NHẬP PHÁP GIỚI
Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

 

QUYỂN BA

Chương hai

05 tháng 08, 1990

Kính thưa Thượng Tọa trụ trì cùng chư vị đạo hữu…

Hôm nay là buổi thuyết giảng thứ 114 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này. Trong lần trước, chúng ta đã chớm đến vị thiện tri thức thứ 51, tức là ngài Di Lặc. Đây, xin quí vị hãy lắng nghe những câu kinh nói về ngài Di Lặc.

KINH: Này thiện nam tử, phương nam đây cố nước Hải Ngạn…

GIẢNG: Nước Hải Ngạn là chỗ tột bờ mé của biển diệu tâm.

KINH: Trong nước ấy có khu vườn đại trang nghiêm.

GIẢNG: Bao giờ chúng ta cũng phải nên hiểu hai nghĩa, nghĩa trong và nghĩa ngoài. Khu vườn đại trang nghiêm là một khu vườn rất đẹp, nhưng nghĩa trong là Tàng thức, là khu vườn tâm của vị thiện tri thức.

KINH: Trong vườn có một tòa lâu các rộng lớn tên là Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng.

GIẢNG: Trong khu vườn tâm ấy hiện lên một tòa lâu các, rất trang nghiêm, mà nó cũng là tượng trưng cho Bạch Tịnh Thức. Vì khi tâm khởi tướng thì nó bắt đầu chuyển thành thức, nhưng cái thức này hết sức tế vi, hết sức thanh tịnh, vì vậy mới gọi là “trang nghiêm tạng.” Khi một hành giả tu hành đến mức độ vào được đến Bạch tịnh thức rồi, bấy giờ, tâm hành giả ấy chứa toàn những bửu trang nghiêm hết sức thanh tịnh, và tâm ấy ánh ra ngoài thành cảnh y báo. Nên chánh báo và y báo luôn luôn tương ưng chặt chẽ với nhau, mà không bao giờ rời nhau. Không bao giờ có tâm tưởng mà không có cảnh giới y báo bên ngoài, hoặc ngược lại. Sở dĩ chúng ta sanh vào cảnh giới trần gian thô kệch này, là vì tâm chúng ta còn nhiều những chủng tử uế về tham, sân, si v.v… và tâm chúng ta chưa đủ trang nghiêm.

Nên nếu chúng ta muốn tránh khỏi những tai nạn, những khổ ải của cõi đời này, chúng ta chỉ cần chuyển những chủng tử trong tâm thì tự nhiên cái y báo của chúng ta sẽ chuyển. Điều này, riêng tôi, tôi tin chắc chắn lắm, vì tất cả những việc xảy ra trong thế gian này, trên bình diện thô kệch của thể chất này, đều được an bài ở một bình diện cao hơn rồi. Nên câu của ngài Quán Thế Âm nói: “độ nhứt thiết khổ ách” là rất đúng, Vì sao? Vì khi tâm chúng ta thanh tịnh, thì dù có mưa súng, mưa dao cũng qua được một cách dễ dàng. Nhưng chủng tử trong tâm chúng ta còn quá thô kệch, vướng mắc quá nhiều nên chúng ta khó quà được khổ ách là vậy.

KINH: Lâu các nậy có ra là do Bồ Tát thiện căn quả báo, do Bồ Tát niệm lực, tự tại lực, thần thông lực, do Bồ Tát thiện xảo phương tiện, do Bồ Tát phước đức trí tuệ.

GIẢNG: Tất cả những chủng tử niệm, nguyện, thần thông, trí huệ v.v… huân tập trong tàng thức của Ngài, rồi hiện hành, ánh ra thành y báo bên ngoài. Sở dĩ ngài Di Lặc ở trong lâu các trang nghiêm dường ấy là vì ngài tu về duy thức, ngài biết hóa giải tất cả những tập khí phiền não, thì tàng thức sơ năng biến ấy trở thành bạch tịnh thức, nên bên trong trang nghiêm ra sao, thì lóe ra bên ngoài tương Ưng như vậy. Nên trong kinh nói rõ là “lâu các này có ra là do thiện căn quả báo…”

KINH: Này thiện nam tử, Bồ Tát trụ bất tư nghì giải thoát.

GIẢNG: “Bất tư nghì giải thoát,” là sự giải thoát đến chỗ mịt mùng, đến chỗ ngằn mé, tột bờ mé, không thể dùng ngôn từ để nói hay nghĩ bàn được.

KINH: Dùng tâm đại bi vì các chúng sanh mà hiện cảnh giới như vậy, chứa họp những trang nghiêm như vậy.

GIẢNG: Càng vào sâu bao nhiêu thì lâu các hiện ra càng trang nghiêm bấy nhiêu.

KINH: Di Lặc Bồ Tát ở trong lâu các ấy để nhiếp thọ phụ mẫu quyến thuộc và nhơn dân làm cho họ được thành thục. Lại muốn cho nhữhg chúng sanh đồng thọ sanh, đồng tu hành ở trong đại thừa kiên cố. Lại muốn cho tất cả chúng sanh ấy, tùy bậc, tùy thiện căn, đều được thành tựu.

GIẢNG: Ngài ở trong lâu các ấy, tức trong cõi ấy, cũng chính là thân của ngài. Trong lâu các ấy, (cõi), có phụ mẫu, quyến thuộc và vô lượng nhân dân ngài độ trì tất cả, nhất là cho những người hồi hướng đại thừa.

KINH: Lại cũng muốn vì ngươi mà hiển thị môn bồ tát giải thoát, hiển thị bồ tát khắp tất cả chỗ thọ sanh tự tại.

GIẢNG: Đối với một vị Bồ Tát thì thần lực của các ngài rất ghê gớm, làm đủ những việc thọ sanh, đi thọ sanh tất cả các nơi. Còn chúng ta, thường mang một thân chấp ngã, đầy đủ phiền não, nên chỉ có thể thọ sanh một chỗ thôi, phần nhiều là phải chịu thai sanh, nhơ nhớp đầy máu mủ, mà phải qua thân xác một người đàn bà, sanh ra tùy theo nghiệp của mình. Trái lại, bậc Bồ Tát cao, phần nhiều các ngài sanh trong hào quang nên ngài thọ sanh chỗ nào cũng được, vào vô lượng chỗ, các ngài thọ sanh để độ những người khác.

KINH: Hiển thị Bồ Tát dùng nhiều thân hiện khắp nơi thường giáo hóa chúng sanh. Hiển thị Bồ Tát dùng sức đại bi nhiếp tất cả tài sản thế gian mà chẳng nhàm.

GIẢNG: “Chẳng nhàm” là hạnh làm hoài hoài mà không cảm thấy nhàm, chán, vì tâm các ngài vô ngã. Ngược lại, chúng ta khi thích thì làm, khi chán thì thôi vì tâm chúng ta còn có ngã, còn mong cầu nhiều thứ.

