ.

Luận nói: 5. Đến được chỗ bình đẳng của chư Phật. Nghĩa là nơi pháp thân y chỉ và ý sự không có công đức sai biệt.

Giải thích: Y chỉ tức pháp thân. Ý là ứng thân. Sự là hóa thân. Ba thân này tất cả Như Lai trong 10 phương 3 đời đều bình đẳng không khác. Bình đẳng này tất cả Như Lai đều đã đến được.

Luận nói: 6. Hành các hạnh vô ngại. Nghĩa là tu tập tất cả công đức đối trị chướng ngại.

Giải thích: Để đối trị tất cả 3 chướng, Như Lai hằng tu tuệ đối trị. Cho nên trí Như Lai, đối với pháp thể và pháp tướng đều không chướng ngại.

Luận nói: 7. Pháp không thể phá hoại, không lay chuyển. Nghĩa là công đức hàng phục tất cả ngoại đạo.

Giải thích: Trong thế gian không có một thuyết nào của thiên ma ngoại đạo có thể như lý phá hoại pháp do Như Lai an lập, cũng không thể tự lập lên một pháp đối địch chống lại chính pháp của Như Lai. Bởi vì sao? Vì điều Như Lai nói không mất bản tính.

Luận nói: 8. Cảnh không thể đổi khác. Nghĩa là sinh trong thế gian mà có công đức không bị pháp thế gian làm nhiễm ô.

Giải thích: Thế gian nơi Như Lai xuất sinh, tuy sinh trong thế gian 8 pháp tham ái v.v…và 4 điên đảo không thể nhiễm ô. Cảnh tức 4 Niệm xứ, nghĩa là chân như không.

Luận nói: 9. Pháp không thể thành lập bởi tư duy. Nghĩa là an lập công đức chính pháp.

Giải thích: Tu-đa-la 12 bộ chính pháp không thể tư duy suy lường, chẳng phải phàm phu có thể biết được. Như Lai an lập pháp này rồi cho đến trẻ thơ v.v…cũng có thể thông đạt. Như Cưu-ma-la, Ca-diếp v.v…là câu thanh tịnh tuệ trước, ở các câu khác mỗi mỗi nên biết tương ưng.

Luận nói: 10. Đến ba đời bình đẳng. Nghĩa là

4 thứ thiện xảo công đức trả lời các câu hỏi của người khác.

Giải thích: Như Lai hiện tại chứng tất cả pháp. Trong quá khứ, vị lai cũng chứng. Do chứng trí bình đẳng này, nếu người khác trong 3 đời nạn vấn thì không nạn vấn nào không dựa vào chứng trí lập ra 4 thứ giải đáp. Cho nên trí giải đáp đều như Như Lai đạt tới 2 thứ bình đẳng này.

Luận nói: 11. Hiện thân khắp tất cả thế giới. Nghĩa là trong tất cả thế giới hiển hiện công đức ứng hóa thân.

Giải thích: Làm hóa Bồ-tát và Nhị thừa, tùy căn tính chúng sinh mà hiện 2 thân để thuyết pháp và hành lợi ích.

Luận nói: 12. Trí tuệ vô ngại đối với tất cả pháp. Tức là công đức có thể giải quyết các nghi ngờ của người khác.

Giải thích: Do được 4 vô úy nên tự quyết định không nghi. Do được 4 vô ngại biện nên có thể giải quyết mối nghi cho người khác. Vì vậy có thể quyết nghi, giải đáp các vấn nạn.

Luận nói: 13. Tất cả hành tương ưng với trí tuệ. Nghĩa là do các hạnh có thể khiến người khác nhập vào công đức.

Giải thích: Như Lai muốn thực hành việc lợi tha việc này trước là trí sở duyên. Do việc này, người khác được nhập vào chân vị, tức cùng với trí tuệ người khác tương ưng. Việc này lấy tự trí tuệ làm nhân, lấy tha trí tuệ làm quả. Tất cả phương tiện Như Lai thật hành là thần thông luân, ký tâm luân, thuyết pháp luân, cho đến hơi thở ra vào v.v…không phương tiện nào là không tự mình tương ưng cùng trí tuệ, không phương tiện nào không khiến người được trí tuệ, không có gì là luống qua trống rỗng.

Luận nói: 14. Đối với pháp, trí vô nghi. Nghĩa là pháp đời vị lai sinh công đức trí tuệ.

