NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH
Bồ-tát Thế Thân giải thích
Trần, Thiên Trúc tam tạng Chân Đế dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 3

Phẩm thứ ba: DẪN CHỨNG

Chương 1: Phiền não bất tịnh

Giải thích: Phẩm này có 6 chương: 1.Phiền não bất tịnh, 2.Nghiệp bất tịnh, 3.Sinh bất tịnh, 4. Thế gian tịnh, 5.Xuất thế gian tịnh, 6.Thuận đạo lý.

Luận nói: Thức A-lê-da đã được thành lập do các tên và thể tướng.

Giải thích: Như vậy bản thức các tên đã nói thể tướng đã thành lập 2 nghĩa này. Chỉ đối với bản thức như lý được thành lập, không như các thức khác. Nay để rõ 2 nghĩa này, các sư cùng tranh luận chỗ đúng lý phi lý.

Luận nói: Nhưng làm sao biết được thức A-lê-da là do các tên ấy? Như Lai nói thể tướng cũng vậy, không nói sinh khởi thức.

Giải thích: Kia bảo rằng các tên như thế và thể tướng ở trong pháp ta cũng có, chỉ không có thức A-lê-da. Làm sao nói các tên và thể tướng nhất định thuộc thức A-lê-da không thuộc các thức khác? Để đáp câu hỏi này nên

Luận nói: Bởi vì lìa các tên và tướng được xác lập thức A-lê-da này, thì bất tịnh phẩm, tịnh phẩm v.v…đều không thành tựu.

Giải thích: Nếu ông lìa bản thức mà an lập tên này và thể tướng cho các thức khác, sự an lập sẽ không thành. Bởi vì sao? Vì 3 nghĩa trái nhau. Ba nghĩa này là chính pháp tất-đàn của Như Lai. Nghĩa là tịnh bất tịnh phẩm và chính đạo lý, nghĩa này do bản thức mà được lập. Nếu ông bác bỏ không có bản thức thì 3 nghĩa này không có chỗ an lập nên không thành nghĩa này. Như Lai lập ra là vững chắc, như thật, thành tựu, trái với chỗ chấp của ông. Cái chấp của ông là hỏng. Vì vậy các tên và thể tướng không tách rời bản thức.

Luận nói: Như phiền não bất tịnh phẩm, nghiệp bất tịnh phẩm, sinh bất tịnh phẩm, thế gian tịnh phẩm, xuất thế gian tịnh phẩm cũng đều không thành tựu.

Giải thích: Vì mở 3 chương ra làm 6 chương nên nói lại tên này.

Luận nói: Vì sao phiền não bất tịnh phẩm không thành tựu?

Căn bản phiền não và thiểu phần phiền não, huân tập thành chủng tử, không thành tựu trong 6 thức. Bởi vì sao? Vì như nhãn thức đối với dục chẳng hạn, đại tiểu hai hoặc đều câu khởi câu diệt.

Giải thích: Dục dựa vào tâm khởi nên tùy tâm thế câu khởi câu diệt. Để nói rõ cái tâm huân tập của dục v.v…

Luận nói: Nhãn thức này là do hoặc huân thành chủng tử. Các thức khác không như vậy.

Giải thích: Nhãn thức này cùng với dục v.v…câu khởi câu diệt, bị huân tập nhiều lần nên thành chủng tử. Nhĩ thức v.v…thì không bị huân vì bị các thức khác ngăn chận.

Luận nói: Nhãn thức này đã diệt rồi, nếu các thức khác khởi xen vào thì sự huân tập và chỗ y chỉ của sự huân tập đều không thể có được.

Giải thích: Nếu ở trong trạng thái vô thức, nghĩa là như trong vô tưởng định v.v…nên nói thức đã diệt, hoặc ở trong tình trạng hữu thức, nhĩ thức v.v… xen khởi nên nhãn thức diệt, trong 2 trạng thái gọi là diệt này thì sự huân tập sinh chủng tử và chỗ y chỉ của nhãn thức đều không thể có được.

Luận nói: Nhãn thức thời gian trước đã mất, hiện không có hữu thể, nếu nói các thức khác xen vào, thì theo cái đã diệt mà có dục câu sinh là không đúng, không thành tựu được.

Giải thích: Nếu nhãn thức thời gian trước 2 thứ đã diệt rồi, hiện tại không có nhãn thức và cái thể của dục, tức là đã diệt rồi không lý nào nhãn thức sau nếu cùng với dục câu sinh lại dùng cái nhãn thức và dục trước đã diệt làm chủng tử sinh khởi nhãn thức và dục của hiện tại. Nghĩa này không thể thành tựu được. Bởi vì sao? Vì đã diệt mất rồi.

Luận nói: Ví như cái nghiệp đã diệt hết từ quá khứ, thì quả báo không thể sinh.

Giải thích: Nghiệp quá khứ có 2 thứ là có công năng và không công năng. Nếu quả báo đã chín muồi thì không còn công năng. Nghiệp này có 2 nghĩa, một là đã qua đi, hai là đã diệt hết. Quả báo quả không có nghĩa là từ nghiệp này sinh. Có dục và nhãn thức cũng như vậy, không thể nói từ cái đã diệt mà sinh chủng tử. Nếu người chấp cái thức đã diệt trước là có vì pháp quá khứ là có, như các sư Tìbà-sa chấp thì cái chấp này chỉ có ngữ âm mà không có nghĩa. Bởi vì sao? Nếu pháp là có thì sao nói quá khứ các pháp. Do nghĩa này nên quả báo quả sinh là không đúng lý vì không có huân tập.

Luận nói: Hoặc nói nhãn thức và dục chẳng hạn, đồng thời sinh khởi huân tập là bất thành.

Giải thích: Nhãn thức thời gian trước chưa nhập Diệt tâm định và chưa bị các thức khác xen vào, cùng với dục câu sinh, sau nhập Diệt tâm định và bị các thức khác xen vào thì sự huân tập bất thành.

Luận nói: Bởi vì sao? Vì chủng tử này không trụ được trong dục, bởi dục y chỉ vào thức. Lại nữa, dục tương tục chứ không kiên trụ.

Giải thích: Chủng tử nếu trụ lại ắt phải dựa vào sự tự do tự tại và sự trụ vững liên tục. Cả 2 nghĩa này trong dục đều không có cho nên dục chẳng phải chỗ sở y cho chủng tử.

Luận nói: Dục này cũng không huân tập trong các thức khác vì chỗ y chỉ khác nhau, vì các thức khác không cùng khởi cùng diệt.

Giải thích: Chủng tử nếu không được trụ trong dục thì phải được trụ trong các thức khác, nói vậy cũng không có nghĩa. Bởi vì sao? Chỗ y chỉ khác nhau, lại không cùng sinh diệt. Y chỉ khác nhau nghĩa là nhãn thức thì y chỉ nhãn căn, nhĩ thức y chỉ nhĩ căn cho đến ý thức y chỉ ý căn, do đó chỗ y chỉ của các thức không tương ưng nhau. Vì vậy thức này huân tập không được trụ nơi thức kia. Nói không cùng sinh diệt nghĩa là căn trần tác ý đều không đồng nhau nên không có nghĩa cùng sinh diệt. Sinh diệt đã không đồng thời thì làm sao thức này huân nơi thức kia được. Vì lẽ đó các nghĩa huân tập đều bất thành. Nếu ông nói chủng tử này trụ nơi thức đồng loại, nói thế cũng không phải. Bởi vì sao?

Luận nói: Đồng loại với đồng loại không huân lẫn nhau được, do không nhất thời cùng sinh cùng diệt.

Giải thích: Nhãn thức không được huân tập nhãn thức. Bởi vì sao? Hai nhãn thức không được cùng sinh trong một lúc. Nếu không cùng sinh thì không cùng diệt, cho nên nghĩa huân tập bất thành.

Luận nói: Vì vậy nên nhãn thức không bị huân bởi dục, cũng như đại tiểu các hoặc, cũng không bị huân, bởi các thức cùng loại.

Giải thích: Do nghĩa trước nên nhãn thức không bị khác loại huân, cũng không bị đồng loại huân.

Luận nói: Suy nghĩ từ nhãn thức như thế thì đối với các thức khác cũng phải suy nghĩ như vậy.

Lại nữa nếu chúng sinh từ trời Vô tưởng trở lên, khi bị thoái đọa sinh xuống hạ giới, bị đại tiểu hoặc, nhiễm vào thức ban đầu. Thức này khi sinh phải không có chủng tử.