KINH: Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào thật hành Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo, thế nào học Bồ Tát giới, thế nào tịnh Bồ Tát tâm, thế nào phát Bồ Tát nguyện, thế nào chứa nhóm Bồ Tát trợ đạo, thế nào nhập bậc Bồ Tát, thế nào thành mãn Bồ Tát ba la mật, thế nào được Bồ Tát,vô sanh nhẫn, thế nào đủ Bổ Tát công đức, thế nào thòTBồ Tát thiện tri thức?

Này thiện nam tử, Di Lặc Bồ Tát thông đạt tất cả Bồ Tát hạnh, biết rõ tâm chúng sanh, thường hiện thân trước họ để giáo hóa điều phục.

GIẢNG: Đại khái đoạn này ngài dặn dò Thiện Tài thế thôi.

KINH: Này thiện nam tử, ngươi chẳng nên tu một điều lành, chiếu một pháp, hành một hạnh, phát một nguyện, được một thọ ký, trụ một nhẫn mà cho là rốt ráo.

GIẢNG: Khi tu được một vài điều lành, bắt đầu chứng được một vài pháp, hành một, hai hạnh, phát một vài nguyện, hay nhẫn được một vài điều, ngay cả được một thọ ký thì cũng đừng nên cho là đủ, phải hành vô lượng, phát nguyện vô lượng, thì tâm mới đến được mức vô lượng tuyệt vời. Ở đây, chúng tôi cũng xin nhắc lại sơ qua trên con đường Bồ tát đạo, ban đầu có tín nhẫn, sau qua phục nhẫn, đến tùy thuận nhẫn, rồi dần dần lên đến tịch diệt nhẫn, tất cả những thứ đó đều là những mức độ đi lên của tâm thức. Mức độ tâm thức càng sâu bao nhiêu thì nhẫn các pháp càng dễ bấy nhiêu, vì càng vào sâu bao nhiêu thì càng rời bỏ những thô kệch của căn thân này bấy nhiêu, nên những pháp ngoại duyên bên ngoài tới như chuyện nóng lạnh, đói rét, chửi bới, hoặc có người đến xin chân, tay, đầu, mắt, tủy, não v.v… cũng không lay động được tâm vị hành giả ấy, vì ngài đã đi vào hạnh nhẫn rất sầu rồi, không còn bị thân căn chi phối nữa.

KINH: Ngươi chớ đem tâm có hạn lượng mà thật hành lục độ, trụ nơi thập địa, tịnh Phật độ, thờ thiện tri thức.

GIẢNG: Vì vậy, không bao giờ được đem tâm có hạn lượng có bờ mé (bờ mé đó dựng lên bởi cái ngã) mà thật hành lục độ. Người tu hành bồ tát đạo không bao giờ khởi tâm có hạn lượng, vì như vậy sẽ không đi được đến chỗ tuyệt vời, vô hạn lượng. Mục đích của kinh Hoa Nghiêm là dạy chúng ta tu tập một tâm không bờ mé, không hạn lượng, vì như vậy mới có thể hóa giải được không gian và thời gian thể nhập pháp giới trọn vẹn được.

KINH: Tại sao vậy? Này thiện nam tử, vì Bồ Tát phải gieo vô lượng thiện căn, phải chứa vô lượng Bồ Đề cụ…

GIẢNG: Bồ đề cụ là dụng cụ đi đến bồ đề tâm, như tu niệm lực, tín lực, định lực v.v. . đều là bồ đề cụ cả. Trong đoạn kinh dài khoảng hai, ba trang này toàn nói đến chữ vô lượng cả, chúng ta cứ thong dong đọc từng chữ để hiểu từng câu một.

KINH: Phải tu vô lượng bồ đề nhơn, phải học vô lượng xảo hồi hướng…

GIẢNG: Xảo hồi hướng là hồi hướng khéo. Như một người làm một việc thiện to lớn, nhưng người ấy chỉ hồi hướng cho riêng mình, hay cùng lắm cho cha, mẹ, con cái mình thì đó gọi là “hồi đại, hướng tiểu,” làm việc thiện lớn, nhưng chỉ được công đức nhỏ. Trái lại, nếu làm một việc thiện nhỏ, như cho một con chó đói ăn, hay cứu một con chim bị rơi từ trên cây xuống, nhưng lại dùng cái tâm vô Ịượng hồi hướng, thì đó gọi là “hồi tiểu, hướng đại,” làm việc ấy tuy căn lành nhỏ, nhưng công đức lại vô lượng. Như vậy có nghĩa rằng, đạo Phật dạy chúng ta cách thăng hoa các công đức, do từ tâm vô lượng ấy.

KINH: Phải giáo hóa vô lượng chúng sanh giới, phải biết vô lượng chúng sanh tâm, phải biết vô lượng chúng sanh căn…

GIẢNG: Tâm và căn cơ của chúng sanh thế nào Bồ Tát cũng phải biết.

KINH: Phải rõ vô lượng chúng sanh giải.

GIẢNG: “Chúng sanh giải” là lối nhìn của chúng sanh, tùy theo mức độ nhãn lực và trí hiểu biết của chúng sanh. Bồ Tát phải biết tất cả những chúng sanh giải ấy, để dễ độ sanh. Ngược lại, chúng ta thì khác, khi đến một đám đông nào, tranh luận về một vấn đề gì đó, chúng ta thường chỉ chú trọng đến “kiến giải” (hiểu biết) của mình thôi, khư khư cho là đúng, ít khi mở tâm rộng thêm để nghe những kiến giải của người khác. Vì thế nên tâm mới hạn hẹp, không có được trí sáng suốt. Còn như một người trí, khi nói đến kiến giải của mình, biết nói, đồng thời cũng biết nghe, nên ít có sự tranh chấp, cãi nhau, có được tâm hồn cởi mở để thu tiếp được những cái hay của người khác. Lên cao hơn ở bậc Bồ Tát thì phải biết tất cả những chúng sanh giải là vì vậy, để tùy duyên độ sanh.

KINH: Phải quán vô lượng chúng sanh hạnh, phải diều phục vô lượng chúng sanh, phải đoạn vô lượng phiền não, phải tịnh vô lượng nghiệp tập, phải diệt vô lượng tà kiến, phải trừ vô lượng tâm tạp nhiễm.

GIẢNG: Tâm như biển lớn, tất cả nghiệp như những con sóng vì thế nó vô lượng, tà kiến cũng vậy, cũng vô lượng.

KINH: Phải phát vô lượng tâm thanh tịnh, phải nhổ vô lượng tên độc khổ.

GIẢNG: Tất cả khổ não như những tên độc cắm vào chúng sanh, từ một cơn sân nổi lên, cũng khổ, si mê ái kiến cũng khổ, tâm tham đắm tìm cầu cũng khổ v.v…

KINH: Phải cạn vô lượng biển ái dục.

GIẢNG: Tham dục của chúng sanh không cùng tận, được cái này thì lại muốn có cái khác, không bao giờ dừng.

KINH: Phải phá vô lượng tối vô minh, phải xô vô lượng núi ngã mạn.

