NGƯỜI ÐƯA ÐƯỜNG DẪN LỐI

 

Quán Âm người dẫn lối
Ði tìm đại từ bi
Quán Âm thầy thắp sáng
Soi nẻo về thênh thang.

Năm tôi đi tu, đường đi nước bước không rành, chẳng biết chùa và thầy hiền ở đâu mà tìm kiếm. Mới mười bốn tuổi đầu, lòng tha thiết quyết chí đi tu, song chưa hề quen biết với bất cứ một vị thầy hay một sư chú nào trong chùa viện. Ðể thực hiện ý định đi tu của mình, ngày đêm tôi chỉ biết cầu nguyện và thầm xưng niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Cách niệm tôi tạm trình bày cho có vẽ “tươm tất” như sau:

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con gặp người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con được vào chùa tu học và có cơ duyên trau dồi tình thương cao rộng.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con gặp được vị thầy sáng suốt và hiền đức để được tu tập.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, tai ương trên đường đi cầu đạo giải thoát.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con giữ vững niềm tin nơi bản thân và Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con không bao giờ thối chí trong mọi hạnh lành, đem niềm vui đến cho nhiều kẻ khác.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con sớm khai mở trí tuệ và có đìều kiện tốt để giúp người thoát khỏi khổ đau.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con có đủ tâm đại hùng, đại lực để cứu nhân sanh vượt ra mọi ngục hình tư tưởng trong đời sống.

Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm, giúp con mau thành Phật quả để đem đến hạnh phúc, lợi ích cho nhiều người, nhiều tâm hồn đang bị đọa lạc trong kiếp luân hồi.

Hồi ấy, tôi không thể nói ra thành lời như vậy, nhưng trong tâm tôi luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và hằng khởi lên những ý nghĩ tương tợ như thế.

Khuya hôm ấy, khoảng tháng 10 năm 1956, bên ngoài trời mưa tầm tã, gió nổi tứ bề, cây cảnh ngã đổ, nước lũ tràn khắp đường sá xóm làng. Lúc khoảng 12 giờ đêm, tôi rón rén mở cửa trốn nhà đi vào Huế tìm chùa, tìm thầy học đạo. Từ làng ra tỉnh và từ tỉnh Quảng Trị đón xe đò đi vào Huế đối với tôi lúc bấy giờ là một con đướng thăm thẳm, diệu vợi và hết sức khó khăn trong việc đi lại, song tôi không hề có chút chần chờ, lo ngại. Trong cái nãi xách tay của tôi chỉ có hai bộ áo quần màu xám và một tấm hình Quán Thế Âm nhỏ bằng giấy dán liền trên tấm ván mỏng được một anh huynh trưởng gia đình Phật tử trong làng cho tôi cách đó hai năm về trước. Ngoài cái “gia bảo” ấy, trong túi tôi còn có hai chục bạc để đi đường. Số tiền này đứa em gái đã cho tôi cách đó vài hôm khi em được phần quà thưởng lệ về việc học giỏi từ ông cậu ruột làm công chức gởi cho.

Ra khỏi nhà, tôi phải đi qua chiếc cầu tre bắc ngang một con sông rộng chảy qua làng. Rủi ro, cái cầu tre bị gãy và xoáy theo dòng nước chảy xiết khi tôi đang dò dẫm từng bước một trên chiếc cầu tre lắc lẽo ấy. Thế là tôi bị trôi sông, cuốn theo dòng thác lũ đưa về xóm Bàu. Nhờ sức niệm Bồ Tát Quán Âm mà tôi thoát tai nạn nước chìm. Không ngờ trong tai nạn ấy hóa ra tôi đã đi con “đường tắt”. Con đường từ xóm Bàu lên đường cái quan rất gần, chỉ đi bộ khoảng hai mươi phút thôi. Trong khi đó nếu tôi không bị giòng nước cuốn trôi, thì tôi phải đi con đường dài từ làng ra đường cái quan, lên tỉnh để đón xe đi vào Huế cũng phải mất mấy tiếng đồng hồ. Nhưng chưa chắc thành công, vì tôi có thể bị người nhà tìm bắt trở lại.

Nước lũ đưa đường chỉ lối cho tôi lên chùa
Nước lũ chỉ nẻo đường tắt đưa tôi về nguồn cội
Nước lũ giúp tôi đi mau tới đích
Và không bị cản, ngăn chướng ngại.

Lên xe đò vào Huế, ông tài xế thấy tôi còn nhỏ quá nên không lấy tiền. Khi xuống tại bến đò, tôi đang lay hoay tìm kiếm đường lên chùa, thì một bà cụ nói là bà ở trước chùa Báo Quốc, rồi bà tự động kêu xe xích lô bảo bác tài xế đưa tôi về chùa ấy. Lên đến cửa chùa, tôi lấy hai chục đồng bạc trong túi trả bác xích lô, bác nói là bà cụ khi nãy đã trả tiền xong rồi. Thế là gia tài số tiền mặt ấy tôi vẫn còn giữ hoài trong túi không bao giờ tiêu xài. Bà cụ thuê xe và chỉ đường lên chùa cho tôi là ai, tôi không biết rõ lai lịch?