Giải thích: Từ cõi trên đọa thụ sinh xuống cõi dưới. Cái thức mới thụ sinh ắt bị hoặc nhiễm. Thức này và hoặc do từ chủng tử nào sinh? Nếu nói từ cõi trên sinh thì không đúng nghĩa. Bởi vì sao? Trên và dưới 2 cõi trái nhau không cùng khởi nên không huân lẫn nhau được. Nếu nói từ cái tâm trước chưa được định cõi trên sinh cái tâm sơ sinh cõi dưới, nói thế cũng không đúng.

Luận nói: Bởi vì sao? Bởi các hoặc huân tập, cùng với chỗ y chỉ, đều đã diệt theo quá khứ không còn nữa.

Giải thích: Cái thức ban đầu này phải chỉ sinh mà không nhân. Vì cái huân tập và y chỉ diệt mất đã lâu, nên không được lấy đó làm nhân

Luận nói: Lại nữa cái thức đối trị với hoặc đã sinh, trong khi các thức thế gian đã diệt hết, nếu không có thức A-lê-da mà thức đối trị cùng chủng tử đại tiểu các hoặc đều có, thì không có nghĩa.

Giải thích: Nếu ông bác bỏ cho rằng không có bản thức thì có 2 lỗi không thể thoát. Một là hướng tới thánh đạo người bậc trung với các phiền não đều tồn tại thì nghĩa này bất thành. Nếu không có hoặc này thì tu các đạo là vô dụng, sẽ không có người quả thứ ba trong 4 đạo mà chỉ có người vô học. Nghĩa này trái với chính giáo, lỗi không thể thoát. Hai là thức vô lưu đã diệt, tâm thế gian lại muốn khởi, không có nhân có thể khiến tâm này sinh được. Nếu tâm hữu lưu không có nhân, từ tâm vô lưu sau tự nhiên được sinh thì không có người vô học, lỗi này cũng không thể thoát. Như người Tu-đà-hoàn hướng, chính khi sinh kiến đế đối trị đạo, 6 thức thế gian trái với đạo, không được cùng sinh cho nên các thức thế gian đều đã diệt hết. Các phiền não còn lại là do y chỉ thành, cho nên công năng cũng diệt. Vì vậy thức đối trị và chủng tử đại tiểu hoặc đồng tồn tại, nghĩa này bất thành. Nếu vậy tu đạo làm gì?

Luận nói: Bởi vì sao? Vì tự tính giải thoát, nên tâm vô lưu cùng với hoặc, không thể cùng khởi cùng diệt.

Giải thích: Đồng loại là tự tính. Như ý thức có phiền não. Vô lưu thức không phiền não. Tuy có hoặc không hoặc khác nhau nhưng đồng là thức loại cho nên nói là tự tính. Giải thoát nghĩa là lìa khỏi. Nếu phiền não thức với vô lưu thức cùng khởi thí tự tính không được giải thoát, bởi khi vô lưu thức khởi các thức khác ắt không sinh được. Đã lìa nhau nên gọi là giải thoát.

Luận nói: Lại nữa sau khi xuất quán chính là lúc khởi thế gian tâm.

Giải thích: Các học nhân Tu-đà-hoàn v.v… đã đắc đạo rồi, sau khi xuất quán sẽ khởi xuất thế gian tâm hay sẽ khởi thế gian tâm? Nếu khởi xuất thế gian tâm thì không có nghĩa xuất quán. Nếu khởi thế gian tâm thì cái tâm đó nhân đâu được sinh?

Luận nói: Các hoặc huân tập tạ diệt đã lâu.

Giải thích: Trước đây khi nhập quán các hoặc huân tập đã diệt. Làm sao không có nhân mà sinh thế gian tâm được?

Luận nói: Ý thức hữu lưu không có chủng tử sinh, nên được thành.

Giải thích: Nếu như thức này không do nhân sinh thì không được nghĩa giải thoát.Hoặc tâm của người vô học cũng phải không nhân mà sinh.

Luận nói: Vì vậy lìa thức A-lê-da, thì phiền não nhiễm ô sẽ không thành.

Giải thích: Nếu ông bác bỏ cho rằng không có thức này thì phiền não nhiễm ô làm sao lập được?

Chương 2: Nghiệp bất tịnh

Giải thích: Nếu người bác bỏ cho rằng không có bản thức, người này sẽ không có một thứ đạo lý nào có thể thành lập nghĩa nhiễm ô.

Luận nói: Lại nữa nghiệp nhiễm ô vì sao không thành?

Vì duyên hành sinh thức là không thành nghĩa.

Giải thích: Hành có 3 phẩm là phúc, phi phúc và bất động, mỗi niệm mỗi niệm sinh diệt. Nếu lìa bản thức thì an lập công năng ở đâu? Nếu ông nói an lập trong 6 thức thì nghĩa ấy không đúng. Sáu thức không thể nhiếp trì công năng các nghiệp. Nghĩa này trước đã nói rõ đầy đủ trong phiền não nhiễm ô.

Luận nói: Nếu không có nghĩa này, thì duyên thủ sinh hữu cũng không thành nghĩa, nên nghiệp nhiễm ô không thành.

Giải thích: Nếu không có cái thức công năng của nghiệp, nghĩa là hành duyên thức, duyên thủ sinh hữu thì không có lý lẽ nào được thành tựu. Bởi vì sao? Thức này bị 3 cái hành huân để theo 4 thủ cho nên do huân tập viên mãn mà thức thành hữu. Thức này hoặc diệt hoặc bị các thức khác xen vào. Thể của thức này đã mất thì công năng cũng mất theo, còn chỗ nào mà an lập. Hành này có công năng của 2 nghiệp nên nghiệp nhiễm ô không thành. Nói nhiễm ô là nghiệp này tương ưng với phiền não nên gọi là nhiễm ô. Lại từ nhiễm ô sinh nên gọi nhiễm ô. Có khả năng cảm quả báo sinh tử nhiễm ô trong lục đạo nên gọi nhiễm ô.

Chương 3: Sinh bất tịnh

Giải thích: Nếu lìa bản thức sinh nhiễm ô là vô lý, không có nghĩa. Nay sẽ nói điều đó.

Luận nói: Lại nữa vì sao sinh nhiễm ô, nghĩa này không thành?

Vì kết sinh không thành.

Giải thích: Cuộc sống này nếu chấm dứt là do công năng của nghiệp. Nói kết nối báo sau tiếp báo trước thì nghĩa này không thành. Bởi vì sao?

Luận nói: Nếu người ở thượng tĩnh địa thoái đọa, tâm chính đang trong trung ấm, khởi ý thức nhiễm ô thì mới thụ sinh.

Giải thích: Ở thượng tĩnh địa thoái tiền sinh đọa hậu sinh nên gọi là thoái đọa. Có 2 thứ thụ sinh là hoặc có trung ấm hoặc không trung ấm. Nay nói riêng về thụ trung ấm là nếu ở trong trung ấm sắp muốn thụ sinh trước tiên phải khởi nhiễm ô thức thì mới thụ sinh.

Luận nói: Cái thức nhiễm ô này diệt trong trung ấm.

Giải thích: Cái thức nhiễm ô của trung ấm duyên sinh cảnh hữu vi, thức này diệt trong trung ấm. Bởi vì sao? Vì sinh ấm không nhiễm ô.

Luận nói: Thức này gá vào Kha-la-la, biến hợp thụ sinh trong thai mẹ.

Giải thích: Nói thức này tức là ý thức. Trong nhất thời nó tương ưng cùng Kha-la-la nên nói gá vào Kha-la-la. Cái quả báo thức này khác với nhiễm ô thức trước đó nên nói là biến. Do công năng nghiệp đời trước nổi lên như gió, hòa hợp đỏ trắng khiến đồng với thức nên nói là hợp, thì gọi đó là thụ sinh.

Luận nói: Nếu chỉ có ý thức biến thành Kha-la-la v.v… mà y chỉ, thì ý thức này trong thai mẹ sẽ có một ý thức khác khởi.

Không có nghĩa như thế.