GIẢNG: Ngã mạn của chúng sanh như núi tu di, bời bời không dứt, mỗi một địa vị sinh ra một thứ ngã mạn. Như một người muốn tu hành, đọc kinh kệ, thân tâm thanh tịnh được đôi chút, lúc đó hành giả mới chỉ bỏ được ngã mạn thô thôi, lúc đó lại có thể khởi lên một thứ ngã mạn tế vi khác, cho rằng ta thanh tịnh lắm rồi, không ai hơn ta cả. Hoặc giả lại âm thầm so sánh mình với vị tu hành khác, rồi cho rằng mình hơn người, giỏi hơn người v.v… Vì vậy, các tà niệm cứ bời bời như những đợt sóng nhấp nhô, khi thô, khi tế, nó xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi đợt sóng lại có một thứ ngã mạn riêng. Vì vậy, ngày xưa, các vị tu thiền như ngài Huệ Khả là một vị đã đắc đạo rồi lại đem thân làm tôi tớ cho nhà người, cho người ta sai phái, chửi bới, mắng mỏ, phần để trả bớt nghiệp, phần để dẹp trừ bớt ngã mạn.

KINH: Phải dứt vô lượng dây sanh tử.

GIẢNG: Dây nào cũng là dây sanh tử, khởi một tâm niệm tham cũng là một sợi dây sanh tử, cột chúng ta như những tờ giấy nợ ở bên Mỹ này. Khởi một tâm niệm sân cũng là một sợi dây sanh tử, một tâm niệm ngã mạn v.v… ngay cả đến sự suy tư đắm pháp cũng là sợi dây sanh tử cột chúng sanh lại chằng chịt như một cuộn chỉ rối.

KINH: Phải qua khỏi vô lượng dòng hữu lậu.

GIẢNG: Tất cả những gì cột chúng ta vào trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) đều là hữu lậu cả và khó nhất là vượt cái dục giới, rồi mới đến sắc giới và vô sắc giới.

KINH: Phải khô vô lượng biển thọ sanh.

GIẢNG: Tức là phải dứt tất cả những sinh tử. Kinh cứ phải nhắc đi nhắc lại cho chúng ta nhớ. Biển thọ sanh của chúng sanh trùng trùng điệp điệp, chúng sanh cứ lên xuống, thọ sanh rất nhiều loài, thì phải làm khô biển sanh tử ấy, cũng là biển ái dục, biển ngã mạn của chúng sanh.

KINH: Phải làm cho vô lượng chúng sanh ra khỏi bùn lầy ngũ dục. Phải khiến vô lượng chúng sanh lìa ngục tù tam giới, phải đặt vô lượng chúng sanh ở trong thánh đạo, phải tiêu diệt vô lượng hạnh tham dục, phải trừ sạch vô lượng hạnh sân hận.

GIẢNG: Kinh bao giờ cũng nhắc đi nhắc lại để mài tâm của chúng ta lặng lại, không còn nhấp nhô như sóng ngoài biển cứ nhồi lên mãi.

KINH: Phải phá trừ vô lượng hạnh ngu si. Phải siêu vô lượng lưới ma.

GIẢNG: Trong đời sống hằng ngày chúng ta ít khi để ý, chứ chung quanh ta cái gì cũng là lưới ma cả, từ tâm ngã mạn, tâm sân, tâm si, tâm thích mề đáy, tâm thích khen ngợi, tâm ghét, tâm yêu v.v… đều là lưới ma cả.

KINH: Phải lìa vô lượng nghiệp ma, phải rửa sạch Bồ Tát vô lượng dục lạc.

GIẢNG: Bồ Tát vô lượng dục lạc là một thứ dục lạc cao. Như Ưa thích sự an lạc của thiền định thì cũng phải lìa, nếu không thì sẽ rơi vào hàng Thanh Văn. Nên phải hiểu, dục và lạc có nhiều mức độ như đi vào biển Không vậy.

KINH: Phải tăng trưởng Bồ Tát vô lượng phương tiện.

GIẢNG: Dùng những phương tiện thiện xảo hiểu tùy theo mỗi trường hợp để độ sanh ra sao.

KINH: Phải xuất sanh bồ tát vô lượng căn tăng thượng.

GIẢNG: Phải bồi dưỡng cho những căn tăng trưởng, làm cho tâm sáng ra, lớn ra. Như tín căn, định căn, huệ căn v.v… Trong đạo Phật thường dùng những chữ rất cụ thể để nói đến những cái vô hình. Vì thường chúng ta chỉ biết đến mấy căn thô kệch như mắt, mũi, tai, lưỡi v.v…, nhưng ngoài ra, đạo Phật còn nói có nhiều thứ căn khác, như lòng tin sâu chắc đến mức độ nào thì sẽ nở ra thành một căn, tuy không có hình tướng thật, nhưng nếu có tâm nhãn sẽ nhìn thấy.

KINH: Phải sáng sạch Bồ Tát vô lượng quyết định giải.

GIẢNG: Khi ta nói “tất cả các pháp đều vô thường, tất cả các pháp đều khổ, không, vô ngã v.v…” đó là quyết định giải. Hay nói một quyết định giải khác là tất cả các pháp đều duy tâm sở hiện, đều do tâm mình mà ra. Bồ Tát phải luôn luôn quán chiếu như thế, làm sáng sạch cái tâm ấy.

KINH: Phải xu nhập Bồ Tát vô lượng bình đẳng.

GIẢNG: Phải giữ tâm lúc nào cũng bình đẳng, nếu có một ngọn sóng gợn lên không bình đẳng thì phải dẹp ngay.

KINH: Phải thanh tịnh Bồ Tát vô lượng công đức, phài tu tập Bồ Tát vô lượng công hạnh, phải thị hiện bồ tát vô lượng hạnh tùy thuận thế gian.

GIẢNG: Hạnh tùy thuận thế gian là tùy theo chúng sanh thích điều gì thì phải tùy thuận theo ý muốn đã, sau mới dạy dỗ được.

KINH: Phải sanh vô lượng sức tịnh tín, phải trụ vô lượng sức tinh tân, phải thanh tịnh vô lượng sức chánh niệm, phải thành mãn vô lượng sức tam muội, phải khởi vô lượng sức tịnh huệ, phải kiên cế vô lượng sức thắng giải.

GIẢNG: Sức thắng giải là hiểu rõ những pháp ấn then chốt.

KINH:Phải tích tập vô lượng sức phước đức, phải lớn vô lượng sức trí tuệ, phải phát khởi vô lượng sức Bồ Tát, phải viên mãn vô lượng sức Như Lai, phải phân biệt vô lượng pháp môn, phải rõ biết vô lượng pháp môn, phải thanh tịnh vô lượng pháp môn, phải sanh vô lượng pháp quang minh.

GIẢNG: ở đoạn kinh này nói rõ tất cả các pháp đều là quang minh, mà Bồ Tát luôn luôn dùng quang minh của tâm mình soi tất cả các pháp.

