NHÂN VƯƠNG BÁT NHÃ NIỆM TỤNG PHÁP

Hán dịch: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty_Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Túc Quốc Công, thực ấp gồm ba ngàn hộ_ Ban áo tía tặng Tư Không, tên thụy là Đại Giám, tên hiệu chính là Đại Quảng Trí_Chùa Đại Hưng Thiện_Tam Tạng Sa Môn BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch
Việt dịch: HUYỀN THANH

 

Bấy giờ Đức Phật bảo vua Ba Tư Nặc (Prasenajit): “Nay Ta vì nhà vua nói Pháp Trì Minh của Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa. Nhà vua nên chân thật thọ nhận, một lòng khéo lắng nghe!

_Trước tiên nói rõ Nghi Quỹ vào Đạo Trường

Nếu các bậc Nhân Vương (Nārendrāya:Vua chúa trong loài người) vì cầu ngưng dứt tai nạn (Tức Tai:Śāntika). Trước tiên nên tắm gội, mặc áo mới sạch, như Pháp hành. Nhà vua thọ nhận Cận Trụ Giới, nên khởi tâm ân trọng Đại Thừa, muốn cầu thành tựu, chẳng tiếc thân mạng. Đối với vô biên hữu tình, rộng khởi tâm Bi Nguyện tế độ. Người như vậy mau được thành tựu.

Vào Đạo Trường xong, cúi năm vóc sát đất, lễ khắp tất cả Tam Bảo (Ratnatrāya) trong Pháp Giới (Dharma-dhātu), quỳ gối phải sát đất, sám hối tất cả tội chướng của ba nghiệp, khuyến thỉnh mười phương Phật chuyển bánh xe Chính Pháp (Samyag-dharmacakra), thỉnh các Như Lai trụ lâu dài ở đời, tùy vui với chỗ tu Phước Trí của ba Thừa (Tri-yāna). Dùng Công Đức mà Tôi (họ tên…) đã tu thảy đều hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi), nguyện cùng với tất cả hữu tình trong Pháp Giới mau được đầy đủ Tất Địa (siddhi) đã mong cầu

_Tiếp ngồi Kiết Già. Nếu như thiếu duyện chẳng được tắm gội thì xoa hương vào hai bàn tay, phát tâm ân trọng, kết Thanh Tịnh Ấn: Hai tay để ngang trái tim, chắp tay lại giữa rỗng (hư tâm hợp chưởng) như hoa sen chưa nở.

Tụng Chân Ngôn là:

“Án, sa-phộc bà phộc, du đạc, tát phộc đạt ma, sa-phộc bà phộc, du độ hám”

Tụng Chân Ngôn này ba biến. Ngay lúc tụng chính thời vận tâm rộng bày: “Tất cả các Pháp xưa nay vốn thanh tịnh. Thế nên thân của ta cũng đều thanh tịnh”

Liền nhắm mắt vận tưởng tất cả các chư Phật, Bồ Tát, chúng Hội của Đạo Trường tràn đầy hư không, cầm nắm mọi loại hương hoa thượng diệu. Ba nghiệp chí thành cúi đầu mặt lễ kính.

 

1_Thứ nhất: Kết Phật Bộ Tam Muội Gia Ấn. Hai tay ngang trái tim, cài chéo các ngón bên trong rồi nắm quyền, kèm dựng hai ngón cái.

 

 

Tụng Chân Ngôn là:

“Án, nhĩ na nhĩ ca, sa-phộc ha”

Chẳng phát ra tiếng, tụng Chân Ngôn này ba biến (Bên dưới đều dựa theo để biết) rồi bung tán ở trên đỉnh đầu.

Do kết Ấn Khế này, tụng Phật Bộ Tam Muội Gia Chân Ngôn này cho nên tất cả chư Phật trong mười phương Pháp Giới thảy đều vân tập tràn đầy hư không, gia trì cho Hành Giả lìa các chướng não, ba nghiệp trong sạch, mau được thành tựu Nguyện đã tu hành.

 

2_Thứ hai: Kết Chư Bồ Tát Bộ Tam Muội Gia Ấn. Hai tay ngang trái tim, như trước nắm quyền, co ngón cái trái ở trong lòng bàn tay.

Tụng Chân Ngôn là: “Án, a lô lực ca, sa-phộc ha”

Dựa theo lúc trước, tụng ba biến rồi bung tán Ấn ở trên đỉnh đầu

Do kết Ấn Khế này, tụng Chư Bồ Tát Bộ Tam Muội Gia Chân Ngôn cho nên liền được nhóm của Quán Tự Tại Bồ Tát (Avalokiteśvara) tất cả Bồ Tát trong mười phương Pháp Giới thảy đều vân tập tràn đầy hư không, gia trì cho Hành Giả hành Pháp, ba nghiệp trong sạch, không có các tai nạn. Ấy là các Bồ Tát nương vào Bi Nguyện của mình khiến cho điều mong cầu thảy đều mãn túc.