Giải thích: Nếu ông chấp cái thức này gá vào Kha-la-la chỉ là ý thức, nếu vậy thì cái ý thức do căn trần sinh khởi với các ý thức khác là đồng hay là khác? Nếu đồng thì khi thức này mất Kha-la-la cũng phải mất theo. Nếu không nói đồng thì không nên gọi tên là ý thức. Bởi vì sao? Vì ý thức lấy chung 3 tính của thức làm căn, còn thức này chỉ lấy nhiễm ô thức làm căn. Ý thức duyên 3 đời làm cảnh, còn cảnh giới của thức này thì không thể biết được. Ý thức có lúc nổi lên có lúc không, còn thức này là hằng hữu, không có hưng có phế nên không đồng như ý thức. Lại nữa nếu đồng thì trong trạng thái vô thức phải không có thức này hiện hữu. Nếu không có thức này thì không nên nói là nhập Vô tâm định thức chẳng tách rời thân. Lại nữa nếu không có thức thì thân phải hư hoại. Cho nên không thể nói đây là ý thức. Nếu ông nói ý thức này không thể phân biệt, căn trần sinh khởi y chỉ thức này, trong thai mẹ sinh ra một ý thức khác, ý nghĩa ấy không đúng. Bởi vì sao?

Luận nói: Ở trong thai mẹ hai thứ ý thức khởi cùng một lúc là không có nghĩa như vậy.

Giải thích: Câu nói này chứng minh nghĩa của vô ý thức ở trước. Bởi 2 ý thức đồng tính không cùng sinh, vì không cùng tác ý. Ý thức này gá vào Kha-la-la, cùng đỏ trắng hòa hợp đồng y chỉ. Thức này có sinh một ý thức khác nhất thời cùng khởi. Thức Kha-la-la này không thành ý thức. Bởi vì sao? Hằng lấy nhiễm ô thức làm y chỉ. Cái sở y chỉ thức này bị dục v.v…nhiễm, duyên sinh hữu cảnh khởi. Năng y chỉ thức đã là quả báo, chỉ vô ký tính. Sở duyên cảnh lại không thể biết, không thể lập làm ý thức. Nếu lập đây làm ý thức thì có nghĩa không cùng khởi. Nếu có cùng khởi phải đồng với liễu biệt, phải đồng với diệt vô. Nếu đồng với liễu biệt thì không Diệt tâm định vì một liễu biệt tâm diệt một liễu biệt tâm tồn tại. Nếu đồng với diệt vô thì vô công dụng tự nhiên Niết-bàn vì tâm không khởi lại.

Luận nói: Cái ý thức đã biến đổi khác

Giải thích: Cái thức mới thụ sinh đã biến đổi thành Kha-la-la.

Luận nói: không thể thành lập làm ý thức

Giải thích: Có tất cả 3 nghĩa, không thể lập cái thức mới thụ sinh làm ý thức.

Luận nói: vì chỗ y chỉ không thanh tịnh.

Giải thích: Ý thức sinh tử tâm 3 tính. Cái thức mới thụ sinh ắt là từ nhễm ô thức sinh, tức chỗ y chỉ không thanh tịnh.

Luận nói: Vì theo thời gian lâu duyên cảnh.

Giải thích: Thức mới thụ sinh, từ thủy chí chung luôn luôn duyên cảnh. Ý thức duyên cảnh dễ thoát không an định.

Luận nói: Cảnh sở duyên là không thể biết.

Giải thích: Cảnh sở duyên của thức mới thụ sinh là không thể biết. Ý thức duyên cảnh 3 đời và cảnh không phải 3 đời là có thể biết. Do 3 nghĩa này có khác nhau cho nên không thể lập làm ý thức.

Luận nói: Nếu ý thức này đã biến đổi khác

Giải thích: Nếu đã thụ sinh, ý thức cùng đỏ trắng hòa hợp, biến đổi thức trước thành thức sau, thức sau khác với thức trước.

Luận nói: bấy giờ ý thức thành Kha-la-la.

Giải thích: Do thành Kha-la-la nên biến đổi khác.

Luận nói: làm thức này là nhất thiết pháp chủng tử, là chỗ y chỉ sinh các thức khác, là chủng tử nhất thiết pháp.

Giải thích: Là lấy cái thức mới thụ sinh làm nhất thiết pháp chủng tử, làm nơi y chỉ cho thức thụ sinh sinh các thức khác, làm nhất thiết pháp chủng tử.

Luận nói: Nếu ông chấp cái thức đã biến đổi khác là nhất thiết chủng tử thức, tức là thức A-lê-da là ông tự dùng tên khác mà thành lập tên là ý thức.

Giải thích: Nếu ông chấp cái thụ sinh thức là chủng tử thức thì đồng nghĩa với tôi đã nói, tức A-lại-da thức là chủng tử thức. Ông tự không nói tên A-lại-da thức mà lập tên khác là ý thức.

Luận nói: Nếu ông cho rằng cái năng y chỉ thức là nhất thiết chủng tử thức

Giải thích: Cái y chỉ thụ sinh thức lại sinh các thức khác là năng y chỉ thức, là nhất thiết chủng tử thức.

Luận nói: nên thức này do y chỉ mà thành nhân khác.

Giải thích: Thức khác đã từ cái khác sinh tức không thể tự làm chủng tử, cho nên thức này do y chỉ thụ sinh thức mới thành chủng tử, được vì nhân khác.

Luận nói: Cái sở y chỉ thức này, nếu chẳng phải nhất thiết chủng tử thức có thể y chỉ, mà gọi là nhất thiết chủng tử thức, thì nghĩa không thành.

Giải thích: Thức khác không thể tự làm chủng tử mà do dựa vào cái khác được thành chủng tử. Sở y thụ sinh thức đã chẳng phải chủng tử mà lại có thể dựa vào thức khác lập làm chủng tử, nghĩa này có thể được sao?

Luận nói: Vì vậy thức này thác sinh, biến đổi khác thành Khala-la, chẳng phải là ý thức.

Giải thích: Thức này tức là A-lê-da thức, không được gọi là ý thức.

Luận nói: Chỉ là quả báo, cũng là nhất thiết chủng tử. Nghĩa này đã được xác định.

Giải thích: Từ chủng tử sinh nên gọi là quả báo thức. Có khả năng thâu giữ chủng tử nên cũng gọi chủng tử thức. Nói như vậy mới có nghĩa.

Luận nói: Lại nữa, chúng sinh đã thác sinh nếu lìa quả báo thức thì không thể gìn giữ các sắc căn khác.

Giải thích: Trước đã nói rõ đúng nghĩa thụ sinh. Nay lại làm sáng tỏ nghĩa sau khi thụ sinh. Trước đã nói rõ chúng sinh ở trong thai. Nay nói rõ chúng sinh xuất thai ra ngoài. Nói chúng sinh đã thác sinh, chúng sinh nếu đã thác sinh thì chắc chắn có 3 nghĩa: một là gìn giữ không bỏ, hai là nhiếp trì chung các căn, ba là thể là quả báo vô ký. Nếu tách rời thức A-lê-da không thể có được 3 nghĩa này.

Luận nói: Bởi vì sao? Các thức khác có chỗ y chỉ riêng khác

Giải thích: Muốn dẫn đạo lý làm chứng nên nói “Bởi vì sao”. Trong 6 thức tùy gọi một thức, còn lại là các thức khác. Nhãn thức nhất định lấy nhãn căn làm y chỉ. Cho đến thân thức nhất định lấy thân căn làm y chỉ. Rõ ràng là y chỉ riêng biệt không thể chấp trì chung.

Luận nói: và không trụ vững lâu dài.

Giải thích: Trong 5 thức, nếu có thể chấp trì thì tùy theo căn nó lấy làm chỗ sở y. Thức này không trụ vững lâu dài vì liên tục biến đổi hoại diệt, có thể hoại diệt trong trạng thái vô thức, hoặc có thể hoại diệt do các thức khác xen khởi.

Luận nói: Nếu sắc căn này không có thức gìn giữ thì cũng không tồn tại được.

Giải thích: Như người chết, sắc căn không có thức giữ gìn sẽ bị hư hoại. Nếu tách rời chấp trì thức các căn cũng vậy. Nghĩa này cũng không thành.

Luận nói: Lại nữa thức này và danh sắc nương tựa vào nhau, ví như bó cây lau dựa vào nhau mà đứng. Thức này cũng không thành.