KINH: Phải làm vô lượng pháp chiếu diệu.

GIẢNG: Tức dùng tâm mình chiếu diệu tất cả các pháp, mà phải làm luôn luôn như thế mới gọi là vô lượng được. Khi nào ta thấy một con chó què, một cái cây, một người, ngay cả những vật nhơ uế thì phải hiểu ngay đó đều là quang minh của tâm thức sanh ra mà thôi.

KINH: Phải chiếu vô lượng phẩm loại tâm.

GIẢNG: Ở đây, kinh nói có vô lượng tâm, vì chúng sanh vô lượng, có người thích cái này, kẻ kia lại thích cái khác.

KINH: Phải biết vô lượng phiền não bệnh, phải chúa vô lượng diệu pháp dược.

GIẢNG: Diệu pháp dược, chắc quí vị cũng biết rồi, có nghĩa là người sân hận nhiều thì khuyên quán từ bi, người si mê nhiều thì khuyên quán nhân duyên, cao hơn nữa thì khuyên quán chiếu như huyễn v.v…

KINH: Phải chữa vô lượng bệnh của chúng sanh, phải sám sửa vô lượng đồ cúng cam lộ.

GIẢNG: Bồ Tát phải dùng tâm lực của mình hóa hiện tất cả các đồ cúng dường.

KINH: Phải đến vô lượng phật độ, phải cúng dường vô lượng Như Lai, phải vào vô lượng Bồ Tát hội, phải thọ vô lượng Phật giáo, phải nhẫn vô lượng tội chúng sanh.

GIẢNG: Bồ Tát phải nhẫn hết những tội lỗi của chúng sanh, để xóa cái tự và cái tha, để tâm có thể trùm khắp pháp giới này.

KINH: Phải diệt vô lượng nạn ác đạo, phải khiến vô lượng chúng sanh về thiện đạo, phải dùng pháp tứ nhiếp dể nhiếp vô lượng chúng sanh.

GIẢNG: Pháp tứ nhiếp là bố thí, ái ngữ, đồng sự và lợi hành.

KINH: Phải tu vô lượng môn tổng trì.

GIẢNG: Tổng trì tức là biết tất cả các pháp.

KINH: Phải sanh vô lượng môn đại nguyện, phải tu vô lượng sức đại từ, đại nguyện, phải siêng cầu phật pháp thường không thôi dứt, phải khởi vô lượng sức tư duy, phải khởi vô lượng sự thần thông.

GIẢNG: Bồ Tát luôn phải có thần thông thì độ sanh mới được nhiều.

KINH: Phải tịnh vô lượng trí quang minh, phải qua đến vô lượng loài chúng sanh, phải thọ vô lượng đời trong các cõi.

GIẢNG: Bồ Tát dùng pháp thân để thọ vô lượng đời trong các cõi để chỉ độ sanh mà thôi.

KINH: Phải hiện vô lượng thân sai biệt.

GIẢNG: Trong đạo Phật, điểm mà tôi mê nhất là điểm hình hài vô lượng. Tôi có làm một bài thơ về “Hình hài vô lượng,” xin đọc cho quí vị nghe vài đoạn:

Hắn ước mơ được phân thân thành vô lượng
Để ẩn mình từng hạt bụi, cánh hoa
Để có thể phất tung tà áo rộng
Quơ vào trong muôn ức ánh trăng sao

Khi tu lên một mức độ cao thì có thể thu cả vũ trụ trong tay áo, chỗ này là điểm mà tôi mê nhất.

“Huyền hoặc cả mà thôi, nhưng thực chẳng có gì huyền hoặc, vì cả thế gian này đều là tuồng huyễn hoặc khôn nguôi.” Tất cả thế gian này đều là huyễn hoặc, ngay cả đến vợ, con, thân bằng quyến thuộc, hay những vật ù lì nặng nề nhất như trái đất này cũng chỉ là một tuồng huyễn hoặc. Vì nay đến, mai đi, không có cái gì thực chắc lâu bền. “Nên hắn si ngây, tiếp tục mơ giấc mơ hình hài vô lượng. ”

Để gieo mình nơi vô lượng cuộc bể dâu… Riêng tôi, nhiều khi cứ thích đắm mình đi vào những cảnh giới. Không biết sau này tâm mình có dám vào địa ngục không thứ cảnh giới nào tôi cũng thích vào cả, vào đấy, thong dong làm người khách lạ, không sợ hãi, không tham luyến, mà có một sự tự tại thênh thang riêng của nó. Còn cứ mang thân máu mủ thô kệch này chỉ biết được một kiếp sống, chứng nhân của một vài cảnh giới, một vài sự biến đổi, rất hạn hẹp mà khó có sự tự tại được.

KINH: Phải nhập vô lượng tâm sai biệt, phải biết Bồ Tát đại cảnh giới, phải trụ Bồ Tát đại cung điện.

GIẢNG: Bồ Tát đại cảnh giới, Bồ Tát đại cung điện là tâm vị Bồ Tát lớn nên ánh ra y báo như vậy.

KINH: Phải quán Bồ Tát thậm thâm diệu pháp, phải biết cảnh giới khó biết của Bồ Tát, phải thật hành những hạnh khó làm của Bồ Tát.

GIẢNG: Những hạnh khó làm của Bồ Tát như hạnh thí thân chẳng hạn.

KINH: Phải đầy đủ oai đức tôn trọng của Bồ Tát…, phải hiện thần lực phổ biến của Bồ Tát,… (bỏ một đoạn kinh), phải vô biên kiếp cúng dường vô lượng Phật, nghiêm tịnh bất khả thuyết Phật độ, xuất sanh bất khả thuyết Bồ Tát nguyện…

GIẢNG: Đại khái như vậy, tức là làm sao mài tâm mình đến mức vô lượng, vì không thể nào mang tâm hữu hạn mà tu Bồ Tát hạnh (đễ vào những cảnh giới vô hạn) được.

KINH: Này thiện nam tử, tóm lại phải khắp tu Bồ Tát hạnh, phải khắp giáo hóa chúng sanh giới, phải khắp vào tất cả kiếp, phải khắp sanh tất cả xứ, phải khắp biết tâ’t cả thế (tam thế: quá khứ, hiện tại, vị lai), phải khắp thật hành tất cả pháp, phải khắp tịnh tất cả cõi, phải khắp mân tất cả nguyện, phải khắp cúng tất cả Phật, phải khắp đổng tất cả Bồ Tát nguyện, phải khắp thờ tất cả thiện tri thức.

