PHÁP KHÍ NHÀ PHẬT
Thích Thiện Phước

 

Nguồn Gốc Chung Bảng Tông Quy Ngưỡng

Người khai sáng tông này là Thiền sư Linh Hựu. Vì đệ tử của Ngài là Tuệ Tịch trụ tại Qui Sơn ở Đàm Châu, và Ngưỡng Sơn ở Biểu Châu cả hai cùng xiển dương tông phong của môn phái, nên đời sau gọi chung là tông Qui Ngưỡng. Thiền sư Linh Hựu (771 – 853) quê Trường Khâu Phúc Châu, 15 tuổi xuất gia với sư Pháp Thường ở chùa Kiến Thiện, thọ cụ túc giới tại chùa Long Hưng – Hàng Châu, nghiên cứu sâu rộng Kinh Luật của hai thừa. Năm 23 tuổi, vân du qua Giang Tây tham yết với tổ Bách Trượng Hoài Hải, được tổ khí trọng.

Cuối niên hiệu Nguyên Hòa (820), vâng lời của Hoài Hải đến Qui Sơn khai pháp, kiến tạo tự viện do vì sau đó gặp nạn Đường Vũ Tông (841 – 846) diệt chùa, đuổi tăng, sư phải  hóa trang trốn tránh.

Đầu năm Đại Trung (847), quan sứ Hồ Nam tên là Bùi Hưu thỉnh sư về  chùa cũ, và đổi tên chùa lại là Đồng Khánh tự. Thiền phong từ đó hưng thạnh, Thiền giả đến tham học đông đúc có lúc hơn 1.500 người. Hơn 40 người nối pháp, đứng đầu là: Tuệ Tịch và Trí Nhàn.

Thiền Sư Linh Hựu hoằng dương Phật pháp trên 40 năm, ngài viên tịch vào năm Đại Trung thứ bảy (853).

Trong Ngũ gia tông phái Qui Ngưỡng tông hưng khởi rất sớm, nhưng suy vong cũng nhanh, sự truyền thừa  chừng khoảng 150 năm.

Qui Sơn Linh Hựu nói: “Một trăm năm sau, ta xuống núi làm con trâu, trên lưng có hiện ba chữ là “Trâu núi Qui”. Vì thế kiểu chung bảng của tông Qui Ngưỡng là hình tam giác. Câu chữ là “Tam loại hóa thân”.