NHẤT THIẾT ÂM NGHĨA

Sa môn Tuệ Lâm soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 3

(Âm kinh Đại Bát-nhã từ quyển 302-39)

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 302

Nhiễu não (嬈 惱). Ngược lại âm trên là nê ô 泥 烏. Thuyết Văn nói rằng: Nhiễu là khắt khe, tàn ác. Một gọi là quấy nhiễu, là m trò. Chữ viết từ bộ nữ 女thanh nhiêu 蕘. Ngược lại âm dưới là nô lão 奴 老.

Trước trong quyển hai đã giải thích.

Năng Trở (能 阻). Ngược lại âm trang sở 莊 所. Nhĩ Nhã cho rằng: Trở là ngăn cản khó khăn. Theo Tả Truyện cho là nghi ngờ. Thuyết Văn nói là hiểm trở. Chữ viết từ bộ phụ 阜, thanh thư. Âm thư ngược lại âm tử dư 子 余.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 303

Khiếm Khứ (欠 去) Âm khứ 去. Bì Thương cho rằng: Khiếm khứ là há to miệng ra. Theo chữ khiếm khư là há to miệng ra để dẫn hơi vào, hoặc viết khư 厶 này.

Phan chi (攀 枝). Ngược lại âm phổ ban 普 班. Thuyết Văn cho là Dẫn dắt, níu kéo. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh phan. Âm phan là âm phiền 煩. Ngược lại âm dưới là chỉ di 止 移. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Chi (枝) là nhánh cây. Chữ viết từ bộ mộc 木. Thuyết Văn cho là Tay nắm lấy nữa cành trúc gọi là chi 支. Văn cổ viết chi 吱 này cũng đồng.

Quỷ mô (揆 摸). Ngược lại âm quỳ quý 葵 癸. Theo Mao Thi Truyện cho rằng: Quỷ (揆) là đánh giá, phán đoán. Gia Uyễn Chu Tòng cho rằng: Thương lượng, trắc nghiệm, đánh giá các việc gọi là quỷ 揆 . Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ thủ 手 thanh quý 癸. Ngược lại âm dưới là mạc hồ 莫 胡. Tóm tắt lại cho rằng: Mô là học theo phương pháp. Thuyết Văn là Qui tắc. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh mạc 莫.

Hiệt Tuệ (黠 慧). Ngược lại âm trên là nhàn ưu 閑 憂. Tiếng địa phương cho rằng: Tuệ hiệt là thông minh, nhanh nhẹn. Thuyết Văn cho là Chất xám cứng rắn. Chữ viết từ bộ hắc 黑 thanh kiết. Ngược lại âm dưới là huề giai 攜 佳. Quách Phác chú giải tiếng địa phương rằng: Tuệ (慧) là tình ý sáng suốt. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Sáng suốt, xác thật, hiểu biết tường tận. Thuyết Văn cho rằng: Khinh bạc, lanh lợi. Chữ viết từ bộ tâm 心 thanh tuệ 彗. Âm huyên 儇 ngược lại âm huyết duyên 血 緣. Huyên cũng gọi là tuệ. Âm tuệ 彗 ngược lại âm tùy tuệ 惠.

Ca Già Mạc ni (迦 遮 末 尼). Ngược lại âm trên là cương già 薑伽. Âm kế là giả xà 者 蛇. Âm cuối là mạc bát 莫 鉡, là tiếng Phạm. tên loại châu báu, loại quý như là Ngọc, Đá, ngọc Tỳ Diêu Miên.

Báo oán (報 怨). Ngược lại âm trên là bảo mạo 保冒. Trịnh Tiễn chú giái sách Lế Ký rằng: Báo (報) là đáp lại. Quảng Nhã cho là phục hồi. Cố Dã Vương cho là Báo đáp, đền đáp. Thuyết Văn cho là Người đương là m tội. Chữ viết từ bộ hạnh 幸 thanh phục âm phục 服 là âm tội 罪. Ngược lại âm dưới là uyển viên 苑 袁. Khảo Thanh cho là Oán ghét, hiềm thù, cừu hận. Khảo Thanh cho rằng: Từ đào lấy gốc cỏ mà che đậy lại. Chữ viết từ bộ miên thanh oán 怨. Âm miên 冖 là âm miến 綿, âm phục 服 là âm phục 服.

Đỗ Đa (杜多). Âm trên là độ 度, là tiếng Phạm. Xưa dịch là đầu đà 頭 陀, hoặc gọi là Đẩu-tẩu. Nghĩa là tu hạnh ít muốn biết vừa đủ. Có mười hai hạnh:

– Một là thường đi khất thực.
– Hai là khất thực theo thứ lớp.
– Ba là ngồi một chỗ mà ăn.
– Bốn là theo thứ lớp mà ăn.
– Năm là khi ăn xong không uống nước trái cây ép.
– Sáu là thường ở chỗ vắng vẽ.
– Bảy là thường ngồi không nằm.
– Tám là hễ được tọa cụ nào thì sử dụng tọa cụ ấy.
– Chín là ngồi ngoài trời.
– Mười là ngồi dưới gốc cây.
– Mười một là chỉ chứa ba y.
– Mười hai là mặc y phẩn tảo.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 304

Hôn Trầm (惛 沉). Ngược lại âm trên là hồ côn 乎昆. Khổng An

Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Hôn là loạn. Quảng Nhã cho: Hôn là ngu si, ngớ ngẫn, đần độn. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ dân 民. Sau các Miếu, Chùa tránh phạm Húy nên đổi lại chữ dân 民 là chữ thị 氏, hoặc là viết từ bộ tâm 心 viết thành chữ hôn 婚, chữ miên 眠 ở dưới y cứ theo đây.

Thùy Miên, ngược lại âm trên là thùy ngụy. Theo Tập Huấn Truyện cho là ngồi mà ngủ. Sách Tự Thư cho rằng: Ngủ mê, say. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ mục 目 thanh thùy. Ngược lại âm dưới là mạc biên 莫 邊. Vương Dật chú giải sách Sở Từ rằng:Miên (眠) là nằm mà ngủ. Thuyết Văn nói chữ viết huyên âm miên 眠 thanh miên 眠. Chữ mục 目 thanh huyên. Chữ đúng xưa nay viết miên 眠 mục 目 huyên từ bộ mục 目thanh miên.

Khể Lưu (稽 留). Ngược lại âm trên là kinh nghe 經 霓. Khảo Thanh cho rằng: Khể là ngừng lại, chậm lại. Thuyết Văn cho rằng: là Dừng lại, lưu lại, giữ lại. Chữ viết từ bộ chỉ 旨, thanh khể. Âm khể là âm kê 雞. Văn cổ viết là khể 乩, hoặc viết là bốc 卜. Ngược lại âm dưới là lực cứu 力 救. Giải thích trước cũng đồng. Khảo Thanh cho là lâu dài. Thuyết Văn cho là dừng lại, lưu lại. Chữ viết từ bộ điền 田 thanh lưu. Nay trong văn kinh viết chữ biến thể thành chữ lưu 留 này, hoặc là viết lưu 留 này, hoặc là viết lưu 留 như vậy lân lần chuyển nên sai đi âm lưu cũng là âm dậu 酉, âm liễu 柳.

Tạ Pháp (榭 法). Ngược lại âm trên là 夕 夜 tịch dạ. Khảo Thanh cho rằng: Lạy tạ ân nghĩa. Thuyết Văn cho là từ biệt. Chữ viết từ bộ ngôn 言 thanh xạ 射. Dưới là chữ pháp 法. chữ đúng thể là chữ pháp 琺 này, hoặc là viết pháp 琺. Nay theo lệ sách viết lược bớt đi, chữ pháp 琺 viết thành chữ pháp 法 này. Âm pháp 琺 ngược lại âm trạch 宅 độc. Gọi là Thần thú ngày xưa cũng gọi là giải pháp độc. Không thẳng tới mà từ từ bỏ đi, phẳng lặng như nước. Cho nên từ bộ thủy 冰 mà viết pháp 琺 lược đi. Nay lược lại và viết chữ pháp 法 này. Quảng Nhã cho là Pháp lịnh. Nhĩ Nhã cho là Thường. Thuyết Văn nói là hình luật. Cố Dã Vương cho rằng:Pháp là lau chùi, là nghi tắc, phép tắc.

Vô lụy (旡 鏍) Chữ trên là vô 旡. Văn cổ viết kỳ 奇 trong chữ vô 旡. Thuyết Văn nói là Hư vô, là sức mạnh. Ngược lại âm dưới là ngụy. Theo Tả Truyện cho rằng: Con người về sau không có mệt mỏi. Vận Thuyên cho là tội tướng, Tự Thư cho là Liên lụy đến nhà, văn cổ lại viết lụy đều là chữ tượng hình.

Hệ Phược (繫 縛). Ngược lại âm trên là kế 計. Sách Tập Huấn Truyện cho rằng: Nối kết lại, tiếp theo. Ngọc Thiên cho rằng: Buộc chặt lại, câu thúc. Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ mịch 糸 thanh hệ. Ngược lại âm dưới là phòng bác 房 博. Tập Huấn Truyện cho Phược hệ là ràng buộc, trói buộc. Thuyết Văn nói cho là bó lại. Chữ viết từ bộ mịch 糸 bác 博 thanh tỉnh 省.

Gian Tân (艱 辛). Ngược lại âm thảo nhàn 草 閑. Sách Nhĩ Nhã cho rằng: Khó khăn, gian nan. Thuyết Văn cho là Đất khó trị. Chữ viết từ bộ thổ 土 thanh cấn 艮. Âm cần là âm cẩn 謹. Chữ theo đây là đúng. Nay văn thường dùng loại viết cần 勤 là sai. Chữ tân 辛 trên theo hai cách viết tân 辛.

Vô hạ (無 暇). Ngược lại âm trên hà nha 遐 伢. Giả Quì chú giải sách Quốc ngữ rằng: Hạ (暇) là sự rảnh rỗi, nhàn rỗi. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ nhật 日thanh hà.

Da hỗ (祜 祜) Ngược lại âm 胡 古 hồ cổ. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Hỗ 祜 là may mắn, phước là nh. Sách Nhĩ Nhã cho là nguồn phước. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ thị 示 thanh cổ 古. Trong kinh hoặc là viết hữu 祐 âm hữu 右. Thuyết Văn cho là Hỗ đỡ, giúp sức. Nơi nghĩa cũng thông chữ trên dịch là có liên hệ với nhau. Khổng Tử cho rằng: Từ nơi Trời trợ giúp, là thuận theo con người để trợ giúp, là người có lòng tin. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ thị 示thanh hữu 右. Âm thị 示 là âm kỳ 祇.

Văn manh (蚊 懵). Ngược lại âm trên là vật phân 勿 汾. Trong kinh viết văn 文, thường dùng sai. Thuyết Văn nói viết văn 文 là loại côn trùng biết bay cắn đốt chích người. Ngược lại âm dưới là mạc canh 莫 耕. Theo Thanh loại cho rằng: com muỗi mắt, muỗi kim, giống như con muỗi mà lớn hơn. Thuyết Văn cho là ở trên núi, hồ ao nước đọng, trong cỏ hoa hóa sanh con muỗi này, cũng từ trong thân con nai sanh ra. Thân nó lớn gọi là manh 懵 tức là con ruồi trâu mà sống từng đàn. Theo văn gọi là loài ký sinh trùng sống trên người và thú vật, hút máu để sống.

Vô giáp (無 郟). Ngược lại âm hồ giáp 胡 甲. Thuyết Văn cho rằng: Nơi quan ải nhỏ hẹp.Chữ viết từ bộ phụ 阜 thanh giáp. Trong văn kinh viết từ bộ đại 大 viết thành giáp 郟 này là chẳng đúng. Âm giáp ngược lại âm hiềm diệp 嫌 葉.

(Kinh từ quyển 305 đến quyển 310 đều không có âm giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 311

Thông duệ (聰 叡). Ngược lại âm trên là thông 蔥. Theo Hàn Thi Truyện cho là thông minh. Mao Thi Truyện cho là nghe. Thuyết Văn cho là chính xác thật tế. Chữ viết từ bộ nhĩ 耳 thanh thông. Ngược lại âm dưới là nhuệ 銳. Văn Bát-nhã cho rằng: Là trí tuệ. Sách Thượng Thư cho là Thánh. Tập Huấn Truyện cho là thông tận nơi vi tế nhỏ bé nhất. Thuyết Văn cho là Sâu, trí sáng thâm sâu. Chữ viết từ bộ thông đếnmục 目 thanh tỉnh cốc 省 谷. Âm thông là âm tàn 殘.