GIẢNG: Đoạn này, sau khi nói về Bồ Tát đạo thì ngài lại nói đến vị thiện tri thức thứ 50, và việc phải cầu thiện tri thức thế nào? Tôi xin bỏ đi vài trang kinh…

KINH: Này thiện nam tử, thiện tri thức như từ mẫu, (người mẹ hiền), vì xuất sanh Phật chủng. Như từ phụ (người cha nhân từ) vì lợi ích rộng lớn. Như nhũ mẫu (người mẹ nuôi) vì thủ hộ chẳng cho làm ác. Như giáo sư, như đạo sư, như lương y, như núi Tuyết Sơn vì tăng trưởng thuốc nhất thiết trí

GIẢNG: Ở núi Tuyết Sơn mọc tất cả các loại cây thuốc. Các vị thiện tri thức cũng như vậy, khiến người học có thể mọc tất cả những thiện căn, đồng thời mọc dược “nhất thiết chủng trí.”

KINH: Này thiện nam tử, thường phải chánh niệm suy nghĩ thiện tri thức là như vậy.

Này thiện nam tử, ngươi kính thờ tất cả thiện tri thức phải phát tâm như đại địa, vì gánh vác trọng nhiệm không mồi nhọc.

GIẢNG: Khi thờ thiện tri thức, tâm hành giả phải như đất không mỏi nhọc.

KINH: Phải phát tâm như Kim Cang vì trí nguyện kiên cố chẳng hư hoại, phải phát tâm như núi Thiết Vi vì tất cả các sự khổ không lay động, phải phát tâm như người hầu hạ, vì đều tùy thuận theo lời dạy, phải phát tâm như đệ tử vì không chống trái lời dạy bảo.

GIẢNG: Đệ là em, tử là con. Trong sự tương quan đệ-tử ấy, như chúng ta là đệ tử của Phật, thì ngài coi chúng ta như một người em, vì ngài đã giác ngộ trước, chúng ta là kẻ đi sau. Nhưng chúng ta lại coi ngài như người cha, mà tự coi mình như một người con. Thầy coi trò như người em, ví không có sự cao ngạo, nhưng trò lại coi thầy như người cha, để tỏ hết lòng tôn kính của mình, nên gọi là “đệ tử.”

KINH: Phải phát tâm như tôi tớ, vì tất cả lao vụ không nhàm, phải phát tâm như dưỡng mẫu vì chịu những sự cần khổ không biết nhọc, phải phát tâm như người làm thuê vì không trái chỗ sai bảo, phải phát tâm như người hốt phân vì lìa kiêu mạn, phải phát tâm như cây lúa đã chín vì có thể hạ thấp, phải phát tâm như lương mã vì lìa ác tánh, phải phát tâm như xe lớn vì có thể chở nặng, phải phát tâm như voi điều thuận vì hằng phục tùng, phải phát tâm như núi Tu Di vì chẳng khuynh động, phải phát tâm như lương khuyển vì chẳng phải hại chủ, phải phát tâm như Chiên Đà La vì lìa kiêu mạn…

GIẢNG: Trong đoạn này, ngài nói phải phát tâm rộng lớn bằng rất nhiều thí dụ khác nhau, cốt chỉ để mài đi mài lại cho cái tâm càng ngày càng sáng vặ rộng lớn thôi.

KINH: Lại này thiện nam tử, với tự thân ngươi phải tưởng là bệnh khổ.

GIẢNG: Phải hiểu rõ rằng thân này lúc nào cũng khổ, không già thì bệnh, không bệnh thì chết v.v…

KINH: Lại phải nơi tự thân tưởng là đi xa, nơi thiện tri thức tưởng là đạo sư. Lại nơi tự thân tưởng cầu được độ, lại phải nơi tự thân tưởng là lúa mạ, nơi thiện tri thức tưởng là Long Vương. Lại phải nơi tự thân tưởng là nghèo cùng, nơi thiện tri thức tưởng là Tỳ Sa Môn.

GIẢNG: Tự thân mình phải nghĩ mình là kẻ nghèo khó, còn thiện tri thức thì mưa vàng, bạc cho mình, tương tự như Tỳ Sa Môn Thiên Vương vậy. Tất cả trong thế gian này, người nào được giàu có đều do ngài Công Đức Thiên trên tầng trời Tứ Thiên Vương làm ra, ngài ở trong cung điện Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Nhưng trái lại, còn có một vị lên là Hắc Ám Thiên luôn luôn đi kèm theo với ngài Công Đức Thiên, chuyên gieo tại họa.

KINH: Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nghe thiện tri thức có công đức như vậy, có thể khai thị vô lượng diệu hạnh Hổ Tát, có thể thành tựu Phật pháp quảng đại, nên vui mùng hớn hở đảnh lễ Đức Sanh và Hữu Đức, hữu nhiễu vô số vòng ân cần chiêm ngưỡng từ tạ đi qua phương Nam. Thiện Tài được nghe lời thiện tri thức dạy nhuận trạch tâm mình..

GIẢNG: Nhuận trạch là làm nhu nhuyễn, mềm mại, bóng sáng.

KINH: Chánh niệm tư duy công hạnh của Bồ Tát. Tự nhờ đời trước chẳng tu hạnh lễ kính, tức thời phát tâm cố gắng tiến bước.

GIẢNG: Thiện Tài vừa đi vừa nghĩ kiếp trước mình tu thiếu điều gì bây giờ thì cố gắng làm thêm.

KINH: …(bỏ một đoạn kinh)… Đến nước Hải Ngạn, Thiện Tài dùng tâm tôn trọng như vậy, cúng dường như vậy, xưng tán như vậy, quán sát như vậy…

GIẢNG: Trong lúc đi Thiện Tài nghĩ đến vị thiện tri thức mà ngài sắp đến gặp, dùng tâm tôn trọng, cúng dường, xưng tán, quán sát v.v…

KINH: Nguyện lực như vậy, tưởng niệm như vậy, vô lượng cảnh giới trí huệ như vậy, ở trước đại lâu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng gieo năm vóc đảnh lễ, tạm thời nhiếp niệm tư duy quán sát.

GIẢNG: Thiện Tài đến Hải Ngạn ấy, thấy Lâu các đó rồi, nhưng không thấy ngài Di Lặc, đồng thời muốn vào lâu các cũng không thể vào được. Nói một cách rõ hơn, Thiện Tài muốn vào cái Bạch Tịnh Thức của ngài Di Lặc và muốn gặp ngài, tức là hình tướng thần hóa của bạch tịnh thức ấy, thì Thiện Tài thực chưa vào nổi. Vì vậy Thiện Tài phải quì mọp trước đại lâu các trang nghiêm, quán chiếu lâu mới có thể vào được. Trong lúc Thiện Tài quán chiếu thì đắc được nhiều tam muội ghê gớm, tôi xin đọc lược…

KINH: Vì sức đại nguyện tín giải sâu nên nhập môn trí huệ thân bình đẳng khắp tất cả xứ, hiện thân mình ở khắp trước Như Lai, cũng hiện thân mình ở trước tất cả thánh chúng, tất cả phụ mẫu, tất cả chúng sanh, tất cả chỗ Thiện Tài đều tôn trọng lễ bái tột vị lai tế không thôi nghỉ, khắp hư không vì chẳng có biên lượng, khắp pháp giới vì không có chướng ngại, khắp thiệt tế vì khắp tâ’t cả chỗ, khắp Như Lai vì vô phân biệt, dường như bóng vì tùy trí hiện, dường như mộng vì từ tư duy khỏi, giống như tượng vì thị hiện tất cả, dường như vang vì theo duyên mà phát, không có sanh diệt vì xoay vần khởi diệt, không có tánh vì theo duyên mà chuyển.