Giải thích: Trong kinh Phật nói thức dựa vào danh sắc sinh, danh sắc dựa vào thức sinh. Nói danh là chỉ 4 ấm không phải sắc. Sắc tức Kha-la-la. Cái gì dựa vào danh sắc? Thức lấy danh sắc này làm chỗ dựa, sát-na nối tiếp nhau như dòng nước không đứt đoạn có khả năng giữ cho danh sắc thành tựu không hư hoại. Thức này gọi là y danh sắc thức. Nếu bác bỏ cho là không có bản thức mà lấy 6 thức làm thức, nghĩa này cũng bất thành. Nếu tách rời thức A-lê-da thì trong 6 thức là thức nào? Câu hỏi này ý muốn làm rõ điều chi? Là ý muốn nó rõ các thức đó không thức nào làm thức thực được, nghĩa là có khả năng duy trì nuôi dưỡng được.

Luận nói: Lại nữa nếu lìa quả báo thức thì tất cả chúng sinh cầu sinh đã sinh, thức thực sẽ không thành.

Giải thích: Câu nói này muốn cho thấy rằng bản thức có công năng làm thức thực cho danh sắc. Bởi vì sao? Phật nói: Có 4 thứ ăn để chúng sinh cầu sinh đã sinh liên tục được tồn tại. Bốn thứ ăn là: đoàn thực là ăn bằng cách nhai nuốt, xúc thực là ăn bằng cách tiếp xúc, tư thực là ăn bằng tư duy và thức thực là ăn bằng ý thức. Đoàn thực là lấy sự biến thành làm tướng. Bởi vì sao? Là những miếng ăn này biến đổi thành dưỡng chất nuôi thân thể. Xúc thực dựa vào trần làm tướng, nghĩa là duyên các sắc trần có thể nuôi dưỡng thân thể. Tư thực là lấy sự mong đợi làm tướng. Cái năng lực của sự mong đợi có thể duy trì sự sống. Như người đói khát đến một nơi có thức ăn uống mong chờ được ăn uống, trong sự mong chờ được ăn uống, sự sống có thể được duy trì. Thức thực lấy sự chấp trì làm tướng. Do thức này chấp trì thân nên không hư hoại. Nếu không có thức chấp trì thì thân đồng như người chết sẽ bị hư hoại. Vậy các ông cũng phải chấp nhận tin nghĩa của thức thực này để có thể làm lợi ích cho thân. Trong 4 thứ ăn này xúc thực thuộc 6 thức, tư thực thuộc ý mong được, đoàn thức thuộc sắc không liên quan tâm. Thức thực trong 3 nghĩa thuộc nghĩa nào? Nếu ông không nói có thức A-lê-da thì dựa vào nghĩa nào nói thức thực này? Lại nữa người ngủ không chiêm bao và trạng thái ngất xỉu, nhập Diệt tâm định v.v… 6 thức đã diệt, lại không có 3 thứ ăn là đoàn thức xúc thực tư thực thì pháp gì duy trì thân này không cho hư hoại? Nếu không có thức A-lê-da gìn giữ, thân này sẽ hư hoại cho nên biết chắc rằng lấy thức A-lê-da làm thức thực.

Luận nói: Bởi vì sao? Vì nếu lìa quả báo thức thì nhãn thức v.v…tùy lấy ra một thức nào cũng không thể làm cái việc nuôi dưỡng cho chúng sinh thụ sinh trong ba cõi.

Giải thích: Nếu lìa bản thức, trong 6 thức tùy lấy một thức nào cũng không có công năng làm việc duy trì nuôi dưỡng chúng sinh đã thụ sinh trong ba cõi. Cho nên biết rằng nói các thức khác làm thức thực là không được.

Luận nói: Nếu người từ cõi này xả mạng, sinh lên thượng tĩnh địa, do tán động, nhiễm ô, ý thức thụ sinh cõi kia.

Giải thích: Trong cõi tĩnh địa, lìa bản thức thụ sinh, nghĩa này bất thành. Nếu người thụ sinh ắt là do tâm nhiễm ô. Nếu thụ sinh nơi tĩnh địa ắt do tâm nhiễm ô tán động. Nhiễm ô là bị hoặc nhiễm ở tự tĩnh địa. Cái hoặc này tướng như thế nào xâm thực định vị v.v…, hoặc này chắc chắn ở tại tĩnh địa. Nếu người từ tán địa chết đi dùng cái tâm tán động địa ở dưới mà được thụ sinh cõi trên là không có nghĩa. Bởi vì sao? Tất cả trường hợp thụ sinh đều ở trong tán tâm, cho nên lìa bản thức thì không thể có cái thức tán động. Nếu người ấy là người ly dục thì từ cõi Dục này sinh cõi Sắc, Vô sắc. Người nhiễm ô thì nơi tâm trung ấm khởi hoặc cõi trên. Người tán động thì chính cái thức lúc thụ sinh. Nói “thụ sinh cõi kia” tức phương tiện sinh và chính sinh.

Luận nói: Cái thức tán động nhiễm ô, ở trong tĩnh địa lìa quả báo thức, mà còn lại chủng tử, là không có nghĩa.

Giải thích: Nếu thụ chính sinh ắt có đủ 4 nghĩa. Đó là lấy nhiễm ô làm căn, tán động làm vị, quả báo làm thể, chủng tử hữu dư làm công năng. Nếu lìa bản thức không thể có 4 nghĩa này cho nên phải tin là có thức A-lê-da. Bởi vì sao? Ở trong thức này tâm tĩnh địa huân tập từ vô thủy đến nay hữu dư chưa hết, do công năng này trong tĩnh địa có chủng tử tán động quả báo thức thụ sinh nơi kia. Luận nói: Lại nữa, nếu chúng sinh sinh cõi Vô sắc, Giải thích: Nói rõ đã giải thoát cõi Sắc.

Luận nói: lìa nhất thiết chủng tử quả báo thức,

Giải thích: Nếu không có bản thức, nếu thật có ông bác bỏ nói không, cho nên gọi là “lìa”.

Luận nói: nếu có sinh tâm nhiễm ô và thiện tâm,

Giải thích: Nếu ở trong định khởi tâm nhiễm ô xâm thực định vị, hoặc khởi thiện tâm hữu lưu cõi trên.

Luận nói: thì không có chủng tử và cũng không có hai thức làm chỗ y chỉ cho nhiễm ô và thiện.

Giải thích: Không chủng tử gọi là không có nhân. Do không nhân nên không chỗ y chỉ. Lại nữa nếu không chủng tử tức là không nhân, nếu không nhân thì từ đâu sinh. Nếu không y chỉ làm sao trụ liên tục được. Bởi vì sao? Hai tâm này được nhiếp trong bản thức, cho nên từ tự chủng tử sinh, y chỉ bản thức nên được trụ liên tục.

Luận nói: Ở cõi Vô sắc, nếu khởi tâm vô lưu, các tâm thế gian khác đã diệt hết, nên phải từ bỏ đường này.

Giải thích: Nếu người đã thụ sinh cõi Vô sắc, khởi xuất thế gian tâm thì thế gian tâm ắt diệt hết. Nếu lìa bản thức thì phải bỏ báo cõi Vô sắc, không do công dụng liền nhập vô dư Niết-bàn, đã không có nghĩa này cho nên không thể bác là không có thức này.

Luận nói: Nếu chúng sinh, sinh trong Phi tưởng phi phi tưởng, khởi tâm bất dụng xứ và tâm vô lưu, tức xả bỏ hai xứ.

Giải thích: Nếu Thánh nhân sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, có lúc dựa vào bất dụng xứ khởi tâm vô lưu là vì tâm bất dụng xứ rõ ràng, tâm phi tưởng phi phi tưởng xứ mờ tối. Người này trong trạng thái rõ ràng sáng suốt tu tâm vô lưu. Nếu tu đắc tâm vô lưu tức xả bỏ 2 địa vị phi tưởng phi phi tưởng và bất dụng xứ.

Luận nói: Bởi vì sao? Vì tâm vô lưu là tâm xuất thế, không lấy Phi tưởng phi phi tưởng đạo làm chỗ y chỉ, không lấy bất dụng xứ đạo làm chỗ y chỉ,

Giải thích: Đệ nhất đệ nhị đạo là thế gian pháp không được lấy tâm vô lưu làm y chỉ. Người này sinh ở các địa khác, riêng thủ lấy tâm các địa khác. Hai đạo này cũng chẳng phải tâm này y chỉ. Bởi vì sao? Vì tâm này sáng suốt không y chỉ đệ nhất đạo, đã xả bỏ đệ nhị đạo nên đệ nhị đạo cũng không được tâm này y chỉ.