Chúng dụ (眾 喻). Ngược lại âm trên là 菸 虫 Thuyết Văn cho là chúng là số đông nhiều, từ bộ thỉ 豕, lập là chúng đông. Từ bộ mục 目 viết chữ chúng. Chữ chỉ ý. Âm chúng là âm ngâm 吟. Ngược lại âm dưới là dực chú 翼 注 là chữ thường hay dùng. Viết đúng từ bộ ngôn 言 viết thành dụ 諭. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký cho là nói lãi nhãi bên tai. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Khuyên can, dùng thí dụ khuyên can. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ ngôn 言thanh dụ.

Bất Khiếp (不 怯).Ngược lại âm khiếm khiếp 欠 怯. Cố Dã Vương cho là khiếp sợ nhát gan. Thuyết Văn cho là Chữ viết từ bộ khuyển 犬 viết thành chữ khiếp 怯. Cho rằng nhiều chó nên phải sợ hãi là chữ hội ý.

Bất đạn (不 憚). Ngược lại âm trên đường lan 唐 闌. Trịnh Huyền chú giải Mao Thi Truyện cho rằng: Đạn (憚) là khó khăn kiêng sợ. Theo Tập Huấn Truyện cho là từ chối, kinh sợ. Thuyết Văn cho là Kiêng kỵ. Chữ viết từ bộ tâm 心 thanh đơn 單.

Giải Quyện (懈 倦). Ngược lại âm trên là giới 戒. Âm dưới là cuồng viện 狂 院, hoặc là viết quyện 倦. Quảng Nhã cho rằng: quyện là rất. Vận Anh Tập cho rằng: Rất mỏi mệt, hoặc là viết là .

Do dự (猶 豫). Ngược lại âm trên là Dực châu 翼 州. Âm dưới là

dư cứ 餘 據. Hiếu Thanh cho rằng: Do dự là không nhất định. Từ Tập Huấn Truyện cho là trong lòng nghi ngờ. Sách Lễ Ký cho là Đoán, dự đoán. Cho nên chỗ quyết còn hiềm nghi, nhất định do dự. Tiếng địa phương cho rằng: Ở Lũng Tây gọi con chó là do 猶. Cho nên chữ Do từ bộ khuyển 犬 thanh do. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Dự (豫) là tên một con thú hình dáng giống như con voi. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ tượng 象 thanh dữ 与.

Đổ La miên (堵 羅 綿). Âm trên là đổ 堵. Âm dưới là di nhiên 彌然. Tiếng Phạm, gọi là loại bông tơ nhẹ mịn. Sa-môn Đạo Tuyên chú giải trong Tứ Phần Luật giới kinh rằng: Loại cây cỏ trổ bông mịn nhẹ. Hoa Bồ Đào, hoa Liễu, hoa trắng, hoa trắng dương, hoa Điệp v.v… Là loại bông nhẹ bay lên, lấy nghĩa nhuyễn mịn là m ví dụ.

Phiêu dương (飄 颺). Âm trên là thất diêu 匹 遙. Trong Mao Thi Truyện cho là gió mạnh. Ngược lại âm dưới là dương lượng 揚 亮. Thuyết Văn cho là gió bay phất phới, thanh bình.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 312

Phiếm Đại Hải (泛 大 海). Ngược lại âm phương phạm 芳 梵.

Thuyết Văn cho: Phiếm (泛) là nổi. Chữ viết từ bộ thủy thanh phạt. Ngược lại âm phạt tức 伐 即, là chữ đúng. Ngược lại âm dưới là ha cải 訶 改. Cố Dã Vương cho là nước lớn nhiều, nhận nước từ muôn con sông chảy ra. Lão Tử cho rằng: Sông biển cả mênh mông. Cho nên có thể là m vua cả trăm hang nhỏ, ngõ ngách tram muôn con sông lão Tử nói: Sở dĩ sông biển có khả năng đứng đầu trăm hang là vì dụ cho Pháp là nh, cho nên Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ thủy thanh mỗi 每.

Phù nang (浮 囊). Âm trên là phù 符. Lại âm phù vưu 符尤. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Trôi nổi gọi là 浮 phù. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ cho là nhẹ. Thuyết Văn cho là nổi lên trên mặt nước. Chữ viết từ bộ thủy thanh phù 孚. Ngược lại âm dưới là nặc đường 諾 唐. Tập Huấn Truyện cho rằng: Cái túi có đáy gọi là nang 囊, không đáy gọi là thác 託. Nay trong kinh nói “Phù nang” đó là cái túi chứa hơi, muốn vượt qua biển lớn phải nương vào cái túi này, cái túi chứa hơi đó la nhẹ nổi lên mặt nước, có sức đưa người qua sông biển lớn.

Bãn Phiến (板 片). Ngược lại âm trên là ban giản 班 簡. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: dùng cây cưa chẽ gỗ ra là m ván. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ phiến 片 viết thành bản 板 là cắt gỗ ra thành miếng ván. Trong văn kinh viết từ bộ mộc 木, văn thường dùng thông dụng. Ngược lại âm dưới là thiên biến 篇 遍. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Phiến (片) là gỗ được chẻ ra thành miếng ván. Thuyết Văn nói là phân nửa khúc gỗ.

Tử Thi (死 屍). Âm thi 尸. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Người chết gọi là thi 屍. Theo sách Lế Ký cho rằng: Người chết ở trên giường gọi là thi (屍) xác chết. Bỏ vào quan tài gọi là cữu 柩. Tức là linh cữu, cái hòm liệm xác người chết. Âm tức cữu 柩 là âm cựu 舊. Chữ viết từ bộ phương 匚 đến bộ cửu 久.

Khoáng dã (壙 野). Ngược lại âm trên là 廓 廣 khuếch quảng.

Trước đã giải thích rồi.

Tư lương 資 糧. Thuyết Văn nói: Tư (資) là hàng hóa. Chữ viết từ bộ bối 貝 thanh tư. Ngược lại âm dưới là lực khương 力 姜, hoặc viết là lương 糧. Tập Huấn Truyện cho là Các thứ lương thực, thức ăn. Thuyết Văn nói là Ngũ cốc. Chữ viết từ bộ mễ 米 thanh lượng 量. Trong kinh

Lục Độ Vạn Hạnh gọi là “Tư lương”.

Tao khổ (遭 苦). Ngược lại âm tổ lao 祖 勞. Thuyết Văn cho là gặp gỡ.

Phôi bình (坯 瓶). Ngược lại âm trên là phổ bôi 普 盃. Thuyết Văn cho là Ngói chưa nung nên gọi là phôi. Chữ viết từ bộ thổ 土 thanh bất 不. Ngược lại âm dưới là mãn huyên 滿 喧. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: dụng cụ chứa nước. Hiếu Thanh cho rằng: Giống như cái bình mà miệng nhỏ gọi là bình 瓶, cái lọ, cái chai. Âm anh. Ngược lại là âm ô canh 烏 耕.

Kham thạnh (堪 盛). Ngược lại âm trên là khang cam 康甘. Khổng

An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Kham là có thể, có khả năng. Âm thạnh 盛 là thành 成. Hiếu Thanh cho là bền chắc. Thuyết Văn cho là nhiều, đầy đủ. Chữ viết từ bộ mãnh 皿 thanh thành 成.

Trang trị (裝 治). Âm trên là trang 莊. Hiếu Thanh cho là Trang sức đẹp. Âm dưới là trì 持. Tự Thư cho là Sửa trị, pháp lệnh, sửa, tu sửa.

Thôi trước (推 著). Ngược lại âm trên là tha lôi 他 雷. Thuyết Văn cho là Thôi (推) là sắp bày, âm bài 排. Ngược lại âm bại 敗 mai 埋. Ngược lại âm dưới là trương lược 張略. Chữ viết đúng là từ bộ thảo 草 đến chữ giả 者, hoặc từ bộ 手 thổ viết thành chữ trước 著. Nay trong kinh viết hai chữ điểm 點 dưới viết thành chữ trước 著, vì có bộ thảo 草 là sai.

Tảng thất (嗓失). Ngược lại âm tảng táng 嗓 葬. Hiếu Thanh cho rằng: Tảng thất là lạc mất, rời rạt. Thuyết Văn nói cho là chết mất. Viết chữ từ khốc 哭. Âm khốc 哭 ngược lại âm khổ 苦 cốc thanh vong. Trong văn kinh viết táng 喪 hoặc là viết tảng đều sai. Âm dưới là thất 失. Thuyết Văn cho rằng: Thất (失) là tung hoành ngang dọc.Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh ất 乙. Theo Lệ sách viết chữ thất 失này là sai.

Phương khiên (方 牽). Ngược lại âm xí kiên 企 堅. Quảng Nhã cho là liên kết, dẫn dắt. Kéo lôi. Thuyết Văn cho là Dẫn đi trước. Chữ viết từ bộ mịch 冖 giống như ngưu 牛. Âm 麇 quân nghĩa là tụ hợp lại. Lại viết từ bộ ngưu 牛 thanh huyền 玄. Âm miên ngược lại âm quý dinh 癸贏. Văn thường dùng viết từ bộ thủ 手 đến bộ khứ 去 viết khiên 牽 này là chẳng đúng. Văn cổ viết từ bộ thủ 手 viết thành chữ khiên.

Xuyên huyệt (穿 穴). Ngược lại âm trên là xướng chuyên昌 專. Vận Anh Tập giải thích rằng: xuyên là cai hang. Thuyết Văn cho là thông suốt. Chữ viết từ bộ thân 身 đến bộ huyệt 穴. Âm dưới là huyền quyết 玄 決. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện cho rằng: Đường dưới đất gọi là cái hang. Thuyết Văn nói cho là Đất ở nhà. Chữ viết từ bộ miên 冖 thanh bát.

Lão mạo (老 耄). Ngược lại âm trên là lặc não 勒 惱. Nhĩ Nhã giải thích rằng: Lão là thọ, tuổi thọ. Hiếu Thanh cho rằng: Sống lâu, cựu. Khúc Lễ Kinh cho rằng: Bảy mươi tuổi gọi là lão 老. Thuyết Văn cho là Mạo lão là người cao tuổi. Chữ viết từ bộ mao 毛 đến bộ nhân 人, đến bộ chủy. Âm chủy là âm hóa. Nói rằng người có râu tóc hóa bạc trắng gọi là lão 老. Ngược lại âm dưới là mao bạo 毛 暴. Sách Chu Lế cho rằng: Tám mươi, chín mươi tuổi gọi là mạo 耄. Trịnh Huyền cho: Là người mê muội hay quên. Thuyết Văn nói chữ viết là mạo niên 耄年 là chín mươi tuổi. Chữ viết từ bộ lão 老 đến bộ cao 高 thanh tỉnh 省.

Câu Lô xá (俱 盧 舍). Là tiếng Phạm. Trong Luận Đại Bà-sa cho là Một Câu-Lô-Xá, tức là bằng tiếng con bò rống vang ra, tức là nơi rất xa ngoài thành. Vùng A-lan-nhã. Tức là nơi tịch tịnh yên tỉnh.

(Quyển 313 không có âm giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 314

Hộc noãn (觳 卵). Ngược lại âm trên là khổ giác 苦角. Theo Tập

Huấn Truyện cho rằng: Cái trứng của con chim, da ngoài trong rỗng. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ hộc 觳 thanh giác 角. Âm giác 角 ngược lại âm khẩu giang 口 江. Ngược lại âm dưới là quản 管. Thuyết Văn cho là Phàm vật gì không có vú đều từ trứng sinh ra. Văn cổ viết chữ noãn 卵 nầy, hoặc là viết noãn 卵. Chữ tượng hình.

Ế mục (噎 目). Ngược lại âm ư kế 於 計. Vận Lược Tập cho rằng: Con mắt bị che. Chữ viết từ bộ mục 目 thanh y. Ngược lại âm ư kế 於 計. Trong văn kinh viết ế 曀 này là chẳng đúng. Chữ mục 目 Thuyết Văn cho là con mắt của người. Chữ tượng hình có hai “đồng tử”.

Tướng Soái (將 帥). Ngược lại âm tinh dạng 旌 樣. Từ Thư cho:

là quân chủ. Thuyết Văn cho là Thống lĩnh. Chữ viết từ bộ thốn 寸 đến chữ thanh tỉnh 省. Ngược lại âm dưới là suất loại 率 類. Khảo Thanh cho là Thống lĩnh. Tập Huấn Truyện cho rằng: Tướng quân. Hoặc là viết hoặc âm là suất (率) đây cũng thông dụng.

(Quyển 315, không có âm giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 316

Thuần thục (淳 熟). Ngược lại âm trên là thời luân 時 倫. Văn thường hay dùng viết là thuần 淳, hoặc là viết thuần 淳. Quảng Nhã cho rằng: Thuần là trong sạch. Hiếu Thanh cho rằng: thuần là sạch trong. Thuyết Văn cho là Chữ viết từ bộ thủy viết thành chữ tức là trong suốt màu xanh. Âm lục là âm 淥 lộc. Ngược lại âm dưới là thường lục 常 陸. Theo Hiếu Thanh cho rằng: Trở thành chín mùi. Tiếng địa phương cho rằng: Đã chín nhừ. Thuyết Văn nói rằng: Thức ăn đã nấu chín. Chữ viết từ bộ kích thanh âm cao 高 nhẫm 飪. Ngược lại âm nhi chẩm 而 枕. Âm kích là âm kích 戟. Âm cao 高 ngược lại âm thời luân 時 倫. Nay văn thông dụng viết chữ thục 孰, hoặc theo dưới từ bộ hỏa viết thành chữ 熟 thục, đều là theo Lệ Sách viết, từ lược bớt mà biến thể đi, đều thông dụng âm hỏa là .