Giải thích: Pháp này trong đời vị lai sẽ sinh như trí này. Cho nên ở đời vị lai pháp không nghi, tùy căn tính chúng sinh mà lập giáo để khiến chúng được pháp này.

Luận nói: 15. Không thể phân biệt thân. Nghĩa là hiển hiện công đức tùy ý lạc của chúng sinh.

Giải thích: Chúng sinh giới quá số lượng, ý dục và phương tiện nhập đạo cũng quá số lượng, xứ sở cũng quá số lượng, Như Lai có thể tùy theo những sự sai biệt đó thị hiện hóa thân, số lượng, tướng mạo, thời tiết, xứ sở đều không thể phân biệt.

Luận nói: 16. Trí tuệ tất cả Bồ-tát thụ nhận. Nghĩa là có thể làm vô lượng y chỉ, công đức giáo hóa chúng sinh.

Giải thích: Do vô lượng Bồ-tát y chỉ, là việc giáo hóa chúng sinh nên có thể dựa vào việc này. Do được vô ngã của Phật là thắng ngã, trí này chỉ Bồ-tát được thụ nhận . Chỉ Phật có thể giáo hóa Bồtát. Chỉ Bồ-tát có thể nhận sự hóa độ này của Phật. Nói vô lượng Bồ-tát y chỉ, đây có 2 nghĩa vô lượng, hoặc thuộc Bồ-tát hoặc thuộc y chỉ. Nếu thuộc Bồ-tát thì tất cả Bồ-tát đồng một y chỉ. Nghĩa là lấy vô ngã làm thắng ngã. Nếu thuộc y chỉ thì hiển lộ pháp thân biến mãn làm y chỉ chung cho tất cả Bồ-tát.

Luận nói: 17. Đến chỗ Phật trụ không hai Ba-la-mật . Nghĩa là công đức thành tựu pháp thân bình đẳng Ba-la-mật.

Giải thích: Pháp thân Như Lai gọi là Phật trụ. Ba đời Như Lai trụ này không khác nên nói không hai. Không hai cho nên bình đẳng. Bốn đức cứu cánh gọi là Ba-la-mật. Thành tựu có 2 nghĩa. Một là pháp thân Phật thanh tịnh, đã lìa tất cả chướng, rốt ráo thanh tịnh nên gọi là thành tựu. Hai là 4 đức là pháp thân được thành tựu.

Luận nói: 18. Đến chỗ cứu cánh trí giải thoát không sai biệt của Như Lai. Nghĩa là tùy ý dục của chúng sinh hiển hiện công đức cõi Phật thuần tịnh.

Giải thích: Trong trí không xen tạp của Như Lai rốt ráo đến giải thoát. Trí tuệ Như Lai với chân như không sai biệt, tùy ý dục nguyện lạc của chúng sinh có thể hiển hiện cõi Phật thanh tịnh v.v… để sinh thiện tâm thành thục giải thoát.

Luận nói: 19. Đã được vô biên Phật địa bình đẳng. Nghĩa là công đức 3 thứ Phật thân không lìa, không xứ sở riêng.

Giải thích: Trong 3 thân của Như Lai, về pháp thân thì không thể lượng đạc xứ sở, về ứng hóa 2 thân cũng vậy, không thể nói chỉ có ở thế giới này, thế giới kia không có. Không có một pháp nào ra ngoài pháp thân. Không có cõi chúng sinh nào ra ngoài ứng hóa 2 thân.

Luận nói: 20. Pháp giới là thù thắng. Nghĩa là cho đến tận cùng sinh tử có thể sinh công đức lợi ích an lạc tất cả chúng sinh.

Giải thích: Như Lai lấy pháp giới là thù thắng hơn cả. Pháp giới có 2 thứ. Một là có nhiễm, hai là không nhiễm. Pháp giới thanh tịnh không nhiễm là thù thắng tối hậu. Bởi vì sao? Như Lai cho đến tận cùng sinh tử làm lợi ích an lạc chúng sinh, công năng vô tận. Sở dĩ vô tận là do thể. Do năng thể , tức pháp giới. Năng tức ứng hóa 2 thân. Nhân hóa thân được Như Lai ứng thân. Nhân ứng thân sau chuyển thành Như Lai pháp thân. Thành pháp thân thì vô cùng tận.

Luận nói: Cõi hư không là hậu biên. Nghĩa là do công đức vô tận.