Luận nói: cũng không lấy việc thẳng đến Niết-bàn làm chỗ y chỉ.

Giải thích: Do có tâm vô lưu, vì phiền não hữu dư nên 3 nghĩa này rõ ràng đã không thành y chỉ. Nếu lìa bản thức thì tâm vô lưu này y chỉ vào đâu?

Luận nói: Lại nữa, nếu người đã tạo nghiệp thiện hay nghiệp ác,

Giải thích: Nếu người trong thế gian, tạo 10 thiện nghiệp không sát sinh v.v…nhất định sẽ được báo sinh nhân thiên. Nếu tạo 10 ác nghiệp sát sinh v.v…nhất định sẽ bị báo sinh tứ thú.

Luận nói: chính khi xả bỏ thọ mạng lìa thức A-lê-da, thì cái thân nó y chỉ lần lượt phát lạnh từ trên xuống hoặc từ dưới lên. Nếu không có A-lê-da thì không có hiện tượng này.

Giải thích: Người này trong lúc chết, nếu có thiện nghiệp thì nhất định cái lạnh từ dưới lên, nếu có ác nghiệp thì nhất định cái lạnh tử trên xuống. Nếu ông không tin có bản thức thì làm sao có sự y chỉ vào thân mà lạnh xuống hay lạnh lên. Nếu không có bản thức làm sao được bản thức gìn giữ 5 căn? Khi bản thức rời bỏ, tùy theo chỗ rời bỏ trên thân mà lần lượt xảy ra cái lạnh, tức thành thân chết.

Luận nói: Vì vậy nên sinh ô nhiễm mà lìa nhất thiết chủng tử quả báo thức là không thành.

Giải thích: Sinh nhiễm ô tức là thụ sinh được sinh. Nương tựa giữ gìn v.v…là nhân quả nhiễm ô nên gọi chung là nhiễm ô. Lại sinh tử đối với Niết-bàn nên gọi nhiễm ô. Bản thức là tập đế nên gọi là chủng tử. Là khổ đế nên gọi quả báo. Là nhân khác nên gọi chủng tử. Là quả khác nên gọi quả báo. Lìa thức này sinh nhiễm ô là không có nghĩa.

Chương 4: Thế gian tịnh

Giải thích: Do đạo lý này, nói thế gian tịnh phẩm là không thành. Nay sẽ thuyết minh.

Luận nói: Vì sao tịnh phẩm thế gian không thành?

Vì nếu chúng sinh nào chưa lìa tham dục của cõi Dục, chưa được tâm cõi Sắc,

Giải thích: Nếu người vì ly dục cõi Dục muốn được tâm cõi Sắc nên tu gia hành, có 2 loại người tu hành như vậy. Một là người đang hành quán hạnh, hai là người mới phát tâm tu. Người đang hành quán hạnh là đang trong văn tư tuệ. Văn tuệ tư tuệ mỗi thứ đều có 3 phẩm. Tu tập làm cho tăng trưởng gọi là gia hành. Mới phát tâm tu hành tức mới tu văn tuệ. Hai người này đều chưa ly dục của cõi Dục, ắt chưa được Phi chí định. Phi chí định tức tâm cõi Sắc.

Luận nói: trước khởi thiện tâm của cõi Dục, cầu lìa dục tâm cõi Dục, tu hành quán tâm.

Giải thích: Nếu người chưa được tâm cõi Sắc, đang ở trong văn tuệ, gọi là trước khởi thiện tâm cõi Dục. Cái quán tâm trong văn tuệ cầu lìa dục của cõi Dục là tư tu tuệ. Để lìa dục cõi Dục nên tu hành tư tu tuệ.

Luận nói: Cái tâm gia hành của cõi Dục này với cái tâm của cõi Sắc không cùng khởi cùng diệt, nên không huân tập được.

Giải thích: Văn tư tuệ mỗi thứ đều có 3 phẩm, tức gia hành. Vì sao tâm này với tâm cõi Sắc không cùng khởi cùng diệt? Vì một là thô tế khác nhau, hai là động tĩnh khác nhau, ba là tự tính tu khác nhau, bốn là trói buộc và thoát ly khác nhau nên không cùng khởi cùng diệt được. Nếu là không câu hữu thì tấm cõi Sắc không huân tâm cõ Dục được.

Luận nói: Vì vậy thiện tâm cõi Dục không phải chủng tử thiện tâm của cõi Sắc.

Giải thích: Tâm cõi Dục đã không bị tâm cõi Sắc huân nên không phải chủng tử của tâm cõi Sắc, vậy thì tâm cõi Sắc sinh là không có nhân duyên. Nếu không có nhân duyên làm sao sinh được? Nếu ông nói ở trong sinh tử từ vô thủy đã sinh tâm cõi Sắc, quả báo chưa chín muồi, chủng tử chưa diệt có thể làm nhân cho tâm cõi Sắc ngày nay. Lý đó không đúng. Bởi vì sao?

Luận nói: Cái tâm quá khứ của cõi Sắc nhiều đời bị các tâm khác ngăn cách, về sau không thể lập thành chủng tử của tĩnh thức. Vì đã không còn tồn tại.

Giải thích: Cái tâm cõi Sắc trước đã sinh trong sinh tử từ vô thủy dùng nó làm chủng tử. Chủng tử này đã không được thâu giữ nên tiêu mất. Trong lục đạo đã có vô lượng lần sinh, trong mỗi mỗi đời sống có vô lượng tâm xen vào ngăn cách các tâm đã khởi trước. Chủng tử này diệt mất đã lâu, làm sao có thể lập làm nhân của tâm cõi Sắc?

Luận nói: Vì vậy nghĩa này được thành.

Giải thích: Vì nghĩa lý ông lập ra bất thành nên nghĩa tôi lập được thành. Vì sao được thành?

Luận nói: Nghĩa là quả báo thức của tất cả chủng tử của tĩnh tâm cõi Sắc lần lượt truyền đến lập làm nhân duyên.

Giải thích: Từ sinh tử vô thủy đã được Phi chí định và 4 định huân tập bản thức làm chủng tử, được bản thức thâu giữ, lần lượt truyền lại đến nay không diệt cho nên được lập đây là nhân duyên tĩnh tâm cõi Sắc. Tĩnh tâm cõi Sắc nếu sinh thì từ đó tự chủng tử sinh.

Cho nên không đồng với chỗ chấp của ông là không có nhân duyên. Nếu lấy chủng tử đời trước làm nhân duyên thì hiện tại tu văn tư tuệ để làm chi?

Luận nói: Thiện tâm gia hành này lập làm tăng thượng duyên.

Giải thích: Tâm gia hành này chẳng phải không công dụng. Do sức tăng thượng này sinh ntaam cõi Sắc. Nếu không có tâm gia hành này thì không phá được cái dục của cõi Dục. Nếu cái dục của cõi Dục không diệt, chủng tử cõi Sắc trước kia không sinh được tâm cõi Sắc hiện tại, cho nên gia hành chỉ làm được tăng thượng duyên cho tâm cõi Sắc, không làm nhân duyên được.

Luận nói: Như vậy phải biết ý nghĩa như thế trong tất cả các địa vị ly dục. Đó nghĩa là thanh tịnh phẩm của thế gian. Nếu lìa tất cả chủng tử quả báo thức thì không thành lập được.

Giải thích: Nếu lấy 4 định lìa dục cõi Dục, nếu lấy 4 không lìa dục cõi Sắc, nhân duyên tăng thượng duyên của tâm cõi Sắc và nhân duyên tăng thượng duyên của tâm cõi Vô sắc ắt phải hiểu như thế.

Chương 5: Xuất thế gian tịnh

Luận nói: Vì sao tịnh phẩm xuất thế gian lìa thức A-lê-da không thành lập được?

Giải thích: Nay sẽ giải thích nghĩa này.

Luận nói: Phật Thế Tôn nói: Nghe âm thanh từ người khác và tự mình tư duy đúng đắn, do hai nhân này được phát sinh chính kiến.