(Quyển 317 không có âm giải thích).

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 318

Đa-Yết-La (多 揭 羅). Là tiếng Phạm, tên mùi hương. Âm yết 揭 là âm yết 羯, theo âm Phạm là sai. Âm đúng gọi là Đa nghiệt la 多蘗 囉. Tức là mùi hương của “linh lăng”. Chữ la 囉 chuyển lưỡi đọc là “Ra”.

Đa-Ma-La (多 摩 羅). Cũng là Tiếng phạm, tên mùi thơm. Đời

Đường dịch là mùi thơm của cây Hoắc hương. Xưa gọi là mùi thơm của rễ cây là sai.

Ốt Bát La Hoa (嗢 缽 羅 花). Ngược lại âm trên là ôn cốt 溫 骨.

Đời Đường dịch là Hoa sen xanh, hoa này màu xanh, lá nhỏ hẹp mà dài, mùi thơm bay rất xa, người nhân gian khó có thể ngửi được, mùi hoa này giữ cho không nóng bức. Xưa ở ao rồng lớn có, hoặc gọi là Ưu-BátLa. Thanh chuyển đều là một nghĩa.

Bát Trì Ma Hoa (缽 持 摩 花). Xưa gọi là 缽? 摩, hoặc gọi là Bát-nỗ-ma 缽 弩 摩. Đúng âm Phạm gọi là Bát-nạp-ma 缽 納 摩. Đây người đời gọi là hoa sen đỏ. Như trên gọi là hoa màu đỏ, màu vàng, màu tím.

Câu Mỗ-Đà-Hoa 拘 某 陀 花. Xưa gọi là câu-vật-đầu 拘 勿 頭. Đúng âm Phạm là câu-mâu-na 拘 牟 那. tức là hoa sen màu tím đỏ đậm, màu son. Người đời không ngửi được mùi hoa kia. Trong ao rất thơm, hoa cũng rất lớn.

Bôn-Trà-Lợi-Ca-Hoa (奔 茶 利 迦 花). Xưa gọi là phân-đà-lợi 芬陀 利. Đúng âm Phạm là Bổn-nỗ-li-ca-hoa 本 弩 哩 迦 花. đời Đường gọi là hoa sen trắng, hoa sen này trắng như tuyết, như màu vàng bạc tỏa sáng, người ta ngữi rất thơm, cũng có nhiều hoa, lớn mọc trong ao rồng kia, người thế gian không có. Âm nô 奴 là âm nô nhã 奴 雅.

Tỷ Độ (比 度). Ngược lại âm tỳ nhị 卑 弭. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: So sánh các loại. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ là So sánh giống như là trao đổi. Ngược lại âm dưới là đường lạc 唐 洛. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Độ là đánh giá. Chữ giã tá.

(Quyển 319, 320, 321 ba quyển trên đều không có âm để giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 322

Đông dũng (蛹東). Ngược lại âm dung thũng 容 腫. Thấy trước

năm mươi hai ở quyển đã giải thích rồi.

Chiên Đàn Hương (栴 檀 香). Tiếng Phạm là Bạch đàn hương 白檀 香. Ngược lại âm trên là chi nhiên 之 然. Ngược lại âm dưới là đường lan 唐 蘭. Đây gọi là mùi thơm phát ra từ biển Nam Hải, có hai loại, đỏ và trắng. Hoa màu đỏ như trên đã giải thích. Dưới đây trong kinh nói có tên của loài hoa thơm. Như quyển trước đã giải thích đầy đủ rồi.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 323

Hữu sí (有 翅). Ngược lại âm trên là thí chí, Thuyết Văn nói là cánh chim từ tiếng của chi vũ, hoặc đồng với chữ thiên Đãng: Âm trên là thiên 篇. Âm dưới là đương lãng 當 朗. Hà Yến giải thích rằng: Đãng là tộc loại. Khổng An Quốc chú giải sách Quốc Ngữ rằng: Tương trợ. Nặc (匿) chẳng phải gọi là đãng. Lục Thao cho rằng: Bạn bè, gọi là bằng hữu, gọi bằng tức là đãng. Sách Chu Lễ cho rằng: Năm trăm nhà là một đãng.

Tỷ muội (姊 妹).Ngược lại âm trên là tư thử 咨 此. Âm dưới là mỗi bối 每 背. Bạch Hổ Thông cho rằng: Tỷ là phóng túng, thoải mái. Muội (妹) là mạt (末) là ngọn. Nghĩa là lấy cái trước sau tôn ty thứ lớp. Theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Người con trai gọi người con gái là muội, tức anh gọi em gái là muội. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ nữ 女 thanh tỷ. Âm 市 thị là âm tư tử 玆 死. Chữ muội 妹 là chữ mạt 末.

Quỷ Phạm (軌 範). Ngược lại âm câu vi 俱 葦. Ngược lại âm dưới là phàm ảm 凡 黯. Xem quyển bốn mươi ba ở trước đã giải thích rồi.

Tà hạnh (邪 行). Ngược lại âm trên là tịch sa 夕 磋. Âm dưới là hạnh 幸. Trong Đại Luận cho rằng: Là m trái với Chánh giáo, tin theo tà ngụy, gọi là năm thứ lửa thiêu đốt, thân giữ giới gà chó, không có lợi ích, không cần khổ gọi là tà hạnh. Lại nữa là m việc sai quấy, đối với dâm dục lấy vợ người khác là m vợ mình đó là chẳng phải thời lấy chẳng phải đạo là m đạo để theo gọi là tà hạnh.

Ly gián (離 間). Ngược lại âm trên là lực tri (力 知). Âm dưới là cách hạn 革 限.

(Quyển 324 không có âm để giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 325

Phiến-đệ-bán-trạch-ca (扇 棣 半 擇 迦. Âm đệ ngược lại âm lặc gia 勒加. Trong kinh viết bố là chẳng thành chữ. Âm ca 迦 ngược lại âm cương khư 薑 祛. Là tiếng Phạm, đời Đường dịch là huỳnh môn 黃 門.

Loại người này có năm thứ. Như trong Tỳ Nai Da Đại Luật có nói rộng. Nay Ký lược tụng cho rằng: chính là thiên, kiền, đố, biến, bán.

Ám á 晻 啞. Ngược lại âm trên là ẩm kim 飲 今. Thuyết Văn cho là Không có thể nói được. Chữ ám giống như là không có tiếng. Ngược lại âm dưới là ô giả 烏 賈. Trước quyển thứ nhất đã giải thích chữ viết đều từ bộ tật. Ngược lại âm nữ ách 女 厄. Từ bộ viết 口chữ 啞 á này là chẳng đúng.

Luyến tích điêu giản đoản lậu do dự (攣 躄 癲 癇 短 陋 猶 豫.) quyển một trăm tám mươi ở trước đã giải thích rồi.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 326

Xú Uế (臭 穢). Ngược lại âm trên là xương chú 昌 咒. Thuyết Văn cho là loài thú chạy ngữi mùi mà biết dấu vết đường về, đó là loài chó. Chữ viết từ bộ khuyển 犬 đến bộ tự 自, âm tự 自 là cổ viết tỵ 鼻 là lỗ mũi, là chữ tượng hình. Nay văn thông dụng viết từ bộ tử 死 viết thành chữ tỵ 畀 này là chẳng đúng. Ngược lại âm dưới là uy vệ 威 衛. Văn Ngọc Thiên cho rằng: Uế là không sạch sẽ, trong sạch. Vận Anh Tập cho rằng: Uế là xấu ác, hoặc từ bộ thực 食 viết thành chữ uế nghĩa là uống nước dơ. Thuyết Văn cho là Chữ viết từ bộ hòa thanh tuế 歲.

Cấu ni (垢 膩). Ngược lại âm trên là cổ khẩu 古口. Cố Dã Vương cho rằng: Cấu (垢) là không sạch sẽ. Thuyết Văn cho là là nuớc đục dơ. Ngược lại âm dưới là ni trĩ 尼 稚. Thuyết Văn cho: Nị (膩) là béo ngậy. Chữ viết đúng xưa nay từ bộ nhục 肉 thanh nị 貳.

Kỹ sắt (蟣 蝨). Ngược lại âm trên là cơ nghi 機 擬. Vận Anh Tập cho rằng: sắt 蝨 là trứng của loại ký sinh trùng. Ngược lại âm lỗ quản 魯 管, là chữ tượng hình. Ngược lại âm dưới là sở ất 所 乙. Thuyết Văn nói chữ 蝨 sắt là viết từ bộ sắt 九 đến bộ trùng 虫虫. Văn thông dụng viết chữ 虱 sắc là chẳng phải âm sắc, là âm 信 tín. Âm trùng 虫虫 là âm côn 昆.

Ma huỳnh (磨 螢). Ngược lại âm vinh hồi 榮 迴. Vận Anh Tập cho rằng: Là lau chùi. Tự Thư cho là Ngọc mài nhỏ gọi là huỳnh 螢, là sáng óng ánh, hoặc viết chữ huỳnh 滎 này.

Bất tuẫn (不 侚). Ngược lại âm trên là tuần tuấn 旬 俊. Tập Huấn Truyện cho rằng: Lấy vật từ hân gọi là tuẫn 侚. Theo Hiếu Thanh cho là quay về. Sách Thượng Thư cho là Chạy theo. Thuyết Văn cho là Rất mau. Chữ viết từ bộ nhân 人 thanh tuần 旬, hoặc viết tuẫn 徇 cũng thông dụng.

Giao triệt (交 徹). Ngược lại âm triền liệt 纏 列. Theo Mao Thi Truyện cho rằng: Triệt là thấu suốt. Trịnh Huyền chú giải sách Luận Ngữ: Cũng cho là thông suốt. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Là đạt tới nơi. Thuyết Văn rằng: Chữ viết từ bộ xước thanh phộc dục (攴谷). Theo văn thông dụng viết từ bộ khứ 去 là chẳng đúng. Âm xước ngược lại âm sửu xích 丑 尺. Âm phộc phổ bốc 普 卜.

Tân toan (辛 酸). Ngược lại âm trên là tín tân 信 津. Khảo Thanh cho rằng: Tân (辛) là mùi vị ớt cay. Thuyết Văn cho là Chữ viết từ bộ nhị 二 đến bộ tân là âm tội 罪. Ngược lại âm thừa canh 丞 庚. Giống người cúi xuống. Ngược lại âm lộng quan 哢官. Thuyết Văn cho: Toan (酸) là rót rượu mời. Chữ viết từ bộ 酉 dậu thanh toan. Âm toan là âm tuấn, hoặc viết toan 酸 nghĩa là đau khổ.

Chiết phục (折 伏). Ngược lại âm trên là chương phục 章 熟. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: chiết (折) là bẽ gãy, đứt lìa ra, gọi là đoạn ngục. Quảng Nhã cho là Bẻ cong lại. Chữ chánh xưa nay từ bộ thủ 手 thanh cân 斤. Ngược lại âm dưới là bằng phúc 馮福. Hiếu Thanh cho rằng: Khuất phục, chịu theo. Thuyết Văn cho : Phục (伏) là hầu hạ, là con chó theo hầu hạ người, tức là phục 伏. Cho nên gọi là theo người. Chữ viết từ bộ khuyển 犬, là chữ hội ý.

Dẫn đoạt (引 奪). Ngược lại âm dĩ nhẫn 以 忍. Chí Đổ chú giải Tả Truyện cho là người dẫn đường. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Duỗi thẳng ra. Thuyết Văn cho là Mở dây cung. Văn cổ viết từ bộ nhân 人 viết dẫn 引, hoặc viết từ bộ thủ 手 viết thành dẫn, là chữ hội ý. Ngược lại âm dưới là đồ hoạt 徒 活. Hiếu Thanh cho rằng: Đoạt là cướp mất. Theo Tự Thư cho rằng: Tay giữ lấy một con chim, sợ bay mất gọi là đoạt 奪. Chữ viết từ bộ đại 大 bộ 隹 truy, bộ hựu 又. Theo Thạch Kinh từ bộ thốn 寸 viết thành chữ đoạt 奪. Văn cổ viết là đoạt 敓. Hai chữ tượng hình. Trong kinh viết từ bộ lục 六viết thành đoạt 奪 này là chẳng đúng.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 327

Đường thọ (唐 壽). Ngược lại âm đồ tức 徒 即. Cố Dã Vương cho rằng: Chữ đường 唐 viết từ bộ canh 庚. Theo Tự Thư cho là hư tự. Thuyết Văn cho rằng: Từ bộ canh 庚 đến bộ khẩu 口. Ngược lại âm dưới là thù trửu 酬 帚. Tiếng địa phương cho rằng: Thọ là nhiều, đầy đủ, chứa nhận. Thuyết Văn cho rằng: Giao cho, đưa cho. Chữ viết từ chữ thọ đến chữ chu 舟 văn tỉnh 省. Chữ giải thích theo đùa nghịch là rằng: Là trên dưới giao phó cho nhau, chữ 冂 là chỗ nhận lấy vật. Hoặc gọi là từ bộ cân 巾, tỉnh 省. Âm thọ ngược lại âm phi biểu 披 表.

