nghĩa hoài

Phật Quang Đại Từ Điển

(義懷) Thiền sư Trung quốc sống vào đời Tống, người Lạc thanh, Vĩnh gia (huyện Vĩnh gia, tỉnh Chiết giang), họ Trần. Sư làm hành đồng (thiếu niên chưa cạo tóc) ở chùa Cảnh đức tại kinh đô. Trong năm Thiên thánh, sư dự khóa thi kinh, đậu và được xuất gia. Ban đầu sư học Thiền nơi ngài Kim loan thiện, rồi lại tham yết ngài Diệp huyền Qui tỉnh, nhưng đều không khế hợp. Sau, sư đến núi Thúy phong ở Cô tô lễ yết Thiền sư Tuyết đậu Trùng hiển, gánh nước, bổ củi, khổ công tu luyện. Một ngày kia chợt có chỗ tỉnh ngộ, sư làm bài kệ rằng (Vạn tục 138, 302 thượng): Một hai ba bốn năm sáu bảy Chóp núi muôn trùng đứng một chân Một lời khám phá Duy ma cật Ngọc báu li long sáng vạn phần. Ngài Trùng hiển ấn khả và gọi là Thiện ấn khả. Sau, sư ra ở tại chùa Thiết Phật, xiển dương Thiền pháp. Ít lâu sau, sư về ở chùa Thiện y tại Việt châu, mở mang tông phong Vân môn, hưng thịnh một thời, người đời gọi sư là Thiên y Nghĩa hoài. Đệ tử nối pháp gồm hơn 80 vị. Năm Gia hựu thứ 5 (1060) sư thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi, thụy hiệu Chấn Tông Thiền Sư. [X. Thiền lâm tăng bảo truyện Q.11; Phật tổ lịch đại thông tải Q.27; Ngũ đăng hội nguyên Q.16; Thích thị kê cổ lược Q.4; Tục truyền đăng lục Q.6].