Giải thích: Trong thanh tịnh phẩm, chính kiến đứng đầu. Chính kiến này lấy pháp gì làm tăng thượng duyên? Là nghe âm thanh từ người khác và tư duy đúng đắn, 2 nhân này là tăng thượng duyên của chính kiến. Hai nhân này mỗi nhân có 4 nghĩa. Một, có chính kiến là gồm có văn tuệ do nghe âm thanh từ người khác làm nhân. Có chính kiến là gồm trong tư tuệ do chính tư duy làm nhân. Hai, nếu chính kiến của Thanh Văn thì do nghe âm thanh từ người khác làm nhân, nếu chính kiến của Độc Giác, Bồ-tát thì do chính tư duy làm nhân. Ba, lấy độn căn làm câu thứ nhất, lấy lợi căn làm câu thứ hai. Bốn, lấy tư tuệ làm câu thứ nhất, lấy tu tuệ làm câu thứ hai. Do 2 nhân này được sinh chính kiến. Hai nhân này là tăng thượng duyên đối với chính kiến. Nay nói nhân là nói chung, tức nói duyên và nhân.

Luận nói: Cái nghe âm thanh từ người khác và chính tư duy không thể huân tập vào nhĩ thức và ý thức, hoặc cả nhĩ, ý 2 thức.

Giải thích: Nói âm thanh người khác nghĩa là các pháp môn do Phật Bồ-tát lập ra. Nghe âm thanh người khác nghĩa là hiểu đúng như chỗ được nghe, tức là văn tuệ. Chính tư duy nghĩa là lựa chọn đúng sai những cỗ được nghe, tức là tư tuệ. Hai tuệ này không có nghĩa là huân tập một cách đơn độc vào nhĩ thức và ý thức, cũng không phải huân tập song song.

Luận nói: Bởi vì sao?

Giải thích: Hai tuệ này vì sao không thể huân vào nhĩ thức v.v…?

Luận nói: Nếu người nghe mà hiểu và chính tư duy thì bấy giờ nhĩ thức không sinh được.

Giải thích: Nếu người đã nghe âm thanh người khác, sau trong lúc sinh văn tư tuệ, văn tư tuệ là ý thức, bấy giờ nhĩ thức không được sinh cho nên văn tư tuệ không được huân nhĩ thức.

Luận nói: Ý thức cũng không được sinh.

Giải thích: Sắp sinh chính kiến thì ý thức tương ưng tư tuệ cũng không sinh được.

Luận nói: Bởi vì bị các tán động phân biệt thức xen vào.

Giải thích: Vì sao không sinh được? Do trung gian có tán động phân biệt thức xen khởi nên tư tuệ này không sinh được.

Luận nói: Bởi vì đó là các tán động phân biệt thức xen vào.

Giải thích: Vì sao không sinh được? Vì trung gian có tán động phân biệt thức xen khởi nên tư tuệ không sinh được.

Luận nói: Nếu là cùng với chính tư duy tương ưng sinh, Giải thích: Đây muốn nói cái tư tuệ khi sắp sinh vị tri dục tri căn.

Luận nói: thì ý thức này đã diệt mất lâu rồi.

Giải thích: Cái tư tuệ đã sinh lúc đầu diệt mất đã lâu.

Luận nói: Cái sở huân là nghe cùng với huân tập đã không có

Giải nghĩa: Cái tư tuệ được huân tập do đa văn mới được lúc trước cùng với huân tập đều đã mất theo quá khứ.

Luận nói: làm sao sau đó lấy thức trước làm chủng tử sinh thức sau được?

Giải thích: Không thể lấy cái tư tuệ lúc mới được sinh ra cái tư tuệ sau vì tư tuệ trước diệt đã lâu, trung gian bị các tâm khác xen vào, không thể đem công năng của tư tuệ trước vào trong tư tuệ sau. Tư tuệ sau yếu kém lại không thể dẫn khởi chính kiến, cũng không thể nói đây là chủng tử sinh cái thức chính kiến. Ở đây nói rõ về nghĩa không có trước sau huân tập nhau, chưa luận đến sự không có tương huân đồng thời.

Luận nói: Lại nữa, cái tâm thế gian tương ưng cùng chính tư duy, cái tâm thanh tịnh xuất thế gian tương ưng với chính kiến, hai cái này không bao giờ cùng sinh cùng diệt.

Giải thích: Đó là vị trí của chính tư chính tu tuệ từ Tứ niệm xứ đến Thế đệ nhất pháp. Tâm này chưa chứng kiến Tứ đế nên gọi là tâm thế gian. Đã chứng kiến Tứ đế thì gọi là xuất thế gian ly tự tính pháp, là pháp tu đắc nên gọi là tịnh tâm. Chính kiến tức phần thứ nhất trong Bát Thánh đạo phần. Chính kiến này không tách rời với 37 phẩm. Do tu đắc tịnh tâm nên sinh 37 phẩm. Do 37 phẩm sinh nên được xuất thế. Từ vô thủy đến nay tâm thế gian và tâm xuất thế gian không bao giờ câu sinh câu diệt vì tính của chúng trái nhau.

Luận nói: Cho nên cái tâm thế gian này chẳng liên quan gì đến sự huân tập của tịnh tâm.

Giải thích: Đã không cùng sinh diệt nên không có nghĩa huân tập nhau.

Luận nói: Đã không huân tập thì không thể thành chủng tử xuất thế được.

Giải thích: Tư tuệ nếu được tâm xuất thế huân thì có thể thành chủng tử xuất thế. Đã không được huân thì không thành chủng tử xuất thế.

Luận nói: Vì vậy cho nên, nếu lìa nhất thiết chủng tử quả báo thức, thì xuất thế tịnh tâm cũng không thành.

Giải thích: Nếu tách rời bản thức, tâm xuất thế không có nhân duyên nên không thành.

Luận nói: Bởi vì sao? Trong đây sự huân tập của cái nghe và tư duy không có nghĩa có khả năng thâu nhiếp chủng tử huân tập xuất thế gian.

Giải thích: Nói “Trong đây” tức trong tư tuệ. Trong tư tuệ có đa văn huân tập. Nếu xưa nay đã khởi tâm xuất thế huân tập thì tư tuệ này có thể được nghĩa tư tuệ thâu giữ xuất thế huân tập làm chủng tử. Xưa nay đã chưa từng khởi tâm xuất thế huân tập tư tuệ cho nên không có lý gì được nói là tư tuệ thâu giữ xuất thế huân tập làm chủng tử.

Luận nói: Vì sao nhất thiết chủng tử quả báo thức thành nhân của bất tịnh phẩm?

Nếu có thể tạo tác nhiễm trược, đối trị lại nhân tịnh tâm xuất thế.

Giải thích: Bản thức không nên được làm nhân bất tịnh phẩm. Nếu lập bản thức là nhiễm trược đối trị lại nhân xuất thế, thì không được lấy bản thức làm nhân bất tịnh phẩm. Bất tịnh phẩm là tập đế và khổ đế, là chủng tử nghiệp phiền não cho nên tập đế này có khả năng sinh sinh tử, tức là trừ bỏ sự đối trị nhiễm trược của khổ đế. Hoặc là làm nhân cho tâm xuất thế, tức sinh đạo diệt hoặc. Sinh đạo với bất tịnh phẩm trái nhau. Đã lập làm đối trị nhiễm trược và làm nhân của tâm xuất thế cho nên không nên lại nói là nhân bất tịnh phẩm.

Luận nói: Nhưng tâm xuất thế này xưa nay chưa từng sinh tập, nên nhất định không có huân tập.

Giải thích: Từ vô thủy đến nay chưa từng sinh tâm xuất thế. Đã không có sinh, huống gì là tu tập. Cho nên chắc chắn không nghi ngờ là cái tâm xuất thế không được huân vào bản thức.

Luận nói: Nếu không huân tập, thì tâm xuất thế này từ nhân nào sinh ra?

Giải thích: Nếu có huân tập làm chủng tử thì tâm xuất thế có nhân, đã không huân tập thì tâm xuất thế là không nhân mà sinh.

Luận nói: Ông nay nên trả lời là,

Giải thích: Chưa thấy đạo lý có nhân, cho nên trách bảo trả lời .

Luận nói: vì cái chính văn sở lưu của pháp giới rất thanh tịnh huân tập làm chủng tử nên tâm xuất thế được sinh.

Giải thích: Muốn nói khác với pháp giới sở đức của Nhị thừa nên gọi pháp giới rất thanh tịnh. Thế nào là sở đắc khác với Nhị thừa? Hoặc chướng và trí chướng của pháp giới này diệt hết không còn sót nên nói rất thanh tịnh. Pháp giới là lấy như lý, như lượng, thông 3 vô tính làm thể. Nói “sở lưu” là chính thuyết chính pháp, tức 12 bộ kinh. Nói “chính văn” là nhất tâm cung kính nghe chính pháp tâm không điên đảo. Từ chính văn này 6 thứ nghĩa huân tập khởi trong bản thức. Nếu tâm xuất thế sinh ắt nhân đây được sinh.