Kịch khổ (劇 苦). Ngược lại âm cừ nghịch 渠 逆. Ngược lại âm dưới là khô cổ 枯 古. Trong quyển thứ chín trươcứ đã giải thích đầy đủ rồi.

Kiểu trá (撟 詐). Ngược lại âm kiều yêu 嬌 夭. Cố Dã Vương cho rằng: Giã dạng gọi là kiểu 撟. Tự Thư cho rằng: Lừa fối. Thuyết Văn cho là Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh kiều 喬. Trong văn kinh viết từ bộ thỉ 矢 viết thành 矯 kiểu này văn thường dùng là chẳng đúng chánh thể.

Tạm xả (暫捨). Ngược lại âm tàm lạm 暫濫. Văn thường dùng, chữ chánh thể viết từ bộ nhật 日 viết là tạm 暫. Quảng Nhã cho là tạm thời trong chốc lát. Vận Anh Tập cho là Chọn thời gian ngắn nhất. Thuyết Văn cho là Không lâu. Chữ viết từ thanh trảm 斬.

Kỹ nghệ (技 藝). Ngược lại âm cừ ỷ 渠綺. Thuyết Văn cho là Khéo tay. Chữ viết từ bộ thủ 手. Trong văn kinh viết từ bộ nhân 人 là sai. Ngược lại âm dưới là nghê kế 霓 計. Sách Chu Lễ cho rằng: Sáu nghề: Lễ, nhạc, thư, số, xạ, ngự.

– Lễ là nghi hành lễ
– Nhạc là tấu nhạc
– Thư là viết, họa
– Số là tướng số
– Xạ là bắn cung, tên, bắn súng.
– Ngự: Điều khiển xe ngựa, cỡi ngựa.

Cố Dã Vương cho rằng: Nghệ giống như tài. Đỗ Dự cho rằng: Nghệ là phương pháp chế ngự. Tự Thư cho rằng: Nghệ là tài năng, năng lực. Chữ viết từ bộ vân 云 thanh nghệ 埶. Âm nghệ đồng với âm trên.

Tà mạng (命邪). Ngược lại âm trên là tịch sa 夕 磋, chữ mượn dùng. Thuyết Văn cho là Chữ đúng thể viết là tà 斜 từ bộ 依 thanh nha 牙. Trong sách viết lược bớt đi chữ tà 斜. Nghĩa là đừng có nghi. Cố Dã Vương cho rằng: Tà giống như người đàn bà ác. Trong kinh cho rằng: Tà mạng là là m việc không đúng, là siểm nịnh, nịnh hót, để cầu danh lợi, là m nghề bằng tứ khẩu, lấy tự cầu để sinh sống, gọi là ngước lên trời xem tinh tú, giống như cày ruộng, trồng trọt. Xem bốn hướng khiến cho mạng chú phục quĩ thần, đây là bốn nghề nghiệp gọi là tà mạng.

(Quyển 328 không có âm để giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 329

Đam dục (耽 慾). Ngược lại âm đáp cam 答 甘. Quyển 3 trước đã giải thích đầy đủ.

Kỳ khế (期 契). Âm trên là kỳ 其. Tự Thư cho rằng: Lộ trình có kỳ hạn. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Kỳ là tụ hội. Thuyết Văn nói giải thích cũng đồng. Chữ viết từ bộ nguyệt thanh kỳ 其.

Hệ niệm (繫 念). Ngược lại âm câu nghệ 俱 詣. Quyển ba trăm lẻ bốn ở trước đã giải thích đầy đủ rồi.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 330

Thôi trưng (推 徵). Âm trên là xuy 吹. Âm dưới là trắc lăng 陟 陵.

Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Trưng là đưa ra bằng chứng. Thuyết Văn cho rằng: Phàm kẻ sĩ ngày xưa đi đến trưng cầu mà nghe triều đình lệnh vua phán quyết, tức là trưng 徵, là đi đến. Cho nên chữ viết từ bộ nhậm 壬 đến bộ vi 微 thanh tỉnh 省. Âm nhậm 壬 ngược lại âm thể dĩnh 體 郢.

Tiêu chú (焦 炷). Ngược lại âm chu dụ (朱喻) Xưa viết là chú 澍, hoặc viết là chú 注. Các chữ trong sách đều không có chữ này. Chữ chú 炷 này trong kinh dịch sửa đổi lại viết có bộ thủy. Thành ra bộ hỏa, viết là chú 炷, là chữ tượng thanh.

Toan đáp (酸 答). Ngược lại âm dưới là đương nạp 當 納. Vận Anh Tập cho là Đối đáp. Thuyết Văn cho rằng: Chữ viết từ bộ thảo 草 thanh hợp 合. Văn cổ viết từ bộ viết 曰 đến chữ hợp 合, viết thành chữ đáp 答.

Nay không theo cách viết bộ thảo 草 trong sách mà biến thể đi bộ 草 ở trên mà viết đáp 答. Nghĩa là rơi rụng, khiến cho mỏng đi v.v….

Tệ hoại (敝 壞). Ngược lại âm trên là tỳ duệ 毘 袂. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện rằng: Tệ là lâm vào hoàn cảnh khó khăn khốn đốn, cũng là kém cõi, thiếu thốn, rách nát. Thiên Thương Hiệt giải thích rằng: Cực kỳ khổ sở. Tự Thư cho là Thua, thất bại, bỏ chạy. Thuyết Văn cho rằng tê, nghĩa là áo rách. Chữ viết từ bộ cân 巾. Giống như cái áo rách tệ hại. Ngược lại âm dưới là hoài hội 懷 聵. Hiếu Thanh cho rằng: Hủy hoại phá bỏ, phá diệt. Thuyết Văn cho rằng: Là thua. Chữ viết từ bộ thổ 土 thanh hoài 褱, hoặc là viết là hoại 壞. Chữ cổ. Âm hội 聵 ngược lại âm ngô quái 吾 怪.

Tiều tụy (憔? ) Ngược lại âm trên là tình diêu 情 遙. Âm dưới là tường toại 牆 遂. Vận Anh Tập cho rằng: Tiều tụy là dáng gầy ốm, xấu xí, hoặc là viết từ bộ tâm 心 viết thành chữ tiều tụy 憔 ? này cũng đồng nghĩa.

Phạp tiên (乏僊) Ngược lại âm trên là phàm pháp 凡 法. Theo văn Tả Truyện nói rằng: Là m trái với cái đúng gọi là phạp. Ngược lại âm dưới là tức thiển 息 淺, hoặc là viết ? tiên này. Theo Tập Huấn Truyện cho là Hiếm, ít. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ 是 thị viết thành chữ tiêu 俏 thanh thiếu 少, hoặc là viết chữ tiên 鮮 này cũng đồng nghĩa.

Thô khoáng (觕 獷). Ngược lại âm trên là thương tô 倉 蘇. Trịnh

Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Thô là sơ sài. Quảng Nhã cho là ác, xấu ác. Thuyết Văn nói chữ viết từ ba bộ lộc 鹿. Ngược lại âm dưới là hồ mãnh 琥 猛. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Giống như con chó hung tợn, hung ác, không thể gần gũi. Cho nên chữ viết từ bộ khuyển 犬 là đúng. Trong kinh viết khoáng 礦 bộ thạch 石 là sai vậy, chẳng phải nghĩa này.

Bỉ lý (鄙 里). Ngược lại âm trên là bi mỹ 悲 美. Xem bài tựa ở trước đã giải thích rồi. Âm dưới là 里 lý. Thiên Thương Hiệt cho là Ấp ở ngoài Thành vùng xa của Kinh đô quốc gia. Thuyết Văn cho rằng: là Tên Đình Nam Dương. Chữ viết từ bộ 邑 ấp thanh 里 lý. Trong văn kinh viết 俚 lý này. Thuyết Văn cho là tạm thời. Quách Phác chú giải tiếng địa phương rằng: Cẩu thả, chẳng phải nghĩa ở đây dùng.

Khối đẳng (塊 等). Ngược lại âm khô ngoại 枯 外. Nghĩa đống đất, hoặc là viết khối cũng đồng.

Giãi đãi (懈 怠). Âm trên là giới 戒, giải là mỏi mệt. Âm dưới là 待 đãi. Đãi là rơi rớt xuống.

Lại đọa (懶?). Ngược lại âm trên là lặc ẩu 勒 慪. Hiếu Thanh cho là không chuyên cần. Thuyết Văn cho là giãi đãi, biếng nhát. Chữ viết từ bộ nữ 女 thanh lại 賴. Chữ lại 賴 từ bộ phụ 負 thanh lặc. Trong văn kinh viết từ bộ tâm 心 viết lại 懶, tuy cũng dùng nhưng sai, không có thông dụng. Ngược lại âm dưới là đồ ngọa 徒 ?. Quảng Nhã cho rằng: Đọa lại là biếng nhát, rơi tớt, hời hợt. Thuyết Văn cho là không có cung kính. Chữ viết từ bộ tâm 心 thanh đọa. Xưa viết là đọa.

Phụ phụ (埠 阜). Ngược lại âm trên là đô hồi 都 迴. Hiếu Thanh cho là Nơi vùng đất cao, chỗ tụ tập đông đảo, gọi là bến tàu. Tập Huấn Truyện cho là nơi gò đất cao. Thuyết Văn cho là gò đất nhỏ. Thuyết Văn cho là Vùng đất ở kinh thành tụ hội đông đúc. Chữ viết từ bộ phụ 阜 đến bộ thanh truy 隹. Hoặc viết từ bộ thổ 土 viết thành đồi 堆, cũng đồng nghĩa. Trong văn kinh viết đồi 堆 này cũng là văn thông dụng thường dùng. Âm ngôi 隗. Ngược lại âm ngũ ổi 五 猥. Âm dưới là phụ 阜 là âm phụ 負. Nhĩ Nhã cho rằng: Nơi cao mà bằng phẳng, gọi là đại lục 大 陸, mà lục gọi là phụ 阜. Quảng Nhã cho rằng: Đại lục. Thuyết Văn nói cũng gọi là Đại lục, là nơi vùng đất cao mà không có đá. Chữ tượng hình viết phụ 阜, giải thích tên gọi là vùng đất cao dày.

Cấu khanh (溝 坑). Ngược lại âm trên là cổ hậu 古 候. Sách Chu Lễ cho rằng: Nước chảy thông suốt gọi là 溝 câu. Theo Giai Uyễn Chu Tòng cho rằng: Cống rãnh trong thành ấp để thông nước chảy ra. Thuyết Văn cho rằng: Nước chảy theo đường cống rãnh, rộng mà sâu, mỗi ống cống bốn thước. Chữ viết từ bộ thủy thanh 冓 câu. Âm 冓 ngược lại âm cổ hậu 古 候. Âm dưới là khổ canh 苦 耕. Nhĩ Nhã cho rằng: Chợ trong thôn là ng. Quách Phác chú giải rằng: Cái ao bao quanh thành. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Cái hang sâu, biển lớn, vực sâu. Thuyết Văn cho là Cửa ải. Giải thích chữ cổ, nay giải thích đúng viết từ bộ thổ 土 thanh khanh. Âm khanh là âm cương 岡.

Chu ngột (侏 扤). Ngược lại âm trên là tri du 知 榆. Theo Hiếu Thanh cho rằng: Chặt bỏ cây dư. Thuyết Văn cho là Rễ cây. Chữ viết từ bộ mộc 木 thanh chu 朱. Ngược lại âm dưới là ngũ cốt 五 骨. Vận Anh Tập cho rằng: Cây không có cành gọi là ngột 杌. Chữ trong sách viết là chu 株, hoặc viết là ngột 兀 cũng đồng.

