ngũ thú sinh tử luân

Phật Quang Đại Từ Điển

(五趣生死輪) Phạm: Bhava-cakra. Cũng gọi Ngũ đạo luân, Sinh tử luân, Thập nhị duyên khởi đồ. Bức tranh vẽ hình vòng tròn luân hồi sinh tử của chúng sinh trong 5 cõi. Bức tranh này trước hết vẽ 1 bánh xe có 5 tay hoa xe chia làm 6 ô, phía dưới là Địa ngục, 2 bên là Bàng sinh và Ngã quỉ, bên trên là 2 cõi người và trời. Trong cõi người chia làm 4 châu. Phần trục xe ở giữa bánh xe làm 1 hình tròn màu trắng, vẽ 1 tượng Phật, trước tượng Phật có hình chim bồ câu biểu thị tham nhiễm, rắn biểu thị giận dữ, lợn biểu thị ngu si. Vành bánh xe vẽ 12 hình tượng trưng 12 nhân duyên: Hình La sát (vô minh), hình Ngõa luân (hành), hình con vượn (thức), hình người ngồi thuyền(danh sắc), hình nam nữ vuốt ve nhau (xúc), hình nam nữ chịu khổ vui (thụ), hình người nữ ôm người nam (ái), hình người đàn ông cầm bình lấy nước (thủ), hình trời Đại phạm (hữu), hình người đàn bà có thai (sinh), hình nam nữ già yếu (lão), hình nam nữ mang bệnh (bệnh), hình cỗ xe chở người chết (tử), hình nam nữ lo sầu (ưu), hình nam nữ khóc lóc (bi), hình nam nữ chịu khổ (khổ) và hình nam nữ lôi kéo con lạc đà khó điều phục (não). Phía trên bánh xe còn vẽ hình 1 con quỉ vô thường rất lớn, 2 tay ôm lấy bánh xe sinh tử, 2 bên đầu của quỉ lớn có viết 2 bài kệ. Phần trên của quỉ vô thường vẽ hình cái đàn tròn màu trắng, tượng trưng cho tướng Niết bàn viên tịnh. Bức tranh vẽ bánh xe sinh tử luân hồi trong 5 cõi này đã lưu truyền từ lâu. Trong hang điện thứ 17 của quần thể hang động Ajanta tại Ấn độ vẫncòn 1 bức vẽ Ngũ thú sinh tử luân rất xưa. Ngoài ra, bức tranh do Tây tạng truyền thì vẽ A tu la làm 1 cõi riêng mà lập thành Lục thú sinh tử luân. [X. kinh Tạp a hàm Q.44; Hữu bộ tì nại da Q.34; Hữu bộ tì nại da tạp sự Q.17; Pháp uyển châu lâm Q.23; Thích thị yếu lãm Q.hạ].