Luận nói: Văn tuệ huân tập này cùng với thức A-lê-da là đồng tính hay không đồng tính?

Giải thích: Nếu vậy có lỗi gì?

Luận nói: Nếu là tính của thức A-lê-da thì làm sao thành chủng tử đối trị thức này? Nếu không đồng tính thì chủng tử văn tuệ này lấy pháp nào làm y chỉ?

Giải thích: Nếu là tính của bản thức, làm sao tự tính có thể làm đối trị diệt tự tính? Nếu không đồng tính thì cái văn tuệ huân tập này phải có chỗ y chỉ khác.

Luận nói: Cho đến khi được địa vị vô thượng Bồ-đề của chư Phật, văn tuệ huân tập này phát sịnh và tùy ở một nơi y chỉ. Trong đó nó cùng sinh với quả báo thức.

Giải thích: Công năng của cái văn này từ đâu sinh, liên tục đến vị trí nào? Các Bồ-tát từ thập tín trở lên cho đến quả vị vô thượng Bồ-đề, công năng của văn này trụ liên tục không mất. Chưa có mới có gọi là sinh. Đã có chưa diệt gọi là trụ. Cái sinh và trụ này, ở trong lục đạo nó tùy theo y chỉ vào thân 5 ấm của một đạo nào đó. Ở trong thân trong lục đạo nó cùng bản thức câu sinh liên tục không dứt. Mặc dầu không đồng tính với bản thức nhưng nó cùng bản thức câu sinh.

Luận nói: Ví như nước với sữa.

Giải thích: Nước với sữa tuy tính không đồng nhưng hòa hợp và được cùng sinh.

Luận nói: Cái văn huân tập này không phải bản thức. Vì nó đã thành chủng tử đối trị lại với thức này.

Giải thích: Vì công năng của cái văn này đối trị lại với bản thức nên không đồng tính với bản thức. Tuy không đồng tính nhưng vì không tách rời nhau nên thường cùng khởi. Thế nào là đối trị bản thức?

Luận nói: Trong đây y vào huân tập bậc thấp sinh huân tập bậc trung, y vào huân tập bậc trung sinh huân tập bậc cao.

Giải thích: Nói “Trong đây” tức trong chỗ y chỉ và trong bản thức. Cái công năng của văn huân tập có 3 phẩm là hạ, trung, thượng, tức 3 bậc là bậc thấp, bậc trung và bậc cao. Bậc thấp tức văn tuệ, trung là tư tuệ, cao là tu tuệ. Lại có 3 phẩm, tức trong 3 tuệ, mỗi mỗi đều khai làm 3 phẩm. Lại có 3 phẩm là giải thoát phần phẩm, thông đạt phần phẩm và quyết trạch phần phẩm. Văn có 3 nghĩa: 1.tư lương của cái nghe, nghĩa là âm thanh sở thuyên tên, câu, nghĩa, 2.thể của cái nghe, tức nhĩ thức, 3.quả của cái nghe, tức văn tuệ và các pháp môn được văn tuệ hiểu rõ. Ba phẩm huân tập của cái văn này, tùy sinh một phẩm thì có khả năng đối trị một phẩm của bản thức. Nếu hạ phẩm sinh, có thể đối trị thượng phẩm bản thức. Cho đến nếu thượng phẩm sinh có thể đối trị hạ phẩm bản thức.

Luận nói: Bởi vì sao?

Giải thích: Đây có 3 nghĩa : 1.vì sao có 3 phẩm, 2.vì sao tương sinh, 3.vì sao có thể đối trị.

Luận nói: Vì thường xuyên gia hành văn tư tu.

Giải thích: Thường xuyên nghĩa là thường gia hành không gián đoạn, tức dụng công chứ không phải tu học một cách lửng lơ. Do thường xuyên gia hành nên có 3 phẩm. Được tương sinh nên được đối trị. Do thường xuyên gia hành nên thành 3 phẩm và tương sinh, nghĩa này chẳng phải nghi ngờ. Vì sao do thường xuyên gia hành thành đối trị bản thức?

Luận nói: Nên biết văn huân tập bậc thấp bậc trung và bậc cao này là chủng tử của pháp thân.

Giải thích: Pháp gì là pháp thân? Chuyển y là pháp thân. Tướng chuyển y như thế nào? Thành thục tu tập thập địa và Ba-la-mật, công đức xuất ly chuyển y là tướng, do văn huân tập 4 pháp mà thành. Một, tin ưa Đại thừa là chủng tử đại tịnh. Hai, Bát-nhã Ba-la-mật là chủng tử đại ngã. Ba, Hư không khí Tam-muội là chủng tử đại lạc. Bốn, Đại bilà chủng tử đại thường. Thường, lạc, ngã, tịnh là 4 đức của pháp thân. Văn huân tập và 4 pháp này là chủng tử của 4 đức. Khi 4 đức viên mãn thì bản thức không còn. Văn huân tập và 4 pháp đã là chủng tử của 4 đức nên có thể đối trị bản thức. Văn huân tập chính là chủng tử của 5 phần pháp thân. Văn huân tập là hành pháp chưa có mà có, 5 phần pháp thân cũng chưa có mà có, cho nên chính là chủng tử của 5 phần pháp thân. Văn huân tập chỉ là chủng tử của 4 đức đạo. Bốn đức đạo có thể hiển lộ 4 đức. Bốn đức xưa nay vốn có, không phải do chủng tử sinh ra, từ nhân mà được tên nên gọi chủng tử.

Luận nói: Do đối trị với thức A-lê-da sinh ra nên không thâu nhiếp trong tính của A-lê-da.

Giải thích: Cái văn huân tập này không phải vì tăng ích bản thức mà sinh, nó sinh ra do thế lực làm tổn giảm bản thức, cho nên có thể đối trị bản thức. Nó trái với tính của bản thức nên không bị thâu nhiếp trong tính của bản thức. Đây rõ ràng pháp thân là quả của văn huân tập.

Luận nói: Vì nó lưu xuất từ pháp giới xuất thế rất thanh tịnh.

Giải thích: Ra khỏi 7 thứ khổ đế, diệt 3 thứ tập đế nên gọi xuất thế. Nghĩa là 3 vô tính của chân như vốn không nhiễm ô. Sau lìa khỏi 3 chướng cấu nên gọi rất thanh tịnh. Tam thừa đạo từ pháp này sinh nên gọi là giới. Vì văn huân tập này lưu xuất từ pháp giới rất thanh tịnh nên không vào trong tính của bản thức. Đây là nói rõ pháp thân là nhân của văn huân tập. Nhân của văn huân tập khác bản thức. Quả của văn huân tập cũng khác bản thức. Thể của văn huân tập với bản thức là đồng hay khác?

Luận nói: Tuy cũng là pháp thế gian mà đã thành tâm xuất thế.

Giải thích: Như ý thức tuy là pháp thế gian nhưng có thể thông đạt Tứ đế Chân như, đối trị các chướng của Tứ đế nên thành tâm xuất thế. Văn huân tập cũng vậy, tuy là pháp thế gian nhưng nhân quả đều là pháp xuất thế nên cũng thành tâm xuất thế.

Luận nói: Bởi vì sao?

Giải thích: Bởi vì sao? Vì pháp này chỉ là pháp xuất thế, không phải pháp thế gian. Vì có 4 thứ đối trị.

Luận nói: Vì chủng tử tâm xuất thế thanh tịnh này khi chưa khởi, đã có khả năng đối trị tất cả thượng tâm hoặc,

Giải thích: Đây thứ nhất là đối trị chán ghét. Do văn huân tập này hiểu rõ chính lý, biết được sự sai lầm của các trần nên sinh chán ghét sự phi lý và chán ghét các trần. Chủng tử của đối trị chán ghét này là văn huân tập. Bồ-tát vị tri dục tri căn, gọi là xuất thế tịnh tâm. Tâm này trước khi chưa khởi là văn huân tập, thuộc văn tư tuệ vị. Ở trong văn tư vị, xưa khi chưa được văn tư tuệ, do kiến điên đảo và tưởng điên đảo kiến tu bị phá, hằng khởi phiền não, thượng tâm sinh 4 ác nghiệp, cảm báo 4 ác đạo, nhờ được pháp này các phiền não chưa sinh và quả báo nghiệp đều không khởi được.

