ngũ trụ địa hoặc

Phật Quang Đại Từ Điển

(五住地惑) Cũng gọi Ngũ trụ địa phiền não. Chỉ cho 5 phiền não: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa. Vì 5 thứ phiền não này là chỗ nương tựa, chỗ cư trú của hết thảy phiền não và lại hay sinh ra các phiền não khác, cho nên gọi là Trụ địa. Đại thừa nghĩa chương quyển 5, phần đầu, giải thích về Ngũ trụ địa hoặc như sau:1. Kiến nhất xứ trụ địa: Kiến hoặc trong 3 cõi như Thân kiến v.v…, lúc vào giai vị Kiến đạo thì cùng dứt hết 1 lượt.2. Dục ái trụ địa: Trong các phiền não ở cõi Dục, ngoại trừ Kiến và Vô minh, còn tất cả phiền não đều do đắm trước cảnh năm dục: Sắc, thanh, hương, vị, xúc mà sinh.3. Sắc ái trụ địa: Trong các phiền não ở cõi Sắc, ngoại trừ Kiến và Vô minh, còn tất cả phiền não đều do tham đắm sắc thân của chính mình mà sinh.4. Hữu ái trụ địa: Trong các phiền não ở cõi Vô sắc, ngoại trừ Kiến và Vô minh, những phiền não còn lại đều do thương yêu đắm đuối thân mình mà sinh.5. Vô minh trụ địa: Tất cả vô minh trong 3 cõi. Vô minh là tâm mê ám, thể của nó tối tăm, là cội gốc của hết thảy phiền não. Trong 5 trụ địa hoặc trên đây, tông Duy thức cho rằng 4 trụ địa trước là hạt giống của phiền não chướng, còn trụ địa sau cùng là hạt giống của sở tri chướng. Tông Thiên thai thì cho Kiến nhất xứ trụ địa là Kiến hoặc, trụ địa thứ 2, 3, 4 là Tư hoặc của 3 cõi, gọi chung là Hoặc kiến tư của giới nội. Hàng Nhị thừa dứt hết 4 trụ địa này thì ra khỏi 3 cõi. Còn Vô minh trụ địa là Hoặc của giới ngoại(ngoài 3 cõi). Căn cứ vào trụ địa này mà lập ra 42 phẩm tu hành khác nhau, qua 42 phẩm vị này thì dứt hết Vô minh, lìa 2 thứ sinh tử (phần đoạn và biến dịch), chứng được đại Niết bàn.[X. kinh Bồ tát anh lạc bản nghiệp Q.hạ; luận Thành duy thức Q.8; Thành duy thức luận thuật kí Q.9, phần cuối; Thắng man kinh thuật kí Q.hạ; Pháp hoa kinh huyền nghĩa Q.5, phần đầu; Pháp hoa văn cú kí Q.2, phần cuối; Thiên thai tứ giáo nghi tập chú Q.hạ; Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương Q.2, phần cuối].