GIẢNG: Thường thường chúng ta trông các vật cứ lường là có sanh, diệt, nhưng chính các vật ấy chỉ có xoay vần hiện lên thôi, rồi lại ẩn đi.

Tôi xin đọc đoạn sau đây, chỉ có khoảng hai mươi câu nhưng tóm tắt tất cả bí ẩn của Hoa Nghiêm. Xin quí vị lắng nghe…

KINH: Lại quyết định biết tất cả báo đều do nghiệp, tất cả quả điều do nhân, tất cả nghiệp đều do hoặc tập.

GIẢNG: Sở dĩ chúng ta tạo nên nghiệp là vì hoặc lộp. Hoặc là mê hoặc của chúng sanh. Tập là tích lũy, cũng còn gọi là tập quán. Trong đạo Phật dạy, tất cả những gì ở thế gian này, không có một vật nào là thật có, sở dĩcó vật hiện lên là do tâm chúng sanh động chiêu cảm khởi lên những thứ ấy rồi chấp rằng tất cả đều thật có, rằng có thật cây kia, núi đó, người này là người nam, người kia là người nữ, ông A, bà B, người này thì yêu mến, người kia thì ghét bỏ v.v… Tất cả đều do vọng tâm phân biệt mà ra. Đạo Phật nói tất cả những thứ ấy đều do vô minh hoặc phát khởi. Vô minh bắt đầu do chấp ròng ta cách biệt với pháp giới này. Tương tự như nhân vật Diễn Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm, cái ta lại quay đầu chiếu soi chính nó để làm lóe ra tất cả pháp giới này, mà không biết rằng đó chỉ là ảo ảnh. Vì vậy trong kinh mới nói, tất cả nghiệp đều do hoặc tập mà ra.

KINH: Tất cả Phật xuất thế đều do đức tin.

GIẢNG: Tại sao Phật lại phải xuất thế? Vì lúc bây giờ trong cõi đó, các chúng sanh căn lành thuần thục rồi, nên chiêu cảm để Phật xuất hiện ra đời. Nếu chúng sanh căn lành chưa thuần thục thì không bao giờ có Phật là cái quả nở ra cả. Như trong kiếp hoại, chúng sanh trong kiếp đó trông thấy nhau chỉ muốn chém giết nhau, nên thời kỳ đó không có Phật ra đời. Nhiều người không hiểu, cho rằng Phật không có lòng từ bi, đáng lẽ lúc đó Phật phải ra đời để cứu độ chúng sanh cho bớt khổ chứ. Nhưng thật ra, Phật xuất thế hay không như cái hoa nở vậy, phải có sự chiêu cảm của chúng sanh, vì cho dù Phật có xuất thế trong kiếp hoại cũng không cứu được chúng sanh, mà nếu Phật dùng thần lực cứu chúng sanh thì lại trái với luật tắc nhân quả nghiệp báo, vì chúng sanh phải trả nghiệp của mình đã, rồi tu cho căn lành thành thục, chín mùi, lúc bây giờ ngài Di Lặc xuất hiện. Phật xuất thế là do đức tin, khi chúng sanh có đức tin nhiều thì Phật sẽ xuất thế.

KINH: Tất cả sự hóa hiện cúng dường đều do quyết định giải.

GIẢNG: Thường các bậc đại Bồ Tát khi cúng dường chỉ ngồi một chỗ, dùng tâm lực hiện các đồ cúng dường chư Phật. Tại sao các ngài dùng tâm lực mà hóa hiện được? Vì các ngài có quyết định giải, tin sâu rằng “duy tâm sở hiện” vì tâm vốn dĩ rất bổn cụ, muốn hiện thức gì cũng được, ngay cả hóa hiện một sơn hà đại địa, một cõi để cúng dường Phật cũng được.

KINH: Tất cả hóa Phật đều do tâm cung kính.

GIẢNG: Ngài Ấn Quang nói, tâm cung kính một phần thì được một phần thiện căn, nếu tâm cung kính mười phân thì được mười phần thiện căn. Người lễ bái tu hành, tâm càng cung kính bao nhiêu thì Phật càng dễ hiện ra bấy nhiêu.

KINH: Tất cả phật pháp đều do thiện căn, tất cả hóa thân đều do phương tiện, tất cả Phật sự đều do đại nguyện.

GIẢNG: Tất cả những Phật sự đều do đại nguyện tu hành mà ra, nên phải hiểu nguyện lực rất ghê gớm, nó còn hơn cả giới lực, định lực, và huệ lực nữa. Tất cả đại thừa đều nương trên căn bản nguyện lực, và nguyện lực Ihường chiêu cảm thần lực rất lớn lao. Một khi hành giả h.iy nghĩ hồi hướng đến pháp giới bao la bao nhiêu, thì pháp giới ấy lại dội lại nhiều bấy nhiêu. Cho nên, tuy chúng ta tu hành kém cỏi, nhưng nếu tâm luôn luôn có nguyện hồi hướng hết cho chúng sanh, thì pháp giới lại dội lại rất nhiều.

KINH: Tất cả Bồ Tát tu công hạnh đều do hồi hướng.

GIẢNG: Bồ Tát đạo là chỉ có hồi hướng. Nên sự hồi hướng là một pháp đặc biệt độc đáo của Đại Thừa, vì luật tác động dội lại liên miên không bao giờ dứt. Nên đi trên con đường Bồ Tát đạo phải có nguyện trang nghiêm và hồi hướng rộng lớn tràn đầy pháp giới này.

KINH: Tất cả pháp giới quảng đại trang nghiêm đều từ cảnh giới nhất thiết trí.

GIẢNG: Pháp giới quảng đại trang nghiêm thế nào đi nữa cũng đều do chân tâm, do Phật tri kiến nở ra.

KINH: Rời đoạn kiến nên biết hồi hướng.

GIẢNG: Thường đạo Phật chê trách những người tu theo ngoại đạo là rơi vào đoạn kiến và thường kiến, và dạy rằng, ta phải lìa thường kiến và đoạn kiến, ly đoạn kiến nên mới biết hồi hướng. Một số ngoại đạo chủ trương rằng chết là hết, ngay thánh nhân cũng không còn, điều đó là sai, vì giòng sinh hóa này vô tận, không thể nói đoạn, hay thường. Một phái ngoại đạo khác lại bài bác nhân quả, cho rằng chẳng có quả báo, nên không cần phải tu hành, nhân cũng không và quả cũng không. Đạo Phật nói rằng, pháp giới này không phải thường, không phải đoạn, luôn luôn chuyển biến mà không hết hẳn, nôn những việc mình tu hành sẽ còn lại dưới hình thức của những chủng tử các thiện căn. cần phải mang những chủng tử ấy đi hồi hướng, nên kinh mới nói, rời đoạn kiến nên biết hồi hướng.

