nhị thập ức nhĩ

Phật Quang Đại Từ Điển

(二十億耳) Phạm: Zroịakotiviôza, hoặc Zrotraviôzatikotì. Hán âm: Thất lũ đa tần thiết để câu chi. Cũng gọi Ức nhĩ la hán, Văn nhị bách ức. Tên vị A la hán, con của 1 trưởng giả ở nước Y lạn noa bát phạt đa thuộc Trung Ấn độ. Sau khi được đức Phật giáo hóa, Ngài xuất gia ở nước Xá vệ, 1 mình yên tĩnh, siêng năng tu tập ngày đêm không nghỉ. Vì không dứt hết được các phiền não nên Ngài bỏ tu và trở về nhà. Sau đó, đức Phật biết tin liền cho gọi Ngài đến hỏi: Khi còn ở thế tục, ông ưa thích những gì?. Đáp: Bạch đức Thế tôn! Con thích gảy đàn. Bấy giờ đức Phật mới dạy Ức nhĩ rằng: Nếu để dây đàn căng quá thì tiếng nghe không êm tai, nếu chùn quá thì không thành tiếng; chỉ khi nào dây đàn không căng, không chùn thì tiếng đàn phát ra mới êm hòa dễ nghe. Cũng thế, người tu hành nếu tinh tiến thái quá sẽ làm cho tâm bị nhiễu loạn, mất sự điều hòa, còn nếu không tinh tiến thì tâm sẽ trở nên lười biếng. Sau khi nghe đức Phật chỉ dạy, ngài Ức nhĩ liền lập chí trở lại, tâm không buông thả, tu hành đúng mức, chứng được quả A la hán. Về sau, Ngài du hóa đến Nam Ấn độ và tịch ở nước Cung kiến na bổ la. Ngài có tướng lạ là lông chân dài 2 tấc, chân không đạp đất. Ngài là vị tinh tiến bậc nhất trong hàng đệ tử của đức Phật. [X. kinh Tạp a hàm Q.9; luận Đại trí độ Q.22]