Giải thích: Trí tuệ Như Lai vô tận ví như hư không. Hư không biến khắp tất cả cõi sắc, không có sinh, trụ diệt và biến đổi. Trí Như Lai cũng vậy, biến khắp tất cả sở tri, không điên đảo, không biến đổi nên nói là như hư không.

Luận nói: 21. Tuệ thanh tịnh cao tột.

Như vậy câu đầu tiên đây do các câu khác lần lượt phân biệt giải thích. Được như vậy là đúng nghĩa thuyết pháp.

Giải thích: Do 20 đạo lý thành tựu trí tuệ thanh tịnh cao tột của Như Lai. Như Lai đầy đủ tự lợi do trí tuệ thanh tịnh. Như Lai thuyết pháp giáo lý viên chính được thành tựu lợi tha. Câu thứ nhất là gốc. Hai mươi câu khác là năng thành tựu.

Luận nói: Y chỉ nghĩa nhân sự là như kinh nói nếu Bồ-tát tương ưng với 32 pháp gọi là Bồ-tát.

Giải thích: Nhân sự có 2 nghĩa: Một, lấy ý làm nhân, lấy 16 nghiệp làm sự. Hai, lấy các câu làm nhân, sở thành nghiệp làm sự. Bồ-tát có 2 thứ: một tại chính định vị, hai tại bất định vị. Nếu nhập chính định vị, cùng 32 pháp tương ưng được gọi là Bồ-tát. Nếu tại bất định vị, chưa cùng 32 pháp tương ưng không được gọi là Bồ-tát.

Luận nói: Đối với tất cả chúng sinh, tương ưng với lợi ích an lạc ý.

Giải thích: Đối với tất cả chúng sinh muốn cầu đạo chân thật thì có phương tiện nên gọi là lợi ích ý. Đối với tất cả chúng sinh muốn cầu 2 đời hiện tại vị lai hết khổ cho vui thì có phương tiện nên gọi là an lạc ý. Bồ-tát hằng không tách rời ý này nên gọi là tương ưng. Câu đầu tiên này nói rõ lợi ích an lạc ý. Sau có 16 nghiệp và 16 câu, hợp lại là 32 pháp đều làm rõ nghĩa câu đầu tiên.

Luận nói: Ý khiến nhập trí nhất thiết trí. Nghĩa là truyền truyền hành nghiệp.

Giải thích: Nếu Bồ-tát có ý muốn khiến chúng sinh nhập vào trí nhất thiết trí, do ý này truyền tiếp hóa độ chúng sinh khiến được trí nhất thiết trí, ví như một ngọn đèn chuyền thắp ngàn ngọn đèn. Do câu và nghiệp này, lợi ích an lạc ý của Bồ-tát được hiện hiện. Như thế phải biết đối với tất cả câu và nghiệp đều hiển thị nghĩa của câu đầu tiên.

Luận nói: Tôi nay phải tương ưng với trí này ở đâu? Nghĩa là nghiệp không điên đảo.

Giải thích: Nếu Bồ-tát có lợi ích an lạc ý, Bồ-tát không biết tự thân như thật thì không thể an lập chúng sinh trúng đạo lý. Ví như có người có lợi ích an lạc ý mà an lạc chúng sinh trong việc uống rượu, đó là nghiệp điên đảo. Nếu biết tự thân như thật có thể vì chúng sinh nói không tăng thượng mạn trúng đạo lý, an lập chúng sinh khiến vào chỗ thiện, lợi ích an lạc này gọi là nghiệp không điên đảo.

Luận nói: Bỏ tâm cao mạn. Nghĩa là tự hành nghiệp mà không do việc khác.

Giải thích: Do người này tự bỏ tâm cao mạn chứ không đợi người khác khuyên bảo mời gọi. Nếu chúng sinh là pháp khí thì tự đến đó mà vì nói chính pháp.

Luận nói: Bền vững thiện ý. Nghĩa là không thể làm hư hỏng sự nghiệp.

Giải thích: Do tâm Bồ-tát bền vững, nếu chúng sinh có tội lỗi cũng không thể phá hoại tâm lợi ích an lạc của Bồ-tát.

Luận nói: Chẳng phải giả vờ thương xót. Nghĩa là không cầu dục nghiệp. Nên biết có 3 câu giải thích.

Giải thích: Trước có 3 câu, sau lại dùng 3 câu giải thích 3 câu trước.

Luận nói: Không tham sự đền ơn.