KINH: Rời thường kiến nên biết vô sanh.

GIẢNG: Một phái ngoại đạo khác lại chấp vào thường kiến, cho là có ngã và thần ngã, cho thần ngã ấy là thường, không thay đổi, vĩnh cửu hoài họài không bị hoại diệt, sanh từ Phạm Thiên ra. Nhưng đạo Phật lại nói khác, nói rằng sự chấp thần ngã ấy cũng là chấp ta. Vì không có một vị Phạm Thiên nào sanh ra ta cả. Và phải vượt lên trên Thần Ngã mới nhập được thực tại cuối cùng và diệu tâm ấy vốn vô sanh. Không có vật gì sanh ra vật gì, tất cả mọi vật đều khởi lên từ biển diệu tâm. Vì vậy, trong Trung Quán Luân, ngài Long Thọ nói rằng: ”Mọi vật không phải tự sanh, không phải tha sanh, không phải cộng sanh cũng không phải không nhân” mà tất cả mọi vật có hình tướng đều chỉ hiện lên thôi, khởi lên từ vọng tưởng, mà bản thể của nó chính là vô Manh.

KINH: Rời vô nhơn kiến nên biết chánh nhơn.

GIẢNG: Tuy nói rằng không có vật gì sanh ra vật gì, nhưng không phải vì thế mà nó là vô nhơn, nó chỉ hiện lên do vọng hoặc duyên khởi. “Rời vô nhơn kiến nên biết chánh nhơn” biết chánh nhơn tức là biết diệu tâm, biết vọng hoặc khởi lên tất cả những thứ ấy, chỉ như mộng, như huyễn. Nhân đó chỉ là cơn mê sảng của chúng sanh, và cũng chính cơn mê sảng ấy sinh ra pháp giới này.

KINH: Rời điên đảo kiến nên biết như thật lý.

GIẢNG: Điên đảo kiến là những cái không thường tưởng là thường, không có lại cho là có, khổ thì cho là vui, không có ngã lại cho là có ngã, bất tịnh lại cho là tịnh v.v… Khi rời được tất cả những điên đảo kiến ấy thì thấy được như thật lý, thấy được Niết Bàn, chân, lạc, ngã, tịnh, thấy được diệu tâm.

KINH: Rời tự tại kiến nên biết chẳng do nơi khác.

GIẢNG: Câu này chỉ là lập lại câu trên. Ngoại đạo thường cho rằng có một vị Phạm Thiên (Thượng Đế) tự tại sinh ra mọi vật. Khi hành giả vượt qua được những kiến chấp đó thì sẽ đến được Tâm, thấy tất cả mọi vật không phải tự sanh, không phải tha sanh, không phải cộng sanh cũng không phải không nhân. Nói tóm lại, không có một vật gì có thể sanh ra được vật gì, vật đều là những hình bóng vọng tưởng mà thôi. Sở dĩ chúng ta có thấy cái này sanh ra cái kia vì tâm thức chúng ta có những tập khí của cơn mê sảng tích lũy từ nhiều đời, nên c ứ lưởng có vật này thực sự sanh ra vật kia một cách chắc thật.

KINH: Rời tự tại kiến nên biết chẳng do nơi khác.

GIẢNG: Những lời Kinh thường rất cô đọng, và đôi khi lập đi lập lại, xoáy tâm thức người đọc vào. Đại khái câu này cũng thế thôi, cũng chĩ dạy cho chúng ta biết không có tự, không có tha, chỉ khởi lên từ Tâm.

KINH: Rời tự tha kiến nên biết từ duyên khởi.

GIẢNG: Tự tha kiến là không phải tự sanh, không phải ta cộng với cái khác mà sanh ra. Tất cả sanh ra chỉ do sự tụ hợp các duyên trong sự khởi lên của vọng tưởng.

KINH: Rời biên chấp kiến nên biết pháp giới vô biên.

GIẢNG: Rời biên chấp kiến là những cái hữu biên hoặc vô biên, hoặc có hoặc không, hoặc đoạn hoặc thường, hoặc lai hoặc khứ, hoặc dị hoặc nhất v.v… Tất cả những biên kiến ấy đều phải lìa thì mới biết được pháp giớị như như tịch tĩnh.

KINH: Rời vãng lai kiến nên biết ảnh tượng.

GIẢNG: Chúng ta thấy vật gì cứ cho rằng vật này ở chổ kia đến, sau khi nó qua rồi thì cho rằng nó đã đi qua. Dó gọi là vãng lại kiến. Nhưng trong kinh nói rằng chẳng chỗ đến, có đi, vật đủ duyên thì hiện ra. Nên tất cả chỉ là ảnh tượng.

KINH: Rời hữu vô kiến nên biết chẳng sanh diệt.

GIẢNG: Hữu vô là có không, trong luận tứ cú của đạo Phật. Bồ Tát biết chẳng có, chẳng không, chẳng thật, chẳng hư nên Bồ Tát rời được sanh diệt, vào vô sanh.

KINH: Rời nhất thiết pháp kiến nên biết không vô sanh.

GIẢNG: Nếu ta để ý, sẽ thấy những câu trong kinh toàn là những “công án” cả, nhiều khi suy nghĩ cả đời cũng chẳng tỏ được mấy đỗi. “Nhất thiết” là tất cả. “Pháp” là pháp. “Kiến” là thấy. Người thấy tất cả pháp là người thấy vô pháp, tức là vị đó đắc quả vào Niết Bàn rồi. Đạo Phật bao giờ cũng dạy như vậy, từ cực độ này, chuyển hóa thành cực độ kia. Cực độ có chuyển thành Không, và ngược lại, dung thông vô ngại. Câu kinh này ý muốn nói vị Bồ Tát vào niết bàn ấy rồi, nhưng không trụ trong Niết Bàn, không hưởng niềm an lạc của niết bàn, rời bỏ cái Không hải ấy để khởi tâm quán giả, vào giả, khởi đại bi để độ sanh.

KINH: nên biết chẳng tự tại…

GIẢNG: Bồ Tát ngồi trong niết bàn ấy có tự tại lực nên đi vào trong các nèo để độ sanh.

KINH: Nên biết do nguyện lực xuất sanh…

GIẢNG: Biết rằng đại bi là do nguyện lực xuất sanh, Bồ Tát không chứng thiệt tế, không an trụ trong niết bàn, mà luôn luôn nhớ bi nguyện từ nhiều kiếp, khởi đại bi tâm thọ sanh để độ sanh, vì vậy nên bỏ niềm tự tại của mình.

KINH: Rời nhất thiết tướng kiến nên nhập vô tướng tế.

GIẢNG: Vẫn thế, vẫn chuyển từ cái có vô lượng đến cái Không. Bồ Tát được nhất thiết tướng kiến, thấy tất cả các tướng, các pháp rồi, lúc đó sẽ lại chuyển sang vô lướng.