 

3_Thứ ba: Kết Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Ấn. Bên trên như Ấn lúc trước, duỗi ngón cái trái, co ngón cái phải vào trong lòng bàn tay.

 

Tụng Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la, địa lực ca, sa-phộc ha”

Dựa theo lúc trước, tụng ba biến rồi bung tán Ấn ở trên đỉnh đầu

Do kết Ấn Khế này, tụng Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Chân Ngôn cho nên liền được tất cả Kim Cương trong mười phương Pháp Giới, hiện thân uy nộ như mây đi đến tràn đầy cõi hư không, gia trì cho Hành Giả hành Pháp, ba nghiệp bền chắc giống như Kim Cương. Ấy là Bậc Thánh nương vào Uy Thần của Đức Phật, dùng sức Nguyện của chính mình. Lớn thì hộ trì cõi nước khiến cho không có tai nạn, nhỏ bé cho đến một thân khiến không có các tai ách.

 

4_Thứ tư: Kết Hộ Thân Ấn. Lại dùng Ấn Khế đã kết của ba Bộ với tụng Chân Ngôn gia trì năm chỗ là:vầng trán, vai trái, vai phải, trái tim, cổ họng rồi bung tán Ấn ở trên đỉnh đầu, liền thành Bị Kim Cương Kiên Cố Giáp Trụ

Do gia trì này mà khắp thân của Hành Giả tỏa uy quang hách dịch. Tất cả Ma, loài gây chướng chẳng dám đưa mắt nhìn, mau chóng bỏ chạy.

 

5_Thứ năm: Kết Tịch Trừ Ấn với Kim Cương Phương Ngung Bảo Giới Ấn. Bên trên đã dùng Kim Cương Bộ Ấn Khế lúc trước, tụng Chân Ngôn, nhiễu quanh Đàn, chuyển theo bên trái ba vòng, liền hay Tịch Trừ các Ma có sức mạnh to lớn thuận theo Phật Bồ Tát. Nếu có loài ẩn nấp sẽ đi xa đến phương khác. Tùy theo tâm lớn nhỏ, chuyển theo bên phải ba vòng, liền thành Kim Cương Phương Ngung Bảo Giới. Chư Phật Bồ Tát còn chẳng trái vượt huống chi là loài gây chướng não được dịp thuận tiện hãm hại. Xong bung tán Ấn ở trên đỉnh đầu.

 

6_ Thứ sáu: Kết Thỉnh Thánh Chúng Giáng Đàn Ấn. Phần trên dùng ba Bộ Ấn Khế với tụng Chân Ngôn lúc trước, đem ngón cái hướng về thân chiêu thỉnh, ba biến thì chiêu vời ba lần. Tức chúng Thánh của ba Bộ tràn đầy hư không lúc trước đều y theo Bản Vị (vị trí của mình) chẳng chướng ngại nhau, lặng yên mà trụ. Xong bung tán Ấn trên đỉnh đầu.

 

7_ Thứ bảy: Hiến Át Già Hương Thủy Ấn. Bên trên trên dùng hai tay nâng vật khí báu Ma Ni chứa đầy nước thơm, để ở tam tinh.

Tụng Chân Ngôn là:

“Án, phộc nhật-la, na ca, hồng”

Dựa theo bên trên, tụng ba biến, vận tâm rộng bày. Tiếp theo tắm gội khắp tất cả chúng Thánh. Xong bung tán Ấn ở trên đỉnh đầu

Do hiến Át Già cho nên từ Thắng Giải Hạnh Địa (Adhimokṣa-cārya-bhūmi) cho đến Pháp Vân Địa (Dharma-megha-bhūmi), ở mỗi một Địa (Bhūmi), chư Phật Bồ Tát trong mười phương Pháp Giới thảy đều gia hộ chư Phật quán đỉnh

 

8_ Thứ tám: Hiến Bảo Tòa Ấn. Bên trên để hai tay ngang chắp lại giữa rỗng, hai ngón cái với hai ngón út cùng phụ nhau hơi co lại, đều bung tán sáu ngón còn lại, hơi co như hoa sen nở rộ.

 

Chân Ngôn là:

“Án, ca ma la, sa-phộc ha”

Do kết Ấn Khế với tụng Chân Ngôn thì tòa báu đã hiến khiến các chúng Thánh đều nhận dùng như thật, liền khiến cho Hành Giả hành Pháp đến ở trong Quả Vị, đắc được tòa báu Kim Cương bền chắc

 

9_ Thứ chín: Kết Phổ Cúng Dường Ấn. Bên trên chắp hai tay lại, năm ngón tay trợ cài chéo nhau, bên phải đè bên trái, để ở trên trái tim.