Sau này tôi nghiệm lại, tôi mới biết đây là sự chỉ điểm của thánh hiền và sự mầu nhiệm đưa đường chỉ lối của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Chùa Báo Quốc tại Huế là một viện Phật học, đào tạo chư Tăng và nhân sự Phật Giáo tài đức để hoằng pháp, lợi sanh dưới sự dám viện của hòa thượng Thích Trí Thủ. Khi vừa bước chân lên cổng chùa thì tôi liền được sư chú Tâm Hòa tiếp đón rất niềm nở như người nhà, khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Vì dường như việc tôi đến đây sư chú có linh tính biết trước rất rõ ràng. Sư chú Tâm Hòa dẫn tôi vào phòng khách và nói cho tôi biết: “Có đại sư Thích Viên Giác sáng lập và Trú trì tu viện Giác Hải ở tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang đã đến đây ba hôm để đợi em đó. Em có phải từ tỉnh Quảng Trị vào và đang đi tìm thầy, tìm chùa để xuất gia học đạo không?”

Tôi chỉ cuối đầu dạ và chưa kịp nói thì sư chú Tâm Hòa nói tiếp: “Ðại sư Viên Giác cho tôi hay là được Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ điểm nên ngài đến chùa Báo Quốc từ Nha Trang để nhận một chú bé đem về chùa nuôi. Ngài bảo tôi ra đứng trước của Tam Quan suốt cả buổi chiều nay để đợi em. Em hãy vào trong để ra mắt vị thầy của em”.

Nghe sư chú Tâm Hòa nói, lòng tôi sung sướng vô vàn, tràn ngập hạnh phúc và nhẹ nhỏm như mình đang bay trên một không gian vô tận.

Bước chân vào phòng, tôi thấy một vị thầy mặc áo nâu rộng, thân thể gầy ốm nhưng đôi mắt rất sáng. Thầy trạc tuổi 40 đang ngồi kiết già vững chải, quay mặt về phía cửa chính như đang chờ đợi một người. Ngài chờ đợi tôi, đó là đứa bé mới 14 tuổi đầu, bỏ nhà, bỏ cha mẹ đi tìm thầy khai mở tâm linh.

-Con muốn tìm thầy để được tu tập phải không? – ngài nhìn tôi hỏi.

Tôi cúi đầu trả lời:

-Thưa thầy dạ phải.

-Con đi tu để làm gì?

-Thưa thầy, con đi tu để làm giảng sư để dạy cho cái tâm của con trở nên hiền lành và dạy cho người khác bớt đau khổ nhờ cái tâm sáng suốt.

Nghe xong, ngài cười và không hỏi thêm gì nữa. Tôi được sư chú Tâm Hòa và Ðiệu Trí giúp Ngài chuẩn bị việc làm lễ xuống tóc cho tôi. Sau khi cạo tóc và măc y phục của chú tiểu vào mình, tôi thấy mình là một con người mới. Sáng hôm sau mới khoảng ba giờ khuya, thầy trò tôi ra sân ga trở về tu viện Giác Hải Nha Trang. Cuộc đời tôi thay đổi từ đó. Ðời tôi đã có vị thầy đưa đường chỉ lối, đó là đại sư Viên Giác, vị bổn sư của tôi, nuôi dưỡng tâm tôi khôn lớn.

Sau này tôi mới rõ, thầy tôi lập chùa Giác Hải được ba năm, dựng trên núi Ông Sư, làng Xuân Tự ở quận Quảng Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thầy có nuôi vài ba chú tiểu nhưng tất cả đều bỏ về nhà. Thầy tôi bèn tụng kinh Phổ Môn để nhờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát tìm giúp thầy tôi một chú tiểu có nhân duyên và căn khí để nối chí thầy tôi hoằng pháp trong tương lai. Nhờ đức Quán Thế Âm điểm hóa và thầy trò chúng tôi đã gặp nhau. Tôi được xem như đệ tử lớn của thầy tôi. Tâm ý giữa hai thầy trò chúng tôi rất tương đắc.

Quán Âm Bồ Tát rất nhiệm mầu
Thanh tịnh trang nghiêm nhiều kiếp tu
Khắp xứ người cầu đều cảm ứng
Biển trần qua lại độ quần mê.

Năm 1975 tôi qua Mỹ học, thầy tôi không vui lắm vì người lúc nào cũng muốn tôi ở bên cạnh để lo việc chùa viện và giao phó hoằng pháp, nuôi Tăng độ Chúng của thầy tôi. Song thấy chí xuất dương của tôi đã quyết nên thầy tôi không ngăn cản. Bao nhiêu tình thương và ánh sáng soi đường, thầy tôi gói trọn cho tôi trong bài kệ:

Trái đất quê hương mẹ
Trong tim có quê hương
Mầu nhiệm trong tỉnh thức
Thực tại nẻo quay về.

Nguyên Nguyện.

(Trích Linh Ứng Quán Thế Âm – HT Thích Tịnh Từ)