Kinh cức (荊 棘). Ngược lại âm trên là cảnh ngưỡng 景 仰. Quảng Nhã cho rằng: bụi cây có gai, có hai loại trang kinh và mạn kinh. Trang kinh là cây có gai mọc dài, có gai. Mạn kinh là loại dây leo, hai loại khác nhau. Có loại thân lớn màu đỏ, thật chỉ có cây trang kinh mà thôi, và cây có gai này chỉ mọc ở trên núi. Quãng Châu ký chép: Là cây mai, nạp huyền, xuất xứ từ cây gai kim. Thuyết Văn cho là bụi cây gai. Chữ viết từ bộ thảo 草 thanh hình 刑. Ngược lại âm dưới là cạnh lực 競力. Tiếng địa phương cho rằng: Giữa sông giang, Hoài phàm loài cây cỏ có gai là m người ta bị thương đều gọi là cức. Thuyết Văn nói là bó cây gai, mọc um tùm, có gai gốc. Chữ viết từ hai bộ cức 棘 đều nhau. Trong văn kinh viết hai bộ thái 釆 là chẳng đúng.

Bình thản (平 坦). Ngược lại âm tha đãn 他 但. Quảng Nhã cho rằng: Bình thản là bằng phẳng. Vương Bật chú giải sách Chu Dịch rằng: Thản (坦) là bằng phẳng, không có biên ãi nguy hiểm. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ thổ 土 thanh đán旦.

Luyến trước (戀 著). Ngược lại âm lực tích 力 脊. Hiếu Thanh cho rằng: luyến là suy nghĩ. Theo sách Sử Ký cho là nhớ. Thuyết Văn cho rằng: Đứng tựa cửa trông ra xa. Chữ chánh xưa nay cho rằng: quan hệ. Chữ viết từ bộ tâm 心 thanh luyến. Âm luyến ngược lại là âm lực duyên 力 緣. Trong văn kinh viết từ bộ nữ 女 viết thành chữ luyến 孌 cũng thông dụng.

Sát Đế Lợi (剎 帝 利). Trên là chữ sát 剎. Theo tương truyền rằng:

trong sát vận vốn, không có chữ này. 剎 là chữ thanh đọc sai, sách viết lầm. Người xưa dịch kinh dùng chữ 剎 sát này, âm sát 剎 ngược lại âm sơ tiết 初 櫛. Lấy âm Phạm. Sau này người phiên dịch kinh đem âm sát 剎 này là m âm 察 sát, nó cũng tương cận, từ đó lần lần biến thể. Trong sách xắp xếp có sai lầm. Đây là câu văn của tiếng Phạm. Không đối địch nhau. Ngữ nghĩa phiên dịch rằng: Trãi qua nhiều triều đại Vua, trong cáctriều đại đó cũng tùy theo phúc đức và trí tuệ vượt xa hơn của các bậc tiền bối. Tức là gầy dựng nên nghiệp đế vương, vì vậy mà cho rằng nhân dân phải phục tùng theo.

Bà La Môn (婆 羅 門). Là tiếng Phạm, là tên cõi Phạm Thiên. Đời Đường gọi là Tịnh hạnh, hoặc gọi là Phạm hạnh. Loại người này tự xưng rằng Bổn ngã, là vị Tổ đầu tiên từ miệng Phạm Thiên sanh ra, bèn lấy Phạm là m họ, đời đời tương truyền cho nhau, phải học bốn kinh luận Vệ-Đà, đều là bác thức đa tài, thông suốt nhàn nhã. Trong Luận chúng phần nhiều là m Vua, hoặc là m thấy truyền Cao đạo, không có những kẻ học sĩ nào, hoặc là cầu Tiên Trường Thọ nuôi dưỡng, có khi cũng chứng được năm pháp Thần thông của vị Tiên đó.

Phệ xá (吠 舍). Xưa dịch tỳ-xá 毘 舍 là sai. Đây là gọi những người giàu có đa tài, thông suốt. Ở những nơi cao quý, hoặc gọi là những nhà thương buôn, chuyên buôn bán các loại hàng hóa, trải qua nhiều nước khác, chứa nhiều tài vật của báu, trong chứa châu báo, hoặc xưng là Trưỡng giả, hoặc gọi là được Vua ban cho đất đai.

Thú Đạt La (戍 達 羅). Xưa gọi là Thủ-Đà-Lược 首 陀 略 là không đúng. Đây gọi là họ của những người là m nghề cày ruộng, khai khẩn đất đai, chọn lựa nơi trồng trọt, những người này phải nộp thuế cho Vua, Quan. Phần nhiều là thường dân, đều là nông phu, cô quả. Đối với bốn học có học thức, thuộc về hạ đẳng.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 331

Noãn sanh (卵 生). Ngược lại âm trên là loan quản 欒 管. Thuyết Văn cho là Phàm loài vật không có vú mà sinh ra gọi là Noãn sanh (卵生). Tức là sinh ra trứng, là chữ tượng hình. Văn cổ viết là noãn 卵, trong Tiểu Triện viết noãn 卵. Theo lệ sách viết noãn 卵 nầy.

Bất cố (不 顧). Âm 固 cố, Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện rằng: Cố (顧) là nhìn xem. Quảng Nhã cho là hướng đến. Từ Thư cho là Nhớ nghĩ. Thuyết Văn cho là Nhìn lại. Chữ viết từ bộ hiệt 頁 thanh cố 雇. Âm hiệt (頁) là âm hiệt 頡 này. Âm cố 雇 là âm cố 固.

Biến dịch (變 易). Ngược lại âm binh biện 兵 汴. Giã Quì chú giải sách Quốc ngữ là thay đổi. Trong Luận Duy Thức cho rằng: Lúc thay đổi hình chất gọi là biến 變. Trong Thuyết Văn nói đồng Quốc Ngữ chữ viết từ bộ phộc thanh biến. Âm dưới cũng Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư là sửa đổi. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ cho rằng: Biến dịch là khác đi. Thuyết Văn cho là là con rắn mối lột da, ở trong nhà gọi là Thủ cung, ở ngoài ao gọi là tích dịch, tức là con rắn mối, là chữ tượng hình. Một gọi là ngày và tháng là khác nhau. Phàm là chữ có chín nghĩa mới hết. đây là chữ hội ý.

Đoản xúc (短 促). Ngược lại âm trên là đô quản 都 管. Âm dưới là thủ dục 取 欲. Quảng Nhã cho: Xúc (促) là đẩy tới gần. Trịnh Tiễn chú giải sách Chu Lễ cho là Mau chóng. Thuyết Văn cho là cấp bách, gấp rút.

Đàm bệnh (痰 病). Ngược lại âm trên là Đường Nam 唐 男. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Cái màng ngăn trong ngực có nước gọi là bệnh. Trong văn kinh ghi chữ đàm 淡 này là chẳng đúng. Chữ này là khứ thanh không có nghĩa gì hết, người viết lầm.

Khắc già (克 伽) là tiếng Phạm, ngược lại âm trên là ngưng đẳng 凝 等. Ngược lại âm dưới là ngư khư 魚 袪, là tên một vị sông thần ở Tây Thiên-trúc. Trong kinh Niết-bàn cho là Nữ thần sông Hằng.

Thiên phú (偏 富). Âm trên là thiên 篇. Âm dưới là phương vụ 芳

務. Nghĩa là che đậy.

Nhất song (一 雙).Chữ viết từ hai bộ chuy 隹 đến bộ hựu 又. Trong kinh viết từ bộ văn 文 là đúng.

Thực chúng (植 眾). Ngược lại âm thừa chức 承 職. Trong Toán Vận Tập cho rằng: Thực (植) là trồng trọt. Tiếng địa phương cho là đứng, thẳng, cây đứng thẳng. Thuyết Văn cho là Hộ thực, (nhà trồng cây). Chữ viết từ bộ mộc 木, thanh trực 直, hoặc viết là thực 植 này cũng đồng.

Hồng bích (紅 碧). Ngược lại âm trên là (? 公) Thuyết Văn cho là màu trắng hồng. Ngược lại âm dưới là binh kích 兵 戟. Thuyết Văn cho là Loại đá đẹp. Chữ viết từ bộ ngọc 玉 đến bộ thạch 石 thanh bạch 白. Quảng Nhã cho là Viên ngọc màu trắng xanh.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 332

Kỹ thuật (技 術). Ngược lại âm thuần luật 純 律. Theo Hàn Thi Truyện cho rằng:Thuật là phương pháp. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Là nghệ thuật, nghề nghiệp. Thuyết Văn cho là Thuật là con đường, chữ viết từ bộ hành 行, thanh thực. Âm thực ngược lại âm trì luật 馳 律.

Hiểm nan (險 難). Ngược lại âm hương kiểm 香 撿. Thuyết Văn cho là Cản trở, khó khăn. Chữ viết từ bộ phụ 阜, thanh kiểm. Trong văn kinh viết từ bộ sơn 山 viết thành chữ kiểm này là chẳng đúng.

Tiềm phục (潛 伏). Chữ 潛 hãy xem trong bài tựa đã giải thích rồi. Ngược lại âm dưới là phụ phúc 輔 腹. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Phục 伏 là ẩn bên trong. Quảng Nhã cho là giấu kín. Thuyết Văn cho là Hầu hạ, là con chó hầu của người chủ. Chữ viết từ bộ nhân 人 đến khuyển 犬 là chữ hội ý.

Kinh hoàng (驚 惶).Ngược lại âm tren cảnh anh 景英. Nhĩ Nhã cho rằng kinh là sợ hãi. Quảng Nhã cho rằng: Kinh là nhảy chồm lên. Thuyết Văn cho là con ngựa sợ hãi. Chữ viết từ bộ mã 馬 thanh kính 敬. Âm dưới là hoàng 黃. Theo Tập Huấn Truyện cho lo sợ.Thuyết Văn cho là hoãng sợ. Chữ viết từ bộ tâm 心 thanh hoàng 皇.

Oan gia (怨 家). Ngược lại âm trên là uyển viên 菀 袁. Khảo

Thanh cho là ghét, hiềm khích. Tự Thư cho rằng: Cừu thù với nhau. Thuyết Văn cho: Chữ viết từ bộ miên 冖 thanh oán 怨, hoặc viết là oán 冤. Trong kinh viết chữ oán 怨 này là chẳng đúng.

Kiến sí (堅 翅). Ngược lại âm thí chí 施 至. Khảo Thanh cho là cánh của con chim. Cũng viết là thị sí (是 翅).

Cao tường (翱 翔). Ngược lại âm trên là nga cao 俄 高. Âm dưới là tượng dương 象 羊. Trịnh Tiễn chú thích là tường do. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện cho rằng: Cao cũng giống như tiêu diêu, bay lượn, liệng. Theo Hàn Thi Truyện cho là du ngoạn. Nhĩ Nhã cho là Chim bay cao. Thuyết Văn cho là Bay đảo vòng. Đều là chữ tượng hình.

Câu ngại (拘 礙). Âm trên là câu 俱. Vận Anh Tập cho rằng: Nắm giữ chặt. Khảo Thanh cho là hạn cục vo cục lại. Thuyết Văn cho là Dừng lại. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh cú 句.

Xạ thuật (射 術). Ngược lại âm trên là thời dạ 時 夜. Thuyết Văn cho là Ở trong thật xa. Chữ viết từ bộ thân 身 đến bộ thỉ 矢. Theo Tiểu Triệu viết từ bộ thốn 寸 viết thành xạ 射. Thuyết Văn cho rằng: Vượt qua được một tấc pháp. Thốn (寸) cũng là tay.

Tiễn họat (箭 活). Ngược lại âm tiên duyên 煎 緣. Văn thường hay dùng, chữ chánh thể viết tiễn từ bộ trúc 竹 đến bộ chỉ 止 đến bộ chu 舟. Tế Ung viết cộng thêm bộ đạo 刂. Ngược lại âm cổ ngoại 古 外. Nghĩa là cây đao dưới nước có thể đi thuyền mà lấy. Về sau vì viết bộ thảo 草 biến thành bộ chỉ 止, bộ chỉ 止biến thành bộ chu 舟, bộ chu 舟 lại thành bộ nguyệt 月, từ bộ nguyệt 月 biến thành bộ đao 刂là bộ đao 刀 này, dần dần là sai lầm. Khảo Thanh cho là Chữ tiễn vốn từ bộ trúc 竹. Theo chữ trúc này là lá của nó giống như lá thông mọc cao, năm sáu thước, thân nhỏ có sức rất mạnh, vã lại thật sự có thể là m mũi tên. Âm khả 可 ngược lại âm thiên thả千且. Bỡi tên là thỉ 矢 tức là mũi tên. Cho nên Thuyết Văn cho rằng: Tiễn là mũi tên. Chữ viết từ bộ trúc 竹 thanh tiền 前. Ngược lại âm dưới là khang hoạt 康 活. Khảo Thanh cho là mũi tên. Theo chữ tiễn hoạt 箭 活 đó, nghĩa là nhận từ cái miệng của dây căng cây cung. Theo văn kinh chữ viết từ bộ thủy đến bộ hoạt cũng thông dụng. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ trúc 竹 đến chữ hoạt thanh tỉnh 省. Âm hoạt đồng âm khang hoạt 糠 活. Âm kình 剄 là âm kính 逕.

