nguyệt dụ bồ tát thập chủng thiện pháp

Phật Quang Đại Từ Điển

(月喻菩薩十種善法) Mười pháp lành của Bồ tát được ví dụ với mặt trăng tròn sáng. Cứ theo kinh Trừ cái chướng bồ tát sở vấn quyển 7, Bồ tát đã sạch hết duyên trần, thể tính tròn sáng, ánh sáng trí tuệ chiếu soi cùng khắp, nếu các hữu tình qui ngưỡng thì khiến cho họ phát tâm bồ đề, thành tựu chủng trí; giống như mặt trăng lìa các nhiễm ô che khuất, tròn sáng rực rỡ, chiếu rọi khắp nơi, công đức không giới hạn, vì thế nên dùng mặt trăng làm thí dụ. Mười pháp lành ấy là: 1. Giai sinh hoan hỷ: Đều sinh vui mừng. Khi Bồ tát mới ra đời đã có thể làm cho các hữu tình xa lìa phiền não mà sinh vui mừng, giống như mặt trăng khi mới mọc, người thấy đều được mát mẻ, tâm sinh vui thích. 2. Chúng sở nhạo kiến: Mọi người đều muốn thấy. Khi Bồ tát mới ra đời, các căn thanh tịnh, chủng tử thuần khiết, đầy đủ mọi uy nghi khiến các hữu tình trông thấysinh tâm ưa thích; giống như mặt trăng lúc mới mọc, trong suốt tròn sáng, không ai mà không thích nhìn. 3. Thiện pháp tăng trưởng: Pháp lành thêm lớn. Bồ tát từ lúc mới phát tâm đã tinh tiến siêng tu mọi pháp lành, dần dần thêm lớn, cho đến khi ngồi ở đạo tràng, tất cả tướng tốt đẹp đều đầy đủ, thànhtựu trí đức; giống như mặt trăng mọc từ ngày mồng 1 đến ngày 15, ánh sáng tăng dần, đến ngày 15 thì tròn sáng rực rỡ, soitỏ khắp nơi. 4. Ác pháp tổn giảm: Pháp ác giảm dần.Khi Bồ tát có đủ trí xuất thế thì tất cả pháp ác mỗi ngày mỗi giảm, cho đến lúc ngồi ở đạo tràng thì sạch hết tất cả, thành tựu đoạn đức; giống như mặt trăng ngày 16 đến ngày 30, ánh sáng càng lúc càng giảm, đến đêm 30 thì bóng tối tràn ngập. 5. Hàm giai xưng tán: Thảy đều khen ngợi. Bồ tát khi mới ra đời, tất cả trời, gười, A tu la… đều khen ngợi; giống như mặt trăng lúc mới mọc, tất cả nhân dân lớn, bé trong thế gian đều ngẩng trông và khen đẹp. 6. Thể tướng thanh tịnh: Thể tướng trong sạch. Bồ tát tu hạnh xa lìa, thể tướngkhông nhiễm, thanh tịnh và hóa sinh, chẳng phải nhờ vả di thể bất tịnh của cha mẹ; giống như Nguyệt thiên tử do nghiệp thù thắng cảm được quả báo, thể tướng thanh tịnh, trong trắng không nhuốm. 7. Thừa tối thượng thừa: Ngồi xe tối thượng. Bồ tát được Tối thượng thừa, quay bánh xe pháp lớn, độ tất cả hữu tình khiến cho họ mở tỏ, vượt ra ngoài 3 cõi; giống như Nguyệt thiên tử xoay bánh xe trong sáng, chiếu rọi khắp 4 thiên hạ, khiến mọi người đều thoát khỏi bóng tối. 8. Thường tự trang nghiêm: Thường tự làm đẹp. Bồ tát tu các công đức thù thắng vi diệu thường tự trang nghiêm, không nhờ những vật trang sức bên ngoài; giống như Nguyệt thiên tử không cần tắm gội mà tự trong sáng sạch sẽ. 9. Du hí pháp lạc: Dạo chơi trong niềm vui pháp. Bồ tát thường dạo chơi trong pháp lạc thắng diệu, không nhiễm các cảnh giớidục lạc của thế gian; giống như Nguyệt thiên tử thường cảm nhận niềm vui cõi trời mà xa lìa uế nhiễm. 10. Cụ đại thần thông: Đủ thần thong lớn. Bồ tát được thần thông tự tại, vô lượng uy đức, khiến tất cả hữu tình xa lìa cấu nhiễm mê ám; giống như Nguyệt thiên tử trong sạch tròn sáng, chiếu soi hết thảy mọi vật khắp 4 thiên hạ.