 

Tụng Chân Ngôn là:

“Na mạc tam mạn đa một đà nam. Tát phộc tha khiếm, ô na-nga đế, tát-phả la, hứ hàm, nga nga nẵng kiếm, sa-phộc ha”

 

Do kết Ấn này với tụng Chân Ngôn cho nên Tâm sen rộng bày vòng khắp các Đạo Tràng Hải Hội của chư Phật Bồ Tát trong Pháp Giới, tuôn mưa khắp tất cả các vật dụng cúng dường.

Bắt đầu tụng một biến thì vật khí báu nhiều như cát bụi, chứa đầy hương xoa bôi, xoa bôi khắp chúng Thánh.

Tụng biến thứ hai thì mọi loại vòng hoa trang nghiêm khắp cả.

Tụng biến thứ ba thì thiêu đốt mọi loại hương, cúng dường khắp cả.

Tụng biến thứ tư thì tuôn mưa thức ăn uống thượng diệu trong các cõi Trời, để ở vật khí báu, cúng dường khắp cả.

Tụng biến thứ năm thì tuôn mưa các Ma Ni (Maṇi) làm đèn sáng cúng dường khắp cả chư Phật Bồ Tát.

Do tụng Chân Ngôn gia trì Lực cho nên nhóm hương đã hiến ở các Hải Hội thảy đều chân thật, chúng Thánh nhận dùng. Hành Giả hành Pháp ở đời đương lai thường được báo đó.

 

10_ Thứ mười: Kết Bát Nhã Ba La Mật Đa Căn Bản Ấn. Lại đem hai bàn tay cùng phụ ngược nhau, thâu hai ngón trỏ, co hai ngón út ở trong lòng bàn tay, đem hai ngón cái đều đè hai ngón trỏ, để ở trên trái tim.

Tụng Đà La Ni trong Kinh bảy biến.

Do kết Ấn này tụng Đà La Ni cho nên tự thân của Hành Giả hành Pháp liền biến thành Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát (Prajña-pāramitā-bodhi-satva) mà làm Mẫu (Mātṛ) của tất cả chư Phật

Tượng Bồ Tát ấy, ngồi Kiết Già trên hoa sen trắng, thân màu vàng chói, mọi báu, Anh Lạc trang nghiêm khắp thân, đầu đội mão báu, lụa trắng cột buộc mão rũ xuống hai bên, tay trái ngang trái tim cầm Bát Nhã Phạm Giáp (rương kinh Bát Nhã), tay phải ngang vú tác Ấn Thuyết Pháp, đem ngón cái đè đầu ngón vô danh.

Liền tưởng từ đỉnh đầu cho đến bàn chân của Bồ Tát, các lỗ chân lông trên thân tuôn ra ánh sáng làm mọi màu sắc tràn đầy Pháp Giới. Trong mỗi một ánh sáng, hóa vô lượng Phật tràn khắp cõi hư không trong các Thế Giới, rộng vì gốc rễ tương xứng của chúng sinh, tuyên nói Pháp thâm sâu của Bát Nhã Ba La Mật Đa đều khiến cho hiểu thấu, trụ Tam Ma Địa (Samādhi)

Hành Vương thực hành Pháp tác Quán này xong, bung tán Ấn trên đỉnh đầu, tay cầm tràng hạt (sổ châu) để ở trong lòng bàn tay, chắp tay lại ngang trái tim, tụng Chân Ngôn là:

« Án, vĩ lô giả na, ma la, sa-phộc ha »

Tụng ba biến này gia trì tràng hạt, đội trên đỉnh đầu xong, sau đó ngang trái tim, tay trái nâng tràng hạt, tay phải dời hạt châu, niệm niệm tương ứng, trụ Phật Mẫu Tam Muội (Buddha-mātṛ-samādhi), quán tâm đừng đề cho gián đoạn, tụng 108 biến, hoặc 21 biến.

Tụng Chân Ngôn là:

1_Na mô la đát-na đát-la dạ dã

2_ Na mạc a lý-dạ phệ lộ giả na dã

3_ Đát tha nghiệt đa dạ, la-ha đế

4_ Tam mạo tam một đà dã

5_ Na mạc a lý-dã

6_ Tam mãn đa bạt nại-la dã

7_ Mạo địa tát đát-phộc dã

8_ Ma hạ tát đát-phộc dã

9_ Ma hạ ca lỗ nê ca dã

10_ Đát nễ-dã tha

11_ Chỉ-nhương na, bát-la nễ bế

12_ Ác khất-xoa dã, cú thế

13_ Bát-la để bà na phộc để

14_ Tát phộc một đà, phược lộ chỉ đế

15_ Dụ nga, bả lý nễ sáp-bả ninh

16_ Nghiễm tỵ la nỗ la phộc nga hệ

17_ Để-lý-dã, đặc-phộc

18_ Bả lý nễ sáp-bả ninh

19_ Mạo địa chất đa, tán nhạ na nễ

20_ Tát phộc tỳ sái ca tỳ sắc cật-đế

21_ Đạt ma, sa nga la, tam bộ đế

22_ A mộ già, thất-la phộc ninh

23_ Ma hạ tam mãn đa bạt nại-la, bộ di

24_ Niết lý-dã đế

25_ Vĩ-dã yết la noa

26_ Bả lý bát-la bả nễ

27_ Tát phộc tất đà

28_ Na ma tắc cật-lý đế

29_ Tát phộc mạo địa tát đát-phộc

30_ Tán nhạ na nễ

31_ Bà nga phộc để

32_ Một đà ma đế

33_ A la nãi, ca la nãi

34_ A la noa, ca la nãi

35_ Ma hạ bát-la chỉ-nhương

36_ Bá la nhĩ đế, sa-phộc hạ

Như vậy y theo lúc trước, chí tâm niệm tụng. Đủ biến số xong, liền đội tràng hạt trên đỉnh đầu rồi để tràng hạt ở chỗ cũ (bản xứ)

_ Kết Tam Ma Địa Ấn. Duỗi ngang hai tay, bên phải đè bên trái, để ở dưới rốn, ngay thẳng thân, nhắm mắt, đầu hơi cúi xuống, chuyên chú trên trái tim, quán sát kỹ lưỡng trên Viên Minh Kính Trí, dài rộng một khuỷu tay, dần dần tràn khắp Pháp Giới, bày chữ thành hàng xoay vòng theo bên phải, thứ tự quán ánh sáng của chiếu suốt,từ bên ngoài hướng vào bên trong, đến ở chữ Địa (Dhīḥ), từ bên trong hướng ra bên ngoài, dần dần quán các chữ, giáp vòng thì trở lại ban đầu. Đến biến thứ ba thì tâm khéo tịch định, mỗi mỗi thật rõ ràng, quán nghĩa đã giải thích kỹ lưỡng, chẳng sinh chẳng diệt, mỗi mỗi bình đẳng, đều khắp Pháp Giới, chẳng phải động chẳng phải tĩnh, Định Tuệ kèm vận song song (song vận), lìa hẳn các tướng. Tức là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tam Ma Địa Quán

Từ đây trở đi, kết Bát Nhã Ba La Mật Đa Ấn, tụng Đà La Ni bảy biến, rồi bung tán Ấn trên đỉnh đầu.

_Tiếp kết Phổ Cúng Dường Ấn, như lúc trước vận tâm thứ tự cúng dường. Đối trước chúng Thánh, hồi hướng Công Đức đã sinh ra do sự đã tu tập, đem hết vốn liếng giúp cho các Nguyện đã mong cầu, vì đất nước, vì người khác, đầy đủ Lợi Tha. Sau đó quay lại ban bố cho chúng sinh, quay về nghiêm cõi Tịnh, hồi hướng thật tế, quay về cầu Vô Thượng Bồ Đề (Agra-bodhi), nguyện cùng với hữu tình mau đến bờ bên kia (bờ giải thoát)

_Tiếp kết Kết Giới Ấn lúc trước, tụng Chân Ngôn ba biến, chuyển theo bên trái, liền thành Giải Giới

_ Tiếp kết ba Bộ Ấn lúc trước, tụng Chân Ngôn lúc trước ba biến, đều đem ngón cái hướng ra ngoài bật phát, liền thành Phát Khiển chúng Thánh đều quay vễ cõi nước của mình (bản thổ)

Hành Giả làm lễ rồi lui ra, như thường đi Kinh Hành, thọ trì đọc tụng Đại Thừa, đừng cho tán động vậy.

Như vậy từ canh năm đến lúc sáng sớm là Thời đầu tiên (sơ thời). Từ sau giờ Ngọ của ngày đến giờ Mùi là Thời thứ hai. Từ sau hoàng hôn đến lúc nửa đêm là Thời thứ ba. Từ sau nửa đêm đến lúc canh năm là Thời thứ tư.

Trong Thời như vậy đều y theo Bản Số (số căn bản), siêng năng chẳng lười biếng thì tất cả kẻ địch khác tự nhiên giáng phục, tất cả tai nạn vĩnh viễn chẳng sinh lại nữa.

Bấy giờ vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) nghe Đức Phật nói xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy làm lễ, nhiều vòng quanh, vui vẻ hớn hở, tin nhận phụng hành.

NHÂN VƯƠNG BÁT NHÃ NIỆM TỤNG PHÁP

_MỘT QUYỂN (Hết)_

02/08/2010