Ngưỡng thĩ (仰 矢). Ngược lại âm 食 亦 thực diệc. Tự Thư cho rằng: Phát mũi tên ra trước, là bắn mũi tên ra phía trước. Âm thĩ là âm thỉ 矢, văn thường hay dùng viết thỉ 矢 nầy.

Hy hữu (希 有). Ngược lại âm hư y 虛 依. Nhĩ Nhã cho rằng: Hy là ít, hiếm có. Dương Tử Pháp cho rằng: Gần sát, nghiên cứu. Trong văn kinh viết rằng: Thường là m lau chìu sạch sẽ. Hy 希 là chữ cổ.

Tứ đảo (四 倒). Âm đáo 到. Vận Thuyên Tập cho rằng: Điên đảo. Tứ đảo (四 倒) Kinh Niết-bàn chép: Vô thường chấp là thường, vô lạc chấp là lạc, vô ngã chấp là ngã, vô tịnh chấp là tịnh, tên là bốn đảo.

Cuồng tặc (狂 賊). Ngược lại âm cù vương 劬 王. Ngọc Thiên cho rằng: Cuồng (狂) là ngu xuẫn. Theo Hiếu Thanh cho là Vội vàng, nôn nóng, rồ dại, không có luân lý. Thuyết Văn cho là Chữ viết cuồng 狂, hoặc viết từ bộ tâm 心 viết cuồng tích 狂 惜, từ bộ 犬 khuyển thanh cuồng 狂. Ngược lại âm dưới là tàng tắc 藏 則. Theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Nghĩa là tàn hại, giết hại, là m hại gọi là tặc (賊). Thuyết Văn cho là là kẻ trộm, phá hoại, là m hỏng nát, tan nát. Chữ viết từ bộ qua 戈, đến bộ đao 刀, đến bộ bối 貝. Nay văn thông dụng viết chữ nhung 戎 tặc này là sai, chẳng phải chánh của thể chữ.

Nhất hạng (一巷). Ngược lại âm hành giáng 行 降. Theo Mao Thi Truyện cho là Ở giữa con đường. Sách Sử Ký cho rằng: Con đường lâu dài đó ở trong thôn ấp, và ở trong nội cung, là đường nhỏ. Thuyết cho rằng: Chữ viết từ hai bộ đến bộ ấp (邑) cộng 共 viết thành chữ 衖 hạng. Theo Lệ sách viết lược bớt đi.

Dư ương (餘 殃). Ngược lại âm ư cương 於 薑. Trịnh Huyền chú giải sách Lễ Ký rằng: Ương (殃) là tai họa. Quảng Nhã cho là tội lỗi. Thuyết Văn cho là Hung tợn. Chữ viết từ bộ ngạt 歹, thanh ương 央. Âm ngạt 歹 là âm tàn 殘.

Mị trước (魅 著). Ngược lại âm mi bí 眉 秘. Hiếu Thanh cho là quỷ thần, là yêu quái. Thuyết Văn cho là Vật tinh quái lão luyện, hoặc viết là mị 魅. Theo Thanh loại viết mị 魅, văn thường viết mị 魅. Ngược lại âm dưới là trì lược 持 略. Chữ viết từ bộ thảo 草 đến bộ giả 者.

Độ lượng (度 量). Ngược lại âm đường lạc 唐 洛. Ngược lại âm dưới là lược khương 略 薑. Theo Hiếu Thanh cho rằng: Chữ lượng 量 cũng giống như chữ độ 度, nghĩa là cân lường. Chữ chánh xưa nay viết từ bộ tâm 心, viết thành chữ độ 度, từ bộ viết 曰 viết thành chữ lượng 量. Trong văn kinh viết chữ lượng 量 này, cũng là văn thường dùng. Theo sách Quế Uyển Châu Tòng cho rằng: phân ra xem bao nhiêu, dài, ngắn, gọi là lượng 量.

Cuống hoặc (誑 惑). Ngược lại âm trên là câu huống 俱 況. Xem quyển ba mươi chín trước đã giải thích.

Hủy tử. Ngược lại âm trên là 暉 鬼 huy quỷ. Âm dưới là 茲 此 tư thử. Xem quyển bốn hai trước đã giải thích đầy đủ.

Khinh miệt 輕 襪. Ngược lại âm 眠 鱉 miên miết. Xem quyển một trăm bảy mươi hai trước đã giải thích đầy đủ.

Trì độn 遲 鈍. Ngược lại âm 長 尼 trường ni. Theo Mao Thi Truyện cho rằng: Trì 遲 là hoãn lại, thong thả, chậm rãi, lâu xa. Theo Hiếu Thanh cho rằng: Từ từ. Chữ viết từ bộ 辵 sước thanh trì. Âm 辵 sước ngược lại âm 丑 略 sửu lược. Âm trì là âm 西 tây, từ bộ 尾 vĩ đến bộ牛 ngưu. Trong văn kinh viết từ bộ 尸 thi đến bộ 羊 dương, viết thành chữ 遲 trì, là văn thường hay dùng. Trụ văn viết từ bộ 辛 tân viết thành 遲 trì, hoặc là viết trì là chữ cổ. Ngược lại âm dưới là 豚 頓 đồn đốn. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Độn 鈍 là ngu. Vận Anh Tập cho rằng: Loại binh đao không bén, là loại đao binh khí để đánh trận nó lục, không bén. Thuyết Văn nói chữ từ thanh độn. Âm đồn ngược lại âm 徒 論 đồ luận. Liêm kiệm 廉 儉. Ngược lại âm trên là 力 兼 lực kiêm. Quảng

Nhã cho rằng: Liêm là trong sạch không ham của cải. Theo Hiếu Thanh cho rằng: Không tham lam. Tập Huấn Truyện cho rằng: Liêm là gốc nhà, là gốc vuông. Chữ viết từ bộ 广 nghiễm thanh 兼 kiêm. Ngược lại âm dưới là cự nghiêm. Cố Dã Vương cho rằng: Kiệm là tiếc kiệm, đơn giản. Quảng Nhã cho rằng: thiếu thốn. Chữ viết từ bộ 人 nhân thanh kiệm.

Lăng miệt. Ngược lại âm trên là 力 矜 lực căng. Trong văn kinh viết 陵 lăng này là chẳng phải bổn chữ. Quyển chín trước đã giải thích rồi. Ngược lại âm dưới là 眠 鱉 miên miết. Trong văn kinh viết 蔑 miệt này là sai viết lược. Chữ viết từ bộ 心 tâm.

Hoặc kiều 或 橋. Ngược lại âm 夭 cuơng yêu. Quyển hai mươi sáu trước đã nói rồi và quyển này ban đầu lại nói. Trong kinh viết từ bộ 矢 thỉ chẳng phải bổn chữ.

Sư phạm 師 範. Ngược lại âm trên là 史 緇 sử truy. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Dựng nên vị thầy là để giáo huấn, dạy bảo người khác. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Dạy bảo người là lấy đạo đức để dạy, thế mới gọi là thầy. Mà vị thầy phải chứng được cái pháp gọi là tôn nghiêm, kiêng sợ, mới có thể gọi là thầy. Vị thầy là phải ôn hòa biết những điều mới lại gọi là thầy. Theo Hiếu Thanh cho rằng: Thầy truyền Pháp, lấy Pháp để giáo huấn người khác. Thuyết Văn nói chữ viết từ bo阜phụ đến bộ 巿 thị, bốn bộ 巿 là chúng đồng ý của sư là . Ngược lại âm dưới là 凡 黯 phàm ám. Trong quyển bốn mươi ba trước đã giải thích đầy đủ rồi.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 333

Ngạo mạn 傲 慢. Ngược lại âm trên là 吾 告 ngô cáo. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư rằng: Mạn là lạnh nhạt, thờ ơ. Quảng Nhã cho rằng: Mạn là buông xuôi. Thuyết Văn cho là Dựa vào. Chữ viết từ thanh 敖 ngao chữ 敖 ao. Thuyết Văn cho là Viết từ bộ 出 xuất đến bộ 放 phóng nay văn thường hay dùng từ bộ 土 thổ viết thành chữ 敖 ao là sai. Ngược lại âm dưới là 麻 辦 ma biện. Quảng Nhã cho rằng: Mạn là trì hoãn. Theo Thanh loại cho rằng: Dựa vào. Thuyết Văn cho là Lười biếng. Chữ viết từ bộ 心 tâm thanh 曼 mạn. Chữ mạn từ bộ 又 hựu, chữ thường hay dùng là sai vạn lần. Âm 辦 biện là âm 白 慢 bạch mạn. Âm vạn là âm 慢 mạn là âm 萬 vạn.

Huyên tạp 諠 雜. Ngược lại âm 兄 袁 huynh viên. Âm dưới là 才合 tài hợp. Xem trước đã giải thích rồi.

Hội nao 憒. Ngược lại âm trên là 公 外 công noại. Theo Tập Huấn

Truyện cho rằng: Hội là tâm phiền loạn. Thuyết Văn cho là Cũng là loạn. Chữ viết từ bộ 心 tâm đến bộ 潰 thanh hội 省 tỉnh. Ngược lại âm dưới là 鐃 效 nao hiệu. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Nhiều người gây nhiễu loạn, quấy nhiễu. Vận Anh Tập cho là quấy nhiễu, tạp loạn. Văn nói chữ viết từ bộ thị 巿 đến bộ nhân 人. Chữ hội ý. Hoặc là viết náo 鬧, cũng là văn chữ thường dùng. Trong văn kinh viết này là sai, không thành chữ. Âm 鐃 là âm ngõa giao 孥 交.

Phỉ báng (誹 謗). Ngược lại âm trên là phi vị 非 味. Âm dưới là bàng lãng 膀 浪. Xem quyển một trăm tám mươi mốt trước đã nói đầy đủ.

La Sát Sa (囉 剎 娑) là tiếng Phạm, đây là Thần á quỷ. Chữ trên là 逆 nghịch lại phải chuyển lưỡi đọc gọi là dẫn thanh. Kế là sát 剎 âm sát 察. Ngược lại âm dưới là tô hà 蘇 何. Đây gọi là nhiều loại quỷ ở trong đảo này, hoặc ở vùng sa mạc đều có, thần thông đạo lực bay đi trong nhân gian. Có thể biến hóa ra cô gái đẹp, dung nghi yêu kiều để mê hoặc, lừa dối người. Thân cận với những vùng địa phương gần đó, để là m hại lừa dối. Chúng ăn những thứ đàm dãi hoặc bắt những loại chim công để ăn. Trong kinh Phật Bổn Hạnh Tập, v.v.. có nói.

(Quyển 334 không có âm để giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 335

Vô yễm (無 俺). Ngược lại âm y hãm 伊 餡. Văn nói chữ viết từ bộ khuyển 犬, bộ cam 甘, bộ nhục 肉, bộ tâm 心 là không đủ. Từ bộ cam 甘 đến bộ nhục 肉, bộ khuyển 犬, bộ tâm 心, hoặc viết là yểm 俺. Âm yểm là sai, chữ viết từ bộ tâm 心 là đúng.

Huất nhĩ (? 爾. Ngược lại âm huân luật 熏 律. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Bỗng nhiên. Nghiệt Tông cho là nhanh chóng như thần. Thuyết Văn là có chỗ thổi tới nổi dậy. Chữ viết từ bộ khiếm 欠 thanh dạm 淡. Hoặc từ bộ phong 風 đến chữ hốt 忽 viết thành chữ huất.

Khái thán (慨 歎). Ngược lại âm khổ ái 苦 愛, hoặc viết khái 愾 thán 歎, tức là than thở. Bát-nhã cho là Buồn khổm thở than.

Tích tai 惜 哉 âm. Giả Quỳ chú giải sách Quốc ngữ rằng: Tích (惜) là đau khổ. Quảng Nhã cho là Yêu tiếc. Ngược lại âm dưới là tử lai 子來. Khảo Thanh cho là thanh để trợ ngữ.

(Quyển 336, không có âm để giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 337

Năng thiệu (能 紹). Ngược lại âm trên là nãi đăng 乃 登. Trịnh Huyền chú giải sách Chu Lễ rằng: Có nhiều tài nghệ. Quảng Nhã cho là chủ nhiệm. Sách Lễ Ký cho là Khéo léo, hay. Thuyết Văn cho là là con thú, thuộc con gấu, chân giống như con nai. Chữ viết từ bộ chủy trong chữ kiên 堅, cho nên xưng là hiền 賢, nghĩa là có tài năng mà có sức mạnh, cho nên xưng là năng kiệt 能 傑. Chữ viết từ bộ nhục 肉 thanh dĩ. Nay theo Lệ sách viết là năng 能 lần lần sai đi. Chữ dĩ là căn cổ, nay viết chữ dĩ 以 này. Ngược lại âm dưới là thiều nhiễu 韶 遶. Thuyết Văn cho là Thừa kế, hoặc viết thiệu 劭 này. Xem quyển thứ nhất ở trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Bạt hữu (拔 有). Ngược lại âm bạch bát 白 八. Ngọc Thiên cho là Dẫn mà xuất ra, kéo ra. Quảng Nhã cho là Xuất ra. Hiếu Thanh cho là kéo ra, nhỗ ra. Thuyết Văn cho rằng: Nhỗ, cất lên, cất nhắc. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh bạt 犮, âm bạt 犮 ngược lại âm bàn mạt 盤 末.