Giải thích: Câu này giải thích câu đầu tiên: Chẳng phải vì cầu lợi dưỡng mà thương xót người khác.

Luận nói: Tâm ý bình đẳng đối với thân không thân. Nghĩa là không sinh tâm yêu ghét đối với chúng sinh có ơn không có ơn.

Giải thích: Thân là có ơn. Oán và không thân không oán là không ơn. Nếu khiến người không thân được nhận những điều lợi ích an lạc là Bồ-tát bỏ tâm không bình đẳng, khởi tâm bình đẳng thân hữu, làm việc lợi ích.

Luận nói: Tâm hằng làm người bạn lành cho đến Niết-bàn vô dư. Nghĩa là tùy thuận làm việc lợi ích cho đến bao nhiêu đời sau.

Giải thích: Tùy thuận làm việc lợi ích an lạc, từ đời này cho đến hết đời vị lai, vĩnh viễn không lìa bỏ nên gọi là không cầu dục nghiệp. Làm sao biết cái ý vô cầu dục này? Tùy chỗ tương ưng như thân khẩu 2 nghiệp nên có thể biết.

Luận nói: Nói năng vừa phải, vui vẻ tươi cười trước khi nói. Nghĩa là tùy chỗ tùy nơi tương ưng mà nói năng. Nên biết có 2 câu giải thích.

Giải thích: Hai câu này là đứng về pháp và sự an ủi để hiển thị rõ khẩu nghiệp. Nói năng vừa phải là đứng về pháp mà nói. Tươi cười vui vẻ trước khi nói là đứng về mặt an ủi. Sự vừa phải, có 2 thứ: Một là vừa phải xứng hợp với giáo pháp không tách rời cũng không thừa. Hai là xứng hợp với trình độ hiểu biết, tránh sự quá tầm hiểu biết và nghi ngờ. Như vậy là nói năng vừa phải. Tươi cười vui vẻ khiến người không có tâm nghi ngờ sợ sệt. Trước khi nói , đó là phương tiện dắt dẫn người làm. Hai thứ khẩu nghiệp này đối với 3 hạng người oán, thân và trung dung không phân biệt, tức thành tựu nghiệp vô cầu dục.

Luận nói: Từ bi không khác đối với các chúng sinh. Nghĩa là nghiệp bình đẳng đối với chúng sinh có khổ có vui và không hai.

Giải thích: Đối với chúng sinh có khổ thì do khổ khổ khởi từ bi. Đối với chúng sinh có vui thì do hoại khổ khởi từ bi. Đối với chúng sinh không hai thì do hành khổ khởi từ bi. Không hai nghĩa là không khổ không vui, tức là xả thụ. Từ bi bình đẳng là thân khẩu nghiệp. Bởi vì sao? Đối với chúng sinh, Bồ-tát trước khởi ý địa từ bi, sau tùy lúc tùy nơi làm việc cứu khổ cho vui. Đó là thân khẩu nghiệp. Thân khẩu nghiệp này đều bình đẳng không sai khác đối với 3 hạng người oán, thân và trung dung cũng là thành tựu nghiệp vô cầu dục.

Luận nói: Đối với việc làm không có tâm khiếp nhược thoái lui. Nghĩa là không có nghiệp thấp hèn yếu kém.

Giải thích: Nếu Bồ-tát tự hạ thấp khinh chê mình rằng tôi nay không có công năng đối với vô thượng Bồ-đề, mọi việc làm đều không thành tựu gọi là tâm khiếp nhược thoái lui. Bồ-tát không sinh tâm này nên mọi việc làm đều thành tựu, gọi là không có tâm khiếp nhược thoái lui.

Luận nói: Không có tâm mệt mỏi. Nghĩa là không thể làm cho nghiệp thoái chuyển.

Giải thích: Đối với vô thượng Bồ-đề, Bồ-tát khởi chính cần không mệt mỏi. Có 2 thứ không mệt mỏi: một là thấy nhân định, hai là biết quả hi hữu. Cho nên trong những lúc khó thực hành, tâm không mệt mỏi.

Luận nói: Nghe nghĩa lý không bao giờ đủ. Nghĩ là nghiệp gồm thâu phương tiện.

Giải thích: Nếu người đa văn có thể hiểu biết các phương tiện giáo hóa người khác do nghe và hiểu nghĩa thì đối với chính hạnh không có tâm nghi ngờ, cho nên tự mình có thể tu hành và cũng dạy người khác tu hành.