Luận nói: đối trị việc sinh tất cả ác đạo,

Giải thích: Đây thứ hai là nói rõ sự đối trị trừ diệt. Do văn huân tập khởi liên tục tiếp nhau nhập chính định tụ, văn huân tập tùy sinh tùy diệt các ác pháp, có thể đoạn dứt 4 ác đạo, dẫn sinh thiện đạo. Xưa từng khởi ác nghiệp phải dẫn sinh 4 ác đạo, nhờ pháp này nên tiêu diệt không thụ trở lại.

Luận nói: đối trị tất cả ác hạnh hủ hoại,

Giải thích: Đây là thứ ba nói đối trị xa lìa. Trong sinh tử từ vô thủy đã tạo hậu báo ác nghiệp khiến trong khi chịu hậu báo đọa 4 đường dữ, pháp này có thể chuyển khiến hậu báo không báo, đó là nghĩa hủ hoại.

Luận nói: có khả năng tiếp nối liên tục, khiến sinh ở nơi tùy thuận, gặp và phụng sự chư Phật Bồ-tát.

Giải thích: Đây thứ tư là nói rõ đối trị y nhiếp, có thể dẫn 5 ấm tương tục khiến sinh nơi có Phật Bồ-tát, tùy thuận được gặp và phụng sự. Gặp nhau không do ý định gọi là phùng. Thủy chung phụng sự gọi là sự. Người này y chỉ vào thiện tri thức vì thiện tri thức làm cho sinh thiện căn, tu bố thí và ái ngữ nhiếp để khiến thành thục thiện căn, tu lợi hành nhiếp khiến được giải thoát thiện căn, tu đồng lợi nhiếp, y nhiếp để làm rõ 4 nghĩa của đa văn: 1.đa văn y chỉ, tức là thiện tri thức. 2.đa văn nhân, tức là tâm Bồ-đề. 3.đa văn thanh tịnh, tức tu hành đúng theo giáo pháp. 4.đa văn quả, tức tự lợi lợi tha. Cái thứ nhất là nghĩa gặp gỡ, 3 cái sau là nghĩa phụng sự. Lại 3 cái trước là đối trị y, cái thứ tư là đối trị. Đối trị thứ tư thâu nhiếp 3 đối trị trước. Bởi vì sao? Vì nếu không thiện tri thức, 3 cái trước không thành. ba cái trước dựa vào cái thứ tư. Ba cái trước tức công năng của thiện tri thức nên được gồm trong cái thứ tư.

Luận nói: Cái văn huân tập này, tuy là pháp thế gian, Bồ-tát mới tu quán đạt được. Nên biết rằng pháp này nhiếp thuộc vào pháp thân.

Giải thích: Nhĩ thức nghe âm thanh dẫn khởi ý thức, dựa vào câu văn hiểu rõ nghĩa, thương xuyên tập họp sinh công năng, giữ gìn không mất gọi là văn huân tập. Do nghĩa này mà gọi là pháp thế gian. Bồ-tát có 2 hạng: một ở phàm vị một ở thánh vị. Từ sơ phát tâm đến thập tín trở lại đều ở phàm vị. Từ thập giải trở lên đều thuộc thánh vị. Người mới tu quán là phàm phu Bồ-tát. Nếu Bồ-tát mới tu quán, các sở đắc của văn huân tập là pháp thế gian. Tuy là pháp thế gian mà là nhân đưa đến chứng đắc pháp thân nên nhiếp thuộc pháp thân.

Luận nói: Nếu sở đắc của Thanh Văn, Độc Giác thì nhiếp thuộc giải thoát thân.

Giải thích: Nếu sở đắc của những người đã được quả cứu cánh của Nhị thừa còn nhiếp thuộc giải thoát thân, huống chi là Thanh Văn, Độc Giác, Bồ-tát. Bởi vì sao? Ba hạng người này chỉ được giải thoát thân, không được Như Lai pháp thân. Ba hạng người này nhờ giải thoát thân được cùng đồng Như Lai, chứ không phải do pháp thân. Như Lai do được pháp thân nên trong tất cả chúng sinh không chúng sinh nào sánh kịp. Banrn thức và văn huân tập tuy tương ưng cùng khổ cùng diệt mà bản thức dần giảm, chứ không phải bản thức liên tục dần tăng. Tôi sẽ nói nghĩa này.

Luận nói: Cái văn huân tập này chẳng phải thức A-lê-da, nó nhiếp thuộc pháp thân và giải thoát thân. Và cứ như vậy tuần tự tăng dần từ bậc thấp, bậc trung, bậc cao, và cũng như vậy quả báo thức tuần tự giảm dần.

Giải thích: Cái thể của văn huân tập là pháp xuất thế. Nhân quả của văn huân tập nhiếp thuộc pháp thân và giải thoát thân. Cái thể của bản thức là pháp thế gian. Nhân là tập đế. Quả là khổ đế. Ai pháp này tự tính trái nhau. Ở nghĩa này mà văn huân tập dần tăng thì bản thức dần giảm. Vă huân tập sinh ở hạ phẩm thì bản thức thượng phẩm giảm. Văn huân tập tăng đến trung phẩm thì bản thức trung phầm giảm. Văn huân tập tăng đến thượng phẩm thì bản thức hạ phẩm giảm.

Luận nói: Y chỉ tức chuyển.

Giải thích: Do đạo đế tăng, tập đế giảm. Đạo đế tức là phúc đức trí tuệ. Tập đế là chủng tử trong bản thức. Do phúc đức dần tăng thì chủng tử dần giảm cho nên được chuyển.

Luận nói: Nếu y chỉ cứ tiếp tục chuyển, thì cái quả báo thức có chủng tử, tức thành không chủng tử, tất cả đều hết.

Giải thích: Y chỉ tức Như Lai pháp thân. Lần lượt dần tăng thì sinh đạo, lần lượt dần giảm tập đế, gọi là cứ một bề xả bỏ. Sơ địa đến nhị địa cho đến thành Phật gọi là chuyển. Nghiệp phiền não diệt nên nói là “tức thành không chủng tử”. Đây là nói hữu dư Niết-bàn. Quả báo diệt hết nên nói tất cả đều hết. Đây là nói vô dư Niết-bàn. Do nghĩa này nên bản thức và đạo tuy là cùng sinh mà tăng giảm có khác nhau.

Luận nói: Nếu bản thức với các thức chẳng phải bản thức cùng khởi cùng diệt, hòa hợp nhau như nước với sữa thì vì sao bản thức diệt, các thức khác không phải bản thức không diệt?

Giải thích: Trước nói đến sự hòa hợp nước với sữa ví cho sự hòa hợp bản thức với các thức phi bản thức, sao còn nêu lên chất vấn? Nước với sữa hòa hợp đã cùng sinh diệt thì không có nghĩa chỉ diệt hết một thứ. Bản thức hòa hợp với phi bản thức cũng vậy, làm gì có một diệt một còn?

Luận nói: Ví như con ngỗng uống sữa trong nước.

Giải thích: Lấy thí dụ để giải thích câu hỏi. Nước sữa tuy hòa hợp, con ngỗng khi uống chỉ uống sữa không uống nước. Cho nên sữa tuy hết mà nước không hết. Bản thức với phi bản thức cũng vậy, tuy hòa hợp mà một diệt một còn.

Luận nói: Cũng như thế gian khi ly dục thì các huân tập ở bất tĩnh địa diệt, các huân tập ở tĩnh địa tăng, thành nghĩa chuyển y của thế gian, và nghĩa chuyển y của xuất thế gian cũng vậy.

Giải thích: Cái dẫn trước là ví cho sự hiểu biết của thế gian. Cái dẫn sau là ví cho sự hiểu biết của người có thế gian trí. Như người ly dục thế gian, trong bản thức phiền não bất tĩnh địa và chủng tử của nghiệp diệt, thiện căn công đức tĩnh địa huân tập viên mãn chuyển hạ giới y thành thượng giới y. Sự chuyển y của xuất thế gian cũng vậy. Do công năng bản thức dần giảm, văn hân tập v.v…lần lượt dần tăng, bỏ chỗ nương tựa phàm phu lập chỗ nương tựa thánh nhân. Chỗ nương tựa thành nhân là lấy văn huân tập hòa hợp với giải tính làm chỗ nương tựa. tất cả thánh nhân đều nương tựa đây mà sinh.