Hiếp thống 勰 痛. Ngược lại âm hư nghiệp 虛 業. Hoặc viết chữ hiếp 脅 này từ ba bộ lực 力. Xem quyển thứ nhất đã giải thích rồi.

Thiết (竊) ngược lại âm thiên kiết千 絜. Đã giải thích đầy đủ rồi.

Chiến lật (戰 慄). Ngược lại âm chí thiện之 善. Âm dưới là lân nhất 嶙 一. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Chiến lật là nguy hiểm sợ hãi. Quách Phác cho là lo buồn, cảm thán. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ qua 戈 thanh đơn 單, hoặc viết từ bộ tâm 心 viết thành chiến 戰. Văn cổ viết cũng từ bộ tâm 心 thanh lật 栗.

Trúng độc (中 毒). Ngược lại âm trên là trương trung 張 中. Vận Anh Tập cho rằng: Trung (中) là đương thời là chữ giả tá. Ngược lại âm dưới là đồng đốc 同 篤. Thuyết Văn cho là là hại người, ở trong cỏ thường sanh ra những côn trùng độc hại. Âm độc 毒 ngược lại âm viên cải 袁 改. Âm triệt 屮 ngược lại âm sửu liệt 丑 列.

Thị kỹ (恃 己). Ngược lại âm thời chỉ 時 止. Hiếu Thanh cho rằng: Thị (侍) là y theo. Vận Anh Tập cho là Ỷ lại. Thuyết Văn cho là ỷ lại.

Chữ viết từ bộ tâm 心 viết thành chữ thị 恃 thanh tỉnh 省. Âm dưới là kỷ 己, nghĩa là mấy cái trở lên không hợp.

Nhiễu loạn (擾 亂). Ngược lại âm như chiếu 如 沼. Thuyết Văn cho là Phiền não. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh ưu 憂. Âm ưu 憂 ngược lại âm nô cao 奴 高. Trong văn kinh viết từ bộ 憂 ưu là chẳng đúng. Ngược lại âm dưới là loan đoạn 欒 段. Thuyết Văn nói từ bộ ất (乙) thanh loạn.

Tàm quý (慚 媿). Ngược lại âm tàng xá 藏 舍. Ngược lại âm dưới là cư vị 居 位, đều là chữ hình thanh, hoặc viết từ bộ tâm 心 viết thành 愧 quý.

Như bộc (如 僕). Ngược lại âm mãn ốc 滿 沃. Theo Tả Thị Truyện cho rằng: người là m quan xưng với Vua là bộc, theo Mao Thi Truyện cho rằng: Bộc là phụ giúp. Sách Lễ Ký cho rằng: Người học trò ở chốn công đường gọi là thần 臣, ở nơi nhà xưng là bộc. Theo Tập Huấn Truyện cho rằng: Vị quan coi ngựa, đánh xe ngựa, cũng gọi là người phục dịch thấp hèn, Thuyết Văn cho là Cấp cho là m việc. Chữ viết từ bộ nhân 人 thanh bộc. Âm bộc là âm bốc卜.

Chùy đã ( 打. Ngược lại âm trên là giai nhụy. Thuyết Văn cho là Lấy cây gậy đánh gõ. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh thùy, hoặc viết từ bộ trúc 竹 viết thành chùy này. Nghĩa là cây roi quất ngựa, hoặc viết từ bộ mộc viết 木 thành chùy. Nghĩa chùy là cái dùi dùng để đánh. Ngược lại âm dưới là đức biền 德 姘. Quảng Nhã cho là đánh gõ. Bì Thương cho rằng: Đánh bằng gậy. Chữ chánh xưa nay viết từ bộ thủ 手 thanh đinh 丁, ngược lại âm giang ngoại 江 外. Âm đinh 丁 ngược lại âm đình 挺.

Thuyết Văn cho là lầm lỗi.

Lý tiễn (履 俴). Ngược lại âm trên là lực kỷ 力 几. Hiếu Thanh cho rằng: Lý là thuộc giày dép. Trịnh Tiễn chú giải sách Lễ Ký rằng: Đạp lên. Thuyết Văn cho là là chỗ để cái chân nương theo. Thi 尸 đến bộ xước 辶, đến bộ chu 舟, đến bộ văn chu 文 舟, giống như chữ lý 履 , là chữ tượng hình. Âm sước 辶 ngược lại âm sửu xích 丑 尺, âm văn 文. Nhưng trong kinh viết từ chữ phúc 復 là sai. Ngược lại âm tiền diễn 錢演. Khổng An Quốc chú giải sách Luận Ngữ rằng: Theo thứ tự giẫm đạp lên. Theo Mao Thi Truyện cho là dáng đi. sách Lễ Ký cho rằng: Đạp lên địa vị, bước lên địa vị, đi hành lễ. Thuyết Văn cho là giày dép. Chữ viết từ bộ túc 足 thanh tiễn 戔 cũng là thanh tiễn 戔, hoặc viết tiễn này, âm tiễn đều đồng với âm tiễn 戔. Ngược lại âm sát 察 hạn 限.

Như si (如 癡). Ngược lại âm sỉ tri 恥 知. Thiên Thương Hiệt cho rằng: Si là ngây ngô đần độn. Tự Thư cho là Ngu đần. Thuyết Văn cho là không có trí tuệ. Chữ viết từ bộ tật thanh nghi 疑. Âm tật là âm nữ ách 女 厄.

Như á (如 啞) Ngược lại âm á giả 啞 賈. Trong kinh viết từ bộ khẩu 口 viết thành á 啞 là chẳng đúng.

Như lung (如 聾). Ngược lại âm lỗ đông 魯 東. Thuyết Văn cho là Lỗ tai không thông. Chữ viết từ bộ nhĩ 耳 thanh long 龍. Trong kinh viết chữ long này là chẳng đúng.

Như manh (如 盲). Ngược lại âm trên là bá bành 百 彭. Ba chữ trên trong quyển nhất đã giải thích rồi.

Đoạn tiệt (斷 截). Ngược lại âm trên là đoàn tiết 團 卩. Khổng An Quốc chú giải sách Thượng Thư là đoạn tuyệt. Thuyết Văn cho là là cắt đứt, chữ đoạn cũng giống như chữ tiệt, là cắt đứt. Chữ viết từ bộ cân 斤 đến chữ kế 繼 kế là chữ tuyệt 絕 cổ. Nay trong văn kinh đảo lại 斷 lấy dùng chữ kế này tiện và ổn định, hoặc viết đoạn tuyệt là chữ cổ. Có viết chữ 斷 là văn thường hay dùng. Ngược lại âm dưới là tiện tiết 賤 節. Trịnh Tiễn chú giải Mao Thi Truyện cho rằng: Cắt xén đều nhau, bằng nhau. Thuyết Văn cho là Dùng tay sửa lại. Chữ viết từ bộ thổ 土 viết từ chữ tiệt 截. Là văn thông dụng.

Giao thiệp 交 涉. Ngược lại âm thời diệp 時 葉. Đốt lên gọi là thiệp 涉, gọi là nhập vào. Theo Hán Thư cho rằng: Thiệp là giẫm đạp lên. Thuyết Văn cho rằng chữ viết từ hai bộ thủy, viết chữ thiệp, là chữ cổ. Theo Lệ Sách cho rằng: Viết lược bớt đi một bộ thủy, viết thiệp 涉.

(Quyển 338, 339, 340 đều không có âm giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 341

Miệt Lệ Xa (蔑 隸 車). Ngược lại âm trên là miên miết 眠 瞥. Kế là âm lệ 麗, hoặc gọi là Miệt lệ xa 蔑 戾 車. Tiếng Phạm, đều sai, lược, không đúng. Gọi là tất lật 畢 栗 (hai âm hợp) sa. Hán dịch là hạ tiện, chủng loại hèn hạ, là nơi biên giới xa xôi, là người không biết lễ nghĩa.

Chiên Trà La (旃 茶 羅). Ngược lại âm trên là chi nhiên 之 然.

Quyển ở trước đã giải thích.

Bổ Yết Sa (補 羯 娑) là tiếng Phạm, đồng với hai chủng loại trên.

Luyến tích (攣 躄). Ngược lại âm lực duyên 力 緣. Ngược lại âm dưới là bi diệc 卑 亦. Quyển 181 ở trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Bối lũ (背 僂). Ngược lại âm lực vũ 力 禹. Nghĩa là thân cúi xuống.

Điên giản (癲 癇). Ngược lại âm trên là đinh kiên 丁 堅, âm dưới là nhàn 閑. Hai câu trên, trong quyển một trăm tám mươi mốt đã giải thích đầy đủ rồi.

Đam lạc (抌 樂). Ngược lại âm đáp nam 答 南. Nhĩ Nhã cho rằng: Lấy cái vui quá độ. Vận Anh Tập cho là tốt đẹp. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ hỏa. Trong văn kinh viết từ bộ thân 身 cũng thông dụng, hoặc viết chữ đam, cũng thông với chữ đam 抌. Dưới là âm lạc 洛.

Ngõa lịch ( 礫). Ngược lại âm linh đích 零 的. Thuyết Văn cho là Đá vụn, cũng gọi là đá nhỏ.

Vẫn một (殞 歿). Ngược lại âm trên là vân mẫn 雲 敏. Âm dưới là môn cốt 門 骨. Hiếu Thanh cho rằng: Vẫn một đều là chết. Sách Lễ Ký cho rằng: Đông cứng lại. Theo Mao Thi Truyện cho rằng: Là hết. Theo văn cổ viết là vẫn, lại viết vẫn một là chữ tượng hình. Chữ chánh xưa nay gọi là vẫn một 殞 歿 là chết, đều từ bộ ngạt 歹, đều từ thanh viên thù 員 殳.

Dục khấu (欲 扣). Ngược lại âm khổ hậu 苦 厚. Khổng Tử cho rằng: Lấy cây gậy mà đánh trên cẳng của Nguyên Nhưỡng. Khổng An Quốc chú giải rằng: Khấu là đánh. Quảng Nhã cho rằng: Đưa lên, nâng lên, dơ cao lên. Thuyết Văn nói viết khấu nghĩa là đánh, gõ, cũng viết chữ khấu 扣 này.

Pháp Loa (法 摞).Ngược lại âm lỗ hòa 魯 ?. Thuyết Văn cho là Loại ốc sên thên lớn. Theo chữ loa 螺, đó là loại nhạc khí, dùng để thổi tiếng nghe rất hay, dùng để hòa theo các âm nhạc, cho nên trong kinh dẫn ra là m ví dụ, cũng viết chữ loa 螺 này, văn thường hay dùng.

Tích vi (析 為). Ngược lại âm tinh diệc 星 亦. Quảng Nhã cho rằng: tích 析 là phân ra. Thuyết Văn cho là Phá bỏ, chặt bỏ cây. Chữ viết từ bộ mộc 木 thanh cân 斤, hoặc viết từ phiên 片 viết thành chữ tích. Trong văn kinh viết từ bộ thủ 手 là chẳng đúng. Ngược lại âm chương liệt 章 列, chẳng phải nghĩa này. Dưới là chữ vi 為 viết từ bộ trảo 爪 là đúng. Ngược lại âm vi nguy 葦 危. Vương Tiêu chú giải sách

Luận Ngữ rằng: Vi là làm.

Triêm bỉ (霑 彼). Ngược lại âm Triếp liêm 輒 廉. Hàn Thi Truyện cho rằng: Triêm (霑) là thấm ướt. Hiếu Thanh cho là Ẫm chút ít. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ vũ 雨 thanh triêm 沾. Văn Tự Tập Lược viết triêm 沾 này là viết lược bớt.

Trích số (滴 數). Ngược lại âm đinh 丁 歷 lịch. Hiếu Thanh cho rằng: Giọt nước rơi xuống. Thuyết Văn cho là Giọt nước chú nguyện. Chữ viết từ bộ thủy thí 啻 thanh tỉnh 省. Chữ thí 啻 viết từ bộ kế 帝 đến bộ khẩu 口. Trong văn kinh viết lược đi bộ khẩu 口 viết là thí, văn thường hay dùng. Âm thí 啻 là âm sí 翅. Ngược lại âm dưới là sương cú 霜 句.