Luận nói: Đối với tội lỗi mình làm, không che giấu. Đối với tội người làm, không ngại chỉ bảo. Tức là nghiệp đối trị sự che giấu sự xấu ác. Nên biết có 2 câu giải thích.

Giải thích: Do trí và Đại bicho nên có khả năng làm được điều này. Do trí biết được nhân quả nên không che giấu tội mình làm. Do Đại bikhông nỡ thấy người gây nhân khổ, tuy thường quở trách chỉ bảo nhưng không giận dữ.

Luận nói: Luôn giữ tâm Bồ-đề trong tất cả oai nghi. Tức là nghiệp vô gián tư lương.

Giải thích: Đây nói rõ sự tu hành không gián đoạn. Tu hành không gián đoạn để ngăn chận tất cả buông lung phóng túng. Như có nói rõ trong Phẩm oai nghi thanh tịnh. Việc làm của Bồ-tát là không gì không làm để cho chúng sinh được vô thượng Bồ-đề.

Luận nói: Làm bố thí không vì cầu quả báo. Thụ trì cấm giới không chấp trước tất cả sự sợ hãi và đạo sinh. Không ngại nhẫn nhục đối với tất cả chúng sinh. Thực hành tinh tiến để gồm thâu tất cả thiện pháp. Tu Tam-ma-đề diệt lìa định Vô sắc. Tương ưng với trí phương tiện. Bốn pháp nhiếp hóa tương ưng với phương tiện. Tức là nghiệp hành tiến thắng vị. Có 7 câu giải thích. Phải biết chính tu gia hành 6 Ba-la-mật, cung kính thức hành Tứ nhiếp.

Giải thích: Trước có 7 câu, sau tổng nêu Lục độ, Tứ nhiếp kết 7 câu trước. Nghiệp này có thể tăng trưởng tâm lợi ích an lạc. Nếu chưa sinh thì do nghiệp này được sinh. Nếu đã sinh thì do nghiệp này được tăng thêm, tức là nhân sinh trưởng.

Luận nói: Đối với người giữ giới, phá giới đều coi như bạn lành không hai. Tức là nghiệp thành tựu phương tiện. Nên biết có 6 câu giải thích.

Giải thích: Trước có 6 câu, sau lại dùng 6 câu giải thích 6 câu trước.

Luận nói: Phụng sự thiện tri thức.

Giải thích: Đây là giải thích câu đầu. Nếu như người giữ giới hay phá giới, không xem lỗi của họ mà chỉ lấy chỗ đạo đức mà thôi. Nếu đức của mình chưa được như họ thì nên dựa theo họ mà tu học. Nếu đã được như họ thì cùng họ thường xuyên tu tập khiến kiên cố. Nếu tự mình có đức thì khiến họ tu học để được như mình. Mình và họ giúp đỡ nhau, nên nói bạn lành không hai.

Luận nói: Tâm cung kính nghe pháp. Tức nghe chính pháp.

Giải thích: Vì để được chỗ chưa được, vì tu chính chỗ đã được nên dựa vào bạn lành nghe chính pháp.

Luận nói: Tâm cung kính, an lạc ở nơi A-lan-nhã, gọi là ở A-lan-nhã.

Giải thích: Muốn tu hành như pháp đã được nghe nên cung kính ở nơi A-lan-nhã. Nếu ở đây thì sự theo đuổi tìm kiếm tà vạy sẽ không khởi.

Luận nói: Không sinh tâm an lạc đối với điều hy hữu của thế gian. Tức là xa lìa sự theo đuổi tìm kiếm tà vạy.

Giải thích: Ví như kỹ nhạc là những thứ thế gian ưa thích, không sinh tâm vui thích, tức là xa lìa sự theo đuổi tìm kiếm tà vạy.

Luận nói: Không sinh tâm hỷ lạc đối với thừa giáo hạ phẩm. Quán thật công đức đối với Đại thừa giáo. Tức là công đức chính tư duy có 2 câu.

Giải thích: Lìa Tiểu thừa tu Đại thừa. Hai câu này gọi là tư duy đúng đắn.

Luận nói: Xa lìa bạn xấu, cung kính phụng sự bạn tốt. Tức hiển thị công đức phụng sự bạn lành có 2 câu.

