nhân đà la
Phật Quang Đại Từ Điển
(因陀羅) I. Nhân Đà La. Phạm: Indra.Pàli: Inda. Cũng gọi Nhân đạt la, Nhân đề lê, Nhân đề, Nhân để. Hán dịch: Thiên chủ, Đế. Chỉ cho trời Đế thích, là thần Hộ pháp của Phật giáo, 1 trong 12 vị trời.Trời Đế thích đứng đầu cõi trời Đao lợi (trời 33), ở trong thành Thiện kiến trên đỉnh núi Tu di, thống lĩnh 4 vị Thiên vương nên gọi là Thiên chủ, Đế thích, Thích ca thiên vương, Thích ca nhân đà la. Về các tên khác của Nhân đà la, kinh Tạp a hàm quyển 2 (bản Biệt dịch) và kinh Tạp a hàm quyển 40, nêu ra 8 tên là: Thích đề hoàn nhân, Phú lan đà la, Ma già bà, Bàsa bà, Kiêu thi ca, Xá chi bát đê, Thiên nhãnvà Nhân đề lợi. Ngoài ra, biệt danh của vị trời này từ xưa lưu truyền có từ 108 cho đến cả nghìn danh hiệu. Về hình tượng, thông thường là hình người trời, thân có nghìn mắt, ngồi trên lưng 1 con voi rất lớn. Theo kinh Trường a hàm quyển 40, Nhân đà la có trí tuệ thông minh, có khả năng quán xét cả nghìn lí nghĩa cho nên gọi là Thiên nhãn. Nhân đà la vốn là vị thần của Bà la môn giáo, Ấn độ giáo, cùng với Phạm thiên, Tì sa môn thiên… đều đã được đưa vào Phật giáo rất sớm. Theo thần thoại Ấn độ, vào thời đại Phệ đà, Nhân đà la là thần sấm và mưa, ở vào địa vị cao nhất trong các thần, rất được sung bái. Vì giỏi chiến thuật đánh thành, phá trận, rượt đuổi chiến xa, hua múa chày kim cương phá dẹp các ma, nên được khen là Thần công phá thành trì. Về sau, dần dần phát triển thành thần chiến tranh, thần thủ hộ các anh hùng hoặc chiến sĩ. Vì thế, những bài thơ, tụng có liên quan đến Nhân đà la đã chiếm đến 1 phần 4 trong toàn bộ sách Lê câu phệ đà. [X. kinh Trường a hàm Q. 21; kinh Đại lâu thán Q.5; kinh Khởi thế Q.8; kinh Bồ tát bản duyên Q.2; kinh Đại bát niết bàn Q.33 (bản Bắc); luận Đại trí độ Q.54, 56; Pháp hoa kinh huyền tán Q.2, phần đầu; Tuệ uyển âm nghĩa Q.thượng; Đại bát niết bàn kinh sớ Q.28; Đại nhật kinh nghĩa thích Q.4; Tuệ lâm âm nghĩa Q.27]. (xt. Đế Thích Thiên). II. Nhân Đà La. Cũng gọi Nhân đạt la, Ấn nại rô, Ấn đà rô, Chấp lực Dược xoa đại tướng, Nhân đạt la niết lí để phương đế xứ đại tướng. Gọi đủ: Dược xoa đại tướng nhân đà la.Vị thiện thần hộ trì Phật pháp, 1 trong 12 vị thần tướng Dược sư. Về hình tượng, cứ theo Tịnh lưu li tịnh độ phiêu, vị thần này có thân màu vàng, cỡi con nghê, tay trái cầm cây phất trần trắng, tay phải cầm linh(chuông nhỏ có quả lắc). Nhưng theo Tu Dược sư nghi quĩ bố đàn pháp, thì vị thần này thân màu hồng, tay cầm gậy. Ngoài ra, kinh Đà la ni tập quyển 3 liệt kê tên của 16 vị Thần vương, trong đó, Ấn đà rô thần vương thứ 9 có lẽ là Dược xoa đại tướng Nhân đà la. [X. Dược sư lưu li quang vương thất Phật bản nguyện công đức kinh niệm tụng nghi quĩ cúng dường pháp; Dược sư Như lai quán hành nghi quĩ pháp]. (xt. Dược Sư Thập Nhị Thần Tướng). III. Nhân Đà La. Cũng gọi Nhâm phạm nhân.Danh tăng kiêm họa sĩ Trung quốc sống vào đời Nguyên.Vì ở Trung quốc không có họ Nhân nên từ xưa sư được coi như 1 vị tăng Thiên trúc. Nhưng trên bức tranh Hàn Sơn Thập Đắc do sư vẽ có ghi mấy dòng chữ: Tuyên thụ Biện lương thượng phương hựu quốc Đại quang giáo thiền tự trụ trì, Phật tuệ Tịnh biện Viên thông pháp bảo đại sư, Nhâm phạm Nhân, trong đó, Biện lương chỉ cho đường Biện lương nằm ở phủ Khai phong. Căn cứ vào đó mà suy thì sư phải là vị tăng người Trung quốc sống vào đời Nguyên, trụ trì Đại quang giáo thiền tự, được phong hiệu Đại sư. Trong các bức tranh vẽ có ẩn tàng Thiền cơ, giầu khí phách, rất được ngài Sở thạch Phạm kì tán thưởng. Tại Nhật bản, có nhiều nơi còn giữ được những họa phẩm của sư, bức Bố Đại được tàng trữ ở viện Mĩ thuật tại Đông kinh, bức Trí Thường Thiền Sư được cất giữ ở Gia tĩnh đường… Hai bức họa này cùng với các bức: Hàn Sơn Thập Đắc, Đơn Hà Thiêu Phật… đều được xác định là quốc bảo của Nhật bản. [X. Sở thạch Phạm kì thiền sư ngữ lục Q.14].