Mị trước (魅 著). Ngược lại âm mi bí 眉 秘. Theo kinh Sơn Hải cho là tinh vật lão luyện. Thuyết Văn nói viết mị từ bộ quỉ 鬼. Nghĩa là quỷ mọc lông, cho nên viết từ bộ sam 彡, giống như lông. Ngược lại âm dưới là trì lược 池 略. Chữ viết từ bộ thảo 草 đến chữ giả 者. Trong kinh viết từ bộ thỏa 草 viết trước chư 著 này là chẳng đúng.

Bất khứu (不 糗). Ngược lại âm hưu hữu 休 右. Thuyết Văn cho là dùng mũi đế ngửi, gọi là khứu. Chữ viết từ bộ tỵ 鼻 thanh xú 臭.

 

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 342

Ái Tắng (愛 憎). Ngược lại âm tắc đăng 則 登. Theo Hàn Thi Truyện cho rằng: Chữ Tắng 憎 cũng giống như chữ ác 惡. Thuyết Văn nói cũng gọi là ác 惡. Chữ viết từ bộ tâm 心 đến bộ bát 八 đến bộ tiểu 小, gọi là tiểu nhân.

Cơ quan (機 關). Ngược lại âm trên là ký nghi 記 宜. Theo Tập

Huấn Truyện cho là bộ phận là m việc, là bộ phận then chốt để phát động, gọi là cơ 機. Thuyết Văn cho rằng là chủ phát động máy nên gọi là cơ. Chữ viết từ bộ mộc 木 thanh cơ 幾. Ngược lại âm dưới là cổ ngoan古 頑. Theo sách Đại Đái Lễ cho rằng: Người quân tử tình gần mà vui thú ở nơi xa, xát thật có một mà quan hệ rất nhiều. Thuyết Văn cho rằng: Lấy cái cây gài ngang giữ cái cửa lại gọi là quan 關. Chữ viết từ bộ môn 門, thanh 清. Âm quan đồng với âm trên. Trong văn kinh viết chữ khai 開, chẳng phải nghĩa của kinh.

(Quyển 343, 344, 345 ba quyển này đều không có âm giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 346

Trở hoại (阻 壞). Ngược lại âm trên là trang sở 莊 所. Ngược lại âm dưới là hoài quái 懷 怪. Quyển ba trăm lẻ hai ở trước đã giải thích đầy đủ chữ trở 阻. Quyển ba trăm ba mươi đã giải thích đầy đủ chữ hoại 壞.

U hộ (依 怙). Ngược lại âm hồ cổ 胡 古. Quyển một trăm bảy mươi hai ở trước đã giải thích rồi.

Đầu thú (投 趣). Ngược lại âm trên là đồ hậu 徒 候. Theo Tả Truyện cho rằng: Khiêu ra, ném, quăng. Vương Dật chú giải sách Sở Từ cho là hợp, đè xuống. Thuyết Văn viết chữ đầu 頭. Xưa viết chữ 投 đầu này. Nghĩa là dùng tay lắc là m vật lay động. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh thù 殳.

Châu chữ (洲 渚). Âm trên là châu 州. Ngược lại âm dưới là chư dữ 諸 與. Quyển bốn mươi bảy ở trước đã giải thích đầy đủ.

Ám minh (闇 蓂) Âm trên là ám 暗. Quyển một trăm lẻ sáu trước đã giải thích đầy đủ rồi. Ngược lại âm dưới là mễ bình 米 瓶. Nghĩa là tối tâm, mê muội. Quyển tám ở trước đã giải thích đầy đủ rồi.

Manh cổ (盲 瞽). Chữ trên là manh 盲. Quyển nhất ở trước đã giải thích rồi. Âm dưới là cổ 古. Giải thích tên gọi cổ 瞽 là ngủ, thường ngủ, hai mắt bằng phẳng như mặt trống, vì giống như vậy mà gọi tên. Thuyết Văn cho rằng: Có mắt mà không có con ngươi, trồng mắt. Chữ viết từ bộ mục 目 đến chữ cổ 鼓, là chữ hội ý.

Phỉ báng (誹 謗). Ngược lại âm trên là phi vị 非 味. Âm dưới là bổ lãng 補 浪. Xem quyển một trăm tám mươi mốt đã giải thích đầy đủ.

Chúc lụy (囑 ) Ngược lại âm trên là chi dục 之 欲. Vận Thuyên Tập cho là phó chúc, là giao phó đối với vật gì. Đỗ Dự chú giải Tả Truyện là gởi gắm. Sách Sở Từ chú giải là Kế tục, tiếp nối. Văn Ngọc Thiên cho rằng: Gởi gấm cho nhau, phó thác cho nhau, ủy thác giao phó cho nhau. Chữ viết từ bộ vĩ 尾 thanh chúc. Âm vĩ 尾 ngược lại âm dưới lực ngụy 力. Vương Dật chú giải sách Sở Từ cho là Từng lớp. Theo Tả Truyện cho rằng: Tương thời động không liên lụy đến người sau. Lưu triệu chú giải Công Dương Truyện rằng: Chứa nhóm theo thứ lớp. Quảng Nhã cho rằng: Ủy thác chúc lụy cho nhau. Thuyết Văn cho rằng: Lụy là tăng thêm. Truyện Bạt Độ Vi Tường cho rằng: Văn cổ viết lụy 纍 lụy đều là chữ tượng hình, hoặc viết ba bộ điền 田 viết thành chữ lụy, hoặc viết 纍 lụy đều đồng.

Hồng phiêu (紅 縹). Ngược lại âm phiêu tiểu 漂 小. Xem trong quyển năm mươi sáu ở trước đã giải thích.

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 347

Thực khoảnh (食 頃). Ngược lại âm khuynh dĩnh 傾 穎. Khảo Thanh cho rằng: Ít lựa chọn, nghĩa là ăn trong khoãng thời gian rất ngắn. Thuyết Văn nói rằng: Chữ viết từ bộ chũy. Âm dĩnh 穎 ngược lại âm dinh đỉnh 贏 頂.

Tu du (須 臾). Ngược lại âm trên là tương du 相 逾. Ngược lại âm dưới là du chu 俞 朱. Ở nước Tây Vực chia ra tên, xưa dịch sai, lược. Chính âm Phạm là Mô hộ lật đa 謨 護 栗 多, tức là câu-xá 俱 舍, tức trong giây phút. Theo Luận cho rằng: Người xuất gia ràng buộc nơi lạp, người dịch là khắc, hai khắc là một tu du, ba mươi tu du là một ngày một đêm. Thường chia thành sáu mươi khắc, khi mùa Đông và mùa Hạ

đến, hai là cực dài và cực ngắn cùng nhau xâm chiếm. Tám khắc tức là ba mươi tám khắc, hai mươi hai khắc, cũng như nước này trải qua ngày đêm, một trăm khắc cùng nhau xâm chiếm. Tức là theo lệ, mười trong sáu mươi bốn. Nếu lấy theo giờ Tý, Sửu, v.v… thì chừng khoảng mười hai tiếng đồng hồ. Mỗi giờ thì năm khắc, hai giờ thì mười khắc, cộng chung là năm tu du.

Nga nhĩ (俄 爾). Ngược lại âm ngũ ca 五 哥. Tức là sự lựa chọn còn thiếu. Nga (俄) tức là bỗng nhiên, tiến gần giống như tu-du.

Thuấn tức (瞬 息). Ngược lại âm thức nhuận 式 閏. Vận Anh Tập cho rằng: Con mắt chuyển động. Trong văn kinh viết là thuấn 瞬, cũng là thông dụng, nghĩa là mở mắt ra nháy. Chữ viết từ bộ mục 目 dần 寅. Theo chữ thuấn mục 瞬 目 là một nháy mắt, tức là hơi thở, nói là rất mau chóng. Theo Lữ Thị Xuân Thu Truyện cho rằng: Muôn đời cũng giống như là một nháy mắt.

Tán Lệ (讚 勵). Ngược lại âm uy ngạn 威 岸. Vận Anh Tập cho là Khen ngợi, cũng gọi là giải thích. Quách Phác cho rằng: Tán tụng, cho nên phải giải thích vật lý. Giải thích tên gọi là Khen ngợi sự tốt đệp của người gọi là tán (讚). Ngược lại âm dưới là lực chế力 制. Xem quyển bảy mươi ở trước có giải thích đầy đủ.

Trọng đảm (重 擔). Ngược lại âm đam lãm 耽 濫. Quảng Nhã cho rằng: Đảm là gánh vác, phụ trách. Khảo Thanh cho rằng: Dùng khúc gỗ mà gánh vác vật gọi là đảm 擔. Thuyết Văn là Nhấc cao lên. Chữ viết từ bộ thủ 手 thanh đảm 詹. Chữ viết từ bộ mộc 木 chẳng phải âm chiêm 詹 là âm triêm 占.

Đãi đắc (逮 得). Ngược lại âm trên là đồ nại 徒 奈. Nhĩ Nhã cho rằng: Đãi (逮) là đến kịp. Phương ngôn cho rằng: Tự mình đóng cửa phía đông, phía Tây gọi là kịp đến. Trong văn kinh viết lộc 祿 này là chẳng đúng. Âm lộc 逯 là đi, chẳng phải nghĩa ở đây dùng.

Hoặc trịch (或 擲). Ngược lại âm trình trích 呈 摘. Vận Anh Tập cho rằng: Bỏ đi. Thuyết Văn cho là Ném. Từ bộ thủ 手, thanh trịch. Văn cổ viết trích 擿.

(Quyển 348, không có âm để giải thích.)

 

KINH ĐẠI BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

QUYỂN 349

Khan lận (刊 慳). Ngược lại âm trên là khẩu gian 口 間. Quảng Nhã cho là Yêu tiếc tài vật. Ngược lại âm dưới là lân tín 嶙 信. Quảng Nhã cho rằng: Lận là thấp hèn. Tự Thư cho là Tham tiếc. Vận Anh Tập cho rằng: Khan lận là keo bẩn, hà tiện, bũn xỉn, hoặc là viết lận là âm lận phán 吝 判. Âm khan 慳 ngược lại âm hạt 瞎.

Cố tích (顧 惜). Âm trên là cố 固. Trịnh Tiễn cho rằng: Quay đầu lại gọi là Cố. Thuyết Văn cho là nhìn trở lại. Chữ viết từ bộ hiệt 頁, thanh cố 雇. Âm cố 雇 đồng với âm trên. Trong văn kinh viết Cố 顧 này cũng là văn thường dùng. Ngược lại âm dưới là tinh diệc 星 亦. Quảng Nhã cho rằng: Tích là yêu tiếc. Sở Từ cho là Tham. Khảo Thanh cho là Keo bẩn, bũn xĩn. Chữ viết từ bộ tâm 心 thanh tích 昔. Xưa viết tích 脊 này.

Tu thừa (須 乘). Ngược lại âm trên là tương du 相 瑜. Tu (須) là văn thường dùng. Chữ chánh thể viết tu 須 nghĩa là chờ đợi. Thuyết Văn nói đồng với Tự Thư là chữ viết từ bộ lập 立 thanh tu 須. Trong văn kinh viết từ bộ thủy văn thường dùng là chẳng đúng bổn chữ. Ngược lại âm dưới là thừa chứng 承 證. Hiếu Thanh cho rằng: chiếc xe bốn ngựa. Tên thông dụng là chiếc xe. Thuyết Văn cho là Che phủ. Xưa viết thừa 乘 từ bộ nhập 入 thanh thừa.

Cạnh lai (競 來). Ngược lại âm kình kính 擎 敬. Vận Anh Tập cho rằng: Cạnh tranh về biên giới, Hiếu Thanh cho rằng: Theo đuổi, đưa đến, hoặc viết cạnh 競 nghĩa là rộng lớn, hoặc viết cạnh 競 là chữ cổ. Trong văn kinh viết cạnh 競 là văn chữ thường hay dùng.

Nguy thúy. Ngược lại âm dưới là thuyên tuế 詮 歲. Quảng Nhã cho rằng: Giòn, dễ gãy. Ngọc Thiên cho là Khinh bạc. Thuyết Văn cho là thịt nhuyễn dễ bằm. Chữ viết từ bộ nhục 肉 đến thanh tuyệt 絕 lại thanh tỉnh 省. Hoặc là viết thúy từ bộ nguy 危 đến viết thúy là chẳng đúng.

Lân mẫn (憐 愍). Ngược lại âm trên là luyện niên 練 年. Nhĩ Nhã cho là lòng yêu thương. Hiếu Thanh cho là Đau xót. Trong văn kinh viết lân là văn thường dùng. Ngược lại âm dưới là văn vẫn 文 殞. Hà Hưu chú giải Công Dương Truyện rằng: Mẫn là thương tâm. Thụy Pháp cho rằng: Khiến cho người ta đau lòng thương cảm gọi là mẫn 愍. Thuyết Văn nói chữ viết từ bộ tâm 心, âm mẫn đồng với âm trên.

Loa bối (摞 貝). Ngược lại âm lô hòa. Xem quyển một trăm tám mươi mốt ở trước đã giải thích đầy đủ.