Giải thích: Xa kẻ ác gần gũi bạn lành. Hai câu này gọi là công đức thân cận thiện hữu. Do trị 6 pháp này nên được thành tựu việc lợi ích an lạc, nên gọi là nghiệp thành tựu phương tiện. Thể tướng của sự thành tựu như thế nào?

Luận nói: Thường tu 4 thứ Phạm trụ. Tức là hiển thị nghiệp thành tựu. Nên biết có 3 câu giải thích.

Giải thích: Trước có 3 câu, sau lại dùng 3 câu giải thích 3 câu trước.

Luận nói: Tu vô lượng tâm thanh tịnh.

Giải thích: Đây là giải thích câu đầu.

Luận nói: Thường vận dụng 5 thần thông. Tức được oai đức thường hành y trí tuệ. Nghĩa là chứng đắc công đức.

Giải thích: Trước đối với chúng sinh khởi tâm vô lượng. Do tâm vô lượng muốn dẫn chúng sinh nhập vào chính vị nên hiện 5 thứ thông tuệ. Nếu chúng sinh đã nhập chính vị, muốn khiến tu chính hạnh nên dựa vào trí tuệ khiến thực hành, không nên dựa vào thức. Do chứng trí sinh, nên có thể hiểu rõ 2 pháp thiện ác.

Luận nói: Đối với chúng sinh trụ chính hạnh hay không trụ chính hạnh cũng không có tâm lìa bỏ. Tức là nghiệp an lập người khác. Nên biết có 4 câu giải thích.

Giải thích: Trước có 4 câu, sau lại dùng 4 câu giải thích 4 câu trước. Muốn khiến chúng sinh lìa ác pháp trụ thiện pháp, để an lập 2 việc này nên làm nghiệp an lập người khác.

Luận nói: Dẫn nhập vào Đại chúng.

Giải thích: Đây là giải thích câu đầu. Đối với người phá giới, không bỏ họ, cũng không vĩnh viễn đuổi họ đi, từ chỗ xấu ác cứu vớt đặt vào nơi lành tốt. Đối với người giữ giới, tùy theo căn tính họ, khiến tiến tu các hạnh định tuệ v.v…

Luận nói: Chỉ nói lời quyết định. Tức không có nghi tâm, lập chính giáo học xứ.

Giải thích: Do trí tuệ quyết định không nghi, chỉ lập chính giáo và học xứ nên có thể tin thụ. Nếu trước nói giáo lý như thế, học xứ như thế, sau lại nói rằng điều nói trước đó là sai trái. Do việc này nói không nhất định thì không thể tin thụ. Vì không có bất định nên có thể tin thụ.

Luận nói: Cung kính sự thật. tức là gồm cả pháp tài.

Giải thích: Do người này nói lời thành thật, y theo đạo lý chân thật mà thuyết pháp, gọi là nhiếp pháp. Đúng như pháp mà được y phục tài vật, lấy đó nhiếp hóa chúng sinh, gọi là chân thật nhiếp tài.

Luận nói: Trước cung kính thực hành tâm Bồ-tát. Tức không có tâm nhiễm ô.

Giải thích: Do người này giữ tâm Bồ-tát, có thể làm việc lợi ích cho tất cả chúng sinh, không vì chúng sinh kính thờ ta. Làm sao chúng sinh do ta lợi ích tin thụ chính giáo sẽ được vô thượng Bồ-đề? Vì thiện ý này nên hành 2 nhiếp hóa tài và pháp. Đó là tâm không nhiễm ô.

Luận nói: Tương ưng với những pháp như thế, gọi là Bồ-tát. Do văn trước như vậy nên biết là nói câu đầu tiên. Giải thích câu đầu tiên. Nghĩa là lợi ích an lạc ý đối với tất cả chúng sinh. Câu lợi ích an lạc ý này lại có 16 câu để giải thuyết rõ về nghiệp. Mười sáu nghiệp nên biết là để giải thích câu đầu tiên.

Giải thích: Câu đầu tiên nói rõ lợi ích an lạc. Ngoài ra 16 nghiệp và 16 câu đều là nghĩa riêng của lợi ích an lạc. Cho nên lấy cái riêng giải thích cái chung.

Luận nói: Trong đây có bài kệ như sau:

Giải thích: Lại dùng một bài kệ, nhân nghĩa chung và nghĩa riêng làm rõ đức nói ở trước.

Luận nói:

Lấy câu nói đầu tiên,

Có các câu về đức.

Lấy câu nói đầu tiên,

Có các câu về nghĩa.