ngũ thủ uẩn

Phật Quang Đại Từ Điển

(五取蘊) Phạm: Paĩca upàdàna-skandhà. Pàli: Paĩca upàdàna-kkhandhà. Cũng gọi Ngũ thụ ấm. Năm uẩn hữu lậu do thủ (phiền não)sinh ra hoặc sinh ra thủ. Chỉ cho sắc thủ uẩn, thụ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn. Luận Đại tì bà sa quyển 75 giải thích rằng: Nếu sắc hữu lậu hữu thủ thì sắc ấy ở quá khứ, vị lai và hiện tại, hoặc khởi dục, hoặc khởi tham, sân, si, bố(sợ), hoặc lại theo đó mà sinh khởi tâm sở Tùy phiền não, thì gọi là Sắc thủ uẩn. Phân biệt rộng ra thì thụ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Trong luận còn phân biệt sự sai khác giữa uẩn và thủ uẩn, cho rằng uẩn chung cả hữu lậu và vô lậu, còn thủ uẩn thì chỉ có hữu lậu mà thôi. Ngoài ra, bàn về danh nghĩa của Thủ uẩn thì luận Câu xá quyển 1 cho rằng tất cả phiền não gọi chung là Thủ, uẩn từ thủ sinh, hoặc uẩn thuộc về thủ, hoặc uẩn sinh ra thủ, vì thế gọi là Thủ uẩn. Nhưng luận Đại thừa a tì đạt ma tạp tập quyển 1 thì đặc biệt gọi Dục tham có trong các uẩn là Thủ, rồi đem hợp với uẩn gọi là Thủ uẩn. [X. kinh Tạp a hàm Q.3; kinh Pháp thừa nghĩa quyết định Q.thượng; luận Du già sư địa Q.65; luận Thành duy thức Q.1; Thành duy thức luận thuật kí Q.1, phần cuối; Thành duy thức luận chưởng trung xu yếu Q.thượng, phần cuối; Câu xá luận quang kí Q.1].