KINH: Vì biết tất cả pháp như hột giống nảy mầm, như ấn sanh văn.

GIẢNG: Do có hột giống chủng tử trong tàng thức nở ra, (tôi vẫn nói như cái hoa nở ra pháp giới này.) “ấn sinh ra” là khi tâm ấn vào tâm thì hiện lên cảnh giới. Nói tóm lại, nó là như huyễn. Tâm chúng sanh như cái ấn của nhà vua, in thành chữ, vì khi tâm phân biệt khởi lên thế nào thì ấn vào không hải khởi iên những cảnh giới như vậy.

KINH: Vì biết chất như tượng, biết thanh âm như vang, biết cảnh như mộng, biết nghiệp như huyễn, rõ đời do tâm hiện, quả do nhơn khởi, quả báo do nghiệp tập.

GIẢNG: Tất cả cảnh giới thế gian đều do tâm hiện. Đoạn kinh này, theo ý tôi là khó nhất, vì văn chương trong kinh nhiều chữ cô đọng quá. Lời kinh thường cô đọng thế, để cho chúng ta suy nghĩ chán chê mê mỏi đến một lúc nào đó thì tâm thức vỡ ra, mới có thể hiểu được đôi phần, chứ cứ nói sẵn hết thì không bao giờ ta chịu suy nghĩ để thấm kinh cả.

KINH: Thiện Tài đổng tử nhập quán trí như vậy, đoan tâm khiết niệm, ở trước lâu các mọp lạy sát đất, bất tư nghi thiện căn luU chú thân tâm mát mẻ thơi thới.

GIẢNG: Thiện căn tức là những luồng tâm lực của mình rung động theo một nhịp điệu nào đó, luân lưu trong tâm thức khiến tâm thức luôn được mát mẻ khinh an.

KINH: Rồi đứng dậy chiêm ngưỡng, mắt không tạm rời, chắp tay hữu nhiễu vô lượng vòng. Tự nghĩ rằng…

GIẢNG: Sau khi Thiện Tài quán chiếu như thế lâu rồi, thì đến giai đoạn tán thán ngài Di Lặc. Trong sự tán thán ấy, có từng bậc thang đi lên. Tôi xin đọc qua một đoạn…

KINH: Đại lâu các này là chỗ ở của bậc đạt Không, vô tướng, vô nguyện. Là chỗ ở của bực nhất thiết pháp vô phân biệt, là chỗ ở của bậc rõ pháp giới vô sai biệt, lâ chỗ ở của bậc biết tất cả chúng sanh bất khả dắc.

GIẢNG: Biết tất cả pháp cùng chúng sanh đều là không, đều là huyễn mộng.

KINH: Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp vô sanh, là chỗ ở của bậc chẳng tham chấp tất cả thế gian, là chỗ ờ của bậc chẳng tham chấp tất cả nhà của, là chỗ ở của bậc chẳng thích tất cả tụ lạc.

GIẢNG: Tụ lạc là gì? Thân căn là một thứ tụ lạc, thân chúng ta có được là do tất cả các tế bào do nghiệp báo khởi lên, tụ lại thành một thân. Căn cũng là một thứ tụ lạc, như nhãn căn là một nơi tụ lạc qua lại của tất cả các quang minh, nó như một cái cửa thành vậy. Nên trong dạo Phật có một pháp gọi là pháp hiệp và pháp tan, khi đủ nhân duyên, nó tụ lại thành một pháp, khi hết nhân duyên rồi lại tan đi.

HỎI: Xin ông giải thích lại cho, tụ lạc là gì tôi vẫn chưa hiểu?

ĐÁP: Nói một cách nôm na, tụ lạc là thôn xóm. Tôi vẫn nói thân của mỗi một chúng sanh giống như cái tỉnh Los Angeles, là thôn xóm của những con hộ trùng, sáng dậy, những con thi trùng bò lổm ngổm mỗi đứa đều có việc riêng của nó, chúng ta cứ tưởng chúng ta ăn, chúng ta đói, chúng ta làm việc, chúng ta vui cười v.v…. nhưng chính thật đều là những con thi trùng trong người nó đòi hỏi mà chúng ta hoàn toàn không biết.

KINH: Là chỗ ở của bậc chẳng dựa tất cả cảnh giới, là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng.

GIẢNG: Nguyên đoạn kinh trên đây, nói về giai đoạn đầu của quán Không, còn đoạn kinh sau thì nói về quán Giả và quán Trung.

KINH: Là chỗ ở của bậc biết tất cả pháp không tự tánh, là chỗ ở của bậc dứt tất cả nghiệp phân biệt, là chỗ ở của bậc lìa tất cả tưởng, tâm, ý, thức, là chỗ ở của bậc chẳng nhập, chẳng xuất tất cả đạo, là chỗ ở của bậc nhập thậm thâm bát nhã ba la mật, là chỗ ở của bậc hay dùng phương tiện trụ phổ môn pháp giới, là chỗ ở của bậc tắt dứt tất cả lửa phiền não, là chỗ ở của bực dùng tăng thượng huệ dứt trừ tất cả kiến, ái, mạn…

GIẢNG: Tất cả đoạn kinh này đều nói đi vào Không. Sau đây sang đến quán giả và quán trung. Tôi xin đọc lược…

KINH: Là chỗ ở của bậc xuất sanh tất cả thiền, giải thoát, tam muội, thông sáng và du hí trong đó.

GIẢNG: Ngài dạy Bồ Tát phải đi vào thiền, giải thoát, tam muội v.v… đi vào giả, hóa hiện các cảnh giới để du hí trong việc độ sanh.

KINH: Là chỗ ở của bậc cảnh giới tam muội của tất cả Bồ Tát.

GIẢNG: Đoạn này cũng là dạy quán giả.

KINH: Là chỗ ở của bậc an trụ chỗ của tất cả Như Lai.

GIẢNG: Tức là chư Như Lai hiện thân để độ sanh.

KINH: Là chỗ ở của bậc đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp mà không hư tướng thời gian.

GIẢNG: Dùng tâm lực mình hóa giải thời gian để độ sanh.

KINH: Là chỗ ở của bậc đem một thế giới vào tất cả thế giới, đem tất cả thế giới vào một thế giới mà chẳng hoại tướng không gian.

GIẢNG: Dùng tâm đại bi mà hóa giải không gian, tức là vẫn quán giả và quán trung.

KINH: Là chỗ ở của bậc đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp mà chẳng hư hoại tướng của pháp. Là chỗ ở của bậc đem một chúng sanh vào tất cả chúng sanh, đem tất cả chúng sanh vào một chúng sanh mà không hư tướng chúng sanh.

GIẢNG: Đoạn kinh này nói khởi tất cả các thứ tướng do lòng đại bi để độ sanh…

Thôi cũng đã hết giờ, xin tạm ngừng nơi đây. Hẹn quí vị kỳ giảng sau.

Xin cảm ơn quí vị…